TỔ Đ̀NH MINH ĐĂNG QUANG
PHẬT HỌC TỪ ĐIỂN
BUDDHIST DICTIONARY
VIETNAMESE-ENGLISH
THIỆN PHÚC
Tu
Tu: Abhyasa (p
& skt).
1)
Gia nhập vào giáo đoàn để trở thành Tăng sĩ Phật giáo: To enter
into religion—To become a Buddhist monk.
2)
Phát triển: Bhaveti (p)—To contemplate—To develop.
3)
Sự phát triển: Bhavana (p)—Development.
4)
Tu Bổ: To maintain.
5)
Tu Chỉnh: To put in order.
6)
Tu Hành: To cultivate—To observe or keep commandments—To
practice.
7)
Tu Sửa: To mend.
8)
To drink at a draught (tu một hơi).
9)
Tu có nghĩa là tu tập hay thực tập những lời giáo huấn của Đức
Phật, bằng cách tụng kinh sáng chiều, bằng ăn chay học kinh và giữ giới;
tuy nhiên những yếu tố quan trọng nhất trong “thực tu” là sửa tánh, là
loại trừ những thói hư tật xấu, là từ bi hỷ xả, là xây dựng đạo hạnh.
Trong khi tụng kinh ta phải hiểu lư kinh. Hơn thế nữa, chúng ta nên thực
tập thiền quán mỗi ngày để có được tuệ giác Phật. Với Phật tử tại gia,
tu là sửa đổi tâm tánh, làm lành lành dữ—“Tu” means correct our
characters and obey the Buddha’s teachings. “Tu” means to study the law
by reciting sutras in the morning and evening, being on strict
vegetarian diet and studying all the scriptures of the Buddha, keep all
the precepts; however, the most important factors in real “Tu” are to
correct your character, to eliminate bad habits, to be joyful and
compassionate, to build virtue. In reciting sutras, one must thoroughly
understand the meaning. Furthermore, one should also
practise meditation on a daily basis to get insight. For laypeople, “Tu”
means to mend your ways, from evil to wholesome (ceasing transgressions
and performing good deeds).
Tu Ác: Huân tập
những điều ác, ngược lại với bản tánh ác—To cultivate evil—Cultivated
evil in contrast with evil by nature.
Tu Bạt: Tên của
phái “Khổ Hạnh Ngoại Đạo”—Name of an externally ascetic sect.
Tu Bạt Đà La:
Subhadra (skt)—C̣n gọi là Tô Bạt Đà La, tên của vị Tỳ Kheo đệ tử cuối
cùng được quy-y với Phật. Ông là một người Bà La Môn, lúc đó đă 120 tuổi
(ông tới thành Câu Thi Na gặp lúc Đức Phật sắp nhập diệt, bèn xuất gia
và đắc đạo)—Name of the last convert of the Buddha, a Brahmin, 120 years
old at the time of convert.
Tu Bồ Đề:
Subhuti (skt)—C̣n gọi là Tu Phù Đê, Tu Phu Đê, Tu Bổ Đề, Tu Bổ Để, Tàu
dịch là Không Sinh, Thiện Hiện, Thiện Cát, hay Thiện Nghiệp. Ông là một
trong mười đệ tử lớn của Đức Phật. Ông là đệ tử đầu tiên liễu ngộ “tánh
không.” Ông được nổi bậc về ḷng bi mẫn và chẳng bao giờ gây chuyện với
bất cứ ai. Ông cũng là người đương thời chuyên thuyết giảng kinh Ma Ha
Bát Nhă—One of the ten great disciples of the Buddha. He is thought to
have been first in his understanding of Sunyata, or the void. He was
pre-eminent in compassion and that he never quarreled with anyone. He
is the principal interlocutor in the Mahaprajnaparamita sutra.
Tu Bổ: To
maintain—Maintenance.
Tu Chân:
Sucinta, Sucinti, or Sucitti (skt)—Tên của một loại Trời—Name of a deva.
Tu Chính: To
amend—To rectify--Amendment.
Tu Chính Án:
Amendment.
Tu Chứng: To
practice and experience.
Tu Công Đức: To
cultivate meritorious virtues.
Tu Dạ Ma:
Suyama or Yama (skt)—C̣n gọi là Tu Diệm Ma, Tu Viêm, Tu Viêm Ma, Tàu
dịch là Diệu Thiện hay Diệu Thời Phân, tên của Tu Ma Thiên Vương, vị cai
quản cung trời Dạ Ma—The ruler of the Yama Heaven.
Tu Di: See
Sumeru Mountain in English-Vietnamese Section and Meru in Sanskrit/Pali-Vietnamese
Section.
Tu Di Đàn: Tu
Di Tọa—Phật tọa—A kind of throne for a Buddha.
Tu Di Đảnh:
Merukuta (skt)—Con trai thứ hai của Phật Đại Thông Trí Thắng có tên là
Tu Mật La Thiên hay A Súc Bệ Phật—Second son of Mahabhijna Buddha, whose
name is Abhirati—See Abhirati in Sanskrit/Pali-Vietnamese Section.
Tu Di Tọa: See
Tu Di Đàn.
Tu Di Trong Hạt Cải—Hạt
Cải Trong Tu Di: Mount Sumeru contained in a Mustard Seed, and a
Mustard Seed contained in Mount Sumeru—See Sumeru Mountain in
English-Vietnamese Section.
Tu Di Tướng:
Merudhvaja (skt)—Tên của vũ trụ của Tu Di Đăng Vương Phật, ở về phương
tây bắc, con trai thứ 12 của Phật Đại Thông Trí Thắng—Name of the
universe of Merukalpa Buddha, in the northwest, twelfth son of
Mahabhijna.
Tu Dưỡng: To
cultivate.
Tu Đa La: Sutra
(skt)—C̣n gọi là Tô Đát Lăm, Tố Đát Lăm, Tu Đa La, Tu Đan La—Tu Đố Lộ—Tu
Đa Lan-Tu Đan Lan Đa.
1)
Xâu lại thành dây cho khỏi sút ra: To sew—To thread—To string
together.
2)
Sợi chỉ hay sợi dây: A thread, or a string.
3)
Xâu lại thành tràng hoa: Strung together as a garland of flowers.
4)
Kinh điển Phật Giáo, thường giới thiệu bằng “Như Thị Ngă Văn”:
Buddhist sutras, usually introduced by “Thus Have I Heard.”
5)
Phần thứ nhất trong Tam tạng, nhưng lắm khi ám chỉ tất cả kinh
Phật: The Sutra-pitaka, or the first portion of the Tripitaka, but
sometimes applied to the whole Buddhist Canon.
Tu Đà: Sudra (skt)—C̣n
gọi là Thủ Đà La, giai cấp thấp nhất trong bốn giai cấp ở Ấn Độ vào thời
Đức Phật c̣n tại thế—The fourth and the lowest caste in India at the
time of the Buddha—See Tứ Giai Cấp Ấn Độ (4).
Tu Đà Ban Na:
See Srota-apanna in Sanskrit/Pali-Vietnamese Section.
Tu Đà Hoàn:
Srotapanna (skt)—Thánh quả đầu tiên trong Tứ Thánh Quả. Trong quả vị nầy,
dù chưa vượt thoát khỏi ṿng luân hồi sanh tử, hành giả không c̣n bị
thối chuyển và chắc chắn sẽ đạt quả vị A La Hán sau bảy lần tái sanh
giữa cơi nhân Thiên—This is the first step of the four before attaining
Arhat Enlightenment. Although in this stage, the person is not yet free
from the cycle of births and deaths, he will never again regress in his
cultivated path and is guaranteed to reach Arhathood after seven more
times of rebirths among Heaven and Humans—See Tứ Thánh Quả in
Vietnamese-English Section, and Srota-apanna in Sanskrit/Pali-Vietnamese
Section.
Tu Đà Lư Sá Na:
Sudarsana (skt).
1)
Thiện Kiến—Beautiful.
2)
Tên của một loài Dạ Xoa: Name of a yaksa.
Tu Đà Tu Ma:
Sudhaman (skt)—Một vị vua được đề cập tới trong Đại Trí Độ Luận (theo
Đại Trí Độ Luận, xưa có vua Tu Đà Tu Ma, tŕ giới tinh tấn, thường theo
hạnh nói thật. Một sớm cỡi xe vào vườn chơi th́ gặp một vị Bà La Môn đi
tới xin bố thí. Vua nhận lời và bảo đợi đó khi vua trở lại sẽ bố thí.
Khi vua vào vườn lại gặp vua quỷ hai cánh là Lộc Túc, từ không trung bay
tới bắt vua bay đi. Đến núi quỷ ở, nó đặt vua trong 99 vị vua khác. Vua
Tu Đà Tu Ma nước mắt như mưa. Lộc Túc hỏi vua Tu Đà Tu Ma v́ cớ ǵ mà
khóc như trẻ nít, vua Tu Đà Tu Ma nói: Ta không sợ chết, chỉ sợ thất tín
với vị Bà La Môn, và nói rơ lư do cho Lộc Túc nghe. Lộc Túc bèn cho về
và hẹn bảy ngày sau phải trở lại. Vua về nước bố thí cho vị Bà La Môn và
lập thái tử lên làm vua. Qua bảy ngày vua đến gặp thái tử bảo là đến kỳ
hẹn gặp Lộc Túc, thái tử khuyên vua nên bỏ ư định nầy, nhưng vua đọc
ngay bài kệ về hạnh nói thật như sau: “Hạnh nói thật là điều răn thứ
nhất. Hạnh nói thật đi lên thang trời. Nói thật là bậc người lớn lao.
Hạnh nói sai trái đi vào địa ngục. Ta nay giữ lời nói thật thà bỏ tuổi
thọ đời ḿnh, ḷng không hối hận.” Thế rồi vua đến nơi gặp Lộc Túc, Lộc
Túc nghe vua khởi lên niềm tịnh tín, thả ngay vua cùng 99 vua khác trở
về)—A king mentioned in the Maha-Prajna-Paramita sastra.
Tu Đạo:
1)
Tu hành theo pháp môn của tôn giáo: To practice the way—To
cultivate the way of religion—To be religious.
2)
Tự tu tập: The way of self-cultivation.
3)
Con đường tu tập: The way of practice.
4)
Ngôi vị Thanh Văn Thừa từ Nhất Lai đến A La Hán: In the Hinayana,
the stage from Anagama to arhat.
5)
Một trong thập địa Bồ Tát: In Mahayana, one of the bodhisattva
stages.
Tu Đạt:
1)
Sudana (skt)—Tiền thân của Đức Thích Ca Mâu Ni, khi ngài bỏ cả
quyền hành ngôi báu để tu hạnh bố thí—Sakyamuni as a prince in a former
life (previous incarnation), when he forfeited the throne by his
generosity (almsgiving).
2)
Sudatta (skt)—Tên của trưởng giả Cấp Cô Độc, người nước Xá Vệ, đă
dâng cúng ngôi tịnh xá Kỳ Thọ Cấp Cô Độc Viên lên Đức Phật—Well-given,
interpreted as a good giver, beneficient, known as benefactor of
orphans, etc. Name of Anathapindaka, who bestowed the Jetavana vihara on
the Buddha.
Tu Đạt Đa:
Sudatta or Sudana (skt)—See Tu Đạt (2).
Tu Đạt Lê Xá Na:
Sudarsana (skt)—C̣n gọi là Thiện Kiến Thiên hay Thiện Quán Thiên, cơi
Phạm Thiên thứ 16, và cơi Tứ Thiền Thiên thứ sáu—The heaven of beautiful
appearance, the sixteenth Brahmaloka, and sixth of the fourth Dhyana—See
Phạm Thiên, and Tứ Thiền Thiên (4).
Tu Đạt Nă:
Sudana (skt)—See Tu Đạt (1).
Tu Đạt Thiên:
Sudrsas (skt)—See Thiện Hiện Thiên in Vietnamese-English Section.
Tu Đắc Thiên Nhĩ:
Một lối giải thích tương đương cho thiên nhĩ thông—Another equivalent
interpretation for deva-ear—See Thiên Nhĩ Thông.
Tu Đính: To
amend—To rectify.
Tu Đức: Tu đức
qua công phu, ngược lại với bản tánh tốt—Power of goodness attained by
practice, in contrast with natural capacity for goodness (Tánh đức).
Tu Già Đa:
Sujata (skt & p)—Người con gái của một điền chủ trong vùng Senani gần
thị trấn Ưu Lâu Tần Loa trong thời Đức Phật c̣n tại thế, nay là làng
Urel cách thị trấn Gaya 6 dậm trong quận Gaya thuộc tiểu bang Bihar
trong vùng đông bắc Ấn Độ. Nàng Tu Già Đa phát tâm hứa sẽ dâng cúng cho
vị thần cây đa cạnh nhà một bữa ăn cháo sữa nếu như nàng sanh được con
trai. Ḷng mong ước của nàng được măn nguyện sau khi nàng hạ sanh một
cháu trai. Nàng sai người hầu gái sửa soạn nơi cho cô đến lễ bái tạ ơn.
Khi ra đến nơi, người gái thấy thái tử Sĩ Đạt Đa ngồi dưới gốc cây đa,
tưởng Ngài là vị thần cây hiện ra để thọ nhận lễ vật, bèn chạy về thông
báo cho Tu Già Đa. Tu Già Đa rất vui mừng, mang thức ăn đựng trong bát
vàng đến cúng dường cho Ngài. Đây là bữa ăn duy nhất của Đức Phật trước
khi Ngài chứng đạo giác ngộ sau 49 ngày ngồi thiền định dưới cội cây Bồ
Đề tại làng Bồ Đề Đạo Tràng (Phật Đà Ca Da) trong tiểu bang Bihar, miền
đông bắc Ấn Độ—Daughter of a land owner in the vilage of Senani near the
small city of Uruvela during the Buddha’s time, present-day Urel village
which is situated six miles from the city of Gaya in the Gaya district
of the Bihar state in northeast India. Sujata made a promise to the God
of the banyan tree near by that she would offer a meal of milk-rice to
the God if she gave birth to a son. Her wish was fulfilled, the son was
born, and she sent her maid to prepare the place for the offering. Her
maid, finding Siddhartha sitting under the banyan, thought that he was
the tree-God present in person to receive the offering. She brought the
news to Sujata, who in great joy, brought the food in a golden bowl and
offered it to him. This was the only meal of the Buddha previous to the
night of his enlightenment after 49 days of his sitting meditation under
the Bodhi-Tree which is located in the Budha-Gaya village in the Bihar
state of northeast India.
Tu Già Đà:
Sugata (skt)—Tu Già Đa—Tu Già Độ—Sa Già Đà—Tô Yết Đa—Sa Bà Yết Đa.
1)
Hảo Khứ: Người đi đúng đường—One who has gone the right way.
2)
Thiện Thệ: Một trong những danh hiệu của Đức Phật—One of the
Buddha’s titles.
3)
Hoan Nghênh: Svagata (skt)—Welcome.
Tu Hành: Carya
(skt).
(I)
Nghĩa của Tu Hành—The meanings of “Cultivation”—Tu tập chánh pháp—Conduct—To
observe and do—To cultivate—To practice—To mend one’s ways—To cultivate
oneself in right practice—To lead a religious life.
(II)
Tầm quan trọng của việc Tu Hành trong Phật Giáo—The importance of
Practice in Buddhism:
1)
Phật tử thường có truyền thống tôn Phật kính Tăng, và bày tỏ ḷng
tôn kính với xá lợi Phật, những biểu tượng tôn giáo như h́nh ảnh, tịnh
xá hay tự viện. Tuy nhiên, Phật tử chẳng bao giờ thờ ngẩu tượng—It is
traditional for Buddhists to honour the Buddha, to respect the Sangha
and to pay homage the religious objects of veneration such as the relics
of the Buddha, Buddha images, monastery, pagoda, and personal articles
used by the Buddha. However, Buddhists never pray to idols.
2)
Thờ cúng Phật, tổ tiên, và cha mẹ quá văng đáng được khuyến khích.
Tuy nhiên, chữ “thờ cúng” tự nó đă không thích đáng theo quan điểm của
đạo Phật. Từ “Bày tỏ ḷng tôn kính” có lẽ thích hợp hơn. Phật tử không
nên mù quáng thờ phụng những thứ nầy đến nỗi quên đi mục tiêu chính của
chúng ta là tu hành. Người Phật tử quỳ trước tượng Phật để tỏ ḷng tôn
kính đấng mà h́nh tượng ấy tượng trưng, và hứa sẽ cố gắng đạt được những
ǵ Ngài đă đạt 25 thế kỷ trước, chứ không phải sợ Phật, cũng không t́m
cầu ân huệ thế tục từ h́nh tượng ấy—The worship of the Buddha,
ancestors, and deceased parents, are encouraged. However, the word
“worship” itself is not appropriate from the Buddhist point of view. The
term “Pay homage” should be more appropriate. Buddhists do not blindly
worship these objects and forget their main goal is to practice.
Buddhists kneel before the image of the Buddha to pay respect to what
the image represents, and promise to try to achieve what the Buddha
already achieved 25 centuries ago, not to seek worldly favours from the
image. Buddhists pay homage to the image not because they are fear of
the Buddha, nor do they supplicate for worldly gain.
3)
Thực hành là khía cạnh quan trọng nhất trong đạo Phật. Đem những
lời Phật khuyên dạy ra thực hành trong đời sống hằng ngày mới thực sự
gọi là “tu hành.” Đức Phật thường nhắc nhở tứ chúng rằng Phật tử không
nên tùy thuộc vào người khác, ngay cả đến chính Đức Phật, để được cứu độ.
Trong thời Đức Phật c̣n tại thế, có nhiều đệ tử hay ngắm nghía vẻ đẹp
của Phật, nên Ngài nhắc nhở tứ chúng rằng: “Các ông không thể nh́n thấy
Đức Phật thật sự bằng cách ngắm nh́n vẻ đẹp nơi thân Phật. Những ai nh́n
thấy giáo lư của ta mới thật sự nh́n thấy ta.”—The most important aspect
in Buddhism is to put into practice the teaching given by the Buddha.
The Buddha always reminded his disciples that Buddhists should not
depend on others, not even on the Buddha himself, for their salvation.
During the Buddha’s time, so many disciples admired the beauty of the
Buddha, so the Buddha also reminded his disciples saying: “You cannot
see the Buddha by watching the physical body. Those who see my teaching
see me.”
(III)
Lời Phật dạy về Tu Hành trong Kinh Pháp Cú—The Buddha’s teachings
on Cultivation in the Dharmapada Sutra:
·
Chuyên làm những việc không đáng làm, nhác tu những điều
cần tu, bỏ việc lành mà chạy theo dục lạc, người như thế dù có hâm mộ kẻ
khác đă cố gắng thành công, cũng chỉ là hâm mộ suông—He who applies
himself to that which should be avoided, not cultivate what should be
cultivated; forgets the good, but goes after pleasure. It’s only an
empty admiration when he says he admires people who exert themselves in
meditation (Dharmapada 209).
Tu Hành Chân Chánh
Không Thể Nào Tự Khinh Mà Không Cố Gắng Hết Ḿnh: To cultivate
earnestly we cannot look down on ourselves and not to exert enough
efforts.
Tu Hành Giáo Pháp
Và Thiền Định: To practise the Dharma and meditation.
Tu Hành Khổ Hạnh:
Ascetic practices—Tu hành giới luật thanh tịnh thân tâm, có mười hai
điều khổ hạnh—Practices of precepts to purify one’s body and mind. There
are twelve ascetic rules:
1)
Đầu chẳng đội mủ: Never wear a hat.
2)
Chân không mang giày: Never wear shoes.
3)
Không giữ tiền bạc; nếu có ai cho th́ giải thích rồi trả lại:
Never keep money; if people offer money because they don’t know, explain
and return to them.
4)
Mặc áo vá: Wearing patched robes.
5)
Chỉ ăn đồ khất thực: Eating only begged food.
6)
Ngày chỉ ăn một ngọ: Eating only a meal a day at noon time.
7)
Không ăn thêm hay ăn sái giờ: Not to eat further food or eating
in the afternoon.
8)
Sống nơi yên tỉnh cô liêu: Living in secluded, solitary place.
9)
Sống nơi trống trải: Living in the open.
10)
Tham thiền dưới gốc cây: Meditating under a tree.
11)
Sống bất cứ nơi nào: Living in whatever place.
12)
Chỉ ngồi chứ không nằm: Sitting only, never lying down.
Tu Hành Kiên Cố:
Firmness in observing Buddhist morality.
Tu Hành Lơ Là:
To cultivate perfunctorily.
Tu Hành Thối Chuyển:
Regressive cultivation—Nhứt niên Phật tại tiền, nhị niên Phật tại Tây
Thiên, tam niên vấn Phật yếu tiền—In the first year of cultivation, the
Buddha stands right before our eyes; the second year he has already
returned to the West; third year if someone inquires about the Buddha or
request recitations, payment is required before a few words are spoken
or a few verses recited.
Tu Hành Tinh Tấn:
To practice diligently.
Tu Hành Trụ:
Trụ thứ ba trong thập trụ—Bodhisattva’s stage of conduct, the third of
his ten stages.
** For more
information, please see Thập Trụ.
Tu Hạnh Phổ Hiền:
To practice the deeds of Samantabhadra—See Mười Đại Nguyện của Phổ Hiền
Bồ Tát.
Tu Hoặc: Tư
Hoặc—Khi tu đạo dứt bỏ mọi nghi hoặc, mê muội tham, sân, si—Illusion,
such as desire, hate, etc., in practice or performance, i.e. in the
process of attaining enlightenment.
** For more
information, please see Tư Hoặc.
Tu Khổ Hạnh:
Recluse—Ascetic practices—See Tu Hành khổ hạnh.
Tu Kiên: Tu
hành kiên định—Firmness in observing or maintaining; established
conviction, i.e. of the bodhisattva of the Differentiated Teaching, that
all phenomena in essence are identical.
Tu La: Asura (skt)—A
Tu La, loại quỷ thần thường đánh nhau với trời Đế Thích—Demons who war
with Indra.
Tu La Đạo: A Tu
La đạo (thường là kẻ hay kiếm chuyện gây gỗ), một trong lục đạo—Asura
way, or destiny, one of the six paths.
Tu La Quân:
Quân binh của A Tu La, đánh nhau với trời Đế Thích—The army of Asuras,
fighting on the asura battlefield against Indra.
Tu La Tửu: Sura
(skt)—Rượu Tu La, cũng được diễn dịch như là A Tu La Tửu nghĩa là “không
có rượu.” Ư nói cái ǵ không hiện hữu—Wine, spirits, but it is also
interpreted as asura wine, i.e. the non-existent.
Tu Là Chuyển Nghiệp:
Dù mục đích tối thượng của đạo Phật là giác ngộ và giải thoát, Đức Phật
cũng dạy rằng tu là cội nguồn hạnh phúc, hết phiền năo, hết khổ đau.
Phật cũng là một con người như bao nhiêu con người khác, nhưng tại sao
Ngài trở thành một bậc giác ngộ vĩ đại? Đức Phật chưa từng tuyên bố Ngài
là thần thành ǵ cả. Ngài chỉ nói rằng chúng sanh mọi loài đều có Phật
tính hay hạt giống giác ngộ và sự giác ngộ ở trong tầm tay của mọi người,
rồi nhờ rời bỏ ngai vị Thái Tử, của cải, và quyền lực để tu tập và tầm
cầu chân lư mà Ngài đạt được giác ngộ. Phật tử chúng ta tu không phải
mong cầu xin ân huệ, mà phải tu tập theo gương hạnh của Đức Phật, phải
chuyển nghiệp xấu thành nghiệp lành hay không c̣n nghiệp nào nữa. Con
người ở đời giàu có và thông minh, nghèo hèn và ngu dốt. Mỗi người mỗi
khác, mỗi người một hoàn cảnh riêng biệt sai khác nhau. Phật tử tin rằng
nguyên nhân chỉ v́ mỗi người tạo nghiệp riêng biệt. Đây chính là luật
nhân duyên hay nghiệp quả, và chính nghiệp tác động và chi phối tất cả.
Chính nghiệp nơi thân khẩu ư tạo ra kết quả, hạnh phúc hay khổ đau, giàu
hay nghèo. Nghiệp không có nghĩa là số phận hay định mệnh. Nếu tin vào
số phận hay định mệnh th́ sự tu tập đâu c̣n cần thiết và lợi ích ǵ?
Nghiệp không cố định cũng không phải là không thay đổi được. Con người
không thể để bị giam hăm trong bốn bức tường kiên cố của nghiệp. Ngược
lại, con người có khả năng và nghị lực có thể làm thay đổi được nghiệp.
Vận mệnh của chúng ta hoàn toàn tùy thuộc vào hành động của chính chúng
ta; nói cách khác, chúng ta chính là những nhà kiến trúc ngôi nhà nghiệp
của chính chúng ta. Tu theo Phật là tự ḿnh chuyển nghiệp. Chuyển nghiệp
là chẳng những phải bỏ mọi tật xấu của chính ḿnh, mà cũng đừng quan tâm
đến những hành động xấu của người khác. Chúng ta không thể nào đổ lỗi
cho ai khác về những khổ đau và bất hạnh của chính ḿnh. Chúng ta phải
đối diện với cuộc sống chứ không bỏ chạy, v́ có chỗ nào trên quả đất nầy
là chỗ cho chúng ta chạy trốn nghiệp của ḿnh đâu. V́ thế chúng ta phải
chuyển nghiệp bằng cách tu tập các hạnh lành để mang lại hạnh phúc cho
chính ḿnh, hơn là cầu xin hoặc sám hối. Chuyển nghiệp là thường nhớ tới
nghiệp, phải dùng trí tuệ để phân biệt thiện ác, lành dữ, tự do và trói
buộc để tránh nghiệp ác, làm nghiệp lành, hay không tạo nghiệp nào cả.
Chuyển nghiệp c̣n là thanh lọc tự tâm hơn là cầu nguyện, nghi lễ cúng
kiến hay tự hành xác. Ngoài ra, chuyển nghiệp c̣n là chuyển cái tâm hẹp
ḥi ích kỷ thành cái tâm mến thương rộng lớn và thành tựu tâm từ bi bằng
cách thương xót chúng sanh mọi loài. Nói cách khác, chuyển nghiệp là
thành tựu tứ vô lượng tâm, đặc biệt là hai tâm từ và bi. Phật tử chân
thuần nên luôn nhớ rằng trong đời nầy ai cũng phải một lần chết, hoặc
sớm hoặc muộn; khi chết, không ai mang theo được bất cứ thứ ǵ của trần
tục, chỉ có nghiệp lành hay nghiệp dữ do ḿnh tạo ra sẽ phải theo ḿnh
như h́nh với bóng mà thôi—Although the supreme goal of Buddhism is the
supreme Enlightenment and liberation, the Buddha also taught that
Buddhist practice is the source of happiness. It can lead to the end of
human suffering and miseries. The Buddha was also a man like all other
men, but why could he become a Great Enlightened One? The Buddha never
declared that He was a Deity. He only said that all living beings have a
Buddha-Nature that is the seed of Enlightenment. He attained it by
renouncing his princely position, wealth, prestige and power for the
search of Truth that no one had found before. As Buddhist followers, we
practice Buddhist tenets, not for entreating favors but for for
following the Buddha’s example by changing bad karmas to good ones or no
karma at all. Since people are different from one another, some are rich
and intelligent, some are poor and stupid. It can be said that this is
due to their individual karma, each person has his own circumstances.
Buddhists believe that we reap what we have sown. This is called the law
of causality or karma, which is a process, action, energy or force.
Karmas of deeds, words and thoughts all produce an effect, either
happiness or miseries, wealth or poverty. Karma does not mean
“determinism,” because if everything is predetermined, then there would
be no free will and no moral or spiritual advancement. Karma is not
fixed, but can be changed. It cannot shut us in its surroundings
indefinitely. On the contrary, we all have the ability and energy to
change it. Our fate depends entirely on our deeds; in other words, we
are the architects of our karma. Cultivating in accordance with the
Buddha’s Teachings means we change the karma of ourselves; changing our
karmas by not only giving up our bad actions or misdeeds, but also
forgiving offences directed against us by others. We cannot blame anyone
else for our miseries and misfortunes. We have to face life as it is and
not run away from it, because there is no place on earth to hide from
karma. Performing good deeds is indispensable for our own happiness;
there is no need of imploring favors from deities or simply showing
repentance. Changing karma also means remembrance of karma and using
wisdom to distinguish virtue from evil and freedom from constraint so
that we are able to avoid evil deeds, to do meritorious deeds, or not to
create any deeds at all. Changing karma also means to purify our minds
rather than praying, performing rites, or torturing our bodies.
Changing karma also means to change your narrow-minded heart into a
heart full of love and compassion and accomplish the four boundless
hearts, especially the hearts of loving-kindness and compassion. True
Buddhists should always remember that sooner or later everyone has to
die once. After death, what can we bring with us? We cannot bring with
us any worldly possessions; only our bad or good karma will follow us
like a shadow of our own.
Tu Lợi: Surya
(skt)—Tu Lợi Da.
1)
Mặt Trời: The sun.
2)
Tên của một loài Dạ Xoa, nguời cai quản mặt trời: Name of a yaksa,
the ruler of the sun.
Tu Lợi Da: See
Tu Lợi (1).
Tu Luyện: To
cultivate and to train.
Tu Ma Đề:
Sumati (skt)—C̣n gọi là Tu Ma Đầu, Tàu dịch là Diệu Ư, Hảo Ư, biệt danh
của cơi Tây Phương Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà—Of wonderful meaning, or
wisdom, the abode of Amitabha, his Pure Land.
Tu Ma Đề Trưởng Giả
Kinh: Kinh Đức Phật giảng về vô thường sau cái chết của con trai gia
đ́nh trưởng giả Tu Ma Đề (sau khi con trai Tu Ma Đề trưởng giả trong
thành Vương Xá chết, hai ông bà trưởng giả buồn rầu khôn xiết, nhân đó
Phật thuyết Kinh Tu Ma Đề, nói về tất cả các pháp đều vô thường để
khuyến dụ họ tu)—A sutra about the impermanence of life, preached by the
Buddha after the death of Sumati’s son in Rajagaha.
Tu Ma Na:
Sumana (skt)—C̣n gọi là Tu Mạn Na, là tên một loài hoa như hoa lài lớn
rất thơm, cây cao từ 4 đến 5 bộ Anh, x̣e ra xung quanh như cái lọng,
bông màu vàng lợt—A plant 4 or 5 feet high with light yellow flowers,
the “great flowered jasmine.”
Tu Mạn Na: See
Tu Ma Na.
Tu Mi: Beard
and eyebrows (man).
Tu Mi Nam Tử: A
man—To be a man.
Tu Nhẫn: Bồ Tát
tu tập thập hồi hướng và Trung Quán thấy rằng chư pháp, sự lư đều dung
ḥa nên sanh tu nhẫn—Bodhisattvas who practice the ten kinds of
dedication and meditation of the mean, have patience in all things for
they see that all things, phenomena and noumena, harmonize.
Tu Niết Mật Đà:
Sunirmita or Nirmanarati (skt)—Tên của cơi trời hay chư Thiên Lạc Hóa—Heavens
or devas of joyful transformation.
