TỔ ĐÌNH MINH ĐĂNG QUANG
PHẬT HỌC TỪ ĐIỂN
BUDDHIST DICTIONARY
VIETNAMESE-ENGLISH
THIỆN PHÚC
Tr
Tra:
1) To
examine—To investigate---To interrogate.
2) To
look up—To consult.
3) To
put (fix—To fit) in (tra cán dao).
Tra Cứu: To study.
Tra Hỏi: See Tra (1).
Tra Khảo: To examine—To study.
Tra Tấn: To torture.
Tra Xét: To investigate—To
examine.
Trá: Giả trá—To feign—To
deceive—To pretend—To impose on.
Trá Hàng: To feign submission.
Trà: Tea.
Trà Am: Tên của một ngôi chùa
cổ ở Huế, Trung Việt. Chùa Trà Am là nơi trụ cuối cùng của sư Viên Thành,
tại chân núi Ngũ Phong, ấp Tứ Tây, làng An Cựu. Chùa được trùng tu và lợp
ngói thay vì tranh vào năm 1937—Name of an ancient temple in Huế, Central
Vietnam. Trà Am temple is the place where monk Viên Thành spent the end of
his life. The temple was built in 1923 by Venerable Viên Thành. It is
located at the foot of Mount Ngũ Phong, Tứ Tây hamlet, An Cựu village. In
1937, the temple was renovated, holding the same style but tile roof
instead of thatched one.
Trà Củ Ma: Hoa thơm, ở các vùng
Tây Á và Trung Á, dùng để làm rượu thơm và để gọi hồn các vong
linh—Fragrant flowers from Western or Central Asia for scenting wine, and
for calling down the spirits..
Trà Diệp: Lá trà—Tea-leaves.
Trà Dư Tửu Hậu: Idle
conversation after tea and wine
Trà Đồ Tha: Jadata (skt).
1) Lạnh:
Coldness.
2) Ngu
si: Stupidity.
3) Tính
không tình cảm: Apathy.
Trà Lăng Úc: Thiền sư Trà Lăng
Úc là một đệ tử của Thiền sư Dương Kỳ Phương Hội. Ngài là tác giả của bài
thơ sau đây mà theo Thiền sư D.T. Suzuki trong Thiền Luận, Tập I, những
bài thơ về ‘ngộ’ thì không bài nào giống bài nào, khó gợi cho ta một nhận
định xác đáng về nội dung của ngộ bằng các so sánh hay phân tích, nhưng
dầu sao thì qua những bài thơ nầy chúng ta cũng thấy biểu lộ một phát giác
mới; còn phát giác ấy là gì thì ta cần tự có ít nhiều thân chứng riêng mới
có thể nói rõ hơn được. Dầu ở trường hợp nào, tất cả các Thiền sư đều
chứng chắc rằng trong Thiền có cái gọi là ‘ngộ,’ nhờ nó con người du nhập
trong một thế giới giá trị mới. Kiến giải cũ vứt bỏ là thế gian mang một ý
nghĩa mới—Zen master Ling-Yu was a disicple of Zen master Yang-Ch’i. He
was the author of the below poem. According to Zen master D.T. Suzuki in
the Essays in Zen Buddhism, Book I, verses of enlightenment show how they
vary from one another and how it is impossible to suggest any intelligible
explanation of the content of enlightenment by merely comparing them or by
analyzing them. Some of them are easily understood, we suppose, as
expressive of the feeling of a new revelation; but as to that revelation
itself is, it will require a certain amount of personal knowledge to be
able to describe it more intelligently. In any event, all these masters
testify to the fact that there is such a thing in Zen as enlightenment
through which one is admitted into a new world of value. The old way of
viewing things is abandoned and the world acquires a new signification:
Ta có
ngọc quí minh châu
Bụi đời
vùi lấp bấy lâu
Bụi hết
hôm nay sáng lại
Thế gian
chiếu phá làu làu
I have
one jewel shining bright
Long
buried it was underneath worldly worries;
This
morning the dusty veil is off,
And
restored is its lustre,
Illumining rivers and mountains and ten
Thousand
things.
Trà Thang: Trà và nước nóng,
dùng trong các buổi lễ cúng vong ở các tự viện—Tea and hot water, used as
offerings to the spirits.
Trà Trộn: To mingle.
Trà Tỳ: Burial or cremation.
Trả: To give back—To return—To
refund.
Trả Công: To pay someone for
his services.
Trả Lời: To respond—To reply.
Trả Miếng: To return like for
like.
Trả Ơn: To render thanks to
someone.
Trả Thù: To revenge—To
retaliate
Trác:
1) Cao
vút—Lofty—Tall—Erect.
2) Đốn
chặt: To chop.
Trác Ca La: See Chakra in
sanskrit/Pali-Vietnamese Section.
Trác Ca La Sơn: Cakravala or
Cakravada (skt)—Vòng núi Thiết Vi tạo thành ngoại biên của vũ trụ—The
circle of iron mountains forming the pheriphery of the universe.
Trác Cú Ca: Chakoka or Cugopa
(skt)—Theo Eitel trong Trung Anh Phật Học Từ Điển thì Trác Cú Ca là một
vương quốc cổ thuộc Tiểu Bukharia, có lẽ bây giờ là Yerkiang, hay
Karghalik ở khu vực Khotan—According to Eitel in The Dictionary of
Chinese-English Buddhist Terms, Chakoka is an ancient kingdom and city in
Little Bukharia, probably the modern Yerkiang, or perhaps Karghalik in the
Khotan region.
Trác Táng: Debauched—Depraved.
Trác Tích: Nơi các vị sư trụ
trì (chỉ nơi cao truyệt)—Tall, or erect staves, i.e. their place, a
monastery.
Trác Tuyệt:
Transcendent—Eminent.
Trách Mắng: To blame—To rebuke
Trách Nhiệm: Responsibility
Trách Nhiệm Gia Đình Và Xã Hội:
Trong Phật giáo, có hai loại trách nhiệm: xuất gia và tại gia—In Buddhism,
there are two different kinds of duties: renunciation and family life (lay
people):
1) Với
Tăng sĩ: Với hàng Tăng sĩ, đời sống tôn giáo là xuất gia—For Buddhist
monks, the religious life means renunciation of home and family life.
2) Với
Phật tử tại gia: Với Phật tử tại gia, cuộc sống hãy còn ràng buộc với thế
tục; tuy nhiên, một Phật tử thuần thành luôn sống theo lời Phật dạy—For
laypeople whose life is still subject to worldly affairs; however, a
devotee should always follow the Buddha’s guidance in his daily life.
a.
Trách nhiệm đối với cha mẹ: Duties towards parents—Người Phật tử tại gia
luôn thương yêu và chăm sóc hai đấng sanh thành, đặc biệt là trong lúc
tuổi già. Lại nữa, làm con phải luôn giữ truyền thống tốt của gia đình,
phải có tôn ti trật tự và phải luôn tỏ ra là một người con xứng đáng—A
layperson should always love and take care of both parents, especially
during their old age. Furthermore, children should always keep good
traditions of the family, maintain family lineage, and make themselves
worthy.
b. Trách
nhiệm đối với con cái: Duties towards children—Cha mẹ luôn chu toàn trách
nhiệm, dạy dỗ con cái đúng đường. Lại nữa, cha mẹ phải luôn tìm cách ngăn
ngừa không cho con cái đi vào đường xấu xa tội lỗi; hướng dẫn họ đi vào
đường đạo đức, huấn nghệ và gã cưới đúng thời, và giao lại sản nghiệp đúng
lúc—Parent should always fulfill their duties, teach and guide children in
the right way. Furthermore, parents should always find ways to restrain
them from vice, exhort them with virtue, train them for a career, guide
them with suitable marriages, and hand over inheritance when time comes.
c. Đối
với Thầy Tổ: Towards teachers—Phật tử tại gia luôn kính trọng, lắng nghe
và tán thán những lời dạy dỗ của Thầy Tổ—Laypeople should always show
respect, listen (pay attention to their teachings), and praise their
teachers for their efforts and teachings.
d. Đối
với chồng: Towards husbands—Phật tử tại gia phải luôn ân cần vui vẻ; khi
chồng vắng nhà, phải chăm sóc nhà cửa, phải luôn chung thủy, phải xẻ chia;
khi chồng nóng giận, phải luôn điềm tĩnh; khi chồng nói đúng, phải lắng
nghe—A wife should always be cheerful to her husband; when husband is not
home, she should take care of home; she should always be faithful and
loyal, share all things; when the husband is angry, she should remain
calm; when he is correct, she should listen.
e. Đối
với vợ: Towards wives—Làm chồng phải luôn tử tế; phải chào đón vợ; phải
mua sắm đủ đầy áo quần và đồ trang sức đúng thời đúng lúc; phải luôn thủy
chung một vợ một chồng—A Husband should always be kind to his wife; he
should purchase clothes and jewelry at the right time; be faithful with
just one wife.
f. Đối
với bằng hữu: Towards friends—Người Phật tử tại gia luôn giúp đở bằng hữu,
phải giải thích cho bạn hiểu những lầm lỗi để cùng nhau xa lánh những việc
xấu xa; phải luôn an ủi và khuyên lơn bằng hữu khi cần. Cùng chia ngọt xẻ
bùi bên nhau, lúc giàu cũng như lúc nghèo; luôn bao dung tha thứ—Laypeople
should always help friends; explain faults so that both can avoid wrongs;
should comfort and give friends advice when they need; rich or poor,
should share joys and sorrows; should always forgive.
g. Đối
với người làm: Towards workers—Người Phật tử tại gia phải luôn biết thương
xót kẻ ăn người ở; trước khi sai phải biết sức; khi có tội, phải khuyên
dạy, chớ không nên nặng tay phạt vạ; phải luôn lấy lẽ công bằng mà xét xử;
khi đau ốm phải lo liệu thuốc men đầy đủ—Laypeople should always love
their servants and workers; when command, must see if they can do it; when
they do worngs, we should teach and guide them how to do things right;
should always be impartial; when they are sick, we should always provide
them medicine and help them cure.
h. Đối
với chủ nhân: Towards bosses—Người Phật tử tại gia khi làm công cho ai,
phải luôn thức sớm; phải cố gắng chu toàn nhiệm vụ; không lãng phí thực
vật của chủ; phải kính trọng, chào đón và tán thán chủ, chứ không bêu
xấu—Laypeople should always rise early before bosses; try their best to
complete tasks; try not to waste food and other materials; always respect,
greet and praise boses. Should never degrade bosses.
Trách Nhiệm Tinh Thần: Moral
responsibility.
Trạch:
1) Chọn
Lựa—To pick—To select—To choose.
2) Trạch
Pháp Giác Phần: Pravicara (skt)—Phần thứ nhì của Thất Bồ Đề Phần, giác
phần hay sự phân biệt đúng sai—The second of the seven bodhyanga or
dharmapravicara—Discrimination—The faculty of discerning the true from the
false—See Thất Bồ Đề Phần.
3) Nhà:
Residential part of a palace, or mansion, or residence.
Trạch Diệt: Pratisamkhyanirodha
(skt)—Một trong tam vô vi pháp—One of the three Asamskritas:
·
Niết bàn là diệt pháp do sức lựa chọn của chân trí: Nirvana
as a result of the ability to discriminate the true from the false and
elimination of desire by means of mind and will.
·
Niết Bàn là sự đoạn diệt các tham dục xấu nhờ vào trí tuệ và
ý chí: Nirvana is the annihilation of evil desires by means of the
intellect and will.
·
For more information, please see Tam Vô Vi Pháp.
Trạch Địa: Chọn địa điểm—To
select a site.
Trạch Lực: Khả năng phân
biệt—The power of discrimination.
Trạch Nhũ Nhãn: Sữa trộn lẫn
trong nước, mà chỉ uống sữa còn chừa nước lại như nga vương vậy—The power
to choose the milk out of watered milk, leaving the water, as Hansaraja,
the king of geese, is said to do.
Trạch Pháp Giác Chi: The
bodhyanga of discrimination—See Trạch (2).
Trạch Pháp Nhãn: The bodhyanga
of discrimination—See Trạch (2).
Trạch Thức: Tên khác của A Lại
Da Thức—Another name for Alaya-vijnana—See A Lại Da Thức.
Trai: Uposatha (skt)—Thời Trai
Thực—Ô Bổ Sa Tha có nghĩa là thanh tịnh, sau chuyển thành giới không ăn
quá ngọ, sau đó lại chuyển thành giới không ăn thịt cá—Uposatha means
abstinence or to purify by fasting, latter Uposatha means the ritual
period for food, eating at or before noon; latter Uposatha has further
meaning of abstinence from meat and fish.
Trai Bãi: Trai Thối—Sau giờ ăn
ngọ—After the midday meal.
Trai Bản: Bản gỗ treo trước
phòng ăn tự viện để báo giờ cơm—A wooden board (in place of a bell) in
front of the dining hall, calling or informing to the midday meal.
Trai Chủ: Thí chủ cúng dường
Tăng chúng đồ ăn—The donor of monastic food.
Trai Chúc: Cháo lỏng để ăn
sáng, hay húp vào buổi tối—The midday and morning meals, breakfast of rice
or millet congee, dinner of vegetarian foods.
Trai Chung: Chuông báo đến giờ
ăn (thường đánh 36 tiếng)—The bell, or drum, calling or informing to the
midday meal (usually 36 strikes).
Trai Diên: Cúng dường thức ăn
đến Tam Bảo—Offerings of food to the Triratna.
Trai Đường: Phòng ăn của tự
viện—Abstinence hall, i.e. monastic dining hall.
Trai Giới: Thanh tịnh thân tâm
hay đề phòng thân tâm lười biếng giải đãi, thí dụ như bát quan trai
giới—Purification, or abstinential rules, e.g. the eight prohibitions—See
Trai.
Trai Hội: Hội chúng của Tăng Ni
niệm chú trước khi thọ thực—An assembly of monks for chanting, with food
provided, usually before eating.
Trai Nguyệt: Ba tháng ăn chay
đặc biệt của Phật tử tại gia, tháng giêng, tháng năm và tháng chín (trong
ba tháng nầy Phật tử nên trì trai giữ giới, giữ gìn lời ăn tiếng nói, cũng
như hành vi cử chỉ, tránh làm việc ác, nên làm việc thiện, và luôn giữ cho
tâm ý thanh sạch)—The three special months of abstinence and care for lay
Buddhists, the first, fifth, and ninth months
Trai Nhật: Vegetarian Day.
1) Trong
đạo Phật, lý tưởng nhất vẫn là trường trai; tuy nhiên, việc trường trai
rất ư là khó khăn cho Phật tử tại gia, nên có một số ngày trong tháng cho
cư sĩ tại gia. Lý do ăn chay thật là đơn giản, vì theo lời Phật dạy thì
tất cả chúng sanh, kể cả loài cầm thú đều quý mạng sống, nên để tu tập
lòng từ bi, người Phật tử không nên ăn thịt. Những ngày trai lạt theo đạo
Phật thường là mồng một, 14, 15, và 30 âm lịch—In Buddhism, ideally
speaking, Buddhists should be lifetime vegetarians; however, this is very
difficult for lay people. So certain days out of each month are denoted as
a day not to eat meat. The reason behind this is simple. The Buddha taught
that each sentient being, including animals, values life, so not to eat
meat is to practice being compassionate. Vegetarian Days of the month are
the first, the fourteenth, the fifteenth, and the thirtieth lunar
calendar.
2) Ngày
trai thất hay ngày cúng vong—Days of offerings to the dead, ceremonial
days.
3) Ngày
mà cư sĩ Phật giáo thọ bát quan trai trong một ngày một đêm: The day lay
Buddhists strictly follow the eight commandments in one day and one
night—See Bát Quan Trai Giới.
Trai Pháp:
1) Luật
không được ăn sau giờ ngọ—The rule of not eating after noon.
2) Phép
uy nghi của giáo đoàn: The discipline of the order, or the establishment.
Trai Tăng: Cúng dường chư Tăng
hay cúng dường thức ăn đến chư Tăng—To provide a meal for monks.
Trai Thất: Trai thất hay lũy
trai thất là giai đoạn bảy lễ, mỗi lễ cách nhau bảy ngày cho người vừa quá
vãng cho đến hết thời gian 49 ngày (cứ mỗi bảy ngày lại làm lễ tụng kinh
cúng vong một lần gọi là cúng trai thất, tới ngày mãn “Trung Ấm” tức là
ngày thứ 49 mới thôi)—The seven periods of masses for the dead, during the
seven sevens or forty-nine days after death.
** For more information,
please see Hộ Niệm in Vietnamese-English Section.
Trai Thời: Giờ ăn trong tự
viện, đặc biệt là giờ ăn trưa, sau giờ đó Tăng Ni không được phép ăn bất
cứ đồ ăn nào ( nhưng có thể uống chất lỏng)—The regulation hours for
monastic meals, especially the midday meal, after which no food should be
eaten; however, they can drink liquid.
Trai Thực: Buổi ăn trưa của chư
Tăng Ni; không ăn sau giờ ngọ, chỉ ăn thực phẩm chay, ngoại trừ những loại
có mùi nồng như tỏi hành—The midday meal; not eating after noon;
abstinential food, i.e. vegetarian food, excluding vegetables of strong
odour, as garlic, or onion.
Trai Trì: Trì trai giữ giới,
thí dụ như thọ trai đúng thời—To observe the law of abstinence, i.e. food
at the regulation times.
Trai Trường: Nơi ăn hay phòng
ăn của tự viện—A dining place in a monastery.
Trái:
1) Bên
trái—On the left.
2) Mặt
trái—Wrong side.
3) Nợ:
Debt.
4) Quả:
Fruit.
5) Sai
trái—Wrong.
6) Trái
rạ: Chicken pox.
Trái Lại: On the
contrary—Converse.
Trái Lệnh: To disobey an order.
Trái Luật: Contrary to the law.
Trái Mắt: To offend the eyes.
Trái Mùa: Untimely.
Trái Nhau: Contradictory.
Trái Phép: Contrary to the
law—Unlawful.
Trái Thời: At the wrong
moment—Untimely.
Trái Với: Not in line with.
Trải:
1) Trải
rộng ra: To spread (lay) out.
2) Từng
trải: Experienced.
Trải Lòng Từ: To practice
loving-kindness.
Trải Qua: To experience—To
spend.
Trải Qua Hằng Sa Kiếp: Spent
untold eons.
Trải Qua Thời Gian Lâu: Long
time elapsed.
Trạm Nhiên: Vị tổ thứ chín của
tông Thiên Thai—The ninth patriarch of the T’ien-T’ai School—Trạm Nhiên
(717-782) là một đại học giả và là người phục hưng tông phái nầy, bấy giờ
đang hồi suy yếu. Một trong những đồ đệ của ông, Đạo Toại là vị tổ kế tiếp
và là thầy của Tối Trừng, tức Truyền Giáo Đại Sư, sáng tổ của tông Thiên
Thai tại Nhật Bản—Chan-Jan (717-782), was a great scholar and the riviver
of the school which was somewhat declining in later years. One of his
pupils, Tao-Sui, was the next patriarch and the teacher of Saicho, or
Dengyô Daishi, founder of the school in Japan.
Tràn: To overflow.
Tràn Lan: To spread (all over
the place).
Tràn Trề: Full of
(hope)—Intense.
Tràn Vào: To pour in.
Trang:
1) Ngụy
trang: To camouflage.
2) Thời
trang: Fashion.
3) Trang
điểm: To make up.
4) Trang
sức: ornament.
Trang Hoàng:
Decoration—Ornamentation.
Trang Hương: Để thêm nhang vào
lư hương—To put incense into a censer.
Trang Nghiêm: Alamkaraka
(skt)—Dùng những thứ hay đẹp để làm đẹp cho đất nước hay quốc độ, hoặc
dùng công đức làm đẹp cho bản thân. Trong cõi Tịnh Độ của Đức Phật A Di Đà
có 29 loại trang nghiêm khác nhau—Adornment—Ornament—Glory—Honour—To
ornate—To adorn, e.g. the adornments of morality, meditation, wisdom, and
the control of good and evil forces. In Amitabha’s paradise twenty-nine
forms of adornment are described—See Nhị Trang Nghiêm.
Trang Nghiêm Kiếp: Kiếp trang
nghiêm huy hoàng trong đó hàng ngàn vị Phật nối tiếp nhau góp phần làm
trang nghiêm (đại kiếp quá khứ trong ba đại kiếp của tam thế gọi là Trang
Nghiêm Kiếp. Trong mỗi đại kiếp có 80 tiểu kiếp, mỗi tiểu kiếp đều thành
lập bởi thành trụ hoại không. Trong 20 tiểu kiếp của trụ kiếp có 1000 vị
Phật ra đời, mở đầu là Đức Hoa Quang Như Lai, kết thúc là Phật Tỳ Xá
Phù)—The glorious kalpa (past) to which thousands of Buddhas, one
succeeding another, bring their contribution of adornment.
Trang Nghiêm Kinh:
Vyuharaja-Sutra—An exposition of the principal doctrines of the Tantra
school.
Trang Nghiêm Môn: Cổng trang
nghiêm tâm linh, đối lại với hình tướng tu hành bên ngoài, như lễ lạc hay
khổ hạnh—The gate or school of the adornment of the spirit, in contrast
with external practices, ceremonies, asceticism, etc.
Trang Nghiêm Vương: Vyuharaja
(skt)—Một vị Bồ Tát trong quyến thuộc của Đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai—A
bodhisattva in the retinue of Sakyamuni.
Trang Nghiêm Vương Kinh:
Vyuharaja sutra (skt)—Tên gọi tắt của Trang Nghiêm Vương Đà La Ni Chú,
giáo thuyết căn bản của Mật giáo—An exposition of the principal doctrines
of the Tantra school.
Trang Nhã: Elegant—Refined.
Trang Tượng: Trang trí cho tôn
tượng—To dress an image.
Tráng Kiện: Strong and healthy.
Tráng Lệ:
Magnificient—Splendid.
Tràng Hạt: Beads (string
of)—Rosary.
Tràng Hoa: Wreath of flowers.
Tràng Phan Bảo Cái: Pennants
and banners.
Trạng Huống:
Circumstance—Situation—Condition.
Trạng Huống Tâm Linh: Mental
stage.
Trạng Huống Thay Đổi: Changing
circumstances.
Trạng Thái: State—Condition.
Trạng Thái Căng Thẳng:
Stressful situation.
Trạng Thái Tâm Thần: A state of
mind.
Trạng Thái Siêu Việt: A
supramundane state.
Tranh:
1) Bức
tranh: Picture.
2) Cỏ
tranh: Thatch.
3) Tranh
Đua: To contest—To struggle—To contend—To compete.
4) Tranh
Luận: To debate—To dispute.
Tranh Biện: To discuss—To
debate.
Tranh Chấp: Quarrels—To dispute
the differences—To provoke arguments.
Tranh Đấu: To struggle—To
fight.
Tranh Đoạt: To seize.
Tranh Đua: To compete.
Tranh Giải: To compete
(contest) for a prize.
Tranh Giành: To strife.
Tranh Hùng: To fight for
supremacy.
Tranh Khôn: To match wits.
Tranh Luận: See Tranh (4).
Tranh Sống: To fight for life.
Tranh Thủ: To struggle—To
fight—To dispute.
Tranh Tối Tranh Sáng: In
semi-darkness.
Tranh Tồn: To fight for
existence.
Tránh: To avoid—To keep out—To
move aside.
Tránh Dơ Chọn Sạch: Avoiding
the dirty and choosing the clean.
Tránh Khỏi: To avoid—To escape.
Tránh Nhàn Đàm Hý Luận: To
avoid idle talk or gossip.
Tránh Nói Dối: To avoid lying.
Tránh Nói Lời Độc Ác: To avoid
harsh speech.
Tránh Nói Lưỡi Hai Chiều: To
avoid back biting.
Tránh Tà Dâm: Avoid sexual
misconduct.
Trao: To give—To pass (by
hand).
Trao Đổi: To exchange.
Trao Đổi Ý Kiến: Consultation.
Trao Quyền: To hand over an
authority.
Trao Tráo: Wide-open.
Trảo: Móng vuốt—Claws.
Trảo Độ: See Trảo Thượng.
Trảo Độc: Trường Trảo Phạm Chí
(của Độc Tử Bộ); người ta nói rằng những móng tay của ông ta là văn bản và
tóc của ông ta là lời thuyết (trảo chương phát luận)—The long-nailed
ascetic Brahmacari of the Vatsiputriyah; it is said that his nails were a
treatise and his hair a discourse.
Trảo Tháp: Tháp thờ móng tay
móng chân và tóc của Đức Phật do trưởng giả Cấp Cô Độc dựng lên. Đây là
khởi thủy của việc dựng tháp trong đạo Phật—A stupa or reliquary, for
preserving and honouring the nails and hair of the Buddha, said to be the
first Buddhist stupa raised.
Trảo Thượng: Trảo Độ—Theo Kinh
Niết Bàn, số lượng đất mà mình có thể nhét vào đầu móng chân so với số
lượng đất trên toàn thế giới, nó ít ỏi ví như sự hiếm hoi được tái sanh
làm người hay được nhập Niết Bàn—According to the Nirvana Sutra, the
quantity of earth one can put on a toe-nail, i.e. in proportion to the
whole earth in the world, such is the rareness of being reborn as a human
being, or according to the Nirvana Sutra, of attaining Nirvana.
Trảo Tịnh: Trái cây, một trong
năm loại “tịnh thực”—Nail “cleaned,” i.e. fruit, etc, that can be peeled
with the nails, one of the five kinds of clean food.
Trạo: See Trạo Cử.
Trạo Cử: Những phiền não khiến
cho tâm xao xuyến không an tĩnh—Restlessness—Ambitious—Unsettled.
Trạo Hối: Cái tâm bất mãn hay
trạo cử và ăn năn hối hận, cùng với những phiền não khiến cho tâm không an
tĩnh—Discontent and regret, ambition and ripening.
Trạo Tán: Một trong năm triền
cái. Ba nghiệp thân khẩu ý không trong sạch, thường thích lăng xăng huyên
náo (Thân trạo là thích du chơi các trò hài hước, không ngồi yên tĩnh được
lúc nào; khẩu trạo là thích ngâm nga ca hát, tranh cãi thị phi, làm những
cuộc hý luận vô ích bằng những ngôn ngữ thế gian; ý trạo là tâm tính phóng
dật, buông thả cho bám vào chư duyên)—One of the five hindrances, unsteady
in act, word, and thought; unreliable.
Tráp: Cắm vào—To insert—To
stick in.
Trau Chuốt: To flatter falsely
(in order to sell something).
Trau Dồi (Giồi): To improve
(knowledge)—To enrich—To develop—To cultivate.
Trau Dồi Sự Hoàn Thiện: To
cultivate the perfection—A true Buddhist always cultivates his or her
perfection of patience and forebearance.
Trau Dồi Trí Tuệ: To develop
one’s mind.
Trắc Ẩn: Pity—Compassion.
Trắc Trở: Difficulty—Obstacle.
Trặc: To be dislocated
(joints).
Trăm: Hundred.
Trăm Điều Phiền Lụy: Hundreds
of vexations.
Trăm Họ: The people.
Trăm Mối Tà Đạo: Hundreds of
heterodox (evil) teachings.
Trăm Mối Ưu Lo: Hundreds of
worries and apprehensions.
Trăm Việc Không Lo, Chỉ Lo Niệm Phật:
Ignore all distractions and spend all time for reciting the Budha’s name.
Trằn Trọc: To toss (in one’s
sleep).
Trăng: Moon.
Trăng Hoa: Moon and flower
(love affair).
Trắng: White.
Trắng Mắt Ra: To be
disillusioned.
Trắng Trợn: Bluntly—Plainly.
Trâm Anh: Noble family.
Trầm:
1) Lặn:
To sink.
2) Nặng
nề: Heavy.
Trầm Đàn: Agaru or Aguru
(skt)—Cây trầm hương và chiên đàn hương—Sandal incense.
Trầm Hương: Agaru (skt)—Aloe
wood.
Trầm Không: Rơi vào chấp không
(Bồ Tát Đại Thừa ở thất địa vào cuối a tăng kỳ thứ hai chuyên tu tập vô
tướng quán, trên không có Bồ Đề để mà cầu, dưới không có chúng sanh để mà
tế độ. Các Bồ Tát độn căn khiếp nhược chấp trước vào “không tướng” nầy mà
bỏ đại hạnh lợi mình lợi người, nên gọi là thất địa trầm không nạn)—To
sink into emptiness, or uselessness.
Trầm Lặng: Calm—Quiet.
Trầm Luân: Universal
suffering—To be overload with misfortune.
Trầm Miên: Deep in sleep.
Trầm Minh: Chìm trong biển sanh
tử, tối tăm trong cõi vô minh—Sunk in the gloom of reincarnations and
ignorance.
Trầm Ngâm: Pensive.
Trầm Thủy Hương: Aguru (skt)—A
Già Lư, một loại cây mà gỗ của nó được dùng làm nhang thơm để đốt (lõi
chìm gọi là trầm hương, phần chìm một nửa là sạn hương, phần nổi trên mặt
nước thì gọi là hoàng thục hương)—Lignum aloe tree the wood of which is
used as incense.
Trầm Tĩnh: Calm—Cool.
Trầm Trọng:
Severe—Serious—Grave.
Trầm Trồ: To praise.
Trầm Tư Mặc Tưởng:
Meditation—To be very thoughtful—Thoughtful—Meditative—To be absorbed in
meditation—See Quán Tưởng, and Thiền.
Trân: Quý báu—Precious—Rare.
Trân Bảo: A
pearl—Jewel—Precious thing.
Trân Châu: pearl.
Trân Quý Những Hành Động Thiện Lành:
Appreciate one’s wholesome actions.
Trân Trân: To remain
motionless.
Trân Trọng: Trân quý như của
báu—To esteem and treat as precious—Respectfully.
Trân Vực: Khu Vực quý báu, hay
cõi Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà—The precious region, or Pure Land of
Amitabha.
Trấn:
1) Thị
trấn: A market town—A town.
2) Trấn
giữ: To guard—To protect—To watch over.
Trấn Đầu Ca: Tinduka (skt)—Cây
Hồng—The persimmon.
Trấn Đầu Ca La: Hai loại trái
cây—Two kinds of fruits.
1) Trấn
Đầu: Thiện quả—Good fruit.
2) Ca
La: Độc quả—Poisoned fruit.
Trấn Định Loạn Tâm: To calm
one’s agitated mind.
Trấn Quốc: Tên của ngôi chùa cổ
nhất Việt Nam, chùa tọa lạc trong thành phố Hà Nội, Bắc Việt Nam. Tương
truyền chùa được xây từ thời vua Lý Nam Đế (544-548), lúc ấy chùa có tên
là Khai Quốc Tự. Đến đời vua Lê Thái Tông (1440-1442), chùa được đổi là
chùa An Quốc. Đến đời vua Lê Kính Tông (1600-1618), chùa được dời vào hòn
đảo Cá Vàng ở giữa Hồ Tây, tức địa điểm hiện nay. Đời vua Lê Hy Tông
(1680-1705), chùa được đổi tên là chùa Trấn Quốc. Chùa hiện còn giữ được
14 tấm bia, đáng kể là hai tấm bia, một của Trạng Nguyên Nguyễn Xuân Chính
dựng năm 1639, và một của Tiến Sĩ Phạm Quý Thích dựng năm 1815. Trong chùa
có nhiều pho tượng đẹp, đặc biệt là tượng Phật Thích Ca nhập Niết Bàn bằng
gỗ thếp vàng—Name of the most ancient temples in Vietnam, located in
Hanoi City, North Vietnam. Trấn Quốc is one of the oldest temples in
Vietnam. It was said that the temple was built during the period of
Emperor Lý Nam Đế from 544 to 548, and previously called Khai Quốc Tự.
During the period of Emperor Lê Thái Tông (1440-1442), it was named An
Quốc Temple. During the period of Emperor Lê Kính Tông (1600-1618), it was
moved to Cá Vàng islet (the Gold Fish Islet) in the middle of Tây Lake
(West Lake), its present place. During the period of Emperor Lê Hy Tông
(1680-1705), it was renamed again as Trấn Quốc Tự. The temple has still
conserved fourteen stelae of which are Expert Nguyễn Xuân Chính’s stele
built in 1639, and Doctor Phạm Quý Thích in 1815.
Trấn Thủ:
1) See
Trấn (2).
2) Vị
Thần giữ chùa: A deity who guards or watchs over a monastery.
Trấn Tĩnh: To control
oneself—To settle—To calm.
Trần: Guna (skt).
(I) Nghĩa
của Trần—The meanings of “Guna”
1) Theo
Phạn ngữ, guna có nghĩa là một yếu tố phụ, một phần phụ thuộc của ngũ đại,
thí dụ như âm thanh là trần và lổ tai là căn: In sanskrit, guna means a
secondary element, a quality, an attribute of the five elements, e.g.
ether has sabda or sound for its guna and the ear for its organ.
2) Theo
Hoa ngữ, trần có nghĩa là một nguyên tố thật nhỏ: In Chinese it means
dust, small particles, molecules, atoms, exhalations. It may be
interpreted as an atom, or as an active, conditioned principle in nature,
minute, subtle.
3) Nói
chung “trần” chỉ tất cả sự vật trong thế gian làm nhơ bẩn chân tính:
Generally speaking defiling to pure mind; worldly; earthly, the world.
4) Trần
có nghĩa là một đối tượng của giác quan hay đối tượng của tâm: Arammana
(p)—Alambana (skt)—Also means an object of sense or object of the mind—See
Lục Trần.
5) Trần
còn có nghĩa là phạm vi, lãnh vực, sự thích thú của giác quan hay đối
tượng giác quan: Visayo (p)—Vishaya (skt)—The realm, domain, or indulgence
of the senses or an object of senses—See
(II) Phân
loại “trần”—Categories of “guna”
1) Ngũ
Trần: The objects of the five senses.
2) Lục
Trần: The six objects—See Lục Trần.
Trần Ai: Dust.
Trần Biểu: Bên ngoài của thế
giới trần tục hay giáo thuyết nhà Phật—Outside of the secular, i.e. the
doctrine of Buddha.
Trần Cảnh:
1) Bụi
trần: Worldly dust.
2) Hoàn
cảnh xung quanh: World—Environment.
3) Cái
đối lại với tâm sở của lục trần như sắc, thanh, hương, vị, xúc, và pháp
(do trần cảnh tác động vào sáu căn mà làm cho mắt thấy, tai nghe, mũi
ngửi, lưỡi nếm, thân thể đụng chạm, và ý suy xét): The environment of the
six gunas or qualities of sight, sound, smell, taste, touch, and thought.
Trần Cấu: Tên gọi chung của
phiền não (cảnh trần nhơ bẩn nhập vào căn làm cho thân tâm nhơ bẩn mà gây
nên phiền não)—Material, or phenomenal defilement; the defilement of the
passions.
Trần Châu: Các thế giới nhiều
như những nguyên tử hay cát bụi—Worlds as numerous as atoms.
Trần Dục: Dục vọng liên hệ tới
lục trần—The desires connected with the six gunas.
Trần Duyên: Cảnh của lục trần
(sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) là những sở duyên làm nhơ bẩn tâm tính;
hay sự phối hợp giữa lục căn và lục trần, mà lục trần là yếu tố chính—The
circumstances or conditions environing the mind created by the six gunas.
Conditioning environment and natural powers in which environment plays a
main role.
Trần Đạo: Cõi uế độ (theo tông
Hoa Nghiêm, trong từng hạt bụi của thập phương hư không đều có thế giới
gọi là thế giới trần đạo, tức là ở mỗi đầu sợi lông đều có thế giới, có
Phật)—The dusty path, the phenomenal world, or worlds.
Trần Điểm Kiếp: Còn gọi là Kiếp
Giọt Bụi—Một kiếp vô tận không thể tính đếm được (có hai loại: 3.000 trần
điểm kiếp và 5.000 trần điểm kiếp)—A period of time as impossible of
calculation as the atoms of a ground-up world, an attempt to define the
indefinite.
Trần Hương: Quê hương của lục
trần hay cõi luân hồi sanh tử—The native place or home of the six gunas,
i.e. that of transmigration.
Trần Khí Dược: Còn gọi là Hủ
Lạn Dược, hay loại thuốc thối rữa (Các nhà cựu luật Nam Sơn dựa vào Tăng
Kỳ Luật mà cho rằng đây là nước tiểu và phân)—Purgative medicines.
Trần Lao:
1) Làm
việc vất vả mệt nhọc: Worldly toil—Dusty toil—Secular work.
2) Tên
khác của phiền não: Another name for illusion, the trouble of the world,
the passions.
Trần Lụy:
1) Những
khổ lụy của cuộc đời: Pains of life.
2)
Nghiệp của dục vọng làm rối loạn tâm trí: The passion-karma which
entangles the mind.
Trần Na: Dignaga, or Dinnaga
(skt).
1) Tên
một vị Bồ Tát, còn gọi là Đồng Thọ hay Vực Long, người miền nam Ấn Độ,
sanh ra trong một gia đình Bà La Môn. Lúc đầu ngài tu theo Độc Tử Bộ
(Vatsiputriya), rồi sau tự mình ngã theo giáo lý Đại Thừa. Lúc ngài lưu
lại đại tu viện Na Lan Đà, ngài đã đánh bại lý luận của một nhà luận lý
nổi tiếng Bà La Môn tên là Sudurjaya trong một cuộc tranh luận tôn giáo.
Ngài cũng chu du đến Odivisa (Orissa) và Maharattha và có các cuộc tranh
luận với các học giả ở đây. Ngài là một đại luận sư về Nhân Minh Chính Lý,
vào khoảng từ năm 500 đến 550 sau Tây Lịch. Ngài là sơ tổ của tông Nhân
Minh. Trong lịch sử luận lý học của Phật giáo, tên tuổi của Trần Na chiếm
một vị trí nổi bật. Ngài là người sáng lập ra lý luận Phật giáo, được gọi
là cha đẻ của luận lý học Trung cổ. Ngài được xem là tác giả của khoảng
trên 100 bộ luận về luận lý học. Hầu hết các bộ luận nầy hiện còn được lưu
lại qua các bản dịch chữ Hán. Theo Nghĩa Tịnh thì những bộ luận của Trần
Na được dùng làm sách giáo khoa về lý luận vào thời của ông. Trong số các
tác phẩm quan trọng của Trần Na có cuốn Tập Lượng Luận
(Pramanana-samuccaya), tác phẩm vĩ đại nhất của ngài, Nhân Minh Nhập Chính
Lý Luận (Nyaya-pravesa), và nhiều bộ khác: A native southern India, in a
Brahmin family. He was the great Buddhist logician, around 500-550 A.D.,
founder of the new logic. In the history of Buddhist logic, the name of
Dinnaga occupies a pre-eminent place. He is the founder of Buddhist logic
and has been called the Father of Medieval Nyaya as a whole. He was first
a Hinayanist Buddhist of the Vatsiputriya sect and later devoted himself
to the teachings of Mahayanism. When he stayed at the Nalanda Mahavihara,
he defeated a Brahmin logician named Sudurjaya in a religious discussion.
He also toured the provinces of Odivisa (Orissa) and Maharattha, holding
religious contests with scholars. Dinnaga is credited with the authorship
of about a hundred treatises on logic. Most of these are still preserved
in Chinese translations. I-Ch’ing says that Dinnaga’s treatises on logic
were read as text-books at the time of his visit to India. Among the most
important works of Dinnaga are the Pramanana-samucaya, his greatest work,
theNyaya-pravesa, the Hetucakra-damaru, the Pramana-sastra-nyayapravesa,
the Alambana-pariksa and several others.
2) Còn
được biết như là bậc lướt thắng tất cả, đây cũng là danh hiệu của Đức
Phật: He is also known as Jina, the victorious, the overcomer, a title of
a Buddha.
Trần Na La: Dinara (skt)—Đồng
tiền Đi Na của các xứ Trung Đông—A coin—A gold coin (used in the
Middle-East countries).
Trần Nhân Tông (1258-1308):
Theo Thiền Sư Việt Nam của Thiền sư Thích Thanh Từ, Ngài sanh năm 1258,
con Vua Trần Thái Tông. Lúc thiếu thời Ngài được vua cha cho theo học
thiền với Ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ. Ngày nọ Ngài hỏi Thầy về bổn phận của
một người tu thiền. Tuệ Trung đáp: “Phản quang tự kỷ bổn phận sự, bất tùng
tha đắc.” Có nghĩa là hãy soi lại chính mình là phận sự gốc, chứ không từ
bên ngoài mà được. Từ đó Ngài thông suốt và tôn Tuệ Trung Thượng Sĩ làm
thầy. Năm hai mươi mốt tuổi, Ngài lên ngôi Hoàng Đế, hiệu là Trần Nhân
Tông. Khi quân Mông Cổ xâm lăng nước ta, ngài đích thân cầm quân diệt
giặc, đến khi thái bình Ngài nhường ngôi cho con là Trần Anh Tông, rồi lui
về thực tập thiền với Ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ. Tuy nhiên, lúc ấy Ngài vẫn
còn làm cố vấn cho con là vua Trần Anh Tông. Đến năm 1299, Ngài rời bỏ
cung điện để đi vào ẩn tu như một nhà tu khổ hạnh trong núi Yên Tử. Nơi
đây Ngài thành lập Tăng đoàn và khuyên họ nên lấy câu dạy của Ngài Tuệ
Trung Thượng Sĩ mà tu hành. Ngài được tôn làm Sơ Tổ của Thiền Phái Trúc
Lâm Yên Tử—According to the Vietnamese Zen Masters written by Zen Master
Thích Thanh Từ, he was born in 1258 A.D., son of King Trần Thánh Tông.
When he was young, his father sent him to practice Zen with Zen Master Tuệ
Trung Thượng Sĩ. One day he asked his Master about the obligation of a
Zen practitioner. Tuệ Trung responded: “Looking inward to shine up oneself
is the main duty, not following anything outward.” Since then, he
thoroughly understood his duty as a Zen practitioner and honored Tuệ Trung
as his master. He became King when he was twenty-years of age. When the
Mongolian invaded Vietnam in 1283 and 1287, he led his armed forces to
bravely defeat the Mongolian aggressors. When the peace restored, he
relinquished the throne to his son in 1293, and spent more time to
practice Zen with Tuệ Trung Thượng Sĩ. However, he still tutored his son,
the young king Trần Anh Tông. In 1299 he left the royal palace to go to
Yên Tử Mountain, living and practicing as an ascetic monk. Here he
organized the Sangha and advised them to follow the advice of Tuệ Trung
Thượng Sĩ to lead their life of cultivation. He was honored as the First
Patriarch of Trúc Lâm Yên Tử Zen Sect.
Trần Sa: Nhiều vô số kể như bụi
trần và cát. Một trong ba mê hoặc mà Tông Thiên Thai lập ra gọi là trần
sa, hay những chướng ngại mà Bồ Tát gặp phải trên đường giáo hóa chúng
sanh nhiều vô số kể; còn có nghĩa là pháp môn mà Bồ Tát dùng để giáo hóa
chúng sanh thông đạt có nhiều như cát bụi (nhưng chúng sanh tâm trí mê
muội không thể thông đạt mà cứ tiếp tục lăn trôi trong luân hồi sanh
tử)—Dust and sand, i.e. numberless as the atoms. T’ien-T’ai uses the term
as one of the three illusions, i.e. the trial of the Bodhisattva in facing
the vast amount of detail in knowledge and operation required for his task
of saving the world—See Tam Hoặc.