Tu Phật: To
practise Buddha’s truth—Theo Thiền sư Dogen th́ tu Phật là học lấy chính
ḿnh, học lấy chính ḿnh là tự quên chính ḿnh, tự quên chính ḿnh là
kinh qua vạn pháp, kinh qua vạn pháp là buông bỏ thân tâm ḿnh và thân
tâm của ngoại trần—According to Zen Master Dogen, to learn the Buddha’s
truth is to learn ourselves, to learn ourselves is to forget ourselves,
to forget ourselves is to be experienced by the myriad dharmas, to be
experienced by the myriad dharmas is to let our body-and-mind, and the
body-and-mind of external world fall away (Shobogenzo—Book 1 p. 34).
Tu Phiến Đa Phật:
Susanta (skt)—Tên của Tu Phiến Đa Phật, một vị Phật cực kỳ thanh tịnh—A
Buddha who is entirely pure, or very placid.
Tu Phước: Những
cách thực hành khác nhau cho Phật tử, như thực hành bố thí, in kinh ấn
tống, xây chùa dựng tháp, tŕ trai giữ giới, vân vân. Tuy nhiên, tâm
không định tĩnh, không chuyên chú thực tập một pháp môn nhứt định th́
khó mà đạt được nhất tâm. Do đó khó mà văng sanh Cực Lạc—Sundry
practices—Practices of blessing—Various practices for a Buddhist such as
practicing charity, distributing free sutras, building temples and
stupas, keeping vegeterian diet and precepts, etc. However, the mind is
not able to focus on a single individual practice and it is difficult to
achieve one-pointedness of mind. Thus, it is difficult to be reborn in
the Pure Land.
Tu Sám: Phép tu
sám hối (phát nguyện tŕ tụng sám hối mỗi ngày, hoặc trước tượng Phật
làm lễ ăn năn sám hối. Tŕ tụng sám hối rồi phải ăn ở cho chân chính,
không phạm ba nghiệp thân, khẩu, ư)—To undergo the discipline of
penitence.
Tu Sĩ:
Monk—Priest.
Tu Sinh: Do tu
hành mà có được (tu chứng), khác với được nhờ tự nhiên pháp—That which
is produced by cultivation, or observance.
Tu Sở Đoạn: Qua
thực tập cắt đứt mọi ảo ảnh—To cut off illusion in practice or
performance.
Tu Tánh: To
cultivate the nature.
Tu Tắt: Con
đường dễ—Pháp môn Tịnh Độ dựa vào cả tự lực lẫn tha lực từ chư Phật và
chư Bồ tát—Easy path of practice—The Pure Land method which relies on
both self-power and other-power, the power and assistance of the Buddhas
or Boddhisattvas.
Tu Tập: To
practice—To practice the path —To practice the Dharma—To
cultivate—Cultivation.
Tu Tập Bát Thánh
Đạo: To develop the Noble Eightfold Path—Theo Tương Ưng Bộ Kinh,
Phẩm Tầm Cầu, Đức Phật đă dạy rằng để tu tập Bát Thánh Đạo, các Tỳ Kheo
phải tu tập phát triển những pháp sau đây—In the Connected Discourses of
the Buddha, Chapter Esanavaggo (Searches), the Buddha taught that in
order to develop the Noble Eightfold Path the Bhikkhus should develop
the followings:
(A) Tam Cầu—Three
searches:
·
Thắng Tri Tam Tầm Cầu: Direct knowledge of the three
searches—See Tam Chủng Tầm Cầu.
·
Liễu Tri Tam Tầm Cầu: Parinna (p)—Full understanding of
the three searches.
·
Đoạn Diệt Tam Tầm Cầu: Parikkaya (p)—The utter destruction
of the three searches.
·
Đoạn Tận Tam Tầm Cầu: Pahana (p)—The abandoning of the
three searches.
(B) Tam Kiêu Mạn—Three
kinds of
arrogance:
·
Thắng Tri Tam Kiêu Mạn: The direct knowledge of all three
kinds of arrogance—See Tam Kiêu Mạn.
·
Liễu Tri Tam Kiêu Mạn: The full understanding of all three
kinds of arrogance.
·
Đoạn Diệt Tam Kiêu Mạn: The utter destruction of all three
kinds of arrogance.
·
Đoạn Tận Tam Kiêu Mạn: The abandoning of all three kinds
of arrogance.
(C) Tam Lậu Hoặc—Three
taints:
·
Thắng tri Tam Lậu Hoặc: The direct knowledge of all three
taints—See Tam Lậu Hoặc.
·
Liễu Tri Tam Lậu Hoặc: The full understanding of all three
taints.
·
Đoạn Diệt Tam Lậu Hoặc: The utter destruction of all three
taints.
·
Đoạn Tận Tam Lậu Hoặc: The abandoning of all three taints.
(D) Tam Hữu—Three
kinds of existence:
·
Thắng Tri Tam Hữu: The direct knowledge of all three kinds
of existence—See Tam Hữu (B).
·
Liễu Tri Tam Hữu: The full understanding of all three
kinds of existence.
·
Đoạn Diệt Tam Hữu: The utter destruction of all three
kinds of existence.
·
Đoạn Tận Tam Hữu: The abandoning of all three kinds of
existence.
(E) Tam Khổ—Three
kinds of suffering:
·
Thắng Tri Tam Khổ: The direct knowledge of all three kinds
of suffering—See Tam Khổ.
·
Liễu Tri Tam Khổ: The full understanding of all three
kinds of suffering.
·
Đoạn Diệt Tam Khổ: The utter destruction of all three
kinds of suffering.
·
Đoạn Tận Tam Khổ: The abandoning of all three kinds of
suffering.
(F)
Tam Hoang Vu—Three kinds of barrenness:
·
Thắng Tri Tam Hoang Vu: The direct knowledge of all three
kinds of barrenness—See Tam Hoang Vu.
·
Liễu Tri Tam Hoang Vu: The full understanding of all three
kinds of barrenness.
·
Đoạn Diệt Tam Hoang Vu: The utter destruction of all three
kinds of barrenness.
·
Đoạn Tận Tam Hoang Vu: The abandoning of all three kinds
of barrenness.
(G)
Tam Cấu Nhiễm—Three stains:
·
Thắng Tri Tam Cấu Nhiễm: The direct knowledge of all three
stains—See Tam Cấu Nhiễm.
·
Liễu Tri Tam Cấu Nhiễm: The full understanding of all
three stains.
·
Đoạn Diệt Tam Cấu Nhiễm: The utter destruction of all
three stains.
·
Đoạn Tận Tam Cấu Nhiễm: The abandoning of all three
stains.
(H)
Tam Dao Động—Three kinds of troubles:
·
Thắng Tri Tam Dao Động: The direct knowledge of three
kinds of troubles—See Tam Dao Động.
·
Liễu Tri Tam Dao Động: The full understanding of three
kinds of troubles.
·
Đoạn Diệt Tam Dao Động: The utter destruction of three
kinds of troubles.
·
Đoạn Tận Tam Dao Động: The abandoning of three kinds of
troubles.
(I)
Tam Thọ—Three Feelings:
·
Thắng Tri Tam Thọ: The direct knowledge of three
feelings—See Tam Thọ.
·
Liễu Tri Tam Thọ: The full understanding of three
feelings.
·
Đoạn Diệt Tam Thọ: The utter destruction of three
feelings.
·
Đoạn Tận Tam Thọ: The abandoning of three feelings.
(J)
Tam Khát Ái—Three Cravings:
·
Thắng Tri Tam Khát Ái: The direct knowledge of three kinds
of craving—See Tam Khát Ái.
·
Liễu Tri Tam Khát Ái: The full understanding of three
kinds of craving.
·
Đoạn Diệt Tam Khát Ái: The utter destruction of three
kinds of craving.
·
Đoạn Tận Tam Khát Ái: The abandoning of three kinds of
craving.
(K)
Tứ Bộc Lưu—Four floods:
·
Thắng tri Tứ Bộc Lưu: The direct knowledge of four
floods—See Tứ Bộc Lưu.
·
Liễu Tri Tứ Bộc Lưu: The full understanding of four
floods.
·
Đoạn Diệt Tứ Bộc Lưu: The utter destruction of four
floods.
·
Đoạn Tận Tứ Bộc Lưu: The abandoning of four floods.
(L) Tứ Ách Phược—Four
bonds:
·
Thắng Tri Tứ Ách Phược: The direct knowledge of four
bonds—See Tứ Ách Phược.
·
Liễu Tri Tứ Ách Phược: The full understanding of four
bonds.
·
Đoạn Diệt Tứ Ách Phược: The utter destruction of four
bonds.
·
Đoạn Tận Tứ Ách Phược: The abandoning of four bonds.
(M) Tứ Chấp Thủ—Four
kinds of clinging:
·
Thắng Tri Tứ Chấp Thủ: The direct knowledge of four kinds
of clinging—See Tứ Chấp Thủ.
·
Liễu Tri Tứ Chấp Thủ: The full understanding of four kinds
of clinging.
·
Đoạn Diệt Tứ Chấp Thủ: The utter destruction of four kinds
of clinging.
·
Đoạn Tận Tứ Chấp Thủ: The abandoning of four kinds of
clinging.
(N) Tứ Hệ Phược—Four
knots:
·
Thắng Tri Tứ Hệ Phược: The direct knowledge of four
knots—See Tứ Hệ Phược.
·
Liễu Tri Tứ Hệ Phược: The full understanding of four
knots.
·
Đoạn Diệt Tứ Hệ Phược: The utter destruction of four
knots.
·
Đoạn Tận Tứ Hệ Phược: The abandoning of four knots.
(O)
Ngũ Dục—Five cords of sensual pleasure:
·
Thắng Tri Ngũ Dục: The direct knowledge of five cords of
sensual pleasure—See Ngũ Dục.
·
Liễu Tri Ngũ Dục: The full understanding of five cords of
sensual pleasure.
·
Đoạn Diệt Ngũ Dục: The utter destruction of five cords of
sensual pleasure.
·
Đoạn Tận Ngũ Dục: The abandoning of five cords of sensual
pleasure.
(P) Ngũ Triền Cái—Five
hindrances:
·
Thắng Tri Ngũ Triền Cái: The direct knowledge of five
hindrances—See Ngũ triền Cái.
·
Liễu Tri Ngũ Triền Cái: The full understanding of five
hindrances.
·
Đoạn Diệt Ngũ Dục: The utter destruction of five
hindrances.
·
Đoạn Tận Ngũ Dục: The abandoning of five hindrances.
(Q) Ngũ Thủ Uẩn—Five
aggregates subject
to clinging:
·
Thắng Tri Ngũ Thủ Uẩn: The direct knowledge of five
aggregates subject to clinging—See Ngũ Thủ Uẩn.
·
Liễu Tri Ngũ Thủ Uẩn: The full understanding of five
aggregates subject to clinging.
·
Đoạn Diệt Ngũ Thủ Uẩn: The utter destruction of five
aggregates subject to clinging.
·
Đoạn Tận Ngũ Thủ Uẩn: The abandoning of five aggregates
subject to clinging.
(R) Ngũ Hạ Phần Kết—Five
lower fetters:
·
Thắng Tri Ngũ Hạ Phần Kết: The direct knowledge of five
lower fetters—See Ngũ Hạ Phần Kết.
·
Liễu Tri Ngũ Hạ Phần Kết: The full understanding of five
lower fetters.
·
Đoạn Diệt Ngũ Hạ Phần Kết: The utter destruction of five
lower fetters.
·
Đoạn Tận Ngũ Hạ Phần Kết: The abandoning of five lower
fetters.
(S) Ngũ Thượng Phần
Kết—Five higher
fetters:
·
Thắng Tri Ngũ Thượng Phần Kết: The direct knowledge of
five higher fetters—See Ngũ Thượng Phần Kết.
·
Liễu Tri Ngũ Thượng Phần Kết: The full understanding of
five higher fetters.
·
Đoạn Diêt Ngũ Thượng Phần Kết: The utter destruction of
five higher fetters.
·
Đoạn Tận Ngũ Thượng Phần Kết: The abandoning of five
higher fetters.
(T) Thất Tùy Miên—Seven
underlying
tendencies:
·
Thắng Tri Thất Tùy Miên: The direct knowledge of seven
underlying tendencies—See Thất Tùy Miên.
·
Liễu Tri Thất Tùy Miên: The full understanding of seven
underlying tendencies.
·
Đoạn Diệt Thất Tùy Miên: The utter destruction of seven
underlying tendencies.
·
Đoạn Tận Thất Tùy Miên: The abandoning of seven underlying
tendencies.
Tu Tập Căn Lành:
To cultivate good roots.
Tu Tập Đạo Đức:
Cultivation of morality.
Tu Tập Đạo Đức Và
Tinh Thần: To cultivate moral and spiritual growths.
Tu Tập Lực: Lực
đạt được qua quá tŕnh tu tập—The power acquired by the practice of all
good conduct—The power of habit.
Tu Tập Một Ḿnh:
To ordain oneself
Tu Tập Thiền:
Tu tập Thiền gồm có ba cấp và mỗi cấp có bốn cách—To practice meditation
consists of three grades and each grade has four kinds, to make the
total of twelve ways.
1-4) Tứ Thiền Sắc Giới: Rupadhatu (skt)—Four form-realm-meditations—Sắc
Giới Thiền lấy Sắc Giới Thiên làm đối tượng—The four
form-realm-meditations have the form-heaven as their objective—See Tứ
Thiền Thiên.
5-8) Tứ Thiền Vô Sắc Giới: Arupadhatu (skt)—Four
formless-realm-meditations—Vô Sắc Giới Thiền lấy Vô sắc Giới Thiên làm
đối tượng. Theo truyền thuyết, Đức Phật tu tập Vô sắc thiền với Arada
Kalama, một nhà tu khổ hạnh đă đạt được trạng thái Thức Vô Biên; và với
Udraka Ramaputra, một nhà tu khổ hạnh khác đă đạt được trạng thái cao
nhất là Phi tưởng phi phi tưởng xứ định. Cuối cùng Đức Phật đă vượt qua
các thầy ḿnh, và, không c̣n ǵ để học hỏi nữa, Ngài tự dấn bước trên
con đường của ḿnh, mặc cho những lời yêu cầu nồng hậu của hai nhà tu
khổ hạnh kia, mời Ngài ở lại để dạy cho các đố đệ của họ—Four
formless-realm-meditations have the formless heaven as their objective.
It is a well-known fact that in the Buddha’s career he practiced the
formless dhyana with Arada Kalama, and ascetic who attained the mental
state of boundless consciousness, and Udraka Ramaputra, another ascetic
who reached the highest stage of being neither conscious nor
unconscious. Finally, the would-be Buddha surpassed his teachers and,
having found no more to learn from them, went his own way in spite of
their eager requests to stay and train their respective pupils—See Tứ
Không Xứ.
9-12) Tứ Vô Lượng Thiền: Apramana-dhyana (skt)—Vô lượng thiền hoàn toàn
giống như thiền của hệ thống Du Già. Vấn đề bên nào vay mượn bên nào,
chúng ta không thể nói được. Cả hai đều mang chất Phật giáo—The
measureless-meditations are exactly identical with those of the Yoga
system. Which one is indebted to the other we cannot say. Both look
quite Buddhistic—See Tứ Vô Lượng Tâm.
·
Từ: Matri (skt)— Benevolence—Ban vui cho người—To give joy
to others.
·
Bi: Karuna (skt)—Mercy—Cứu khổ—To remove the suffering of
others.
·
Hỷ: Mudita (skt)—Cheerfulness—Vui sướng hạnh phúc—To keep
oneself happy.
·
Xả: Upeksa (skt)—Indifference.
Tu Tập Thiện Tâm:
To cultivate a good heart—To plant a good heart.
Tu Thân: To
improve oneself.
Tu Thiền Lục Diệu
Môn: Sáu cửa huyền diệu trong tu tập thiền định, đa phần là thực tập
thở—The six mysterious gates or ways of practicing meditation,
consisting mostly of breathing exercises.
** For more
information, please see Lục Diệu
Môn.
Tu Thiện: Tu
tập thiện pháp, đối lại với bẩm tánh thiện—To cultivate goodness—The
goodness that is cultivated, in contrast with natural goodness.
Tu Thiện Đề:
Subhuti (skt)—See Tu Bồ Đề in Vietnamese-English Section.
Tu Thư: To
write books.
Tu Tiên: Tu
theo Lăo giáo, nghĩa là luyện “Trường sanh.” Tuy nhiên, Phật tử chơn
thuần chúng ta ai cũng biết rằng chư Tiên trên cơi trời đều có thọ mạng,
khi hết phước báo vẫn phải trầm luân—To practice Taoism means to regard
the preservation of the body and mind as an ideal, to be reborn in the
Celestial realm with a definite life-span, once one’s blessings end one
may be fallen down into the evil paths.
Tu Tính: Tu
chỉnh rèn luyện thân tâm để trở về cái bản tánh thanh tịnh của chúng
sanh (Phật tánh)—To cultivate the nature; the natural proclivity.
Tu Tính Bất Nhị Môn:
Tu tính chẳng phải hai môn (tu là tu chỉnh rèn luyện thân tâm, tính là
cái bản tính vốn thanh tịnh hay Phật tánh của chúng sanh, hai lẽ ấy
chẳng khác nhau nên gọi là tu tính bất nhị môn)—The identity of
cultivation and the cultivated.
Tu Tỉnh: To
improve—To mend one’s ways.
Tu Tịnh Độ Ít Bị Ma
Cảnh Nhờ Có Thần Lực Của Chư Phật; Trái Lại, Người Tu Thiền Gặp Nhiều Ma
Cảnh V́ Chỉ Nương Vào Tự Lực: Those who practice Reciting Amitabha
Buddha’s name seldom encounter demonic occurrences owing to the Buddhas’
powers; Zen practitioners, on the contrary, face many demonic
occurrences because they rely only on their strength (self-power).
Tu Viện:
Nunnery—Convent—Monastery.
Tu Xuất: To
abandon the Buddhist order.
Tú: Thêu trên
vải—To embroider.
Tú Diệu: Nhị
thập bát tú và thất diệu—The twenty-eight constellations and seven
luminaries.
Tú Lợi Mật Đa:
Suryamitra (skt)—Thần Mặt Trời—The sun-god.
Tú Năng: Thần
Tú và Huệ Năng, hai vị tổ của Phật Giáo Nam và Bắc Trung Hoa sau Ngũ Tổ
Hoằng Nhẫn—Shen-Hsiu and Hui-Neng, the two patriarchs of South and North
Chinese Buddhism after the fifth patriarch Hung-Jen.
**For more
information, please see Thần Tú,
and Huệ Năng.
Tú Phật: Bức
h́nh Phật được thêu trên vải—Embroidered picture of a Buddha.
Tú Tài Trương
Chuyết: Zhang-Juo Hsiu-Ts’ai—Một hôm Tú Tài Trương Chuyết đến tham
vấn Thiền Sư Thạch Sương. Sư hỏi: “Ông tên ǵ?” Trương Chuyết đáp: “Dạ
con tên Trương Chuyết.” Sư liền nói: “Trong đây cái xảo c̣n không có,
huống là cái chuyết (vụn vằn).” Tú Tái Trương Chuyết bỗng tỉnh ngộ và
làm bài kệ:
“Quang minh
tịch chiếu biến hà sa
Phàm Thánh hàm
linh cộng ngă gia
Nhất niệm bất
sanh toàn thể hiện
Lục căn tài
động bị vân già
Phá trừ phiền
năo trùng tăng bệnh
Thú hướng chan
như tổng thị tà
Tùy thuận chúng
duyên vô quái ngại
Niết Bàn sanh
tử đẳng không hoa.”
(Sáng soi lặng
lẽ khắp hà sa
Phàm Thánh hàm
linh chung một nhà
Một niệm chẳng
sanh toàn thể hiện
Sáu căn vừa
động bị che ḷa
Muốn trừ phiền
năo càng thêm bệnh
Hướng đến chân
như thảy đều tà
Tùy thuận các
duyên không quái ngại
Niết Bàn sanh
tử thảy không hoa).
One day Zhang-Juo
Hsiu-Ts’ai came to interview Master Shih-Shuang-Qing-Chu. Shih-Shuang
asked: “What is your name?” Zhang-Juo said: “Venerable, my name is
Zhang-Juo.” Shih-Shuang then said: “Here, the skillful does not even
exist let alone the clumsy (‘Juo’ in Chinese means ‘clumsy’).” Zhang-Juo
instantly got awakened and composed the following verse:
“The brilliant light
silently shines throughout themyriad worlds,
Saints, human beings,
and living creatures are all living under one roof.
If only no thought
arises, will the whole world reveal itself.
Once the six
sense-organs agitate, it will be clouded.
Trying to eliminate
afflictions simply worsens the ailment,
Hoping to reach true
nature is equally wrong.
Just live in
accordance with circumstances,
Nirvana and samsara
are just the real flowers. Tù:
1)
(a): Stagnant (water).
2)
(n): Prison—Jail—Gaol.
Tù Hăm: To live
shut up.
Tù Túng: Not
having enough room (space) for action.
Tụ: Samasa (skt)—Tụ
họp—Assemble—Collect—An assemblage.
Tụ Chúng: To
assemble—To gather.
Tụ Đế: Samudaya
(skt)—Diệu Đế thứ nh́ trong Tứ Diệu Đế, tức “tập đế,” hay khổ đau phiền
năo gây ra bởi dục vọng—The second of the four dogmas, that of
“accumulation,” i.e. that suffering is caused by the passions—See Tứ
Diệu Đế.
Tụ Họp: Tụ tập—To
cluster—To flock (meet—come) together—To assemble.
Tụ Mạt: Thế
giới hiện tượng hay các pháp vô thường được ví với bọt nước, có đó rồi
mất đó—The phenomenal world likened to assemble scum, or bubbles.
Tụ Tập: See Tụ
Họp.
Tuân: Tuân theo:
To obey—To follow—To observe—To comply with—To accord with.
Tuân Hành: To
carry out—To execute—To perform.
Tuân Lệnh: To
obey an order.
Tuân Mạng: To
obey a command.
Tuân Theo: See
Tuân.
Tuân Thủ: To
follow—To observe—To obey and keep, e.g. the rules.
Tuấn Kiệt:
Talented man.
Tuấn Pháp:
Severe laws.
Tuấn Tú:
Refined—Elegant.
Tuần:
1)
Theo hay tháp tùng: To follow—To accord with.
2)
Thời gian 10 ngày hay 10 năm: A period of ten days and/or ten
years—A decade.
3)
Thời gian 7 ngày: A period of seven days—Week.
4)
Một ṿng—Round.
5)
Tuân theo: To accord with—According to—To follow.
6)
Tuần hành—Patrol—To go on patrol—To wander about—To inspect.
Tuần Án: Tuần
hành và ghi nhận những than phiền trong tự viện—To patrol and receive
any complaints.
Tuần Binh:
Soldier on patrol.
Tuần Canh:
Người canh tuần hỏa hoạn về đêm—To patrol as night-watchman, or guarding
against fire.
Tuần Dương Hạm:
Cruiser.
Tuần Đơn: The
ten days’ account in a monastery.
Tuần Đường:
1)
Canh tuần tự viện—To patrol, or circumambulate the hall.
2)
Nhà Tăng—A monk’s halls:
a)
Nhà Trụ Tŕ: Nơi uống trà và ngồi thiền—The tea hall.
b)
Nhà Đại Chúng: Nơi họp chúng tụng niệm—The assembly hall.
c)
Nhà Thủ Tọa: Nơi ngồi thiền—The meditating hall.
d)
Nhà Duy Na: Nơi dùng vào các ngày Thánh Tiết—Room for supervisor
of monks.
e)
Nhà Tham Đầu: Nơi dùng cho khách Tăng—Room for guest monks.
f)
Nhà Đô Tự: Nhà kho—The storage.
g)
Nhà Thỉnh Khách Thiêu Hương: Nơi uống trà của khách Tăng—Tea Room
for guest monks.
h)
Nhà Sa Di: Nơi để các vị Sa Di tham vấn về thiền—Room for
Sramanera or novice monks to ask and practice meditation.
Tuần Giáo: See
Tuần Tích.
Tuần Hỏa: See
Tuần Canh.
Tuần Hoàn:
Pradaksina (skt)—Đi ṿng vai phải hướng về đấng tôn quư—Moving around so
that the right shoulder is towards the object of reverence—To circulate.
Tuần Kiểm:
Patrol and control.
Tuần Lễ: A
week.
Tuần Liêu: Tuần
hành pḥng ốc trong tự viện—To inspect all the buildings of a monastery.
Tuần Nhật: Ten
days.
Tuần Pḥng:
Patrol.
Tuần Phục:
Submissive.
Tuần San:
Weekly newspaper.
Tuần Sau: Next
week.
Tuần Thám:
Reconnaisance.
Tuần Thân Quán:
Thân Niệm Xứ Quán—Thiền quán chi tiết về sự bất tịnh của thân (quán thân
bất tịnh từ đầu tới chân, 36 bộ phận đều là bất tịnh), một trong tứ niệm
xứ—The meditation which observes the body in detail and considers its
filthiness, one of the four foundations of mindfulness.
Tuần Tích: Tuần
Giáo—Cầm gậy đi du hóa hay đi giảng đạo các nơi—To walk about with a
metal staff, i.e. to teach.
Tuần Tiểu: See
Tuần Hành.
Tuần Tự: Theo
thứ tự—To follow in order.
Tuất: Giờ Tuất
từ 7 đến 9 giờ tối—The “Su” hour from 7 to 9 P.M.
Túc:
1)
Chân: Foot—Leg.
2)
Đầy đủ: Enough—Full.
3)
Chỗ trú ngụ qua đêm: A halting place where one passes the
night—Stay.
4)
Xưa kia: Former—Early.
Túc Báo: Quả
báo cảm ứng từ nghiệp nhân ở đời trước, hay hậu quả của những hành động
trong tiền kiếp—The consequence of deeds done in former existence.
Túc Căn: Cội
căn được vun trồng trong tiền kiếp—The root of one’s present lot planted
in previous existence.
Túc Chấp: Bản
chất thiện ác chấp trước từ đời trước và được lưu lại trong tâm cho đến
đời nầy—The character acquired in a previous existence and maintained.
Túc Chấp Khai Phát:
Quả hiện tại do những thiện căn đă gieo trồng từ trong tiền kiếp đến nay
mới nẩy nở—The present fruition of the meritorious character developed
in previous existence.
Túc Chỉnh:
Grave and correct.
Túc Dạ: Nghỉ
lại đêm trước trong các cuộc lễ—To stay the night, the previous night
before any special services or ceremony.
Túc Diệu: Hai
mươi tám cḥm sao và thất đại hùng tinh—The twenty-eight constellations
and seven luminaries.
Túc Duyên: Nhân
duyên truyền lại từ tiền kiếp—Causation or inheritance from previous
existence.
Túc Kỵ: Đêm
trước ngày lễ thọ trai—The night before a fast day.
Túc Lự Thiền Sư:
Zen Master Túc Lự—Thiền sư Việt Nam, quê tại Bắc Việt. Ngài là đệ tử của
Thiền sư Thông Thiền, và là pháp tử đời thứ 14 ḍng Thiền Vô Ngôn Thông.
Về sau, ngài trụ tại chùa Thông Thánh để dạy thiền. Nơi và lúc nào ngài
thị tịch vẫn chưa ai rơ—A Vietnamese Zen master from North Vietnam. He
was a disciple of Zen master Thông Thiền, and became the dharma heir of
the fourteenth generation of the Wu-Yun-T’ung Zen Sect. Later, he stayed
at Thông Thánh Temple to teach Zen. His whereabout and when he passed
away were unknown.
Túc Mạng: Tiền
kiếp hay cuộc sống ở những đời trước (Phật cho rằng người đời đều có
cuộc sống trong đời quá khứ, hoặc là trời, người, ngạ quỷ, súc sanh, lăn
lóc luân hồi, đó là túc mệnh)—Previous life or lives.
Túc Mạng Lực:
Khả năng của Phật, biết trước luân hồi sanh tử trong quá khứ—The
Buddha-power to know all previous transmigrations.
Túc Mạng Minh:
Tuệ giác nh́n thấy những điều kiện sanh tử trong tiền kiếp của ḿnh và
của người. Tuệ giác của một vị A La Hán—Insight into the mortal
conditions of self and others in previous lives—The knowledge of the
arhat of his own and other previous transmigrations.
Túc Mạng Thông:
Purvanivasanusmrti (skt)—Một trong lục thông, khả năng nh́n thấy và nhớ
lại tiền kiếp của ḿnh và của người. Đây là trí huệ của một vị Phật—The
Divine knowledge—One of the six transcendental powers, can remember past
lives—Knowledge of former past lives of one’s own and of
others—Buddha-knowledge of all forms of previous existence of self and
others—See Lục Thông.
Túc Mệnh: See
Túc Mạng.
Túc Mệnh Lực:
Một trong Thập Lực của Như Lai—One of ten Buddha-powers—See Thập Lực
(9).
Túc Mệnh Minh:
See Túc Mạng Minh.
Túc Mệnh Thông:
See Túc Mạng Thông.
Túc Mục: Theo
Keith trong Trung Anh Phật Học Từ Điển, Túc Mục là tên của vị Tiên nhân
đầu tiên nói về thuyết Nhân Minh. Tác phẩm của ông gồm năm quyển—According
to Keith in The Dictionary of Chinese Buddhist Terms, this is the name
of Aksapada Gotama, to whom is ascribed the beginning of logic; his work
is seen in five books of aphorism on the Nyaya.
Túc Nghiệp:
Nghiệp tiền kiếp—Former karma, the karma of previous existence.
Túc Nguyện:
Nguyện vọng từ trong tiền kiếp—A vow made in a former existence.
Túc Nguyện Lực:
Lực tác dụng của nguyện vọng vố có trong tiền kiếp—The power of an
ancient vow.
Túc Nhân:
Nghiệp nhân, cả thiện lẫn ác, đă gieo trồng từ nhiều đời trước—Good or
evil cause in previous existence.
Túc Phúc: Phúc
đức thiện căn đời trước hay phúc nghiệp tiền kiếp—Happy karma from
previous existence.
Túc Tác: Những
hành động hay tác nghiệp trong tiền kiếp—Deeds of a former life.
Túc Tác Ngoại Đạo:
Một trong những giáo phái ngoại đạo t́m giải thoát bằng cách tự khổ hạnh
để giải thoát những trừng phạt và chướng nghiệp tiền kiếp—One of the
ascetic sect who sought release from penalties from the deeds of a
former life by severe austerities now.
Túc Tập: Những
tu tập, thực hành, thói quen, hay hành động trong tiền kiếp—The
practices, habits or deeds of or inherited from former existence.
Túc Thế: Tiền
kiếp hay việc sống chết của một đời hoặc nhiều đời trước—A former
existence.
Túc Thiện:
Những thiện căn gieo trồng trong tiền kiếp—Good deeds done in previous
existence.
Túc Trái: Những
nợ nần hay tội lỗi chưa trả trong tiền kiếp (tuy nhiên, chưa chuốc khổ
quả, đến đời nầy mới thấy hiện ra các báo ứng, khổ dụng. Người ta thường
nói “tiền oan túc trái,” nghĩa là những oan trái từ xưa, hay oán thù nợ
nần năm cũ)—The unrepaid debts from or sins of former incarnations.
Túc Trú:
Purva-nivasa (skt)—Nơi trú ngụ trong tiền kiếp—Former abidings or
habitations.
Túc Trú Thông:
Túc trú tùy niệm trí chứng thông—The Buddha knowledge of the former
incarnations of himself and others.
Túc Trụ:
Purva-nivasa (skt)—Nơi trú ngụ của những tiền kiếp—Former abidings, or
habilitations.
Túc Trụ Tùy Niệm
Trí Chứng Thông: Phật trí biết được tiền kiếp của chính ḿnh và
chúng sanh—The Buddha-knowledge of the former incarnations of himself
and others.
Túc Trực: To
attend at all time.
Túc Vương Hoa:
Naksatra-raja-sankusumitabhijna (skt)—Một vị Bồ Tát trong Kinh Diệu
Pháp Liên Hoa—King of the star-flower, a bodhisattva in the Wonder Lotus
Sutra.
Túc Vương Hư:
Naksatra-raja-vikridita (skt)—Túc Vương Hư là vua của cḥm sao nhị thập
bát tú, một loại tam ma địa trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa—The play of
the star-king, or king of the constellations, one of the samadhi in the
Lotus sutra.
Túc Ư: Ư nguyện
từ trước—The former intention or vow.
Tục:
1)
Trần tục: Common—Ordinary—Usual—Vulgar—Secular.
2)
Tiếp tục: To continue—To join on—To add—Supplementary—A
supplement.
Tục Danh:
Nickname.
Tục Đế: Thế đế—Samvrti-satya
(skt)—Ordinary categories in contrast with categories of reality (chân
đế)—Common or ordinary statement, as if phenomena were real—See Nhị Đế.
Tục Giới: Giới
dành cho Phật tử tại gia (ngũ giới hay bát giới, c̣n gọi là hữu lậu giới,
đối lại với đạo cụ giới hay cụ túc giới của người xuất gia)—The common
commandments for the laity, in contrast with commandments for monks and
nuns.
Tục H́nh: Vẻ
trần tục của người tại gia—Ordinary appearance. (the laity).
Tục Lụy:
Troubles of the world.
Tục Lưu: Những
nguyên tắc hay tư tưởng trần tục, đối lại với sự chân thực—The common
flow or run—Common principles, or axioms; normal unenlightened ideas, in
contrast with reality.
Tục Mệnh: Phép
cầu đảo cho cuộc sống tiếp tục bằng Thần Phan Ngũ Sắc—Prayer for
continued life, for which the flag of five colours is displayed.
Tục Mệnh Thần Phan:
See Tục Mệnh.
Tục Ngă: Giả
ngă (đối lại với chân ngă hay thực ngă) bao gồm ngũ uẩn—The popular idea
of the ego or soul (false ego—giả ngă), composed of the five skandhas
(this is to be distinguished from the true ego).
Tục Ngữ:
Proverb.
Tục Nhân:
Grhastha (skt)—Nga La Sa Tha—Người tu tại gia—An ordinary householder—An
ordinary man—The laity.
Tục Pháp Đế:
The worldly truth, in contrast with the superior truth (Thắng pháp đế).
Tục Tằn:
Rude—Rough—Coarse.
Tục Tỉu:
Obscene.
Tục Trần: Bụi
bặm của phàm tục, nói về tất cả các việc của thế gian—Common dust,
earthly pollution—The world.
Tục Trí: Cái
trí thiển cận của phàm phu hay thường trí, do bởi ảo tưởng tô vẻ làm mê
mờ bản tâm (trí hiểu biết tục đế hay trí hữu lậu tạp nhiễm)—Common or
worldly wisdom, which by its illusion blurs or colours the mind,
blinding it to reality.
Tục Truyền:
Tradition.
Tuế: Vatsara (skt)—Năm—A
year.
Tuế Dạ: See
Phân Tuế.
Tuệ: Prajna or
Jnana (skt).
1)
Tác dụng phân biệt sự lư: Wisdom, discernent or understanding—The
power to discern things and their underlying principles.
2)
Quyết đoán nghi ngờ: The power to decide the doubtful.
3)
Tuệ là sự cấu tạo của Chánh Kiến và Chánh Tư Duy: Right
Understanding and Right Thought constitute wisdom.
4)
Trí và tuệ thường có chung nghĩa; tuy nhiên thông đạt sự tướng
hữu vi th́ gọi là “trí.” Thông đạt không lư vô vi th́ gọi là “tuệ.”—Prajna
is often interchanged with wisdom. Wisdom means knowledge, the science
of the phenomenal, while prajna more generally to principles or morals.
** For more
information, please see Tam Huệ.
Tuệ Ấn: Trí Ấn—Trí
tuệ của Như Lai khế hợp với thực tướng của các pháp, đó là quyết định
không thay đổi—Wisdom sign or seal which never changes.
Tuệ Căn: Một
trong ngũ căn, căn có thể quán đạt chúng sanh để nẩy sinh ra đạo lư—The
root or organ of wisdom, one of the five organs.
Tuệ Cự: Ngọn
đuốc trí tuệ—The torch of wisdom.
Tuệ Đăng: Ngọn
đèn sáng trí tuệ phá tan tối tăm hắc ám—The lamp of wisdom.
Tuệ Đăng Vương:
Vị vua đă bố thí máu thịt ḿnh để cứu người—A king who gave his flesh
and blood to save the lives of others.
Tuệ Giác: Panna
(p)—Prajna (skt)—Huệ hay trí huệ Bát Nhă—Wisdom—See Bát Nhă, and Tuệ in
Vietnamese-English Section.
Tuệ Giải: Trí
tuệ có thể giải thích tất cả vạn hữu—The function of wisdom—To explain
all things.
Tuệ Giải Thoát:
Các vị A La Hán chỉ đắc được tuệ chứng giải thoát, chỉ thích giác ngộ
đạo lư, chứ không thích tác dụng công đức của sự việc, nên chỉ đoạn được
kiến tư phiền năo hay chướng ngại của trí tuệ vô lậu, chứ không ĺa bỏ
được chướng ngại của thiền định, ví như người thích truy cầu t́m hiểu
chứ không thích hành tŕ—The escape by or into wisdom, i.e. of the arhat
who overcomes the hindrances to wisdom or insight, but not the practical
side of abstraction, better able to understand than to do.
Tuệ Học: Một
trong tam học, quán chiếu chân lư để cắt đứt phiền năo—One of the three
studies, the study of wisdom—See Tam Học.
Tuệ Huyễn: Trí
tuệ và sự huyễn ảo—Wisdom-illusion—Wisdom conjuring, the kaleidoscope of
wisdom.
Tuệ Khả:
Hui-K’o—See Huệ Khả.
Tuệ Khải: See
Huệ Khải.
Tuệ Kiếm: Trí
tuệ có thể cắt đứt mọi phiền năo nên gọi là kiếm huệ—The sword of wisdom
which cuts away illusion.
Tuệ Kiến: Sự
thấy biết bằng trí tuệ—Wise view, or insight into wisdom, the views of
wisdom.
Tuệ Kính: Trí
tuệ có thể thấy mọi sự việc nên gọi là tuệ kính—The mirror of wisdom.
Tuệ Lâm: Hui-Lin—See
Huệ Lâm.
Tuệ Lực: See
Huệ Lực.
Tuệ Lưu: Ḍng
trí tuệ có khả năng tẩy sạch mọi cấu uế—The living stream of wisdom able
to cleanse all impurity.
Tuệ Mệnh:
Wisdom-life—See Huệ Mệnh.
Tuệ Minh: Hsuan-Lang—See
Huyền Lang.
Tuệ Mục: Con
mắt trí tuệ—The eye of wisdom.
Tuệ Năng:
Hui-Neng—See Huệ Năng.
Tuệ Nghĩa: Hiểu
biết thực nghĩa của chân lư bằng trí tuệ—The apprehension of the meaning
of reality through wisdom.
Tuệ Nghiệp:
Thực hành thiện nghiệp bằng trí tuệ—Practical goodness resulting from
wisdom—Undertaking and doing.
Tuệ Nguyệt: See
Huệ Nguyệt.
Tuệ Nhăn:
Prajnacakshus or Jnanacakshus (skt)—Con mắt trí tuệ thấy vạn hữu giai
không. Với con mắt nầy, Bồ Tát ném cái nh́n vào tất cả những cái kỳ diệu
và bất khả tư ngh́ của cảnh giới tâm linh, thấy tận hố thẳm sâu xa nhất
của nó—The wisdom eye that sees all things as unreal. With the
wisdom-eye, a Bodhisattva takes in at a glance all the wonders and
inconceivabilities of the spiritual realm to its deepest abyss.
Tuệ Nhẫn: Tuệ
nhẫn là một trong thập nhẫn—One of the ten kinds of patience,
wisdom-patience.
Tuệ Nhật: See
Huệ Nhật.
Tuệ Phược: Sự
trói buộc của ngu si mê muội làm vẩn đục gương sáng trí tuệ—The bond of
ignorance and stupidity which fetters the wisdom mirror.
Tuệ Quán:
Hui-Kuan—See Huệ Quán.
Tuệ Siêu:
Hui-Ch’ao—See Huệ Siêu.
Tuệ Số: Trạng
thái tâm, đối lại với tâm—Mental conditions in contrast to mind itself.
Tuệ Tạng:
1)
Luận Tạng ghi chép và giải thích về Tuệ Học—Wisdom-store, the
Abhidharma Pitaka, which embodies the science of ascertaining the
meaning of the sutras.
2)
Tam Tạng Kinh Điển: The whole of the Tripitaka.
Tuệ Thân: Một
trong ngũ phần pháp thân, là thân đă được thành tựu từ vô lậu trí tuệ—Wisdom
body, one of the five divisions of the Dharmakaya, which is the
embodiment of inherent wisdom.
** For more
information, please see Ngũ Phần
Pháp Thân.
Tuệ Thọ: Tiếng
các vị tỳ kheo lớn gọi các tỳ kheo nhỏ—A term to address to a monk by
his superior.
Tuệ Tịnh:
Hui-Ching—See Huệ Tịnh.
Tuệ Trung Thượng Sĩ
Trần Tung (1230-1297): Ông tên thật là Trần Tung, sanh năm 1230, là
con cả của Trần Liễu. Ông là cháu kêu vua Trần Thái Tông bằng chú—Thuở
thiếu thời ông bẩm chất thông minh thuần hậu. Trong thời chiến đấu với
quân Mông Cổ, ông đă hai lần làm tướng cầm quân dẹp giặc. Khi thái b́nh,
ông lui về ẩn tu tại Phong ấp Vạn Niên. Tại đây ông tu thiền với Thiền
sư Tiêu Dao. Ông sống đời đơn giản, không chạy theo thế lực chánh trị.
Ông sống an nhàn tự tại trong thế giới nhiễu nhương và không bị dính mắc
vào bất cứ thứ ǵ. Theo ông th́ nếu không tham th́ không làm tội. Chính
v́ thế mà cả Tăng lẫn tục đều đến học Thiền với ông. Vua Trần Thánh Tông
tôn ông là Tuệ Trung Thượng Sĩ và gửi Thái Tử Trần Khâm (sau nầy là vua
Trần Nhân Tông) đến học Thiền với ông—His real name was Trần Tung, he
was born in 1230, the eldest son of Trần Liễu. He was a nephew of King
Trần Thái Tông. He was intelligent and well-behaved when he was very
young. During the war time with the Mongolian, he had been a general
twice, leading his troops against the invasive Mongolian army to the
victory. During the peace time, he retired to Van Nien hamlet, the land
rewarded by the king. He practiced meditation under the instruction of
Zen Master Tiêu Dao and was enlightened. He led a simple life, not
engaging in any competition for political power. He lived freely in his
world and did not have any idea of clinging to anything. To him, no
greed involved, no sins committed. Thus, laity and monks from all over
came to study Zen with him. King Trần Thánh Tông honored him with the
respected title “Tuệ Trung Thượng Sĩ” (a highest intellect who always
lives within his wisdom). The king also sent his young prince Trần Khâm
(later became King Trần Nhân Tông) to come to study Zen with him.
Tuệ Túc: Chân
tuệ, một trong hai chân mà Đức Phật lấy để du hành khắp tam giới. Chân
c̣n lại là “Phước Túc.”—The leg of wisdom, one of the two legs that the
Buddha used to travel in the three worlds. The other is the leg of
blessing or happiness.
Tuệ Tư: See Huệ
Tư.
Tuệ Uyển: Hui-Yuan—See
Huệ Uyển.
Tuệ Uyển Âm Nghĩa:
See Huệ Uyển Âm Nghĩa.
Tuệ Văn: Một vị
sư Trung Hoa, nhị tổ tông Thiên Thai—A Chinese monk, second patriarch of
the T’ien-T’ai sect.
** For more
information, please see Thiên
Thai Cửu Tổ.
Tuệ Vân: Mây
trí tuệ mà Như Lai dùng để bảo hộ hay che chở chúng sanh—The clouds of
wisdom with which the Tathagata covers all beings.
Tuệ Viên Măn:
Anna (p)—Ajnata (skt)—Trí tuệ cao nhất—Trí tuệ kiện toàn—Tuệ tâm linh—Highest
knowledge—Perfect knowledge—Spiritual knowledge.
Tuệ Viễn: See
Viễn Sư.
Tủi Phận: To
deplore one’s lot.
Tum Húm:
Narrow.
Túm Rụm: See
Tum Húm.
Tùm Lum: In
confusion—In disorder.
Tụm: To gather
together by goups of several people.
Tụm Năm Tụm Bảy Tán
Gẩu: To gather together by groups of several people for idle talk.
Tung: To
throw—To fling—To cast—To toss up.
Tung Hoành:
Vertical or horizontal—Free in all directions.
Tung Hô: To
cheer.
Tung Tăng: To
run here and there.
Tung Tích:
Trail—Trace.
Túng:
1)
To be short of money.
2)
To tolerate evil doings.
Túng Ngặt:
needy.
Túng Quẫn:
Needy—Hard pressed for money.
Túng Thiếu: To
be in financial difficulties.
Túng Tiền: To
be pressed for (short of) money.
Tùng:
1)
Cây tùng: A pine.
2)
Đồng ư: To agree with.
3)
Phụ tùng: Secondary.
4)
Theo: To follow—To arise from.
5)
Tùng học: Followers.
Tùng Duyên Sanh:
Pratyaya-mayam (skt)—To arise from condition—Consisting condition.
Tùng Duyệt Đẩu Suất:
Tsung-Yueh-T’ou-Shuai—See Tùng Duyệt Thiền Sư.
Tùng Duyệt Thiền Sư:
Thiền sư Tùng Duyệt Đẩu Suất sanh năm 1044 tại Cám Châu, bây giờ là tỉnh
Giang Tây—Zen master Tzong-Yueh Tou-Shuai was born in 1044 in Kan-Chou,
a place in modern Jiang-Xi province.
·
Sư làm “thủ chúng” ở tu viện Đạo Ngộ, trong một dịp hướng
dẫn Tăng chúng đến yết kiến Ḥa Thượng Trí ở Vân Cái. Sau một vài câu
đàm luận, thiền sư Trí đă biết được biệt tài của sư. Ḥa Thượng Trí bèn
cười bảo: “Xem thủ tọa khí chất phi phàm, tại sao thốt ra lời dường như
kẻ say?” Sư đỏ mặt xuất mồ hôi thưa: “Cúi mong Ḥa Thượng chẳng tiếc từ
bi.” Ḥa thượng Trí lại dùng lời châm chích thêm. Sư mờ mịt, liền xin
nhập thất tham vấn riêng với Ḥa Thượng. Ḥa thượng Trí hỏi: “Ông đă
từng thấy Ḥa thượng Pháp Xướng chăng?” Sư thưa: “Có từng xem ngữ lục
của Ngài, tự hiểu rơ, chứ không mong thấy.”—Tzong-Yueh was the head monk
at Tao-Wu Monastery, and on one occasion he led a group of monks on a
journey to visit Zen master Yun-Kai Zhi. After only a few sentences of
conversation, Zhi knew that Tzong-Yueh possessed special ability. Zhi
laughed and said: “I observe that your breath is unusual. Why is it that
when you speak your breath is like that of a drunkard?” Tzong-Yueh’s
face became flushed and he broke out in sweat, and he said: “I hope the
master won’t spare your compassion.” Zhi continued to talk to Tzong-Yueh,
goading him. Tzong-Yueh was flushed and didn’t understand. He asked to
have a private interview with Zhi. In the abbot’s room, Zhi asked
Tzong-Yueh: “Have you ever seen Zen master Fa-Chang?” Tzong-Yueh said:
“I have read the record of his talks. I understood it all, so I don’t
want to see him.”
·
Ḥa Thượng Trí hỏi tiếp: “Từng thấy Ḥa thượng Văn ở Động
Sơn chăng?” Tùng Duyệt thưa: “Người Quan Tây vô năo, mang một cái quần
vải khai nước đái, có chỗ nào hay?” Ḥa thượng Trí nói ngay: “Ông nên
đến ngay chỗ khai nước đái ấy mà tham vấn.” Sư theo lời dạy của Ḥa
thượng Trí, t́m đến yết kiến Ḥa thượng Văn và thâm nhận được áo chỉ. Sư
trở lại yết kiến Ḥa thượng Trí. Trí hỏi: “Sau khi thấy người Quan Tây
đại sự thế nào?” Sư thưa: “Nếu chẳng được Ḥa Thượng chỉ dạy, đă luống
qua một đời.” Sư bèn lễ tạ Ḥa Thượng Trí mà lui ra—Zen master Zhi
continued to ask Tzong-Yueh: “Have you seen Zen master Tung-Shan Wen?”
Tzong-Yueh said: “Kuan-Hsi’s disciples don’t have any brains. If you put
on a cotton garment that smells like piss, what good is it?” Zhi said:
“You should go and practice at that place that smells like piss.”
Following Zhi’s instructions, Tzong-Yueh went and practiced with Zen
master Wen at Tung-Shan, and deeply realized his great teaching. Later
Tzong-Yueh returned to see Zen master Zhi. Zhi asked: “Now that you’ve
seen Kuan-Xi’s disciples, what about the great matter?” Tzong-Yueh said:
“Had it not been for your instructions, it would have slipped past me my
entire life.” Tzong-Yueh then bowed and retreated.
·
Một lần sư thượng đường thuyết pháp: “Tai mắt một bề trong,
ở yên trong hang vắng, gió thu vào cổ tùng, trăng thu sanh sông biếc.
Thiền Tăng khi ấy lại cầu chơn, hai con khỉ đột bốn đuôi duỗi.” Nói xong
sư bèn hét lên một tiếng—One time he entered the hall to address the
monks, saying: “When a person’ eyes and ears are clear, then he resides
in a remote mountain valley. The autumn wind rustles the ancient pines
and the autumn moon reflects from the cold waters. A patch-robed monk
who reaches that place must go still further to realize the truth, for
this is still just two apes with four tails hanging down.” After saying
this the master shouted.
·
Một lần khác sư thượng đường thuyết pháp: “Đẩu Suất trọn
không biện biệt, lại kêu rùa đen là trạnh, không thể nói diệu bàn huyền,
chỉ biết khua môi động lưỡi, khiến cho Thiền Tăng trong thiên hạ xem
thấy trong mắt một giọt máu, chớ có đổi sân làm hỷ người tiếu ngạo yên
Hà đó chăng? Sư im lặng giây lâu nói: “Thổi lên một bản thăng b́nh nhạc,
mong được sanh b́nh chưa hết sầu.”Another time Tou-Shuai entered the
hall to address the monks, saying: “I can’t differentiate anything. I
see a hard-shelled turtle and I mistakenly call it soft-shelled. I can’t
talk any wondrous talk, or speak about truth. I just flap my lips and
drum my tongue. When all the monks in the world see me, they laugh so
hard in derision that their tears turn to blood. Don’t I turn their
derision to happiness? Are you laughing at me now?” After a pause, the
master said: “I blow a light hearted tune on my flute and it causes
people to forget a lifetime of troubles.”
·
Một hôm sư thượng đường thuyết pháp: “Mới thấy tân xuân
lại sang đầu hạ, bốn mùa dường tên sáng tối như thoi, bỗng chợt mặt hồng
trở thành đầu bạc, cần phải nỗ lực riêng dụng tinh thần, cày lấy vườn
ruộng của ḿnh, chớ phạm lúa mạ của người, tuy nhiên như thế kéo cày
mang bừa, phải là con trâu trắng ở núi Tuyết mới được. Hăy nói lỗ mũi ở
chỗ nào? Sư im lặng giây lâu lại nói: “Bậy! Bậy!”—One day Zen master
Tou-Shuai enterd the hall to address the monks, saying: “Fist comes the
new spring, and then it’s the beginning of summer. The four seasons pass
like a shuttle. Before you know it, a red-faced baby has turned into an
old white-hair. You must truly exert yourself and use extraordinary
effort. Cultivate your own field, and don’t steal someone else’s
seedings. Applying yourself in this way, your cultivation will certainly
result in finally seeing the white ox on snow mountain.”
·
Vào mùa đông năm 1091, sau khi tắm gội, sư họp Tăng chúng
lại nói kệ:
“Bốn mươi tám năm,
Thánh phàm giết sạch,
Chẳng phải anh hùng,
Long An đường trơn.”
Nói xong sư ngồi yên thị tịch, được vua ban danh hiệu “Chơn Tịnh Thiền
Sư.”
In the winter of 1091, after bathing, the master assembled the monks and
recited this verse:
“After forty-eight years,
Sacred and mundane are completely
killed off,
Although not heroic,
The Longan road is slippery.”
Upon finishing the verse, the master passed away (still sitting). He
received posthumous title of “True Stillness Zen Master.”
Tùng Địa Dơng Xuất:
1)
Nhẩy lên từ đất—To spring forth—To burst from the
earth--Springing out of the Earth.
2)
Tựa của chương 15 trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa—The title of
Chapter 15 in Lotus Sutra.
Tùng Địa Dơng Xuất
Bồ Tát: Bồ Tát từ đất hiện lên (khi Đức Phật Thích Ca giảng xong
phần Tích Môn, bước qua phần Bản Môn trong Kinh Pháp Hoa th́ vô số các
vị Đại Bồ Tát đă từng được Đức Thích Ca Như Lai giáo hóa bỗng từ dưới
mặt đất hiện lên rồi trụ trên không trung, các vị đó gọi là Bản Hóa Bồ
Tát)—Bodhisattvas who spring forth from the earth when Sakyamuni Buddha
expounded the Lotus Sutra, Chapter 15.
Tùng Lâm:
Pindavana (skt)—Khu rừng cây tùng—Pine forest—A Clump of forest—A large
assembly of monks—A monastery.
Tùng Phục: To
submit.
Tùng Tăng: Vị
Tăng mới xuất gia—A half-monk—A neophyte.
Tùng Thẩm Triệu
Châu: See Triệu Châu Ṭng Thẩm.
Tụng: Geya (skt)—Già
Tha—Kệ Đà—Kệ Tha—Tụng kinh—To recite (chant) prayers—To murmur, recite,
intone, memorize by repeating in a murmur—Hymns, songs, verses, stanzas,
the metrical part of a sutra.
Tụng Giới Ba La Đề
Mộc Xoa: To recite Pratimoksa, usually twice a month for Bhikshu and
Bhikshuni.
Tụng Giới Bồ Tát:
To recite the Bodhisattva precepts.
Tụng Kinh: To
recite the Buddhist sutra—To intone sutras.
Những lời Phật dạy về
“Tụng Kinh” trong Kinh Pháp Cú—The Buddha’s teachings on “Sutra
Reciting” in the Dharmapada Sutra:
1)
Dù tụng nhiều kinh mà buông lung không chịu thực hành theo, th́
chẳng hưởng được phần ích lợi của Sa-môn, khác nào kẻ chăn ḅ, chỉ lo
đếm ḅ cho người khác (để lấy công, chứ sữa thịt của ḅ th́ không hưởng
được)—The heedless man even if he can recite many sacred sutras, but
fails to act accordingly; he has no share in the fruits of the monastic
life, but is like a cowherd who counts the cows of the master, but has
none of his own (Dharmapada 19).
2)
Tuy tụng ít kinh mà thường y giáo hành tŕ, hiểu biết chân chánh,
diệt trừ tham sân si, tâm hiền lành thanh tịnh, giải thoát và xả bỏ thế
tục, th́ dù ở cơi nầy hay cơi khác, người kia vẫn hưởng phần ích lợi của
Sa-môn—Even if a man recites few sutras, but acts in accordance with the
teaching, overcoming all lust, hatred and ignorance, with true knowledge
and serene mind, clinging to nothing here and hereafter, he shares the
fruits of a monastic life (Dharmapada 20).
3)
Tụng đến ngàn câu vô nghĩa, chẳng bằng một câu có nghĩa lư, nghe
xong tâm liền thanh tịnh—A recitation composed of a thousand words
without sense, is no better than one single beneficial word upon hearing
which one is immediately pacified (Dharmapada 100).
4)
Tụng đến ngàn câu kệ vô nghĩa, chẳng bằng một câu kệ có nghĩa lư,
nghe xong tâm liền thanh tịnh—One beneficial line by hearing it one is
immediately pacified is better than a thousand verses with words without
sense (Dharmapada (101).
5)
Tụng đến trăm câu kệ vô nghĩa, chẳng bằng một pháp cú, nghe xong
tâm liền thanh tịnh—One single word of the Dharma by hearing it one is
immediately pacified, is better than a hundred stanzas, comprising
senseless words (Dharmapada 102).
Tụng Kinh Cầu An:
To recite the Buddhist sutra for peace and security.
Tụng Kinh Cầu Quốc
Thái Dân An: Recitation for the welfare of the nation and the
security of the people.
Tụng Kinh Đầu Năm:
New Year Mantra Recitation.
Tụng Kinh Hoa
Nghiêm: Avatamsaka Sutra Recitation.
Tụng Kinh Quan Thế
Âm: Kuan Shi Yin Sutra Recitation.
Tụng Niệm: To
pray and to meditate.
Tụng Tŕ:
Assiduously recite.
Tuổi: Age—Years
of age.
Tuổi Già: The
decline of life—Old age.
Tuổi Già Cứ Chạy
Theo Thời Gian: Old age comes swiftly with the passage of months and
years.
Tuổi Già Sức Yếu:
Old age and declining strength.
Tuổi Hạc: Very
old.
Tuổi Thanh Xuân:
Youth.
Tuổi Thơ:
Childhood.
Tuổi Trẻ:
Youth.
Tuổi Xanh:
Tender youth.
Tuy: Though—In
spite of—Although.
Tuy Hai Mà Một:
Although two, they are really one.
Tuy Nhiên:
However.
Tuy Thế:
Nevertheless.
Túy:
1)
Thuần Túy: Pure.
2)
Say Rượu: Drunk—Intoxicated.
Túy Tượng: Con
voi điên, giống như những kẻ xấu ác khó hàng phục—A mad elephant, like
evil hard to subdue.
Tùy:
1)
Tùy thuộc: To depend on.
2)
Tùy tùng: To follow.
3)
Tùy với: To comply with.
4)
Tùy theo: According to.
Tùy Căn Cơ:
According to the capacity or capability—Pháp Phật thuyết giảng tùy căn
cơ tŕnh độ của từng người—The teaching of the Buddha according with the
capacity of everyone.
Tùy Cầu: Tùy
theo sự cầu nguyện của chúng sanh—According to prayer.
Tùy Cầu Bồ Tát:
Bồ tát Quán Âm Tầm Thanh Cứu Khổ—Bodhisattva (Kuan-Yin) who sees that
all prayers are answered.
Tùy Cầu Thiên Tử:
Tùy Cầu Tức Đắc Thiên Tử—Tên của một vị Ác Tăng chết đi tuy bị đọa vào
địa ngục, nhưng trước khi chết hối hận và cầu nguyện, nên được sanh lên
cơi trời với tên là “Tùy Cầu Đắc Thiên Tử”—Name of a deva who was
formerly a wicked monk who died and went to hell, but when dying
repented, prayed and was reborn the deva.
Tùy Chuyển Lư Môn:
Tùy theo căn cơ của người nghe mà thuyết phương tiện (chưa được chư Phật
và chư Bồ Tát thuyết giảng), đối lại với Chân Thực Lư Môn tùy theo bản ư
của chư Phật và chư Bồ Tát mà làm sáng tỏ thực nghĩa—The sect or
teaching of adaptable philosophies not revealed by the Buddhas and
Bodhisattvas, in contrast with the truth as revealed by them.
Tùy Cơ: Tùy
theo cơ hội hay căn cơ, như giáo thuyết của Đức Phật thích hợp với căn
cơ của mọi người—According to opportunity, capacity, or capability, i.e.
the teaching of the Buddha according with the capacity of everyone.
Tùy Cơ Ứng Biến:
To accommodate (adapt) oneself to circumstances.
Tùy Duyên: Chịu
theo cái duyên mà sự vật bên ngoài kéo tới gây ra cảm xúc cho tự thể,
như sóng là hệ quả của gió (nước nhờ duyên gió thổi mà sinh ra sóng)—According
with conditioning cause, or resulting from conditioning cause, or
circumstances as waves result from wind.
Tùy Duyên Bất Biến:
Bất biến trong những hành động tùy duyên, như thể của chân như là bất
biến, nhưng khi tiếp xúc với cái duyên th́ nẩy sinh ra vô số sự vật khác
nhau—Ever changing in conditions yet immutable in essence—Adapting to
conditions fundamtentally unchanging.
Tùy Duyên Chân Như:
Chân như là bản thể của vạn vật, là chân thực, như thường, bất biến, bất
động, lại là chỗ dựa cho các sự tướng của nhân duyên (chân như là thể,
vạn vật là tướng; thể và tướng nương nhau, không bao giờ xa ĺa nhau),
như nước và sóng (nước bất biến, nương theo gió ngoại duyên, mà tạo
thành hàng hàng lớp lớp sóng)—The bhutatathata in the relative or
phenomenal conditions—The absolute in its phenomenal relativity; and
considered as immutable, the bhutatathata, which is likened to the water
as opposed to the waves.
Tùy Duyên Hóa Vật:
Chuyển hóa chúng sanh tùy theo điều kiện hay hoàn cảnh của họ—To convert
or transform people according to their conditions, or to circumstances
in general.
Tùy H́nh Hảo:
Hảo Tướng—Thân Phật có đủ tướng hảo của bậc đại nhân, từng tướng lại có
một số vẻ đẹp biểu lộ tùy theo h́nh dung của mỗi tướng—Excellent in
every detail; the individual excellences of others united in the Buddha.
** For more
information, please see Tam Thập
Nhị Hảo Tướng
Phật.
Tùy Hỷ: Vui
theo điều thiện. Vui theo cái vui của người (thấy người làm việc thiện,
ḷng ḿnh hoan hỷ vui sướng theo)—To rejoyce in all good—To rejoice in
the welfare of others, or to do that which one enjoys, or to follow
one’s inclination.