Trần Sa Hoặc: Delusion of “dust
and sand.”
Trần Sát: Gunaksetra (skt).
1) Vô số
thế giới như vô số nguyên tử hay bụi trần: Innumerable worlds as
innumerable atoms (dust).
2) Cõi
nước: Field of qualities—Countries.
3) Tội
lỗi: Certain sins.
Trần Thái Tông (1218-1277): Ông
sanh năm 1218, là vị vua đầu đời nhà Trần. Ông lớn lên trong truyền thống
văn hóa Phật Giáo. Lúc còn là ấu chúa, tâm ông vô cùng sầu thảm vì đã từng
chứng kiến cảnh Quân Sư Trần Thủ Độ, để củng cố chế độ mới, đã thẳng tay
tàn sát không gớm tay những đối thủ chính trị, kể cả những người bà con
bên phía vợ của vua (nhà họ Lý). Vào năm hai mươi tuổi, một lần nữa Trần
Thủ Độ bắt ép ông phế bỏ Lý Chiêu Hoàng vì bà nầy không sanh đẻ được, rồi
bắt ông lấy chị dâu (vợ của Trần Liễu). Một ngày năm 1238, ông rời bỏ cung
điện để đến chùa Hoa Yên trên núi Yên Tử xin tu. Thiền Sư Viên Chứng, đang
trụ trì tại đây bèn nói: “Lão Tăng ở lâu nơi sơn dã, chỉ còn da bọc xương,
cuộc sống giản đơn và tâm hồn tự tại như chòm mây nổi. Còn Bệ Hạ là một
đấng quân vương, chẳng hay Ngài bỏ ngôi nhân chủ, đến tệ am nơi hoang dã
nầy để làm gì?” Vua đáp: “Trẫm còn thơ ấu đã vội mất song thân, bơ vơ đứng
trên sĩ dân, không chỗ nương tựa. Lại nghĩ sự nghiệp các bậc đế vương đời
trước thịnh suy không thường, cho nên Trẫm đến núi nầy chỉ cầu làm Phật,
chớ không cầu gì khác.” Vì lòng từ bi mà Thầy nói: “Nếu tâm mình tỉnh
lặng, không bị dính mắc, thì tức khắc thành Phật, không nhọc tìm cầu bên
ngoài. Ngày hôm sau, Thủ Độ và đoàn tùy tùng đến thỉnh nhà vua hồi cung.
Vua lại quay sang Thiền Sư Viên Chứng khẩn khoản khuyên lơn. Sư đáp: “Phàm
làm đấng quân vương, phải lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình; lấy
tâm của thiên hạ làm tâm của mình. Nay thiên hạ muốn đón Bệ Hạ trở về, bệ
hạ không về sao được? Ta chỉ mong sao Bệ hạ đừng quên lãng việc nghiên cứu
kinh điển.” Vua không còn cách nào khác hơn là quay về tiếp tục trị dân.
Năm 1257, khi quân Mông Cổ xâm lăng nước ta lần thứ nhất, đích thân nhà
vua thân chinh dẹp giặc. Tuy nhiên, sau khi đuổi xong quân Mông Cổ, ông
nhận thấy hàng vạn người đã bị sát hại, ông bèn tu tập sám hối lục thời
(mỗi ngày sáu thời sám hối). Ông cũng viết nên quyển “Nghi Thức Lục Thời
Sám Hối” cho người tu tập. Đến năm 1258, ông nhường ngôi lại cho con là
vua Thánh Tông. Trong Khóa Hư Lục, vua Trần Thái Tông đã dạy rằng mọi
người đều phải nên hành trì ngũ giới và sám hối tội chướng. Trong Khóa Hư
Lục, ông đã viết: “Muốn di chuyển thoải mái trên đường bộ hay đường sông,
người ta phải dùng toa xe hay thuyền đò. Muốn rửa sạch thân tâm, người ta
phải luôn tu hành sám hối như Kinh đã dạy, dù mặc áo dơ đến cả trăm năm,
mà chỉ cần giặt một ngày là áo sạch. Cũng như vậy, dù người ta chịu khổ vì
ác nghiệp chồng chất hàng trăm ngàn kiếp, chỉ với một lần thực dạ sám hối,
tội chướng có thể được rửa sạch trong một giờ hay một ngày.” Ông mất năm
1277—He was born in 1218, was enthroned as the first king of the Trần
Dynasty. He grew up in the Buddhist culture. As the child-king, he was
deeply sorrow when he witnessed his uncle as well as his chief political
advisor, Trần Thủ Độ, conducted a total massacre towards all political
opponents, including the king’s in-law, in order to consolidate the new
dynasty. When he was twenty years old, his uncle, Thủ Độ, once again
ordered him to degrade Lý Chiêu Hoàng because she could not conceive, to
remarry his sister-in-law Thuận Thiên who was marrying and pregnant with
his elder brother Trần Liễu. He was so disappointed. On night in 1238, he
fled the palace to the Hoa Yên temple on Mount Yên Tử. Zen Master Viên
Chứng, the abbot of the temple, asked the king of what he was loking for
by saying: “As an old monk living too long in this wild mountain, I am
bony and skinny, my life is simple and my mind is peaceful as a piece of
cloud floating with the wind. And Your Majesty, as a king deserting the
throne and coming to this poor temple in the wilderness, what is your
expectation?” The king replied: “As young age, my both parents were passed
away. I’m now so lonely of being above of the people, without places for
refuge. Also thinking of the past that no kingdom remains as long as
expected. I’d like to come here and practice to become a Buddha rather
than anything else.” With compassion, the master advised: “There is no
Buddha in this mountain. Buddha is only existed in one’s mind.” If the
mind is calm and free of bondage, wisdom will display, and that is the
true Buddha. Whe Your Majesty realizes it, you’re a Buddha immediately.
Don’t waste your time and energy of looking for it from the outside
world.” The next day, Thủ Độ and his entourage came up and requested that
the Majesty return to the throne. The king again turned to the master for
advise. The master replied: “Generally, being a sovereign, one must
consider people’s wishes as his, as well people’s mind as his. Now the
people request Your Majesty return, you can’t repsonde negatively. My only
wish that Your Majesty continue to study the Buddha teaching.” The King
had no choice but returned to his throne. In 1257, the king led his armed
forces to fight against and defeated the invasive Mongolian. After the
war, he realized that tens of thousands of lives of the enemy had been
annihilated, thus he consistently practiced “Repentance six times a day.”
He also wrote a “Guide to Six Times of Repentance” with all rituals for
everyone to practice. In 1258, the king stepped down and reliquished the
throne to his son Thánh Tông. In the Book of Emptiness, the king explained
why one should observe five precepts and cultivation of repentance. He
emphasized the importance of repentance in His Book of Emptiness as
follows: “To move conveniently on the road or along the river, one needs
utilize a wagon or a boat. To effectively cleanse the body and mind, one
must exercise repentance. As said the sutra, ‘Though a dress be dirty for
hundreds of years, if cleansed, it would be clean within one day.
Similarly, if one suffers a bad karma accumulated over a hundred or
thousand lifetimes, with earnest repentance one could clear up within an
hour or a day.” He passed away in 1277.
Trần Thánh Tông (1240-1290):
Ngài sanh năm 1240, con vua Thái Tổ nhà Trần là Trần Thái Tông. Lên ngôi
vua năm 1258. Ngài theo học Thiền với Đại Đăng, vị Quốc Sư dưới thời vua
cha của ngài. Vua Thánh Tông là người đã thông đạt và giác ngộ lý thiền
ngay từ khi ngài còn là quân vương, chứ ngài không tìm nơi non cao rừng
vắng, mà ngự tại triều đình vẫn ngộ đạo. Trong Thánh Đăng Lục, ngài đã
nói: “Sau ba mươi năm đập ngói, dùi rùa, đổ mồ hôi xót con mắt để tập
thiền; một khi thấu vỡ gương mặt thật, mới biết lỗ mũi xưa nay mất hết một
bên.” Qua đó chúng ta thấy Vua Thánh Tông cũng như nhiều vị Thiền sư khác,
sau ba mươi năm với đủ cách tu tập, kể cả việc đập ngói hay vùi mai rùa để
cố tìm ra Phật tánh, nhưng khi chứng ngộ, ngài mới thấy mình đã mất đi một
bên mũi. Vua Thánh Tông nói về Thiền như sau: “Thiền là dụng của chân tâm
tỉnh tỉnh lặng lặng, không đi không đến, không thêm không bớt, dù lớn hay
dù nhỏ, nó thích hợp với mọi nơi, mọi người, dù bạn hay dù thù. Thiền có
thể động như mây, tĩnh như tường bích; nó có thể nhẹ như lông, hay nặng
như đá; nó có thể phơi bày lồ lộ hay ẩn kín không dấu vết. Quả thật, theo
vua Thánh Tông, thì tu thiền không trở ngại mọi công tác ở thế gian, như
vậy có ai mà không tu được. Đây là một bằng chứng Thiền Học đời Trần rất
tích cực—He was born in 1240 A.D., son of the first King of the Tran
Dynasty, King Trần Thái Tông. He studied Zen with Zen Master Đại Đăng, who
was the National Teacher under his father. King Thánh Tông penetrated the
essence of Zen doctrine and enlightened while he was still a king. He
needed not travel to a remote area on a mountain or in the jungle to
practice Zen. In the King’s Book of Records, he said: “After thirty years
of breaking tiles and drilling tortoise, being perspired for many instance
of Zen practicing; once penetrated and realized the original face, the two
nostrils in the past suddenly lost one.” Through this, we see that the
king as well as some other Zen practitioners in the past, had tried all
possible ways including breaking tiles and drilling turtle shells in order
to seek the Buddha nature. However, after the penetration of the Way, only
one nostril was left. Regarding the meditation, King Thánh Tông said in
his King’s Book of Records: “The manifestation of the true mind is always
calm and quiet. It is not going or coming; not increasing or diminsihing.
It fits everywhere no matter how large or small. It satisfies everyone,
friend or foe. It might move on as fast as a piece of cloud, or stand
still as solid as a wall. It can be as light as a feather, or as heavy as
a chunk of rock. It may display itself completely, or conceal itself
without leaving a trace. To the king, apparently, the practice of
meditation does not interfere with any activities in daily life. To the
contrary, it helps people accomplish their duties and fulfill their lives
in a much better way.
Trần Thế: Worldly—Worldliness.
Trần Tình: To make known of
one’s feelings.
Trần Tôn Túc Đạo Minh Thiền Sư:
Zen Master Chen-Tzun-Tsu—Thiền Sư Đạo Minh sanh năm 780, đệ tử của Hoàng
Bá—Zen master T’ao-Ming was born in 780, was a disciple of Huang-Bo.
·
Một hôm tham vấn buổi chiều, sư bảo chúng: “Các ngươi lại
được chỗ bước vào chưa? Nếu chưa được chỗ bước vào, cần được chỗ bước vào,
nếu đã được chỗ bước vào, về sau chớ cô phụ lão Tăng.” Có một vị Tăng bước
ra lễ bái thưa: “Con trọn chẳng dám cô phụ Hòa Thượng.” Sư bảo: “Ngươi
trước đã cô phụ ta rồi.”—One day, Zen master T’ao-Ming said to his
congregation: “Has any one of you gained an entrance? If you haven’t
gained an entrance then that’s what you must do. If you gain an entrance
then you won’t show ingratitude toward me.” A monk bowed and said: “I
don’t dare have ingratitude toward you.” T’ao-Ming said: “You’ve already
shown ingratitude.”
·
Sư lại bảo: “Lão Tăng trụ trì ở đây chẳng từng thấy một
người vô sự đi đến. Các ngươi sao chẳng lại gần?” Có một vị Tăng mới bước
lại gần. Sư bảo: “Duy Na chẳng có ở đây, ngươi tự lãnh hai mươi gậy đi ra
ngoài ba cửa.” Vị Tăng thưa: “Con lỗi ở chỗ nào?” Sư bảo: “Đã đeo còng lại
mang gông.”—T’ao-Ming said: “Since I’ve been abbot, I’ve never seen
someone without an issue come before me. Why can’t one of you come
forward?” A monk then came forward. T’ao-Ming said: “The Temple director
isn’t here. So take yourself out the front gate of the monastery and get
twenty hits with the staff.” The monk said: “What did I do wrong?”
T’ao-Ming said: “Your head’s already in a cangue and now you’ve put on
manacles.”
·
Một hôm sư đang đứng ngoài hành lang, có vị Tăng đến hỏi:
“Phòng Trần Tôn Túc ở chỗ nào?” Sư liền cởi giày, đè đầu vị Tăng ấy đập.
Vị Tăng ấy chạy. Sư gọi: “Đại Đức! Tăng xoay đầu nhìn lại. Sư chỉ bảo: “Đi
bên này.”—One day T’ao-Ming was standing on a corridor path in the
monastery. A monk came up to him and asked: “Where is abbot T’ao-Ming’s
room?” T’ao-Ming took off a sandal and hit the monk on top of the head.
The monk walked off. T’ao-Ming yelled: “Worthy!” The monk turned his head.
T’ao-Ming pointed and said: “It’s that way!”
·
Có vị sứ thần đến viếng. Sứ thần hỏi: “Ba cửa đều mở, từ cửa
nào vào?” Sư gọi: “Thượng Thơ.” Sứ thần lên tiếng: “Dạ!” Sư bảo: “Từ cửa
tín vào.” Sứ thần nhìn lên vách thấy tượng vẽ, hỏi: “Hai tôn giả đối mặt
luận việc gì?” Sư gõ cây cột nói: “Trong ba thân cái nào chẳng nói
pháp?”—A ‘purple robed’ worthy came to visit T’ao-Ming. When he bowed,
Ta’o-Ming grabbed the string that hung from his hat and said: “What is
this called?” The monk said: “It’s called a facing heaven hat.” T’ao-Ming
said: “Oh, in that case I won’t pull it off.” Ta’o-Ming also said: “What
doctrine do you expound?” The monk said: “The consciousness-only
doctrine.”
·
Sư lại hỏi: “Nói thế nào?” Đại Đức đáp: “Tam giới duy tâm,
vạn pháp duy thức.” Sư chỉ cánh cửa hỏi: “Cái ấy là gì?” Đại Đức đáp: “Sắc
pháp.” Sư bảo: “Trước rèm ban tử y, đối vua thuyết pháp, tại sao không giữ
năm giới? Đại Đức không đáp được—T’ao-Ming said: “What do you say of it?”
The monk said: “The three worlds are only mind. The myriad dharmas are
only consciousness.” T’ao-Ming pointed to the door screen and said:
“What’s that?” The monk said: “A form dharma.” T’ao-Ming said: “In front
of the screen you received the purple robe and expounded scripture to the
emperor. Why can’t you uphold the five precepts?” The monk couldn’t
answer.
·
Vào năm 877, lúc sư sắp tịch gọi môn đồ lại nói: “Nơi đây
hết duyên, ta sẽ đi vậy, rồi ngồi kiết già thị tịch, thọ 98 tuổi được 76
tuổi hạ—In 877 A.D. when T’ao-Ming was near death, he summoned the monks
and said: “My karma is exhausted. I’m dying.” He then sat in a
cross-legged position and passed away. The master was ninety-eight years
old and had been a monk for seventy-six years.
Trần Trần Sát Độ:
1) Vô số
quốc độ: Numberless lands.
2) Trong
mỗi hạt vi trần, chứa cả một thế giới: In every grain, or atom, there is a
whole realm.
Trần Trần Tam Muội: Trong một
vi trần nhập vào nhất thiết tam muội gọi là trần trần tam muội (theo Kinh
Pháp Hoa, trong một vi trần nhập vào tam muội, thành tựu nhất thiết vi
trần định, mà vi trần đó cũng không tăng lên, đối với từng phổ hiện khó
suy tính hết)—According to the Lotus Sutra, the samadhi in which, in a
moment of time, entry is made into all samadhis.
Trần Tục: Human life—World.
Trần Võng: Lưới lục trần làm
vướng mắc lục căn—The net of the six gunas, i.e. those connected with the
six senses.
Trần Vọng: Không sạch là trần,
không thực là vọng; trần vọng ám chỉ tất cả cảnh giới sinh tử—Impure and
false, as are all temporal things.
Trâng Tráo: Shameless.
Trật Tự: Order.
Trây Lười: Laziness.
Treû:
Young.
Treo:
1)
Treo vật gì: To hang up—To suspend.
2) Án
treo: Sentence with reprieve.
Treo Gương: Nêu gương—To set (give) an
example.
Treo Ngược: To hang upside down.
Tréo: To cross.
Trèo: To climb—To climb over.
Trèo Đèo Lặn
Suối:
Up hills and down dales.
Trẹo Cổ: Trặc cổ—To crick (wrick) one’s
neck.
Trễ:
1)
Trễ giờ: Tardy—Late.
2) Trễ
xe: To miss (the bus, train or boat).
Trệ: Đình trệ—In suspense.
Trên:
1)
Bên trên: On (land)—Upon.
2) Trên
tuổi: Over (years of age)—Above.
3) Tầng
trên: Up (stairs).
Trên Đường
Hành Đạo:
While treading the way.
Trên Trời: In the sky.
Trêu: To annoy—To provoke—To irritate—To tease.
Tri:
·
Biết: Vijna (skt)—To know.
·
Biết: Jnanam or Jnapti
(p)—Knowing—Understanding—Learning—Apprehension.
Tri Ân: To be grateful.
Tri Căn:
1) Ngũ
căn: Five organs of perception.
2) Bồ
Tát biết rõ căn cội và khả năng của chúng sanh nên không còn sợ hãi—To
know the roots or capacities of all beings as do Bodhisattva; therefore,
they have no fear.
Tri Đạo: Người biết đạo cứu độ
chúng sanh—One who knows the path to salvation.
Tri Đạo Giả: Người biết con
đường cứu độ chúng sanh, một danh hiệu của Đức Phật—The one who knows the
path to salvation, an epithet of the Buddha.
Tri Điện: Vị Tăng chăm sóc điện
thờ Phật—The warden of a temple—Supervisor of the Buddha Hall.
Tri Giả: Thể của thần ngã trong
thân thể con người có thể biết được sự vật—The knower, the cognizer, the
person within who perceives.
Tri Giác:
Consciousness—Perception—Apprehension.
Tri Hành: To know and to
execute.
Tri Hô: To shout for help.
Tri Hữu: Close friend.
Tri Kỷ: Friend in need.
Tri Khách: Vị Tăng coi về việc
tiếp khách—The director of guests in a monastery—Guest supervisor.
Tri Khố: Khố Đầu—Người trông
coi kho của tự viện—The bursar of a monastery.
Tri Khổ Đoạn Tập: Biết được cái
khổ của sống chết quả báo thì phải đoạn trừ các nhân duyên tạo ra các mối
khổ—To know the dogma of suffering and be able to cut off its
accumulation.
** For more informatio,
please see Tứ Diệu Đế.
Tri Kiến: Nanam (p)—Jnana
(skt)—Biết khi thấy—Wisdom—Knowledge—To know by seeing—The function of
knowing—becoming aware—Intellection—Views—Doctrines.
·
Tri kiến: Trí thông thường của thế gian—Ordinary world
knowledge.
·
Biết: Trí tương đối: Knowledge of relativevity.
·
Trí thù thắng: Transcendental knowledge.
Tri Kiến Ba La Mật:
Parajnaparamita (skt)—Trí Tuệ Bát Nhã—Wisdom paramita.
Tri Kiến Bất Nhị:
Advaya-jnatritva (skt)—Tri kiến không nghĩ đến nhị biên—Nondualistic
knowledge (the knowledge without thinking of extremes)—The knowledge of
non-duality.
Tri Kiến Phật: Buddha-jnana
(p)—Tri kiến Phật hay sự hiểu biết thuần tịnh hay cái thấy của tánh
giác—Buddha’s knowledge.
Tri Kiến Tâm Linh: Spiritual
knowledge.
Tri Kiến Thanh Tịnh:
Purification by Knowledge and Vision—See Tứ Thánh Quả (B).
Tri Kiến Thế Tục: Worldly
knowledge.
Tri Kiến Trực Giác:
Cintamaya-panna (p)—Intuitional knowledge.
Tri Kiến Vô Ngôn: Nonverbal
knowledge.
Tri Lễ:
1) Biết
nghi thức lễ lạc: Knowing the right modes of respect or ceremonial.
2) Tri
Lễ tức ngài Pháp Trí Tôn giả, một danh Tăng vào thế kỷ thứ mười đời Tống.
Người đời sau gọi ngài là đại sư Tứ Minh (tên của tự viện nơi ngài trụ
trì). Sư là một đệ tử của tông Thiên Thai—Chih-Li, name of a famous
tenth-century monk of the Sung dynasty, Ssu-Ming, so called after the name
of his monastery, a follower of the T’ien-T’ai school.
Tri Liêu: Người trông nom phòng
ốc trong tự viện—The warden of the monasterial abodes.
Tri Luận: Tên khác của Bát
Nhã—Another name for the prajnaparamita.
Tri Lực: Comprehension.
Tri Ngộ: Biết nhau và tiếp đãi
nhau chu đáo—To know and to treat each other well.
Tri Nhứt Thiết Chúng Sanh Trí:
Trí huệ Phật biết tất cả nghiệp của chúng sanh—The Buddha-wisdom which
knows the karma of all beings.
Tri Nhứt Thiết Pháp Trí: Trí
huệ Phật hiểu biết vạn hữu và phương cách cứu độ—The perfect understanding
of omniscience regarding the laws of universal salvation—The Buddha-wisdom
of knowing everything or method of salvation.
Tri Nhứt Thiết Thế Gian Trí:
Toàn trí—The perfect understanding of omniscience regarding all living
beings.
Tri Pháp:
1) Tri
Pháp Hiển Giáo: Người biết được các nghĩa thâm sâu của kinh điển—In the
exoteric sects, to know the deep meaning of the sutras.
2) Tri
Pháp Mật Giáo: Người biết được sự tướng bí mật—In the esoteric sects, to
know the mysteries.
Tri Quá: To know one’s fault.
Tri Sự: Karmadana (skt)—Vị sư
chăm sóc hết mọi sự trong tự viện, chỉ dưới quyền vị sư trụ trì—The
director (manager) of affairs in a monastery, next below the abbot (whose
office locates on the east side of the monastery).
Tri Sự Đầu Thủ: Tri sự và Đầu
thủ, hai dịch Tăng trong tự viện—Two co-directors in a monastery, one on
the east and the other on the west side of the monastery.
1) See
Tri Sự.
2) See
Đầu Thủ.
Tri Thế Gian: Lokavid (skt)—Lô
Ca Bị—Người biết hết các pháp của thế gian, một trong mười danh hiệu của
Đức Phật—One who knows the world, one of the ten characteristics of a
Buddha.
Tri Thức:
1) Hiểu
Biết: Knowledge—Learning—Perception—To know and perceive.
2)
Những tư tưởng sai lạc của người chưa giác ngộ: False ideas produced in
the mind by common or unenlightened knowledge.
3)
Những người mình quen biết: A friend—An intimate—Acquaintance.
Tri Thức Bất Toàn: Imperfect
intellection—Đức Phật dạy: “Vô minh bị chất chứa càng lúc càng nhiều them
do bởi cái tri thức bất toàn từ vô thỉ là nguồn gốc của tâm.”—The Buddha
taught: “Ignorance accumulated over and over again owing to imperfect
intellection since the infinite past is the origin of the mind.”
Tri Thức Chúng: A body of
friends, all you friends.
Tri Thức Hữu: Thiện hữu tri
thức—Người bạn thân thiết có thể giúp chúng ta thông hiểu chân lý—A friend
or an intimate who can help us to understand the truth—For more
information, please see Thiện Hữu Tri Thức in Vietnamese-English Section.
Tri Thức Luận: Epistemological
questions—Về tri thức luận, Phật giáo không bàn đến nhiều như các triết
học khác. Đối với nguồn gốc của nhận thức, Phật giáo nhìn nhận có thế giới
của cảm giác hay thế giới hiện lượng (Pratyaksa-pramana); thế giới của suy
luận hay thế giới tỷ lượng (Anumana); thế giới của trực giác thuần túy hay
thế giới thiền định (dhyana). Như vậy, các giác quan, lý tính và kinh
nghiệm nội tại sẽ cung ứng cho nội dung của tri thức. Ngoài ra, bất cứ lúc
nào chúng ta cũng có thể viện tới Thánh Giáo Lượng (Agama) tức ngôn ngữ
được phát ra từ thế giới của giác ngộ viên mãn (Bodhi), nghĩa là ngôn ngữ
của Phật, đấng giác ngộ—Concerning epistemological questions, Buddhism has
much more to say than any other philosophy. As sources of cognition
Buddhism recognizes the world of sensation (Pratyaksa-pramana), the world
of inference (anumana) and the world of pure intuition (dhyana). Thus
sense-data, reason and inner experience resulting from intuition will all
provide the content of knowledge. Besides these we can appeal in every
case to the Word that has been uttered from the world of perfect
enlightenment (Bodhi), i.e., the Buddha (the Enlightened).
Tri Tình: To know the
situation.
Tri Túc:
·
Biết đủ và thỏa mãn với những gì mình có ngay trong lúc nầy.
Tri túc là đặc điểm của hạnh phúc cá nhân. Phàm phu thường nghĩ rằng tri
túc rất khó trau dồi và phát triển. Tuy nhiên, nếu chúng ta kiên trì dũng
mãnh, và quyết tâm kiểm soát những tư tưởng bất thiện cũng như hậu quả gây
ra do bởi không biết tri túc, thì chúng ta sẽ cảm thấy luôn hạnh phúc với
những gì mình đang có. Đối với những người có trí tuệ, biết quyền biến,
tháo vát, khéo an nhẫn với cảnh đời, biết suy cùng nghĩ cạn, thì trong
cảnh ngộ nào cũng vẫn an nhiên bình thản. Với hoàn cảnh giàu sang thì biết
đủ theo cảnh giàu sang, với cảnh nghèo hèn thì biết đủ theo nghèo hèn.
Thật vậy, trong đời sống hằng ngày, chúng ta làm đủ cả mọi việc, suy tính
đủ mọi phương cách, chước mầu, thậm chí đến việc không từ nan bất cứ thủ
đoạn nào, miễn sao cho mình được lợi thì thôi, còn thì tổn hại cho ai cũng
không cần nghĩ đến. Thử hỏi chúng ta làm như vậy để chi? Chẳng qua là để
có cuộc sống tốt đẹp hơn, ăn mặc, nhà cửa, cất chứa tiền bạc nhiều hơn.
Nhưng suy nghĩ kỹ chúng ta sẽ thấy mặt trời mọc, đứng bóng, rồi lặn và
biến mất về đêm; trăng đầy rồi khuyết, rồi mất hẳn ánh sáng; gò cao đổi
thành vực thẳm, biển cả hóa nương dâu, vân vân. Cuộc đời xưa nay thịnh
suy, đắc thất, vinh nhục, bổng trầm, còn mất, hợp tan, chỉ là lẽ thường
chớ đâu có gì được tồn tại mãi, tất cả rồi cũng về với hư không. Thế nên
người trí phải luôn biết tri túc với hoàn cảnh hiện tại—Satisfy with what
we have at this very moment—Satisfaction. Contentment is a characteristic
of the really happy individual. The ordinary people seem to think that it
is difficult to cultivate and develop contentment. However, with courage
and determination to control one’s evil inclination, as well as to
understand the consequences of these evil thoughts, one can keep the mind
from being soiled and expereince happiness through contentment. For those
who have wisdom, know how to apply themselves and are able to endure life,
and are able to think cleverly, will find peace in his fate under whatever
circumstances. With the conditions of wealth, one satisfies and is at
peace with being wealth; with the conditions of poverty, one satisfies and
is at peace with being impoverished. In fact, in our lifetime, we engage
in all kinds of activities, think and calculate every imaginable method
without abandoning any plot, so long as it is beneficial, but whether or
not our actions affect others we never care. We have been doing all these
for what? For a better life, clothes, house, and for storing more money.
If we think carefully, we will see that the sun rises, reaches its stand
still, and then it will set and disappears in the evening; a full moon
will soon become half, quarter, then lose its brightness; mountains become
deep canyons; oceans become hills of berries, etc. The way of life has
always been rise and fall, success and failure, victory and defeat, lost
and found, together and apart, life and death, etc., goes on constantly
and there is absolutely nothing that remain unchanged and eternal. People
with wisdom should always satisfy with their current circumstances.
·
Đức Phật tán dương cuộc sống đơn giản, cuộc sống đơn giản
dẫn đến việc mở mang tâm trí con người. Chính vì thế mà Đức Phật luôn
thuyết giảng sự lợi ích cho các thầy Tỳ Kheo về tri túc trên những món như
sau: Y áo mà các thầy nhận được, dù thô hay dù mịn; đồ cúng dường hay thực
phẩm các thầy nhận được, dù ngon hay không ngon; nơi ở mà các thầy nhận
được, dù đơn sơ hay sang trọng. Ai mà mãn ý với ba điều trên đây có thể
giảm được lòng ham muốn và đồng thời in sâu vào tâm khảm những thói quen
của một cuộc sống đơn giản—The Buddha extols simple living as being more
conducive to the development of one’s mind. Thus, the Buddha always
preaches the self-contentment for the benefit of the Bhikkhus as follow:
The robes or clothes they receive, whether coarse or fine; alms or food
they receive, whether unpalatable or delicious; the abodes or houses they
receive, whether simple or luxurious. Those who satisfy with these three
conditions can reduce the desires, and at the same time develop the habits
and values of simple living.
Tri Túc Thiên: Tusita (skt)—Đâu
Suất Đà—Tầng trời Đâu Suất, cõi trời Tri Túc hay cõi Tịnh Độ của Đức Di
Lặc, nơi mà chư Bồ Tát tái sanh vào trước khi sanh vào cõi Phật—The fourth
Devaloka, Maitreya’s heaven of full knowledge, where all Bodhisattvas are
reborn before rebirth as Buddhas.
Tri Túc Viện: Nội điện của Tri
Túc Thiên—The inner court of the tusita.
Tri Vô Biên Chư Phật Trí: Biết
được trí vô biên của chư Phật hay biết những lời Phật dạy cũng như cách
cứu độ chúng sanh—To have the infinite Buddha-wisdom (knowing the
Buddha-worlds and how to save the beings).
Tri Vô Ngại Chư Phật Trí: Thông
hiểu tri kiến Phật—The perfect understanding of omniscience regarding all
Buddha wisdom.
Trí: Jnana or Buddhi (skt)—Nhã
Na—Xà Na.
(I) Nghĩa
của “Trí”—The meanings of “Jnana”
·
Vidya (skt)—Kiến thức—Knowledge.
·
Vijnana (skt)—Trí Huệ—Wisdom arising from perception or
knowing—Mind—Wit.
·
Jnana (skt)—Trí huệ Bát Nhã—Wisdom Paramita—Đối với đạo lý
của hết thảy sự vật có khả năng đoán định phải trái chánh tà—Decision or
judgment as to phenomena or affairs and their principles, of things and
their fundamental laws.
·
Đến hay đạt đến: To reach—To arrive.
·
Ưu việt: Utmost—Perfect.
·
Đôi khi khó mà vạch ra một cách rõ ràng sự khác biệt giữa
Buddhi và Jnana, vì cả hai đều chỉ cái trí tương đối của thế tục cũng như
trí siêu việt. Trong khi Prajna rõ ràng là cái trí siêu việt: The
difference between Buddhi and Jnana is sometimes difficult to point out
definitively, for they both signify worldly relative knowledge as well as
transcendental knowledge. While Prajna is distinctly pointing out the
transcendental wisdom.
(II) Những
lời Phật dạy về “Trí” trong Kinh Pháp Cú—The Buddha’s teachings on “Jnana”
in the Dharmapada Sutra:
1)
Ngu
mà tự biết ngu, tức là trí, ngu mà tự xưng rằng trí, chính đó mới thật là
ngu—A foolish man who knows that he is a fool, for that very reason a wise
man; the fool who think himself wise, he is indeed a real fool
(Dharmapada 63).
2)
Người trí dù chỉ gần gủi người trí trong khoảnh khắc cũng hiểu ngay được
Chánh pháp, chẳng khác gì cái lưỡi dù mới tiếp xúc với canh trong khoảnh
khắc, đã biết ngay được mùi vị của canh—An intelligent person associates
with a wise man, even for a moment, he will quickly understand the Dharma,
as the tongue tastes the flavour of soup (Dharmapada 65).
3) Được
uống nước Chánh pháp thì tâm thanh tịnh an lạc, nên người trí thường vui
mừng, ưa nghe Thánh nhơn thuyết pháp—Those who drink the Dharma, live in
happiness with a pacified mind; the wise man ever rejoices in the Dharma
expounded by the sages (Dharmapada 79).
4) Người
tưới nước lo dẫn nước, thợ làm cung tên lo uốn cung tên, thợ mộc lo nẩy
mực đo cây, còn người trí thì lo tự điều phục lấy mình—Irrigators guide
the water to where they want, fletchers bend the arrows, carpenters
control their timber, and the wise control or master themselves
(Dharmapada 80).
5) Như
ngọn núi kiên cố, chẳng bao giờ bị gió lay, cũng như thế, những lời hủy
báng hoặc tán dương chẳng bao giời làm lay động người đại trí—As a solid
rock is not shaken by the wind; likewise, the wise are not moved by praise
or blame (Dharmapada 81).
6) Như
nước hồ sâu, vừa yên lặng trong sạch, những người có trí tuệ sau khi nghe
pháp, tâm họ cũng thanh tịnh và yên lặng—Water in a deep lake is clear
and still; similarly, on hearing the Buddha teachings, the wise become
extremely serene and peaceful (Dharmapada 82).
7) Người
lành thường xa lìa mà không bàn đến những điều tham dục. Kẻ trí đã xa lìa
niệm lự mừng lo, nên chẳng còn bị lay động vì khổ lạc—Good people give up
all attachments, they don’t talk about sensual craving. The wise show
neither elation nor depression; therefore, they are not affected by
happiness or sorrow (Dharmapada 83).
8)
Không vị tình thiên hạ, cũng không vị tình một người nào, người trí không
làm bất cứ điều gì sai quấy: không nên cầu con trai, sự giàu có, vương
quốc bằng việc sai quấy; không nên cầu mong thành công của mình bằng những
phương tiện bất chánh. Được vậy mới thật là người đạo đức, trí tuệ và ngay
thẳng—Neither for the sake of oneself, nor for the sake of another, a wise
man does nothing wrong; he desires not son, wealth, or kingdom by doing
wrong; he seeks his own success not by unjust means, then he is good, wise
and righteous (Dharmapada 84).
9)
Con
thiên nga chỉ bay được giữa không trung, người có thần thông chỉ bay được
khỏi mặt đất, duy bậc đại trí, trừ hết ma quân mới bay được khỏi thế gian
nầy—Swans can only fly in the sky, man who has supernatural powers can
only go through air by their psychic powers. The wise rise beyond the
world when they have conquered all kinds of Mara (Dharmapada 175).
Trí Ba La Mật: Prajna-paramita
(skt)—Paramita wisdom—See Trí Độ.
Trí Bảo Thiền Sư: Zen Master
Trí Bảo (?-1190)—Thiền sư Việt Nam, quê ở Ô Diên, Bắc Việt. Ngài xuất gia
tại chùa Thanh Tước trên núi Du Hý ở Thường Lạc. Ngài là pháp tử đời thứ
10 dòng Thiền Vô Ngôn Thông. Về sau, ngài chuyên tu phước bằng cách bắc
cầu bồi lộ ở những vùng thôn dã. Ngài thị tịch năm 1190—A Vietnamese Zen
master from Ô Diên, North Vietnam. He left home to become a monk at Thanh
Tước Temple on Mount Du Hý in Thường Lạc. He was the Dharma heir of the
tenth generation of Wu-Yun-T’ung Zen Sect. Later, he focused in
cultivating merits by building bridges, fixing roads in rural areas. He
passed away in 1190.
Trí Bi: Trí Đức và Bi Đức, hai
trong ba đức của Phật—All-knowing and all-pitying qualities of a Buddha,
two of the three virtues or qualities of a Buddha.
** For more information,
please see Tam Đức (D).
Trí Biện:
1) Trí
tuệ và khả năng biện biệt: Wisdom and dialectic power.
2) Sự
biện biệt khôn ngoan: A wise discrimination.
3) Sự
biện biệt bằng trí tuệ: Argument from knowledge.
Trí Cảnh: Jnana-darpanna
(skt)—Vật thể, hoàn cảnh hay điều kiện bên ngoài làm môi giới cho trí quán
sát (trí là cái tâm năng quán, cảnh là pháp ở bên ngoài ta)—The objects (
or states, or conditions) of wisdom.
Trí Chánh Giác: Buddha’s
mind.
Trí Chân: Toàn chân—Perfect
truth.
Trí Chiếu Sáng: Illuminated or
enlightened intellect.
Trí Chử:
1) Búa
hay chày trí tuệ: The wisdom hammer (búa).
2) Tên
khác của Kim Cương chùy: Another name for the vajra or diamond club.
Trí Chứng: Dùng thực trí mà
chứng đắc niết bàn—Wisdom assurance—The wisdom which realizes nirvana.
Trí Chướng (Sở Tri Chướng):
Worldly wisdom is a hindrance to true wisdom.
Trí Cự: Ngọn đuốc trí tuệ (sự
sáng suốt của trí tuệ giống như ngọn đuốc)—A torch of wisdom.
Trí Diệu: Mật trí giúp phơi bày
chân lý—Mystic knowledge which reveals spiritual realities.
Trí Dục: Intellectual education
(cultivation or culture).
Trí Đao:
1) Lưỡi
kiếm trí tuệ: The sword of knowledge.
2) Trí
tuệ của người tu sắc bén như lưỡi kiếm (có khả năng chặt đứt khổ đau phiền
não): Knowledge like a sword.
Trí Đoạn: Trí đức và đoạn đức
làm sáng tỏ chân lý và đoạn diệt phiền não—Mystic wisdom which attains
absolute truth and cuts off misery.
Trí Độ: Prajna paramita
(skt)—Độ thứ sáu trong lục độ Ba La Mật, trí huệ Ba La Mật có công năng
đưa hành giả đến Niết Bàn—Wisdom which brings men to nirvana, the sixth of
the six paramitas.
Trí Độ Luận:
Maha-Prajnaparamita Sastra (skt)—Đại Trí Độ Luận—Luận về Kinh Bát Nhã Ba
La Mật Đa. Đây là một tác phẩm triết học nổi tiếng của Phật Giáo Đại
Thừa—Sastra (Commentary) on the Prajna paramita sutra. It is a famous
philosophical Mahayana work.
** For more information,
please see Đại Trí Độ Luận.
Trí Đôn: Chih-Tun 314-366—Một
trong những thiền sư chính của Phật giáo Trung Quốc vào thế kỷ thứ tư. Ông
sáng lập ra phái Bát Nhã của Phật Giáo Nguyên Thủy Trung Quốc. Trí Đôn là
người đầu tiên đã đưa ra lý giải mới về một trong những khái niệm trung
tâm triết học của Trung Quốc là “Lý.” Theo truyền thống, lý chỉ trật tự vũ
trụ, nhưng Trí Đôn lý giải ngược lại, như là chân lý cao nhất, hay nguyên
lý cuối cùng, hay chân tính. Định nghĩa nầy về sau được các trường phái
Phật giáo thừa nhận. Trí Đôn còn rất nổi tiếng là đệ tử am hiểu sâu sắc về
Trang Tử và Đạo giáo—One of the most important monks of the fourth century
and founder of the so-called Prajna school of early Chinese Buddhism, the
school of Appearance As Such. Chih-Tun was the first to interpret “li,” a
central notion in Chinese philosophy. According to the classical view,
“li” means the cosmic order; however, Chih-Tun, saw “li” the supreme
truth, the ultimate principle, or “suchness” (tathata). This meaning for
“li” was adopted by other schools in the course of the development of
Buddhism in China. Chih-Tun was also known as a student of Chuang-Tzu and
enjoyed great popularity in Taoist circles.
Trí Đức: Trí và
đức—Intellectual and virtue—Merit (potency) of perfect knowledge.
Trí Giả:
(I) Nghĩa
của Trí Giả—The meaning of Knower:
1) Người
trí: Knower—Wise man.
2) Trí
Giả hay Trí Khải: Trí Giả hay Trí Khải, người sáng lập tông phái Thiên
Thai bên Trung Quốc—Chih-Che or Chih-K’ai, founder of the T’ien-T’ai sect
in China—See Trí Khải, and Thiên Thai Ngũ Thời Bát Giáo.
(II) Những
lời Phật dạy về Trí Giả trong Kinh Pháp Cú—The Buddha’s teachings on “the
wise” in the Dharmapada Sutra:
1. Nếu
gặp được người hiền trí thường chỉ bày lầm lỗi và khiển trách mình những
chỗ bất toàn, hãy nên kết thân cùng họ và xem như bậâc trí thức đã chỉ kho
tàng bảo vật. Kết thân với người trí thì lành mà không dữ—Should you see
an intelligent man who points out faults and blames what is blame-worthy,
you should associate with such a wise person. It should be better, not
worse for you to associate such a person (Dharmapada 76).
2.
Những người hay khuyên răn dạy dỗ, cản ngăn tội lỗi kẻ khác, được người
lành kính yêu bao nhiêu thì bị người dữ ghét bỏ bấy nhiêu—Those who
advise, teach or dissuade one from evil-doing, will be beloved and
admired by the good, but they will be hated by the bad (Dharmapada 77).
3. Chớ
nên làm bạn với người ác, chớ nên làm bạn với người kém hèn, hãy nên làm
bạn với người lành, với người chí khí cao thượng—Do not associate or make
friends with evil friends; do not associate with mean men. Associate with
good friends; associate with noble men (Dharmapada 78).
4. Được
uống nước Chánh pháp thì tâm thanh tịnh an lạc, nên người trí thường vui
mừng, ưa nghe Thánh nhơn thuyết pháp—Those who drink the Dharma, live in
happiness with a pacified mind; the wise man ever rejoices in the Dharma
expounded by the sages (Dharmapada 79).
5.
Người tưới nước lo dẫn nước, thợ làm cung tên lo uốn cung tên, thợ mộc lo
nẩy mực đo cây, còn người trí thì lo tự điều phục lấy mình—Irrigators
guide the water to where they want, fletchers bend the arrows, carpenters
control their timber, and the wise control or master themselves
(Dharmapada 80).
6. Như
ngọn núi kiên cố, chẳng bao giờ bị gió lay, cũng như thế, những lời hủy
báng hoặc tán dương chẳng bao giời làm lay động người đại trí—As a solid
rock is not shaken by the wind; likewise, the wise are not moved by praise
or blame (Dharmapada 81).
7. Như
nước hồ sâu, vừa yên lặng trong sạch, những người có trí tuệ sau khi nghe
pháp, tâm họ cũng thanh tịnh và yên lặng—Water in a deep lake is clear
and still; similarly, on hearing the Buddha teachings, the wise become
extremely serene and peaceful (Dharmapada 82).
8.
Người lành thường xa lìa mà không bàn đến những điều tham dục. Kẻ trí đã
xa lìa niệm lự mừng lo, nên chẳng còn bị lay động vì khổ lạc—Good people
give up all attachments, they don’t talk about sensual craving. The wise
show neither elation nor depression; therefore, they are not affected by
happiness or sorrow (Dharmapada 83).
9.
Không vị tình thiên hạ, cũng không vị tình một người nào, người trí không
làm bất cứ điều gì sai quấy: không nên cầu con trai, sự giàu có, vương
quốc bằng việc sai quấy; không nên cầu mong thành công của mình bằng những
phương tiện bất chánh. Được vậy mới thật là người đạo đức, trí tuệ và ngay
thẳng—Neither for the sake of oneself, nor for the sake of another, a wise
man does nothing wrong; he desires not son, wealth, or kingdom by doing
wrong; he seeks his own success not by unjust means, then he is good, wise
and righteous (Dharmapada 84).
10. Trong
nhân loại chỉ có một ít người đạt đến bến bờ kia, còn bao nhiêu người khác
thì đang bồi hồi vơ vẩn tại bờ nầy—Few are among men who crosses and
reaches the other shore; the rest of mankind only run about the bank
(Dharmapada 85).
11. Những
người nào hay thuyết pháp, hay theo Chánh pháp tu hành, thì được đạt tới
bờ kia, thoát khỏi cảnh giới tà ma khó thoát—Those who preach and act
according to the teachings, are those who are crossing the realm of
passions which is so hard to cross, and those who will reach the other
shore (Dharmapada 86).
12. Người
trí hãy nên rời bỏ hắc pháp (ác pháp) mà tu tập bạch pháp (thiện pháp), xa
gia đình nhỏ hẹp, xuất gia sống độc thân theo pháp tắc Sa-môn—A wise man
should abandon the way of woeful states and follows the bright way. He
should go from his home to the homeless state and live in accordance with
the rules for Sramanas (Dharmapada 87).
13. Người
trí phải gột sạch những điều cấu uế trong tâm, hãy cầu cái vui Chánh pháp,
xa lìa ngũ dục mà chứng Niết bàn—A wise man should purge himself from all
the impurities of the mind, give up sensual pleasures, and seek great
delight in Nirvana (Dharmapada 88).
14. Người
nào thường chính tâm tu tập các phép giác chi, xa lìa tánh cố chấp, rời bỏ
tâm nhiễm ái, diệt hết mọi phiền não để trở nên sáng suốt, thì sẽ giải
thoát và chứng đắc Niết bàn ngay trong đời hiện tại—Those whose minds are
well-trained and well-perfected in the seven factors of enlightenment, who
give up of grasping, abandon defiled minds, and eradicate all afflictions.
They are shinning ones and have completely liberated and attained Nirvana
even in this world (Dharmapada 89).
Trí Giáo: Toàn Giáo—Complete or
perfect teaching.
Trí Giới: Trí giới là lý trí
tương đối, đối lại với lý giới—The realm of knowledge, in contrast with
that of fundamental principles of law (Lý giới).
Trí Hải: Tên của Hòa Thượng Trí
Hải, người đã đôn đốc trùng tu chùa Quốc Ân vào năm 1805 với sự đóng góp
300 lạng bạc của Công Chúa Long Thành, chị vua Gia Long—Name of Most
Venerable Trí Hải who supervised the reconstruction of Quốc Ân temple in
1805 through the contribution of Princess Long Thành, an elder sister of
king Gia Long, who offered 300 ounces of silver.
Trí Hạnh Của Bậc Giác Ngộ: The
knowledge of the enlightened.
Trí Hạnh Như Lai: The knowledge
of Tathagata.
Trí Hỏa: Ngọn lửa trí tuệ có
công năng đốt cháy khổ đau phiền não—The fire of wisdom which burns up
misery.
Trí Hoàng: Thiền sư Trí
Hoàng—Zen master Chih-Huang—Theo Thiền sư D.T. Suzuki trong Thiền Luận,
Tập I, Thiền sư Trí Hoàng, chuyên học ngồi thiền với Ngũ Tổ. Sau hai mươi
năm ngồi tịnh trong am, ông tự coi như được chánh định. Học trò của Huệ
Năng là Huyền Sách nghe tiếng đồn bèn tìm đến thảo am, hỏi: “Ông ngồi làm
gì đây?” Trí Hoàng đáp: “Nhập định.” Huyền Sách hỏi: “Ông nói ông nhập
định, vậy ông hữu tâm mà nhập? Hay vô tâm mà nhập? Nếu là vô tâm thì tất
cả thế giới vô tình như cỏ cây ngói gạch đều có thể nhập định hết thảy.
Bằng hữu tâm mà nhập thì mọi giống hữu tình, hàm linh có ý thức, đều cũng
định được.” Trí Hoàng nói: “Trong khi tôi nhập định thì không biết là hữu
tâm hoặc vô tâm.” Huyền Sách lại nói: “Nếu ông không biết là hữu tâm hoặc
vô tâm thì lúc nào cũng là định, sao còn gọi là ‘xuất nhập.’ Nếu có xuất
nhập thì chẳng phải là đại định.” Trí Hoàng không đáp, lát sau hỏi: “Thầy
của ông là ai?” Huyền Sách nói: “Thầy tôi là Lục Tổ ở Tào Khê.” Trí Hoàng
lại hỏi: “Lục Tổ dạy thế nào về Thiền định?” Huyền Sách thưa: “Thầy tôi
nói rằng Thiền vốn lặng im mà huyền diệu (diệu trạm), vắng lặng mà tròn
đầy (viên tịch), thể và dụng đều như như, chẳng xuất chẳng nhập, chẳng
định chẳng loạn. Thiền tánh không có chỗ trụ, chớ trụ ở chỗ vắng lặng của
Thiền. Thiền tánh chẳng sanh, chớ đâm nghĩ về sự sanh diêt của Thiền. Tâm
như hư không, nhưng đừng có suy lường về hư không.” Trí Hoàng nghe vậy bèn
đến yết kiến Tổ Huệ Năng. Tổ hỏi: “Ông là ai?” Trí Hoàng trình hết mọi
việc. Tổ nói: “Đúng như lời của Huyền Sách nói, ông cứ để tâm ông tự nhiên
như hư không, mà vẫn không một kiến giải nào về cái không ấy, thì tâm sẽ
ứng dụng tự do, không vướng mắc, dầu làm gì, động hay tịnh, vẫn là vô tâm,
và đó là lúc phàm hay Thánh đều quên hết, năng (chủ) và sở (khách) đều dứt
trọn, tánh và tướng đều như như, tức là không lúc nào chẳng là định
vậy.”—According to Zen master D.T. Suzuki in the Essays in Buddhism, Book
I, Chih-Huang was an adept in meditation, which he studied under the fifth
patriarch. After twenty years of meditation he thought he well understood
the purport of meditation or samadhi. Hsuan-Ts’e, learning his attainment,
visited him, and said: “What are you doing there?” Chih-Huang said: “I am
entering into a samadhi.” Hsuan-Ts’e said: “You speak of entering, but how
do you enter into samadhi with a thoughtful mind or with a thoughtless
mind? If you say with a thoughtless mind, all non-sentient beings such as
plants or bricks could attain samadhi. If you say with a thoughtful mind,
all sentient beings could attain it.” Chih-Huang said: “When I enter into
samadhi, I am not conscious of either being thoughtful or being
thoughtless.” Hsuan-Ts’e said: “If you are conscious of neither, you are
right in samadhi all the time; why you then talk at all of entering into
it or coming out of it? If, however, there is realy entering or coming
out, it is not Great Samadhi.” Chih-Huang did not know how to answer.
After a while he asked who was Hsuan-Ts’e’s teacher and what was his
understanding of samadhi. Hsuen-Ts’e said: “Hui-Neng is my teacher, and
according to him, the ultimate truth lies mystically serene and perfectly
quiet; substance and function are not to be separated, they are of one
Suchness. The five skandhas are empty in their nature, and the six
sense-objects have no reality. The truth knows of neither entering nor
going out, neither being tranquil nor disturbed. Dhyana in essence has no
fixed abode. Without ataching yourself to an abode, be serene in dhyana.
Dhyana essence is birthless; without attaching yourself to the thought of
birth and death, thinking in dhyana. Have your mind like unto space and
yet have no thought of space.” Thus learning the sixth patriarch’s view on
samadhi or dhyana, Chih-Huang came to the master himself and asked to be
further enlightened. The patriarch said: “What Hsuan-Ts’e told you is
true. Have your mind like unto space and entertain in it no thought of
emptiness. Then the truth will have its full activity unimpeded. Every
movement of yours will come out of an innocent heart, and the ignorant and
the wise will have an equal treatment in your hands. Subject and object
will lose their distinction, and essence and appearance will be of one
suchness. When a world of absolute oneness is thus realized, you have
attained to eternal samadhi.”
Trí Hoặc: Trí tuệ và sự nghi
hoặc—Wisdom and delusion.
Trí Húc Đại Sư: Theo Hòa Thượng
Thích Thiền Tâm trong Liên Tông Thập Tam Tổ, Trí Húc Đại Sư tự là Ngẫu
Ích, người đời nhà Thanh, con của họ Chung, quê ở Ngô Huyện. Thân phụ ngài
thọ trì chú Đại Bi và Bạch Y, mộng thấy Đức Quán Thế Âm trao cho một đứa
bé, sau đó mới sanh ra ngài. Thuở niên thiếu ngài theo Nho học, đã từng
viết sách bài báng đạo Phật. Sau nhân xem được bộ sách “Trúc Song Tùy Bút
Lục” của Liên Trì Đại Sư (Tổ thứ 8 của Tịnh Độ Trung Hoa), liền tỉnh ngộ,
đốt bỏ cuốn sách của mình đã viết đi. Năm hai mươi tuổi, ngài học Kinh Địa
Tạng Bổn Nguyện, nhờ đó mà phát ý xuất trần, mỗi ngày hằng luôn niệm Phật.
Niên hiệu Thiên Khải năm đầu, ngài được 24 tuổi, sau khi nghe một Pháp Sư
giảng kinh bỗng phát nghi tình, dụng công tham cứu. Ít lâu sau, được tỏ
ngộ, liền đóng cửa nhập thất ở Ngô Giang. Thời kỳ ấy ngài đau nặng, mới
quyết chí niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Sau khi bệnh vừa dứt, ngài liền kiết
đàn trì chú vãng sanh một thất, đốt ba liều hương nơi cánh tay, thệ nguyện
phát lòng Bồ Đề, cầu sanh Cực Lạc để mau chứng tròn đạo quả, sớm độ chúng
sanh. Về sau Đại sư từng trụ trì các nơi như Ôn Lăng, Chương Châu, Thạch
Thành, Thánh Khê, Trường Thủy, Tân An, rộng truyền giáo pháp Thiên Thai và
môn niệm Phật. Thời bấy giờ, những nhà tu thiền ở các nơi, phần đông đều
cho rằng pháp môn Tịnh Độ là quyền giáo, cho nên mỗi khi gặp người niệm
Phật thì dạy họ nên tham cứu quán tưởng. Riêng đại sư lại nhận định ra
pháp “Trì Danh Niệm Phật” chính là môn “Tâm Tông Viên Đốn.” Có ông Trác Tả
Xa là một cư sĩ tu Thiền, từng đem những huyền lý bên Thiền gạn hỏi Tịnh
Độ, ngài đều trả lời một cách thích đáng cả. Sau đó đại sư về ẩn tu ở núi
Linh Phong. Bình thường, đại sư thường khai thị rằng pháp môn Niệm Phật
không có chi lạ kỳ đặc biệt cả, chỉ có một yếu điểm quan trọng duy nhất là
Tín Hạnh Nguyện (see Tín Hạnh Nguyện,Nhị Trì, and Tam Tụ Tịnh Giới). Vào
cuối mùa Đông năm Thuận Trị thứ 11, đại sư cảm chút bệnh nhẹ. Ngài di chúc
lại mọi việc và dặn dò các đệ tử rằng: “Sau khi ta thị tịch, các ngươi làm
lễ trà tỳ xong rồi phải tán xương cho nhuyễn, trộn chung với bột, hòa
thành viên, đem chia thí cho các loài cá chim, để kết duyên Tịnh Độ với
chúng. Sang đầu năm, vào ngày 21 tháng giêng, đại sư dậy sớm, sắc diện
tươi khỏe như người không bệnh. Đến đúng ngọ, ngài ngồi thẳng trên giường
mà thị tịch, thọ được 57 tuổi—According to Most Venerable Thích Thiền Tâm
in The Thirteen Patriarchs of Pureland Buddhism, Great Venerable Master
Chu-Rut’s self-given name was Ou-I. He was born to the Chung Family from
Wu-Hsien region. He lived during the T’ang Dynasty. His father had often
practiced reciting the Great Compassionate and Pure White Robe mantras. In
a dream, his father saw Avalokitesvara Bodhisattva handing him a young
child. Thereafter, the Great Master was born. During his youth, he was a
student of Consucianism and wrote books derading Buddhism. After he read
the series “Trúc Song Tùy Bút Lục” written by Great Master Liên-Ch’ih
(Eighth Pureland Patriarch), he was awakened immediately and burned the
books he had written before. When he was twenty years old, he began
studying the “Great Vows of Ksitigarbha Sutra” and as a result he
developed the intention of abandoning the secular life to join the order,
and he practiced Buddha Recitation throughout each day. In the first year
of T’ien-Ksi reign period, he was twenty-four years old. After he heard a
Dharma Master teaching and explaining the Sutra, he suddenly began to have
doubts and immediately investigated and researched more Buddhist teachings
to find answers for his skepticism. Not long after, he was awakened, he
immediately went into retreat in the Wu-Jiang region. During this period,
he was quite ill and became determined to practice Buddha Recitation
praying to gain rebirth in the Pureland. As soon as he was cured, he went
into a retreat for one week to practice reciting the Gaining Rebirth
Mantra. He then burned three incenses into his arm vowing to cultivate for
the Bodhi Mind, praying to gain rebirth to the Ultimate Bliss World to
attain quickly the Ultimate Enlightenment and be able to help save
sentient beings as soon as possible. He became abbot of various temples
including On-Lang, Shing-Chou, Su-Sheng, Hsing-Ksi, Ch’ang-Tsuy, and
Hsing-An, as he taught widely the teachings of T’ien-T’ai Zen and Buddha
Recitation or Pureland Buddhism. During this period, the majority of those
cultivating Zen assumed the Pureland Dharma Door to be a dependent
doctrine. Therefore, each time meeting cultivators who practiced Buddha
Recitation, Zen practitioners would tell them to examine and investigate
the word “Contemplation.” Only the Great Master accepted the Dharma
practice of “Reciting the Buddha’s Name” as the path of “Ultimate
Perfection.” A lay Buddhist who practiced Zen during that time, named
Trác-Tả-Xa. He often borrowed the marvelous and magnificent Zen theories
to ask the Great Master about Pureland teachings; each time, the Great
Master answered those questions most satisfactorily. Thereafter, the Great
Master retired to the Ling-Feng Mountain. Regularly, he often taught:
“There isn’t anything extraordinary or unusual about Buddha Recitation, it
has only these important points “Deep Faith, Sincere Vow, and Diligent
Practice.” (see Tín Hạnh Nguyện, and Nhị Trì). At the end of the winter of
the eleventh year of Thuận-Trị reign period, the Great Master had a minor
illness. He resigned from all his positions and responsibilities and
instructed his disciples: “After I pass away and following my cremation,
mix my ashes with flour and roll them into little balls, and then divided
them up to make donations to different kinds of birds and fish, in order
to establish and form Pureland connections for them. In the beginning of
the year of the 21th of January, the Great Master woke up early, appearing
full of vitality like a healthy person. At noon time, he sat in the lotus
position on his bed, facing the West, put his palms together, reciting
Buddha’s name to pass away. He was 57 years old.
**For more information,
please see Tín Hạnh Nguyện, Nhị Trì, and Tam Tụ Tịnh Giới.
Trí Huệ: Jnana (skt)—Wisdom—See
Trí Tuệ.
Trí Huệ Ba La Mật:
Prajna-paramita (skt)—Wisdom-paramita.
1) See
Bát Nhã.
2) Trí
huệ Ba la mật là cửa ngõ đi vào hào quang chư pháp, vì nhờ đó mà chúng ta
đoạn trừ tận gốc rễ bóng tối của si mê. Trong các phiền não căn bản thì si
mê là thứ phiên não có gốc rễ mạnh nhất. Một khi gốc rễ của si mê bị bật
tung thì các loại phiền não khác như tham, sân, chấp trước, mạn, nghi, tà
kiến, đều dễ bị bật gốc. Nhờ có trí huệ Ba La Mật mà chúng ta có khả năng
dạy dỗ và hướng dẫn những chúng sanh si mê. Để đạt được trí huệ Ba La Mật,
hành giả phải nỗ lực quán chiếu về các sự thực vô thường, vô ngã, và nhân
duyên của vạn hữu. Một phen đào được gốc vô minh, không những hành giả tự
giải thoát tự thân, mà còn có thể giáo hóa và hướng dẫn cho những chúng
sanh si mê khiến họ thoát ra khỏi vòng kềm tỏa của sanh tử—The
prajna-paramita is a gate of Dharma-illumination; for with it, we
eradicate the darkness of ignorance. Among the basic desires and passions,
ignorance has the deepest roots. When these roots are loosened, all other
desires and passions, greed, anger, attachment, arrogance, doubt, and
wrong views are also uprooted. In order to obtain wisdom-paramita,
practitioner must make a great effort to meditate on the truths of
impermanence, no-self, and the dependent origination of all things. Once
the roots of ignorance are severed, we can not only liberate ourselves,
but also teach and guide fooloish beings to break through the imprisonment
of birth and death.
3) For
more information, please see Lục Độ Ba La Mật, and Trí Tuệ in
Vietnamese- English Section.
Trí Huệ Bát Nhã:
Prajna-paramita (skt)—Transcendental knowledge—See Trí Huệ Ba La Mật.
Trí Huệ Hải: Trí tuệ của Như
Lai sâu rộng giống như biển—Buddha-wisdom deep and wide as the ocean.
Trí Huệ Không Cấu Chướng:
Unfettered knowledge.
Trí Huệ Kiếm: The sword of
wisdom.
Trí Huệ Kiện Toàn: Perfect
knowledge.
Trí Huệ Lực: Wisdom—Insight.
Trí Huệ Môn: Cửa ngõ đi vào trí
tuệ hay quyền trí là cửa vào thực trí—The gate of Buddha-wisdom which
leads to all truth.
** For more information,
please see Nhị Trí Viên Mãn.
Trí Huệ Nhật: Jnana bhaskara
(The sun of knowledge.
Trí Huệ Nhị Biên: Dualistic
wisdom.
Trí Huệ Phật:
Tathata-jnanabuddha (skt)—Buddha-wisdom—Great wisdom.
Trí Huệ Quán: Một trong ngũ
quán của Đức Quán Thế Âm, dùng trí tuệ chân thực để quán sát lý thực
tướng—One of the five types of meditation of Kuan-Shi-Yin, insight into
reality.
** For more information,
please see Ngũ Quán (3).
Trí Huệ Quang Minh: Wisdom or
mental light.
Trí Huệ Quang Phật: Tên gọi tắt
của Đức Phật A Di Đà (vì Đức Phật nầy có đủ trí huệ quang minh)—Wisdom
Light Buddha, an abbreviated name for Amitabha Buddha.
** For more information,
Please see A Di Đà.
Trí Huệ Qui Ước: Conventional
wisdom.
Trí Huệ Thù Thắng: Parama-panna
(p)—Parama-prajna (skt)—Transcendental wisdom—Highest wisdom.
Trí Huệ Thủy: Trí huệ thủy có
công năng gột rửa tất cả những uế trược của dục vọng—The water of wisdom,
which washes away the filth of passion.
Trí Huệ Tối Hậu: Ultimate
wisdom.
Trí Hữu Sư: Văn Tư Tu—Knowledge
or wisdom that comes from listening to the dharma, reflection and
cultivation.
Trí Khải: Trí Khải , còn gọi là
Trí Giả hay Thiên Thai Đại Sư. Tên thật của ông là Trần Đức An, sanh năm
538 và thị tịch năm 597 sau Tây Lịch. Quê ông ở Dĩnh Xuyên thuộc An Hội,
làm tiểu năm 7 tuổi, và thọ cụ túc giới năm 20 tuổi. Thoạt tiên ông làm đệ
tử ngài Huệ Tư, và được dạy riêng về pháp tu quán của Kinh Pháp Hoa. Đến
năm 575, tức vào khoảng tuổi 38, ông cùng đệ tử đến núi Thiên Thai và
sáng lập ra tông phái Thiên Thai nổi tiếng, giáo thuyết của tông phái nầy
dựa trên Kinh Pháp Hoa. Tại đây ông gặp một kỳ túc, Định Quang, đã đến đây
khoảng 40 năm về trước. Vị nầy tiếp nhận Trí Khải và dạy cho ông tất cả
những ngành học thuật của Phật giáo. Trí Khải cư ngụ trên núi nầy suốt
chín năm và thiết lập ở đây một đại Tăng viện gọi là Quốc Thanh Tự. Ông
thường được tôn hiệu là Thiên Thai Đại Sư. Tùy Dạng Đế, bấy giờ làm Tổng
Quản đất Dương Châu, phong cho đại sư tước hiệu là Trí Giả. Bởi sự nổi bật
về nhân cách và sự thâm trầm về sở học của mình, ông đạt địa vị cao nhất
trong tất cả những học giả Phật giáo Trung Hoa đương thời. Về khả năng tổ
chức học thuyết Phật giáo và dạy dỗ những người học Phật, chưa ai sánh
ngang bằng ông nổi. Sự kiện toàn của tông Thiên Thai là do ở ông, và vì
vậy ông được xưng tụng như là tổ thứ nhất của tông nầy, dù thực sự ông chỉ
là vị Tổ thứ tư trong thể hệ giáo học của học thuyết Thiên Thai. Về sau,
Truyền Đăng Lục gán cho ngài Trí Khải dưới danh mục “Thiền môn đạt giả tuy
bất xuất thế, hữu danh ư thời giả” nghĩa là những người đã đạt ngộ ở cửa
Thiền tuy chẳng xuất thế nhưng có danh tiếng đương thời. Các môn đồ phái
Thiên Thai phản đối việc nầy, nhưng theo Thiền sư D.T. Suzuki trong Thiền
Luận, Tập I, thì quan niệm của Truyền Đăng Lục là hợp lý, vì lẽ nếu bỏ
phần huyền đàm luận diệu thì tông Thiên Thai là một dòng khác của đạo
Thiền, một dòng phát triển độc lập với Thiền của Tổ Sư Đạt Ma, nhưng nếu
khéo phát huy một cách thực tiễn hơn chắc chắn sẽ qui thúc ở Thiền như
dưới hình thức hiện có. Rất tiếc, khía cạnh huyền học được khai thác một
cách quá đáng, lấn qua phần thực tiễn nên các đạo sĩ Thiên Thai luôn luôn
gây chiến với Thiền, nhất là với cánh Thiền cực tả thường cương quyết tố
cáo cố tật của các ngài thích hý luận biện giải theo từ chương, hay khảo
kinh điển. Tuy nhiên, dầu sao Thiên Thai cũng là một biến thể của Thiền,
và chư Tổ khai sáng ra tông ấy có thể xứng đáng xếp vào hàng Thiền sư, mặc
dầu các ngài không cùng pháp hệ với Thạch Đầu, Dược Sơn, Mã Tổ, và Lâm Tế,
vân vân—Chih-I, founder of the T’ien-T’ai school. His real name was
Ch’ên-Te-An. He was born around 538 A.D. and died around 597 A.D. at sixty
years of age. He was a native of Ying-Ch’uan in An-Hui, became a neophyte
at seven, was fully ordained at 20. At first, he was a follower of
Hui-Su,and received special instruction in the meditation of the Lotus. In
575, at the age of 38, he and his pupils went to the T’ien-T’ai mountain
in Chekiang, where he founded his famous school on the Lotus Sutra as
containing the complete gospel of the Buddha. Here he found an old
scholar, Ting-Kuang who had come there some forty years ago. He welcomed
Chi-I and gave instructions in all branches of Buddhist learning. Chih-I
lived on the mountain for nine years and built the great monastery called
Kuo-Ch’ing. He was greatly honored by the name ‘Great Master of
T’ien-T’ai.’ The Emperor Sui Yang-Ti, who was then the Governor-General of
Yang-Chou, gave him the title of ‘Chih-Chê,’ a Man of Great Wisdom. As
regard the superiority of his personal character and the depth of his
learning, he stands high above all the rest of the Buddhist scholars of
China. In his power of orgainzation of Buddhist doctrine of training of
Buddhist students, no one will ever measure up to him. The final
completion of the T’ien-T’ai School is due to him, and, therefore, he is
honoredas the first patriarch of the school, though he was actually the
fourth patriarch in the lineage of learning of the T’ien-T’ai doctrine.
Later, the Transmissions of the Lamp mentioned him as “Adepts in Zen but
not appearing in the world, though well-known at the time.” This applies
to some monk who does not occupy any recognized position in an officially
registered monastery. The T’ien-T’ai followers object to see their Father
Chi-I mentioned in the Transmissions of the Lamp as “Adepts in Zen but not
appearing in the world, though well-known at the time.” But according to
Zen master D.T. Suzuki in the Essays in Zen Buddhism, Book I, the point of
view from the Transmissions of the Lamp is justifiable for the reason that
the T’ien-T’ai except its metaphysics, is another current of Zen started
independently of the line of Bodhidharma, and if this were allowed to take
a more practical course of development it should surely have resulted in
Zen as we have it now. But its metaphysical side came to be emphasized at
the expense of the practical, and for this reason the T’ien-T’ai
philosophers were ever at war with the Zen, especially with the ultra-left
wing, which was inflexible in denouncing an appeal to ratiocination and
literary discoursing and sutra-learning. T’ien-T’ai is a variation of Zen
and its first promulgators may justly be classed as Zen masters, though
not of the pedigree to which belong Shih-T’ou, Yueh-Shan, Ma-Tsu, and
Lin-Chi, etc.
Trí Khôn: Intelligence.
Trí Kiếm: Trí huệ Kiếm—Lưỡi
kiếm trí huệ. Trí tuệ thanh tịnh, có khả năng cắt đứt dục vọng phiền não
và dứt tuyệt sinh tử—The sword of wisdom, which cuts away passion and
severs the link of transmigration.
Trí Kính: The mirror of wisdom.
Trí Lực:
1) Trí
Tuệ và Thần Lực: Knowledge and supernatural power.
2) Năng
lực của trí tuệ: Power of knowledge.
3) Hành
giả (tu thiền) có đủ năng lực xử
dụng mật trí: The
efficient use of mystic
knowledge.
Trí Lý: Nguyên tắc toàn hảo hay
luật căn bản—The utmost principle, the fundamental law.
Trí Mẫu: Giác Mẫu hay bà mẹ
sanh ra trí tuệ—Wisdom-mother—The mother of knowledge.
Trí Mệnh: To risk (venture)
one’s life.
Trí Môn: Trí huệ Phật hay con
đường dẫn đến giác ngộ Bồ Đề (bao gồm tất cả các đức tự lợi)—Wisdom gate,
or Buddha-wisdom, or the way of enlightenment.
** For more information,
please see Nhị Môn (D).
Trí Môn Quang Tộ Thiền Sư: Zen
master Kuang-Zuo-Zhi-Men—See Quang Tộ Trí Môn Thiền Sư.
Trí Na: Cina (skt)—Trung
Hoa—China.
Trí Na Bộc Để: Cinapati (skt).
1) Vị
chúa từ Trung Hoa được nói đến trong Tây Vực Ký: Lord from China, said in
the Record of Western Lands to have been appointed by the Han rulers.
2) Theo
Eitel trong Trung Anh Phật Học Từ Điển, Cinapati là một vương quốc nhỏ nằm
về phía tây bắc của Ấn Độ (gần Lahore bây giờ) mà dân chúng của vương quốc
nầy đoan chắc rằng những vị vua đầu tiên của họ đến từ Trung Quốc:
According to Eitel in the Dictionary of Chinese Buddhist Terms: A small
kingdom northwest of India (near Lahore) the inhabitants of which asserted
that their first kings had come from China.
Trí Não: Brain.
Trí Năng: Intellect.
Trí Năng Sâu Sắc: Intellectual
discernment.
Trí Ngại: Sở Tri Chướng hay
phiền não làm trở ngại trong việc đạt thành trí huệ Phật (vô minh làm trở
ngại giác ngộ Bồ Đề)—Obstacles to attaining Buddha-wisdom (Original
ignorance—Căn bản vô minh).
Trí Nghiễm: Vị Tổ thứ tư của
trường phái Hoa Nghiêm, vào khoảng từ năm 600 đến 668 sau Tây Lịch dưới
đời nhà Đường—Fourth patriarch of the Hua-Yen school around 600-668 A.D.
during the T’ang dynasty.
Trí Ngôn: Toàn ngữ hay những
lời giải thích hoàn toàn—Perfect words, words of complete explanation.
Trí Nguyệt: Jnanacandra (skt).
1) Trí
tuệ sáng như ánh trăng: Knowledge bright as the moon.
2) Trí
Nguyệt là tên của một vị thái tử người xuất gia trở thành một nhà sư vào
khoảng năm 625 sau Tây Lịch: Jnanacandra, name of a prince of Karashahr
who became a monk around 625 A.D.
Trí Nhàn Hương Nghiêm Thiền Sư:
Zen Master Zhi-Xian—See Hương Nghiêm Thiền Sư.
Trí Nhãn:
1) Mắt
trí tuệ (không phải mắt thịt): The eye of wisdom, not the flesh eye.
2) Trí
là mắt nhìn để đạt tới chân lý: Wisdom as an eye to attain the truth.
Trí Nhân:
1) Người
có trí hay người hoàn toàn: A perfect man.
2) Phật
Thích Ca Mâu Ni: Sakyamuni Buddha.
Trí Nhớ: Mind—Memory.
Trí Nhớ Không Linh Mẫn: Failing
memory.
Trí Nhơn Trí Quả: Wisdom now
produces wisdom fruit hereafter.
Trí Pháp Thân: Cái trí như như
rốt ráo của thủy giác—The Dharmakaya as wisdom, kinetic or active.
** For more information,
please see Nhị Pháp Thân.
Trí Phân Biệt: Jnana
(skt)—Analytical knowledge.
Trí Quả: Trí quả hay giác ngộ
Bồ Đề (loại diệu quả sinh ra do tu hành ở nhân địa)—The fruit of
knowledge, or enlightenment.
Trí Quang: Jnanaprabha (skt).
1) Ánh
sáng trí tuệ (trí tuệ có thể phá tan hôn ám): Having the light of
knowledge.
2) Tên
của một đệ tử của Luật Sư Giới Hiền. Theo Giáo sư Bapat trong Hai Ngàn Năm
Trăm Năm Phật Giáo, vào giữa thế kỷ thứ chín, hoàng tử Tây Tạng là Ni Ma
Gon đi về phía tây và xây dựng một vương quốc mới, một trong những người
con trai của ông đã trở thành tu sĩ Phật giáo và mang tên là Trí Quang.
Vào thời của Trí Quang, Mật tông đã thôn tính hết mọi tôn giáo ở Ấn Độ.
Mặc dù thế, bản thân Trí Quang không bị Mật tông thu hút. Trái lại, ông
còn viết một cuốn sách chống lại phái nầy. Các tu sĩ Mật tông Tây Tạng cho
rằng vị hoàng thân nầy phải xuống địa ngục vì tội viết cuốn sách phỉ báng
nầy. Trí Quang là con trai cả của vua Guge (Shenshung) và đã trở thành một
Tỳ Kheo. Ông đọc nhiều bộ kinh, theo chủ nghĩa duy lý và thừa kế của ông
cha một sự sùng mộ sâu xa đối với đạo Phật. Tuy nhiên, ông nhận thấy rằng
chống lại cái xấu là một nhiệm vụ rất lớn lao, những nỗ lực đơn độc của
ông sẽ không kham nổi. Do đó, ông chọn lấy 21 thanh niên Tây Tạng thông
minh, cho học ở trong nước mười năm, rồi gửi đến Kashmir để học lên cao
hơn. Thế nhưng không một người nào trong bọn họ chịu nổi khí hậu khắc
nghiệt của Kashmir và tất cả đều đã bỏ mạng, ngoại trừ Ratnabhadra
(Rin-Chhen-Zang-Po) và Suprajna (Legs-Pahi-Shes-Rab). Ratnabhadra được xem
là một dịch giả vĩ đại nhất của Tây Tạng. Khi ông kết thúc việc học trở về
thì Trí Quang rất vui mừng, nhưng công việc mà ông đang làm quả là vượt
quá sức của một người. Ông đi đến kết luận là do các du học sinh từ Tây
Tạng gửi đi không chịu nổi khí hậu khắc nghiệt của Ấn Độ, nên có một số
học giả từ Ấn Độ đến Tây Tạng làm việc thì có hiệu quả hơn. Ông bèn cử một
phái đoàn sang Ấn Độ để mời A Để Sa qua Tây Tạng. Nhưng phái đoàn nầy đã
thất bại vì họ không thuyết phục nổi vị luận sư nầy đến Tây Tạng. Trí
Quang không phải là người dễ nản lòng. Ông quyết định cử một phái đoàn
khác nhưng tiền đã hết, nên ông đến tỉnh Gartog để thu góp vàng. Đây có lẽ
là một nơi có mỏ vàng, nằm ở vùng phía bắc hồ Manasarovar. Theo lời kể lại
thì vua xứ nầy đã bắt giữ ông và đòi một số tiền chuộc lớn. Khi con trai
ông là Bodhiprabha (Byang-Chub-Od) hay tin cha mình bị bắt, ông đã gom
được một số tiền tưởng là đủ để giải thoát cho cha, song số tiền đó bị xem
là chưa đủ. Trước khi quay trở về lấy thêm tiền, ông đến thăm cha trong
tù, và Trí Quang đã bảo con: “Con đã biết là ta đã già yếu rồi. Nếu không
chết bây giờ thì có lẽ cũng chỉ trong mươi năm nữa thôi. Vậy nếu con phung
phí tiền bạc vì ta thì chúng ta không thể nào mời được một học giả từ Ấn
Độ qua đây. Thật đẹp đẽ biết bao nếu ta được chết vì một mục đích cao cả
và con dùng toàn bộ số vàng kia để cử người đi Ấn Độ rước một học giả về!
Hơn thế nữa, không chắc gì vị vua nầy sẽ thả ta về sau khi nhận đủ số tiền
đòi hỏi. Vì thế, con ơi, thay vì lo lắng cho ta, con hãy cử một sứ giả đến
gặp ngài A Để Sa. Ta đảm bảo rằng ông ta sẽ đồng ý đến Tây Tạng, nhất là
khi được biết về hoàn cảnh hiện nay của ta, vì ông ấy sẽ đoái thương chúng
ta. Nếu vì một lý do gì mà ông ấy không đến được thì hãy mời một học giả
khác đã từng làm việc dưới ông ta.” Thế rồi Trí Quang đặt tay lên vai con
mình, cầu chúc khi hai cha con chia tay nhau lần cuối. Sau lần ấy,
Bodhiprabha lo tìm một sứ giả là ưu bà tắc Gun-Than-Pa đi Ấn Độ, đảm đang
trách nhiệm mà cha đã giao phó. Sau khi nghe kể lại về cái chết bi thảm
của Trí Quang, vị tu sĩ hoàng gia, ngài rất cảm động và nói: “Chắc chắn là
ngài Trí Quang sẽ trở thành một Bồ Tát, một Đức Phật sẽ thành, vì ông ấy
đã hy sinh bản thân cho Chánh Pháp. Ta sẽ đáp lại nguyện vọng của ông ấy,
nhưng các ngươi phải thấy là ta đang gánh trên vai ta trách nhiệm đối với
108 đền chùa. Hơn nữa, ta còn có nhiều việc khác phải lo. Phải mất 18
tháng ta mới rời bỏ được công việc nầy. Chỉ đến khi đó ta mới có thể đi
Tây Tạng được. Còn bây giờ thì các ngươi cứ giữ lấy số vàng nầy.”
Ratnakarasanti, tu viện trưởng, bất đắc dĩ phải để cho A Để Sa ra đi.
Trong thời gian ở lại Tây Tạng, trên 30 năm, A Để Sa đã dịch nhiều sách và
viết một tác phẩm nổi tiếng của ông tựa đề “Bồ Đề Đạo Đăng Luận.” Bản dịch
ra tiếng Tây Tạng của cuốn sách nầy hiện vẫn còn. Sau nầy, Ratnabhadra,
được Trí Quang đưa đi Ấn du học ngày trước, trở thành một đệ tử trung
thành và giúp ngài A Để Sa dịch nhiều bộ sách quan trọng: Name of a
disciple of Silabhadra. According to Prof. Bapat in the Twenty-Five
Hundred Years of Buddhism, in the middle of the ninth century A.D., the
Tibetan Prince Ni-Ma-Gon moved to the west and founded a new kingdom. One
of his son became a monk named Trí Quang (Jnanaprabha). By Jnanaprabha’s
time, Tantrism had devoured all the religions of India. In spite of this,
Jnanprabha himself was not attracted to Trantism. On the contrary, he
wrote a book against it. The Tantrics of Tibet believed that the royal
ascetic went to hell for writing this book. Jnanaprabha was the eldest son
of the king of Guge (Shenshung) and had become a monk. He had read the
scriptures, was a rationalist, and had inherited from his forefathers a
great faith in Buddhism. He realized, however, that the task of combating
the evils of Tantrism was so stupendous that his single-handed efforts
would not suffice. He therefore selected 21 intelligent Tibetan youths,
educated them for for ten years in the country, and then sent them to
Kashmir for higher studies. None of these, however, could stand the
rigours of the climate in Kashmir, and all of them died except Ratnabhadra
(Rin-Chhen-Zang-Po) and Suprajna (Legs-Pahi-Shes-Rab). Ratnabhadra is
considered to be the greatest translator in Tibet. When he returned at the
end of his studies, Jnanaprabha was very delighted, but the work of reform
for which he had striven so hard was too difficult for just one
individual. He came to a conclusion that since the students from Tibet
found it very difficult to stand the climate of India, it would be better
if some scholars were to come from India and work in Tibet. He decided to
send a mission to go to India to invite Dipanakara to Tibet. The mission
failed, however, for the party could not prevail upon the master to
undertake a journey to Tibet. Jnanaprabha was not one to be daunted by
failure. He decided to send another party, but funds were lacking, so he
went to the Gartog Province to collect gold. This probably refers to a
place named Gartog, which was situated to the north of the Manasarovar
lake and had a gold mine. It is recorded that the king of Gartog put him
under arrest and held him up for a big ransom. When the news of
Jnanaprabha’s arrest reached his son, Bodhiprabha (Byang-Chub-Od), he
thought that he had collected enough money to effect his release. The
amount, however, proved inadequate, but before he could go back to obtain
more money, he went to see his father in prison. Jnanaprabha said to his
son: “My son! You know I am grown old. Even if I do not die immediately, I
am likely to do so within the next ten years. So if you squander money on
me, we shall not be able to send for a scholar from India. How splendid it
would be if I were to die for the sake of the great cause and you could
send all the gold to India to fetch the scholar! Moreover, it is not
certain that the king will release me even after he has received the
stipulated amount of gold. So, my son, instead of worrying about me, you
had better send an emissary to Atisa. I am sure he will agree to come to
Tibet, especially when he hears about my present plight, for he will take
pity on us. If for some reason he cannot come, then you should send for
some other scholar who has worked under him.” Thus Jnanaprabha put his
hand on his son and blessed him as he took leave of him for the last time.
After the last meeting with his father, Bodhiprabha sent Upasaka
Gun-Than-Po who had lived in India for two years to go to India to invite
Atisa Dipankara. After Dipankara was told about Jnanaprabha’s tragic story
(the death of the royal ascetic), he was very moved and said: “There is no
doubt that Jnanaprabha was a Bodhisattva, the Buddha to be, because he had
sacrificed himself for the Dharma. I will fulfill his desire, but you must
realize that the heavy responsibility for 108 temples rests on my
shoulders. I have to be relieved of these duties. Then only shall I be
able to go to Tibet. In the meantime, you must keep this gold.” Dipankara
informed Ratnakarasanti, the Chief Abbot of the Mahavihara, about his
intentions. Ratnakarasanti was first reluctant to let him go, but
eventually he allowed Dipankara to go to Tibet. When he stayed in Tibet,
more than thirty years, Atisa translated many books and wrote his famous
work titled “Bodhipatha-pradipa.” The Tibetan translation of this book is
still extant. Later, the great master Ratnabhadra, who had been sent by
Jnanaprabha to Kashmir, became Atisa’s staunchest devotees and assisted
him in translating many important books.
Trí Quang Minh: See Trí Huệ
Quang minh.
Trí Sa: Tisya (skt)—Đế Sa.
1) Một
vị cổ Phật: An ancient Buddha.
2) Cha
của ngài Xá Lợi Phất: The father of Sariputra.
Trí Siêu Việt: Prajan
(skt)—Transcendental knowledge.
Trí Sơn: Trí tuệ cao tuyệt như
núi—The mountain of knowledge—Knowledge exalted as a mountain.
Trí Tác Vi: Trí tác vi là trí
làm chướng ngại cho sự thành tựu giác ngộ trong nhà Thiền—Intellection is
knowledge that obstructs enlightenment in Zen.
Trí Tam Muội: Samaya wisdom—The
characteristic of a Buddha’s or Bodhisattva’s wisdom.
Trí Tạng:
1) Trí
tuệ quảng đại của Phật, bao hàm hết thảy chư pháp—The treasury of
Buddha-wisdom.
2) Tên
húy của Ngài Bất Không Tam Tạng: The posthumous title of Amogha—See Bất
Không Tam Tạng.
Trí Tạng Tây Đường Thiền Sư:
Zen master Zhi-T’sang-Hsi-T’ang—Thiền sư Trí Tạng Tây Đường sanh năm 735
tại Kiền Hóa, là đệ tử của Mã Tổ Đạo Nhất—Zen master Zhi-T’sang-Hsi-T’ang
was born in 735 in Qian-Hua, was a disciple of Ma-Tsu-T’ao-Yi.
·
Một hôm Mã Tổ sai sư đến Trường An dâng thơ cho Quốc Sư Huệ
Trung. Quốc Sư hỏi: “Thầy ngươi nói pháp gì?” Sư từ bên Đông sang bên Tây
đứng. Quốc sư hỏi: “Chỉ cái ấy hay còn cái gì khác?” Sư trở lại bên Đông
đứng. Quốc sư bảo: “Cái đó là của Mã Sư, còn ngươi thế nào?” Sư thưa: “Đã
trình tương tợ với Hòa Thượng.”—One day Ma-Tsu dispatched Zhi-T’sang to
Chang-An to deliver a letter to the National Teacher Nan-Yang-Hui-Zhong.