Tùy Hỷ Công Đức:
Rejoice at others’ merits and virtues—Đây là hạnh nguyện thứ năm trong
Phổ Hiền Thập Hạnh Nguyện. Tùy hỷ công đức là phát tâm chứng nhất thiết
trí mà siêng tu cội phước, chẳng tiếc thân mạng, làm tất cả những hạnh
khó làm, đầy đủ các môn Ba La Mật, chứng nhập các trú địa của Bồ Tát,
đến trọn quả vô thượng Bồ đề, vân vân bao nhiêu căn lành ấy, dù nhỏ dù
lớn, chúng ta đều tùy hỷ—This is the fifth of the ten conducts and vows
of Samantabhadra Bodhisattva. Rejoice at others’ merits and virtues
means from the time of our initial resolve for all wisdom, we should
diligently cultivate accumulation of blessings without regard for their
bodies and lives, cultivate all the difficult ascetic practices and
perfect the gates of various paramitas, enter bodhisattva grounds of
wisdom and accomplish the unsurpassed Bodhi of all Buddhas. We should
completely follow along with and rejoice in all of their good roots (big
as well as small merits).
Tùy Khả Năng:
According to one’s capability.
Tùy Kinh Luật:
Hành động đúng theo luật được diễn tả trong Luật Tạng—According to the
discipline as described in the sutras, i.e. the various regulations for
conduct in the Sutra-pitaka; according to the wisdom and insight as
described in the Vinaya-pitaka.
Tùy Loại: Tùy
theo chủng loại. Đức Phật và Bồ Tát tùy theo chủng loại chúng sanh mà
thị hiện thuyết giáo khác nhau—According to class or type. Buddhas and
Bodhisattvas reveal themselves in varying forms according to the need or
nature of the beings whom they desire to save.
Tùy Loại Sanh:
Chư Phật và chư Bồ Tát sanh vào điều kiện của những người mà họ muốn cứu
độ—Buddhas and Bodhisattvas are born into the conditions of those they
seek to save.
Tùy Loại Ứng Đồng:
See Tùy Loại.
Tùy Miên:
1)
Buồn ngủ: Ngầy ngật—Yielding to sleep, sleepiness, drowsiness,
comatose, one of the klesa, or temptations.
2)
Theo tông nghĩa của Hữu Bộ Tiểu Thừa, “Tùy Miên” là một tên khác
của phiền năo: Used by the Sarvastivadins as an equivalent for klesa,
the passions and delusions.
3)
Theo tông nghĩa của phái Duy Thức Đại Thừa, đây là tên gọi chung
cho chủng tử của “Phiền Năo Chướng” và “Sở Tri Chướng” (tham, sân, si,
mạn, nghi, tà kiến): Used by the school of consciousness as the seed of
klesa (greed, hatred, ignorance, pride, doubt, wrong views).
Tùy Nghi: Tùy
theo mục đích yêu cầu—For whatever purpose it may serve—As suitable,
proper, or needed.
Tùy Nghĩa: Tùy
theo ư nghĩa—According to intention, to meaning, or to the right.
Tùy Ngôn Thủ Nghĩa:
Yatharutarthabhinivishta (skt)—Chấp vào văn tự mà cho rằng văn tự hoàn
toàn phù hợp với ư nghĩa—To cling to the letter as fully in accordance
with the sense.
Tùy Phái:
Messenger.
Tùy Pháp Hành:
Những người lợi căn tu hành bằng cách nghiền ngẫm và thực tập giáo lư,
đối lại với hạng độn căn chỉ biết tin vào người khác—The religious life
which is evolved from practicing the teaching of others—Those who follow
the truth by reason of intellectual ability, in contrast with the
non-intellectual, who put their trust in others.
** For more
information, please see Tùy Tín
Hạnh.
Tùy Phần: Tùy
theo hạn phận của sức lực mà hoàn thành công việc đă được giao phó—According
to the part assigned or expected; according to lot or duty.
Tùy Phần Giác:
Giác ngộ từng phần, một trong “tứ giác” được nói đến trong Khởi Tín Luận—Partial
enlightenment, the third of the four intelligences or apprehensions of
the Awakening of Faith.
** For more
information, please see Tứ Giác.
Tùy Phiền Năo:
Tùy Hoặc—Phiền năo khởi lên bởi phiền năo căn bản, đối lại với phiền năo
căn bản khởi lên từ lục căn—Sequent, or associated klesa-trials, or
evils, either all of them as always dogging the foot-steps—Consequent
afflictions resulting or arising from the fundamental afflictions, in
contrast with afflictions arising from the six senses.
** For more
information, please see Nhị Phiền
Năo.
Tùy Pḥng: Tùy
theo nơi hay bất cứ nơi nào—According to place; suitable to the place;
in whatever place; wherever.
Tùy Pḥng Tỳ Ni:
Vinaya (skt)—Những luật nghi thích hợp với điều kiện địa phương, hay
luật lệ thích hợp cho mọi nơi—Rules which are suitable to local
conditions; or to conditions everywhere.
Tùy Sắc Ma Ni:
Một loại ngọc mani không có màu sắc riêng, nó tùy theo màu sắc của vật
soi vào nó mà hiện sắc tướng của ḿnh—A precious stone that takes on
the colour of its surroundings.
Tùy Sức:
According to one’s force.
Tùy Tâm:
According to mind or wish.
Tùy Tâm Chúng Sanh
Mà Hiện Thân Cứu Độ: To appear in the world to save sentient beings
in any physical form (any form they wish).
Tùy Theo:
According to.
Tùy Thời:
According to the situation (circumstances).
Tùy Thuận:
1)
Tin và thực tập theo giáo thuyết của Đức Phật: To believe and
follow the teaching of the Buddha.
2)
Tùy thuận theo ai: To accord with someone—To follow someone—To
obey.
Tùy Thuộc: To
depend (rely) on.
Tùy Tín Hành:
Những người độn căn tu hành bằng cách tin vào giáo lư, đối lại với những
người lợi căn tu hành bằng cách thực tập giáo lư—The religious life
which is evolved from faith on the teaching of others. It is that of the
unintellectual type, in contrast with those whose intelligence is sharp,
their religious life is evolved from practice on the teaching of
others.
Tùy T́nh:
Nhượng bộ hay tùy theo sự ước nguyện của người khác--Yielding to other
people’s wishes.
Tùy Tục Thuyết:
Samvritya-desana (skt)—Giáo lư tương đối—Relative teaching.
Tùy Tùng: To
accompany—To follow.
Tùy Tự: Tùy
theo bản nguyện của chính ḿnh—At one’s own will--Voluntary
Tùy Tự Ư Ngữ:
Tùy theo ư nghĩ của ḿnh mà thuyết giảng (có ba loại: tùy theo ư ḿnh,
tùy theo ư người, tùy theo ư của ḿnh và người)—Voluntary addresses, or
remarks volunteered by the Buddha.
Tùy Tướng: Tiểu
tướng sanh, trụ, dị, diệt của vạn hữu—The secondary state, i.e. birth,
stay, change, and death, in all phenomena.
Tùy Tướng Giới:
Tùy thuận theo h́nh tướng và tuân theo giáo pháp sống tu của Phật, như
nhuộm áo cạo tóc để trở thành một Tăng Sĩ—To follow the forms and
discipline of the Buddha, i.e. become a monk.
Tùy Viên:
Attaché.
Tùy Xá Lợi:
Vaisali (skt)—Theo Giáo Sư Soothill trong trung Anh Phật Học Từ Điển,
dân tộc Tùy Xá Lợi là dân tộc của một nước cộng ḥa cổ Vaisali, trong số
những đệ tử Phật đầu tiên—According to Professor Soothill in The
Dictionary of Chinese-English Buddhist Terms, Licchavis were the people
of the ancient republic of Vaisali who were among the earliest followers
of sakyamuni.
Tùy Ưù:
1)
Theo ư ai: At will—Following one’s own wishes.
2)
Tên cũ của “An Cư Kiết Hạ”: The old name for summer retreat or
Vassa.
Tuyên Án: To
deliver (pronounce) a sentence.
Tuyên Bố: To
announce publicly or officially—To proclaim.
Tuyên Dương:
To commend—To cite—To praise.
Tuyên Giám Đức Sơn:
See Đức Sơn Tuyên Giám.
Tuyên Hóa:
Hsuan-Hua (1918-1995)—Một Pháp Sư Trung Hoa nổi tiếng tại Mỹ, ông là
viện chủ Thiền Viện Kim Sơn tại California, chủ tịch hội Phật Giáo Á Mỹ.
Năm 19 tuổi, khi mẹ ông qua đời, ông xuất gia và thọ giới Sa Di. Sau Thế
Chiến thứ hai, ông du hành đến Nam Hoa tự viện thuộc tỉnh Quảng Đông để
thăm viến Ḥa Thượng Hư Vân. Trong chuyến du hành nầy ông đă thọ cụ túc
giới tại núi Phổ Đà. Vào năm 1962, ông đến định cư tại Mỹ. Mùa hè năm
1968, ông thuyết giảng kinh Thủ Lăng Nghiêm cho chúng hội trong 96 ngày.
Ông cũng giảng những kinh khác như kinh Pháp Hoa, Kim Cang, Hoa Nghiêm,
Tứ Thập Nhị Chương, vân vân. Ông cũng xây dựng ngôi Vạn Phật Thánh Thành
tại Cựu Kim Sơn trước khi ông thị tịch vào năm 1995—Hsuan-Hua
(1918-1995), a famous Chinese Dharma Master, Abbot of Gold Mountain
Dhyana Monastery in California and Chairman of Sino-American Buddhist
Association. At age 19 after his mother died, he took Sramanera
ordination. After World War II, he traveled to Nan-Hua monastery in
Canton province to visit Most Venerable Hsu-Yun. He received Bhikshu
ordination at Mount P’u-T’o during this journey. He settled in the
United States in 1962. In summer 1968, he conducted a Surangama Sutra
Assembly lasting 96 days. He also delivered lectures on other sutras as
the Lotus Sutra, the Diamond Sutra, the Hua-Yen Sutra, the Sutra of the
Forty-Two Sections, etc. He established the City of Ten Thousand Buddhas
Monastery before he passed away in 1995.
Tuyên Huấn:
Information and training.
Tuyên Linh: Tên
một ngôi chùa cổ nổi tiếng, tọa lạc trong ấp Tân Quới Đông B, xă Minh
Đức, huyện Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre, Nam Việt Nam. Chùa được xây dựng vào
năm 1861 với tên Tiên Linh Tự. Năm 1907, Ḥa Thượng Như Trí (tục danh Lê
Khánh Ḥa) về trụ tŕ và đổi tên chùa thành Tuyên Linh Tự vào năm 1924.
Ḥa Thượng Như Trí là người đầu tiên chủ xướng “Phong Trào Chấn Hưng
Phật Giáo” từ thập niên 1920, ngài cho xuất bản tạp chí Pháp Âm, lập các
trường Phật học để đào tạo Tăng Ni, trong đó chùa Tuyên Linh ra đời
trước nhất. Trong chùa có hai tấm bảng gỗ khắc tên bằng chữ Hán những
thí chủ đă cúng đất và địa đồ lập chùa trong đợt trùng tu do Tổ Khánh
Ḥa tổ chức năm 1941—Name of a famous ancient pagoda located in Tân Quới
Đông B hamlet, Minh Đức village, Mỏ cày district, Bến Tre province,
South Vietnam. The pagoda was built in 1861 with the name of Tiên Linh
Tự. In 1907, Head of the pagoda, Most Venerable Như Trí (his worldly
name was Lê Khánh Ḥa) renamed it Tuyên Linh Tự. He was the founder of
the “Movement of Improving Buddhism” in the 1920s. He also had Pháp Âm
Magazine published and established the Buddhist schools for Monks and
Nuns’ Training of which the Buddhist School of Tuyên Linh Pagoda was
first opened. There are two wooden boards on which one can read the name
of the Buddhist laymen written in Chinese characters. These contributors
donated lands and maps on the occasion of rebuilding the pagoda
organized by Patriarch Khánh Ḥa in 1941.
Tuyên Lưu:
Hoằng hóa giáo pháp—To spread abroad—Widespread.
Tuyên Ngôn: To
proclaim—To declare.
Tuyên Phán: To
pronounce (pass—deliver) a sentence.
Tuyên Thệ: To
be sworn in before someone—To take an oath.
Tuyên Thuyết:
Diễn thuyết giáo pháp—To preach all over the place.
Tuyến:
1)
Đường: Line.
2)
Sợi chỉ: A thread.
3)
Sợi dây: A wire.
Tuyến Hương: Ốp
nhang, loại cháy chậm và lâu tàn—Thread or string incense, slow-burning
and prolonged.
Tuyền:
1)
Con suối: Spring.
2)
Quay tṛn: To revolve—To turn around—To whirl.
Tuyền Đài:
Hell—Hades.
Tuyền Hỏa Luân:
Ṿng lửa xoay tṛn, ám chỉ sự không thật của vạn hữu—A whirling wheel of
fire, a circle yet not a circle, a simile of the seeming but unreal,
i.e. the unreality of phenomena.
Tuyền Lâm:
Spring and forest.
Tuyển: Tuyển
chọn—To select—To choose.
Tuyển Đức: To
choose a virtuous man.
Tuyển Hữu:
Visvamitra or Kausila (skt)—Tên vị Bà La Môn mà thái tử Tất Đạt Đa dă
học chữ hồi c̣n nhỏ—Name of Siddhartha’s schoolmaster.
Tuyển Lựa: See
Tuyển.
Tuyển Trạch:
See Tuyển.
Tuyết: Snow.
Tuyết Đậu Thiền Sư:
Zen master Xue-T’ou—See Trùng Hiển Tuyết Đậu Thiền Sư.
Tuyết Phong Thiền
Sư: Zen Master Xue-Feng Yi-Cun—See Nghĩa Tồn Tuyết Phong Thiền Sư.
Tuyết Sơn: Ngọn
Hy Mă Lạp Sơn, nằm về phía bắc Ấn Độ—The snow mountains, the Himalayas,
northern India.
Tuyết Sơn Bộ:
Haimavatah (skt)—Trường phái Tuyết Sơn, một trong năm phân chi của Đại
Chúng Bộ. Qua tên gọi chúng ta có thể biết bộ phái nầy ban đầu hoạt động
tại vùng Tuyết Sơn. Trong cuốn sách nói về mười tám bộ phái, Vasumitra
đă gọi Tuyết Sơn Bộ là thừa kế của Thượng Tọa Bộ, nhưng một số học giả
khác th́ lại cho rằng phái nầy là một nhánh của Đại Chúng Bộ. Cũng giống
như Nhất Thiết Hữu Bộ, phái nầy cho rằng Bồ Tát không có địa vị ǵ cao
trọng đặc biệt, nhưng khác với Hữu Bộ ở chỗ họ cho rằng chư Thiên và quỷ
thần không thể có cuộc sống phạm hạnh (brahmacharya), và những người
ngoại đạo không thể có được quyền lực siêu nhiên—The Himalaya School,
one of the five divisions of the Mahasanghikah. The very name suggests
that the Haimavatah school was originally located in the Himalayan
regions. Vasumitra, in his book on the Eighteen Sects, calls the
Haimavatas the inheritors of the Sthaviravadins, but other scholars
consider this school as a branch of the Mahasanghikas. Like the
Sarvasivadins, the Haimavatas believed that the Bodhisattvas had no
special eminence, but unlike them, they said that the gods could not
live the holy life of brahmacharya and that heretics could not have
miraculous powers—See Mahasamghika in Sanskrit/Pali-Vietnamese Section.
Tuyết Sơn Đại Sĩ:
See Tuyết Sơn Đồng Tử.
Tuyết Sơn Đồng Tử:
C̣n gọi là Tuyết Sơn Đại Sĩ. Theo Kinh Bản Sanh, đây là vị Đại Sĩ trẻ
tuổi trên núi Tuyết, tiền thân của Đức Phật Thích Ca—According to the
Sutra of the former lives of the Buddha, this is the great man, or youth
of the Himalayas, the Buddha in a former incarnation.
Tuyết Sơn Hạ:
Himatala (skt)—Theo Eitel trong Trung Anh Phật Học Từ Điển, Tuyết Sơn Hạ
là một vương quốc cổ được một người thuộc ḍng dơi Thích Ca cai trị vào
khoảng năm 43 sau Tây Lịch. Vùng nầy có lẽ nằm về phía nam Kundoot and
Issar, phía bắc của Hindukush, nơi phát nguyên của sông Oxus—According
to Eitel in The Dictionary of Chinese-English Buddhist Terms, this is an
ancient kingdom ruled in 43 A.D. by a descendant of the Sakya family.
Probably the region south of Kundoot and Issar, north of Hindukush near
the principal source of the Oxus.
Tuyết Sương:
Snow and dew.
Tuyệt:
1)
Cắt đứt: Chấm dứt—To cut off—To terminate—To end—To sunder.
2)
Tuyệt đối: Không c̣n so sánh được nữa—Superlatively.
Tuyệt Cảnh:
Very lovely landscape.
Tuyệt Chủng:
Extinct race.
Tuyệt Diệt: To
annihilate—To exterminate.
Tuyệt Diệu:
Admirable—Supreme excellent.
Tuyệt Duyên:
Non-conducting—Non-conductive.
Tuyệt Đăi: Siêu
việt, không thể đối đăi được nữa—Final—Supreme—Special.
Tuyệt Đăi Chân Như:
Chân như là siêu việt tuyệt đối, ĺa mọi giới hạn của hiện tượng—Bhutatathata
as absolute, apart from all phenomena and limiting terms; or as being,
in contrast to the bhutatathata as becoming.
Tuyệt Đại:
Superlatively great.
Tuyệt Đẳng:
Beyond compare.
Tuyệt Đẹp:
Extremely beautiful.
Tuyệt Đích:
Beyond compare—Absolute—Perfect.
Tuyệt Đỉnh: The
highest point.
Tuyệt Đối: Vượt
ra ngoài sự so sánh—Absolute—Absolutely—Beyond
compare—Supreme—Special—Outstanding—Tuyệt đối là thực tại của những hiện
tượng. Tuyệt đối luôn luôn có bản chất đồng nhất. Niết bàn hoặc thực tại
tuyệt đối không phải là thứ ǵ được tạo sanh hoặc thành tựu. Theo triết
học Trung Quán, Nguyệt Xứng cho rằng với các bậc Thánh giả th́ Tuyệt Đối
chỉ là sự im lặng, v́ nó là cái ǵ bất khả thuyết hay bất khả diễn đạt
bằng lời. Có rất nhiều chữ để mô tă về Tuyệt Đối—The Absolute is the
Reality of the appearances. The Absolute is always of uniform nature.
Nirvana or the Absolute Reality is not something produced or achieved.
According to the Madhyamaka philosophy, Candrakirti, to the saints, the
Absolute is just silence, for it is inexpressible by speech. There are
many words used for the Absolute:
·
Chân Như: Tathata (skt)—Như thị—Suchness.
·
Không tánh: Sunyata (skt)—Emptiness—Void.
·
Niết Bàn: Nibbana (p)—Nirvana (skt)—Nirvana.
·
Bất nhị: Adraya (skt)—Non-dual.
·
Bất sanh: Anutpanna (skt)—Unproduced.
·
Cơi vô phân biệt: Nirvikalpa (skt)—The realm of
non-discrimination.
·
Bản thể của pháp: Dharmadhatu or Dhamrata (skt)—Bản chất
của vật tồn hữu—The true nature of dharma or the essence of being.
·
Bất khả diễn đạt: Anabhilapya (skt)—The inexpressible.
·
Đích thực như nó đang là: Tattva (skt)—Thatness.
·
Không thể diễn tả bằng ngôn từ hay hư luận: Nisprapanca (skt)—Free
of verbalization and plurality.
·
Như thực: Yathabhuta (skt)—Cái thực sự đang là—That which
really is.
·
Chân đế: Bhutata or Bhutatathata (skt)—The true reality.
·
Chân lư: Satya (skt)—Truth.
·
Như Lai Tạng: Tathagata-garbha (skt)—The womb of
Tathagatas.
·
Thực tại mà ta phải tự thể nghiệm trong nội tâm:
Aparapratyaya (skt)—Reality which one must realize within oneself.
Tuyệt Giao: To
cut off all relations with.
Tuyệt Hảo:
Excellent—Perfect---Very good—Extremely good.
Tuyệt Không:
Not at all—By no means.
Tuyệt Học:
Ngừng học, vượt ra ngoài chuyện học—To cease study—Beyond the need of
study.
Tuyệt Không:
Not at all—By no means.
Tuyệt Lộ: To
encounter cul-de-sac.
Tuyệt Luân:
Excellent—Unequalled.
Tuyệt Mạng: To
die.
Tuyệt Mục: As
far as the eyes can see.
Tuyệt Mỹ:
Excellent.
Tuyệt Nhiên:
Never.
Tuyệt Sắc:
Peerless beauty.
Tuyệt Tác:
Masterpiece.
Tuyệt Tài:
Unequalled talent.
Tuyệt Thực:
Ngưng không ăn—To cut off food—To cease to eat.
Tuyệt T́nh: To
break off friendship or love relationship with someone.
Tuyệt Tộc:
Extinct family.
Tuyệt Trần: To
surpass everybody.
Tuyệt Tự:
Heirless.
Tuyệt Vọng:
Hopeless—Desperate—In despair—To look in the dark side of things.
Tuyệt Vô Âm Tín:
Without news.
Tuyệt Vời: See
Tuyệt Trần.
Tuyệt Xảo: Very
skilful.
TƯ
Tư:
1)
Bốn: Four.
2)
Chú tâm vào: To turn the attention to.
3)
Đầu tư: To invest capital.
4)
Riêng tư: Private—Secret—Selfish.
5)
Tâm sở pháp: Mental action or contents, mentality, intellection.
6)
Thứ tư: Fourth.
7)
Tiền vốn: Funds
8)
Tư duy: Sankhara (p)—Tên của tâm sở pháp (đem cái tác dụng khiến
tâm tạo tác mà đặt tên)—Thought—To think.
Tư Ấn:
Ấn riêng của nhà sư, có h́nh giống như sọ người để nhắc nhở về sự ngắn
ngủi của cuộc sống—A monk’s private seal, which should resemble a skull
as reminder of the brevity of life.
Tư Bản:
Capital.
Tư Cách:
Aptitude—Manner.
Tư Cách Của Bậc
Chơn Tu: The personality of the true cultivator.
Tư Chất:
Natural qualities.
Tư Dục: Evil
desires.
Tư Duy: To
think—Thought—To reflect—To consider or reflect on an object with
discrimination—See Thiền.
Tư Duy Nhị Nguyên:
Dualistic thoughts.
Tư Duy Tu: Thực
tập tư duy—The cultivation of ponderance.
Tư Duyên: Những
ngoại duyên vật chất cần thiết cho một vị Tăng như y áo, thực phẩm, và
pḥng ốc—The material necessaries of a monk, clothing, food, and
shelter.
Tư Đà Hàm:
Sakrdagamin (skt)—See Tứ Thánh Quả (2).
Tư Đà Hàm Quả:
Sakrdagamiphala (skt)—T́nh trạng c̣n quay trở lại một lần nữa—The state
of coming back once more—See Tứ Thánh Quả (2).
Tư Giả: Thể của
tư hoặc là hư vọng vô thực nên gọi là tư giả—Thought or its content as
illusion.
Tư Hoặc (Tu Hoặc):
Tư tưởng khởi dậy qua tiếp xúc với thế giới bên ngoài hay những thói
quen như tham, sân, si, vân vân—The illusion of thought—Thoughts arising
through contact with the world or by habits such as desires, anger,
infatuation, etc.
** For more
information, please see Tu Hoặc.
Tư Huệ: Trí huệ
đạt được do công phu tu tập thiền định và giáo lư nhà Phật—The wisdom
attained by meditating on the principles and doctrines of Buddhism.
Tư Hữu: Private
property.
Tư Ích: Private
interest.
Tư Kiến:
Personal opinion.
Tư Kỷ: Always
thinking of self—Selfish.
Tư Lợi:
Self-interest—Personal interests.
Tư Lự: Manyati
(skt)—To reflect—To worry.
Tư Lương:
Sambhara (skt).
(I)
Nghĩa của “tư lương”—The meanings of Sambhara:
1)
Chất liệu chuẩn bị: Preparatory material.
2)
Muốn thực phẩm: To desire food.
3)
Thiền định được xem như món ăn tinh thần cho tâm linh—Thought-food,
or mental food, meditation as a kind of mental food.
4)
Thực phẩm cho thân và tâm như đồ ăn, bố thí và trí tuệ, vân vân:
Supplies for body or soul, e.g. food, almsgiving, wisdom, etc.
5)
Thực phẩm thuộc tinh thần: Moral provisions.
(II)
Phân Loại “tư lương”—Categories of Sambhara:
(A)
Nhị Chủng Tư Lương: Two kinds of spiritual provender—See Nhị
Chủng Tư Lương.
Tư Lượng: Suy
tư và lư luận hay so sánh—Thinking and measuring, or reasoning,
comparing.
Tư Lượng Năng Biến
Thức: Mana (skt)—Mạt Na Thức hay thức thứ bảy trong bát thức—The
seventh vijnana, intellection, reasoning.
** For more
information, please see Mạt Na
Thức.
Tư Lư Nha:
Surya (skt).
1)
Mặt Trời: The sun.
2)
Thần mặt Trời: The sun-deva.
Tư Pháp:
Justice.
Tư Quyền:
Personal rights.
Tư Sinh: Những
thứ cần thiết trong đời sống—Necessaries of life.
Tư Tài Trướng:
Bản kê khai tài sản của tự viện—Schedule of property of a monastery.
Tư Tâm:
Selfishness—Egoism.
Tư Thế Tọa Thiền:
Meditation posture—The posture having eight features of Buddha way of
sitting:
1)
Thân thẳng: Lưng thẳng—Straight body—Straight Spine—Straight
back—The body should be perpendicular with the floor.
2)
Chân bắt tréo hoặc chân nầy chồng lên chân kia: The legs should
be crossed or one over the other.
3)
Bàn tay này nằm trên bàn tay kia, ḷng bàn tay ngữa lên, hai
ngón cái chạm nhau, cả hai bàn tay đặc sát vào bụng với hai ngón cái
ngang rún: One hand on top of the other, both palms upwards, the two
thumbs should be touching and the hands placed close to the belly with
the thumbs at the level of the navel.
4)
Đầu hơi ngă về trước tránh bị khích động tâm thần: The head
should be slightly inclined downwards to prevent mental excitement.
5)
Vai buông lơi nhưng thẳng một cách tự nhiên: Shoulders should be
relaxed but straight, level and balanced.
6)
Răng và môi khép lại một cách tự nhiên: The teeth and lips should
be closed naturally. Not to open nor too tight closed.
7)
Lưỡi chạm vào bên trong thành răng trên: The tongue should touch
the upper teeth which helps prevent dry mouth.
8)
Mắt nửa nhắm nửa mở tránh sư lôi cuốn bên ngoài hay sự buồn ngũ
bên trong: The eyes should be half-open (neither wide open nor
completely closed) to prevent distractions and or sleepiness.
Tư Thông: To
commit adultery.
Tư T́nh:
1)
Personal relationship.
2)
To commit adultery.
Tư Trạch Lực:
Khả năng suy nghĩ lựa chọn những nguyên tắc đúng đắn—Power in thought
and selection of correct principles.
Tư Trang:
Jewelry and money which a woman bring to the husband’s family at
marriage.
Tư Tưởng:
(A)
Nghĩa của Tư Tưởng—The meanings of “Thoughts”—Thoughts—Ideas—Theo
Kinh Satipatthana, Đức Phật đă tŕnh bày sự tỉnh thức về con đường giác
ngộ. Nơi đây đối tượng tinh thần được chú tâm thẩm tra và quan sát khi
chúng phát sinh trong tâm. Nhiệm vụ ở đây là tỉnh thức về những tư tưởng
sinh diệt trong tâm. Bạn sẽ từ từ hiểu rơ bản chất của những tư tưởng.
Bạn phải biết cách làm sao sử dụng những tư tưởng thiện và tránh cái
nguy hiểm của những tư tưởng có hại. Muốn thanh tịnh tâm th́ tư tưởng
của bạn lúc nào cũng cần được kiểm soát—In the Satipatthana Sutra, the
Buddha explained His Way of Enlightenment. Here, mental objects are
mindfully examined and observed as they arise within. The task here is
to be aware of the thoughts that arise and pass away within the mind.
You must slowly understand the nature of thoughts. You must know how to
make use of the good thoughts and avoid the danger of the harmful
thoughts. Your thoughts need constant watching if the mind is to be
purified.
(B)
Phương Cách tỉnh thức về những Tư Tưởng—Methods of mindfulness of
thoughts and mental states—Tỉnh Thức về những Tư Tưởng—Mindfulness of
Thoughts.
·
Ngồi một ḿnh tập trung tâm vào những tư tưởng—To sit
alone and concentrate the mind on the thoughts.
·
Quan sát những tư tưởng thiện và ảnh hưởng tinh thần của
chúng: To watch the good thoughts and observe how they affect your
mental state.
·
Quan sát những tư tưởng có hại và thấy chúng làm tinh thần
xáo trộn thế nào: To watch the harmful thoughts and observe how they
disturb your mental state.
·
Đừng cố ư cưỡng lại những tư tưởng, v́ càng cưỡng lại bạn
càng phải chạy theo: Do not try to fight with the thoughts, for the more
you try to fight them, the more you have to run with them.
·
Hăy quan sát những tư tưởng một cách vô tư và tạo cơ hội
để vượt qua chúng. Sự chuyển động vượt qua tư tưởng và kiến thức mang
lại an lạc, ḥa hợp và hạnh phúc. Chỉ quan sát những tư tưởng, từ từ bạn
sẽ hiểu được cách kiểm soát những tư tưởng tội lỗi và khuyến khích các
tư tưởng thiện: Simply observe the thoughts dispassionately and so
create the opportunity to go beyond them. The moving beyond all thoughts
and knowledge bring peace, harmony, and happiness. Simply observe these
thoughts, you will slowly come to understand how to control evil
thoughts and to encourage good thoughts.
·
Trong sinh hoạt hằng ngày, cố gắng quan sát tiến tŕnh suy
nghĩ của bạn. Chỉ quan sát chứ đừng đồng nhất với tiến tŕnh: In the
course of your working day, try to observe your thinking process. Simply
observe and do not identify with this process.
Tư Tưởng Ngưng Đọng
(Tưởng Tịch): Active thought has been put to rest.
Tư Tưởng Phân Biệt:
Discriminatory thought—Thinking of percepts or concepts as objective
realities—Fixation on appearances while ignorant of essence.
Tư Tưởng Tán Loạn:
Conceptual distractions.
Tư Tưởng Thanh Tịnh:
Pure thoughts.
Tư Tưởng Triết Lư:
Philosophical thought.
Tư Tưởng Từ Bi Với
Chúng Sanh Mọi Loài: Thoughts of compassion to all beings.
Tư Tưởng Vô Hại:
Harmless thoughts.
Tư Tưởng Xấu Xa:
Những ư nghĩ xấu xa—Evil thoughts—Negative thoughts—Negative thoughts
include
1)
Resentment: Oán hận.
2)
Greed: Tham lam.
3)
Jealousy: Ganh tỵ.
4)
Anger: Sân giận.
5)
Wishing to harm others: Muốn hại người.