The national Teacher asked him: “What Dharma does your teacher convey to
people?” Zhi-T’sang walked from the east side to the west side and stood
there. The National teacher said: “Is that all?” Zhi-T’sang then walked
from the west side to the east side. The National Teacher said: “This is
Ma-Tsu’s way. What do you do?” Zhi-T’sang said: “I showed it to you
already.”
·
Một lần, Mã Tổ hỏi sư: “Sao con chẳng xem kinh?” Sư thưa:
“Kinh đâu có khác.” Mã Tổ nói: “Tuy nhiên như thế, con về sau vì người cần
phải xem.” Sư thưa: “Con bệnh cần phải trị dưỡng, đâu dám nói vì người.”
Mã Tổ bảo: “Con lúc lớn tuổi sẽ làm Phật pháp hưng thạnh ở đời.”—One day
Ma-Tsu asked Zhe-T’sang: “Why don’t you read sutras?” Zhi-T’sang said:
“Aren’t they all the same?” Ma-Tsu said: “Although that’s true, still you
should do so for the sake of people whom you will teach later on.”
Zhi-T’sang said: “I think Zhi-T’sang must cure his own illness. Then he
can talk to others.” Ma-Tsu said: “Late in your life, you’ll be known
throughout the world.” Zhi-T’sang bowed.
·
Khi sư đã trụ trì Tây Đường, một cư sĩ hỏi sư: “Có thiên
đường, địa ngục chăng?” Sư đáp: “Có.” Vị cư sĩ lại hỏi: “Có Phật, Pháp,
Tăng, Tam Bảo chăng?” Sư đáp: “Có.” Người ấy hỏi nhiều vấn đề nữa, sư đều
đáp ‘có.’ Người ấy thưa: “Hòa Thượng nói thế e lầm chăng?” Trí Tạng hỏi:
“Khi ông hỏi các vị tôn túc khác thì họ nói gì?” Vị cư sĩ đáp: “Con đã hỏi
Hòa Thượng Cảnh Sơn.” Sư hỏi: “Hòa Thượng Cảnh Sơn nói với ông thế nào?”
Vị cư sĩ đáp: “Ngài nói tất cả đều không.” Sư hỏi vị cư sĩ: “Ông có vợ con
gì không?” Vị ấy đáp: “Có.” Sư hỏi tiếp: “Hòa Thượng Cảnh Sơn có vợ
chăng?” Vị ấy đáp: “Không.” Sư nói: “Như vậy Hòa Thượng Cảnh Sơn nói
không là phải.” Người ấy lễ tạ lui ra—After Zhi-T’sang became an abbot of
the Western Hall (in Chinese, Hsi-T’ang), a lay person asked him: “Is
there a heaven and hell?” Zhi-T’sang said: “There is.” The lay person then
asked: “Is there really a Buddha, Dharma, and Sangha, the three Jewels?”
Zhi-T’sang said: “There are.” The lay person then asked several other
questions, and to each Zhi-T’sang answered, “There are.” The lay person
said: “Is the Master sure there’s no mistake about this?” Zhi-T’sang said:
“When you visited other teachers, what did they say?” The lay person said:
“I once visited Master Jing-Shan.” Zhi-T’sang said: “What did Jing-Shan
say to you?” The lay person said: “He said that there wasn’t a single
thing.” Zhi-T’sang said: “Do you have a wife and children?” The lay person
said: “Yes.” Zhi-T’sang said: “Does Master Jing-Shan have a wife and
children?” The lay person said: “No.” Zhi-T’sang said: “Then it’s okay for
Jing-Shan to say there isn’t a single thing.” The lay person bowed,
thanked Zhi-T’sang, and then went away.
·
Thiền sư Trí Tạng thị tịch năm 814, được vua ban hiệu “Đại
Tuyên Giáo Thiền Sư.”—Zen master Zhi-T’sang died in 814. He received the
posthumous title “Zen Master Great Expounder of the Teaching.”
Trí Tâm: Tâm có trí tuệ hay một
người khôn ngoan với một cái tâm toàn hảo—The mind of knowledge; a wise
man, with the utmost or a perfect mind.
Trí Tập: Mái chèo trí tuệ, có
công năng đưa chúng sanh vượt qua biển sanh tử để đến niết bàn—Oar of
wisdom, that rows across to nirvana.
Trí Tha Tâm Thông: The
Intuitive knowledge of the minds of all other beings.
** For more information,
please see Tha Tâm Trí, Lục Thông, Ten Kinds of Wisdom, and Tứ Thập
Bát nguyện.
Trí Thành: Thành lũy của mật
trí hay Phật quả—The city of mystic wisdom, Buddhahood.
Trí Thân: Prajnakaya (skt)—Trí
tuệ viên minh được coi như là pháp thân của Phật, đây là một trong mười
thân Phật—Wisdom-body, the Tathagata, one of the ten bodies of a Thus Come
One.
** For more information,
please see Thập Thân Phật.
Trí Thiền Sư: Zen Master
Trí—Thiền sư Việt Nam, quê ở Phong Châu, Bắc Việt. Ngài là dòng dõi của
vua Lê Đại Hành. Ông nội ngài là Lê Thuận Tông, là một quan chức lớn của
triều Lý. Ngài thi đậu Tiến Sĩ và được bổ làm Cung Hầu Thư Gia trong
triều. Năm 27 tuổi, ngài xuất gia làm đệ tử của Thiền sư Giới Không. Sau
khi trở thành pháp tử đời thứ 16 của dòng Thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi, ngài đi
đến núi Từ Sơn và trụ trong rừng sâu để tu tập khổ hạnh và thiền định
trong sáu năm liền. Sau đó ngài xuống chân núi cất am Phù Môn giảng pháp
cho đến khi ngài thị tịch. Cả hai ông Tô Hiến Thành và Ngô Hòa Nghĩa dều
là đệ tử tại gia của ngài—A Vietnamese zen master from Phong Châu, North
Vietnam. He was a descendant of King Lê Đại Hành. His grandfather named Lê
Thuận Tông, a high official in the royal court during the Lý Dynasty. He
passed the Doctorate Degree in Philosophy and was assigned as a royal
official with the rank of “Cung Hầu Thư Gia.” At the age of 27, he left
home and became a disciple of Zen master Giới Không. After becoming the
dharma heir of the sixteenth generation of the Vinitaruci Zen Sect, he
went to Mount Từ Sơn and stayed in the deep jungle to practice ascetics
and meditation for six years. Then he went to the mountain foot to build a
small temple named Phù Môn and stayed there to preach Buddha Dharma until
he passed away. It should be noted that both Tô Hiến Thành and Ngô Hòa
Nghĩa were his lay disciples.
Trí Thông Minh: Intelligence.
Trí Thủ: Tay biết việc hay tay
phải—The knowing hand or the right hand.
Trí Thức:
·
Trí thức: Intellectual—Knowledge—Learning—Acquaintance.
·
Trí và Thức: Jnana and Vijnana (skt)—Trí là sự vô chấp, còn
thức là bị ràng buộc vào một thế giới bên ngoài của các đặc thù—Jnana is
non-attachment, whereas vijnana is attached to an external world of
particulars.
Trí Thường Qui Tông Thiền Sư:
Thiền sư Trí Thường Qui Tông quê ở Giang Linh (nay thuộc tỉnh Hồ Bắc), là
đệ tử của Thiền Sư Mã Tổ Đạo Nhất—Zen master Zhi-Chang-Kui-Zong was from
Jiang-Ling (now in Hu-bei Province), was a disciple of Zen master
Ma-Tsu-T’ao-Yi.
·
Một hôm sư thượng đường dạy chúng: “Các bậc cổ đức từ trước
không phải chẳng hiểu biết, các ngài là bậc cao thượng chẳng đồng hạng
thường. Người thời nay không thể tự thành tự lập, để tháng ngày qua suông.
Các ngươi chớ lầm dụng tâm, không ai thế được ngươi, cũng không có chỗ
ngươi dụng tâm. Chớ đến người khác tìm, từ trước chỉ nương người khác mà
tìm hiểu, nói ra đều kẹt, ánh sáng không thấy suốt, chỉ vì trước mắt có
vật.”—Master Zhi-Chang Kui-Shan entered the hall and addressed the monks,
saying: “The virtuous of former times were not without knowledge and
understanding. Those great adepts were not of the common stream. People
these days are unable to be self-empowered, nor can they stand alone. They
just idly pass the time. All of you here, don’t make the error of
employing your mind. No one can do it for you. Moreover, there is no place
where mind can be used. Don’t be seeking it somewhere else. Up to now you
have been acting in accordance with someone else’s understanding. Your own
speech is completely obstructed. The light does not shine through. There
are obstructions blocking your vision.”
·
Có vị Tăng hỏi sư: “Thế nào là huyền chỉ?” Sư đáp: “Không
người hay hội.” Vị Tăng lại hỏi: “Người hướng về thì sao?” Sư nói: “Có
hướng tức trái.” Vị Tăng lại hỏi: “Người chẳng hướng thì sao?”Sư đáp: “Đi!
Không có chỗ cho ngươi dụng tâm.” Vị Tăng hỏi: “Đâu không có cửa phương
tiện khiến học nhơn được vào?” Sư đáp: “Quan Âm sức diệu trí hay cứu khổ
thế gian.” Vị Tăng lại hỏi: “Thế nào là sức diệu trí Quan Âm?” Sư gõ cái
đỉnh ba tiếng, hỏi: “Ngươi nghe chăng?” Vị Tăng đáp: “Nghe.” Sư nói: “Sao
ta chẳng nghe?” Vị Tăng không đáp được. Sư cầm gậy đuổi ra—A monk asked
Zen master Zhi-Chang: “What is the essential mystery?” Zhi-Chang said: “No
one can understand it.” The monk said: “How about those who seek it?”
Zhi-Chang said: “Those who seek it miss it completely.” The monk asked:
“How about those who don’t seek it?” Zhi-Chang said: “Go! There’s no place
for you to use your mind.” The monk said: “Then, is there no expedient
gate through which you can help me to enter?” Zhi-Chang said: “Kuan-Yin’s
sublime wisdom can save the world from suffering.” The monk said: “What is
Kuan-Yin’s sublime wisdom?” The master struck the top of the incense urn
three times with his staff and said: “Did you hear that or not?” The monk
said: “I heard it.” Zhi-Chang said: “Why didn’t I hear it?” The monk was
silent. The master then took his staff and got down from the seat.
·
Sư thượng đường dạy chúng: “Nay tôi muốn nói thiền, các
ngươi tất cả lại gần đây.” Đại chúng tiến đến gần. Sư bảo: “Các ngươi
nghe, hạnh Quan Âm khéo hiện các nơi chốn.” Vị Tăng hỏi: “Thế nào là hạnh
Quan Âm?” Sư khảy móng tay, hỏi: “”Các ngươi có nghe chăng?” Đại chúng
đáp: “Nghe.” Sư nói: “Một bọn hướng trong ấy tìm cái gì?” Sư cầm gậy đuổi
ra, rồi cười lớn, đoạn đi vào phương trượng—Zhi-Chang entered the hall and
addressed the monks, saying: “I want to speak about Zen. All of you gather
around.” The monks gathered closely around Zhi-Chang. Zhi-Chang said:
“Listen to Bodhisattva Kuan-Yin’s practice. Its goodness extends
everywhere.” Someone asked: “What is Kuan-Yin’s practice?” Zhi-Chang
pointed with his finger and said: “Do you still hear it?” The monk said:
“We hear it.” Zhi-Chang said: “What is this pack of fools looking for?” He
took his staff and chased the monks out of the hall. With a big laugh he
went back to the abbot’s quarters.
·
Một vị Tăng đến từ biệt sư. Sư hỏi: “Đi đâu?” Vị Tăng đáp:
“Đi các nơi học ngũ vị thiền.” Sư nói: “Các nơi có ngũ vị thiền, ta trong
ấy chỉ có nhất vị thiền.” Vị Tăng hỏi: “Thế nào là nhất vị thiền?” Sư liền
đánh. Vị Tăng bỗng nhiên đại ngộ, thưa: “Ngưng, con biết rồi.” Sư nói:
“Nói! Nói!” Vị Tăng ngập ngừng trả lời. Sư lại đánh đuổi ra—A monk was
leaving the monastery. Zhi-Chang asked him: “Where are you going?” The
monk said: “I’m going everywhere to study the five flavors of Zen.”
Zhi-Chang said: “Everywhere else has five Zen flavors. Here I only have
one-flavored Zen.” The monk said: “What is one-flavored Zen?” Zhi-Chang
hit him. The monk said: “I understand! I understand!” Zhi-Chang said:
“Speak! Speak!” The monk hesitated. Zhi-Chang hit him again. The monk
later went to Huang-Bo and told him about this previous exchange with
Zhi-Chang. Huang-Bo entered the hall and addressed the monks, saying:
“Great Teacher Ma brought forth eighty-four people. But if some worthy
asks them a question every one of them just wets his pants. Only Zhi-Chang
is up to snuff!”
·
Thích sử Giang Châu là Lý Bột đến hỏi sư: “trong kinh nói:
‘Hạt cải để trong núi Tu Di,’ Bột không nghi. Lại nói: ‘Núi Tu Di để trong
hạt cải,’ phải là dối chăng?” Sư gạn lại: “Người ta đồn Sử quân đọc hết
muôn quyển sách phải chăng?” Thích Sử đáp: “Đúng vậy.” Sư nói: “Rờ từ đầu
đến chân bằng cây dừa lớn, muôn quyển sách để chỗ nào?” Lý Bột cúi đầu
lặng thinh—Governor Li-Bo of Jiang-Chou said to Zhi-Chang: “In the
scripture it says that a mustard seed fits inside Mount Sumeru. This I
don’t doubt. But it also says that Mount Sumeru fits inside a mustard
seed. I’m afraid this is just foolish talk.” Zhe-Chang said: “I’ve heard
that Your Excellency has read thousands of scriptures. Is this so or not?”
The governor said: “Yes, it is true.” Zhe-Chang said: “From top to bottom
your head is about the size of a coconut. Where did all those scriptures
go?” The governor could only bow his head in deference.
·
Sau khi sư thị tịch, sư được vua ban hiệu “Chí Chơn Thiền
Sư”—After his death, he received the posthumous title “Zen Master Arrive
at Truth.”
Trí Tích: Jnanakara (skt).
1) Sự
tích tụ trí huệ: Accumulation of knowledge.
2) Một
vị Bồ Tát được nói đến trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Là con trưởng của
Đại Thông Trí Thắng Như Lai. Trí Tích là quyến thuộc của Đức Đa Bảo Như
Lai: A Bodhisattva mentioned in the Wonder Lotus Sutra (Aksobhya
Prajnakuta). The eldest son of Mahabhijna. He is in the retinue of
Prabhutratna.
Trí Tịnh: Jnana-pavana
(skt)—Purifying knowledge.
Trí Tịnh Tướng:
1) Trí
Tuệ và sự thanh tịnh: Wisdom and purity.
2) Trí
thanh tịnh: Pure-wisdom aspect—Pure wisdom.
Trí Trí: Nhất Thiết Trí của Đức
Phật—Wisdom of wisdom.
** For more information,
please see Ngũ Trí.
Trí Túc: Một trong nhị túc, trí
túc là Ba La Mật thứ sáu trong lục Ba La Mật—One of the two feet, the foot
of wisdom consisting of the sixth paramita in the six paramitas—See Lục Độ
Ba La Mật (6).
Trí Tuệ: Jnana and Prajna
(skt).
(A) Nghĩa
của Trí Tuệ—The meanings of wisdom:
1) Sự
hiểu biết về vạn hữu và thực chứng chân lý—Knowledge of things and
realization of truth.
a) Trí:
Jnana (skt)—Sự hiểu biết về vạn hữu—Knowledge of things.
b) Tuệ:
Prajna (skt)—Thực chứng chân lý—The realization of truth—Trí tuệ dựa vào
chánh kiến và chánh tư duy: Wisdom is based on right understanding and
right thought.
(B) Phân
loại Trí—Categories of wisdom:
a) Hai
loại trí tuệ—There are two kinds:
1) Quyền
đạo trí: Partial, temporary, or relative knowledge of reality.
2) Bát
Nhã trí: Prajna wisdom—The absolute truth or reality instead of the
seeming.
** For more information,
please see Nhị Trí.
b) Nhị
Trí Viên Mãn: Two kinds of Perfect and Complete Tathagata-wisdom—See Nhị
Trí Viên Mãn.
c) Tam
Trí: Three kinds of wisdom—See Tam Trí.
d) Tứ
Trí: Four kinds of wisdom—See Tứ Trí.
e) Ngũ
Trí: Five kinds of wisdom—See Ngũ Trí.
Trí Tuệ Bát Nhã:
Prajna-paramita (skt)—Transcendental knowledge—See Trí Huệ Ba La Mật.
Trí Tuệ Kim Cang Bồ Tát:
Prajna-bodhisattva (skt)—See Bát Nhã Bồ Tát.
Trí Tuệ Lực: Wisdom—Insight.
Trí Tuệ Nông Cạn: The
two-finger (narrow) wisdom.
Trí Tuệ Phương Tiện: Prajnopaya
(skt)—Knowledge and means.
Trí Tuệ Quang Phật: See Trí Huệ
Quang Phật.
Trí Tuệ Tâm Linh: Spiritual
wisdom (insight).
Trí Tuệ Thế Gian: Temporal
wisdom.
Trí Tuệ Tối Thượng: The supreme
wisdom—To be full of wisdom.
Trí Tuệ Xuất Thế Gian:
Supernatural wisdom.
Trí Tương Đối: Paratantra
(skt)—Y tha khởi tính, duyên khởi tướng—The knowledge of relativity.
Trí Tướng: Hào quang hay ánh
sáng trí tuệ chiếu tỏa từ mặt Phật (tướng mạo trí tuệ của Phật hiển hiện
ra bên ngoài)—Human intelligence—Wise appearance—The wisdom-light shining
from the Buddha’s face.
Trí Tướng Tôn Giả: Nhị Tổ của
tông Hoa Nghiêm—The second patriarch of the Hua-Yen sect.
Trí Tượng:
1) Trí
Tuệ hay Bát Nhã giống như một con voi: Prajna or wisdom likened to an
elephant.
2) Danh
hiệu của Phật: A title of Budha.
3) Tên
của một vị sư Ấn Độ: Name of an Indian monk.
4) Tên
khác của Kinh Niết Bàn: Another name for Nirvana Sutra.
5) Tên
khác của Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa: Another name for the Prajna-Paramita
Sutra.
Trí Uyển Chuyển: Flexible
wisdom.
Trí Vô Ngôn: Nonverbal
knowledge.
Trí Vô Sư: Giới Định
Huệ—Teacherless knowledge—Knowledge that comes from practicing the
precepts, concentration and wisdom.
Trí Xảo: Cunning—Clever.
Trì: Dhara or Dhr (skt)—To
pull—To lay hold of—To grasp—To keep—To control—To maintain.
Trì Anh Lạc: Maladhari (skt)—
1) Đeo
chuỗi Anh Lạc: Wearing a chaplet.
2) Tên
của một loài nữ quỷ: Name of a raksasi, or demoness.
Trì Bát Thiền Sư: Zen Master
Trì Bát (1049-1117)—Thiền sư Việt Nam, quê ở Luy Lâu. Ngài thích Phật giáo
từ khi còn nhỏ. Lúc 20 tuổi, ngài xuất gia và trở thành đệ tử , và thọ
giới cụ túc với Thiền sư Sùng Phạm tại chùa Pháp Vân. Ngài trở thành Pháp
tử đời thứ 12 dòng Thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sau khi Thầy thị tịch, ngài trở
thành du Tăng khất sĩ để tầm cầu chân lý. Về sau, ngài trụ tại chùa Tổ
Phong trên núi Thạch Thất. Lý Thường Kiệt là một trong những đệ tử tại gia
nổi tiếng của ngài. Hầu hết cuộc đời ngài, ngài chấn hưng và hoằng hóa
Phật giáo tại Bắc Việt. Ngài thị tịch năm 1117—A Vietnamese Zen master
from Luy Lâu, North Vietnam. He favored Buddhism when he was very young.
At the age of 20, he left home, became a disciple and received complete
precepts with Zen Master Sùng Phạm at Pháp Vân Temple. He became the
Dharma heir of the Vinitaruci Zen Sect. After the latter’s death, he
became a wandering monk in search of the truth. Later, he stayed at Tổ
Phong Temple on Mount Thạch Thất. Lý Thường Kiệt was one of his most
outstanding lay disciples. He spent most of his life to revive and expand
Buddhism in North Vietnam. He passed away in 1117.
Trì Biên Sơn: Nemimdhara
(skt)—Tiếng Phạn gọi là Ni Dân Đà La, tức bảy núi Kim Sơn Trì bao quanh
núi Tu Di—The outermost of the seven mountain circles around Mount Meru.
Trì Bổn:
1) Gìn
giữ căn bản: Holding to the root or fundamental.
2) Địa
Thần, chuyên chở vạn sự vạn vật: Ruler of the earth, which is the root and
source of all things.
Trì Chấp Kim Cang: Vajradhara
or Vajrapani (skt).
1) Còn
gọi là Trì Kim Cang, là vị Bồ Tát tỏ rõ trí lực không gì phá nổi của Kim
Cang Bộ Bồ Tát. Ngài thường cầm cây chùy kim cương loại một chẻ, hoặc ba,
hoặc năm chẻ—A Bodhisattva who holds a vajra or thunderbolt, of these
there are several different kinds, based on numbers of prongs on their
thunderbolt (one, three, or five).
2) Tên
của vua Trời Đế Thích: Name for Indra.
Trì Chí: Patient.
Trì Chú: To chant Mantras or
Dharanis, chanting of mantras.
Trì Cú Thần Chú: Người trì chú
Đà La Ni—One who holds or retains the words of the dharani.
Trì Danh: Thụ trì và niệm tưởng
danh hiệu của Đức Phật A Di Đà (người niệm Phật gọi là trì danh hành giả.
Trì danh là nắm giữ danh hiệu Phật trong tâm trí mình)—Oral recitation
method—“Holding the name” method—To hold on or rely on the name of
Amitabha.
Trì Danh Ký Thập: Niệm Phật đếm
từ một đến mười lần—Decimal recording recitation.
Trì Danh Lễ Bái: Vừa niệm vừa
lạy—“Bowing to the Buddha” recitation.
Trì Danh Liên Hoa: Vừa niệm vừa
quán tưởng hoa sen—“Lotus blossom” recitation.
Trì Danh Phản Văn: Vừa niệm vừa
nghe—“Reflecting the name” recitation.
Trì Danh Sổ Châu: Vừa niệm vừa
lần chuỗi—“Counting rosary beads” recitation.
Trì Danh Tùy Tức: Niệm Phật
nương theo hơi thở—“Breath by breath” recitation.
Trì Địa: Dharanimdhara
(skt)—Tên của một vị Bồ tát người được Phật thọ ký là tương lai của Ngài
Quán Âm—Holder or ruler of the earth or land—Name of a bodhisattva, whom
the Buddha predicted as the future of Avalokitesvara.
Trì Địa Trụ: Trụ thứ nhì trong
Thập Trụ—The second ground of the ten grounds—See Thập Trụ (2).
Trì Độn: Slow and stupid—Dull.
Trì Giới: Giữ giới có hai
loại---Morality—To uphold the precepts—To practice morality—To keep the
commandments or rules—To observe commandments—There are two kinds:
1) Chỉ
trì: Tránh làm các việc ác—Prohibitive or restraining from evils.
2) Tác
trì: Làm các việc thiện—Constructive or constraining to goodness.
**For more information,
please see Lục Độ Ba La Mật (2) in Vietnamese-English Section.
Trì Giới Ba La Mật:
Sila-paramita (skt)—Giữ tròn giới luật, một trong lục Ba la mật—Trì giới
Ba la mật còn là cửa ngõ đi vào hào quang chư pháp, vì nhờ đó mà chúng ta
xa lìa thế giới nhiễm trược, và cũng nhờ đó mà chúng ta có thể hướng dẫn
những chúng sanh hay buông lung phá giới—Precept paramita—Morality
paramita—keeping the moral law—One of the six paramita—The Sila-paramita
is a gate of Dharma-illumination; for with it, we distantly depart from
the hardships of evil worlds, and we teach and guide precept-breaking
living beings.
** For more
information, please see Lục Độ Ba La Mật in Vietnamese-English Section.
Trì Giới Phạm Hạnh:
Brahma-carya (skt)—To remain unmarried and to keep commandments.
Trì Giữ Thiện Pháp: Observance
of good law (good method—good ways) or the moral rule of the Universe.
Trì Hoãn: To retard—To
linger—To delay.
Trì Kim Cang: See Trì Chấp Kim
Cang.
Trì Luật: Giữ gìn giới luật—A
keeper or observer of the discipline.
Trì Minh: Tên khác của Đà La
Ni, hay Chân Ngôn—The dharani-illuminant, i.e. the effective “true words”
or magical term.
Trì Minh Tạng:
Vidyadhara-pitaka (skt)—Pháp Tạng Trì Minh hay tất cả kinh điển của Chân
Ngôn Đà La Ni—The canon of the dharanis.
Trì Minh Tiên: Vị Tiên tụng trì
Đà La Ni để thành tựu thần thông—The magician who possesses the
dharani-illuminant.
Trì Nghi: To doubt—To suspect.
Trì Ngưu Giới: Những người trì
giữ giới của loài trâu bò, có một loại ngoại đạo tin rằng để tạo nhân sinh
vào cõi trời thì phải hành trì ngưu giới, phải khổ hạnh như loài trâu,
phải nhắm mắt cúi đầu ăn cỏ và hành xử như trâu—Keepers of the law of
oxen, an ascetic sect who ate and acted like oxen.
Trì Niệm: Trì giữ chánh pháp
vào trong ký ức—To hold in memory.
Trì Phạm: Trì giữ và vi phạm
giới luật—Maintaining and transgressing.
1) Trì
giữ: Gìn giữ giới luật bằng hai cách—Keeping the commandments by two ways.
a) Chỉ
trì: Phép chỉ ác hay ngưng làm những việc ác, như trì giữ ngũ giới, cho
đến cụ túc giới—Ceasing to do wrong, i.e. maintaining the five basic
commandments, or 250 commandments.
b) Tác
trì: Các phép tác thiện, hay làm những điều đúng, như lễ bái, sám hối, và
sống đời phạm hạnh, vân vân—Doing what is right, e.g. worship, the
monastic life, etc.
2) Hủy
phạm: Hủy phạm có hai loại—Transgression is also of two kinds.
a) Tác
phạm: Manh động tam nghiệp để xúc phạm phép chỉ trì, hay tích cực làm điều
ác—Positive in doing evil.
b) Chỉ
phạm: Trễ nải tam nghiệp không tu thiện nghiệp tác trì, hay tiêu cực trong
thiện nghiệp—Negative in not doing good.
Trì Pháp Giả: Người trì giữ và
bảo hộ Phật pháp—A keeper or protector of the Buddha-law.
Trì Quốc Giả: Vị vua cai trị
trong một vương quốc—A sovereign, ruler of a kingdom.
Trì Quốc Thiên: Dhrtarastra
(skt)—See Trì Quốc Thiên Vương.
Trì Quốc Thiên Vương:
Dhrtarastra (skt)—Tên của Đông Phương Thiên Vương, một trong tứ thiên
vương, áo trắng, trấn giữ phía đông—One of the four deva-guardian or
maharajas, controlling or guarding the eastern quarter, of white color.
Trì Song Sơn: Yugamdhara
(skt)—Dãy núi đầu tiên trong bảy dãy núi bao quanh núi Tu Di—The first of
the seven concentric mountains around Mount Meru.
Trì Thế Bồ Tát: Bodhisattva
Ruler of the World—Theo Kinh Duy Ma Cật, trong thời Phật còn tại thế, lúc
cư sĩ Duy Ma Cật có bệnh, Đức Phật liền nhờ Trì Thế Bồ Tát đến thăm bệnh
cư sĩ—According to the Vimalakirti Sutra, once Upasaka Vimalakirti was
sick, the Buddha asked Bodhisattva Ruler of the World to call on
Vimalakirti to enquire his health.
·
Phật bảo Bồ Tát Trì Thế: “Ông đi đến thăm bệnh ông Duy Ma Cật dùm ta.”—The
Buddha then said to the Bodhisattva Ruler of the World: “You call on
Vimalakirti to enquire after his health on my behalf.”
·
Bồ
Tát Trì Thế bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Con không kham lãnh đến thăm bệnh
ông. Vì sao? Nhớ lại lúc trước, con ở nơi tịnh thất, bấy giờ Ma Ba Tuần
đem một muôn hai ngàn Thiên nữ giống như trời Đế Thích, trổi nhạc đờn ca
đi đến chỗ con ở, Ma cùng với quyến thuộc cúi đầu làm lễ dưới chân con,
chấp tay cung kính đứng sang một bên. Trong ý con cho là trời Đế Thích nên
bảo rằng: “Lành thay, mới đến Kiều Thi Ca! Dù là có phước chớ nên buông
lung. Ông nên quán ngũ dục là vô thường để cầu cội lành, ở nơi thân mạng,
tài sản mà tu Pháp bền chắc.”—Ruler of the Word replied: “World Honoured
One, I am not qualified to call on him and enquire after his health. I
still remember that once as I was staying in a vihara, a demon like Indra
appeared followed by twelve thousand goddesses (devakanya) playing music
and singing songs. After bowing their heads at my feet they brought their
palms together and stood at my side. I mistook the demon for Sakra and
said to him: ‘Welcome, Sakra, although you have won merits, you should
guard against passion (arising from music, song and sex). You should look
into the five desires (for the objects of the five senses) in your
practice of morality. You should look into the impermanence of body, life
and wealth in your quest of indestructible Dharma (i.e. boundless body,
endless life and inexhaustible spiritual wealth..’
·
Ma
vương nói với con: “Thưa Chánh sĩ! Xin ngài nhận một muôn hai ngàn Thiên
nữ nầy dùng để hầu hạ quét tước.” Con nói rằng: “Nầy Kiều Thi Ca! Ông đừng
cho vật phi pháp nầy, tôi là kẻ Sa Môn Thích tử, việc ấy không phải việc
của tôi.” Nói chưa dứt lời, bỗng ông Duy Ma Cật đến nói với con: “Đây
chẳng phải là Đế Thích, mà là Ma đến khuấy nhiễu ông đấy!” Ông lại bảo ma
rằng: “Các vị Thiên nữ nầy nên đem cho ta, như ta đây mới nên thọ.”—He
said: ‘Bodhisattva, please take these twelve thousand goddesses who will
serve you.’ I replied: ’Sakra, please do not make to a monk this unclean
offering which does not suit me.’ “Even before I had finished speaking,
Vimalakirti came and said: ‘He is not Sakra; he is a demon who comes to
disturb you.’ He then said to the demon: ‘You can give me these girls and
I will keep them.’
·
Ma
sợ hãi nghĩ rằng: “Có lẽ ông Duy Ma Cật đến khuấy rối ta chăng?” Ma muốn
ẩn hình mà không thể ẩn, rán hết thần lực, cũng không đi được. Liền nghe
giữa hư không có tiếng rằng: “Nầy Ba Tuần! Hãy đem Thiên nữ cho ông Duy Ma
Cật thì mới đi được. Ma vì sợ hãi, nên miễn cưởng cho—The demon was
frightened, and being afraid that Vimalakirti might give him trouble, he
tried to make himself invisible but failed, and in spite of his use of
supernatural powers he could not go away. Suddenly a voice was heard in
the air, saying: ‘Demon, give him the girls and then you can go.’ Being
scared, he gave the girls.’
·
Khi
ấy ông Duy Ma Cật bảo các Thiên nữ rằng: “Ma đã đem các ngươi cho ta rồi,
nay các ngươi đều phải phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Rồi ông
theo căn cơ của Thiên nữ mà nói Pháp để cho phát ý đạo, và bảo rằng ‘các
ngươi đã phát ý đạo, có Pháp vui để tự vui chớ nên vui theo ngũ dục nữa.’”
Thiên nữ hỏi: “Thế nào là Pháp vui?”—To Vimalakirti who said to them: ‘The
demon has given you to me. You can now develop a mind set on the quest of
supreme enlightenment.’ “Vimalakirti then expounded the Dharma to them
urging them to seek the truth. He declared: ‘You have now set your minds
on the quest for the truth and can experience joy in the Dharma instead of
in the five worldly pleasures (arising from the objects of the five
senses).’ “They asked him: ‘What is this joy in the Dharma?’
·
Ông
đáp: “Vui thường tin Phật; vui muốn nghe pháp; vui cúng dường Tăng; vui
lìa ngũ dục; vui quán ngũ ấm như oán tặc; vui quán thân tứ đại như rắn
độc; vui quán nội nhập (sáu căn) như không; vui gìn giữ đạo ý; vui lợi
ích chúng sanh; vui cung kính cúng dường bực sư trưởng; vui nhẫn nhục nhu
hòa; vui siêng nhóm căn lành; vui thiền định chẳng loạn; vui rời cấu nhiễm
đặng trí tuệ sáng suốt; vui mở rộng tâm Bồ Đề; vui hàng phục các ma; vui
đoạn phiền não; vui thanh tịnh cõi nước Phật; vui thành tựu các tướng tốt
mà tu các công đức; vui trang nghiêm đạo tràng; vui nghe pháp thâm diệu mà
không sợ; vui ba môn giải thoát mà không vui phi thời; vui gần bạn đồng
học; vui ở chung với người không phải đồng học mà lòng thương không chướng
ngại; vui giúp đỡ ác tri thức; vui gần thiện tri thức; vui tâm hoan hỷ
thanh tịnh; vui tu vô lượng Pháp đạo phẩm. Đó là Pháp vui của Bồ Tát—“He
replied: ‘Joy in having faith in the Buddha, joy in listening to the
Dharma, joy in making offerings to the Sangha, and joy in forsaking the
five worldly pleasures; joy in finding out that the five aggregates are
like deadly enemies, that the four elements (that make the body) are like
poisonous snakes, and that the sense organs and their objects are empty
like space; joy in following and upholding the truth; joy in being
beneficial to living beings; joy in revering and making offerings to your
masters; joy in spreading the practice of charity (dana); joy in firmly
keeping the rules of discipline (sila); joy in forbearance (ksanti); joy
in unflinching zeal (virya) to sow all excellent roots; joy in unperturbed
serenity (dhyana); joy in wiping out all defilement that screens clear
wisdom (prajna); joy in expanding the enlightened (bodhi) mind; joy in
overcoming all demons; joy in eradicating all troubles (klesa); joy in
purifying the Buddha land; joy in winning merits from excellent physical
marks; joy in embellishing the bodhimandala (the holy site); joy in
fearlessness to hear (and understand ) the profound Dharma; joy in the
three perfect doors to nirvana (i.e. voidness, formlessness and
inactivity) as contrasted with their incomplete counterparts (which still
cling to the notion of objective realization); joy of being with those
studying the same Dharma and joy in the freedom from hindrance when
amongst those who do not study it; joy to guide and convert evil men and
to be with men of good counsel; joy in thestat of purity and cleanness;
joy in the practice of countless conditions contributory to
enlightenment. All this is the Bodhisattva joy in the Dharma.’
·
Khi
ấy Ma Ba Tuần bảo các Thiên nữ rằng: “Ta muốn cùng các ngươi trở về Thiên
cung.”—At that time, the demon said to the girls: ‘I want you all to
return with me to our palace.’
·
Các
Thiên nữ đáp: “Ông đã đem chúng tôi cho cư sĩ, chúng tôi có pháp vui,
chúng tôi vui lắm, không còn muốn vui theo ngũ dục nữa.”—The girls
replied: ‘While we are here with the venerable upasaka, we delight in the
joy of the Dharma; we no longer want the five kinds of worldly pleasures.’
·
Ma
liền thưa với ông Duy Ma Cật rằng: “Xin ngài nên xả các Thiên nữ nầy;
người đem tất cả vật của mình để bố thí cho kẻ khác, đó mới là Bồ Tát—The
demon then said to Vimalakirti: ‘Will the upasaka give away all these
girls, as he who gives away everything to others is a Bodhisattva?’
·
Ông
Duy Ma Cật nói: “Ta đã xả rồi, ngươi hãy đem đi. Như thế ta đã làm cho tất
cả chúng sanh đặng phát nguyện đầy đủ.”—Vimalakirti said: ‘I now give up
all of them and you can take them away so that all living beings can
fulfill their vows to realize the Dharma.’
·
Lúc
ấy các Thiên nữ hỏi ông Duy Ma Cật rằng: “Chúng tôi làm thế nào ở nơi cung
ma?”—The girls then asked Vimalakirti: ‘What should we do while staying at
the demon’s palace?’
·
Ông
Duy Ma Cật đáp: “Này các chị, có Pháp môn tên là Vô Tận Đăng, các chị nên
học. Vô tận đăng là ví như một ngọn đèn mồi đốt trăm ngàn ngọn đèn, chỗ
tối đều sáng, sáng mãi không cùng tận. Như thế đó các chị! Vả lại một vị
Bồ Tát mở mang dẫn dắt trăm ngàn chúng sanh phát tâm Bồ Đề, đạo tâm của
mình cũng chẳng bị tiêu mất, tùy nói Pháp gì đều thêm lợi ích cho các Pháp
lành, đó gọi là Vô Tận Đăng. Các chị dầu ở cung ma mà dùng Pháp môn Vô Tận
Đăng nầy làm cho vô số Thiên nữ phát tâm Vô thượng Chánh Đẳng Chánh giác,
đó là báo ơn Phật, cũng là làm lợi ích cho tất cả chúng sanh.”—Vimalakirti
replied: ‘Sisters, there is a Dharma called the Inexhaustible Lamp
which you should study and practice. For instance, a lamp can (be
used to) light up hundreds and thousands of other lamps; darkness will
thus be bright and this brightness will be inexhaustible. So, sisters, a
Bodhisattva should guide and convert hundreds and thousands of living
beings so that they all develop the mind set on supreme enlightenment;
thus his deep thought (of enlightening others) is, likewise,
inexhaustible. His expounding of the Dharma will then increase in all
excellent Dharmas; this is called the Inexhaustible Lamp. Although you
will be staying at the demon’s palace you should use this Inexhaustible
Lamp to guide countless sons and daughters of devas to develop their minds
set on supreme enlightenment, in order to repay your debt of gratitude to
the Buddha, and also for the benefit of all living beings.’
·
Bấy
giờ các Thiên nữ cúi đầu đảnh lễ dưới chân ông Duy Ma Cật rồi theo Ma Ba
Tuần trở về Thiên cung, bỗng nhiên biến mất không còn thấy nữa—The devas ‘
daughters bowed their heads at Vimalakirti’s feet and followed the demon
to return to his palace; and all of a sudden they vanished.”
·
Bạch Thế Tôn! Ông Duy Ma Cật có thần lực tự tại và trí tuệ biện tài như
thế, nên con không kham lãnh đến thăm bệnh ông—World Honoured One, since
Vimalakirti possesses such supernatural power, wisdom and eloquence, I am
not qualified to call on him to enquire after his health.”
Trì Thủy: Jatimdhara (skt)—Một
vị lương y đã điều chỉnh toa thuốc và thức ăn trong các mùa cho bệnh nhân,
sau nầy tái sanh làm Tịnh Phạn Vương—A physician who adjusted
prescriptions and diet to the seasons; reborn as Suddhodana.
Trì Tố: Trì trai hay ăn chay và
không ăn sau giờ ngọ (từ 11 đến 1 giờ chiều)—To keep to vegetarian
diet—Vegetarian—To keep the fast, i.e. not to eat after noon.
Trì Trai: See Trì Tố.
Trì Trục Sơn: Isadhara
(skt)—Trì trục Sơn có tên tiếng Phạn là Y Sa Đà La Sơn, vòng núi thứ nhì
trong bảy vòng bao quanh núi Tu Di, có hình như trục bánh xe—The second of
the seven concentric mountains round Mount Meru, rounded like a hub.
Trì Tức Niệm: Một trong ngũ
đình tâm quán, quán hay kiểm soát hơi thở để định tâm—One of the five-fold
procedures for quieting the mind, the contemplation in which the breathing
is controlled—See Ngũ Đình Tâm Quán.
Trĩ: Chim trĩ (gà rừng)—A
pheasant—A parapet.
Trĩ Cứu Lâm Hỏa: Chim trĩ đang
bận rộn dập tắt lửa rừng, nên được thần lửa thương xót và cứu độ (ý nói
muốn được chư Phật thương xót cứu độ, thì trước hết tự mình phải cứu lấy
mình, phải tự mình dập tắt những ngọn lửa dục độc hại nơi chính mình trước
đã)—The pheasant which busied itself in putting out the forest on fire and
was pitied and saved by the fire-god.
Trị:
1) Giá
trị: Valued at—Worth.
2) Trị
Bệnh: To cure—To treat—To heal a disease.
3) Cai
Trị: To rule—To govern.
4) Trị
Tội: To punish.
5) Trị
vì: To rule or to govern.
Trị An: To maintain order.
Trị Gia: To manage one’s home.
Trị Liệu:
Therapeutic—Therapies.
Trị Quốc: To rule (govern) a
country.
Trích: To copy out—To
extract—To excerpt.
Trích Dịch: To extract a
passage from a book and translate it.
Trích Đăng: To extract a
passage from a book and insert it in a newspaper.
Trích Giảng: To extract and
explain.
Trích Yếu: Subject.
Trịch:
1) Ném
liệng hay loại bỏ: To throw away—To reject—To cast away.
2) Rất
nặng: Very heavy.
Trịch Ác Nhân: Loại bỏ kẻ ác—To
cast away, or reject, wicked man.
Trịch Chỉ Đa: Chikdha
(skt)—Vùng đất mà bây giờ là Chitor hay Chittore, thuộc miền Trung Ấn—The
modern Chitor, or Chittore, in Central India.
Trịch Thượng: Lofty tone.
Triền:
(A) Nghĩa
của Triền—The meanings of Bonds or entanglements:
1) Triền
dốc: Slope of a hill or mountain.
2) Cột
trói: To bind with cords—Bonds.
3) Tên
khác của phiền não: Dục vọng và phiền não trói buộc thân tâm người khiến
cho người không được tự tại—Another name for afflictions; the passions and
delusions which binds human body and minds.
(B) Phân
loại Triền—Categories of bonds or entanglements:
1) Bát
Triền hay tám thứ trói buộc: Eight entanglements or bonds—See Bát Triền in
Vietnamese-English Section.
2) Thập
Triền hay mười thứ trói buộc: Ten entanglements or bonds.
Triền Báo: Quả báo của sự trói
buộc trong luân hồi sanh tử—The retribution of transmigration-bondage.
Triền Miên:
Continously—Ceaselessly—Incessantly.
Triền Phược: Trói buộc hay thập
triền tứ phược—Bondage—Ten entanglements and four bonds.
** For more information,
please see Thập Triền Tứ Phược.
Triền Vô Minh: Sự trói buộc của
vô minh—The bondage of unenlightenment.
Triển:
1) Phát
triển—To develop—To evolve.
2) Tiến
triển---To progress.
3) Triển
khai: To extend—To expand—To stretch.
Triển Chuyển Lực: Khả năng phát
triển hay mở rộng ra—Powers of extension or expansion.
Triển Hạn: To extend a time
limit (dead line).
Triển Khai: To open out.
Triển Lãm: To show—To exhibit.
Triển Vọng:
Outlook—Expectation—Prospect.
Triện: Seal (ấn triện).
Triết Học: Philosophy.
Triết Lý Cao Siêu:
Transcendental doctrines.
Triết Gia: Philosopher—Sage.
Triết Học: Philosophy.
Triết Thuyết: Doctrine.
Triệt:
1) Thấu
triệt—To know thoroughly—Throughout—To penetrate.
2) Trước
đây: Previous.
Triệt Đeå:
Thoroughly—Entirely—Completely.
Triệt Để Chống Lại: To be
vehement in contradicting.
Triệt Hạ: To demolish—To
destroy—To pull down.
Triệt Tâm: Thấu suốt tâm
cang—To penetrate or reach the heart or mind.
Triệt Thoái: To withdraw—To
evacuate—To fall back.
Triệt Tiêu: To cancel—To annul.
Triêu: Buổi sáng—Morning.
Triêu Lộ: Giọt sương mai dễ
tan, dùng để ví với đời người chóng tàn—Morning dew, e.g. man’s life as
transient.
Triều:
1) Đi
đến: Towards.
2) Thủy
triều—Tide—Tidal.
3) See
Triều Đại.
Triều Cống: To pay tribute.
Triều Đại: Dynasty.
Triều Lên: Rising tide.
Triều Sơn: Tôn thờ tự viện, hay
đặc biệt là vị Đạt Lai Lạt Ma—To worship towards the hills, pay court to a
noted monastery, especially pay court to a Dalai Lama.
Triều Thự: Buổi sáng và buổi
tối—Morning and evening.
Triều Tiên: Nước Đại Hàn—Korea.
Triều Xuống: Falling tide.
Triệu:
1) Triệu
hồi: To beckon—To summon—To call back—To evoke.
2) Một
triệu: Million.
3) Triệu
thỉnh: To invite with respect—To invite, especially the Buddhas or
Bodhisattvas to worship.
Triệu Châu: Chao-Chou.
1) See
Triệu Châu Tòng Thẩm.
2) Tên
một tự viện vào thời nhà Đường, nơi mà Triệu châu được danh hiệu nầy: A
monastery during the T’ang dynasty, where Chou-Chou got his pseudonym.
Triệu Châu Tòng Thẩm:
Zhao-Chou-T’sung-Shen—Triệu Châu Tòng Thẩm là môn đồ và người kế vị Pháp
của Thiền sư Nam Tuyền Phổ Nguyện. Ông là một thiền sư nổi tiếng và quan
trọng vào bậc nhất thời nhà Đường. Công án “Không” của ông là một công án
nổi tiếng trong tất cả mọi công án. Người ta nói rằng Triệu Châu đạt kiến
tánh lúc 18 tuổi và giác ngộ viên mãn lúc 54 tuổi. Đến năm 58 tuổi ông đã
đi du phương khắp Trung Quốc, ở lại với nhiều sư xuất sắc và tham dự “pháp
chiến” với họ cho đến năm 80 tuổi, ông mới chính thức mở một ngôi chùa và
bắt đầu dạy chúng. Ông tiếp tục dạy môn đệ cho đến khi chết lúc 120 tuổi.
Triệu Châu có 13 người kế vị Pháp, nhưng vì có ít người bằng được ông về
chiều sâu kinh nghiệm, nên chỉ vài thế hệ sau là dòng Thiền của ông bị tàn
lụi. Triệu Châu có một lối dạy học trò rất đặc biệt, mà người ta gọi là
“Thiền trên miệng và trên môi Triệu Châu.” Giọng trầm trầm, gần như là thì
thào. Ông thường đưa ra những câu trả lời ngắn và rõ ràng, nhưng những lời
ông nói có một sức mạnh lớn. Người ta nói những lời ấy có thể chọc thủng
những ý nghĩ và tình cảm mù quáng của học trò như một mũi gươm nhọn. Triệu
Châu được nhắc tới trong những thí dụ 1, 7, 11, 14, 19, 31, và 37 trong Vô
Môn Quan; cũng như những thí dụ 2, 9, 30, 41, 45, 52, 57, 58, 59, 64, 80,
và 96 trong Bích Nham Lục—Zhao-Chou T’sung-Shen was a student and dharma
successor of Nan-Chuan P’u-Yuan. He was a renowned and most important
master of the T’ang dynasty. His “Sunnyata” is the bestknown of all koans.
Chao-Chou is said to have attained “Beholding the Buddha-nature” at the
age of eighteen and complete awakening at fifty-four. From fifty-four to
eighty he made pilgrimages about China, staying with prominent masters and
engaging in “Dharma dueling” with them. Not until he was eighty did he
formally open a monastery and began to teach. He then continued to
instruct students until his death, at one hundred and twenty. Zhao-Chou
had thirteen dharma successors, but since there were few who equaled or
surpassed him in profundity of experience, his lineage died out after a
few generations. Zhao-Chou had a very special way of instructing his
disciples that people called “Zhao-Chou’s lip and mouth Ch’an.” In a soft
voice, often almost whispering, he answered his students’ questions with
short, simple pronouncements. His words were, however, very powerful; it
is said they were able to cut through the deluded feeling and thinking of
his disciples like a sharp sword. His name appears in examples 1, 7, 11,
14, 19, 31 and 37 of the Wu-Men-Kuan; and in examples 2, 9, 30, 41, 45,
52, 57, 58, 64, 80, and 96 of the Pi-Yen-Lu.
·
Trong cuộc gặp gỡ đầu tiên với Nam Tuyền, lúc ấy Nam Tuyền
đang nằm nghỉ mà vẫn hỏi: “Vừa rời chỗ nào?” Triệu Châu thưa: “Vừa rời
Đoan Tượng.” Nam Tuyền hỏi: “Thấy Đoan Tượng chăng?” Triệu Châu thưa:
“Chẳng thấy Đoan Tượng, chỉ thấy Như Lai nằm.” Nam Tuyền hỏi tiếp: “Ngươi
là sa di có thầy hay không?” Triệu Châu thưa: “Có Thầy.” Nam Tuyền lại
hỏi: “Thầy ở chỗ nào?” Triệu Châu bèn bước tới trước mặt Nam Tuyền nói:
“Giữa mùa đông rất lạnh, ngưỡng mong tôn thể Hòa Thượng được muôn phước.”
Nam Tuyền khen ngợi liền nhận vào chúng—Upon their first meeting,
Nan-Chuan, who was lying down and resting, asked Zhao-Chou: “Where have
you come from?” Zhao-Chou said: “I’ve come from Rui-Chuan (Omen Figure).
Nan-Chuan said: “Did you see the standing omen’s figure?” Zhao-Chou said:
“No, but I’ve seen a reclining Tathagata.” Nan-Chuan got up and asked: “As
a novice monk, do you have a teacher or not?” Zhao-Chou replied: “I have a
teacher.” Nan-Chuan said: “Who is your teacher?” Zhao-Chou stepped in
front of Nan-Chuan, bowed and said: “In the freezing winter-cold, a
prostrate monk only asks for the master’s blessings.” Nan-Chuan approved
Zhao-Chou’s answer and permitted him to enter the monk’s hall.
·
Một ngày nọ Triệu Châu hỏi Nam Tuyền: “Thế nào là đạo?” Nam
Tuyền đáp: “Tâm bình thường là đạo.” Triệu Châu lại hỏi: “Lại có thể nhằm
tiến đến chăng?” Nam Tuyền đáp: “Nghĩ nhằm tiến đến đã là sai rồi.” Triệu
Châu lại hỏi: “Nếu không nghĩ thì làm sao biết được là đạo?” Nam Tuyền
nói: “Đạo chẳng thuộc biết, cũng chẳng thuộc chẳng biết; biết là vọng,
chẳng biết là vô ký. Nếu thật đạt đạo thì chẳng nghi, ví như hư không
thênh thang rỗng rang đâu thể gắng nói phải quấy.” Ngay câu nói nầy Triệu
Châu ngộ lý. Sau đó triệu Châu đi đến đàn Lưu Ly tại Tung Nhạc thọ giới,
thọ giới xong, sư trở về tiếp tục tu tập với Thiền Sư Nam Tuyền—One day,
Zhao-Chou asked Nan-Chuan: “What is the Way?” Nan-Chuan said: “Everyday
mind is the Way.” Zhao-Chou said: “Does it have a disposition?” Nan-Chuan
said: “If it has the slightest intention, then it is crooked.” Zhao-Chou
said: “When a person has no disposition, then how can he know that this is
the Way?” Nan-Chuan said: “The Way is not subject to knowledge, nor is it
subject to no-knowledge. Knowledge is delusive. No-knowledge is
nihilistic. When the uncontrived way is really attained, it is like great
emptiness, vast and expansive. So how could there be baneful right and
wrong?” At these words Zhao-Chou was awakened. Thereafter Zhao-Chou
traveled to Mount Song where he received ordination. He then returned to
continue his practice under Nan-Chuan.
·
Một ngày khác Triệu Châu hỏi Nam Tuyền: “Như vậy những người
có kiến thức khi chết họ sẽ đi về đâu không?” Nam Tuyền đáp: “Đến nhà Đàn
Việt dưới núi mà làm con trâu đi.” Triệu Châu bèn nói: “Cảm ơn lời Thầy
chỉ giáo.” Nam Tuyền nói: “Đêm qua canh ba trăng soi cửa.”—Another day
Zhao-Chou asked Nan-Chuan: “Where do people with knowledge go when they
die?” Nan-Chuan said: “They go to be bull water buffaloes down at the
Tans’ and Yues’ houses at the base of the mountain.” Zhao-Chou said:
“Thank you for your instruction.” Nan-Chuan said: “Last night during the
third hour the moon reached the window.”
·
Triệu Châu đến gặp Hoàng Bá. Hoàng Bá thấy sư đến liền đóng
cửa phương trượng. Sư lấy một que củi đang cháy, chạy vào Pháp đường la
to: “Cháy! Cháy!” Hoàng Bá mở cửa, nắm sư đứng lại bảo: “Nói! Nói!” Triệu
Châu bảo: “Cướp qua rồi mới trương cung.”—Zhao-Chou went to see Huang-Bo.
When Huang-Bo saw him coming he closed the door to his room. Zhao-Chou
picked up a piece of flaming firewood from the stove, and walking into the
Dharma hall, he yelled: “Fire! Fire!” Huang-Bo threw open his door, and
grabbing Zhao-Chou he said: “Speak! Speak!” Zhao-Chou said: “After the
thief has run off you’ve drawn your bow.”
·
Một lần khác Triệu Châu đến Thiên Hoàng gặp Đạo Ngộ. Sư vừa
đến nơi thì Đạo Ngộ đã la lớn: “Mũi tên Nam Tuyền đến.” Sư bảo: “Xem tên!”
Đạo Ngộ nói: “Trật.” Sư bảo: “Trúng.”—Zhao also went to T’ian-Huang
Tao-Wu’s place. Just when Zhao-Chou entered the hall, Tao-Wu yelled: “Here
comes an arrow from Nan-Chuan.” Zhao-Chou said: “See the arrow!” Tao-Wu
said: “It already passed.” Zhao-Chou said: “Bulls-eye!”
·
Triệu Châu thượng đường dạy chúng: “Phật vàng không độ được
lò đúc. Phật gỗ không độ được lửa. Phật đất không độ được nước. Phật thật
ngồi ở trong. Bồ Đề, Niết Bàn, Chơn Như, Phật tánh trọn chỉ là y phục đắp
vào thân, cũng gọi là phiền não, thực tế lý địa để ở chỗ nào? Một tâm
chẳng sanh, muôn pháp không lỗi. Ngươi cứ nghiên cứu lý nầy, ngồi quán xét
hai mươi hay ba mươi năm, nếu chẳng hội thì chặt đầu lão Tăng đi! Nhọc
nhằn nắm bắt mộng huyễn không hoa, tâm nếu chẳng khác thì muôn pháp nhất
như. Đã chẳng từ ngoài được thì câu chấp làm gì? Giống in như con dê gặp
vật gì cũng liếm cũng nhai. Lão Tăng thấy Hòa Thượng Dược Sơn có người
hỏi, Ngài liền bảo “Ngậm lấy miệng chó.” Lão Tăng cũng dạy “Ngậm miệng
chó.” Chấp ngã thì nhơ, không chấp ngã thì sạch, giống như con chó săn tìm
kiếm vật gì để ăn. Phật pháp ở chỗ nào? Ngàn muôn người thảy đều tìm Phật,
mà trong đó muốn tìm một đạo nhân không có. Nếu cùng vua KHÔNG làm đệ tử,
chớ bảo tâm bệnh khó trị. Khi chưa có thế giới, trước đã có tánh nầy, khi
thế giới hoại diệt, tánh này vẫn còn đó. Một phen được thấy Lão Tăng, sau
lại chẳng phải người khác, chỉ là chủ nhơn nầy. Cái đó lại hướng ngoài tìm
làm gì? Khi ấy chớ xoa đầu moi óc, nếu xoa đầu moi óc liền mất
vậy—Zhao-Chou entered the hall and addressed the monks, saying: “A metal
Buddha does not withstand the furnace. A wooden Buddha does not withstand
the fire. A mud Buddha does not withstand water. The genuine Buddha sits
within you. “Bodhi” and “Nirvana,” “True Thusness” and “Buddha-nature”
these things are just clothes stuck to the body and they are known as
“afflictions.” Where is the actual ground-truth revealed? “Big mind is
unborn. The myriad dharmas are flawless. Try sitting for twenty or thirty
years, and if you still don’t understand then cut off my head! The empty
flowers of delusion and dreams, disciples work so hard to grab them! When
nothing deviates from mind, then the myriad dharmas are but one thusness.
Since it can’t be attained from outside, what will you try to grasp?
You’re like goats, haphazardly picking up just anything and keeping it in
your mouth! I heard Yao-Shan said: “People ask me to reveal it, but when I
teach, it is like something taken from a dog’s mouth. What I teach is like
something taken from a dog’s mouth. Take what I say as dirty. Don’t take
what I say as clean. Don’t be like a hound always looking for something to
eat.” Where is the Buddhadharma? Thousands of fellows are seeking Buddha,
but if you go looking among them for a person of the Way you can’r find
one. If you are going to be a disciple of Buddha then don’t let the mind’s
disease be so hard to cure. This nature existed before the appearance of
the world. If the world ends, this will not end. From the time I saw my
true self, there hasn't been anyone else. There's just the one in charge.
So what is there to be sought elsewhere? At the moment you have this,
don't turn your head or shuffle your brains! If you turn your head or
shuffle your brains it will be lost!"
·
Một vị Tăng mới đến tự viện, nói: “Con mới đến xin thầy chỉ
giáo.” Triệu Châu hỏi: “Ngươi ăn chưa?” Vị Tăng đáp: “Dạ rồi!” Triệu Châu
nói: “Đi rửa chén bát đi.” Nghe xong những lời nầy Tăng liền giác ngộ. Thế
ra cái ngộ thường tục biết chừng nào!—A new monk came to the monastery. He
said to Zhao-Chou: “I’ve just arrived here. I asked the master to provide
me instruction.” Zhao-Chou said: “Have you eaten?” The monk said: “Yes,
I’ve eaten.” Zhao-Chou said: “Go wash your bowl.” Upon hearing these words
the monk was enlightened. This is enough to show what a commonplace thing
enlightenment is!
·
Triệu Châu thượng đường thuyết pháp: “Đạo chẳng khó, chỉ
hiềm lựa chọn, vừa có nói năng là lựa chọn, là minh bạch. Lão Tăng chẳng ở
trong minh bạch, các ngươi lại tiếc giữ chăng?” Có vị Tăng đứng ra hỏi:
“Đã chẳng ở trong minh bạch thì tiếc giữ cái gì?” Triệu Châu bảo: “Ta cũng
chẳng biết.” Vị Tăng nói: “Hòa Thượng đã chẳng biết, vì sao chẳng ở trong
minh bạch?” Triệu Châu nói: “Hỏi thì được. Lễ bái xong lui ra.”—Zen master
Zhao-Chou entered the hall to address the monks: “Attaining the Way is not
difficult, just disdain choosing. As soon as words are present there is
choosing, there is understanding. It’s not to be found in understanding.
Is understanding the thing you uphold and sustain?” A monk asked: “Since
it is not found in understanding, what is to be upheld and sustained?”
Zhao-Chou said: “I don’t know.” The monk said: “Since the master doesn’t
know what it is, how can you say it isn’t within understanding?” Zhao-Chou
said: “Ask and you have an answer, then bow and withdraw.”
·
Có vị Tăng hỏi: “Cây có Phật tánh không?” Triệu Châu đáp:
“Có.” Vị Tăng lại hỏi: “Như vậy thì bao giờ nó thành Phật?” Triệu Châu
đáp: “Khi nào đại hư không rơi xuống địa cầu.” Vị Tăng lại hỏi: “Khi nào
thì hư không rơi xuống địa cầu?” Triệu Châu đáp: “Khi nào cái cây thành
Phật.”—A monk asked: “Does a tree in the garden have Buddha-nature?”
Chao-Chou said: “Yes.” The monk asked: “When will it become a Buddha?”
Zhao-Chou said: “When the great void falls to earth.” The monk asked:
“When will the great void fall to earth?” Zhao-Chou said: “When a tree
become a Buddha.”
·
Có một vị Tăng hỏi: “Thế nào là câu nói cùng tuyệt?” Thay
cho lời đáp thỏa đáng, Triệu Châu chỉ nói: “Phải.” Vị Tăng không nhận ra ý
nghĩa của chữ ‘phải,’ tưởng là sư chưa đáp, bèn hỏi lại. Sư hét to: “Bộ
tôi điếc hay sao?”—A monk asked Zhao-Chou: “What is the one ultimate word
of truth?” Instead of giving any specific answer he made a simple response
saying “Yes.” The monk who naturally failed to see any sense in this kind
of response asked for a second time, and to this the master roared back:
“I am not deaf!”
·
Như trên chúng ta thấy cuộc đời của Triệu Châu là một bức
minh họa đặc biệt thú vị cho một sự khẳng định không ngừng được các Thầy
Thiền nhắc đi nhắc lại. Đại giác chỉ là khởi đầu cho bước tiến thật sự
trên con đường hành thiền. Triệu Châu đã trải qua đại giác sâu từ năm ông
18 tuổi, nhưng ông vẫn tiếp tục tu học với Thầy Nam Tuyền trong suốt bốn
mươi năm nữa. Sau khi thầy thị tịch, ông lên đường chu du để tìm hiểu sâu
hơn ở những thầy khác. Theo truyền thuyết thì ông đã tham vấn với hơn 80
người kế vị Pháp của Mã Tổ Đạo Nhất (vai ông nội của ông trong Thiền). Đến
năm 80 tuổi, ông mới trụ lại tại một ngôi chùa nhỏ ở làng Triệu Châu, nơi
ông hướng dẫn những đệ tử tụ tập chung quanh ông để tu tập thiền định cho
đến khi thị tịch là năm ông 120 tuổi—As we see above, the life story of
Zhao-Chou is an especially good example of what Ch’an masters repeatedly
stress, that enlightenment is only the beginning of real training on the
path of Ch’an. Zhao-Chou had already experienced profound enlightenment at
the age of 18; following that he trained himself for forty years under his
master Nan-Chuan. After his master passed away, he set about wandering in
order to deepen his experience further through “Zen” with other Ch’an
masters. It is said that during this period he sought out as many as
eighty of the dharma successors of Ma-Tsu-Tao-I (his grandfather in
Ch’an). Finally, at the age of 80, he settled in a small Ch’an monastery
in the town of Zhao-Chou. There at last students gathered around him and
he led them on the path of Ch’an until his death at the age of 120.
·
Ngày mồng hai tháng mười một năm 897, sư nằm nghiêng bên
phải mà thị tịch, thọ 120 tuổi. Sư được vua ban hiệu “Chơn Tế Đại Sư”—On
the second day of the eleventh month in the year 897, Zhao-Chou lay down
on his right side and passed away. He was 120 years old. He received the
posthumous title “Great Teacher Truth’s Limit.”
Triệu Chứng: Symptom.
Triệu Hồi: To recall.
Triệu Hồn: Triệu thỉnh vong hồn
của người chết—To call back the spirit of the dead.
Triệu Tái Vĩnh Kiếp: Kiếp không
ngừng kéo dài đến hàng triệu năm (Kiếp vượt ra ngoài số có thể đếm
được)—The perpetual aeon of millions of years, the kalpa beyond numbers.
Triệu Tập: To convoke an
assembly—To summon—To call together.
Triệu Thỉnh: See Triệu (3).
Triệu Thỉnh Đồng Tử: Vị đồng tử
thứ năm bên trái của Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, người có nhiệm vụ triệu
thỉnh mọi chúng sanh đi đến giác ngộ—The inviter, possibly etymologically
connected with achavaka; he is the youth fifth on the left of Manjusri in
his group of the Garbhadhatu, and is supposed to invite all the living to
enlightenment.
Trinh: Chaste—Lucky.
Trinh Bạch: Chaste—Pure.
Trinh Thực: Pure and true.
Trình:
1) Đệ
trình: To submit (proof or proposal).
2) Trình
báo: To report.
3) Trình
bày: To show—To produce.
Trình Diễn: To perform—To act.
Trình Diễn Bề Ngoài: Outward
show.
Trình Diện: To present (report)
oneself.
Trình Độ:
Level—Standard—Degree.
Trịnh Trọng:
Ceremonious—Formal.
Trìu Mến: Tender—Sympathetic.
Trĩu Nặng: Very heavy.
Trò Chuyện: To talk---To
chat—To converse.
Trò Cười: Joke—Jest.
Trò Đời: Ways of the world.
Trò Quỷ Thuật: Magic tricks.
Trò Vui: Merry-making feasts.
Troû: To point—To show with the
forefinger.
Troï: To board—To lodge.
Tróc: To peel (scale—come) off.
Trọc:
1)
Shaven.
2)
Bald.
Trói: To fasten—To tie—To bind.
Trói Buộc: Chaining or
bondage—Mọi sự trói buộc là do tâm sinh ra, tức là, thế giới của những
hình tướng hư ngụy nầy là cấu trúc của tâm—All kinds bondage are
mind-made, that is, this world of faulty appearances is the construction
of the mind.
Tròn Trèm: About.
Trọn: Whole—Entire—All.
Trọn Đạo: To fulfill one’s
duty.
1) Làm
một tín đồ: one’s Buddhist duty toward the Triratna (Tam Bảo).
2) Làm
cha: One’s parternal duty.
3) Làm
cha mẹ: One’s parental duty.
4) Làm
mẹ: One’s maternal duty.
Trọn Đời: Entire life—Whole
life.
Trọn Đời Làm Lành, Lành Còn Chưa Đủ; Một
Ngày Làm Ác, Ác Tự Có Dư: Good deeds performed during our whole
life are not enough; bad deeds performed in just one day are already too
many.
Trọn Lời: To keep one’s promise
(words).
Trọn Quyền: Full power.
Trọn Vẹn:
Complete—Whole—Entire.
Trong Đời: During one’s life.
Trong Khoảng: Between.
Trong Kiếp Luân Hồi Sanh Tử, Ác Nghiệp Dễ
Nhiễm, Duyên Lành Khó Tạo: In the cycle of births and deaths,
evil deeds (transgressions) are easy to commit, wholesome deeds are
difficult to perform.
Trong Kiếp Luân Hồi Sanh Tử Trong Vô Lượng
Kiếp, Chúng Ta Đã Chịu Quá Nhiều Khổ Đau: In the cycle of
births and deaths in immeasurable eons, we truly undergo immense pain and
suffering.
Trong Kiếp Luân Hồi Sanh Tử, Duyên Lành
Khó Gieo, Việc Ác Dễ Trồng: In the cycle of births and deaths,
good deeds are difficult to perfprm (sow), while bad deeds are easy to
commit.
Trong Kiếp Nầy: In this present
life.
Trong Lịch Sử: In history.
Trong Lúc Ấy: In the
meantime—Meanwhile.
Trong Một Niệm: In the space of
one thought.
Trong Sạch: Clean—Clear—Pure.
Trong Sáng: Clear—Bright.
Trong Suốt: Clear—Transparent.
Trong Thời Gian Ấy: In that
span of time.
Trong Thời Phật Còn Tại Thế:
During the lifetime of Buddha Sakyamuni.
Trong Thời Phật Còn Tại Thế (Chánh Pháp),
Trăm Người Tu Có Tới Bảy Tám Chục Người Chứng; Trong Thời Tượng Pháp, Trăm
Ngàn Người Tu May Mắn Còn Có Một Hai Người Chứng; Trong Thời Mạt Pháp,
Trăm Ngàn Người Tu, Khó Có Lấy Một Người Chứng Đắc: During the
lifetime of Buddha Sakyamuni, seventy or eighty out of hundred
practitioners will attain the way; during the period of Semblance Dharma,
out of hundreds of thousands of practitioners perhaps one or two will
attain the way; During the period of Ending-Age Dharma, there would be
none attaining the way out of hundreds of thousands of practitioners.
Trong Trắng: Chaste.
Trong Trẻo:
1)
Limpid—Clear (water).
2)
Unclouded—Clear (sky).
Trong Vắt: Very
clear—Transparent—Limpid.
Trong Vòng: Within.
Trong Ý Nghĩa Ấy: In a sense.
Tròng: Noose—Trap.
Tròng Trành: To rock.
Trọng:
1) Kính
trọng: To venerate—To honour-To respect.
2) Nặng:
Heavy—Weighty.
3)
Nghiêm trọng: Serious—Grave.
4) Xem
trọng: To regard respectfully—To lay stress upon.
Trọng Các Giảng Đường: Khu
giảng đường hai tầng ở Tỳ Xá Ly, nơi Đức Phật thường trú ngụ—The
double-storeyed hall at Vaisali where the Buddha stayed.
Trọng Cấm: Strictly forbidden.
Trọng Chướng: Những chướng ngại
nghiêm trọng trong việc giác ngộ, như vô minh, phiền não, tội nghiệp, quả
báo, hay hậu quả của những tiền khiên—Serous hindrances to enlightenment,
e.g. ignorance, delusion, sin, retribution, or the results of one’s
previous lives—See Tam Chướng.
Trọng Đãi: To treat kindly
(very well).
Trọng Đại: Important.
Trọng Hậu: generous.
Trọng Hình: Heavy penalty.
Trọng Hỏa: Những kẻ theo đạo
thờ Thần lửa—Those who pay respect to the god of fire.
Trọng Không: Hư không ngoài hư
không, chỉ khoảng không bao la vô tận—The double space, i.e. the space
beyond space, the void beyond the void.
Trọng Nghiệp: Garuka
(p)—Weighty karma—Theo A Tỳ Đạt Ma Luận (Vi Diệu Pháp), trọng nghiệp có
nghĩa là hành động hay nghiệp nặng, nghiệp nghiêm trọng, có thể thiện hay
bất thiện, không thể thay thế được trong yếu tố tái sanh. Được gọi là
trọng nghiệp vì nó chắc chắn sanh quả trong kiếp hiện tại hay ngay kiếp kế
tiếp. Nếu không có một trọng nghiệp nào làm điều kiện cho sự tái sanh
trong kiếp liền đó, thì “Cận Nghiệp là nghiệp dẫn dắt thọ sanh—According
to the Abhidharma, weighty karma, wholesome or unwholesome, is a weighty
or serious action, or karma of such powerful moral weight that it cannot
be replaced by any other karma as the determinant of rebirth. It is so
called because it produces its effect for certain in this life or in the
next life. When there is no weighty karma to condition the future birth a
death-proximate (asanna) karma might operate.
a) Nếu
là thiện thì đây là loại nghiệp có tính cách tinh thần như trường hợp các
tầng thiền, ngoài khẩu và thân nghiệp. Người đắc tứ thiền sắc giới chẳng
hạn thì hưởng quả vị của thiền ấy trong kiếp hiện tại, hay trong kiếp kế
tiếp—On the wholesome side, this karma is the attainment of the jhanas,
other than speech and body karmas.
b) Nếu
là bất thiện nghiệp có năm loại trọng nghiệp đi cùng với tà kiến chối bỏ
đạo đức luân lý—On the unwholesome side, it is the five heinous crimes
together with a fixed wrong view that denies the basis for morality:
·
Gây thương tích cho một vị Phật: Như Đề Bà Đạt Đa phải mất
hết thần lực và tái sanh vào ác đạo vì tội đã làm chảy máu thân
Phật—Causing the wounding of a Buddha, i.e. Devadatta lost his psychic
powers and was born in a woeful state because he wounded the Buddha.
·
Chia rẽ Tăng Già: Như Đề Bà Đạt Đa phải đọa vào ác đạo vì đã
gây chia rẽ trong Tăng đoàn—Maliciously creating a schism in the Sangha,
i.e Devadatta who was reborn in a woeful state because he caused a schism
in the Sangha.
·
Sát hại một vị A La Hán: Murdering an Arahant.
·
Giết Cha: Đức Phật đã lưu ý các đệ tử rằng nếu không phạm
tội giết cha thì vua A Xà Thế đã đắc quả Tu Đà Hườn. Trong trường hợp nầy
trọng nghiệp bất thiện được gây ra trước, và ngăn cản sự tiến bộ tinh thần
về sau nầy—Parricide (killing one’s own father). As the Buddha remarked,
King Ajatasatru would have attained the first state of sainthood if he had
not committed parricide. In this case, the powerful evil karma obstructed
his spiritual attainment.
·
Giết Mẹ: Matricide (killing one’s own mother).
c) Nếu
một người hành và đắc thiền, sau đó phạm nhằm một trong những trọng tội
thì nghiệp đã tạo trước đó sẽ bị nghiệp bất thiện có năng lực hùng mạnh
nầy ngăn trở. Kiếp sống kế đó sẽ do nghiệp xấu tạo duyên. Thí dụ như em họ
của Phật là Đề Bà Đạt Đa, vì tham vọng mà tạo nên trọng tội làm đả thương
Phật và chia rẽ Tăng Già, nên phải mất hết thần thông và tái sanh vào cõi
địa ngục—If someone were to develop the jhanas and later were to commit
one of the heinous crimes, his good karma would be obliterated by the evil
deed, and the latter would generate rebirth into a state of misery. For
example, the Buddha’s ambitious cousin Devadatta lost his psychic powers
and was reborn in hell for wounding the Buddha and causing a schism in the
Sangha.
d) Nếu
một người trước đã phạm trọng tội, sau đó dù tinh tấn tu hành vẫn khó đắc
quả vì nghiệp xấu cản trở. Vua A Xà Thế sau khi nghe Phật nói Kinh
Samannaphala, có thể đã chứng đắc quả Tu Đà Hườn nếu không phạm trọng tội
giết cha, là vua Bình Sa Vương, nên ông không thể thành tựu đạo quả—If
someone were first to commit one of the heinous crimes, he could not later
reach a sublime or supermundane attainment, because the evil karma would
create an insurmountable obstruction. Thus King Ajatasattu, while
listening to the Buddha’s speak the Samannaphala Sutra, the Discourse on
the Fruits of Recluseship, had all the other conditions for reaching
stream-entry, but because he had killed his father, King Bimbisara, he
could not attain the path and fruit.
Trọng Quan: Những trở ngại
nghiêm trọng trong thiền định và giác ngộ—The grave barriers to meditation
and enlightenment.
Trọng Sơn: Phiền não chất chồng
như núi nặng—The heavy mountain of delusion.
Trọng Tài:
referee—Arbitrator—Umpire.
Trọng Tam Tam Muội: Không không
tam muội—Vô tướng tam muội—Vô nguyện vô nguyện tam muội---Double Three
Samadhi—A more advanced meditation—All three samadhis are the same with
doublepractice—See Tam Tam Muội.
Trọng Tâm: Center of gravity.
Trọng Thể: Solemnly.
Trọng Thương: Severe wound.
Trọng Thưởng: To reward
generously.
Trọng Tội: Grave offence.
Trọng Trách: Heavy
responsibility.
Trọng Trọng: Lập đi lập lại,
như nhiều màn Đế Võng—Repeated—Again and again, manifold, e.g. the
multi-meshed net of Indra.
Trọng Tụng: Geya (skt)—Còn gọi
là Trọng Chỉ Dạ, phần vần tụng đi tụng lại trong bài kinh—Repetition in
verse of a prose section.
Trọng Tuổi: Aged.
Trọng Vọng: Reverencing.
Trọng Yếu: Important—Crucial
importance of something.
Trót: To have done something by
mistake.
Trố Mắt: To look with wide-open
eyes.
Trổ: To make an opening (hole)
with a chisel.
Trổ Bông: To blossom—To
bloom—To flower—To burst into flower.
Trổ Tài: To show off (display)
one’s talent.
Trốc Gốc: Uprooted.
Trôi: To drift.
Trôi Xuôi Dòng: To drift down
stream.
Trôi Chảy: Flowing—Fluent.
Trôi Giạt Vào Bờ: To drift on
shore.
Trôi Lình Bình: To drift
slowly.
Trôi Nổi: Moving about without
guided—Adrift.
Trôi Qua: To go by—To pass.
Trối: To make the last
recommendations (words).
Trồi: To rise—To emerge.
Trổi: To surpass—To prevail
over.
Trội: To surpass—To excel.
Trộm Cắp: To steal.
Trộm “Đầu Hói” (Tặc Trụ) Tăng
Ni nhận của cúng dường mà không chịu tu hành là phản bội đàn na tín thí.
Phật gọi những kẻ nầy là những tên trộm “Đầu hói.” Những kẻ tội phạm nầy
phải chịu vô vàn khổ đau để đền tội—Bald-headed thief—A monk or nun who
does not cultivate while receiving offerings from the laity, has betrayed
the latter’s trust and, in fact, stolen the offerings. The Buddha referred
to such monks or nuns as “Bald-headed thieves.” They have to be reborn in
lower paths to repay what they owe now.
Trộm Nghĩ: To think discreetly
(in secret).
Trốn: To run away—To flee—To
escape—To hide.
Trốn Thoát: To get away—To
escape successfully.
Trốn Tránh: To elude—To evade.
Trốn Trách Nhiệm: To avoid
(escape) responsibility.
Trộn: To mingle—To mix—To
compound.
Trông: To look at—To see.
Trông Cậy: To rely on—To depend
on.
Trông Chờ: To await—To wait
for—To expect.
Trông Chừng: To keep watching
over (someone or something).
Trông Coi: To watch over—To
look after.
Trông Đợi: See Trông Chờ.
Trông Nhờ: See Trông Cậy.
Trông Nom: To superintend—To
oversee—To supervise.
Trông Ơn: To count on a favour.
Trồng Dưa Được Dưa, Trồng Đậu Được Đậu Là
Lẽ Đương Nhiên; Đã Gieo Chông Gai, Đừng Mong Đến Mùa Gặt Lúa Nếp:
If you plant melons, you reap melons; if you plant beans you reap beans.
This is the natural course of events. Having sown thorns, do not expect to
harvest wheat and rice.
Trơ Như Đá: Indifferent—Insensible.
Trơ Trẽn: Shameless—Impudent.
Trơ Trọi: Alone.
Trơ Trơ: Unmoved—Motionless—Still.
Trớ Trêu: Irony.
Trở Chứng: To change one’s conduct.
Trở Cờ: To reverse one’s opinion.
Trở Giọng: To change one’s tune.
Trở Hướng: To change in direction.
Trở Lại: To come (go—get) back—To
return.
Trở Lực:
Impediment—Hindrance---Obstacle.
Trở Mặt: To change (turn) about.
Trở Nên An
Định:
Become stable and calm.
Trở Nên Cao
Quý:
To enoble.
Trở Nên Cởi Mở: To become open.
Trở Nên Điên Đảo Mộng Tưởng:
To have nightmare and to become confused.
Trở Nên Điên Loạn: To become
crazy.
Trở Nên Gầy Gò: To grow thin.
Trở Nên Rộng Lượng: To become
kind and full of pity.
Trở Nên Sáng Tạo: To become
creative.
Trở Nên Tẻ Nhạt: To become very
dull.
Trở Nên Thanh Tịnh: To become
serene.
Trở Nên Thoải Mái: To become
comfortable
Trở Nên Thuần Tính Nhân Ái: To
become benevolent.
Trở Nên Toàn Bích: To become
perfect.
Trở Nên Xanh Xao: To turn
pale
Trở Thành: To transform—To
grow—to become.
Trở Thành Nô Lệ Cho Lạc Thú Thế Gian:
Become slaves to sensual pleasures.
Trở Thành Phật Tử Tại Gia Thuần Thành:
Để trở thành một Phật tử thuần thành, ngoài việc giữ ngũ giới hay thập
thiện, chúng ta cần phải có những tiêu chuẩn sau đây—To become a devoted
(good) Buddhist, beside keeping five or ten basic precepts, one must meet
the following criteria:
1) Thọ
tam quy trì ngũ giới hay bất cứ giới luật nào dành cho Phật tử tại gia: To
take refuge in the Triratna and to keep the basic five precepts or any
other precepts for laypeople.
2) Luôn
tín tâm nghe chánh pháp: Always hear the truth with a faith mind.
3) Làm
lành: To do good deeds.
4) Lánh
dữ: Not to do evil deeds.
5) Tôn
kính người già: To venerate (respect) the elderly.
6)
Thương mến người trẻ: Love and care for the young.
7) An ủi
vổ về người lâm hoạn nạn: Comfort those who encounter calamities.
8) Thanh
tịnh thân tâm: Purify the body and mind.
Trở Về: To come (go) back—To
return.
Trở Về Cực Lạc Nơi Quê Cũ; Thoát Kiếp Trần
Gian Luống Đọa Đày: Return to the Land of Ultimate Bliss where
the home was; liberate from the earthly life, the suffering world.
Trơï:
1) Trợ
Giúp: Help—Assist—Aid.
2) Đồ
Phụ Trợ: Auxiliary.
Trợ Âm: To assist in signing or
intoning.
Trợ Bần: Chẩn bần—To relieve
the poor.
Trợ Cấp: To subsidize.
Trợ Đạo: Đạo phẩm có thể giúp
cho thiền quán, luật nghi và quả đức—Auxiliary means which help
meditation, auxiliary discipline, and aid to faith or virtue.
Trợ Giáo: Assistant teacher.
Trợ Lực: To assist (help)
someone.
Trợ Lý: To assist—To aid.
Trợ Nghiệp: Auxiliary karma.
1) Tụng
kinh hộ niệm giúp người quá cố vãng sanh Tịnh Độ: reciting a sutra to help
a death person to reach the Pure Land.
2) Thờ
phượng, tán thán và cúng dường trợ giúp chánh nghiệp, như tin nơi Phật A
Di Đà, thường tưởng niệm đến Ngài, và thường niệm hồng danh của Ngài:
Worship, praise, and offering, as additional to direct karma, i.e. faith
in Amitabha, expressed by constant thought of him and calling on his name.
Trợ Niệm: Suportive
Recitation—Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong Niệm Phật Thập Yếu, người
bệnh từ khi đau nặng cho đến lúc sắp tắt hơi, thân bằng quyến thuộc phải
bình tĩnh đừng khóc lóc. Có kẻ tuy không khóc nhưng lại lộ nét bi thương
sầu thảm, đó cũng là điều không nên. Bởi lúc bấy giờ bệnh nhân đã đi đến
ngã rẽ phân chia giữa quỷ, người, phàm, Thánh; sự khẩn yếu nguy hiểm khác
thường, như ngàn cân treo dưới sợi tóc. Khi ấy duy chỉ có nhất tâm trợ
niệm Phật là điều thiết yếu. Người dù có chí nguyện vãng sanh, mà bị quyến
thuộc thương khóc làm cho khơi động niệm tình ái, tất phải bị đọa lạc luân
hồi, công tu cũng đành luống uổng! Lại khi bệnh nhân gần qua đời, tự họ
muốn tắm gội, thay y phục hay đổi chỗ nằm, thì có thể thuận theo, song
phải nhẹ nhàng cẩn thận mà làm. Như họ không chịu, hoặc á khẩu không nói
được, không nên miễn cưỡng mà làm. Bởi người sắp chết thân thể thường đau
nhức, nếu ép di động, đổi chỗ nằm hoặc tắm rửa, thay y phục thì bệnh nhân
càng đau đớn thêm. Nhiều người tu hành phát nguyện cầu về Cực Lạc, nhưng
khi lâm chung vì bị quyến thuộc di động nhiễu loạn, phá mất chánh niệm,
nên không được vãng sanh, việc nầy xảy ra rất thường. Hoặc kẻ mạng chung
có thể sanh về cõi lành, nhưng bị người khác không biết, xúc chạm thân
thể, sửa đổi tay chân làm cho đau đớn, nên sanh lòng giận tức. Do một niệm
đó, liền đọa vào ác đạo, làm rồng, rắn, cọp, beo, hoặc các loài độc khác.
Như vua A Xà Thế tu nhiều phước lành, khi lâm chung bị người hầu cận ngủ
gục làm rớt cây quạt trên mặt, nên giận rồi chết bị đọa làm rắn mãng xà.
Gương nầy không phải là đáng sợ lắm sao? Người bệnh khi lâm chung hoặc
ngồi, hoặc nằm, đều tùy tiện, chớ nên gắng gượng. Nếu cảm thấy suy nhược
chỉ có thể nằm, mà muốn xem cho ra vẻ, gắng gượng ngồi dậy, là điều nguy
hại không nên làm. Hoặc theo lẽ, phải nằm nghiêng bên mặt hướng về tây,
nhưng vì thân thể đau nhức phải nằm ngửa, hay nằm nghiêng bên trái hướng
về đông, cũng cứ để tự nhiên chớ nên gắng gượng. Đây chính bệnh nhân phải
hiểu như vậy mà tự xử. Còn người thân thuộc cũng phải hiểu lẽ nầy, chẳng
nên cầu danh, bắt người bệnh nằm nghiêng bên mặt hướng về tây, hay đỡ dậy
mặc áo tràng sửa thế ngồi kiết già. Đâu biết rằng chỉ vì cầu chút hư danh,
mà khiến cho người chết phải đọa tam đồ, chịu vô lượng sự khổ! Lúc bệnh
nhân sắp sửa mãn phần, sự trợ niệm là điều rất cần thiết. Bởi khi ấy,
người bệnh từ tinh thần đến thể chất đều yếu kém mê mờ, khó bề tự chủ.
Đừng nói kẻ bình nhựt chưa tu không giữ nổi câu niệm Phật được lâu bền; mà
ngay cả người bình nhựt lấy câu niệm Phật làm thường khóa, nếu không nhờ
sức trợ niệm cũng khó mong đắc lực. Cách thức trợ niệm phải theo những
điều kiện dưới đây—Family members and relatives of a dying person shold
always remain calm, without weeping or lamenting, from the time that
person becomes gravely ill until his last moments. Some people, while not
crying, still show sorrow and emotion on their faces. This, too, should be
avoided, the crossroads which separate the living from the dead, and the
mundane from the transcendental. The critical importance and danger of
this moment can be compared to a mass of thousand pounds hanging under a
hair, his fate is determined by a hair’s breadth! At this time, the most
important thing is to practice supportive recitation. Even though a person
may have set his mind on rebirth in the Pure Land, if family members weep
and lament, thus arousing deep-seated feeling of love-attachment, he will
certainly sink into the cycle of Birth and Death, wasting all his efforts
in cultivation! When a patient on the verge of death wishes to bathe,
dress in different garments, or change his position or sleep quarters, we
may comply, while exercising caution and acting in gentle, careful manner
at all times. If the patient refuses, or cannot give his consent because
he has become mute, we certainly should not go against his wishes. This is
because the patient on the verge of death is generally in great physical
pain. If he is forced to move, bathe or change clothing, he may experience
even greater pain. There are numerous cases of cultivators who had sought
rebirth in the Pure Land but failed to achieve this goal because their
relatives moved them around, disturbing them and destroying their right
thought. This unfortunate development occurs very often. There are also
cases of individuals who might have achieved rebirth in the higher realms.