6)
Wrong views: Tà kiến.
7)
Slander: Phỉ báng.
8)
Lying: Nói dối.
9)
Arrogance: Cống cao ngă mạn.
10)
Stealing: Trộm cắp.
11)
Sexual misconduct: Tà dâm.
12)
Substance abuse: Hút, uống hay chích những chất cay độc.
13)
Double-tongued: Nói lưỡi hai chiều.
14)
Harsh speech: Nói lời độc ác.
15)
Bad attitudes: Thái độ xấu ác.
16)
Wrong discernments: Phân biệt sai lầm.
17)
Faithlessness: Không có niềm tin.
18)
Ignorance: Si mê.
19)
Thought of killing: Tư tưởng sát sanh.
20)
Causing trouble: Gây rối, etc.
Tư Vấn: To
consult—To advise.
Tứ:
1)
Bốn: Catur (skt)—Four.
2)
Tên của tâm sở (quán): Vicara (p & skt).
·
Ḍ xét: Investigation.
·
Cân nhắc: Deliberation.
·
Quan sát: xamination.
·
Suy xét: Consideration.
·
Tầm chân lư: Search for truth.
·
Tư duy biện luận: Discursive thinking.
Tứ A Hàm: Bốn
bộ kinh A Hàm—The Four Agamas or four divisions of the Hinayana
scriptures:
1)
Trường A Hàm: Dirghagamas (skt)—22 quyển, tập hợp những kinh văn
dài—Long work scriptures—Cosmological, 22 books.
2)
Trung A Hàm: Madhyamagamas (skt)—60 quyển, tập hợp kinh văn không
dài không ngắn—Middle Work—Metaphysical, 60 books.
3)
Tạp A Hàm: Samyuktagama (skt)—50 quyển, hổn hợp của các kinh A
Hàm khác—General on dhyana, trance, etc, 50 books.
4)
Tăng Nhứt A Hàm: Ekottarikagamas (skt)—51 quyển, sưu tập số của
pháp môn—Numerical Arranged Subjects, 51 books.
Tứ Ác: The four
evil directions—See Tứ Ác Thú or Tứ Thú.
Tứ Ác Đạo: The
four evil destinies—See Tứ Ác Thú.
Tứ Ác Thú:
Apaya (skt)—The four evil destinies:
1)
Địc Ngục: Hells.
2)
Ngạ Quỷ: Hungry ghosts.
3)
Súc Sanh: Animals.
4)
A Tu La: Asuras (which is sometimes evil sometimes good).
Tứ Ác Tỳ Kheo:
1)
Bốn vị Tỳ Kheo hung ác đă vứt bỏ giáo pháp của Phật Đại Trang
Nghiêm sau khi Ngài nhập Niết Bàn—The four wicked Bhiksus who threw over
the teaching of their Buddha, Ta-Chuang-Yen after his Nirvana.
2)
Bốn vị Tỳ Kheo không tuân giáo pháp, nhưng nhờ thanh tịnh lâu đời
nên được sanh làm bốn vị Phật ở bốn hướng (A Sấm, Bảo Tướng, Vô Lượng
Thọ, Vi Diệu Thanh)—Four disobedient bhiksus who through much purgation
ultimately became the Buddhas of the four points of the compass.
Tứ Ách: Four
yokes or fetters—See Tứ Ách Phược.
Tứ Ách Phược:
Theo Tương Ưng Bộ Kinh, Phẩm Tầm Cầu, có bốn Ách Phược—According to The
Connected Discourses of the Buddha, Chapter Esanavago (Searches), there
are four yokes or fetters:
1)
Dục Ách Phược: Tham dục—Yoke of Desire or sensuality.
2)
Hữu Ách Phược: Chấp hữu—Yoke of Possession or existence.
3)
Kiến Ách Phược: Tà kiến—Yoke of Unenlightened or non-Buddhist
views or wrong views.
4)
Vô Minh Ách Phược: Si mê—Yoke of Ignorance.
Tứ Ái Khởi: See
Tứ Ái Sanh.
Tứ Ái Sanh:
(A)
Bốn nguồn phát khởi sự tham ái—Four sources of affection:
1)
Ăn: Cho hay nhận thức ăn—The giving or receiving of Food.
2)
Mặc: Cho hay nhận quần áo—The giving or receiving of Clothing.
3)
Ở: Cho hay nhận chỗ ở—The giving or receiving of bedding.
4)
Quà: Cho hay nhận quà—The giving or receiving of gifts.
(B)
Theo Kinh Phúng Tụng trong trường Bộ Kinh, có bốn ái sanh—According
to the Sangiti Sutta in the Long Discourses of the Buddha, there are
four arousals of craving:
1)
Do nhơn y phục mà vị Tỳ Kheo khởi lên ḷng tham ái: Craving
arises in a monk because of robes.
2)
Do nhơn đồ ăn khất thực mà vị Tỳ Kheo khởi lên ḷng tham ái:
Craving arises in a monk because of alms.
3)
Do nhơn pḥng xá mà vị Tỳ Kheo khởi lên ḷng tham ái: Craving
arises in a monk because of lodging.
4)
Do nhơn hữu và phi hữu mà vị Tỳ Kheo khởi lên ḷng tham ái:
Craving arises in a monk because of being and non-being.
Tứ An Lạc: The
four means of happy contentment—See Tứ An Lạc Hành.
Tứ An Lạc Hành:
Theo Kinh Pháp Hoa, có bốn an lạc hạnh hay bốn phương cách để đạt được
hạnh phúc—According to The Lotus Sutra, there are four means of
attaining to a happy contentment:
1)
Thân An Lạc Hành: An lạc bằng những thiện nghiệp của thân—To
attain a happy contentment by proper direction of the deeds of the body.
2)
Khẩu An Lạc Hành: An lạc bằng những thiện nghiệp của khẩu—To
attain a happy contentment by the words of the mouth.
3)
Ư An Lạc Hành: An lạc bằng những thiện nghiệp của ư—To attain a
happy contentment by the thoughts of the mind.
4)
Thệ Nguyện An Lạc Hành: An lạc bằng cách giảng dạy kinh pháp—To
attain a happy contentment by the will to preach all sutras.
Tứ Ân: Bốn
trọng ân—Four Great Debts:
1)
Ân Tam Bảo: Nhờ Phật mở đạo mà ta rơ thấu được Kinh, Luật, Luận
và dễ bề tu học. Nhờ Pháp của Phật mà ta có thể tu tŕ giới định huệ và
chứng ngộ. Nhờ chư Tăng tiếp nối hoằng đạo, soi sáng cái đạo lư chân
thật của Đức Từ Phụ mà ta mới có cơ hội biết đến đạo lư—The debt to the
Triple Jewel (Buddha, Dharma, Sangha).
2)
Ân cha mẹ Thầy tổ: Nhờ cha mẹ sanh ta ra và nuôi nấng dạy dỗ nên
người; nhờ thầy tổ chỉ dạy giáo lư cho ta đi vào chánh đạo. Bổn phận ta
chẳng những phải cung kính, phụng sự những bậc nầy, mà c̣n cố công tu
hành cầu cho các vị ấy sớm được giải thoát—The debt to our parents and
teachers.
3)
Ân thiện hữu tri thức: Nhờ thiện hữu tri thức mà ta có nơi nương
tựa trên bước đường tu tập đầy chông gai khó khăn—The debt to our
spiritual friends.
4)
Ân chúng sanh: Ta thọ ơn chúng sanh rất lớn. Không có người thợ
mộc ta không có nhà để ở hay bàn ghế thường dùng; không có bác ông phu
ta lấy gạo đâu mà ăn để sống; không có người thợ dệt, ta lấy quần áo đâu
để che thân, vân vân. Ta phải luôn siêng năng làm việc và học đạo, mong
cầu cho nhứt thiết chúng sanh đều được giải thoát—The debt we owe all
sentient beings.
Tứ Ân Hiếu Nghĩa:
See Phật Giáo Ḥa Hảo (A).
Tứ Ba: See Tứ
Ba La Mật Bồ Tát.
Tứ Ba La Di: Tứ
Trọng—Tứ Khí—Tứ Cực Trọng Cảm Đọa Tội—See Tứ Đọa.
Tứ Ba La Mật:
The four paramitas—See Thường Lạc Ngă Tịnh.
Tứ Ba La Mật Bồ Tát:
Bốn vị nữ Bồ Tát thân cận của Đức Đại Nhật Như Lai ở Kim Cang Giới, đều
do Đức Đại Nhật Như Lai lưu xuất, mỗi vị là mẹ năng sinh của các vị Phật
ở bốn hướng—The four female attendants on Vairocana in the Vajradhatu,
evolved from him, each of them a mother of one of the four Buddhas of
the four quarters.
1)
Kim Cang Ba La Mật Bồ Tát: Vajra-Paramita Bodhisattva.
2)
Bảo Ba La Mật Bồ Tát: Ratna-Paramita Bodhisattva.
3)
Pháp Ba La Mật Bồ Tát: Dharma-Paramita Bodhisattva.
4)
Nghiệp Ba La Mật Bồ Tát: Karma-Paramita Bodhisattva.
** For more
information, please see Tứ Phật.
Tứ Bách: Bốn
trăm—Four hundred.
Tứ Bách Giới:
Theo Kinh Dược Sư, Bồ Tát có 400 giới luật—Bốn trăm giới—The four
hundred disciplinary laws of a Bodhisattva, referred to in the Medicine
Buddha (Bhaishajya-Guru) Sutra.
Tứ Bách Tứ Bệnh:
Theo Đại Trí Độ Luận, có bốn trăm lẽ bốn bệnh nơi thân—According to the
Sastra on the Prajna Sutra, there are four hundred and four ailments of
the body:
1)
Một trăm lẽ một bệnh sốt nóng gây ra bởi Địa Đại—One hundred one
fevers caused by the Earth element.
2)
Một trăm lẽ một bệnh sốt nóng gây ra bởi Hỏa Đại: One hundred
one fevers caused by the Fire element.
3)
Một trăm lẽ một bệnh rét (lạnh) gây ra bởi Thủy Đại: One hundred
one chills caused by the water element.
4)
Một trăm lẽ một bệnh rét (lạnh) gây ra bởi Phong Đại: One hundred
one chills caused by the Wind element.
Tứ Bảo: Four
treasures.
Tứ Bát: Bốn
b́nh bát bằng đá rất nặng được bốn vị trời dâng hiến cho Phật Thích Ca
và được ngài nhồi lại thành một một cách kỳ diệu và dùng như một b́nh
bát thường—The four heavy stone begging-bowls offered to Sakyamuni by
the four devas, which he miraculously combined into one as used as if
ordinary material.
Tứ Bát Tướng:
Ba mươi hai tướng tốt của Phật—The thirty-two marks of a Buddha—See Tam
Thập Nhị Hảo Tướng của Phật and Dvatrimshadvara-Lakshana.
Tứ Bất Hành Xứ Hạnh:
Agata-gamanani (p)—Theo Kinh Phúng Tụng trong Trường Bộ Kinh, có bốn bất
hành xứ hạnh (hành xử sai trái)—According to the Sangiti Sutta in he
Long Discourses of the Buddha, there are four ways of going wrong:
1)
Tham dục bất hành xứ hạnh: Chanda (p)—One goes wrong through
desire.
2)
Sân bất hành xứ hạnh: One goes wrong through hatred.
3)
Si bất hành xứ hạnh: One goes wrong through delusion.
4)
Bố úy bất hành xứ hạnh: One goes wrong through fear.
Tứ Bất Hoại Tín:
Bốn đức tin không hư hoại—The four objects of unfailing faith:
1)
Tin Phật: Believe in Buddha.
2)
Tin Pháp: Believe in the Dharma.
3)
Tin Tăng Believe in the Sangha.
4)
Tin nơi Giới Luật Phật: Believe in Moral precepts.
Tứ Bất Hoại Tịnh:
The four objects of unfailing purity—See Tứ Bất Hoại Tín.
Tứ Bất Khả Đắc:
Bốn điều không thể đạt được—The four unattainables:
1)
Thường Thiếu Bất Khả Đắc: Trẻ măi không già—Perpetual youth.
2)
Vô bệnh Bất Khả Đắc: Không ốm đau bịnh hoạn—No sickness.
3)
Trường Thọ Bất Khả Đắc: Sống lâu—Perennial life.
4)
Bất Tử Bất Khả Đắc: Không chết—No death.
Tứ Bất Khả Khinh:
Theo Kinh A Hàm, có bốn thứ chẳng thể khinh thường—According to the
Agama Sutra, there are four things that may not be treated lightly:
1)
Thái tử tuy c̣n nhỏ, nhưng tương lai sẽ làm quốc vương, nên chẳng
thể khinh thường: A prince though young now, but he may become a king in
the future, so not to treat him lightly.
2)
Rắn tuy nhỏ, nhưng nọc độc có thể làm chết người, nên không thể
khinh thường: A snake though small, but its venom can kill people, so
not to treat it lightly.
3)
Tia lửa tuy nhỏ, nhưng có thể đốt cháy núi rừng đồng cỏ lớn, nên
không thể khinh thường: A fire though tiny, but it may be able to
destroy a big forest or meadow, so not to treat it lightly.
4)
Sa Di tuy nhỏ, nhưng có thể thành bậc Thánh, nên không thể khinh
thường: A novice though a beginner, but he may become an arhat, so not
to treat him lightly.
Tứ Bất Khả Kư Phụ:
Bốn thứ không c̣n được giao phó cho điều ǵ nữa cả—The four to whom one
does not entrust valuables:
1)
Người Già: The old.
2)
Cái Chết Gần Kề: Death is near.
3)
Xa xôi: The distant, lest one has immediate need of them.
4)
Quỷ quái: The evil, or the strong; lest the temptation be too
strong for the last two.
Tứ Bất Khả Tư Ngh́:
Four inconceivables.
(A)
Trong Kinh Tăng Nhứt A Hàm, có bốn điều không thể nghĩ bàn nơi
chư Phật—In the Ekottaragama, there are four indescribables—The four
things of a Buddha which are beyond human conception:
1)
Thế giới bất khả tư ngh́: The world—The Buddha’s world is beyond
human conception.
2)
Chúng sanh bất khả tư ngh́: The living beings—His teaching about
living beings’ circumstances is beyond human conception.
3)
Thiên long bất khả tư ngh́: Dragons or Nagas—His nagas are beyond
human conception.
4)
Phật độ cảnh giới bất khả tư ngh́: The size of the
Buddha-lands—The bound of his Buddha realm is beyond human conception.
(B)
Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, ngài Quán Thế Âm Bồ Tát đă bạch với
Đức Thế Tôn về bốn thứ bất tư ngh́: “Bạch Thế Tôn! Ngoài mười bốn thứ vô
úy, tu chứng vô thượng đạo, lại có thể được bốn bất khả tư ngh́, vô tác
diệu đức.”—In the Surangama Sutra, Avalokitesvara Bodhisattva reported
to the Buddha about the four inconceivables: “World Honored One! Because
I obtained perfect penetration and cultivated to certification of the
unsurpassed path, I also became endowed with four inconceivable and and
effortless wonderful virtues.”
1)
Một là do tôi trước được diệu văn tâm, tâm linh thoát bỏ văn căn,
kiến văn giác tri không thể phân cách, thành một viên dung thanh tịnh
bảo giác, cho nên tôi có thể hiện ra nhiều diệu dụng, có thể nói vô biên
bí mật thần chú; trong đó hoặc hiện một cho đến tám vạn bốn ngàn đầu,
tay, mắt, hoặc từ hoặc uy, hoặc định, hoặc tuệ để cứu hộ chúng sanh được
tự tại: First, as soon as I obtained the miraculous wonder of hearing
the mind, the mind became essential and the hearing was forgotten;
therefore, there was no distinction between seeing, hearing, sensation,
and knowing. I achieved a single, perfect fusion, pure precious
enlightenment. For this reason, I am able to manifest many wonderful
appearances and can proclaim boundless secret spiritual mantras. For
example, I may take appear one head, three heads, five heads, seven
heads, nine heads, eleven heads, and so forth, until there may be a
hundred and eight heads, a thousand heads, ten thousand heads, or
eighty-four thousand vajra heads; two arms, four arms, six arms, eight
arms, ten arms, twelve arms, fourteen, sixteen, eighteen arms, or twenty
arms, twenty-four arms, and so forth until there may be a hundred and
eight arms, a thousand arms, ten thousand arms, or eighty-four thousand
mudra arms; two eyes, three eyes, four eyes, nine eyes, and so forth
until there may be a hundred and eight eyes, a thousand eyes, ten
thousand eyes, or eighty-four thousand pure and precious eyes, sometimes
compassionate, sometimes awesome, sometimes in samadhi, sometimes
displaying wisdom to rescue and protect living beings so that they may
attain great self-mastery.
2)
Hai là bởi tôi tu tập văn tư, thoát khỏi sáu trần, như cái tiếng
vượt qua tường, chẳng bị ngăn ngại, nên tôi thần diệu có thể hiện mỗi
mỗi h́nh, tụng mỗi mỗi chú, h́nh và chú có thể lấy vô úy ban cho các
chúng sanh. Cho nên mười phương quốc độ nhiều như bụi nhỏ đều gọi tên
tôi là Thí Vô Úy: Second, because of hearing and consideration, I escape
the six defiling objects, just as a sound leaps over a wall without
hindrance. And so I have the wonderful ability to manifest shape after
shape and to recite mantra upon mantra. These shapes and these mantras
dispel the fears of living beings. Therefore, throughout the ten
directions, in as many lands as there are fine motes of dust, I am
known as one who bestows fearlessness.
3)
Ba là bởi tôi tu tập bản diệu viên thông, thanh tịnh bản căn, nên
đi chơi các thế giới, đều khiến chúng sanh bỏ trân bảo của ḿnh, cầu tôi
thương xót: Third, because I cultivated fundamental, wonderful, perfect
penetration and purified the sense-organ, everywhere I go in any world I
can make it so that living beings renounce their physical and material
valuables and seek my sympathy.
4)
Bốn là tôi được Phật tâm, chứng quả hoàn toàn, có thể lấy các
trân bảo đem cúng dường mười phương Như Lai, và giúp chúng sanh trong
lục đạo, khắp pháp giới cầu vợ được vợ, cầu con được con, cầu tam muội
được tam muội, cầu sống lâu được sống lâu, như vậy cho đến cầu đại Niết
Bàn được đại Niết Bàn: Fourth, I obtained the Buddhas’ mind and was
certified as having attained the ultimate end, and so I can make
offerings of rare treasures to the Thus Come Ones of the ten directions
and to living beings in the six paths throughout the dharma realm. If
they seek a spouse, they obtain a spouse. If they seek children, they
can have children. Seeking samadhi, they obtain samadhi; seekin long
life, they obtain long life, and so forth to the extent that if they
seek the great Nirvana, they obtain great Nirvana.
Tứ Bất Kiến:
Bốn điều không thể thấy được—The four invisibles:
1)
Cá không thể thấy nước: water to fish.
2)
Người không thấy không khí hay gió: Air or wind to man.
3)
Kẻ mê muội mờ mịt không thể thấy được thực chất của vạn pháp: The
nature of things to the deluded.
4)
Người giác ngộ không thể thấy được cái không v́ nhân tố của chính
người ấy và tánh không đă vượt ra ngoài ư niệm: The void to the
enlightened, because he is in his own element, and the void is beyond
conception.
Tứ Bất Sinh:
Four “not-born.”
1)
Bất Khả Tự Sinh: Pháp chẳng tự thân mà sanh ra—A thing is not
born or not produced of itself.
2)
Bất Khả Tha Sinh: Pháp chẳng do tha nhân mà sanh ra—A thing is
not produced of another or of a cause without itself.
3)
Bất Khả Bất Sinh: Bất Cộng Sanh—Pháp chẳng do cộng nhân tự tha mà
sanh—A thing is not “not self-born” when it is time to produce the fruit
of karma (of both 1 & 2).
4)
Bất Khả Bất Hạ Sinh: Pháp chẳng do vô nhân mà sanh ra, một khi
nghiệp nhân đủ đầy là chồi đâm trái trổ—A thing is not “not born” when
it is time to produce the fruit of karma (of no cause).
Tứ Bất Thành:
Bốn thứ bất thành trong ba mươi ba lỗi của nhân minh—Four forms of
asiddha or incomplete statement, part of the thirty-three fallacies in
logic.
Tứ Bất Thối:
Theo Tịnh Độ Tông, có bốn thứ bất thối—According to the Pure-Land sect,
there are four kinds of Non-backslidings:
1)
Từ (1) đến (3), xin xem Tam Bất Thối: From (1) to (3), please
see Tam Bất Thối.
4) Không thối chuyển từ nơi thanh tịnh đă đạt được: Never receding from
place or abode attained.
Tứ Bệnh: Bốn
bệnh được nói đến trong Kinh Viên Giác—The four ailments, or mistaken
ways of seeking perfection, mentioned in The Complete Enlightenment
Sutra:
1)
Tác Bệnh: sanh tâm tạo tác (hay tu hành để cầu viên giác là tác
bệnh v́ tánh viên giác chẳng phải do tạo tác mà được)—Works or effort
(for the purpose to seek perfection is an ailment).
2)
Nhiệm Bệnh: Tùy duyên nhiệm tính (phó mặc cho sanh tử để cầu viên
giác th́ gọi là nhiệm bệnh v́ viên giác chẳng phải do tùy duyên)—Laissez-faire.
3)
Chỉ Bệnh: Chỉ vọng tức chân (tịch niệm để cầu viên giác là chỉ
bệnh, v́ viên giác chẳng phải do chỉ niệm mà được)—Cessation of all
mental operation.
4)
Diệt Bệnh: Diệt phiền năo nơi thân tâm để cầu viên giác gọi là
diệt bệnh, v́ tánh viên giác chẳng phải do tịch diệt mà được)—Anniilation
of all desire.
Tứ Biên Tội:
Bốn tội nặng mà khi phạm phải Tăng Ni sẽ vĩnh viễn bị khai trừ khỏi giáo
đoàn (trở thành người ở bên ngoài Phật Pháp)—Four serious sins of
expulsion from the order.
1)
Dâm Dục: Committing sexual intercourse.
2)
Sát Sanh: Killing.
3)
Trộm Cắp: Stealing.
4)
Vọng Ngữ: Lying.
Tứ Biện Tài Vô Ngại:
See Tứ Vô Ngại in Vietnamese-English Section.
Tứ Binh:
Catur-angabalakaya (skt)—The four divisions of a cakravarti’s troops:
1)
Tượng Binh: Hastikaya (skt)—Elephants.
2)
Kỵ Binh (Mă Binh): Asvakaya (skt)—Horses.
3)
Xa Binh (Thiết Giáp Binh): Rathakaya (skt)—Chariot.
4)
Bộ Binh: Pattikaya (skt)—Foot.
Tứ B́nh Đẳng: A
fourfold sameness—Trong Kinh Lăng Già, Đức Phật dạy: “Ta nói trong chúng
hội giáo lư thâm mật về bốn b́nh đẳng rằng xưa kia Ta đă từng là Đức
Phật Câu Lưu Tôn, Câu Na Hàm Mâu Ni, hay Ca Diếp.” Bốn loại b́nh đẳng
đối với những ai tu tập đời sống phạm hạnh—According to The Lankavatara
Sutra, the Buddha taught: “We talk of this in the assembly because of
the secret teaching of fourfold sameness, that I was in ancient days the
Buddha Krakucchanda, Kanakamuni, or Kasyapa.” Four sorts of sameness for
those who disicpline themselves in religious life.
1)
Danh Tự B́nh Đẳng—B́nh đẳng về chữ nghĩa là danh hiệu Phật được
nêu như nhau cho hết thảy chư Như Lai, không có sự phân biệt nào trong
chư vị trong phạm vi của chữ PHẬT: By “sameness in letters” is meant
that the title Budha is equally given to all Tathagatas, no distinction
being made among them as far as these letter BUDDHA go.
2)
Ngôn Từ B́nh Đẳng—B́nh đẳng về ngôn từ nghĩa là tất cả chư Như
Lai đều nói sáu mươi bốn âm giai hay âm thanh khác nhau mà ngôn ngữ của
Phạm Thiên phát âm, và nghĩa là ngôn ngữ của chư Như Lai nghe ra giống
như âm giai của loài chim Ca Lăng Tần Già: By “sameness in words” is
meant that all the Tathagatas speak in sixty-four different notes or
sounds with the language of Brahma is pronounced, and that their
language sounding like the notes of Kalavinka bird is common to all the
Tathagatas.
3)
Nghĩa B́nh Đẳng—B́nh đẳng về thân nghĩa là tất cả các Đức Như Lai
đều không khác biệt khi được xét về Pháp Thân (Dharmakaya), về đặc trưng
thuộc về thân thể hay sắc tướng (rupalakshana), và các nét cao đẹp phụ
hay hảo tướng. Tuy vậy, chư Như Lai khác nhau khi được nh́n bởi chúng
sanh khác nhau mà chư vị đang điều ngự dạy bảo: By “sameness in body”
is meant that all the Tathagatas show no distinction as far as their
Dharmakaya, their corporal features (rupalakshana) and their secondary
marks of excellentce are concerned. They differ, however, when they are
seen by a variety of beings whom they have the special design to control
and discipline.
4)
Pháp B́nh Đẳng—B́nh đẳng về chân lư có nghĩa là tất cả chư Như
Lai đều đạt cùng một sự thể chứng nhờ vào ba mươi bảy phần chứng ngộ: By
“sameness in the truth” is meant that all Tathagatas attain to the same
realization by means of the thirty-seven divisions of enlightenment.
Tứ B́nh Gia:
Bốn vị đại học giả trong số năm trăm vị A La Hán, những người đă viết ra
bộ Luận Vi Diệu Pháp—The four great scholars among the 500 arhats who
made the Vibhasa-sastra, a critical commentary on the Abhidharma. Their
names are:
1)
Thế Hữu: Vasumitra.
2)
Diệu Âm: Ghosa.
3)
Pháp Cứu: Dharmatrata.
4)
Giác Thiên: Buddhadeva.
Tứ Bố Thí: Bốn
loại bố thí—Four kinds of dana or charity:
1)
Bút Thí: Thấy ai phát tâm sao chép kinh điển liền phát tâm Bố Thí
viết để giúp duyên cho họ chép kinh—Giving of pens to write the sutras.
2)
Mặc Thí: Thấy người viết kinh liền Bố Thí Mực để giúp thiện
duyên—Giving of ink.
3)
Kinh Thí: Bố Thí Kinh để người có phương tiện đọc tụng—Giving of
the sutras themselves.
4)
Thuyết Pháp Thí: Bố Thí bằng cách Thuyết pháp cho người nghe để
người tu hành giải thoát—Preaching the sutras for sentient beings so
that they can cultivate to liberate themselves.
Tứ Bồ Tát: Bốn
vị Bồ Tát—The four Bodhisattvas:
1)
Quán Thế Âm Bồ Tát: Avalokitesvara.
2)
Di Lặc Bồ Tát: Maitreya.
3)
Phổ Hiền Bồ Tát: Samantabhadra.
4)
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát: Manjusri.
Tứ Bộ: Bốn quả
Thánh (Tu Đà Hườn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán)—The four classes (srota-apanna,
sakrdagamin, anagamin, and arhat)—See Tứ Đạo and Tứ Thánh Quả.
Tứ Bộ Chúng:
See Tứ Chúng.
Tứ Bộ Đệ Tử:
Four classes of disciples—See Tứ Chúng.
Tứ Bộ Kinh: Bốn
bộ kinh—Từ Ân Đại Sư lấy bốn bộ kinh làm bản kinh của Tịnh Độ—The four
sutras of the Pure Land, according to Tz’u-Ên:
1)
Vô Lượng Thọ Kinh: The Infinite Life Sutra.
2)
Quán Vô Lượng Thọ Kinh: The Contemplation on the Infinite Life
Sutra.
3)
A Di Đà Kinh: Amitabha Sutra.
4)
Cổ Âm Thanh Đà La Ni Kinh: The Drum Sound Dharani Sutra.
Tứ Bộ Luật: See
Tứ Luật Ngũ Luận.
Tứ Bộ Tăng: See
Tứ Chúng.
Tứ Bộ Thần:
Four kinds of Deities.
Tứ Bộc Lưu:
Four floods—Theo Kinh Phúng Tụng trong Trường Bộ Kinh, có bốn bộc lưu (lũ
lụt)—According to the Sangiti Sutta in the Long Discourses of the
Buddha, there are four floods:
1)
Dục Bôc Lưu: Flood of sensuality.
2)
Hữu Bộc Lưu: Flood of becoming or existence.
3)
Tà Kiến Bộc Lưu: Flood of wrong views.
4)
Vô Minh Bộc Lưu: Flood of ignorance.
Tứ Bối:
(A)
Tứ Chúng—Bốn hạng đệ tử của Phật—The four kinds of disciples—See
Tứ Chúng.
(B)
1)
Nhân: Người—Men.
2)
Thiên: Trời—Devas.
3)
Long: Rồng—Nagas.
4)
Quỷ: Ghosts.
Tứ Bổn Chỉ Quán:
Bốn quyển kinh nói về thiền quán của tông Thiên Thai—The four books of
T’ien-T’ai on meditation:
1)
Ma Ha Chỉ Quán: Maha-samadhi.
2)
Thiền Ba La Mật: Dhyana-paramita.
3)
Lục Diệu Môn: Six Wonderful Gates to Meditation.
4)
Tọa Thiền Chỉ Yếu: Guidelines for Meditation.
Tứ Bổn Tướng:
Bốn tướng căn bản—The four fundamental states:
1)
Sinh: Birth.
2)
Trụ: Stay.
3)
Dị: Change.
4)
Diệt: Extinction.
Tứ Cá Đại Thừa:
Bốn tông phái Đại Thừa—The four Mahayanas—The four Great Schools:
(A)
1)
Hoa Nghiêm: Hua-Yen or Avatamsaka.
2)
Thiên Thai: T’ien-T’ai.
3)
Chân Ngôn: Shingon—Esoteric—Chên-Yen.
4)
Thiền: Zen—Ch’an—Intuitive School.
(B)
1)
Pháp Tướng: Mahayana-Dharmalaksana School.
2)
Tam Luận: Madhyamika School of Nagarjuna.
3)
Thiên Thai: T’ien-T’ai.
4)
Hoa nghiêm: Hua-Yen or Avatamsaka.
Tứ Căn Bổn Tánh:
See Tứ Trụy Lạc Pháp.
Tứ Căn Bổn Tội:
See Tứ trụy Lạc Pháp.
Tứ Chánh Cần:
Catvari-Samyakprahanani (skt)—Sammappadhana (p)—Tứ Ư Đoạn—Tứ Chánh Đoạn—Bốn
phép siêng năng diệt trừ tội ác và phát triển điều thiện—Four right
(great) efforts (exertions)—Right effort of four kinds of restrain, or
four essentials to be practiced vigilantly:
1)
Tinh tấn phát triển những điều thiện lành chưa phát sanh—Endeavor
to start performing good deeds: Điều thiện chưa sanh, phải tinh cần làm
cho sanh. Ở đây vị Tỳ Kheo khởi lên ư muốn, cố gắng, tinh tấn, sách tâm,
tŕ tâm với mục đích khiến cho các thiện pháp từ trước chưa sanh nay cho
sanh khởi—Effort to initiate virtues not yet arisen—Bringing forth
goodness not yet brought forth (bring good into existence)—To produce
merit—To induce the doing of good deeds. Here a monk rouses his will,
makes an effort, stirs up energy, exerts his mind and strives to produce
unarisen wholesome mental states.