However, out of ignorance, others made them suffer physically, by
rearranging the positions of their hands and feet, for instance, making
them irritated and angry. Because of this one thought of anger, they
immediately sank into the evil realms. As an extreme example, King
Ajatasatru had earned numerous merits and blessings through cultivation.
However, at the time of death, one of his attendants dozed off and
inadvertently dropped a paper fan onto the king’s face. He became so
furious that he expired on the spot, to be reborn, it is said, as a
pathon. This example should serve as a warning to all of us. At the time
of death, the cultivator himself should either lie down or sit up,
according to what comes naturally, without forcing himself. If he feels
weak and can only lie down, forcing himself to sit up for appearances’
sake, is dangerous and should be discouraged. Likewise, even though,
according to Pure Land tradition, he should lie on his right side facing
west; if, because of pain, he can only lie on his back or on his left side
facing east, he should act naturally and not force himself. The patient
and his family should understand all this and act accordingly. Supportive
recitation by family members or Dharma friends is most necessary when a
patient is on the verge of death. This is because, at that time, he is
weak in body and mind and no longer master of himself. In such trying
circumstances, not only is it difficult for those who have not cultivated
in daily life to focus on Amitabha Buddha, even individuals who have
regularly recited the Buddha’s name may find it difficult to do so in all
earnestness, unless there is supportive recitation. Such recitation should
closely follow the guidelines set out below:
1) Thỉnh
tượng Phật A Di Đà tiếp dẫn để trước bệnh nhân, khiến cho họ trông thấy.
Cắm một bình hoa tươi và đốt lò hương nhẹ, khói thơm vừa thoang thoảng để
giúp dẫn khởi chánh niệm cho bệnh nhân. Nên nhớ khói chỉ nhẹ thôi, đừng để
nhiều vì e ngột ngạt khó thở cho cả bệnh nhân lẫn người xung
quanh—Respectfully place a standing Amitabha Buddha statue in front of the
patient, so that he can Iee it clearly. Place some fresh flowers in a vase
and burn light incense with a soft fragrance. This will help the patient
develop right thought. A reminder: the incense should not be overpowering,
to avoid choking the patient and everyone around.
2) Người
trợ niệm tùy theo nhiều ít nên luân phiên mà niệm. Ít thì mỗi lần một hoặc
hai người, chia thành ba phiên. Nhiều thì mỗi phiên có thể độ sáu hay tám
người. Nên nhớ lúc ấy bệnh nhân sức yếu, rất cần không khí thanh sạch, nếu
để cho người ta vào đông, hoặc kẻ trợ niệm quá nhiều, tất sẽ làm cho người
bệnh ngột ngạt xao động, có hại hơn là có lợi. Lại nữa, các phiên phải
canh theo đồng hồ mà im lặng luân chuyển nhau hộ niệm, để cho câu niệm
Phật tiếp tục không gián đoạn, đừng kêu gọi nhau lớn tiếng. Mỗi phiên niệm
lâu chừng một giờ—Those who come to practice supportive recitation should
take turns. It should be remembered that the patient, in his weakened
state, requires a lot of fresh air to breathe. If too many persons come
and go or participate in the recitation session, the patient may have
difficulty breathing and become agitated, resulting in more harm than
benefit. Therefore, participants should consult their watches and silently
take turns reciting, so that recitation can continue uninterrupted. They
should not call to one another aloud. Each session should last about an
hour.
3) Theo
ngài Ấn Quang, nên niệm bốn chữ A Di Đà Phật để cho bệnh nhân dễ thâu nhận
trong khi tinh thần thể chất quá suy yếu. Nhưng ý kiến của Hoằng Nhất đại
sư, thì muốn niệm bốn chữ hay sáu chữ, tốt hơn nên hỏi bệnh nhân, để thuận
với thói quen ưa thích thuở bình nhật của người bệnh, khiến cho họ có thể
niệm thầm theo. Nếu trái với thói quen ưa thích, tức là phá mất chánh niệm
của người bệnh, tất mình cũng có tội. Lại cách trợ niệm, không nên niệm to
tiếng quá, vì mình sẽ tổn hơi khó bền; không nên niệm nhỏ quá, vì e người
bệnh tinh thần lờ lạc khó thâu nhận. Cũng chẳng nên niệm quá mau, bởi làm
cho bệnh nhơn đã không nghe nhận được rõ ràng, lại không thể theo kịp;
chẳng nên niệm quá chậm, bởi có lỗi tiếng niệm rời rạc khiến người bệnh
khó liên tục nhiếp tâm. Đại khái tiếng niệm phải không cao không thấp,
chẳng chậm chẳng mau, mỗi chữ mỗi câu đều rành rẽ rõ ràng, khiến cho câu
niệm trải qua tai đi sâu vào tâm thức của người bệnh, như thế mới đắc lực.
Lại có điều nên chú ý, khi bệnh nhân tâm thức quá hôn trầm, niệm ở ngoài
tất họ nghe không rõ. Trong trường hợp ấy, phải kê sát miệng vào tai họ mà
niệm, mới có thể khiến cho người bệnh được minh tâm—According to Elder
Master Yin-Kuang, the short recitation from Amitabh Buddha should be used,
so that the patient can easily register the name in his Alaya
consciousness, at a time when both his mind and body are very weak.
However, according to Elder Master Hung-I, we should ask the patient and
use the form he prefers, either short or long, to conform to his everyday
practice. In this way, the patient can silently recite along with the
supportive recitation party. To go counter to his like and habits may
destroy his right thought and create an offense on our part. Furthermore,
we should not practice supportive recitation in too loud a voice, as we
will expend too much energy and be unable to keep on for very long. On the
other hand, neither should we recite in too low a voice, lest the patient,
in his weakened state, be unable to register the words. Generally
speaking, recitation should not be too loud or too low, too slow or too
fast. Each utterance should be clear and distinct so that it can pass
through the ear and penetrate deep into the patient’s Alaya consciousness.
One caveat: if the patient is too weak or is in a coma, he will not be
able to hear external recitation. In such a case, w should recite into the
patient’s ear. This helps the patient keep his mind clear and steady.
4) Về
pháp khí để dùng trong khi trợ niệm, thông thường nên dùng khánh nhỏ, bởi
tiếng mõ âm thanh đục, không bằng tiếng khánh trong trẻo, dễ khiến cho
bệnh nhân tâm thần thanh tịnh. Nhưng việc nầy cũng tùy, vì theo kinh
nghiệm riêng, Hoằng Nhứt đại sư đã dạy: “Những kẻ suy yếu thần kinh rất sợ
nghe tiếng khánh và mõ nhỏ. Bởi âm thanh của mấy thứ nầy chát chúa đinh
tai, kích thích thần kinh, khiến cho người bệnh tâm thần không an. Theo
thiển ý, chỉ nên niệm suông là thỏa đáng hơn hết. Hoặc nếu có, thì chỉ nên
đánh thứ chuông mõ lớn. Những món nầy âm thanh hùng tráng, khiến cho người
bệnh sanh niệm nghiêm kính, hơn là đánh khánh và mõ nhỏ. Thứ mõ âm thanh
đục cũng không nên đánh, vì làm cho bệnh nhân tâm thần hôn trược. Tuy
nhiên, sở thích của mỗi người không đồng, tốt nhứt là nên hỏi trước bệnh
nhân. Nếu có chỗ nào không hợp, phải tùy cơ ứng biến, chớ nên cố chấp—With
regard to percussion instruments, it is generally better to use the small
hand bell, instead of the wooden fish gong with its bass tone. The hand
bell, with its clear, limpid sound, can help the patient develop a pure
and calm mind. However, this may not apply in all cases. For instance, an
Elder Master once taught, “It is best to recite the Buddha’s name by
itself without musical accompaniment, but since each person’s preferences
are different, it is best to ask the patient in advance. If some details
do not suit him, we should adapt to the circumstances and not be
inflexible.
Trời: Nơi chư thiên cư ngụ,
trên cõi người, nhưng còn phải chịu luân hồi sanh tử—Heaven—The realm of
the gods—Gods—Devas—Celestial—Heavenly beings—Heavenly beings are believed
to inhabit the heavens above the human realm, but are still unenlightened
and still bound to Samsara (luân hồi) and subject to birth and death.
Trời Biến Tịnh: Heaven of
Universal Purity.
Trời Cực Sắc: Ultimate Form
Heaven.
Trời Đại Phạm: Heaven of Great
Brahma Lord.
Trời Đao Lợi: Trayastrimsa
(skt)—Tavatimsa (p).
1) Thiên
xứ thứ hai trong sáu cõi trời dục giới, còn gọi là Ba Mươi Ba Tầng Trời.
Một trong những cổ thần Ấn Độ, thần trời là vị thần đã chiến đấu với ma
quân bằng kim cang chùy. Trời Đao Lợi dưới trời Trimurti, trời Phạm thiên,
trời Visnu và Siva. Phật giáo nhận trời Đao Lợi như vị thần hộ pháp, tuy
nhiên, vị trời nầy vẫn kém hơn Phật hay bất cứ ai đã đạt được giác ngộ—The
second level heaven of six heavens of desire, also called Heaven of
Thirty-Three—The palace of Trayastrimsa Heaven—One of the ancient gods of
India, the god of the sky who fights the demons with his vijra, or
thunderbolt. He is inferior to the Trimurti, Brahma, Visnu, and Siva,
having taken the place of Varuna, or sky. Buddhism adopted him as its
defender, though, like all the gods, he is considered inferior to a Buddha
or any who have attained bodhi. His wife is Indrani.
2) Theo
Tỳ Kheo Bồ Đề trong Vi Diệu Pháp, vì truyền thuyết có ba mươi ba vị do
Sakka lãnh đạo, tự hiến đời mình cho lợi ích của người khác, nên cả ba
mươi ba vị đều được sanh vào cõi nầy và ngự trị trong cung Vejayanta tại
kinh đô Sudassana—According to Bhikkhu Bodhi in Abhidhamma, Tavatimsa is
so named because, according to legend, a group of thirty-three
noble-minded men who dedicated their lives to the welfare of others were
reborn here as the presiding deity and this thirty-two assistants. The
chief of this realm is Sakka, also known as Indra, who resides in the
Vejayanta Palace in the realm’s capital city, Sudassana.
Trời Đâu Suất: Nơi xuất hiện Hạ
Sanh Di Lặc Tôn Phật—Tushita Heaven—The Heaven-World in which the
Buddha-to-be, Maitreya, waits for his coming—See Đâu Suất Thiên.
Trời Đế Thích: Thiên Đế
Thích—Sakra-devanam-indra (skt)—God Indra—Thỉnh thoảng trời Đế Thích cũng
là những người hộ pháp trong Phật giáo—He or she sometimes was
incorporated into Buddhism as a guardian of Buddhist teachings.
Trời Hóa Lạc: Nimmanarati
(p)—Cõi trời Dục giới nơi mà chư Thiên có khả năng tạo ra những thú vui
bằng tư tưởng, tùy theo sở thích của họ—The realm of Heaven of Desire
where the gods have the power to create objects of sensual enjoyment by
thought, in accordance with their desires.
Trời Phạm Chúng: Heaven of
Multitudes of Brahma.
Trời Phạm Phụ: Heaven of
Ministers of Brahma.
Trời Phạm Thiên: The World of
Brahmas.
Trời Phi Tưởng: No-Thought
Heaven.
Trời Phước Sanh: Birth of
Blessing Heaven.
Trời Quang Âm: Heaven of Light
Sound.
Trời Sắc Cứu Cánh: Ultimate
Form Heaven.
Trời Tha Hóa:
Paranimmitavasavatti (p)—Cõi Trời Tha Hóa Tự Tại, những vị trời đó có khả
năng đem những vật mà người khác tạo nên đặt dưới quyền điều khiển của
mình—Heaven of Comfort Gained Through Others’ Transformation, who do not
create objects of sensual enjoyment themselves, but they control the
objects of enjoyment for their use by their attendants.
Trời Thiên Đế: Heaven King.
Trời Thiện Kiến: Good-View
Heaven.
Trời Thiểu Quang: Heaven of
Lesser Light.
Trời Thiểu Tịnh: Heaven of
Lesser Purity.
Trời Trường Thọ: Long-Life
Heaven.
Trời Tu Ma Diệm: Suyama Heaven.
Trời Vô Lượng Quang: Heaven of
Limitless Light.
Trời Vô Lượng Tịnh: Heaven of
Limitless Purity.
Trời Vô Não: No-Affliction
Heaven.
Trời Vô Nhiệt: Nơi không còn
sức nóng của lo âu phiền não nữa---Heatless Heaven—No-Heat Heaven—No heat
from worries and affliction.
Trời Vô Sắc: Akanista.
Trợn Mắt: To roll one’s eyes.
Trợt: To slip.
Trổ Nghiệp: Theo Phật giáo,
nghiệp thiện hay bất thiện, chẳng bao giờ biến mất cho đến khi nào kết quả
chín mùi; tuy nhiên, thanh tịnh nghiệp có thể xãy ra bằng cách nhận lỗi,
sửa lỗi và cố gắng làm những chuyện thiện lành—Karma ripens—According to
the Buddhist theory, karma, wholesome or unwholesome, never disappears
until its result ripens; however, the purification of accumulated negative
karma is possible by declaring, confessing and stopping committing of
non-virtuous actions.
Trộm Cắp: Dinnadana
(p)—Stealing.
(A) Nghĩa
của trộm cắp—The meanings of Dinnadana:
1) Không
trộm cắp có nghĩa là không được lấy bất cứ thứ gì của người khác: Not to
steal means one should not steal anything from others.
2) Không
được tước đoạt quyền lợi của người khác: Not to steal also means that one
should not rob other’s rights.
(B) Năm
điều kiện cần thiết để thành lập một nghiệp trộm cắp—The consequences of
stealing. Five conditions that are necessary for the completion of the
evil of stealing.
1) Một
vật sở hữu của người khác: Another’s property.
2) Biết
đó là vật sở hữu của người khác: Knowledge that it is so.
3) Cố ý
muốn đoạt vật ấy làm sở hữu của mình: Intention of stealing.
4) Cố
gắng trộm cắp: Effort to steal.
5) Thật
sự trộm cắp hay sự trộm cắp được thực hiện bằng hành động: Actual removal.
(C) Quả
báo của trộm cắp—The consequences of stealing:
·
Nghèo nàn: Poverty.
·
Khốn khổ: Misery.
·
Thất vọng: Disappointment.
·
Làm thân nô lệ: Dependent livelihood.
Trốn Tránh: Escapism.
Trống Trời: Khi nào những vị
trời bị đắm nhiễm ngũ dục thì trống liền trổi dậy để cảnh cáo họ rằng mọi
việc chóng phai, vui sướng luôn mang lại những hạt giống khổ đau—Celestial
drum—Drum of the teaching—Heavenly drum—Whenever the gods become deluded
and caught in the quagmire of the five desires, a celestial drum suddenly
sounds to warn them that all things are evanescent; pleasure brings with
it the seed of suffering.
Tru Di: To exterminate.
Tru Di Tam Tộc: To exterminate
three generations.
Truù:
1) Ban
ngày: Day—Daytime—Daylight.
2) Trú
ngụ: Sthiti (skt)—To abide—To dwell—To stay—To settle.
Trú Ám Lâm:
1) Khu
rừng mà ban ngày cũng tối ám như ban đêm: The grove of daylight darkness.
2) Tên
gọi nghĩa địa: A cemetery.
Trú Ấn: To find shelter—To take
refuge—To shelter oneslef.
Trú Chân: To stay.
Trú Dạ Lục Thời: The six
periods of the day and night.
Trú Manh: Day-blindness.
Trù:
1) Nhà
bếp: A kitchen.
2) Trù
mật: Đông đặc—Dense—Thick-set.
3) Trù
tính—To calculate—To devise—To plan.
Trù Định: To plan.
Trù Lâm: Rừng dầy—Dục vọng của
chúng sanh được ví như khu rừng dầy, một khi đã lạc vào thì khó lòng mà
thoát ra được—A thick or dense forest, e.g. the passions, etc.
Trù Lượng: Reckoning—To reckon
and measure.
Trù Rủa: To curse.
Truï:
1)
Sthiti (skt)—Ngụ tại—To stay—To abide—To dwell—To settle—To stop.
2) Cây
cột: A post—A pillar.
Trụ Chỗ Vô Ngại: To dwell in
the abode of nonattachment and nonobstruction.
Trụ Địa: Nơi trụ vào chân lý,
thí dụ như bằng niềm tin tự tin nơi giáo pháp và những quả vị—Dwelling
place; abiding place in the Truth, i.e. the acquirement by faith of a self
believing in the dharma and producing its fruits.
Trụ Định: Fixed, certain,
firmly settled—See Lục Chủng Quyết Định.
Trụ Định Bồ Tát: Bồ Tát sau khi
tu lục độ hành trong ba a tăng kỳ kiếp, thì còn phải tu trong 100 đại kiếp
nữa mới có thể thành tựu viên mãn. Các giai đoạn tu hành trong 100 đại
kiếp nầy được gọi là “Trụ Định.” Trụ định là an trụ ở sáu loại quyết
định—A Bodhisattva firmly fixed, or abiding in certainty. After a
Bodhisattva has completed three great asamkhyeya kalpas he has still one
hundred great kalpas to complete. This period is called abiding in fixity
or firmness, divided into sixth kinds:
1) Thiện
Thú Định: Quyết định sanh ở thiện đạo trời, người—Certainty of being born
in a good gati such as in the deva realms or in the realms of human
beings.
2) Quyết
định sanh vào nơi quý tộc: Certainty of being born in a noble family.
3) Quyết
định sanh ra có đầy đủ lục căn không tàn khuyết: Certainty of being born
with a good body.
4) Quyết
định sanh làm người nam: Certainty of being born as a man.
5) Quyết
định có được túc mệnh thông: Certainty of being born knowing the abiding
places of his transmigrations.
6) Quyết
định tạo tác thiện nghiệp bền vững không thoái chuyển: Certainty of being
born knowing the abiding character of his good work.
** For more information,
please Lục Chủng
Quyết Định.
Trụ Kiếp: Vivarta siddha kalpa
(skt)—Thời kỳ mà các loài hữu tình yên ổn tồn trụ (một trong bốn trung
kiếp, thành, trụ, hoại, không)—The abiding or existing kalpa; the kalpa of
human existence.
** For more information,
please see Tứ Kiếp.
Trụ Nơi Chánh Định: To dwell in
Correct Samadhi.
Trụ Pháp Vị: To abide in place
in the Dharma.
Trụ Quả: Trụ nơi quả vị đạt
được, như việc Thánh giả Thanh Văn và Duyên Giác an trụ quả đã chứng được
mà không cầu tiến lên quả vị Phật—Abiding in the fruit, i.e. sravakas and
pratyeka-buddhas who rest satisfied in their attainments and do not strive
for Buddhahood.
Trụ Quả Duyên Giác: Những vị
Duyên Giác sau khi chứng quả thì an trụ chứ không cầu tiến lên quả vị
Phật—Pratyeka-buddhas who rest satisfied in their attainments and do not
strive for Buddhahood.
Trụ Quả La Hán: Những vị A La
Hán sau khi chứng quả thì an trụ chứ không cầu tiến lên quả vị
Phật—Arahants who rest satisfied in their arahanthood and do not strive
for Buddhahood.
Trụ Quả Thanh Văn: Những vị
Thanh Văn sau khi chứng quả thì an trụ chứ không cầu tiến lên quả vị
Phật—Sravakas who rest satisfied in their attainments and do not strive
for Buddhahood.
Trụ Sơn: Trụ trì chùa—To dwell
on a mountain—To be in residence on a mountain—To be a temple master.
Trụ Tháp: Tháp trong tự viện—A
pogoda.
Trụ Trì:
1) To
dwell and control.
2) An
trụ ở đời mà hộ trì Phật pháp: Resident superintendent; to maintain, or
firmly hold to faith in the Buddha.
3) Vị
Tăng hay Ni trụ trì một tự viện: Abbot—Abbess—A monk or nun who is head of
a monastery (convent).
Trụ Trượng Tử: Cây gậy—A
staff—A crutch.
Trụ Tướng: Sthiti (skt)—Một
trong bốn tướng sanh, trụ, hoại, diệt—Abiding, being the state of
existence, one of the four characteristics of all beings and things, i.e.
birth, existence, change or decay, and death or cessation.
Trụ Vị:
1) Nơi
trụ: Trụ vị, một trong thập trụ Bồ Tát, sau khi qua “tín vị” thì trụ lại
để phát triển tu tập—Abiding place, one of the ten stages, resting and
developing places or abodes of the Bodhisattva, which is entered after the
stage of belief has been passed.
2) Trụ
lại một nơi: To abide in a place.
Trụ Xứ Bất Tịnh: Dirty place of
residence.
Truân Na: Curna (skt)—Cát
bụi—Dust—Sand.
Trúc:
1) Thiên
Trúc (Trúc Độ): Ấn Độ—India.
2) Venu
(skt)—Bamboo.
Trúc Đàm Ma La: Dharmaraksa
(skt)—Indu-Dharmaraksa (skt)—Trúc Pháp Hộ hay Trúc Đàm Ma La sát (họ Trúc,
tên Đàm Ma La Sát)—Người nước Nguyệt Chi, biết 36 thứ tiếng, đã dịch 175
tác phẩm vào khoảng 266-317 sau Tây Lịch—A native of Tukhara, who knew
thirty-six languages and translated some 175 works around 266-317 A.D.
Trúc Đàm Ma La Sát: See Trúc
Đàm Ma La.
Trúc Kinh: Kinh điển Phật Giáo
Ấn Độ—Indian, i.e. Buddhist, sutras.
Trúc Lâm: Một nơi nổi tiếng gần
thành Vương Xá, được vua Bình Sa Vương của xứ Ma Kiệt Đà cúng dường cho
Phật, bây giờ là Rajdir, thuộc bang Bihar Ấn Độ—Bamboo Grove—Bamboo
Forest—A famous place of retreat near Rajagriha given to the Buddha by
King Bimbisara of Magadha, now Rajgir, Bihar, India.
Trúc Lâm Tịnh Xá: Venuvana
(skt)—Trúc Lâm Tự—Trúc Viên—Trúc Uyển—See Bamboo-Grove Vihara.
1) Theo
Eitel trong Trung Anh Phật Giáo Từ Điển, Trúc Lâm Tịnh Xá được vua Bình Sa
Vương xây lên cho các Sa môn, về sau ông dâng cho Phật—Bamboo Forest
Monastery or “Bamboo-grove,” a park called Karanda-venuvana, near
Rajagrha, made by Bimbisara for a group of ascetics, later given by him to
Sakyamuni.
2) Lại
có thuyết khác cho rằng Trúc Lâm Tịnh Xá được trưởng giả Ca-Lan-Đà xây lên
và hiến cho Phật—Another version says that the park was built by Karanda
and later was given to Sakyamuni Buddha.
Trúc Lâm Tự: Tên của một chùa
nổi tiếng ở Huế, Trung Việt. Chùa do Tỳ Kheo Ni Diệu Trường xây dựng năm
1903. Chùa được trùng tu toàn diện năm 1931. Trong sự nghiệp chấn hưng
Phật giáo, chùa Trúc Lâm đã góp vai trò phát khởi Phật giáo Việt Nam.
Nhiều danh Tăng và Ni đã xuất thân từ chùa Trúc Lâm như Hòa Thượng Mật
Khế, là giảng sư đầu tiên của Hội An Nam Phật Học, Hòa Thượng Mật Thể, tác
giả của quyển Việt Nam Phật Giáo Sử Lược, và Sư Bà Diệu Không, người có
công trong việc chấn hưng Ni Bộ—Name of a famous temple in Huế, Central
Vietnam. The temple was built in 1903 by Nun Diệu Trường. In 1931, the
temple was rebuilt on a large scale. In the cause of reinforcing
Vietnamese Buddhism, Trúc Lâm temple played a starting role. Many famous
monks and nuns were from Trúc Lâm, i.e., Most Venerable Mật Khế, the first
lecturer of An Nam Buddhist Association, Most Venerable Mật Thể, the
author of Vietnam Buddhist History, Nun Diệu Không, who helped organizing
the Nun Order in Vietnam.
Trúc Pháp Lan: Dharmaraksa or
Indu-dharmaranya (skt)—Họ Trúc tên Pháp Lan, người đã dịch 5 bộ kinh vào
khoảng những năm 68-70 sau Tây Lịch, và cũng là người mà người ta lầm
tưởng đã cùng Ngài Ca Diếp Ma Đằng vào Trung Quốc dịch Kinh Tứ Thập Nhị
Chương—Indu-Dharmaranya, who translated five works in 68-70 A.D., and to
whom with Kasyapa Matanga the translation of the sutra of 42 sections is
wrongly attributed.
Trúc Pháp Lực: Dharmabala
(skt)—Người đã dịch bộ Kinh Trường Thiên A Di Đà vào khoảng năm 419 sau
Tây Lịch, bây giờ đã thất lạc—Translator of the larger Sukhavati-vyuha in
around 419 A.D., now lost.
Trục: Xua đuổi—To expel—To
exorcise—To drive away.
Trục Trặc: To go (work—run)
wrong or badly.
Trục Xe: Axle.
Trui: To harden
Trùm Khắp: Vibhu (skt)—Being
everywhere—Far-extending—All-pervading—Omnipresent.
Trung: Madhya (skt).
1)
Trung Tâm: Middle—Central—Medium.
2)
Trung Bình: The mean.
3) Bên
Trong: Within.
4)
Trung Thành: Loyal.
Trung A Hàm:
Majjhima-Nikaya—The Midle Length Discourses in the Pali Canon—The middle
Agama.
Trung Ấm: Còn gọi là Trung Hữu
là sự hiện hữu giữa lúc chết và lúc đầu thai, giai đoạn thay đổi từ bảy
đến 49 ngày—The intermediate existence between death and reincarnation, a
stage varying from seven to forty-nine days, when the karma-body will
certainly be reborn.
** For more information,
please see
Antara-bhava in
Sanskrit/Pali-
Vietnamese Section.
Trung Ấm Pháp Sự: Những phương
cách được gia đình người chết áp dụng khoảng 49 ngày giữa lúc chết và lúc
đầu thai, để bảo đảm cho người chết được tái sanh vào cõi tốt hơn---The
means used by the deceased’s family for ensuring a favorable reincarnation
during the intermediate stage, between death and reincarnation.
Trung Ấn: Trung tâm Ấn
Độ—Central India.
Trung Bát: Một trong năm loại
bất hoàn. Đây là thân trung hữu của các bậc Thánh đi thẳng vào Niết
Bàn—One of the five kinds of those who never recede but go on to
parinirvana.
Trung Biên Luận: Tên đủ là Biện
Trung Biên Luận, được Ngài Thiên Thân Bồ Tát biên soạn, ngài Huyền Trang
dịch ra ba quyển, ngài Trần Chân Đế dịch ra hai quyển. Bộ luận giải thích
về Trung Luận—A treatise by Vasubandhu, translated by Hsuan-Tsang in three
books and by Chen-Chen-Ti in two books. It is an explanation of the
Madhyanta-vibhaga-sastra, said to have ben given by Maitreya to Asanga.
Trung Bối: Theo Kinh Vô Lượng
Thọ, thì đây là những người sẽ tái sanh vào trung phẩm Tịnh Độ—According
to the Infinite Life Sutra, this is the middle class of those in the next
life in the Pure Land—See Cửu Phẩm Liên Hoa and Cửu Phẩm An Dưỡng.
Trung Bối Quán: Quán vãng sanh
Trung Phẩm (thượng, trung, và hạ sanh)—The meditation on the middle class
of the Pure Land—See Cửu Phẩm Liên Hoa and Cửu Phẩm An Dưỡng.
Trung Bối Sanh: See Trung Bối.
Trung Can: Loyal.
Trung Căn: Căn tính trung bình,
không quá thông minh hay ngu đần—Medium (moderate) capacity—Neither
clever nor dull—See Tam Căn.
Trung Châu: Mỗi châu dưới chân
núi Tu Di đều có hai châu phụ gọi là “trung châu”—Each of the four great
continents at the foot of Mount Sumeru has two middling continents.
Trung Chính: Upright—Just.
Trung Dung: Happy medium.
Trung Đài: Tên của vị Phật ở
trung tâm Liên Hoa (Tỳ Lô Giá Na)—The name of a Buddha in the center of a
lotus (Vairocana).
Trung Đài Bát Diệp Viện: Điện
Sen tám Cánh—The court of the eight-petalled lotus in the middle of the
Garbhadhatu, with Vairocana (Tỳ Lô Giá Na) in the center and four Buddhas
and four Bodhisattvas on the eight petals:
(A) Phật Tỳ
Lô Giá Na ở giữa: Vairocana Buddha in the center.
(B) Bốn vị
Phật trên bốn cánh chính-- Four Buddhas on the four petals:
1) Đông
phương A Súc Bệ Phật: Aksobya in the East.
2) Nam
phương Nam Phật: Ratnasambhava in the South.
3) Tây
Phương A Di Đà Phật: Amitabha in the West.
4) Bắc
phương Bất Không Phật: Amoghasiddhi in the North.
(C) Bốn vị
Bồ Tát trên bốn cánh phụ—Four Bodhisattvas in the four petals:
1) Đông
Nam Phổ Hiền Bồ Tát: Samantabhadra in the Southeast.
2) Tây
Nam Văn Thù: Manjusri in the Southwest.
3) Tây
Bắc Quán thế Âm: Avalokitesvara in the Northwest.
4) Đông
Bắc Di Lặc: Maitreya in the Northeast.
Trung Đạo: Madhya or Madhyama
(skt).
·
Con đường giữa mà Phật Thích Ca Mâu Ni đã tìm ra, khuyên
người nên từ bỏ nhị biên, tránh làm các điều ác, làm các điều lành và giữ
tâm thanh tịnh. Trung Đạo có nghĩa là “bất nhị (không hai)”. Trung Đạo
vượt trên hữu vô, nhưng chứa đựng tất cả. Đức Phật dạy: “Khi phân biệt bị
loại bỏ thì trung đạo được đạt đến, vì chân lý không nằm trong sự cực đoan
mà là trong trung đạo.”—Middle way—The “mean” between two extremes
(between realism and nihilism, or eternal substantial existence and
annihilation or between), the idea of a realm of mind or spirit beyond the
terminology of substance (hữu) or nothing (vô); however, it includes both
existence and non-existence—Middle path—Sakyamuni Buddha discovered the
Middle Path which advises people to give up extremes, to keep away from
bad deeds, to do good and to purify the mind—The Eightfold Noble Path. The
Buddha taught: “When discrimination is done away with, the middle way is
reached, for the Truth does not lie in the extreme alternatives but in the
middle position.”
·
Học thuyết về Trung Đạo khởi thủy có nghĩa là con đường giữa
của hai thái cực lạc quan và bi quan. Địa vị chính giữa như vậy lại là
thái cực thứ ba, không nghiêng theo bên đường nầy hay bên đường kia là ý
chỉ của Phật. Chắc chắn như vậy, vì Đức Phật bắt đầu bằng con đường giữa
nầy coi như một bước tiến duy nhất cao hơn những cực đoan thông thường
kia. Tuy nhiên, từng cấp hướng thượng của nấc thang biện chứng sẽ nâng dần
chúng ta lên cao mãi cho đến lúc đạt tới giai đoạn loại hẳn thiên kiến của
phản đề về ‘hữu’ và ‘vô,’ và siêu việt chúng bằng một tổng đề về duy tâm
luận. Trung Đạo cũng có ý vị như là Chân Lý Tối Cao—The doctrine of the
Middle Path means in the first instance the middle path between the two
extremes of optimism and pessimism. Such a middle position is a third
extreme, tending neither one way nor the other is what the Buddha wanted
to say. The Buddha certainly began with this middle as only one step
higher than the ordinary extremes. A gradual ascent of the dialectical
ladder, however, will bring us higher and higher until a stage is
attained wherein the antithetic onesidedness of ens and non-ens is denied
and transcended by an idealistic synthesis. In this case the Middle Path
has a similar purport as the Highest Truth.
·
Theo Kinh Giáo Thọ Ca Chiên Diên, Đức Phật đã nói với tôn
giả Ca Diếp: “Nầy ông Ca Diếp! ‘Là’ là một cực đoan, ‘không là’ cũng là
một cực đoan. Cái được coi là trung đạo thì không thể sờ thấy, không thể
so sánh, không nơi chốn, không hiển hiện, không thể giải thích. Ông Ca
Diếp, đó chính là trung đạo. Trung đạo là sự cảm nhận Thực Tại.” Những sự
cực đoan trở thành những con đường không có lối thoát của chủ thuyết vĩnh
hằng và đoạn diệt. Có những người chỉ bám víu vào ‘vô,’ hoặc có những
người chỉ bám víu vào ‘hữu.’ Đức Phật đã xử dụng thuyết Trung Đạo để vạch
ra chân lý mọi sự vật trên thế giới nầy không phải là ‘hữu’ tuyệt đối, mà
cũng không phải là ‘vô’ tuyệt đối. Kỳ thật, mọi vật đều có sanh có diệt,
tạo nên sự chuyển hóa liên tục không ngừng. Trung Đạo có nghĩa là thực tại
siêu việt đối với những cách lý luận nhị phân của lý trí và thực tại không
thể bị hạn định hoặc đóng khung trong những lựa chọn ‘là,’ ‘không là.’—In
the Katyayanavavade sutra, the Buddha told Maha-Kasyapa: “Kasyapa! ‘It is
one extreme alternative, not is’ is another extreme alternative. That
which is the madhyama position is intangible, incomparable, without any
position, non-appearing, incomprehensible. That is what is meant by
madhyama position. Kasyapa! It is perception of Reality.” Extremes become
the dead ends of eternalism and annihilism. There are those who cling
exclusively to nonbeing and there are others who cling exclusively to
being. By his doctrine of Middle Way (madhyama pratipat), the Buddha meant
to show the truth that things are neither absolute being nor absolute
nonbeing, but are arising and perishing, forming continuous becoming, and
that Reality is transcendent to thought and cannot be caught up in the
dichotomies of the mind.
Trung Đạo Ấn Pháp Giới: The
doctrine of the “mean” is the dharmadhatu or the spiritual universe.
Trung Đạo Đệ Nhứt Nghĩa: Chư
pháp chẳng qua đều ở trong trung đạo nên gọi là đệ nhứt nghĩa—The “mean”
is the first and the chief of all principles, nothing is outside it.
Trung Đạo Giáo: See
Trung Đạo Tông.
Trung Đạo Không: Cái “không của
cửa phương tiện. Đây là từ ngữ của trường phái Thông Giáo—The “void” of
the means. This is the term of the Intermediate Schools.
** For more information,
please see
Bất Đản Không.
Trung Đạo Quán: Một trong tam
quán của tông Thiên Thai, quán lý trung đạo để đoạn hoặc vô minh—One of
the T’ien-T’ai three kinds of meditation, on the doctrine of the mean to
get rid of the illusion of phenomena.
Trung Đạo Thực Tướng: Thực
tướng của chư pháp là phi hữu phi không (đây là trung đạo phi hữu phi
không)—The reality of the “means” is neither substance (existent), nor
void (non-existent), but is a reality which is neither, or a mean between
the two extremes of materialism and nihilism.
Trung Đạo Tông: Theo Pháp Tướng
Tông, thời kỳ giáo thuyết thứ ba của Đức Phật, vạch ra lối Trung Đạo giữa
hai thái cực, chân lý tuyệt đối không bị đóng khung trong hai thái cực sự
và lý—The third period of the Buddha’s teaching, according to the
Dharmalaksana, giving the via media between the two extremes, the absolute
as not confined to the phenomenal or the noumenal.
Trung Đạo Ứng Bổn: Theo nghĩa
của hai giáo Biệt Viên, lấy trung đạo viên thực làm căn bản của ứng hóa
thân—The “mean” as the basic principle in the special and perfect
teachings of the doctrine of the transformation body.
Trung Đẳng: Middle class.
Trung Đế: Đế thứ ba trong Tam
Đế do trường phái Thiên Thai đặt ra. Trung Đế có nghĩa là trung chính
tuyệt đối, bất ly nhị biên, bất tức nhị biên (không xa lìa hai bên, mà
cũng chẳng phải là hai bên)—The third of the three postulates of the
T’ien-T’ai school.
Trung Giá Y: See Trung Y.
Trung Gian: Medium.
Trung Gián Định: Còn gọi là
Trung Gián Tam Muội, Trung Gián Tịnh Lự hay Trung Gián Thiền—Trung gián
tam muội là thiền định của Đại Phạm Thiên Vương chứng được giai đoạn thiền
định giữa sắc giới và vô sắc giới—An intermediate dhyana stage between two
dhyana-heavens (form and formlessness).
**For more information,
please see Tầm Tứ.
Trung Gián Tam Muội: See Trung
Gián Định.
Trung Gián Thiền: See Trung
Gián Định.
Trung Gián Tịnh Lự: See Trung
Gián Định.
Trung Giới Nhi (Mà) Phàm Phu Tán Thán Như
Lai: Theo Kinh Phạm Võng trong Trường Bộ Kinh, phàm phu thường
tán thán Như Lai vì những thành tựu trung giới—According to the Brahmajala
Sutta in the Long Discourses of the Buddha, ordinary people often praise
the Tathagata for these average matters:
1) Trong
khi một số Sa Môn, Bà La Môn, dầu đã dùng các món ăn do tín thí cúng
dường, vẫn còn sống làm hại các hạt giống và cây cối. Như các hạt giống từ
rễ sanh, hạt giống từ nhành cây sanh, hạt giống từ đất sanh, hạt giống từ
chiết cây sanh, và hạt giống từ hạt cây sanh. Còn Sa Môn Cồ Đàm thì không
làm hại hột giống hay cây cối nào: Whereas, some ascetics and Brahmins,
feeding on the food of the faithful, are addicted to the destruction of
such seeds as are propagated from roots, from stems, from joints, from
cuttings, from seeds, the ascetic Gotama refrains from such destruction.
2) Trong
khi một số Sa Môn, Bà La Môn, dầu đã dùng các món ăn do tín thí cúng
dường, vẫn còn sống cất chứa và thọ hưởng các đồ vật, Như cất chứa các món
ăn, đồ uống, vải, xe cộ, đồ nằm, hương liệu, và mỹ vị. Còn sa môn Cồ Đàm
thì từ bỏ không cất chứa các vật trên: Whereas some ascetics and Brahmins,
feeding on the food of the faithful, remain addicted to the enjoyment of
stored-up goods such as food, drink, clothing, carriage, beds, pefumes,
meat, the acetic Gotama refrains from such enjoyment.
3) Trong
khi một số Sa Môn, Bà La Môn, dầu đã dùng các món ăn do tín thí cúng
dường, vẫn còn sống theo các du hý không chân chánh như múa, hát, nhạc,
kịch, ngâm vịnh, nhịp tay, tụng chú, đánh trống, diễn các tuồng thần tiên,
mãi võ, đấu voi, đấu ngựa, đấu trâu, đấu bò đực, đấu dê, đấu cừu, đấu gà,
đấu chim cun cút, đấu gậy, đấu quyền, đấu vật, đánh giặc, dàn trận, thao
dượt, diễn binh. Còn Sa môn Cồ Đàm thì từ bỏ các loại du hý không chân
chánh như trên: Whereas some ascetics and Brahmins remain addicted to
attending such shows as dancing, singing, music, displays, recitations,
hand-music, cymbals and drums, fairy shows, acrobatic and conjuring
tricks, combats of elephants, buffaloes, bulls, goats, rams, cocks and
quail, fighting with staves, boxing, wrestling, sham-fights, parades,
manoeuvers and military reviews, the ascetic Gotama refrains from such
displays.
4) Trong
khi một số Sa môn, Bà La Môn, dầu đã dùng các món ăn do tín thí cúng
dường, vẫn còn sống đánh bài và theo các trò giải trí như cờ tám hình
vuông, cờ mười hình vuông, cờ trên không, trò chơi trên đất, chỉ bước vào
những ô có quyền bước, trò chơi quăng thẻ rồi chụp nhưng không cho sụp
đống thẻ, chơi súc sắc, chơi khăn, lấy tay làm viết, chơi banh, chơi thổi
kèn bằng lá, chơi xe con, chơi cung nhỏ, chơi đoán chữ viết thiếu trên
không hay trên lưng, chơi đoán tư tưởng, chơi bắt chước bộ điệu. Còn sa
môn Cồ Đàm thì từ bỏ đánh bài và các loại giải trí như trên: Whereas some
ascetics and Brahmins remain addicted to such games and idle pursuits as
eight-or ten-row chess, chess in the air, hopscotch, spillikins, dicing,
hitting sticks, hand-pictures, ball-games, blowing through toy pipes,
playing with toy ploughs, turning someersaults, playing with toy
windmills, measures, carriages and bows, guessing letters, guessing
thoughts, mimicking deformities, the ascetic Gotama refrains from such
idle pursuit.
5) Trong
khi một số Sa Môn, Bà La Môn, dầu đã dùng các món ăn do tín thí cúng
dường, cũng vẫn sống dùng các giường cao và giường lớn như ghế bành, ghế
dài, nệm trải giường bằng len, vải trải giường nhiều tấm nhiều màu, chăn
len trắng, chăn len thêu bông, nệm bông, nệm thêu hình các con thú, mền
bằng lông thú cả hai phía, mền bằng lông thú một phía, mền có đính ngọc,
mền bằng lụa, tấm thảm lớn có thể chứa mười sáu người múa, nệm voi, nệm
ngựa, nệm xe, nệm bằng da sơn dương khâu lại với nhau, nệm bằng da sơn
dương gọi là kadali, tấm khảm với lầu che phía trên, ghế dài có đồ gối
chân màu đỏ. Còn Sa môn Cồ Đàm thì từ bỏ không dùng các giường cao và
giường lớn như trên: Whereas some ascetics and Brahmins remain addicted to
high and wide beds and long chairs, couches adorned with animal figures,
fleecy or variegated coverlets, coverlets with hair on both sides or one
side, silk coverlets, embroidered with gems or without, elephant-rugs,
horse-rugs, or chariot-rugs, choice spreads of antelope-hide, couches with
awnings, or with red cushions at both ends, the ascetics Gotama refrains
from such high and wide beds.