2)
Tinh tấn tiếp tục phát triển những điều thiện lành đă phát sanh—Endeavor
to perform more good deeds: Điều thiện đă sanh, phải tinh cần khiến cho
ngày càng phát triển. Ở đây vị Tỳ Kheo khởi lên ư muốn, cố gắng, tinh
tấn, sách tâm, tŕ tâm với mục đích khiến cho các thiện pháp đă sanh có
thể được tăng trưởng, được quảng đại viên măn—Effort to consolidate,
increase, and not deteriorate virtues already arisen—Developing goodness
that has already arisen (develop existing good)—To increase merit when
it was already produced—To encourage the growth and continuance of good
deeds that have already started. Here a monk rouses his will, makes an
effort, stirs up energy, exerts his mind and strives to maintain
wholesome mental states that have arisen, not to let them fade away, to
bring them to greater growth, to the full perfection of development.
3)
Tinh tấn ngăn ngừa những điều ác chưa phát sanh—Endeavor to
prevent evil from forming: Điều dữ chưa sanh, phải tinh cần làm cho đừng
sanh. Ở đây vị Tỳ Kheo khởi lên ư muốn, cố gắng, tinh tấn, sách tâm, tŕ
tâm với mục đích khiến cho các ác pháp từ trước chưa sanh không cho sanh—Effort
not to initiate sins not yet arisen—Preventing evil that hasn’t arisen
from arising (to prevent any evil from starting or arising)—To prevent
demerit from arising. Here a monk rouses his will, makes an effort,
stirs up energy, exerts his mind and strives to prevent the arising of
unarisen evil unwholesome mental states.
4)
Tinh tấn dứt trừ những điều ác đă phát sanh—Endeavor to eliminate
already-formed evil: Điều dữ đă sanh, phải tinh cần dứt trừ đi. Ở đây vị
Tỳ Kheo khởi lên ư muốn, cố gắng, tinh tấn, sách tâm, tŕ tâm với mục
đích khiến cho các ác pháp đă sanh được diệt trừ—Effort to eliminate
sins already arisen—Putting an end to existing evil—To abandon demerit
when it arises—To remove any evil as soon as it starts. Here a monk
rouses his will, makes an effort, stirs up energy, exerts his mind and
strives to overcome evil unwholesome mental states that have arisen.
Tứ Chánh Đoạn:
See Tứ Chánh Cần in Vietnamese-English Section.
Tứ Chân Đế: See
Tứ Diệu Đế and Tứ Thánh Đế.
Tứ Chấp: Bốn
thứ câu chấp—The four erroneous tenets:
(A)
Bốn thứ câu chấp của ngoại đạo—The four tenets of the outsiders
or non-Buddhists:
1)
Tà Nhân Tà Quả: Ngoại đạo nói rằng tứ đại tại thiên, thiên sanh
ra vạn vật—Heretical (dị giáo) theory of causation—Creation by a
Creator.
2)
Vô Nhân Hữu Quả: Chấp muôn vật không nhân, tự nhiên mà có (không
có nhân mà có quả)—Effect independent of cause—Creation without a cause,
or spontaneous generation.
3)
Hữu Nhân Vô Quả: Đoạn kiến cho rằng chỉ có hiện tại, chứ không có
đời sau, không có hậu quả ǵ trong tương lai đối với việc làm hiện tại—Cause
without effect—No future consequences as a result of past or current
karma.
4)
Vô Nhân Vô Quả: Tà kiến phủ nhận hết thảy nhân quả, cho rằng
không có nghiệp nhân thiện ác có thể thụ quả sướng khổ—Neither cause nor
effect—Rewards and punishments are independent of morals.
(B)
Bốn loại chấp mà Ngài Long Thọ đă luận—Four-phased system
elucidated by Master Nagarjuna:
1)
Chấp Hữu (chấp có): Attachment to existence.
2)
Chấp Vô (chấp không): Attachment to non-existence.
3)
Chấp Diệc Hữu Diệc Không (chấp có cả hai): Attachment to both
existence and non-existence.
4)
Chấp Phi Hữu Phi Không (chấp không có cả hai): Attachment to
neither.
(C)
Bốn thứ chấp trước cho cả nội lẫn ngoại đạo, Phật tử lẫn Bà La
Môn—The four erroneoustenets of the insiders and outsiders, Buddhists
and Brahman:
1)
Ngoại đạo chấp chẳng lư nhị không: Outsiders who do not accept
either the cause nor the dharma ideas of void.
2)
Nội đạo chấp giữ vào A Tỳ Đạt Ma Luận mà thừa nhận rằng có nhân
không, nhưng không có pháp không (đă chứng lư vô ngă nhưng c̣n chấp vào
pháp hữu tính): Insiders who hold the Abhidharma or Sarvastivadah tenet,
which recognizes human impersonality, but not the unreality of things.
3)
Thành Thực Tông lại phân biệt hai nghĩa của ‘không’ nhưng lại
phân biệt không rơ ràng: Those who hold the Satyasiddhi tenet which
discriminates the two meanings of ‘void’ but not clearly.
4)
Đại Thừa lại chấp vào cứu cánh thực tế—Those in Mahayana who hold
the tenet of the ‘realists.’
Tứ Chấp Kim Cang:
Bốn vị Kim Cang Chủ của tứ đại—The four Vajra-rulers of the four
elements:
1)
Địa Kim Cang Chủ ở về phía Đông Nam: The Earth Vajra-ruler, of
the Southeast.
2)
Thủy Kim Cang Chủ ở về phía Tây Nam: The Water Vajra-ruler, of
the Southwest.
3)
Hỏa Kim Cang Chủ ở về phía Tây Bắc: The Fire Vajra-ruler, of the
Northwest.
4)
Phong Kim Cang Chủ ở về phía Đông Bắc: The Wind Vajra-ruler, of
the Northeast.
Tứ Chấp Kim Cang
Thần: See Tứ Chấp Kim Cang.
Tứ Chấp Thủ:
Theo Tương Ưng Bộ Kinh, Phẩm Tầm Cầu, có bốn loại Chấp Thủ—According to
The Connected Discourses of the Buddha, Chapter Esanavaggo (Searches),
there are four kinds of clinging:
1)
Dục Chấp Thủ: Clinging to sensual pleasure.
2)
Kiến Chấp Thủ: Clinging to views.
3)
Giới Cấm Chấp Thủ: Clinging to rules and vows.
4)
Ngă Luận Chấp Thủ: Clinging to a doctrine of self.
Tứ Châu:
Catur-dvipa (skt)—Theo khoa cổ vũ trụ học Phật Giáo, có bốn châu trong
thế giới Ta Bà, tứ hướng xung quanh núi Tu Di—Four Saha Continents or
four great continents of a world—According to ancient Buddhist
cosmology, there are four inhabited continens of every universe. They
are land areas and situated in the four directions around Mount Sumeru:
1)
Bắc Cu Lô (Câu Lư) Châu: Uttarakuru (skt)—C̣n gọi là Uất Đan Việt
Châu—The Northern of the four continents of a world—See Uttarakuru in
Sanskrit/Pali-Vietnamese Section.
2)
Nam Thiệm Bộ Châu: Jambudvipa (skt)—C̣n gọi là Châu Diêm Phù Đề—The
Southern continent—See Jambudvipa in Sanskrit/Pali-Vietnamese Section,
and Nam Thiệm Bộ Châu in Vietnamese-English Section.
3)
Tây Ngưu Hóa Châu: Godana, Aparagodana, or Avaragodanuyah (skt)—C̣n
gọi là Cồ Da Ni. Tây Ngưu Hóa Châu hay Tây Lục Địa, nơi mà trâu ḅ sinh
sản rất đông và được dùng như tiền tệ; lục địa có h́nh tṛn và dân trên
đó cũng có gương mặt h́nh tṛn (ở cơi nầy dân sống thọ đến 500 tuổi)—West
Continent, where oxen are used as money; the western of the four
continents of every world, circular in shape and with circular-faced
people.
4)
Đông Thắng Thần Châu: Purva-Videha (skt)—C̣n gọi là Bổ La Phược
Vĩ Nễ Hạ, Phất Bà Đề, hay Phất Vu Đại, một trong bốn đại châu, châu nầy
ở trong biển Hàm Hải, về phía đông núi Tu Di, h́nh bán nguyệt. Lục địa
chế ngự ma quỷ, có h́nh bán nguyệt, dân trên đó cũng có khuôn mặt h́nh
bán nguyệt (chu vi của cơi nầy là 21.000 do tuần, dân trong cơi nầy có
thân h́nh tốt đẹp hơn hết, và sống thọ đến 600 tuổi)—East—The eastern of
the four great continents of a world, east of Mount Meru, semicircular
in shape. The continent conquering spirits, semi-lunar in shape; its
people having faces of similar shape.
Tứ Chi: The
four limbs:
1)
Đầu: Head.
2)
Ḿnh: Trunk (body).
3)
Tay: Arms.
4)
Chân: Legs.
Tứ Chiếng:
Everywhere.
Tứ Chủ: Bốn vị
chúa tể của thế giới mà phạm vi trải từ Đông, Nam, Tây, sang đến Bắc của
dăy Hy mă Lạp Sơn—The four Lords of the world, whose domain were
supposed to stretch from East, South, West, to North of the Himalayas:
1)
Đông Phương Nhân Chủ: The Lord of men in the East.
2)
Nam Phương Tượng Chủ: The Lord of elephants in the South, the
southern division of India.
3)
Tây Phương Báu Chủ: The Lord of jewels or precious things in the
West.
4)
Bắc Phương Mă Chủ: The Lord of horses in the North.
Tứ Chúng: Varga
(skt)—Fourfold disciples (assemblies—groups—orders)—The assembly of
monks, nuns, laymen and laywomen:
(A)
Tứ Chúng Tăng Già—The fourfold Assembly in the order:
1)
Tỳ Kheo: Bhiksu (skt)—Monk—See Tỳ Kheo.
2)
Tỳ Kheo Ni: Bhiksuni (skt)—Nuns—See Tỳ Kheo Ni.
3)
Ưu Bà Tắc: Upasaka—Laymen—Male devotees—See Ưu Bà Tắc.
4)
Ưu Bà Di: Upasika—Lay women—Female devotees—See Ưu Bà Di.
(B)
Tứ Chúng theo tông Thiên Thai—The fourfold assembly, according to
the T’ien-T’ai sect:
1)
Phát Khởi Chúng: Chúng hội mà Ngài Xá Lợi Phật đă ba lần cung
thỉnh khiến cho Đức Thế Tôn khởi thuyết Kinh Pháp Hoa—The assembly
which, Sariputra stirred the Buddha to begin his Lotus Sutra sermons.
2)
Đương Cơ Chúng: Chúng hội nghe hiểu Pháp Hoa, tự ḿnh thọ nhận và
hành tŕ những ǵ Phật dạy trong đó—The pivotal assembly, those who were
responsive to him. Those hearers of the Lotus who were adaptable to its
teaching, and received it.
3)
Ảnh Hưởng Chúng: The reflection assembly, those like Manjusri,
who reflected on or drew out the Buddha’s teaching.
4)
Kết Duyên Chúng: Những chúng sanh kết duyên được thấy và nghe
Phật thuyết pháp, nên nhân duyên chứng ngộ của họ sẽ được về đời sau nầy—Those
who only profited in having seen and heard a Buddha, and therefore whose
enlightenment is delayed to a future life.
(C)
Tứ Chúng Xuất Gia—The fourfold assembly of a monastery:
1)
Tỳ Kheo: Bhiksu (skt)—Monk—See Tỳ Kheo.
2)
Tỳ Kheo Ni: Bhiksuni (skt)—Nun—See Tỳ Kheo Ni.
3)
Sa Di: Sramanera (skt)—A novice monk—See Sa Di.
4)
Sa Di Ni: Sramanerika (skt)—A novice nun—See Sa Di Ni.
Tứ Chủng A Tu La:
Theo Giáo Sư Soothill trong Trung Anh Phật Học Từ Điển, và theo Kinh Thủ
Lăng Nghiêm, quyển Chín, có bốn loại A Tu La—According to Professor
Soothill in The Dictionary of Chinese-English Buddhist Terms, and
according to the Surangama Sutra, book Nine, there are four kinds of
asura.
1)
Noản Sanh A Tu La: Egg-born asuras or ghosts—Thứ nương quỷ đạo,
dùng sức hộ pháp, thừa thần thông mà vào hư không. A Tu La đó do trứng
sanh ra, thuộc về quỷ thú—Those in the path of ghosts who use their
strength to protect the dharma and who can ride their apiritual
penetrations to enter into emptiness are asuras born from eggs; they
belong to the destiny of ghosts.
2)
Thai Sanh A Tu La: Womb-born asuras—Thứ ở cơi trời, mất đức bị
đọa vào chỗ gần mặt trời, mặt trăng. A Tu La đó do thai sinh ra, thuộc
về loài người—Those who have fallen in virtue and have been dismissed
from the heavens dwell in places near the sun and moon. They are asuras
born from wombs and belong to the destiny of humans.
3)
Hóa Sanh A Tu La: Transformation-born asuras—Thứ A Tu La vương
ǵn giữ thế giới, sức mạnh không kinh sợ, hay tranh quyền với Phạm Vương,
Trời Đế Thích và Tứ Thiên Vương. A Tu La đó do biến hóa sinh ra, thuộc
về cơi Trời—There are Asura kings who uphold the world with a
penetrating power and fearlessness. They fight for position with the
Brahma Lord, the god Sakra, and the four heavenly kings. These Asuras
come into being by transformation and belong to the destiny of gods.
4)
Thủy Sanh A Tu La: Water-born asuras—Thứ A Tu La ở đáy biển, dưới
hang nước. A Tu La đó do thấp khí sinh, thuộc về súc sanh thú—There is
another baser category of asura. They have thoughts of the great seas
and live submerged in underwater caves. During the day they roam in
emptiness; at night they return to their watery realm. These Asuras come
into being because of moisture and belong to the destiny of animals.
** For more
information, please see A Tu La.
Tứ Chủng Âm Thanh
Quảng Đại Của Đức Như Lai: Theo Kinh Hoa Nghiêm, Phẩm Như Lai Xuất
Hiện (37), âm thanh của Đức Như Lai không chủ không làm, không có phân
biệt, chẳng phải nhập chẳng phải xuất, chỉ từ pháp lực công đức của Như
Lai mà phát sanh bốn thứ âm thanh quảng đại—According to The Flower
Adornment Scripture, Chapter Manifestation of Buddha (37),The voice of
Buddha is without master or maker, without discrimination, not entering,
not emerging, yet producing four great voices from the power of the
virtuous qualities of Buddha.
1)
Âm thanh quảng đại thứ nhất nói, “Đại chúng nên biết tất cả hành
pháp đều là khổ. Những là địa ngục khổ, súc sanh khổ, ngạ quỷ khổ, không
phước đức là khổ, chấp ngă và ngă sở là khổ (chấp cái tôi và cái của tôi),
tạo những ác hạnh là khổ. Muốn sanh lên cơi trời hay nhơn gian phải gieo
căn lành, sanh trong nhơn thiên rời khỏi các chỗ nạn.” Chúng sanh nghe
xong bỏ ĺa điên đảo tu những hạnh lành, rời khỏi những chỗ nạn mà sanh
lên cơi nhơn thiên: The first great voice says, “You all should know
that all conditioned states are miserable. There is the misery of hells,
the misery of animality, the misery of hungry ghosthood, the misery of
lack of virtue, the misery of clinging to self and possessions, the
misery of evildoing. If you want to be born human or divine, you should
plant roots of goodness. Born in the human world or in a heaven, you
will leave all situations in which enlightenment is difficult.” Sentient
beings, having heard this, give up error and perversity, practice good
actions, leave all difficulties behind, and are born in the human world
or in heaven.
2)
Âm thanh quảng đại thứ hai nói, “Đại chúng nên biết tất cả hành
pháp tràn đầy những khổ như ḥn sắt nóng, hành pháp vô thường, là pháp
diệt mất. Niết Bàn tịch tịnh vô vi an lạc ĺa xa khốn khổ, tiêu sạch
nhiệt năo.” Chúng sanh nghe xong siêng tu pháp lành, nơi Thanh Văn thừa
được tùy thuận âm thanh nhẫn: The second great voice says, “You should
know that the myriad pains of all conditioned states are as searing as
balls hot iron. Conditioned states are impermanent and pass away.
Nirvana is tranquil, unfabricated well-being, beyond all burning,
extinguishing all inflaming afflictions.” Having heard this, sentient
beings diligently practice good principles, and in the vehicle of
listeners to Buddha’s voice attain the tolerance of conformity to the
message.
3)
Âm thanh quảng đại thứ ba nói, “Đại chúng nên biết Thanh Văn thừa
do lời người khác mà được tỏ ngộ, trí huệ hẹp kém. Lại có Độc Giác thừa
tỏ ngộ chẳng do thầy, đại chúng nên học.” Những người thích thắng đạo
nghe lời nầy xong liền bỏ Thanh Văn thừa mà tu Độc Giác thừa: The third
great voice says, “You should know that those in the vehicle of
listeners follow the words of others to understand; their knowledge and
wisdom is narrow and inferior. There is a higher vehicle called the
vehicle of the individually awakened, whose enlightenment does not
depend on a teacher. You should learn it.” Those inclined to a superior
path, having heard this voice, give up the path of listeners and
cultivate the vehicle of the individually awakened.
4)
Âm thanh quảng đại thứ tư nói, “Đại chúng nên biết hơn hàng nhị
thừa c̣n có thắng đạo gọi là Đại thừa, là chỗ tu hành của Bồ Tát thuận
sáu môn Ba La Mật, chẳng dứt hạnh Bồ Tát, chẳng bỏ tâm Bồ Đề, ở vô lượng
sanh tử mà chẳng mỏi nhàm, hơn hàng nhị thừa, gọi là Đại thừa, là đệ
nhứt thừa, là thắng thừa, là tối thắng thừa, là thượng thừa, là vô
thượng thừa, là thừa lợi ích tất cả chúng sanh.” Nếu có chúng sanh nào
ḷng tin hiểu rộng lớn, căn khí mạnh lẹ, đời trước gieo căn lành, được
thần lực của Đức Như Lai gia hộ, có chí nguyện thù thắng mong cầu Phật
quả, nghe lời nầy xong liền phát tâm Bồ Đề (see Bồ Đề Tâm): The fourth
great voice says, “You should know that there is an even higher path
beyond the ranks of these two vehicles, which is called the great
vehicle, practiced by enlightening beings, following the six
transcendent ways, not stopping enlightening practice, not relinquishing
the determination for enlightenment, being in the midst of infinite
birth and death without getting sick of it. Going beyond the two
vehicles of individual liberation, it is called the Great Vehicle, the
foremost vehicle, the preeminent vehicle, the supreme vehicle, the
highest vehicle, the unexcelled vehicle, the vehicle of benefiting all
sentient beings.” If there are any sentient beings whose resolve is very
great, whose faculties are strong and keen, who have planted roots of
goodness in the past, who are spiritually empowered by the Buddhas, who
have superior inclinations and seek Buddhahood, once they have heard
this voice they arouse the determination for enlightenment.
Tứ Chủng Biến
Thường: Four theories regarding pervasive permanence—Theo Kinh Thủ
Lăng Nghiêm, quyển Chín, phần Thập Hành Ấm Ma, Đức Phật đă nhắc nhở ngài
A Nan về bốn thứ biến thường như sau: “Ông A Nan! Các người thiện nam
trong tam ma địa, chính tâm yên lặng sáng suốt. Ma chẳng t́m được chỗ
tiện cùng tột căn bản của 12 loài sinh. Xem xét trạng thái u thanh,
thường nhiễu động bản nguyên. Trong viên thường khởi so đo chấp trước.
Nguời ấy bị đạo vào luận bốn thứ biến thường.”—According to the
Surangama Sutra, book Nine, in the part of the ten states of the
formation skandha, the Buddha reminded Ananda as follows: “Ananda, in
his practice of samadhi, the good person'’ mind is unmoving, clear, and
proper and can no longer be distrubed by demons. He can thoroughly
investigate the origin of all categories of beings and contemplate the
source of the subtle, fleeting, and constant fluctuation. But if he
begins to speculate on its pervasive constancy, he could fall into error
with four theories of pervasive permanence.”
1)
Một là người đó nghiên cứu cùng tột tâm cảnh, tính chất đều không
có nhân. Tu tập có thể biết trong hai vạn kiếp, mười phương chúng sanh
sinh diệt, đều là xoay vần, chẳng hề tan mất, rồi chấp cho là thường:
First, as this person throroughly investigates the mind and its states,
he may conclude that both are causeless. Through his cultivation, he
knows that in twenty thousand eons, as beings in the ten directions
undergo endless rounds of birth and death, they are never annihilated.
Therefore, he speculates that the mind and its states are permanent
2)
Hai là người ấy nghiên cứu cùng tột căn nguyên của tứ đại, tính
thường trụ. Tu tập có thể biết trong bốn vạn kiếp mười phương chúng
sanh sanh diệt đều là hằng thường, chẳng hề tan mất. Rồi từ đó chấp cho
là thường: Second, as this person thoroughly investigates the source of
the four elements, he may conclude that they are permanent in nature.
Through his cultivation, he knows that in forty thousand eons, as living
beings in the ten directions undergo births and deaths, their substances
exist permanently and are never annihilated. Therefore, he speculates
that this situation is permanent.
3)
Ba là người đó nghiên cứu cùng tột lục căn, mạt na chấp thụ,
trong tâm ư thức, về chỗ bản nguyên, tính hằng thường. Tu tập có thể
biết trong tám vạn kiếp tất cả chúng sanh xoay vần chẳng mất, bản lai
thường trú, đến cùng tính chẳng mất, rồi chấp cho là thường: Third, as
this person thoroughly investigates the sixth sense faculty, the manas,
and the consciousness that grasps and receives, he concludes that the
origin of the mind, intelect, and consciousness is permanent. Through
his cultivation, he knows that in eighty thousand eons, all living
beings in the ten directions revolve in transmigration, this origin is
never destroyed and exists permanently. Investigating this undestroyed
origin, he speculates that it is permanent.
4)
Bốn là người đó đă cùng tột cái căn nguyên của tưởng, hết cái
sinh lư, lưu chỉ xoay vần; sinh diệt tưởng tâm, nay đă dứt bặt, tự nhiên
thành cái lư bất sanh diệt. Nhân tâm so đo chấp trước cho là thường. V́
chấp thường, mà mất chánh biến tri, đọa lạc ngoại đạo, mê lầm tính Bồ Đề:
Fourth, since this person has ended the source of thoughts, there is no
more reason for them to arise. In the state of flowing, halting, and
turning, the thinking mind, which was the cause of production and
destruction, has now ceased forever, and so he naturally thinks that
this is a state of nonproduction and nondestruction. As a result of such
reasoning, he speculates that this state is permanent. Because of these
speculation of permanence, he will lose proper and pervasive knowledge,
fall into externalism, and become confused about the Bodhi nature.
Tứ Chủng Bố Thí:
Bốn loại bố thí—Four kinds of dana or charity—See Tứ Bố Thí.
Tứ Chủng Căn Bổn
Tội: Tứ Ba La Di Tội—Bốn tội căn bản—The four deadly sins:
1)
Sát sanh: Killing.
2)
Trộm cắp: Stealing.
3)
Ham muốn nhục dục: Carnality.
4)
Nói dối: Lying.
Tứ Chủng Đàn Pháp:
Tứ Chủng Tất Địa—Tứ Chủng Thành Tựu Pháp—Bốn loại đàn pháp của Mật giáo—The
four kinds of altar-worship of the esoteric sect:
1)
Tức Tai Pháp: Tu pháp tu trừ ác sự cho ḿnh và người khỏi bị bệnh
hoạn tai ương—Averting calamities from self and others.
2)
Tăng Ích Pháp: Tu pháp để tăng thêm phúc đức trí tuệ cho ḿnh và
người—Seeking good fortune for self and others.
3)
Kính Ái Pháp: Tu pháp cầu đảo cho ḿnh và người được chư Phật và
Bồ Tát ái hộ—Seeking the love and protection of Buddhas and Bodhisattvas
for self and others.
4)
Hàng Phục: Điều Phục Pháp, hay phép cầu đảo cho ḿnh và người để
điều phục oán địch hay ác nhân—Subduing enemies.
Tứ Chủng Điên Đảo:
Four upside-down theories—Theo Kinh Thủ Lăng Nghiêm, quyển Chín, phần
Thập Hành Ấm Ma, Đức Phật đă nhắc nhở ngài A Nan về bốn thứ điên đảo như
sau: “Nầy A Nan! Lại các thiện nam, trong tam ma địa, chính tâm yên lặng
kiên cố. Ma chẳng t́m được chỗ tiện, cùng tột căn bản của 12 loài sinh.
Xem cái trạng thái u thanh, thường nhiễu động bản nguyên. Trong tự và
tha, khởi so đo chấp trước. Người đó bị đọa vào bốn cái thấy điên đảo,
một phần vô thường, một phần thường luận.”—In the Surangama Sutra, book
Nine, in the part of the ten states of the formation skandha, the Buddha
reminded Ananda about the four upside-down theories as follows: “Ananda!
Further, in his practice of samadhi, the good person’s mind is firm,
unmoving, and proper and can no longer be distrubed by demons. He can
thoroughly investigate the origin of all categories of beings and
contemplate the source of the subtle, fleeting, and constant
fluctuation. But if he begins to speculate about self and others, he
could fall into error with theories of partial impermanence and partial
permanence based on four distorted views.”
1)
Một là, người đó quán sát cái tâm diệu minh, khắp các cơi mười
phương, trạm nhiên, cho là thần ngă hoàn toàn, từ đó chấp là thần ngă
khắp mười phương, yên lặng, sáng suốt, chẳng động. Tất cả chúng sanh
trong thần ngă, tâm tự sinh tự chết. Th́ tính cách của ngă tâm là thường.
C̣n kia sinh diệt, thật là tính cách vô thường—First, as this person
contemplates the wonderfully bright mind pervading the ten directions,
he concludes that this state of profound stillness is the ultimate
spiritual self. Then he speculates , “My spiritual self, which is
settled, bright, and unmoving, pervades the ten directions. All living
beings are within my mind, and there they are born and die by
themselves. Therefore, my mind is permanent, while those who undergo
birth and death there are truly impermanent."
2)
Hai là, người đó chẳng quán sát cái tâm, chỉ xem xét khắp cả mười
phương hằng sa quốc độ, thấy cái chỗ kiếp bị hư, gọi là chủng tính vô
thường hoàn toàn. C̣n cái chỗ kiếp chẳng bị hư, gọi là thường hoàn toàn—Second,
instead of contemplating his own mind, this person contemplates in the
ten directions worlds as many as the Ganges’ sands. He regards as
ultimately impermanent those worlds that are in eons of decay, and as
ultimately permanent those that are not in eons of decay.
3)
Ba là, người đó chỉ quán sát cái ngă tâm của ḿnh, tinh tế nhỏ
nhiệm, ví như vi trần lưu chuyển mười phương, tính không dời đổi. Có thể
khiến thân nầy liền sinh liền diệt, mà nói là tính chẳng hoại, và gọi là
ngă tính thường—Third, this person closely examines his own mind and
finds it to be subtle and mysterious, like fine motes of dust swirling
in the ten directions, unchanging in nature. And yet it can cause his
body to be born and then to die. He regards that indestructible nature
as his permanent intrinsic nature, and that which undergoes birth and
death and flows forth from him as impermanent.
4)
Bốn là, người đó biết tưởng ấm hết, thấy hành ấm c̣n lưu động.
Hành ấm thường lưu động, nên chấp làm tính thường. Các ấm sắc, thụ,
tưởng đă hết, gọi là vô thường. V́ so đo chấp trước một phần vô thường,
một phần thường như trên, nên đọa lạc ngoại đạo, mê lầm tính Bồ Đề—Fourth,
knowing that the skandha of thinking has ended and seeing the flowing
of the skandha of formations, this person speculates that the continuous
flow of the skandha of formations is permanent, and that the skandhas of
form, feeling, and thinking which have already ended are impermanent.
Because of these speculations of impermanence and permanence, he will
fall into externalism and become confused about the Bodhi nature.
Tứ Chủng Hành Nhân:
Bốn loại hành nhân—Four grades of earnest doers, who follow the
bodhisattva discipline and attain to the following:
1)
Thập Trụ: Ten Stages—See Thập Trụ.
2)
Thập Hạnh: Ten necessary activities—See Thập Hạnh.
3)
Thập Hồi Hướng: Ten Dedications—See Ten Kinds of Dedications
Expounded by the Buddhas of Past, Present and Future & Ten Kinds of
Dedications of Roots of Goodness of Great Enlightening Beings.
4)
Thập Trụ: Ten Grounds—See Thập Trụ.
Tứ Chủng Hạnh Phúc:
Trong Kinh Tăng Nhứt A Hàm, Đức Phật đă giảng về bốn loại hạnh phúc của
người cư sĩ như sau—In the Anguttara Nikaya Sutra, the Buddha commented
on the four kinds of bliss a layman enjoy as follow:
1)
Hạnh phúc có vật sở hữu: Atthisukha (p)—Hạnh phúc của người có
vật sở hữu nhờ sự nỗ lực cố gắng, nhờ sức lực của chân tay và mồ hôi, sở
hữu một cách hợp pháp. Khi nghĩ như vậy, người kia cảm thấy thỏa thích
và măn nguyện. Đó là hạnh phúc có được vật sở hữu—Herein a clansman has
wealth acquired by energetic striving, amassed by strength of arm, won
by sweat, and lawfully gotten. At this thought, bliss and satisfaction
come to him. This is call the bliss of ownership.
2)
Hạnh phúc được có tài sản: Bhogasukha (skt)—Người kia tạo nên tài
sản do nơi cố gắng nỗ lực. Bây giờ chính ḿnh thọ hưởng tài sản ấy, hoặc
dùng nó để gieo duyên tạo phước. Khi nghĩ như vậy, người ấy cảm thấy
thỏa thích và măn nguyện. Đó là hạnh phúc có được tài sản—Herein a
clansman by means of wealth acquired by energetic striving, both enjoys
his wealth and does meritorious deeds. At this thought, bliss and
satisfaction come to him. This is called the bliss of wealth.
3)
Hạnh phúc không nợ nần: Ananasukha (skt)—Người kia không thiếu ai
món nợ lớn nhỏ nào. Khi nghĩ như vậy người kia cảm thấy thỏa thích và
măn nguyện. Đó là hạnh phúc không mang nợ—Herein a clansman owes no
debt, great or small, to anyone. At the thought, bliss and satisfaction
come to him. This is called the bliss of debtlessness.
4)
Hạnh phúc không bị khiển trách: Anavajjasukha (p)—Bậc Thánh nhân
không bị khiển trách về thân khẩu ư. Khi nghĩ như vậy, người ấy cảm thấy
thỏa thích và măn nguyện. Đó là hạnh phúc không bị khiển trách—Herein
the Aryan disciple is blessed with blameless action of body, blameless
action of speech, blameless action of mind. At the thought, bliss and
satisfaction come to him. This is called the bliss of blamelessness.
Tứ Chủng Hộ Ma:
Four kinds of brazier—See Hộ Ma (2).
Tứ Chủng Hữu Biên:
Four theories regarding finiteness—Theo Kinh Thủ Lăng Nghiêm, quyển Chín,
phần Thập Hành Ấm Ma, Đức Phật đă nhắc nhở ngài A Nan về bốn thứ hữu
biên như sau: “Nầy A Nan! Lại các thiện nam, trong tam ma địa, chính tâm
yên lặng kiên cố. Ma chẳng t́m được chỗ tiện, cùng tột căn bản cùa các
loài sinh. Xem cái trạng thái u thanh, thường nhiễu động bản nguyên.
Trong phận vị, khởi so đo chấp trước. Người đó bị đọa vào luận bốn thứ
hữu biên.”—In the Surangama Sutra, book Nine, in the part of the ten
states of the formation skandha, the Buddha reminded Ananda about the
four theories regarding finiteness as follows: “Ananda! Further, in his
practice of samadhi, the good person’s mind is firm, unmoving, and
proper and can no longer be disturbed by demons. He can thoroughly
investigate the origin of all categories of beings and contemplate the
source of the subtle, fleeting, and constant fluctuation. But if he
begins to speculate about the making of certain distinctions, he could
fall into error with four theories of finiteness.”
1)
Một là người đó tâm chấp cái sinh nguyên lưu dụng chẳng dứt. Chấp
quá khứ và vị lai là hữu biên và chấp tương tục là vô biên—First, this
person speculates that the origin of life flows and functions
ceaselessly. He judges that the past and the future are finite and that
the continuity of the mind is infinite.
2)
Hai là người đó quán sát trong tám vạn kiếp th́ thấy chúng sanh;
nhưng trước tám vạn kiếp th́ bặt không thấy nghe ǵ cả. Nên chỗ không
thấy nghe th́ cho là vô biên, c̣n chỗ thấy nghe lại cho là hữu biên—Second,
as this person contemplates an interval of eighty thousand eons, he can
see living beings; but earlier than eighty thousand eons is a time of
stillness in which he cannot hear or see anything. He regards as
infinite that time in which nothing is heard or seen, and as finite
that interval in which living beings are seen to exist.
3)
Ba là người đó chấp cái ngă khắp biết được tính vô biên, tất cả
mọi người đều bị ngă biết, mà ngă không hay họ có tính biết riêng, nên
cho là họ không có tính vô biên, họ chỉ là tính hữu biên—Third, this
person speculates that his own pervasive knowledge is infinite and that
all other people appear within his awareness. And yet, since he himself
has never perceived the nature of their awareness, he says they have not
obtained an infinite mind, but have only a finite one.
4)
Bốn là người đó cùng tột cái hành ấm không, do cái chỗ sở kiến,
tâm lộ tính xem xét, so sánh tất cả chúng sanh, trong một thân đều có
một nửa sinh, một nửa diệt. Rơ biết mọi vật trong thế giới đều một nửa
hữu biên, một nửa vô biên. V́ so đo chấp trước hữu biên, vô biên, nên
đọa lạc ngoại đạo và mê lầm tính Bồ Đề—Fourth, this person thoroughly
investigates the formations skandha to the point that it becomes empty.
Based on what he sees, in his mind he speculates that each and every
living being , in its given body, is half living and half dead. From
this he concludes that everything in the world is half finite and half
infinite. Because of these speculations about the finite and the
infinite, he will fall into externalism and become confused about the
Bodhi nature.
Tứ Chủng Khổ:
Four kinds of sufferings—See Tứ Khổ.
Tứ Chủng Liên Hoa:
Four kinds of lotus—See Liên Hoa.
Tứ Chủng Mạn Đà La:
Theo Giáo Sư Junjiro Takakusu trong Cương Yếu Triết Học Phật Giáo, tông
Chân Ngôn có bốn thứ Mạn Đà La hay bốn ṿng tṛn Mạn Đà La chỉ định năng
lực hiệu nghiệm của tam mật. Những h́nh ảnh, h́nh vẽ, hay điêu khắc cho
thấy thân mật của Phật; văn tự là mật ngữ của Phật; và các vật tiêu xí
chỉ cho bản thệ, tứ mật ư của Phật—According to Prof. Junjiro Takakusu
in The Essentials of Buddhist Philosophy, the Shingon Sect has four
kinds of Mandala. The fourfold circle indicates the efficacious power of
the three mysteries. The figures, painted or sculptured, show the
mystery of the body of the Buddha; the letters show the mystery of
speech of the Buddha; and the symbol indicates the “original vow,” or
the thought of the Buddha.
1)
Đại Mạn Đà La: Maha-mandala (skt)—Là ṿng tṛn của Đức Phật và
các tùy tùng được tŕnh bày bằng h́nh ảnh hay tranh vẽ, tức tŕnh bày
trong mặt phẳng—The Great Circle is the circle of the Buddha and his
companions represented by pictures or painted figures, i.e., a plane
representation.
2)
Tam Ma Da Mạn Đà La: Samaya-mandala (skt)—Ṿng tṛn của cùng hội
chúng nầy được biểu thị bằng những dụng cụ tượng trưng cho mỗi vị. Tam
Ma da trong Phạn ngữ có nghĩa là “bản thệ,” nhưng được tŕnh bày bằng
vật tiêu biểu cho mỗi vị cầm tay—The Symbol Circle is the circle of the
same assembly represented by symbols or an article possessed by each.
Samaya in Sanskrit means the “original vows,” but here it is represented
by an article borne by each.
3)
Pháp Mạn Đà La: Dharma-mandala (skt)—Là lọạ Mạn Đà La bằng văn tự,
tŕnh bày toàn thể các Thánh giả—The La Circle is the circle of letters
(bija-aksara) representing all the saintly beings.
4)
Kiết Ma Mạn Đà La: Karma-mandala (skt)—Là Mạn Đà La bằng những
h́nh ảnh điêu khắc. Ở Nhật và các nước Đông Á không có Mạn Đà La điêu
khắc, nhưng vô số tượng Phật ở Java được xem như là thuộc loại nầy.
Karma trong Phạn ngữ có nghĩa là “nghiệp” hay “hành động,” ở đây đặc
biệt có nghĩa là nghệ thuật tŕnh bày bằng vật rắn—The Artcraft Circle
is the circle of sculptured figures. In Japan and East Asian countries,
there are no artcraft circles of sculptured figures, but the multitude
of Buddhistic images of Java is said to be of this kind. Karma in
Sanskrit means “action” or “work,” here it especially means the artistic
work of solid representation.
** For more
information, please see
Mandala in
English-Vietnamese Section.
Tứ Chủng Nghiệp:
Kammacatukkam (p)—Four types of karma—See Bốn Loại Nghiệp.
Tứ Chủng Nhân:
Four types of persons—Theo Kinh Phúng Tụng trong Trường Bộ Kinh, có bốn
loại người—According to the Sangiti Sutta in the Long Discourses of the
Buddha, there are four types of persons:
(A)
Bốn loại người thứ nhất—The first four types of persons:
1)
Loại người tự ḿnh làm khổ ḿnh và siêng năng làm khổ ḿnh:
Attan-tapo-hoti (p)—A certain man who torments himself or is given to
self-tormenting.
2)
Loại người làm khổ người khác và siêng năng làm khổ người khác:
Paran-tapo-hoti (p)—A certain man who torments others or is given to
torment others.
3)
Loại người làm khổ ḿnh, siêng năng làm khổ ḿnh; làm khổ người,
và siêng năng làm khổ người: A certain man who torments himself, is
given to self-tormenting; torments others, is given to torment others.
4)
Loại người không làm khổ ḿnh, không siêng năng làm khổ ḿnh;
không làm khổ người, không siêng năng làm khổ người. Nên ngay cuộc sống
hiện tại, vị nầy sống ly dục, tịch tịnh, thanh lương, an lạc thánh thiện:
A certain man who torments neither himself nor others. Thereby he dwells
in this life without craving, released, cool, enjoying bliss, becomes as
Brahma.
(B)
Bốn loại người khác—Four more types of persons:
1)
Loại người hành tự lợi, không hành tha lợi. Đây là loại người chỉ
phấn đấu loại bỏ tham, sân si cho chính ḿnh, mà không khuyến khích
người khác loại bỏ tham sân si, cũng không làm ǵ phúc lợi cho người
khác: Here a man’s life benefits himself, but not others (who works for
his own good, but not for the good of others). It is he who strives for
the abolition of greed, hatred and delusion in himself, but does not
encourage others to abolish greed, hatred and delusion, nor does he do
anything for the welfare of others.
2)
Loại người hành tha lợi, không hành tự lợi. Đây là loại người chỉ
khuyến khích người khác loại bỏ nhược điểm và phục vụ họ, nhưng không tự
đấu tranh để loại bỏ nhược điểm của chính ḿnh (năng thuyết bất năng
hành): Here a man’s life benefits others, but not himself (who works for
the good of others, but not for his own good). It is he who encourages
others to abolish human weaknesses and do some services to them, but
does not strive for the abolition of his own.
3)
Loại người không hành tự lợi, mà cũng không hành tha lợi. Đây là
loại người không đấu tranh để loại bỏ nhược điểm của chính ḿnh, cũng
chẳng khuyến khích người khác loại bỏ nhược điểm, cũng không phục vụ
người khác: Here a man’s life benefits neither himself nor others (who
works neither for his own good nor for the good of others). It is he who
neither strives for the abolition of his own weaknesses, nor does he
encourage others to abolish others weaknesses, nor does he do any
service to others.
4)
Loại người hành tự lợi và hành tha lợi. Đây là loại người phấn
đấu loại bỏ những tư tưởng xấu trong tâm ḿnh, đồng thời giúp người khác
làm điều thiện: Here a man’s life benefits both himself and others (who
works for his own good as well as for the good of others). It is he who
strives for the abolition of evil houghts from mind and at the same time
help others to be good.
(C)
Bốn loại người khác—Four more types of persons:
1)
Loại sống trong bóng tối và hướng đến bóng tối: Here a man who
lives in darkness and bounds for drakness.
2)
Loại sống trong bóng tối, nhưng hướng đến ánh sáng: Here a man
who lives in darkness, but bounds for the light.
3)
Loại người sống trong ánh sáng, nhưng hướng đến bóng tối: Her a
man who lives in the light, but bounds for drakness.
4)
Loại sống trong ánh sáng và hướng đến ánh sáng: Here a man who
lives in the light and bounds for the light.
(D)
Bốn hạng người khác—Four more types of people:
1)
Hạng người không ai hỏi về cái tốt của ḿnh mà cứ nói, huống hồ
chi là có hỏi! Đây là lỗi tự khoe khoang ḿnh, rất là tổn đức, chỉ có kẻ
tiểu nhơn mới làm như vậy, chứ bậc đại trượng phu quân tử được khen cũng
không cần ai công bố ra: Those who are not asked by anyone of their
wholesome deeds, and yet they speak of them voluntarily, let alone if
someone did ask. This represents those who are constantly bragging and
boasting himself or herself. Only a petty person would do such a thing
because true greatness will be praised without having necessary to
announce it to the world.
2)
Hạng người có ai hỏi đến cái tốt của người khác, th́ chỉ ngập
ngừng, bập bẹ như con nít mới học nói, huống hồ chi là không hỏi! Đây là
lỗi d́m che điều tốt của người, để cho thấy ḿnh tốt, lỗi nầy rất là tổn
phước, chỉ có kẻ tiểu nhơn mới làm như vậy: Those who when asked of
others’ wholesome deeds, will speak incompletely, sometimes incoherently
much like a child who had just learned to speak, let alone if they were
not asked! This condition represents people who hide other people’s
wholesome deeds, so they would look good in the process. It is an act of
a petty person.
3)
Hạng người không ai hỏi đến cái xấu của kẻ khác, mà cứ nói, huống
chi là có hỏi! Đây là lỗi giết hại người mà không dùng đao kiếm, rất là
tổn hại, chỉ có kẻ âm hiểm ác độc mới làm như vậy: Those who are not
asked of others’ unwholesome deeds but speak of them anyway, let alone
if they were asked. These are people who kill without weapons. This is
to expose other people’s mistakes and transgressions, or to ridicule
others to make one’s self look good. Such an act is a sign of wickedness
and evil.
4)
Hạng người có ai hỏi đến cái xấu của ḿnh th́ che dấu, huống là
không hỏi! Đây là lỗi dối trá, xảo quyệt, lừa gạt cho người ta tưởng
ḿnh là bậc Thánh. Hạng người nầy được gọi là người không biết tàm quí:
Those who keep their unwholesome deeds hidden, lying about it when
anyone asks about them, let alone if these deeds were not asked, then
certainly their wickedness would never be revealed. This condition
represents people who are pretenders, those who tricked others into
believing they are saints. They are people of no shame in self or before
others.
(E)
Bốn loại người khác—Four more types of persons:
1)
Bất Động Sa Môn: Samana-acalo (p)—The unshakeable ascetic.
2)
Thanh Liên Hoa Sa Môn: The “Blue-lotus” ascetic.
3)
Bạch Liên Hoa Sa Môn: The “White-lotus” ascetic.
4)
Diệu Thiện Sa Môn: Samana-sukhumalo (p)—The subly-perfect
ascetic.
Tứ Chủng Nhập Thai:
Theo Kinh Tự Hoan Hỷ trong Trường Bộ Kinh, có bốn loại nhập thai—According
to the Sampasadaniya Sutta in the Long Discourses of the Buddha, there
are four modes of rebirth:
1)
Có loại không biết ḿnh nhập, trú và xuất bụng người mẹ: One
descends into the other’s womb unknowing, stays there unknowing, and
leaves it unknowing.
2)
Có loại biết ḿnh nhập bụng người mẹ, nhưng không biết ḿnh an
trú trong bụng nguời mẹ và không biết ḿnh ra khỏi bụng người mẹ: One
enters the womb knowing, stays there unknowing, and leaves it unknowing.
3)
Có loại biết ḿnh nhập bụng người mẹ, biết ḿnh an trú trong bụng
người mẹ, nhưng không biết ḿnh ra khỏi bụng người mẹ: One enters the
womb knowing, stays there knowing, but leaves it unknowing.
4)
Có loại biết ḿnh nhập bụng người mẹ, biết ḿnh an trú trong bụng
người mẹ và biết ḿnh ra khỏi bụng người mẹ: One enters the womb
knowing, stays there knowing, and leaves it knowing.
Tứ Chủng Niệm Phật:
Four methods of Buddha Recitation—See Tứ Môn Niệm Phật.
Tứ Chủng Oai Nghi:
Four kinds of demeanors—Oai nghi có nghĩa là cốt cách và cử chỉ của
người xuất gia, cần phải đoan chánh đàng hoàng, đúng theo phép tắc,
khiến cho người chung quanh khi nh́n thấy phong cách của ḿnh th́ tự
nhiên sanh ḷng kính phục. Có bốn loại oai nghi—Demeanors mean the
conducts and expressions of a religious figure in Buddhism. They must be
power and act appropriately according to the Dharma teachings, so when
those around them see their demeanors these people will be respectful
automatically. There are four main demeanors:
1)
Đi: Walking.
2)
Đứng: Standing.
3)
Nằm: Lying down.
4)
Ngồi: Sitting.
** Cụ Túc Giới Tỳ
Kheo.
Tứ Chủng Pháp Giới:
The four dharma-realms—See Tứ Pháp Giới.
Tứ Chủng Phật:
Four types of the Buddha.
1)
Tam Tạng Phật: Ngài ngồi dưới gốc cây Bồ Đề của xứ Ma Kiệt Đà,
dùng cỏ tươi làm đệm, dứt bỏ hoặc kiến tư mà giác ngộ—The Buddha of the
Tripitaka who attained enlightenment on the base ground under the bodhi-tree.
2)
Thông Phật: Ở ngôi nhân vị đă dứt bỏ kiết sử và nghi hoặc , ngồi
dưới gốc bồ đề thất bảo của xứ Ma Kiệt Đà, dùng áo trời làm đệm, dứt bỏ
tâm tư mà thành chánh giác—The Buddha on the deva robe under the bodhi-tree
of the seven precious things.
3)
Biệt Phật: Dứt bỏ 12 phẩm vô minh nhập vào ngôi vị Diệu Giác,
ngồi ở chính ṭa đại bảo hoa, dưới gốc cây bồ đề thất bảo của Liên Hoa
Tạng thế giới, mà hiện báo thân viên măn, đây chính là Đức Tỳ Lô Giá Na
nói đến trong Kinh Phạm Vơng—The Buddha on the great precious Lotus
throne under the Lotus realm bodhi-tree. This is the Vairocana mentioned
in the Brahma Net Sutra.
4)
Viên Phật: Dứt bỏ phẩm vô minh mà thành thanh tịnh pháp thân, an
trụ cơi thường tịch quang, lấy hư không làm chỗ ngồi, tức là Đức Tỳ Lô
Giá Na nói đến trong Kinh Hoa Nghiêm—The Buddha on the throne of space,
in the realm of eternal rest and glory, where he is a Vairocana
mentioned in the Flower Adornment Sutra.
Tứ Chủng Phật Âm:
Four voices of Buddha—Theo Kinh Hoa Nghiêm, Phẩm Như Lai Xuất Hiện (37),
chư đại Bồ Tát biết âm thanh của Đức Như Lai chẳng phải lượng, chẳng
phải vô lượng, chẳng phải chủ, chẳng phải không chủ, chẳng phải thị giáo,
chẳng phải không thị giáo. Ví như thế giới lúc sắp hoại, không chủ không
làm, tự nhiên âm thanh của Đức Như Lai phát ra bốn thứ. Bốn thứ âm thanh
trên đây không chủ, không làm, mà chỉ do thiện nghiệp của chúng sanh mà
phát sanh—According to The Flower Adornment Scripture, Chapter
Manifestation of Buddha (37), great enlightening beings should know that
Buddha’s voice is neither quantified nor unquantified, neither has a
master nor lacks a master, neither communicates nor does not
communicate. It is as when the world is about to disintegrate, there is
no master, no maker, yet it spontaneously emits four voices. These
voices have no master or maker, they are just produced by the power of
good practices of sentient beings.
1)
Âm thanh thứ nhất nói, “Mọi người nên biết sơ thiền an lạc, rời
những lỗi dục nhiễm vượt khỏi cơi dục.” Chúng sanh nghe rồi tự nhiên
được thành tựu sơ thiền, bỏ thân cơi dục sanh lên Phạm Thiên: The first
voice says, “You all should know that the well-being of the first
meditation stage, free from the ills of desire, surpasses the realm of
desire.” The sentient beings hearing this are naturally able to
accomplish the first meditation stage, reliquish the body of the realm
of desire and be reborn in Brahma heaven
2)
Âm thanh thứ hai nói, “Mọi người nên biết nhị thiền an lạc, không
giác, không quán, vượt hơn Phạm Thiên.” Chúng sanh nghe xong tự nhiên
được thành tựu nhị thiền, bỏ thân Phạm Thiên sanh lên cơi trời Quang Âm
Thiên: The second voice says, “You should know that the well-being of
the second meditation stage, without reflection and rumination,
surpasses the Brahma heaven.” The sentient beings hearing this naturally
manage to accomplish the second meditation stage, relinquish the body of
Brahma heaven, and are born in the light-sound heaven.
3)
Âm thanh thứ ba nói, “Mọi người nên biết tam thiền an lạc không
lỗi lầm, vượt hơn Quang Âm Thiên.” Chúng sanh nghe xong tự nhiên được
thành tựu tam thiền, bỏ thân Quang Âm Thiên sanh lên Biến Tịnh Thiên:
The third voice says, “You should know the well-being of the third
meditation stage has no flaws and surpasses the light-spund heaven.”
Hearing this, the sentient beings are naturally able to achieve the
third meditation stage, relinquish the body of the light-sound heaven,
and are born in the heaven of universal purity.
4)
Âm thanh thứ tư nói, “Mọi người nên biết tứ thiền tịch tịnh hơn
Biến Tịnh Thiên.” Chúng sanh nghe xong tự nhiên được thành tựu tứ thiền,
bỏ thân Biến Tịnh Thiên sanh lên Quảng Quả Thiên: The fourth voice says,
“You should know that the tranquility of the fourth meditation stage
surpasses the heaven of universal purity.” Hearing this, the sentient
beings are naturally able to achieve the fourth meditation stage,
relinquish the body of the heaven of universal purity, and are born in
the heaven of vast results.
Tứ Chủng Phong Luân:
Four kinds of atmosphere—Đại Thiên thế giới nầy chẳng phải do một duyên,
chẳng phải do một sự mà được thành tựu; phải do vô lượng duyên, vô lượng
sự mới được thành. Những là nổi giăng mây lớn, tuôn xối mưa lớn. Tất cả
đều do cộng nghiệp của chúng sanh và thiện căn của chư Bồ Tát phát khởi,
làm cho tất cả chúng sanh trong đó đều tùy sở nghi mà được thọ dụng. Do
vô lượng duyên như vậy mới thành Đại Thiên thế giới. Pháp giới như vậy
không có sanh giả, không có tác giả, không có tri giả, không có thành
giả, nhưng Đại Thiên thế giới vẫn được thành tựu. Theo Kinh Hoa Nghiêm,
Phẩm Như Lai Xuất Hiện (38), có bốn thứ phong luân làm sở y—It is as a
billion-world universe is not formed just by one condition, not by one
phenomenon; it can be formed only by innumerable conditions, innumerable
things. That is to say the rising and spreading of great clouds and
showering of great rain produce four kinds of atmosphere, continuously
making a basis. All are produced by the joint actions of sentient beings
and by the roots of goodness of enlightened beings, enabling all
sentient beings to get the use of what they need. Innumerable such
causes and conditions form the universe. It is such by the nature of
things, there is no producer or maker, no knower or creator, yet the
worlds come to be.
1)
Năng tŕ phong luân, có khả năng cầm giữ đại thủy: The holder,
which can hold the great waters.
2)
Năng tiêu phong luân, có khả năng làm tiêu đại thủy: The
evaporator, which can evaporate the great waters.
3)
Kiến lập phong luân, có khả năng kiến lập tất cả xứ sở: The
structure, which sets up all places.
4)
Trang nghiêm phong luân, có khả năng làm trang nghiêm và phân bố
các điều thiện xảo: The arrangement, which can arrange and distribute
all skillful and good deeds.
Tứ Chủng Quả Báo:
Có bốn loại báo ứng—There are four kinds of retribution:
1)
Thuận Hiện Nghiệp Định Quả: Hành động gây ra báo ứng tức khắc—Action
to receive retribution immediately.
2)
Thuận Hiện Nghiệp Bất Định Quả: Hành động gây báo ứng trong đời
hiện tại (không nhứt định thời gian)—Action to receive retribution in
the present life.
3)
Thuận Sinh Nghiệp: Hành động gây báo ứng trong đời sống kế tiếp—Action
to receive retribution in the life to come.
4)
Thuận Hậu Nghiệp: Hành động gây báo ứng trong các đời sau, không
nhứt định thời gian—Action to receive retribution in one of the lives
following the next.
Tứ Chủng Quán Hành:
Theo Từ Bi Thủy Sám, có bốn loại quán hành, một phương pháp sám hối tu
tập để làm phương tiện diệt tội—Four kinds of examination, a method of
repentance as a way to get rid of any sin:
1)
Quán Nhân Duyên: To study the cause of the sin, which lies in
ignorance, or lack of clear understanding.
2)
Quán Quả Báo; To study its ineviatable effect or its karma.
3)
Quán Tự Thân: To study oneself or introspection.
4)
Quán Như Lai Thân: To tudy the Tathagata in his perfec character,
and saving power.
Tứ Chủng Sanh Tử:
Four kinds of rebirths dependent on present deeds—See Bốn Loại Sanh Tử.
Tứ Chủng Tà Mệnh:
Có bốn thứ tà mệnh—There are four improper ways of obtaining a living
on the part of a monk:
1)
Hạ Khẩu Thực: Trồng trọt, làm vườn, chế thuốc hay làm việc bằng
tay chân để kiếm sống—To earn a livelihood by doing work with his hands.
2)
Ngưỡng Khẩu Thực: Làm nghề chiêm tinh hay ngước lên trời xem tinh
tú, mặt trời, mặt trăng, xem gió mưa sấm sét—To earn a livelihood by
astrology (looking up in the sky to talk about stars).
3)
Phương Khẩu Thực: Luồn cúi nịnh bợ (những nhà quyền thế giàu có
để được họ ban cho ân huệ)—To earn a livelihod by flattery (rich people
or powerful people).
4)
Duy Khẩu Thực: Dùng chú thuật, bói toán lành dữ để kiếm cơm áo—To
earn a livelihood by magic, spells, or by fortune-telling.
Tứ Chủng Tam Muội:
Theo Liễu Dư Đại Sư, một cao tăng trong tông phái Tịnh Độ Trung Quốc,
người niệm Phật khi đi đến chỗ tuyệt đỉnh tận cùng duy có một định thể
là niệm Phật tam muội. Đây là cảnh hư linh sáng lặng, vọng giác tiêu
tan, hành giả duy c̣n trụ tâm nơi tướng hảo hoặc hồng danh của Phật.
Nhưng tuy nói trụ mà thật ra vô trụ, v́ âm thanh sắc tướng đương thể như
huyễn, chính đó là không. Tướng tam muội ấy như thế nào? Khi hành giả
chuyên nhứt niệm Phật, quên hết thân tâm ngoại cảnh, tuyệt cả thời gian
không gian, đến lúc sức lực cực công thuần, ngay nơi đương niệm trần
vọng bỗng thoạt tiêu tan, tâm thể bừng sáng, chứng vào cảnh giới “Vô
niệm vô bất niệm.” Cảnh ấy như hư không mây tan, trời xanh một vẻ, niệm,
mà không niệm, không niệm mà niệm, không thấy biết mới là sự thấy biết
chân thật, có thấy biết tức lạc theo trần. Đến đây th́ nước bạc non xanh
đều là chân đế, suối reo chim hót toàn diễn diệu thừa, tâm quang bao hàm
muôn tượng mà không trụ một pháp, tịch mà chiếu, chiếu mà tịch, đều c̣n
đều mất, tuyệt đăi viên dung. Cảnh giới tam muội đại để là như thế, khó
tả nên lời, duy chứng mới thể nghiệm được. Niệm Phật tam muội vẫn là một
thể, nhưng để đi vào định cảnh ấy, người xưa đă căn cứ theo kinh, y nơi
ư nghĩa và oai nghi hành tŕ mà chia thành bốn loại tam muội—According
to Great Master Liu-Yu, a noted Chinese monk in the Pure Land School,
when the practitioner assiduously recites the Buddha’s name with one-pointedness
of mind, oblivious to body, mind and the external world, transcending
time and space, and when he has exerted the utmost effort and reached
the goal, right in the midst of present thought, worldly delusions
suddenly disappear, the mind experiences sudden Enlightenment, attaining
the realm of “No-Thought, No No-Thought.” That realm is like empty
space, all clouds have dissipated, the sky is all blue, reciting is not
reciting, not reciting is reciting, not seeing and knowing is truly
seeing and knowing, to see and to know is to stray towards worldly
dusts. At this stage, the silver water and green mountains are all
Ultimate Truth, the babbling brooks and singing birds all express the
wonderful Dharma. The light of the Mind encompasses ten thousand
phenomena but does not dwell on any single dharma,
still-but-illuminating, illuminating-but-still, existing and lost at the
same time, all is perfect. The realm of samadhi is, in general, as just
described. It is difficult to express in words, and only when we attain
it do we experience it. Buddha Recitation Samadhi is always the same
state. However, the ancients distinguished four variants:
1)
Bát Chu Tam Muội: Pratyutpanna Samadhi (skt)—Bát Chu có nghĩa là
“Phật lập.” Hành tŕ môn tam muội nầy có ba oai lực phù trợ: Oai lực của
Phật, oai lực của pháp tam muội, và oai lực công đức của người tu. Khi
thực hành Bát Chu Tam Muội, phải lấy chín mươi ngày làm một định kỳ.
Trong thời gian ấy, ngày đêm hành giả chỉ đứng hoặc đi, tưởng Đức Phật A
Di Đà hiện thân đứng trên đảnh ḿnh đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi
vẻ đẹp; hay miệng thường niệm danh hiệu Phật, tâm thường tưởng Phật
không xen hở. Khi công thành trong tam muội hành giả thấy Đức Phật A Di
Đà và chư Phật mười phương hiện ra đứng trước ḿnh khuyến tấn khen ngợi.
Bát Chu Tam Muội cũng gọi là “Thường Hành Đạo.” Người tu khi đi, mỗi
bước mỗi tiếng đều không rời danh hiệu Phật, ba nghiệp hành tŕ không
gián đoạn như ḍng nước chảy. Pháp nầy công đức rất cao, song chỉ bậc
thượng căn mới kham tu tŕ, hạng người trung hạ và tinh lực yếu kém
không thể thực hành nổi—When practicing this samadhi, the cultivator has
three powers to assist him: the power of Amitabha Buddha, the power of
the samadhi and the power of his own virtues. The unit of practice of
this samadhi should be ninety days. In that span of time, day and night
the practitioner just stands or walks around, visualizing Amitabha
Buddha appearing as a body standing on the practitioner’s crown, replete
with the thirty-two auspicious marks and the eighty beautiful
characteristics. He may also recite Amitabha Buddha’s name continuously,
while constantly visualizing Him. When practice is perfected, the
cultivator, in samadhi, can see Amitabh Buddha and the Buddhas of the
ten directions standing in front of him, praising and encouraging him.
Pratyupanna is also called the “Constantly Walking Samadhi.” As the
practitioner walks, each step, each word is inseparable from the name of
Amitabha Buddha. His body, speech and mind are always practicing Buddha
Recitation without interruption, like a continuous flow of water. This
method brings very lofty benefits, but only those of high capacity have
the endurance to practice it. Those of limited or moderate capacities or
lacking in energy cannot pursue this difficult practice.
2)
Nhất Hạnh Tam Muội: Single-Practice Samadhi—Nhất Hạnh có nghĩa là
chuyên nhất về một hạnh. Khi tu môn tam muội nầy, hành giả thường ngồi
và chỉ chuyên nhất quán tưởng, hoặc niệm danh hiệu Đức A Di Đà. Lại tuy
chỉ tu một hạnh mà được dung thông tṛn đủ tất cả hạnh, nên “Nhất Hạnh”
cũng gọi là “Viên Hạnh.” Từ pháp tam muội nầy cho đến hai môn sau, ba
hạng căn cơ đều có thể tu tập được—Single-Practice means specializing in
one practice. When cultivating this samadhi, the practitioner
customarily sits and concentrates either on visualizing Amitabha Buddha
or on reciting His name. Although he actually cultivates only one
practice, in effect, he achieves proficiency in all other practices;
consequently, single-practice is also called “Perfected Practice.” This
samadhi as well as the following two samadhis, can be put into practice
by people of all capacities.