6) Trong
khi một số Sa Môn, Bà La Môn, dầu đã dùng các món cúng dường của tín thí,
cũng vẫn sống dùng các đồ mỹ phẩm. Như thoa dầu, đấm bóp, tắm, đập tay
chân cho mềm dẻo, gương, kem đánh mặt, vòng hoa và phấn son, phấn mặt, sáp
mặt, vòng đeo tay, tóc giả, gậy cầm tay, ống thuốc, gươm, lọng, dép thêu,
khăn đầu, ngọc, phất trần, vải trắng có viền tu dài. Còn Sa môn Cồ Đàm thì
từ bỏ không dùng các loại trang sức và mỹ phẩm như trên: Whereas some
ascetics and Brahmins remain adicted to such forms of self-adornment and
embellishment as rubbing the body with perfumes, massaging, bathing in
scented water, shampooing, using mirrors, ointments, garlands, scents,
unguents, cosmetics, bracelets, headbands, fancy sticks, bottles, swords,
sunshades, decorated sandals, turbans, gems, yak-tail fans, long-fringed
white robes, the ascetic Gotama refrains from such self-adornment.
7) Trong
khi một số Sa môn, Bà La Môn, dầu đã dùng các món đồ ăn do tín thí cúng
dường, vẫn còn sống nói những câu chuyện vô ích, tầm thường như câu chuyện
về vua chúa, câu chuyện về ăn trộm, câu chuyện về đại thần, binh lính, câu
chuyện hãi hùng, chiến tranh, câu chuyện về đồ ăn, đồ uống, vải mặc,
giường nằm, câu chuyện về vòng hoa, hương liệu, câu chuyện về bà con, xe
cộ, làng xóm, thị tứ, thành phố, quốc độ, câu chuyện về đàn bà, đàn ông,
câu chuyện về vị anh hùng, câu chuyện bên lề đường, câu chuyện tại chỗ lấy
nước, câu chuyện về người đã chết, các câu chuyện tạp thoại, câu chuyện về
hiện trạng của thế giới, hiện trạng của đại dương, câu chuyện về sự hiện
hữu và sự không hiện hữu. Còn Sa môn Cồ Đàm thì từ bỏ không nói những câu
chuyện vô ích, tầm thường kể trên: Whereas some ascetics and Brahmins
remain addicted to such unedifying conversation as about kings, robbers,
ministers, armies, dangers, wars, food, drink, clothes, beds, garlands,
perfumes, relatives, carriages, villages, towns, and cities, countries,
women, heroes, street gossip and well gossip, talk of the departed,
desultory chat, speculations about land and sea, talk about being and
non-being, the ascetic Gotama refrains from such conversation.
8) Trong
khi một số Sa Môn, Bà La Môn, dầu đã dùng các món ăn do tín thí cúng
dường, vẫn còn sống bàn luận tranh chấp, như nói: ‘Ngươi không biết pháp
và luật này, tôi biết pháp và luật nầy.’ ‘Sao ngươi có thể biết pháp và
luật nầy?’ ‘Ngươi đã phạm vào tà kiến, ta mới thật đúng chánh kiến; lời
nói của ta mới tương ưng, lời nói của ngươi không tương ưng; những điều
đáng nói trước ngươi lại nói sau; những điều đáng nói sau ngươi lại nói
trước;’ ‘chủ kiến của ngươi đã bị bài bác;’ ‘câu nói của ngươi đã bị thách
đấu;’ ‘ngươi đã bị thuyết bại.’ ‘Hãy đến mà giải vây lời nói ấy; nếu có
thể được, gắng thoát ra khỏi lối bí.’ Còn Sa môn Cồ Đàm thì từ bỏ những
cuộc biện luận tranh chấp đã kể trên: Whereas some ascetics and Brahmins
remain addicted to disputation such as: ‘You don’t understand this
doctrine and discipline—I do!’ ‘How could you understand this doctrine and
discipline?’ ‘Your way is all wrong—Mine is right!’ ‘I am consistent-- you
aren’t!’ ‘You said last what you have said first, and you said first what
you should have said last!’ ‘What you took so long to think up has been
refuted!’ ‘Your argument has been overthrown, you’re defeated!’ ‘Go on,
save your doctrine – get out of that if you can!’ The ascetic Gotama
refrains from such disputation.
9) Trong
khi một số Sa Môn, Bà La Môn dầu đã dùng các đồ ăn do tín thí cúng dường,
vẫn còn sống cho đưa các tin tức, hoặc tự đứng làm môi giới, như cho các
vua chúa, đại thần, các vị Sát Đế Lợi, Bà La Môn, gia chủ, cho các thanh
niên và nói rằng: “Hãy đi đến chỗ ấy, hãy đi lại chỗ kia; mang cái nầy
lại, đem cái nầy đến chỗ kia.” Còn Sa môn Cồ Đàm thì từ bỏ không cho đưa
các tin tức và tự đứng làm môi giới: Whereas some ascetics and Brahmins
remain addicted to such things as running errands and messages, such as
for kings, ministers, nobles, Brahmins, householders and young men who
say: “Go here – go there! Take this there–bring that from there!’ The
acetic Gotama refrains from such errand-running.
10) Trong
khi một số Sa môn, Bà La Môn, dầu đã dùng các món ăn do tín thí cúng
dường, vẫn còn sống lừa đảo, nói lời siểm nịnh như trên: Whereas some
ascetics and Brahmins remain addicted to deception, patter, hinting,
belittling, and are always on the make for further gains, the ascetic
Gotama refrains from such deception.
Trung Hiếu: Loyal and pious.
Trung Hòa: Neutrality.
Trung Hối: Repenting or
recanting midway (doubting and falling away).
Trung Hưng: Restoration.
Trung Hữu: Antara-bhava—Một
trong bốn thứ “hữu,” quả báo trong khoảng giữa đời hiện tại và vị lai
(giữa lúc chết và lúc tái sanh)—One of the four kinds of bhava, the
intermediate state of existence between death and reincarnation.
** For more information,
please see
Antara-bhava in
Sanskrit/Pali-
Vietnamese Section
and Thân
Trung Ấm in
Vietnamese-English
Section.
Trung Hữu Chi Lữ: Một chúng hữu
tình đang tìm nơi tái sanh—An unsettled being in search of a new habitat
or reincarnation.
Trung Kiên: Loyal—Faithful.
Trung Kiếp: Một thời kỳ 336
triệu năm, bốn trung kiếp làm thành một đại kiếp—Middling kalpa—A period
of 336.000.000 years (four middling kalpas make on great
kalpa—Thành+Trụ+Hoại+Không= A great kalpa).
Trung Lộ: Trung đạo—Middle
Path.
Trung Luận: Madhyamika-Sastra
(skt)—Tên đầy đủ là Trung Quán Luận, do Bồ tát Long Thọ biên soạn và Thanh
Mục Bồ tát chú thích, Cưu Ma La Thập đời Tần dịch sang Hoa Ngữ. Đây là một
trong ba bộ luận căn bản của tông Tam Luận. Luận nầy chủ trương trung đạo
triệt để, chống lại luận cứ “hữu” “không” hoặc nhị biên “sanh” và “vô
sanh.” Theo Ngài Long Thọ thì trung đạo là chân tánh của vạn hữu, không
sanh không diệt, không hiện hữu, không phi hiện hữu—The Madhyamika-sastra,
attributed to the Bodhisattva Nagarjuna as creator, and Nilakasus as
compiler, translated into Chinese by Kumarajiva in 409 A.D. It is the
principal work of the Madhyamika, or Middle School. The teaching of this
school opposes the rigid categories of existence and non-existence, and
denies the two extremes of production or creation and non-production and
other antitheses, in the interests of a middle or superior way. According
to Nagarjuna, the Middle Way is true nature of all things which neither is
born nor dies, and cannot be defined by either the two extremes, existence
or non-existence.
Trung Luận Tính Giáo: The
Madhyamika school, which has been described as a system of sophistic
nihilism, dissolving every proposition into a thesis and its antithesis,
and refuting both.
Trung Luận Tông: Madhyamika
School.
(I) Trung
Luận tông Ấn Độ—The Madhyamika School in India:
(A) Lịch sử
thành lập Trung Luận Tông—The history of the formation of the Madhyamaka
sect: Được gọi là Trung Quán Tông vì bộ phái nầy chú trọng đến quan điểm
trung dung (madhyamika-pratipat). Trong bài thuyết pháp đầu tiên trong
vườn Lộc Uyển, Đức Phật đã giảng về Trung đạo, vốn là con đường tu tập
không phải qua sự hành xác mà cũng không phải buông xuôi theo dục lạc.
Trung đạo không chấp nhận cả hai quan điểm liên quan đến sự tồn tại và
không tồn tại, trường cửu và không trường cửu, ngã và vô ngã, vân vân. Nói
tóm lại, tông phái nầy không chấp nhận thuyết thực tại mà cũng không chấp
nhận thuyết không có thực tại, phái nầy chỉ chấp nhận sự tương đối. Tuy
nhiên, cần nên thấy rằng Trung Đạo được đề xướng ở Ba La Nại có một ý
nghĩa về đạo đức sống, còn Trung Đạo của Trung Luận tông là một khái niệm
siêu hình. Trường phái mà chủ thuyết dựa vào ba bộ luận chính của Ngài
Long Thọ. Đặc điểm nổi bậc nhất của tông phái nầy là nhấn mạnh đến chữ
‘Không’ và ‘Không Tánh’ nhiều lần, cho nên nó cũng còn được gọi là tông
phái có ‘hệ thống triết học xác định rằng ‘không’ là đặc tánh của Thực
Tại. Ngoài ra, đã có rất nhiều nhà tư tưởng Trung Luận đi theo ngài Long
Thọ như Thánh Thiên (Aryadeva) vào thế kỷ thứ ba, Buddhapatila vào thế kỷ
thứ năm, Chandrakirti vào thế kỷ thứ sáu, và Santideva vào thế kỷ thứ
bảy—The Madhyamikas were so called on account of the emphasis they laid on
the middle view (madhyamika-pratipat). In his first sermon at Banares, the
Buddha preached the Middle Path, which is neither self-mortification nor a
life devoted to the pleasures of the senses. However, the middle path, as
advocated by the adherents of the Madhyamika system, is not quite the
same. Here, the middle path stands for the non-acceptance of the two views
concerning existence and non-existence, eternity and non-eternity, self
and non-self, and so on. In short, it advocates neither the theory of
reality nor that of the unreality of the world, but merely of relativity.
It is, however, to be noted that the middle path propounded at Banares has
an ethical meaning, while that of the Madhyamikas is a metaphysical
concept. The Middle School of which doctrine was based on the three main
works of Nagajuna. The most striking feature of Madhyamaka philosophy is
its ever-recurring use of ‘Sunya’ and ‘Sunyata.’ So this system is also
known as the school with the philosophy that asserts Sunya as the
characterization of Reality. Besides, there was a galaxy of Madhyamika
thinkers, such as Aryadeva in the third century A.D.), Buddhapalita in the
fifth century, Bhavaviveka in the fifth century, Chandrakirti in the sixth
century, and Santideva in the seventh century .
(B) Những
luận điểm quan trọng của Trung Luận tông—Important points of the
Madhyamika school:
1) Ngài
Long Thọ, sơ tổ Trung Luận tông đã viết rất nhiều sách, trong số đó Trung
Quán Luận được xem là tác phẩm quan trọng của ông. Sách nầy trình bày
triết lý Trung Luận tông một cách có hệ thống. Trong bài kệ mở đầu cuốn
sách, ngài Long Thọ đã tóm lược các điều cơ bản của triết lý nầy. Ngài đã
giảng giải luật Duyên Khởi bằng tám sự phủ định (see Bát Bất Trung Đạo):
Nagarjuna, the first patriarch of the Madhyamika school, wrote a number of
works, of which the Madhyamika-karika is regarded as his masterpiece. It
presents in a systematic manner the philosophy of the Madhyamika school.
In the invocation in verse at the beginning of the book, Nagarjuna gives
the fundamentals of his philosohy in a nutshell. He describes Dependent
Origination (Pratitya-samutpada) by means of eight negations.
2) Theo
Trung Luận thì tánh không (sunyata) là tuyệt đối: According to the
Madhyamika school, the indescribable absolute (sunyata) is the absolute.
3) Không
có sự khác biệt giữa luân hồi (samsara) và Niết Bàn (nirvana) hay sự
trống không (sunyata): There is no difference between phenomenal world
(samsara) and nirvana or sunyata (reality).
4) Sự
trống không hay tuyệt đối tương ứng với Phạm Thiên (Brahman) nirguna trong
sách Upanisads: Sunyata or the absolute corresponds to the nirguna Brahman
of the Upadesads.
5) Qua
triết lý ‘Tánh Không,’ Trung Luận tông bàn về cái hiện hữu tương đối, chứ
không phải là hiện hữu tuyệt đối: Through the philosophy of Sunyata, the
Madhyamika school discussed about the relative existence of thing, not the
absolute one.
6) Theo
quan điểm của Trung Luận tông thì ‘Tánh Không’ là ý tưởng trung tâm trong
triết lý của họ, do đó chủ thuyết nầy có tên là Sunyatavada. Trung Quán
Luận còn bàn về hai loại chân lý: tục đế hay chân lý theo qui ước hay theo
thường nghiệm (samvrti), và chân đế hay chân lý siêu nhiên (paramartha):
According to the views of the Madhyamika school, sunyata is the central
idea of its philosophy and is therefore designated the ‘sunyatavada.’ The
Madhyamika-karika further deals with two kinds of truths: the conventional
or empirical truth (samvrti), and the higher or transcendental truth
(paramartha)—See Nhị Đế.
(C) Sự phát
triển của Trung Luận tông—The development of the Madhyamika school: Theo
Giáo sư Bapat trong Hai Ngàn Năm Trăm Năm Phật Giáo, tới đầu thế kỷ thứ 5,
Trung Luận tông được chia làm hai trường phái tư tưởng là Prasanghika và
Svatantra. Trường phái đầu do Buddhapalita và trường phái sau do
Bhavaviveka thành lập. Prasanghika dùng phương pháp suy luận loại trừ để
xây dựng luận thuyết, còn Svatantra thì dùng kiểu suy luận độc lập. Có thể
nói rằng các trường phái Thiên Thai và Tam Luận ở Trung Hoa chủ trương
thuyết ‘Không Tánh,’ do đó là một sự tiếp nối của Trung Luận tông ở Ấn Độ:
According to Prof. Bapat in the Twenty-Five Hundred Years of Buddhism,
towards the beginning of the fifth century A.D., the Madhyamika school was
divided into two schools of thought: the Prasanghika school and the
Svatantra. The Prasanghika school uses the method of ‘reason of reduction’
to establish its thesis, while the Savtantra school employs independent
reasoning. The former was founded by Buddhapalita and the latter by
Bhavaviveka. It may bementioned that the T’ien-T’ai and San-Lun sects in
China advocated the doctrine of ‘sunyata’ and were thus a continuation of
the Indian Madhyamika sect.
(II) Trung
Luận Tông Trung Hoa—The Madhyamika School in China:
(A) Lịch sử
thành lập Trung Luận tông tại Trung Hoa—History of the formation of
Madhyamika in China: Tại Trung Hoa, Trung Luận tông hay Tam Luận tông được
chia thành hai nhóm. Nhóm thứ nhất đi theo truyền thống ‘Cổ Tam Luận
tông’ từ thời ngài Long Thọ đến ngài Cưu Ma La Thập, còn nhóm thứ hai theo
truyền thống ‘Tân Tam Luận tông’ từ thời Cát Tạng 549-623), một môn đệ của
Cưu Ma La Thập đến thời kỳ suy thoái của truyền thống nầy vào khoảng thế
kỷ thứ tám: In China, the Three Madhyamika Treatises is divided into two
groups. The first tradition is called the ‘old’ follows the tradition from
Nigarjuna to Kumarajiva; and the second is called the ‘new’ tradition from
Chi-Tsang (549-623 A.D.), a disciple of Kumarajiva, to the time of its
decline in the eighth century A.D.
(B) Triết
lý và kinh sách—Philosophy and works:
a) Triết
lý Tam Luận—Madhyamika philosophy: Tam Luận tông là một bộ phái Phật giáo
diễn tả Trung Luận theo chân lý tuyệt đối. Các tông phái nầy nhấn mạnh ở
thuyết chân lý qui ước hay tục đế (samvrti-satya) theo đó thì vạn vật đều
do duyên sinh và chỉ có sự tương quan với nhau chứ không phải hiện hữu
theo nghĩa tuyệt đối. Khía cạnh thực tế của triết lý Trung Luận được các
trường phái nầy thể hiện trong cách sống gần gũi với con người bình
thường. Mặc dù đã đóng góp nhiều cho sự phát triển của nền văn hóa Trung
Hoa trong tám thế kỷ, nhưng các tông phái nầy ngày nay chỉ còn là những
đối tượng để nghiên cứu về lịch sử, kinh sách và triết học mà thôi. Các
tông phái nầy không còn tồn tại dưới dạng thể chế tôn giáo ở Trung Hoa,
ngoại trừ hình thức đã sửa đổi như là đạo Lạt Ma (Lamaism) ở Tây Tạng—The
San-Lun-tsung was a Buddhist sect which expressed the Madhyamika
doctrine according to absolute truth (paramartha-satya). These schools
stress the doctrine of conventional truth (samvrti-satya), according to
which all beings are conditioned and merely interrelated, but do not come
into existence in the absolute sense. The practical aspect of the
Madhyamika philosophy was expressed by these schools in their approach to
human life. Although these schools contributed to the cultural development
of ancient China for eight centuries, today they are only objects of
historical, textural and philosophical study. They no longer exist as
religious institutions in China, except in the modified form of Tibetan
Lamaism.
b) Kinh
sách chính đã tạo nên hệ Tam Luận của Phật giáo Trung Hoa—Chief works: Các
kinh sách chính của tông phái nầy gồm—Chief texts which constitute the
San-Lun literature of Chinese Madhyamika Buddhism:
·
Đại Trí Độ Luận: The Mahaprajnaparamita-sastra.
·
Thập Địa Tỳ Bà Sa Luận: The Dasabhumivibhasa-sastra.
·
Trung Luận: The Madhyamika-sastra.
·
Bách Luận: Sata-sastra.
·
Thập Nhị Môn Luận: Dvadasanikaya-sastra.
(C) Sự phát
triển của Trung Luận tông ở Trung Hoa—The development of Chinese
Madhyamika Buddhism: Tại Trung Quốc, các nhóm khác đi chung với Phật giáo
Trung Luận gồm có Tứ Luận tông, Bát Nhã tông, Hưng tông, trong đó bao gồm
cả Tam Luận tông và Hoa Nghiêm tông—In China, the groups which embrace
Madhyaminka Buddhism are Si-Lun-Tsung, Prajna tsung, Hsing-tsung, in which
the San-Lun-tsung and Hua-Yen-tsung are also included.
(D) See Trung Quán Luận.
Trung Lương: Loyal and honest.
Trung Lưu: Giữa dòng sanh tử—In
the midst of the stream of mortality or reincarnation.
Trung Nghĩa: Loyal.
Trung Ngôn Nghịch Nhĩ: Nothing
hurts like the truth—Not all truths are proper to be told.
Trung Nguyên: Rằm tháng bảy—The
fifteen of the seventh moon—See Tam Nguyên.
Trung Nhân:
1)
Trung gian: Intermediary—Mediator.
2)
Một sự sắp xếp Ngũ Gia Phật của Mật giáo, với Phật Tỳ Lô Giá Na ở
trung nhân—An arrangement by the esoteric sect of the Five Dhyani-Buddhas,
Vairocana being the first in the central position—See Ngũ Phật Ngũ Đại.
Trung Phạm: Vùng trung tâm Bắc
Ấn Độ—Central North India.
Trung Phẩm: Middle rank
(class)—See Cửu Phẩm Liên Hoa and Cửu Phẩm An Dưỡng.
Trung Quán: Một trong ba phép
quán. Tông Thiên Thai lấy việc quán chư pháp tuyệt đối làm Trung
quán—Meditation on the Mean, one of the three kinds of
meditation—T’ien-T’ai sect consider the meditation on the absolute which
unites all opposites—Meditation of the mean to get rid of the illusion of
phenomena.
Trung Quán Luận: Trung
Luận—Madhyamika-Sastra (skt)—Bộ luận thứ nhất và cũng là bộ luận chính
trong ba bộ luận chính của Tam Tông Luận. Bộ Trung Quán Luận do Ngài Long
Thọ biên soạn, may mắn nguyên bản tiếng Phạn vẫn còn tồn tại. Bản Hán văn
do Ngài Cưu Ma La Thập dịch. Tác phẩm nầy gồm 400 bài tụng, trong đó Ngài
Long Thọ đã bác bỏ một số những kiến giải sai lầm của phái Tiểu Thừa hay
của các triết gia thời bấy giờ, từ đó ông bác bỏ tất cả những quan niệm
duy thức và đa nguyên để gián tiếp thiết lập học thuyết “Nhất Nguyên” của
mình. Triết học Trung Quán không phải là chủ thuyết hoài nghi mà cũng
không phải là một chủ thuyết bất khả tri luận. Nó là một lời mời gọi công
khai đối với bất cứ ai muốn trực diện với thực tại. Theo Nghiên Cứu về
Phật Giáo, ngài Tăng Hộ đã nói về lý tưởng Bồ Tát trong Trung Quán như
sau: “Phật Giáo có thể ví như một cái cây. Sự giác ngộ siêu việt của Đức
Phật là rễ của nó. Phật Giáo cơ bản là cái thân cây, các học thuyết Đại
Thừa là nhánh của nó, còn các phái và chi của Đại Thừa là hoa của nó. Bây
giờ, dù hoa có đẹp đến thế nào thì chức năng của nó là kết thành quả.
Triết học, để trở thành điều gì cao hơn là sự suy luận vô bổ, phải tìm
động cơ và sự thành tựu của nó trong một lối sống; tư tưởng cần phải dẫn
tới hành động. Học thuyết nầy sinh ra phương pháp. Lý tưởng Bồ Tát là trái
cây hoàn mỹ chín mùi trên cây đại thụ của Phật Giáo. Cũng như trái cây bao
bọc hạt giống, vì vậy bên trong lý tưởng Bồ Tát là sự kết hợp của tất cả
những thành tố khác nhau, và đôi khi dường như chia rẽ của Đại Thừa.” Theo
Jaidev Singh trong Đại Cương Triết Học Trung Quán, chúng ta thấy rằng
những nét chính yếu của triết học Trung Quán vừa là triết học vừa là
thuyết thần bí. Bằng cách xử dụng biện chứng pháp và chiếu rọi sự phê bình
vào tất cả những phạm trù tư tưởng , nó đã thẳng tay vạch trần những khoa
trương hư trá của lý trí để nhận thức Chân Lý. Bây giờ người tầm đạo quay
sang với thiền định theo những hình thức khác nhau của ‘Không Tánh,” và
thực hành Bát Nhã Ba La Mật Đa. Nhờ thực hành tinh thần đức hạnh Du Già,
người tầm đạo theo Trung Quán dọn đường để tiếp nhận Chân Lý. Tại giai
đoạn sau cùng của Bát Nhã, những bánh xe tưởng tượng bị chận đứng, tâm trí
vọng động lắng đọng tịch tịnh lại, và, trong sự tịch tịnh đó, Thực Tại cúi
hôn lên đôi mắt của người tầm đạo; kẻ đó đón nhận sự tán dương của Bát Nhã
và trở thành hiệp sĩ phiêu du của Chân Lý. Đây là kinh nghiệm thuộc về một
chiều khác, một chiều vô không gian, vô thời gian, nó siêu việt lên trên
lãnh vực của tư tưởng và ngôn ngữ. Cho nên nó không thể diễn đạt được bằng
bất cứ ngôn ngữ nào của nhân loại—The first and principle work of the
three main works of the Middle School, composed by Nagarjuna. Fortunately
the Sanskrit text of it has been preserved. It was translated into
Chinese by Kumarajiva. It is a treatise of 400 verses in which Nagarjuna
refutes certain wrong views of Mahayana or of general philosophers,
thereby rejecting all realistic and pluralistic ideas, and indirectly
establishing his monistic doctrine. The Madhyamaka system is neither
scepticism nor agnosticism. It is an open invitation to every one to see
Reality face to face. According to the Survey of Buddhism,
Sangharakshita’s summary of the Madhyamaka system as follows: “Buddhism
may be compared to a tree. Buddha’s transcendental realization is the
root. The basic Buddhism is the trunk, the distinctive Mahayana doctrines
the branches, and the schools and subschools of the Mahayana the flowers.
Now the function of flowers, however beautiful, is to produce fruit.
Philosophy, to be more than barren speculation, must find its reason and
its fulfilment in a way of life; thought should lead to action. Doctrine
gives birth to method. The Bodhisattva ideal is the perfectly ripened
fruit of the whole vast tree of Buddhism. Just as the fruit encloses the
seeds, so within the Bodhisattva Ideal are recombined all the different
and sometimes seemingly divergent elements of Mahayana.” According to
Jaidev Singh in An Introduction To Madhyamaka Philosophy, we have seen the
main features of Madhyamaka Philosophy. It is both philosophy and
mysticism. By its dialectic, its critical probe into all the categories of
thought, it relentlessly exposes the pretensions of Reason to know Truth.
The hour of Reason’s despair, however, becomes the hour of truth. The
seeker now turns to meditation on the arious forms of ‘Sunyata,’ and the
practice of ‘Prajnaparamitas.’ By moral and yogic practices, he is
prepared to receive the Truth. In the final stage of Prajna, the wheels of
imagination are stopped, the discursive mind is stilled, and in that
silence Reality stoops to kiss the eye of the aspirant; he receives the
accolade of prajna and becomes the knighterrant of Truth. It is an
experience of a different dimension, spaceless, timeless, which is beyond
the province of thought and speech. Hence it cannot be expressed in any
human language.
Trung Quán Tông: Madhyamaka
(skt)—See Trung Luận Tông, and Trung Quán Luận.
Trung Quốc: Madhyadesa
(skt)—Vương quốc trung tâm hay vùng trung bắc Ấn bây giời—The middle
kingdom—Central North India.
Trung Sĩ: Sravakas and
Pratyeka-buddhas—Những bậc có thể đạt được giải thoát cho chính mình, chứ
không giúp được người giải thoát—Disciples who profit self but not
others—Those who can gain emancipation for themselves, but cannot confer
it on others.
Trung Tâm:
1) Ngay
chính giữa: Center.
2) Tâm
trung tín: Sincerity—Loyal—Faithful—Honest.
3) Trung
Tâm Tịnh Xá: See Tịnh Xá Trung Tâm.
Trung Thai: See Trung Thai
Tạng.
Trung Thai Tạng: Phật Tỳ Lô Giá
Na là hình ảnh trung tâm của Thai Tạng, xung quanh Ngài là 4 vị Phật và 4
vị Bồ tát—The central figure of the eight petalled group of the
Garbhadhatu mandala—The phenomenal Vairocana who has around him four
Buddhas and four bodhisattvas, each on a petal—See Trung Đài Bát Diệp
Viện.
Trung Thành: Faithful—Loyal.
Trung Thảo:
1) Thảo
mộc loại trung bình: Medium-sized herbs.
2) Ám
chỉ người có khả năng trung bình: Implies those who have medium capacity.
Trung Thiên: Trung Thiên
Trúc—See Trung Quốc.
Trung Thiên Thế Giới: A
middling chiliocosmos—See Đại Thiên Thế Giới.
Trung Thiên Trúc Tự: Một tự
viện trên đỉnh Phi Lai thuộc Hàng Châu—A monastery on the Fei-Lai peak at
Hangchow.
Trung Thọ: Age between fifty
and seventy.
Trung Thừa: Madhyamika
(skt)—Trung thừa là trường phái phối hợp giữa Tiểu và Đại thừa, phù hợp
với tình trạng tu hành của Duyên Giác, chủ yếu là giải thoát cho mình,
nhưng vẫn có một phần cứu độ chúng sanh. Trung Thừa là một từ ngữ chỉ cho
giáo thuyết của Đức Phật, dạy về cách tránh thái quá bất cập hay cực
đoan, như hưởng thụ hay khổ hạnh. Đặc biệt hơn, Trung Thừa chỉ cho phái
Trung Đạo do ngài Long Thọ sáng lập, giáo lý nầy dạy chúng ta nên đi trên
đường Trung Đạo và nên tránh hai đối vị như chủ trương tánh hiện hữu hay
không hiện hữu của vạn vật—The middle vehicle to nirvana, includes all
intermediate or medial systems between Hinayana and Mahayana. It also
corresponds with the state of a pratyeka-buddha, who lives chiefly for his
own salvation but partly for others. Middle Way Philosophy, a term for the
way of Sakyamuni Buddha, which teaches avoidance of all extremes such as
indulgence in the pleasures of the senses on one side and
self-mortification and ascetisim on the other. More specifically, it
refers to the Madhyamika (Middle Way) school founded by Nagarjuna, which
refrains from choosing beween opposing positions, and in relation to the
existence and non-existence of all things, treads a middle way.
Trung Thực:
1) Sau
bữa ăn trưa, không thể ăn món chi—The midway meal, after which nothing
whatever may be eaten.
2) See
Trung Đạo Thực Tướng.
Trung Tín: See Trung thành.
Trung Tính:
Indifferent—Neutral
Trung Tọa: A monk or a nun who
has from ten to nineteen years of renunciation.
Trung Tôn: Vị ở chính giữa
trong hàng chư tôn—The central honoured one (in any group of Buddhas).
Trung Tông: Pháp Tướng
Tông—Dharmalaksana school, which divides the Buddha’s teaching into three
periods:
1) Hữu:
The first period in which he preached existence (hữu).
2)
Không: The second period in which he preached non-existence (Không).
3)
Trung: The third period in which he preached something “Between” (a realm
of pure spirit).
Trung Trinh: Loyal and pure.
Trung Tuần: Period between
11th and 20th of the lunar month.
Trung Túc Y:
1) Áo
mặc trong cho chư Tăng—A monk’s inner garment.
2) An Đà
Hội, tên khác của áo Cà-Sa năm mảnh: Another name for the five patch
garment.
Trung Y: Trung giá y—The middle
garment of the monks—Another name for the uttara sanghati—The middle
garment of price or esteem.
Trúng Ý: Conforming to one’s
thought.
Trùng:
1) Côn
trùng hay loài bò sát—Insect, reptile; any creeping thing.
2) Vương
quốc côn trùng bao gồm sâu bọ, sên ốc, và côn trùng, vân vân—The animal
kingdom, generally applied to worms, snails, insects, etc.
Trùng Hiển Tuyết Đậu Thiền Sư:
Zen master Zhong-Hsian-Xue-Tou (980-1052)—Thiền sư Trùng Hiển Tuyết Đậu
sanh năm 980 tại Toại Ninh (bây giờ thuộc tỉnh Tứ Xuyên), là đệ tử của
Thiền sư Quang Tộ Trí Môn. Ngài là một bậc thầy cõ lớn của dòng Thiền Vân
Môn và hoằng hóa khoảng đầu đời nhà Tống. Sư nổi danh nhờ tài năng văn
học. Sư cũng là tác giả Bích Nham Lục. Khi bộ sách nầy ra mắt công chúng,
tức thì được tán thưởng khắp nơi trong giới văn học đương thời—Zen master
Zhong-Hsian-Xue-Tou was born in 980 in Sui-Ning (now in Si-Chuan
Province), was a disciple of Kuang-Zuo-Zhi-Men. Xue-Tou was a great master
of the Yun-Men School and flourished early in the Sung Dynasty. He was
noted for his literary ability. He was also the author of Pi-Yen-Lu, and
when this book was made public, it at once created universal applause in
the literary circles of the time.
·
Một hôm sư hỏi Trí Môn: “Chẳng khởi một niệm, tại sao có
lỗi?” Trí Môn gọi sư lại gần. Trí Môn cầm phất tử nhằm vào miệng sư mà
đánh. Sư toan mở miệng, Trí Môn lại đánh. Sư hoát nhiên khai ngộ. Sư ở lại
đây năm năm, nhận tột chỗ u huyền, mới đi tham vấn khắp nơi—One day he
asked Zhi-Men: “Before a single thought arises, can what is said be
wrong?” Zhi-Men summoned Xue-Tou to come forward. Xue-Tou did so. Zhi-Men
suddenly struck Xue-Tou in the mouth with his whisk. Xue-Tou began to
speak but Zhi-Men hit him again. Xue-Tou suddenly experienced
enlightenment.
·
Sư thượng đường dạy chúng. Thượng thủ bạch chùy xong. Có vị
Tăng mới bước ra. Sư nắm đứng lại, bảo: “Chánh pháp nhãn tạng của Như Lai
ủy thác tại ngày hôm nay. Buông đi thì ngói gạch sanh quang, nắm đứng thì
chơn kim mất sắc. Quyền bính ở trong tay, giết tha tại lúc nầy. Ai là tác
giả thì cùng nhau chứng cứ?”—The head monk struck the gavel. A monk came
forward to speak. Xue-Tou told him to stop and go back, and then said:
“The Treasury of the True Dharma Eye of the Tathagatas is manifested
before us today. In its illumination even a piece of tile is radiant. When
it is obscured, even pure gold loses its luster. In my hand is the scepter
of authority. It will now kill and give life. If you are an accomplished
adept in the practice of our school, then come forward and gain
authentication!”
·
Có vị Tăng bước ra hỏi: “Xa lìa Tổ tịch Thúy Phong đến đạo
tràng Tuyết Đậu, chưa biết là một là hai?” Sư đáp: “Ngựa không ngàn dậm
dối đuổi gió.” Vị Tăng hỏi: “Thế ấy mây tan nhà trăng?” Sư đáp: “Đầu rồng
đuôi rắn.”—A monk came forward and said: “Far from the ancestral seat at
Shui-Feng, now expounding at Xue-Tou, do you still not know if it’s one or
if it’s two?” Xue-Tou said: “A horse cannot beat the wind for a thousand
miles.” The monk said: “In that case, the clouds disperse and the clear
moon is above the households.” Xue-Tou said: “A dragon-headed,
snake-tailed fellow.”
·
Sư thị tịch năm 1058, được vua ban hiệu “Minh Giác Đại
Sư.”—He died in 1058. Upon his death, Xue-T’ou received the posthumous
title “Great Teacher Clear Awakening.”
Trùng Hợp: Coincidence.
Trùng Phùng: To meet again.
Trùng Thực: Ăn côn trùng—To eat
as do grubs, moth-eat, etc.
Trùng Trùng Điệp Điệp:
Inumerable—Numberless.
Trùng Tu: To rebuild—To
restore—To repair—To reconstruct.
Trùng Tu Chùa Chiền: To restore
temples.
Trùng Tuyền: Hell.
Trũng: Smasana (skt)—Mồ mả—A
tomb—A mound—Cemetery.
Trút: To pour—To dump—To empty
out—To unload.
Trút Gánh: To ease oneself of a
burden—To empty the burden.
Trút Gánh Lo Âu: To empty the
burden of anxiety.
Trút Sạch: To get rid of
completely.
Truy:
1) Cái
vồ: A hammer.
2) Truy
đuổi: To follow after—To Pursue—To chase.
Truy Cứu: To search out—To
investigate.
Truy Dịch Quỷ: Đôi Dịch Quỷ—Phụ
Trường Quỷ—Truy Dịch Quỷ là loại quỷ quấy phá gây trở ngại cho người hành
thiền—A demon of the nerves who troubles those who sit in meditation.
Truy Hoan: To pursue (seek)
pleasures.
Truy Nguyên: To trace back to
its source.
Truy Niệm: To recall—To
remember.
Truy Phúc: Tang lễ tiễn đưa
người chết với những nghi thức cầu nguyện cúng dường phước đức cho người
ấy—To pursue the departed with rites for their happiness.
Truy Tầm: To search for.
Truy Tố: To sue—To prosecute.
Truy Tu: To follow the departed
with observances.
Trùy: Cây búa tròn—Round
hammer.
Trụy: Rơi xuống, trượt xuống—To
fall—To sink—To settle—To slide.
Trụy Giới: Liệng một hạt cải từ
cõi trời Đâu Suất cho nó rơi ngay vào đầu kim trên cõi Diêm Phù Đề, quả là
khó khăn và hiếm hoi (dùng hình ảnh nầy để ví với việc được thân người và
gặp Phật quả là thiên nan vạn nan)—To drop a mustard seed from the Tusita
heaven on to the point of a needle on the earth, most difficult, rare.
Trụy Lạc: Live in vice
(debauched—dissolute).
Truyền:
1) Trao
truyền: To transmit—To hand down—To pass on.
2)
Truyền dạy: To superintend—To teach—To tutor.
Truyền Bá: To spread abroad—To
disseminate—To diffuse—To propagate.
Truyền Đạo: Giảng dạy giáo
thuyết nhà Phật—To preach religion—To spread the teaching or doctrine, or
doctrine.
Truyền Đạt: To communicate.
Truyền Đăng: Pháp có thể phá
tan sự mờ tối nên được ví với cây đèn truyền ánh sáng—The transmission of
the Lamp—To transmit the light—To pass on the lamp of truth—See Truyền
Phật Tâm Ấn, and Truyền Tâm.
Truyền Giáo: See Truyền Đạo.
Truyền Giới: Truyền giới trong
“Giới Đàn” cho chư Tăng Ni mới vào tu ngũ giới hay bát quan trai giới —To
transmit the commandments, to grant them as at ordination.
Truyền Huấn: Huấn lệnh của sư
phụ—The instructions of a teacher—To instruct.
Truyền Khẩu: To transmit (hand
over) orally—Transmitted by words of mouth.
Truyền Pháp: Từ Mật giáo dùng
để chỉ pháp của đệ tử nối nghiệp thầy—To transmit or spread abroad the
Buddha-truth. A term used by the esoteric sect, to succeed to the dharma,
or methods, of the master.
Truyền Phật Tâm: The
transmission of the Buddha Mind—See Truyền Phật Tâm Ấn, and Truyền Tâm.
Truyền Phật Tâm Ấn: Không có sự
thật về chuyện truyền thừa nầy; tuy nhiên, một vị thầy có thể ấn chứng về
sự thành tựu giác ngộ bằng chứng nghiệm khả năng của đệ tử
mình—Transmission of the Heart-Seal of the Buddha Seal of mind)—There is
no truth to transmit; however, a master can seal his pupil’s achievement
of enlightenment by testing and approving it as true.
Truyền Tâm: The transmission of
the mind—Tâm truyền tâm từ một vị Thầy Thiền qua sự tiếp xúc cá nhân, chứ
không qua văn tự, như cách truyền Phật Tâm trong nhà Thiền—Mind-to-mind
transmission, mental transmission, or to pass from mind to mind, from a
Zen master to his disciples by personal contact without using the words.
To transmit the mind of Buddha as in the Intuitional school.
Truyền Tâm Ấn: The transmission
of the mind seal—See Truyền Phật Tâm Ấn, and Truyền Tâm.
Truyền Thông: Sự truyền trao
không trở ngại—Universal propagation—Unhindered transmission.
Truyền Thông Bằng Lời:
Vacika-abhinaya (skt)—Communicated by speech.
Truyền Thống: Tradition.
Truyền Thuyết: Miraculous
fable.
Truyền Thừa: Handed-down
tradition—Việc thay thế vị Tổ trước làm Tổ đời sau trong Phật giáo, thường
là được Tổ trước chính thức thừa nhận như người kế thừa, đặc biệt là Thiền
Tông—To take over the Patriarch position by having the former Patriarch
formally recognize the person as the successor, especially the Zen
tradition.
a) Sau
khi Đức Phật nhập diệt, ngài Ma Ha Ca Diếp là vị Tổ Thiền Phật Giáo đầu
tiên tại Ấn Độ. Theo truyền thống Thiền Tông được truyền sang từ Ấn Độ
sang Trung Quốc, để trở thành Tổ, vị nầy phải nhận y bát từ vị Tổ trước.
Trong khoảng hơn 1.000 năm, có 28 vị Tổ ở Ấn Độ, mỗi vị có trách nhiêm tu
tập và duy trì Chánh pháp của Phật. Cuối cùng, vị Tổ thứ 28 sang Trung
Quốc và trở thành vị Sơ Tổ của dòng Thiền Trung Hoa. Tổng cộng Thiền Tông
có 33 vị Tổ. Sau Lục Tổ Huệ Năng thì sự truyền thừa nầy chấm dứt. Vì thế
Lục Tổ không truyền y bát cho những vị kế thừa nữa: After the Buddha
entered Maha-Nirvana, the first Patriarch of Buddhism was one of the
Buddha great disciples, Maha Kasyapa. According to this Zen tradition, in
order to become a Patriarch, the highest virtuous Buddhist Master must
receive the Buddha 'pat‘a bowl,' the bowl which the Buddha used to receive
food offering, and ‘robe’ from the Patriarch before him. Thus, for over
1,000 years, there were twenty-eight Indian Patriarchs, each having the
responsibility to practice and to uphold the proper Dharma of Buddha.
Eventually the twenty-eighth Patriarch named Bodhidharma came to China and
also became the first of Six Patriarchs of Zen Buddhism in China. Overall,
there were 33 official Patriarchs in Zen Buddhism. After the Sixth
Patriarch, Hui-Neng, this tradition of formally passing on Patriarchy was
discontinued. Thus Hui Neng did not pass down the Buddha’s patra bowl and
robe to his highest and most deserving disciples.
b)
Truyền Thừa theo Tịnh Độ—Handed-Down Tradition in the Pureland
Buddhism—See Tứ Đức Truyền Thừa Tổ Tịnh Độ.
Truyền Trì: Trì giữ những giới
luật đã được trao truyền—To maintain what has been transmitted; to
transmit and maintain.
Truyền Tụng: Hearsay.
Truyền Y: See Truyền Y Bát.
Truyền Y Bát: To hand down the
robe (mantle or garments) and alms bowl.
Trư: Con heo—A pig—A hog.
Trư Đầu Hòa Thượng: Vị Hòa
Thượng đầu heo, vì trông ngài có vẻ như lúc nào cũng ngủ (theo Thích Môn
Chính Thống, Hòa Thượng Trư Đầu xuất hiện để giáo hóa dân trong hai quận
Cù và Vụ vào năm Cảnh Đức thứ 3 thời vua Tống Chân Tông)—Pig-head monk,
because of his meditative or dormant appearance.
Trứ:
1) Chấp
trước (theo nghĩa của đạo Phật): In a Buddhist sense it is used for
attachment to anything.
2) Che
đậy: To cover—To put on.
3) Trứ
danh: Famous—See Trứ Danh.
4) Trứ
Tác: To compose—To publish.
Trứ Danh:
Celebrity—Renowned—Famed—Famous.
Trừ: Prasrabdhi (skt)—Passaddhi
(p).
1) Ngoại
trừ: Except—But—Besides.
2) Trừ
bỏ: To get rid of—To eliminate—To remove—To be rid of—To clear away—To
exclude.
3) Trừ
ra: To subtract—To minus.
4) Trừ
tịch: Calmness—Tranquility—Serenity—Repose.
Trừ Ác: To suppress evil.
Trừ Cái Chướng: Đoạn bỏ những
chướng ngại—To dispose of hindrances.
Trừ Cái Chướng Bồ Tát:
Disposing of Hindrances Bodhisattva.
Trừ Căn: To eradicate—To root
out.
Trừ Cẩn: Vị đắc được quả đáng
được cúng dường, ám chỉ Tỳ Kheo hay Tỳ Kheo Ni—He or she who puts away
want by receiving alms, an interpretation of Bhiksu or bhiksuni.
Trừ Cấu Chướng: Riddance of
unclean hindrances.
Trừ Diệt: To exterminate.
Trừ Đoạn: Đoạn trừ hoàn toàn—To
get rid completely, cut off.
Trừ Độc: To disinfect.
Trừ Giác Chi: Một trong bảy
phần giác chi, loại bỏ những chướng ngại để được khinh an—One of the seven
bodhi shares, to get rid of mental effort and produce mental and physical
buoyance—See Thất Giác Chi (4).
Trừ Hại: See Trừ Ác.
Trừ Khử: To eradicate—To
exterminate—To destroy.
Trừ Miễn: Miễn trừ—To remove—To
discharge—To dismiss.
Trừ Nghi: Đoạn trừ nghi hoặc—To
eliminate doubt.
Trừ Nhứt Thiết Ác: Trừ bỏ tất
cả những điều ác—To get rid of all evil.
Trừ Phi: Unless—Except.
Trừ Phiền Não: To sever
afflictions.
Trừ Ra: Barring—Except.
Trừ Tà: To exorcise (cast out)
demon.
Trừ Tai: Đoạn trừ tai ương—To
get rid of calamity.
Trừ Tán: Loại bỏ và trải tung
ra—To get rid of and scatter away.
Trừ Tâm Thị Phi: To get rid of
the habits of fault-findings.
Trừ Tận Gốc: To destroy
completely—To extirpate.
Trữ: To store up
Trực: Straight—Direct—Upright.
Trực Chỉ Nhân Tâm, Kiến Tánh Thành Phật:
Point directly to the mind to see your own nature and reach Buddhahood.
Trực Chuyết: Áo của chư Tăng
chấp vá hay nối liền áo lót và quần, trên dưới thành một—A monk’s garment,
upper and lower in one.
Trực Đạo: Con đường thẳng đến
Niết Bàn hay đất Phật—Direct way to nirvana or Buddha land.
Trực Đường: Vị Tăng trông coi
công việc trong nhà Tăng của tự viện—The servant who attends in the hall.
Trực Giác: Biết mà không biết
tại sao mình biết—Intuition—Immediate knowing or understanding—The direct
knowing or learning of something without the conscious use of
reasoning—Knowing without knowing how you know.
Trực Hành: Arya-marga
(skt)—Straight walk.
Trực Quan: See Trực giác.
Trực Tâm: Tấm lòng ngay thẳng
không xiểm nịnh (lòng ngay thẳng là đạo tràng—mười phương chư Phật chỉ
dùng trực tâm để vượt ra khỏi vòng sanh tử)—Straightforward—Sincere.
Trực Thuyết: Lời thuyết pháp
thẳng từ trong Kinh điển—Direct or straight speech, the sutras.
Trực Truyền: Truyền khẩu chứ
không qua sách vở—Direct transmission by word of mouth.
Trực Tuế: Gánh vác công việc
của Thiền Lâm trong một năm—Plans or duties in a monstery in a straight
year, or a year’s plans and duties.
Trứng Nước: An infant.
Trừng: Gạn lọc—Clear—Limpid.
Trừng Giới: To punish—To
correct.
Trừng Mắt: To stare at.
Trừng Phạt:
Discipline—Punishment.
Trừng Quán: Vị Tăng nổi tiếng
vào thời nhà Đường, tác giả của nhiều bộ luận, đệ tử của ngài Hiền Thủ,
hoằng dương tông Hoa Nghiêm, ông tịch năm 806 sau Tây Lịch—Ch’êng-Kuan, a
famous T’ang monk and author, a follower of Hsien-Shou and supporter of
Hua-Yen school, died 806 AD.
Trừng Thủy Giác Nhiên: Tên của
một vị Tăng nổi tiếng trong lịch sử Phật giáo Việt Nam cận đại. Ngài là đệ
tử của Hòa Thượng Tâm Tịnh. Năm 1937, khi đang giữ chức tăng cang chùa
Thánh Duyên, đã được kiêm trụ trì chùa Thuyền Tôn. Ngài đã ra sức trùng tu
và kiến thiết chùa Thuyền Tôn như qui mô ngày nay. Hơn 40 năm trú trì tại
chùa Thuyền Tôn, ngài đã tiếp độ Tăng chúng, chấn chỉnh thanh quy, trùng
tu tự viện, và góp phần chấn hưng Phật giáo Việt Nam. Từ năm 1973, ngài
giữ chức Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. Đến năm 1979,
ngài thị tịch, thọ 102 tuổi. Tháp mộ của ngài được kiến lập trong khuôn
viên chùa Thuyền Tôn—Name of a famous monk in recent Vietnamese Buddhist
history. He was a disicple of Most Venerable Tâm Tịnh. In 1937, he was a
royal-recognized monk at Thánh Duyên temple, at the same time, he was
appointed as headmonk of Thuyền Tôn temple. He tried his best to
reconstruct the temple, giving it the shape it has today. For more than 40
years at Thuyền Tôn, Most Venerable Trừng Thủy Giác Nhiên had made a lot
of contributions, i.e., enlightening a lot of members of the staff monks,
restoring discipline and order in the temple, reconstructing the temple,
and contributing to the development of Buddhism. In 1973, he took over the
position of Supreme Monk of The United Buddhist Organization of Vietnam.
He passed away in 1979, at the age of 102. His stupa was erected in the
garden of the temple.
Trừng Trừng: See Trừng Mắt.
Trừng Trị: See Trừng Phạt.
Trừng Viễn Thiền Sư: Thiền sư
Trừng Viễn Hương Lâm sanh năm 908, quê ở Hàn Châu nay thuộc tỉnh Tứ Xuyên,
là đệ tử của Thiền Sư Vân Môn Văn Yến—Zen master Cheng-Yuan-Xiang-Lin was
born in 908, from Han-Chou (now is a location of Si-Chuan Province), was a
disciple of Zen master Yun-men-Wen-Yan.
·
Có một vị Tăng hỏi: “Vị ngon đề hồ vì sao biến thành độc
dược?” Sư đáp: “Giấy Đạo Giang mắc mỏ.” Vị Tăng lại hỏi: “Khi thấy sắc là
thấy tâm là sao?” Sư đáp: “Vừa rồi ở đâu đi đến?” Vị Tăng lại hỏi: “Khi
tâm cảnh đều quên thì thế nào?” Sư đáp: “mở mắt ngồi ngủ.” Vị Tăng lại
hỏi: “Trong Bắc Đẩu ẩn thân, ý thế nào?” Sư đáp: “Trăng giống cung loan,
mưa ít gió nhiều.” Vị Tăng hỏi: “Thế nào là tâm chư Phật?” Sư đáp: “Trong
tức trước sau trong.” Vị Tăng hỏi: “Thế nào là diệu dược của Hòa Thượng?”
Sư đáp: “Chẳng lìa các vị.” Vị Tăng hỏi: “Người ăn thì sao?” Sư đáp: “Cắn
ăn xem.”—A monk asked Zen master Cheng-Yuan-Xiang-Lin: “Why does
sweet-tasting cream turn into poison?” Cheng-Yuan said: “Paper from
T’ao-Jiang is expensive.” A monk asked: “How is it that when one observes
form, one thus observes mind?” Cheng-Yuan said: “Just when it comes, where
does it return to.” A monk asked: “What is it when mind and environment
are both gone?” Cheng-Yuan said: “Eyes open, sitting asleep.” A monk
asked: “What is the meaning of the phrase ‘concealing the body in a Big
Dipper’?” Cheng-Yuan said: “The moon like a curved bow. A light rain and
big wind.” A monk asked: “What is the mind of all Buddhas?” Cheng-Yuan
said: “Clarity! From beginning to end, clarity!” A monk asked: “How can I
understand this?” Cheng-Yuan said: “Don’t be deceived by others.” A monk
asked: “What is the master’s special medicine?” Cheng-Yuan said: “It’s not
other than a common taste.” The monk asked: “How about those that eat it?”
Cheng-Yuan said: “Why not taste it and see?”
·
Có vị Tăng hỏi: “Thế nào là một mạch suối Hương Lâm?” Sư
đáp: “Niệm không gián đoạn.”—A monk asked: “What is the monk’s true eye?”
Cheng-Yuan said: “No separation.”
·
Năm 987, sư sắp thị tịch, đến từ biệt Tri Phủ Tống Công
Đang, nói: “Lão Tăng đi hành khất.” Nhưng một viên quan khác nói: ‘Tăng
nầy bị cuồng phong tám mươi tám năm đi hành khất trong ấy.’” Đang thưa:
“Đại thiện tri thức đi ở tự do.” Trở về, sư bảo chúng: “Lão Tăng 40 năm
mới dập thành một mảnh.” Nói xong sư thị tịch—When Zen master
Cheng-Yuan-Xiang-Lin was about to die, he bade farewell to an official
named Song-Kong-Tang, saying: “I’m going on a pilgrimage.” But a different
official said: “That monk is crazy. Where’s he going on a pilgrimage when
he’s eighty years old?” But Song replied: “When a venerable master goes on
a pilgrimage, he goes or abides freely.” Cheng-Yuan addressed the monks:
“For forty years I’ve hammered out a single piece.” When he finished
speaking these words he passed away.
Trững Giỡn: To jest—To joke.
Trước:
1) Có
nghĩa là “chấp trước” theo đạo Phật, như ái chấp, dục chấp, tham chấp, vân
vân: In a Buddhist sense it is used for attachment to anything, e.g. the
attachment of love, desire, greed, etc.
2)
Trước: Before.
Trước Lạc: Còn gọi là Chấp Lạc,
cho rằng lạc thú trên đời là có thật và thường hằng—Attachment to bliss,
or pleasure regarded as real and permanent
Trước Mắt: Before one’s eyes.
Trước Mặt: In the presence
of—In front of.
Trước Ngã: Còn gọi là Chấp Ngã,
là việc cho rằng trong thân ngũ uẩn nầy có cái thực ngã—Attachment to the
ego, or idea of permanent self.
Trước Pháp: Còn gọi là Chấp
Pháp, cho rằng các ý niệm về sự vật là có thực, hay chấp trước vào giáo
thuyết trong kinh điển—Attachment to things; attachment and its object;
attachment to teaching or doctrine in a sutra.
Trước Sau Như Vậy:
Constant—Consistent.
Trước Tâm: Tâm chấp trước—The
mind of attachment.
Trước Tiên: First of all.
Trước Tưởng: Dính mắc vào tư
tưởng—The attachment of thought, or desire.
Trược: Đục—Turbid—Muddy—Impure.
** For more information,
please see Ngũ
Trược.
Trược Ác Thế: Thế giới ta bà
ngũ trược—A world of impurity or degeneration.
** For more information,
please see
Ngũ trược.
Trược Ác Xứ: Cõi Ta Bà thế
giới, nơi hoành hành của ngũ trược và thập ác—The present contaminated
evil world, which is dominated by the five turbidities and the ten evil
deeds.
Trược Kiếp: Thời kỳ ác trược,
thời kỳ của bệnh hoạn, nghèo đói và giặc giã—An impure kalpa, the kalpa of
impurity, degenerate, corrupt; and age of disease, famine, and war.
Trược Loạn: Cõi ma quỷ, bất
tịnh và không có luật lệ—Impure and lawless, the reign of evil.
Trược Nghiệp: Nghiệp uế trược
sản sanh bởi dục vọng—Contaminated karma, that produced by desire.
Trược Thế: Cõi đời ngũ trược ác
thế—An impure world in its five stages.
** For more information,
please see Ngũ Trược.
Trương: To expand—To spread—To
extend.
Trương La: To spread a net.
Trường:
1) Dài:
Long.
2) Đạo
Trường: Bồ Đề Đạo Tràng, nơi Phật thành đạo—The bodhi-plot, or place of
enlightenment.
3) Đấu
trường: Arena—Area—Field.
4) Luôn
luôn: Always.
5) Tăng
trưởng: To grow—To rise.
6)
Trường Học: School.
7) Thâm
niên: Senior.
Trường A Hàm Kinh: Dirghagama
(skt)—The Long Agamas—See Agama in Sanskrit/Pali-Vietnamese Section.
Trường A Hàm Thập Báo Pháp Kinh:
See Agama in Sanskrit/Pali-Vietnamese Section.
Trường Cửu:
Everlasting—Lasting--
Giá trị trường cửu:
Everlasting value.
Trường Dạ: Đêm dài sanh tử hay
luân hồi—The long night (of mortality or transmigration).
Trường Đoản: Long and short.
Trường Đời: School of
experience.
Trường Hợp:
Case—Circumstance—Instance.
Trường Khánh Huệ Lăng Thiền Sư:
Zen Master Chang-Qing-Hui-Leng—See Huệ Lăng Trường Khánh Thiền Sư.
Trường Khất Thực: Suốt đời khất
thực, một trong 12 hạnh tu của một vị Tăng—Always ask for food as alms,
one of the twelve duties of a monk.
Trường Kiếp: A long kalpa.
Trường Kiếp Sự: A matter in
long kalpa.
Trường Kỳ: Long period.
Trường Mộng: A long dream (of
mortality or transmigration).
Trường Nguyên Thiền Sư: Zen
Master Trường Nguyên (1110-1165)—Thiền sư Việt Nam, quê ở Tiên Du, Bắc
Việt. Ngài là đệ tử của Thiền sư Đạo Huệ. Ngài là pháp tử đời thứ 10 dòng
Thiền Vô Ngôn Thông. Về sau ngài đi vào rừng sâu tu thiền. Ngài thị tịch
năm 1165, thọ 56 tuổi—A Vietnamese Zen master from Tiên Du, North Vietnam.
He was a disciple of Zen master Đạo Huệ. He was the Dharma heir of the
tenth generation of Wu-Yun-T’ung Zen Sect. Later, he went to deep forests
to practice meditation. He passed away in 1165, at the age of 56.
Trường Nhựt: Ngày dài hay chuỗi
ngày kế tiếp nhau kéo dài—A long day, or succeeding days prolonged.
Trường Quỵ: Quỳ cao, hai đầu
gối và các ngón chân chạm đất, đùi và thân thẳng đứng—Kneeling with knees
and toes touching the ground and thighs and body erect; tall kneeling.
Trường Sanh: Kiếp sống vĩnh cửu
nơi cõi Cực Lạc—To live long—Long life—Long or eternal life in the
paradise.
Trường Sanh Bất Lão: Cuộc sống
kéo dài không già, không chết—Long life without growing old, immortality.
Trường Sanh Bất Tử: Long life
without death.
Trường Sanh Phù: Phép trường
sanh bất tử, ý nói Phật Giáo—The charm for immortality, i.e. Buddhism.
Trường Thọ:
1) See
Trường Sanh.
2) Tên
một ngôi chùa cổ tọa lạc trong quận Gò Vấp, thành phố Sài Gòn, Nam Việt
Nam. Chùa được xây vào thế kỷ thứ 19. Kiến trúc hiện tại của chùa là mô
hình trùng tu vào cuối thế kỷ thứ 19. Chùa hiện còn giữ được nhiều di vật
cổ như “Sắc Tứ Pháp Vũ Tự” của vua Gia Long ban, “Sắc Tứ Trường Thọ Tự”
của vua Tự Đức ban, cùng các tượng cổ và chuông cổ. Trong Chánh điện có
tượng Phật A Di Đà, làm bằng gỗ mít, cao một mét tám không kể đế. Hai bên
Chánh điện có tượng của 18 vị La Hán và tượng của Thập Điện Diêm Vương.
Đại hồng chung của chùa cao một thước mốt, đường kính 62 phân, có khắc chữ
“thành Gia Định, phủ Tân Bình, huyện Bình Dương, tổng Bình Trị, thôn Hòa
Mỹ, truy phong chùa Vĩnh Tường” và “năm Mậu Thìn, ngày 26 tháng chín”—Name
of an ancient pagoda located in Gò Vấp district, Saigon City, South
Vietnam. The pagoda was built in the eighteenth century. Its present
structure results from the rebuilding in the late nineteenth century. The
pagoda has conserved a lot of treasures like the Boards entitled “Royal
Recognized Pháp Vũ Pagoda” in the Gia Long reign and “Royal Recognized
Trường Thọ Pagoda” in the Tự Đức reign. There are a lot of ancient statues
and bells. The ancient statue of Amitabha Buddha, made of jacktree wood,
1.8 meters high without the base, is worshipped in the Main Hall. There
are also statues of eighteen Arhats, and the statue of the Ten-King of
Hells on both sides of the Main Hall. The grat bell is 1.1 meters in
height, 0.62 meter in diameter, on which are carved the words “Gia Định
Citadel, Tân Bình subprovince, Bình Dương district, Bình Trị village, Hòa
Mỹ hamlet, Vĩnh Tường Pagoda posthumously conferred” and “Mậu Thìn year,
the ninth month, the twenty sixth.
Trường Thọ Thiên: Cõi trời
trường thọ, nơi mà đời sống bằng 500 đại kiếp hay kéo dài đến 80.000 kiếp
trong cõi Trời vô sắc thứ tư—Devas of long life (in the fourth dhyana
heaven where life is equivalent to 500 great kalpas, and in the fourth
arupaloka where life extends over 80.000 kalpas.
Trường Thực: Nguồn cung cấp
thực phẩm dài hạn—Ample supplies of food, i.e. for a long time.
Trường Tồn: Durable
Trường Tồn Nhứt: The most
durable
Trường Trai: Life-long
vegetarian.
Trường Y, Vật, Bát: Quần áo,
vật dụng và bát khất thực vượt quá giới hạn Phật cho phép—Clothes, things
or almsbowls in excess of the permitted number.
Trưởng Giả: Người ngay thẳng,
thành thật, khi về già thì giàu có—A householder—One who is just,
straightforward, honest, advanced in aged, and wealthy and edler.
Trưởng Lão:
(I)
Nghĩa của “Trưởng Lão”—The meanings of “Trưởng Lão.”
1) Người
lớn tuổi: Aged man—Old man.
2) Vị
Tăng cao hạ: Senior—Venerable—A title for virtuous and aged monk.
3) Vị
Tăng trụ trì: An abbot.
(II)
Những lời Phật dạy về “Trưởng Lão” trong Kinh Pháp Cú—The Buddha’s
teachings on “Trưởng Lão” in the Dharmapada Sutra:
1)
Trưởng lão, chẳng phải vì bạc đầu. Nếu chỉ vì tuổi tác cao mà xưng trưởng
lão, thì đó chỉ là xưng xuông—A man is not called an elder because his
hair is gray. Ripe and wise is he in age (Dharmapada 260).
2) Đủ
kiến giải chân thật, giữ trọn các pháp hành, không sát hại sinh linh, lo
tiết chế điều phục, đó mới là có trí: trừ hết các cấu nhơ, mới đáng danh
trưởng lão—A man in whom are truth, virtue, harmlessness, restraint and
control, that wise man who is steadfast and free from impurity, is indeed
called an elder (Dharmapada 261).
Trưởng Lão Bộ: Theravada
(p)—Way of the Elders—See Theravada in Sanskrit/Pali-Vietnamese Section.
Trưởng Lão Ni Kệ: Theo Phật
Giáo Nhìn Toàn Diện của Tỳ Khưu Bồ Đề: “Ngày kia Tỳ Khưu Ni Subha vào vườn
xoài của Jivaka để nghỉ ngơi vào buổi trưa. Cùng lúc ấy có tên du đãng ở
thành Vương Xá đang trong lức tuổi thanh xuân đầy tham dục, thấy ni cô vào
rừng thì đâm ra say đắm sắc đẹp diễm kiều của ni cô. Tên du đãng đứng
chặn ngang đường không cho ni cô đi tới. Ni cô Subha cố làm cho anh ta
hiểu rằng cô là người xuất gia, đã từ khước thế gian, và cảnh cáo anh về
những tai hại cũng như nguy cơ của dục lạc, nhưng vô hiệu quả. Lời khuyên
của ni cô đã lọt vào tai của người điếc và được ghi lại thành Trưởng Lão
Ni Kệ.”—According to The Spectrum of Buddhism written by Bhikkhu Bodhi:
“One day Subha, the bhikkhuni, was entering Jivaka’s mango grove to relax
during moon-time. At that time a certain libertine of Rajagaha, in the
lustful prime of youth, seeing her entering the forest, was infatuated by
her. He barred the way making it impossible for her to go any further.
Subha sought to make him understand that she was one who had renounced and
warned him of the bane and curse of sense pleasures, but it was of no
avail. Her counsel fell on deaf ears and the dialogue is recorded as
Verses in the Therigatha.”
1) Tỳ
Khưu Ni Subha đang vào khu vườn xoài xinh đẹp. Một tên du đãng chận ngang
giữa đường. Sư Cô nói với hắn như sau—Subha the bhikkhuni was entering the
delightful mango grove. A rake barred her way. To him thus spoke Subha:
2) Lỗi
gì, tội gì, bần ni đã xúc phạm đến ông mà ông chận đường? Này ông bạn, tôi
là một ni cô, đã xuất gia mà chạm đến người nam là phạm giới—What offence,
what crime, have I done to you that you bar my way? O friend, it ill
beseems an ordained nun to touch a man.
3) Phật
Giáo đối với tôi thật vô cùng quý báu và tôi rất mến chuộng. Giới tu tập
nào mà Đức Bổn Sư đã ban hành cho Tỳ Kheo Ni, tôi nghiêm túc thọ trì.
Không mảy may ô nhiễm, tôi hoàn toàn trong sạch. Tại sao ông lại chận
đường tôi?—“The Dispensation of the Buddha is dear and precious to me.
What training precepts the Master has ordained for nuns, that I have
strictly followed. Free from defilements, purified am I. Why do you stand
blocking my way?
4) Tâm
của ông đầy những tư tưởng tham dục; tôi thì tâm thanh ý tịnh. Quả tim của
ông bị những khát vọng đê hèn khuấy động, tôi không còn dục vọng và dầu đi
đâu cũng không ham muốn gì cho cái xác thân phàm tục này. Tại sao ông mãi
đứng đó chận đường tôi?—Your mind is all upset with thoughts of lust; I am
of pure heart. Your heart all discomposed with vile passions, I
passionless and free everywhere from lustful yearnings for this carnal
body. Why do you stand thus obstructing my way?
** Tên du đãng trả
lời—The libertine thereupon answered:
5) Sư
cô đang còn son trẻ, sắc đẹp của sư cô trong trẻo, thân hình đẹp đẽ diễm
kiều. Gia nhập Giáo Hội (sống đời thánh thiện) thì có lợi ích gì; hãy lột
bỏ đi bộ y vàng. Đến đây, chúng ta hãy thọ hưởng lạc thú trong khu rừng
đầy bông hoa đang đua nở, hãy tìm thú vui của nhục dục—You are so young,
so spotless in beauty, in physique and form so pretty. What profits you to
be in the Order (in the Holy Life); doff that saffron-hued robe. Come, let
us take delight in the blossoming woodland, seeking our sensual pleasures.
6) Xem
kìa, hương thơm ngào ngạt của ngàn hoa đang phảng phất trong gió. Hãy
thưởng ngoạn mùa xuân đang tung nở, hớn hở trong niềm vui. Hãy đến đây thọ
hưởng lạc thú trong khu rừng đầy bông hoa đang đua nở, hãy tìm thú vui
trong nhục dục—Look, the fragrance of the flowers is being wafted through
the air. Behold the spring (Vasanta tide) is in full bloom, blossoming
with joy. Come, let us take delight in flowering woodland, seeking our
carnal pleasures.
7) Những
ngọn cây đầy bông hoa nghiêng ngả, lả lơi uốn mình trước gió, hình như
đang ca hát để đón mừng chúng ta. Nhưng sư cô thì thui thủi vào rừng một
mình, làm sao tìm được hạnh phúc trong đó?—The blossoming crests of the
trees swayed by the wind are as if they were chanting welcome song. But
you who enter the forest alone, how will you find happiness there?
8) Vào
trong khu rừng hoang dại, nơi mà thú dữ hằng lui tới, nơi bị khuấy động và
luôn luôn phải run sợ trước những thớt voi đi tìm mồi, bốc lên mùi rừng rú
dã man, hôi thúi nồng nặc, nơi vắng bóng người và đầy kinh sợ hãi hùng, sư
cô muốn vào trong ấy một mình, không ai tháp tùng hay sao?—Into this wild
forest, the haunt of ferocious animals, agitated and trembling with
marauding elephants reeking with fierce savagery, devoid of all human
beings, and emanating terror and fear, do you wish to go there all
unaccompanied and alone?
9) Ôi
nầy người thiếu nữ đẹp đẽ tuyệt trần! Như pho tượng đúc bằng vàng ròng
lộng lẫy sáng chói, như tiên nữ nhảy múa hát ca trong một hoa viên trên
cảnh trời, trong bộ y phục làm bằng tơ lụa của thành Ba La Nại cô sẽ đẹp
đẽ xinh tươi—Oh, you chanting maiden of matchless beauty! Like a statue
wroughtout of shining gold, like a rapturous nymph that frisks and dances
about in the celestial garden you would shine radiant draped in elegant
clothes of Benares silk.
10) Ôi,
thiếu nữ với cặp mắt mơ mộng đẹp như tiên! Tôi sẽ hàng phục dưới quyền uy
của cô nếu chúng ta có thể chung sống và cùng nhau trải qua cuộc đời trong
khu rừng hoang dại nầy và thọ hưởng dục lạc. Cùng khắp thế gian không có
ai dịu hiền và dễ mến như cô (đối với tôi cô còn quí hơn là mạng sống của
tôi)—Oh you with half open eyes of an elf! I will go under your sway, if
we can live and spend our time together taking delight in the forest and
relishing in sensual pleasures. There is no other being in all this world
dearer and sweeter to me than you (you are more precious to me than life
itself).
11) Nếu cô
lưu ý đến những lời của tôi, từ bỏ và lánh xa đời sống độc thân của cô,
cùng nhau sống đời tại gia cư sĩ và hưởng thụ nhục dục ngũ trần. Những
kiều nữ thướt tha dễ mến sống trong những tòa nhà đẹp đẽ sẽ chăm sóc và
cung phụng cô về mọi nhu cầu—If you pay heed to my words, abandon and
discard your celibate life, come live and lay life gratifying the
appetites of the senses. Lovely maidens dwelling in sheltered mansions
will attend on you and minister your every need.
12) Hãy mặc
những y phục may bằng hàng lụa ở Ba La nại. Hãy trang điểm với những tràng
hoa, và ướp tẩm nước thơm hương bay ngào ngạt. Tôi sẽ thân tặng cô nhiều
đồ trang sức đủ loại, với những hạt kim cương lóng lánh sáng ngời—Drape
yourself with soft silk clothes of Benares. Adorn yourself with garlands,
perfume yourself with aromatics and scents. Ornaments, many and diverse,
glittering with precious stones will I bestow on you.
13) Cô sẽ
nằm trải mình trên một cái giường ấm cúng tiện nghi và sang trọng, có mùi
thơm của gỗ trầm phảng phất, và bao phủ trong một tấm trải giường mới mịn
bằng lông trừu êm ấm và gối đầu trên những cái gối dồn bằng lông thiên nga
mềm mại, màn trướng mới mẻ tinh anh—You shall lie on a couch, cosy and
luxurious, redolent with scented sandalwood, padded with fleecy new
coverlets and soft pillows made of swans’ feathers and decked with
spotless canopies.
14) Dường
như hoa sen xinh đẹp và nở tung trong một ao đầm hoang dại (và lặng lẽ tàn
tạ không ai màn muốn), cùng thế ấy, cô là một sư cô thanh khiết; thân hình
trong trắng, trinh bạch và giữ vẹn tiết tháo, cô sẽ già nua và suy nhược
rồi tàn tạ hoại diệt với tuổi già—Like a lotus that springs into bloom in
a spirit-haunted lake (and fades away unwanted by any) so do you, a chaste
nun; your body pure, virgin and untouched, grows decrepit and feeble and
withers away with old age.
** Sư cô Subha hỏi—Then
asked Subha the bhikkhuni:
15) Nhìn
vào phần trong cơ thể phù du yếu ớt đang suy tàn nầy, ông thấy thích thú?
Có gì mà ông xem là dễ mến trong cái thân nhơ bẩn ngạt mùi hôi thúi
nầy?—Seeing what part of this fragile, grave-filling body, do you take
delight in? What is it that you take as sweet essence in this body,
reeking with filth?
** Tên du đãng trả
lời—The libertine made answer:
16) Mắt cô
giống như mắt của những con hươu rụt rè e sợ; nó tựa như cặp mắt xinh đẹp
của bà tiên nữ sống nơi thâm sơn cùng cốc. Nhìn vào đó lòng tôi tê tái
tràn đầy khát vọng không thể kềm chế được—Your eyes are like those of the
timid gazelle; they are like those of the elf dwelling in the recesses of
the mountain. Beholding those eyes of yours, my passions are roused beyond
control.
17) Gương
mặt sáng ngời của cô chói lọi xinh tươi như một pho tượng vàng rực rỡ. Mắt
cô lóng lánh như những tai sen màu đỏ. Nhìn vào lòng tôi run cảm không thể
nào kềm chế được—Like the lust of a golden image is your radiant face.
Your eyes are like the petals of a red lotus. The sight of them excites my
emotions beyond control.
18) Với
lông nheo dài của cô! Với cặp mắt trong trẻo và lóng lánh sáng ngời của
cô! Dầu cách xa ngàn dậm tôi vẫn chỉ mơ cặp mắt chói dịu ấy. Ôi người có
cặp mắt xinh đẹp như các vì tiên nữ trong câu chuyện thần thoại! Trong thế
gian nầy không có chi mà tôi yêu quí bằng đôi mắt ngọc của cô—You of the
long-drawn eye lashes! You of the eyes so pure, and vivacious! Though you
be far from me, I do dream only of your sparkling eyes. O you elf-eyed
fairy! There is naught dearer to me than those glittering orbs of yours.
** Sư cô Subha trả
lời—Subha thereupon replied:
19) Ông
chận đường một người con gái của Đức Phật. Ước vọng của ông cũng điên rồ
và vô ích như dấn bước trên con đường nguy hại. Lòng khao khát của ông
muốn được tôi cũng dại khờ và vô nghĩa như muốn nhảy vọt lên đỉnh núi Tu
Di, hay mong muốn lấy mặt trăng làm món đồ chơi của con người. (Là một ước
muốn không bao giờ được thỏa mãn)—You bar the way of a daughter of the
Buddha. Your yearning for me is as foolish and futile as treading a
dangerous road. Your pinning for me is as stupid and senseless as leaping
over Mount Meru or making the moona plaything of man. (It is a desire that
can never be fulfilled).
20) Không
nơi nào trên thế gian nầy có bất luận cái chi (dầu vô tri vô giác hay hữu
giác hữu tri) mà có thể gợi được lòng tham dục của tôi. Tôi không biết
tham dục là gì. Lòng tham dục ấy tôi đã phá tan từ gốc rễ bằng cách vững
chắc tiến hành trên con đường cao thượng—Nowhere in this wide world is
there any object (animate or inanimate) that could provoke lust in me. I
know not what sort of a thing lust is. That lust did I tear up by the
roots by following the Noble Path.
21) Ví như
vật mình đã vứt bỏ trong đống lửa đang phừng cháy, như chay thuốc độc đã
bị hủy diệt, dường thế ấy ngọn lửa tham dục của tôi đã bị dập tắt vĩnh
viễn. Tôi không biết (thấy) tham dục là gì—As something discarded to a pit
of burning coal, as a pot of poison that is destroyed, so have the fires
of my lust been quenched forever. I do not know (see) what lust is.
22) Nếu có
thể được hãy đi cám dỗ người đàn bà nào khác mà chưa từng có đủ sáng suốt
để trông thấy ngũ uẩn, hoặc người chưa từng liên hệ với Đức Phật. Nơi đây
ông chỉ khuấy rầy người nữ tu, một sư cô đã chứng ngộ Tứ Diệu Đế—Tempt
you, if possible, some woman who has not seen clearly with insight the
five aggrevates, or one who has not associated with the Buddha. You only
harass this nun, a nun who has realized the Four Noble Truths.
23) Trước
những lời khiển trách và tán dương, trong đau khổ và hạnh phúc, tôi luôn
luôn giữ chánh niệm. Như vậy không lúc nào tâm tôi bám víu hay thèm khát
điều chi. Tất cả các pháp hữu vi, hiện hữu do duyên sanh, đều giả tạm. Tôi
đã hoàn toàn thông suốt điều nầy—My mindfulness do I properly apply in
blame and praise, pain and pleasure. Therefore at no time does my mind
cling to or hanker after anything. Foul are all conditioned and component
things. This I have completely comprehended.
24) Tôi là
đệ tử của Đức Phật, người đã vượt thoát ra khỏi mọi thúc dục ô nhiễm, đã
tận diệt mọi ái dục bẩn thỉu đê hèn. Lái chiếc xe Bát Chánh Đạo, tôi thẳng
tiến đến Niết Bàn. Những mũi tên của tham dục đã được nhổ ra. Tôi tìm
những cảnh quạnh hiu cô tịch, đơn độc và thanh khiết để thích thú sống một
mình (an hưởng thú vui của rừng núi)—I am a disciple of the Buddha, one
who is free from all defiling impulses, bereft of all sordid cravings.
Riding the chariot of the Noble Eightfold Path do I go to Nirvana. Pulled
out are the arrows of lust. Proceeding to haunts that are lonely and
serene. I live there in solitude taking delight in them (enjoying their
sylvan serenity).
25) Ôi ta
đã thấy những đồ chơi hình giả, tay chân sơn phết với màu mè rực rỡ và
những thằng hình bằng gỗ để làm trò chơi múa rối, được nối ráp và khéo léo
cột với nhau bằng chỉ và có thể thong thả nhảy múa theo mọi chiều
hướng—Oh, I have seen dolls with limbs gaudily painted, pupets made of
wood, all cleverly fastened with strings or spindles and made to dance in
diverse directions.
26) Nhưng
một khi gỗ, chỉ và trục quay đều được tháo gỡ hay nới lỏng và bỏ tung tóe,
món ở đây, món ở kia, thì còn đâu là đồ chơi hình giả, đâu là thằng hình
múa rối. Có nơi nào trong đó mà ông có thể chú tâm đến?—But once the wood,
strings and spindles are all drawn out, loosened and scattered here and
there, no dolls and puppets exist any more. When will you in which part
fix your mind?
27) Cơ thể
nầy của ta cũng dường như thằng hình gỗ đồ chơi. Nó không còn nữa khi các
bộ phận vật lý và những phụ tùng của nó không còn. Ngoài những bộ phận và
phụ thuộc không còn người sống nữa. Ông sẽ chú tâm vào phần nào?—The body
of mine, too, is like a doll. It ceases to exist without its physical
organs and attendant attributes. Independence of the organs and attributes
no body survives. Where will you in which part fix your mind?
28) Hãy
nhìn bức hình vẽ một thiếu nữ trên tường, với cái nhìn sai lạc ông sẽ thấy
đó là một người sống. Sự nhận thấy ấy là một ảo ảnh—Beholding a painting
of a woman in a fresco you perceive it as a living woman in your perverted
vision. That perception of yours is an illusion.
29) Này
ông, con người thiển trí! Con người đui mù. Ông cố bám vào thân nầy như
vật gì thường còn và thuộc về của ông chăng, trong khi nó vốn chỉ là bọt
bèo và bong bóng? Tấm thân phù du tạm bợ nầy tựa hồ như trò chơi của nhà
ảo thuật, như một cội cây bằng vàng mà ông thấy trong mộng, một pho tượng
bằng bạc mà nhà ảo thuật khéo léo trình bày giữa đám đông, ông có luyến ái
nó không?—Oh you simpleton! You are blind. Do you cling to this body which
is just froth and bubble, as something permanently belonging to you? This
transitory body which is like a conjuror’s trick, a golden tree seen in
your dream, a silver image shown by a juggler in the midst of a crowd?
30) Mắt nầy
chỉ là một hòn bi nhỏ nằm trên một nạng cây, một cái bong bóng đầy nước
mắt và tiết ra chất nhờn, một sự pha trộn những màu trắng, đen, và xanh,
vân vân, đó là tất cả những gì tạo nên hình dáng của mắt—What is this eye
but a little ball lodged in the fork of a tree, a bubble full of tears,
excluding slime, a blend of colours, white, black, and blue, etc., all
giving the shape and image of an eye.
31) Sư cô
Subha không còn luyến ái bất cứ thứ gì; cô không luyến ái cặp mắt. Do đó
trong một cảnh tượng rất cảm động, sư cô thình lình hồn nhiên móc tròng
mắt ra đưa cho tên du đãng và nói: “Đây là con mắt, con mắt mà ông đắm
đuối say mê. Hãy lấy đi!”—Subha was attached to nothing, she had no
clinging for her eyes. So she, so lovely to those who beheld her, gouged
out her eye in one sudden spontaneous movement, and gave it to him saying:
“Here then is this eye, for which you hanker. Take it away!”
32) Tức
khắc, lòng tham dục của tên du đãng tan biến. Xin sám hối với sư cô, chàng
ta nói: “Ôi, nầy sư cô, bậc thánh thiện và vô nhiễm! Ngưỡng nguyện sư cô
được an lành! Ngưỡng nguyện mắt sư cô được hồi phục! Tôi không bao giờ còn
dám tái phạm tội ác ghê gớm như vậy nữa—At once the lust in the rake
completely vanished. Begging her pardon, he declared: “O you, holy and
immaculate one! May you be well! May you recover your sight! Never again
will I dare to commit such a heinous crime.
33) Cũng
dường như tôi đang đi vào một ngọn lửa đang cháy đỏ. Cũng giống như tôi
đang ôm một con rắn độc. Phá khuấy một người hiền lành thánh thiện như sư
cô thì ích lợi gì? Cúi xin sư cô khoan dung tha lỗi cho tôi—It is as if I
have walked into a blazing flame. It is as ifI have embraced a venomous
snake. What good can accrue by molesting a holy one like you? Please do
forgive me.
34) Được
thoát ra khỏi tay tên du đãõng, sư cô Subha về hầu Phật, bậc Toàn Giác Tối
Thượng. Nơi đây, ngưỡng nhìn lên dung nhan lộng lẫy của Đức Thế Tôn, nhãn
quang của sư cô liền được hồi phục trong tất cả tình trạng rực rỡ vinh
quang của nó—Delivered from the libertine, the bhikkhuni Subha went her
way to the Buddha, the Supremely Enlightened One. There, gazing on the
divine resplendent features of the Master, her sight was restored to her
in all its glory.
Trưởng Lão Xá Lợi Phất: Elder
Sariputra.
Trưởng Thành: Adult—To attain
(grow into) manhood.
Trưởng Tôn: Eldest grandson.
Trưởng Tử: Eldest son.
Trượng Lâm: See Thân Nộ Ba Lâm.
Trượng Phu: Purusha (skt).
·
Một Phật tử nhiệt thành, không ngừng trì giới—A zealous
disciple—A man who presses forward unceasingly in observance of Buddhist
morality.
·
Người có tánh linh thượng đẳng: A person who has a supreme
spirit.
Trượt: To slide—To slip.
Trừu Thoát: Chỉ việc đi tiểu
tiện của chư Tăng Ni (khi vào nhà xí thì phải cởi áo cà sa)—To go to the
latrine (restroom).
Trừu Tượng: Abstract--Discrete.
Trửu:
1) Phần
khuỷu tay: Forearm.
2) Một
phần mười sáu ngàn Na Do Tha, thay đổi từ 1 bộ 4 tấc đến 1 bộ 8 tấc Anh:
The 16,000th part of a yojana. It varies from 1ft. 4 in. to 1 ft. 8 in. in
length.
Châm Ngôn Tục Ngữ—Precepts
and Proverbs:
Nhất ngôn ký xuất,
tứ mã nan truy: A word spoken is past recalling.
Sanh
sự, sự sanh: He that seeks trouble never misses.
Nếu
anh mù dắt anh lòa thì cả hai cùng xuống hố: If the blind leads the
blind, both shall fall into the ditch.
Ngày
mai không bao giờ đến: Tomorrow never comes.
Còn
nước còn tát: While there is life, there is hope.
Thời
gian trôi qua không bao giờ trở lại: Make hay while the sun shines.
Nụ
cười bằng mười thang thuốc bổ: It is a poor heart that never rejoices.
Chưa
học bò đã lo học chạy: To try to run before one can walk.
Chưa
nếm đắng cay không hiểu hết ngọt ngào: Who has never tasted bitter, knows
not what is sweet.
Chó
sủa không cắn: Barking dogs seldom bite.
Chín
người mười ý: So many men, so many minds.
Chó
dại có mùa, người dại quanh năm: He who is born a fool is never cured.
Chê
dễ làm không dễ: Criticism is easy but setting to work is not easy.
Câu
trả lời gọn nhất là hành động: The shortest answer is doing.
Cái
gì cũng biết là không biết gì cả: To know everything is to know nothing.
Phòng bệnh hơn chữa bệnh: Prevention is better than cure.
Thì
giờ là vàng bạc: time is gold.
Không gì độc bằng cái lưỡi: There is no venom like that of the tongue.
Quân
tử ẩn hình, tiểu nhân lộ tướng: A fool always rushes to the fore.
Sám
hối là tốt, nhưng đừng phạm lỗi thì tốt hơn: Repentance is good, but
innocence is better.
Sống
sao chết vậy: As we live, so shall we end.
Lửa
thử vàng, hoạn nạn thử người: Fire proves gold, adversity proves men.
Cái
lưỡi không xương nhiều đường lắc léo: Words pay no debt.
Lưỡõi sắc hơn dao: Words hurt more than swords.
Mất
trâu mới lo làm chuồng: To lock the stable after the horse is stolen.
Thật
thà là thượng sách: Honesty is the best policy.
Thế
gian không ít thì nhiều, bỗng dưng ai dễ đặt điều cho ai: Where there is a
smoke, there is a fire.
Thời
giờ như thể thoi đưa, nó đi đi mãi không chờ đợi ai: Time and tide wait
for no man.
Thói
quen không đến một lần: Once is no custom.
Không ai tin kẻ nói dối dù có lúc hắn nói sự thật: A liar is not believed
even when he speaks the truth.
Không có cái gì của chúng ta cả, ngoại trừ thời giờ: Nothing is ours, but
time.
---o0o---
Mục Lục Tự điển Phật Học
Việt-Anh
|
A
|
Ba |
Be |
Bi |
Bo |
Bu
| Ca
| Ch
| Co |
Cu
|
D
|
Đa
| Đe |
Đi |
Đo |
Đu
|
| E
|
G
|
Ha |
He |
Hi |
Ho |
Hy
|
I
| K
| La |
Le |
Li |
Lo |
Lu |
Ly
|
|
Ma
| Me |
Mi |
Mo |
Mu, My
|Na
| Ne |
Ng |
Nh
| Ni
| No
| Nu
|
| O
| Pha |
Phe
| Phi |
Pho |
Phu
| Q
| R
| S
| Ta |
Te |Tha
| Thă, Thâ |
| The |
Thi |
Tho |
Thu |
Ti |
To |
Tr |
Tu |
Ty
| U
| V
| X
| Y|
---o0o---
Mục Lục |
Việt-Anh | Anh -Việt |
Phạn/Pali-Việt
| Phụ Lục
---o0o---
Trình bày: Nhị
Tường
Cập nhật: 1-4-2006