3)
Pháp Hoa Tam Muội: Lotus-Blossom Samadhi—Đây là một trong mười
sáu môn tam muội trong kinh Pháp Hoa, phẩm Diệu Âm Bồ Tát đă trần thuật.
Theo ư chỉ của tông Thiên Thai, th́ ba để viên dung là “Pháp,” quyền
thật không hai là “Hoa.” Ví như hoa sen khi cánh hoa quyền chưa nở, mà
gương sen thật đă thành, gương với cánh đồng thời; nơi một đóa hoa mà
gồm đủ ư nghĩa quyền và thật vậy. Nói theo tông Tịnh Độ th́ tức niệm là
Phật, tức sắc là tâm; một câu niệm Phật gồm đủ tất cả ba đế, nhiếp cả
thật quyền. Nếu tỏ ngộ lư nầy mà niệm Phật, gọi là tu hạnh Pháp Hoa Tam
Muội. Khi tu môn tam muội nầy, hành giả dùng hai oai nghi ngồi và đi mà
thay đổi để quán Phật hoặc niệm Phật, kỳ cho đến khi nào chứng nhập vào
chánh định. Pháp nghi tu tập nầy lại có phần dễ hơn Nhất Hạnh Tam Muội—This
is one of the sixteen samadhis explained in Chapter 24 of the Lotus
Sutra. According to the T’ien-T’ai School, the ‘three truths’
(emptiness, conditional existence, the Middle Way) perfectly fused, are
“Dharma,” while the Expedient and the True, being non-dual, are
“blossom.” For example, when the petals (the Expedient) of the lotus
blossom are not yet opened, its seeds (the True) are already formed; the
seeds and the petals exist simultaneously. Thus, in a single flower, the
full meaning of the True and the Expedient is examplified. In Pure Land
terminology, we would say, “recitation is Buddha,” “form is Mind,” and
one utterance of the Buddha’s name includes the “three truths,”
encompassing the True and the Expedient. If we recite the Buddha’s name
while understanding this principle, we are practicing the Lotus Blossom
Samadhi. In cultivating this samadhi, the practitioner alternates
between sitting and walking while visualizing Amitabha Buddha or
reciting His name, to the point where he enters samadhi. This technique
is somewhat easier than the Single-Practice Samadhi described above.
4)
Tùy Tự Ư Tam Muội: Following One’s Inclinations Samadhi—Pháp thức
nầy có nghĩa là tùy tâm hoặc đi đứng, hoặc nằm ngồi, đều nhiếp niệm
không rời danh hiệu Đức A Di Đà để tu chứng vào tam muội. Hành nghi đây
lại c̣n có tên là “Lưu Thủy Niệm Phật.” Ví như ḍng nước nơi sông cứ
liên tục chảy măi, dù gặp cây đá ngăn cản, nó chỉ dội lại rồi t́m lối
chảy tiếp. Thông thường người tu theo môn nầy, cứ mỗi buổi khuya lễ Phật
A Di Đà bốn mươi tám lạy, Quán Âm, Thế Chí và Đại Hải Chúng mỗi danh
hiệu đều bảy lạy, kế quỳ xuống sám hối. Rồi từ đó cho đến tối, lúc đi
đứng nằm ngồi đều niệm Phật, hoặc lần chuỗi ghi số, hoặc niệm suông, đến
trước khi đi ngủ, lại lễ Phật một lần nữa và đem công đức tu trong ngày,
mà phát nguyện hồi hướng văng sanh. Trong khi hành tŕ nếu có tiếp xúc
với các duyên, khi qua rồi vẫn trở lại niệm Phật. Pháp tu nầy tuy tùy
tiện dễ dàng, nhưng phải khéo tránh bớt duyên và tâm bền bĩ mới mong
thành tựu—With this technique, we walk or stand, lie down or sit up as
we wish, constantly focussing our thoughts and never abandoning the
sacred name Amitabha Buddha, attaining samadhi in the process. This
practice is also called “Flowing Water Buddha Recitation.” It is like
water continuously flowing in a river; if it encounters an obstacle such
as a rock or a tree, it simply bounces back and continues to flow around
it. Normally, the practitioner of this method, early each morning, bows
forty-eight times to Amitabha Buddha, and seven times each to the
Bodhisattva Avalokitesvara, the Bodhisattva Mahasthamaprapta, and the
Ocean-Wide Assembly. He then kneels down to seek repentance. From then
on until nightfall, whether walking, standing, lying down, or sitting
up, he recites the Buddha’s name, either fingering the rosary or simply
reciting. Before going to bed, he bows once more to Amitabha Buddha and
dedicates the merits of the whole day’s practice toward rebirth in the
Pure Land. If he is distracted during practice, he should resume
recitation as soon as the circumstances of the distraction have passed.
This method is flexible and easy, but the cultivator should minimize
distracting conditions and have a good deal of perseverance.
Tứ Chủng Táng:
Four forms of burial—See Tứ Táng.
Tứ Chủng Tâm Vương:
Catubbidha-citta (p)—Four classes of consciousness—See Bốn Loại Tâm
Vương.
Tứ Chủng Thiên:
Bốn loại chư Thiên—Four classes of devas:
1)
Từ 1 đến 3 cũng giống như Tam Chủng Thiên: From 1 to 3 are
similar to that of the three classes of devas—See Tam Chủng Thiên.
4) Nghĩa Thiên: Tất cả Bồ Tát từ Thập trụ trở lên có thể ngộ giải được
thâm nghĩa của Đại Thừa—All Bodhisattvas above the ten stages.
Tứ Chủng Thiền Định:
Bốn loại thiền định—Four kinds of dhyana:
(A)
1)
Dục thần túc: Chanda-rddhi-pada, desire, or intensive longing, or
concentration.
2)
Cần thần túc: Virya-rddhi-pada—Energy or intensified effort.
3)
Tâm thần túc: Citta-rddhi-pada—Memory or intense holding on to
the position reached.
4)
Quán thần túc: Mimamsa-rddhi-pada—Meditation or survey, the state
of dhyana.
(B)
Theo Kinh Lăng Già—According to the Lankavatara Sutra:
1)
Quán Sát Nghĩa Thiền: Thiền định nhằm quán sát ư nghĩa—Dhyana
that surveys the meanings.
2)
Ngu Phu Hành Thiền: Thiền định do phàm phu thực hành—Dhyana
practiced by the ignorant.
3)
Như Như Thực Pháp Thiền: Thiền định dựa vào như như—Dhyana
depending on suchness.
4)
Như Lai Thiền: Thiền định tính thuần của Như Lai—The Tathagata’s
pure Dhyana.
Tứ Chủng Tín Tâm:
Bốn loại tín tâm theo Khởi Tín Luận—Four kinds of faith given in the
Awakening of Faith—See Tứ Tín Tâm in Vietnamese-English Section.
Tứ Chủng Tịnh Độ:
Four kinds of Pure Land—See Bốn Cơi Tịnh Độ.
Tứ Chủng Tổng Tŕ:
Bốn Loại Đà La Ni—Four kinds of Dharani:
1)
Pháp Đà La Ni: Pháp Tổng Tŕ—Dharma Dharani.
2)
Nghĩa Đà La Ni: Nghĩa Tổng Tŕ—Meaning Dharani.
3)
Chú Đà La Ni: Chú Tổng Tŕ (Phật Giáo Tây Tạng)—Mantra Dharani
(Tibetan Buddhism).
4)
Nhẫn Đà La Ni: Nhẫn Tổng Tŕ—Patience Dharani.
Tứ Chủng Vũ Trụ:
Đạo Phật chủ trương rằng không có cái được tạo độc nhất và riêng rẽ. Vạn
hữu trong vũ trụ, tâm và vật, khởi lên đồng thời; vạn hữu trong vũ trụ
nương tựa lẫn nhau, ảnh hưởng lẫn nhau, và do đó tạo ra một bản đại ḥa
tấu vũ trụ của toàn thể điệu. Nếu thiếu một, vũ trụ sẽ không toàn vẹn;
nếu không có tất cả, cái một cũng không. Khi toàn thể vũ trụ tiến tới
một bản ḥa âm toàn hảo, nó được gọi là “Nhất Chân Pháp Giới,” vũ trụ
của cái một và cái thực, hay “Liên Hoa Tạng.” Trong vũ trụ lư tưởng đó,
vạn hữu sẽ tồn tại trong ḥa điệu toàn diện, mỗi hữu không chướng ngại
hiện hữu và hoạt động của các hữu khác. Theo Giáo Sư Junjiro Takakusu
trong Cương Yếu Triết Học Phật Giáo, mặc dù quan niệm viên dung và đồng
khởi là vũ trụ, nó là một thuyết pháp giới duyên khởi, bản tính của hiện
khởi là vũ trụ, nó là một thứ triết lư toàn thể tính của tất cả hiện hữu,
hơn là triết học về nguyên khởi. Theo thuyết nầy, người ta phân biệt có
bốn hạng vũ trụ—Buddhism holds that nothing was created singly or
individually. All things in the universe, matter or mind, arose
simultaneously, all things in its depending upon one another, the
influence of each mutually permeating and thereby making a universe
symphony of harmonious totality. If one item were lacking, the universe
would not be complete; without the rest, one item cannot be. When the
whole cosmos arrives at a harmony of perfection, it is called the
“universe One and True,” or the “Lotus Store.” In this ideal universe
all beings will be in perfect harmony, each finding no obstruction in
the existence and activity of another. According to Prof. Junjiro
Takakusu in The Essentials of Buddhist Philosophy, although the idea of
the interdependence and simultaneous rise of all things is called the
Theory of Universe Causation, the nature of the rise being universal, it
is rather a philosophy of the totality of all existence than a
philosophy of origination. According to this theory, four states of the
universe are to be distinguished:
1)
Sự Pháp Giới, thế giới của đời sống hiện thực, hay thế giới kiện
tính: The real, or the world of actual life, the factual world.
2)
Lư Pháp Giới, thế giới lư tưởng của định luật hay nguyên lư: The
ideal, or the world of law or principle.
3)
Lư Sự Vô Ngại Pháp Giới, thế giới thể hiện lư trong sự; sự và lư
cùng ḥa điệu: The idea realized, or the world in which the principle is
applied in actual life, or the fact and the principle harmonized.
4)
Sự Sự Vô Ngại Pháp Giới, thế giới tương giao ḥa điệu giữa chính
các sự, các hiện thực. Trong thế giới hiện thực, sự pháp giới, chủ nghĩa
cá nhân có cơ nổi bật; cạnh tranh, xung đột, tranh luận và tranh chấp
cũng sẽ làm rối loạn sự ḥa điệu. Coi xung đột như chuyện đương nhiên,
là đường lối của các nền triết học xưa nay. Đạo Phật dựng lên một thế
giới trong đó đời sống hiện thực đạt tới chỗ ḥa điệu lư tưởng: The real
harmonized, or the world in which actuality attains harmony in itself.
In the actual world individualism is apt to predominate, and
competition, conflict, dispute and struggle too often will disturb the
harmony. To regard conflict as natural is the way of usual philosophies.
Buddhism sets up a world in which actual life attains an ideal harmony.
** For more
information, please see Tứ Pháp
Giới.
Tứ Cơi: Four
realms—See Bốn Cơi.
Tứ Cổ: Bốn kim
cang chùy—The four-armed svastika or thunderbolt.
Tứ Cú:
1)
Kệ bốn câu của Phật—Four lines of a Buddhist verse or gatha—The
four terms, phrases or four line verses.
2)
See Tứ Cú Phân Biệt.
Tứ Cú Chấp:
Catushkotika (skt)—Bốn thứ câu chấp của ngoại đạo—The four tenets held
by various non-Buddhist schools:
1)
Thường Cú: Câu Thường—Ngoại đạo chấp cái ‘ngă’ trong quá khứ tức
là cái ‘ngă’ trong hiện tại, tương tục chẳng gián đoạn, nên gọi là
thường kiến hay thường cú—The permanence of ego, i.e. that the ego of
past lives is the ego of the present.
2)
Vô Thường Cú: Câu Vô Thường—Ngoại đạo cho rằng cái ‘ngă’ đến đời
nay mới sanh, chẳng phải sanh do cái nhân trong quá khứ, đây là đoạn
kiến hay vô thường cú—Its permanence, i.e. that the present ego is of
independent birth, not the result from the past causes.
3)
Diệc Thường Diệc Vô Thường Cú: Chấp rằng ‘ngă’ thường, ‘thân’ vô
thường (nếu chấp như vậy th́ ĺa thân không có ngă)—Both permanent and
impermanent, that the ego is permanent, the body is impermanent.
4)
Phi Thường Phi Vô Thường Cú: Ngoại đạo cho rằng thân có khác nên
là phi thường; ngă th́ không khác nên là phi vô thường—Neither permanent
nor impermanent; that the body is impermanent, but the ego not
impermanent.
Tứ Cú Phân Biệt:
Catushkotika (skt)—Bốn câu phân biệt của vạn pháp—The four terms of
differentiation of all things (four points of argumentation).
(A)
Tứ Cú Tam Luận Tông—The four points of argumentation of the
Madhyamika School:
1)
Hữu: Hữu nhi bất không. Nếu chúng ta diễn tả câu trả lời, nó phải
là “Phải”—The existing. If we express our answer, it must be “Yes.”
2)
Không: Không nhi bất hữu. Nếu chúng ta diễn tả câu trả lời, nó
phải là “Không phải”—Non-existing. If we express our answer, it must be
“No.”
3)
Diệc Hữu Diệc Không: Vừa Hữu vừa Không. Nếu chúng ta diễn tả câu
trả lời, nó phải là “Vừa phải vừa không phải”—Both existing and
non-existing. If we express our answer, it must be “Either yes or no
according to circumstances.”
4)
Phi Hữu Phi Không: Chẳng phải có mà cũng chẳng phải không. Nếu
chúng ta diển tả câu trả lời, nó phải là “Vừa không phải, vừa không
không phải,” nghĩa là không đề cập đến câu hỏi hay không cần phải trả
lời—Neither existing nor Non-existing. If we express our answer, it must
be “Neither yes nor no,” i.e., having nothing to do with the question or
no use answering.
(B)
Tứ Cú Thành Thật Tông—See Tứ Cú Phân Biệt (A).
1)
Lư: Noumenal.
2)
Sự: Phenomenal.
3)
Vừa Lư vừa Sự: Both Noumenal and Phenomenal.
4)
Phi Lư phi Sự: Neither Noumenal nor Phenomenal.
(C)
1)
Lưỡng: Double.
2)
Đơn: Single.
3)
Vừa Lưỡng vừa Đơn: Both Double and Single.
4)
Phi Lưỡng phi Đơn: Neither Double nor Single.
Tứ Cú Suy Kiểm:
Dùng bốn câu để phân loại chư pháp—The four phrase classification of all
phenomena:
1)
Tự Nhân: Self-caused.
2)
Tha Nhân: Caused by another.
3)
Cộng Nhân: Caused by both (self and another).
4)
Vô Nhân: Caused by neither.
** For more
information, please see Tứ Bất
Sinh.
Tứ Cú Tam Luận Tông:
Theo Tam Luận Tông, tứ cú là căn bản của mọi luận chứng—According to the
San-Lun School, four points of argumentation are the bases of all
arguments—See Tứ Cú Phân Biệt (A).
Tứ Cú Thành Đạo:
Bốn câu thành đạo của một vị A La Hán, dựa vào vô sinh trí mà tụng đọc
bốn câu kệ nầy—The swan-song of an arhat, who has attained to the
perfect life:
Các lậu đă
hết,
All rebirths are ended,
Phạm hạnh đă lập;
The noble life established;
Việc làm đă xong.
My
work is accomplished.
Chẳng thụ hữu lậu.
No
further existence is mine.
Tứ Cúng Dường:
Four kinds of offerings.
1)
Hợp Chưởng: Anjali (skt)—Salutation with joined palms—See Anjali
in Sanskrit/Pali-Vietnamese Section.
2)
Dâng Nước Thơm: Argha (skt)—Offering of fragrant water.
3)
Chân Ngôn Ấn Khế: Manual signs for the Buddha true words—See Ấn
Khế.
4)
Vận Tâm: Vận tâm thành Phật—To practice one’s mind toward the
Buddhahood.
Tứ Cực Trọng Cảm
Đọa Tội: Tứ Ba La Di—Tứ Trọng—Tứ Khí—See Tứ Đọa Lạc.
Tứ Dạ Bát Trú:
The four hours of the night and the eight hours of the day:
(A)
Tứ Dạ từ 7 giờ tối đến 3 giờ sáng—The four hours of the night
from 7:00 PM to 3:00 AM:
1)
Giờ Tuất (từ 7 đến 9 giờ tối): The hours of the Dog from 7:00 PM
to 9:00 PM.
2)
Giờ Hợi (từ 9 đến 11 giờ tối): The hours of the Pig from 9:00 PM
to 11:00 PM.
3)
Giờ Tư (từ 11 giờ tối đến 1 giờ sáng): The hours of the Rat from
11:00 PM to 1:00 AM.
4)
Giờ Sửu (từ 1 đến 3 giờ sáng): The hours of the Buffalo (or the
Ox) from 1:00 AM to 3:00 AM.
(B)
Bát Trú từ 3 giờ sáng đến 7 giờ tối—The eight hours of the day
from 3:00 AM to 7:00 PM:
1)
Giờ Dần (từ 3 đến 5 giờ sáng): The hours of the Tiger from 3:00
AM to 5:00 AM.
2)
Giờ Mẹo (từ 5 đến 7 giờ sáng): The hours of the Cat (or the
Rabbit) from 5:00 AM to 7:00 AM.
3)
Giờ Th́n (từ 7 đến 9 giờ sáng): The hours of the Dragon from 7:00
AM to 9:00 AM.
4)
Giờ Tỵ (từ 9 đến 11 giờ sáng): The hours of the Serpent from 9:00
AM to 11:00 AM.
5)
Giờ Ngọ (từ 11 giờ sáng đến 1 giờ trưa): The hours of the Horse
from 11:00 AM to 1:00 PM.
6)
Giờ Mùi (từ 1 đến 3 giờ trưa): The hours of the Goat from 1:00 PM
to 3:00 PM.
7)
Giờ Thân (từ 3 đến 5 giờ chiều): The hours of the Monkey from
3:00 PM to 5:00 PM.
8)
Giờ Dậu (từ 5 giờ chiều đến 7 giờ tối): The hours of the Cock
from 5:00 PM to 7:00 PM.
Tứ Dân: The
four classes of people in the feudal society:
1)
Sĩ: Scholars.
2)
Nông: Farmers.
3)
Công: Craftsmen.
4)
Thương: Merchants.
Tứ Di Giới: Bốn
tội Ba La Di—See Tứ Đọa.
Tứ Di Tội: Bốn
tội Ba La Di—See Tứ Đọa.
Tứ Diện Tỳ Lô Giá
Na: Bốn mặt của Đức Tỳ Lô Giá Na, Pháp thân trí tuệ của Ngài—The
four-faced Vairocana, his dharmakaya of Wisdom.
Tứ Diệu Đế: Bốn
chân lư nhiệm mầu trong giáo lư nhà Phật, nói rơ v́ đâu có khổ và con
đường giải thoát. Người ta nói Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đă giảng bài
pháp đầu tiên về “Tứ Diệu Đế” trong vườn Lộc Uyển, sau khi Ngài giác ngộ
thành Phật. Trong đó Đức Phật đă tŕnh bày: “Cuộc sống chứa đầy đau khổ,
những khổ đau đó đều có nguyên nhân, nguyên nhân của những khổ đau nầy
có thể bị hủy diệt bằng con đường diệt khổ.”—Four Truths—The Four Noble
Truths—The Four Philosophies—A fundamental doctrine of Buddhism which
clarifies the cause of suffering and the way to emancipation. Sakyamuni
Buddha is said to have expounded the Four Noble Truths in the Deer Park
in Sarnath during his first sermon after attaining Buddhahood. The
Buddha organized these ideas into the Fourfold Truth as follows: “Life
consists entirely of suffering; suffering has causes; the causes of
suffering can be extinguished; and there exists a way to extinguish the
cause.”
1)
Khổ Đế: Duhkha-satya (skt)—Sự thật về khổ—Mọi hiện hữu đều có bản
chất khổ chứ không mang lại toại nguyện (sự khổ vô biên vô hạn, sanh khổ,
già khổ, bịnh khổ, chết khổ, thương yêu mà phải xa ĺa khổ, oán ghét mà
cứ gặp nhau là khổ, cầu bất đắc khổ, vân vân. Khổ đeo theo ngũ uẩn như
sắc thân, sự cảm thọ, tưởng tượng, h́nh ảnh, hành động, tri thức)—Suffering
or the pain—The truth of suffering—All existence entails suffering—All
existence is characterized by suffering and does not bring satisfaction.
2)
Tập Đế: Samudhaya-satya (skt)—Sự thật về căn nguyên của cái khổ—The
truth of accumulation.
·
Tập Đế là sự thật rơ ràng về nguồn gốc của những nỗi khổ—Truth
of the causes of suffering: Theo giáo lư nhà Phật, tham ái là nguyên
nhân của đau khổ. Những dục vọng xấu xa nảy nở từ những việc vụn vặt
trong gia đ́nh, lan ra ngoài xă hội, và nổ lớn thành chiến tranh giữa
các chủng tộc, giữa các quốc gia, hay giữa những phe nhóm của các quốc
gia trên thế giới—According to Buddhist tenets, craving or desire is the
cause of suffering. It creates dissension in the family and society that
degenerates into war between races, nations, and groups of nations in
the world.
·
Ngu si là nguyên nhân của mọi cái khổ (sự ham sống làm cho
chúng sanh cứ măi chết đi sống lại, hễ ham sống tất ham vui sướng, ham
quyền thế, ham tài sản, càng được càng ham)—The truth of the origin of
suffering or causes of suffering, or its location—All sufferings are
caused by ignorance, which gives rise to craving and illusions (craving
or grasping the wrong things), i.e. craving for life, for pleasure, for
power, for wealth; the more he earns, the more he wants.
3)
Diệt Đế: Nirodha-satya (skt)—Chân lư diệt khổ—Cứu cánh diệt khổ
là Niết bàn tịnh tịch (nếu chịu hạ ḷng tham xuống rồi bỏ nó đi, hay
trục nó ra khỏi ḿnh th́ gọi là diệt)—The truth of the cessation of
suffering (its cessation)—The truth of dissolution—Extinction of
suffering—There is an end to suffering, and this state of no suffering
is called Nirvana.
4)
Đạo Đế: Marga-satya (skt)—Chân lư về con đường diệt khổ, ấy là
thực hành Bát Thánh đạo. Đức Phật đă dạy rằng: “Bất cứ ai chấp nhận Tứ
Diệu Đế và chịu hành tŕ Bát Chánh Đạo, người ấy sẽ hết khổ và chấm dứt
luân hồi sanh tử.”—The truth of the PATH that leads to the cessation of
suffering (the way of cure)—The truth of the right way—The way of such
extinction—To practice the Eight-fold Noble Truths—Buddha taught:
“Whoever accepts the four dogmas, and practises the Eighfold Noble Path
will put an end to births and deaths.
Tứ Dụ: Bốn dẫn
dụ—The four metaphors of infinity:
1)
Sơn Cân: The weight of all the mountains in pounds.
2)
Hải Trích: The drops in the ocean.
3)
Địa Trần: The atoms of dust in the earth.
4)
Không Giới: The extent of space.
Tứ Dục: Four
desires or passions:
1)
T́nh Dục: Bị lôi cuốn bởi t́nh dục—Sexual love.
2)
Sắc Dục: Bị lôi cuốn bởi sắc đẹp—Attractiveness or Sexual beauty.
3)
Thực Dục: Tham ăn ngon—craving, or lust for good food.
4)
Dâm Dục (nhục dục): Lust.
Tứ Duy: Bốn
hướng phụ—The four half points (corners) of the compass:
1)
Đông Bắc: North-East.
2)
Tây Bắc: North-West.
3)
Đông Nam: South-East.
4)
Tây Nam: South-West.
Tứ Duyên Khởi:
See Tứ Duyên Sanh.
Tứ Duyên Sanh:
Tứ Duyên Khởi—Theo giáo thuyết tông Hoa Nghiêm, có bốn loại duyên khởi—According
to the doctrine of the Hua-Yen sect, there are four principal uses of
conditional causation:
1)
Nghiệp Cảm Duyên Khởi: Giáo lư duyên khởi của Tiểu Thừa, dưới ảnh
hưởng của nghiệp điều kiện tái sanh nẩy sanh—The conditional causation
of the Hinayana, i.e. under the influence of karma the conditions of
reincarnation arise—See Duyên Khởi (III) (1).
2)
Lại Da Duyên Khởi: Thủy giáo của Đại Thừa, tất cả vạn sự vạn vật
đều khởi lên từ A Lại Da Thức hay Tàng Thức—The doctrine of the
conditional causation of the Mahayana, that all things arise from the
Alaya or fundamental store—See A Lại Da Thức, and Duyên Khởi (III) (2).
3)
Như Lai Tạng Duyên Khởi hay Chân Như Duyên Khởi: Chung Giáo của
Đại Thừa, tất cả vạn sự vạn vật đều khởi lên từ Như Lai Tạng hay chân
như—The doctrine of conditional causation of the advancing Mahayana,
that all things arise from the Tathagata-Garbha or Bhutatathata—See Như
Lai Tạng, and Duyên Khởi (III) (3).
4)
Pháp Giới Duyên Khởi: Viên Giáo (trừ Đốn Giáo v́ loại nầy theo
tông chỉ ‘vô tướng ly ngôn’), trong đó một là tất cả, tất cả là một—The
doctrine of conditional causation of Complete Mahayana, in which one is
all and all are one, each being a universal cause—See Pháp Giới Duyên
Khởi, and Duyên Khởi (III) (4).
Tứ Dự Lưu Hướng Chi:
Sotapattiyangani (p)—Four factors of Stream-Attainment—Theo Kinh Phúng
Tụng trong Trường Bộ Kinh, có bốn Dự Lưu Quả Chi—According to the
Sangiti Sutta in the Long Discourses of the Buddha, there are four
factors of Stream-Attainment:
1)
Thiện nhân thân cận (đi lại với thiện hữu tri thức):
Sappurisa-samseva (p)—Association with good people.
2)
Diệu Pháp thính thọ (nghe Chánh Pháp): Hearing the true Dharma.
3)
Như lư tác ư: Thorough attention.
4)
Pháp tùy pháp hành (thực hành giáo pháp liên tục): Practicing of
the Dharma in its entirety.
Tứ Dự Lưu Quả Chi:
Four characteristics of a Stream-Winner—Theo Kinh Phúng Tụng trong
Trường Bộ Kinh, có bốn Dự Lưu Quả Chi—According to the Sangiti Sutta in
the Long Discourses of the Buddha, there are four characteristics of a
Stream-Winner:
1)
Thành Tựu Ḷng Tin Tuyệt Đối Với Phật: Ở đây Thánh đệ tử thành
tựu ḷng tin tuyệt đối với Phật, đây là Thế Tôn, bậc A La Hán, Chánh
Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều
Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật—Here, the Ariyan disciple is
possessed of unwavering confidence in the Buddha, this: “This Blessed
Lord is an Arahant, a fully-enlightened Buddha, endowed with wisdom and
conduct, the Well-Farer, Knower of the worlds, incomparable Trainer of
men to be tamed, Teachers of gods and humans, enlightened and blessed.
2)
Thành Tựu Ḷng Tin Tuyệt Đối Với Pháp: Vị nầy thành tựu ḷng tin
tuyệt đối đối với Pháp, đây là Pháp được Đức Thế Tôn khéo léo thuyết
giảng, Pháp ấy là thiết thực hiện tại, vượt ngoài thời gian, đến để mà
thấy, có hiệu năng hướng thượng, chỉ người có trí mới tự ḿnh giác hiểu—He
is possessed of unwavering confidence in the Dharma, thus:
“Well-proclaimed by the Lord is the Dharma, visible here and now,
timeless, inviting inspection, leading onward, to be comprehended by the
wise each one for himself.”
3)
Thành Tựu Ḷng Tin Tuyệt Đối Nơi Giáo Đoàn: Vị ấy thành tựu ḷng
tin tuyệt đối nơi chúng Tăng. Chúng Tăng đệ tử của Thế Tôn là đầy đủ
diệu hạnh, đầy đủ trực hạnh, đầy đủ như lư hạnh, đầy đủ chánh hạnh; đây
là bốn đôi tám vị. Chúng Tăng đệ tử của Thế Tôn này đáng cung kính, đáng
tôn trọng, đáng được cúng dường, đáng được chấp tay, là phước điền vô
thượng ở đời—He is possessed of unwavering confidence in the Sangha,
thus: “Well-directed is the Sangha of the Lord’s disciples, of upright
conduct, on the right path, on the perfect path; that is to say the four
pairs of persons, the eight kinds of men. The Sangha of the Lord’s
disciples is worthy of veneration, an unsurpassed field of merit in the
world.”
4)
Thành Tựu Giới Đức Được Các Vị Thánh Ái Mộ: Vị nầy thành tựu giới
đức được các bậc Thánh ái mộ, không bị hư hoại, không bị t́ vết, được
thực hành liên tục, không bị khiếm khuyết, khiến con người tự tại, được
bậc Thánh tán thán, không bị nhiễm ô, hướng đến thiền định—He is
possessed of morality dear to the Noble Ones, unbroken, without defect,
unspotted, without inconsistency, liberating, praised by the wise,
uncorrupted, and conducive to concentration.
Tứ Đại:
Catudhatuvavatthana (p)—Mahabhuta (skt)— Four tanmatra—Bốn yếu tố lớn
cấu tạo nên vạn hữu. Bốn thành phần nầy không tách rời nhau mà liên quan
chặt chẽ lẫn nhau. Tuy nhiên, thành phần nầy có thể có ưu thế hơn thành
phần kia. Chúng luôn thay đổi chứ không bao giờ đứng yên một chỗ trong
hai khoảnh khắc liên tiếp. Theo Phật giáo th́ vật chất chỉ tồn tại được
trong khoảng thời gian của 17 chập tư tưởng, trong khi các khoa học gia
th́ cho rằng vật chất chỉ chịu đựng được 10 phần 27 của một giây. Nói ǵ
th́ nói, thân thể của chúng ta chỉ là tạm bợ, chỉ do nơi tứ đại ḥa hợp
giả tạm lại mà hành, nên một khi chết đi rồi th́ thân tan về cát bụi,
các chất nước th́ từ từ khô cạn để trả về cho thủy đại, hơi nóng tắt mất,
và hơi thở hoàn lại cho gió. Chừng đó th́ thần thức sẽ phải theo các
nghiệp lực đă gây tạo lúc c̣n sanh tiền mà chuyển vào trong sáu nẻo, cải
h́nh, đổi xác, tiếp tục luân hồi không dứt—Four great elements of which
all things are made (produce and maintain life). These four elements are
interrelated and inseparable. However, one element may preponderate over
another. They constantly change, not remaining the same even for two
consecutive moments. According to Buddhism, matter endures only for 17
thought-moments, while scientists tell us that matter endures only for
10/27th of a second. No matter what we say, a human body is temporary;
it is created artificially through the accumulation of the four
elements. Once death arrives, the body deteriorates to return to the
soil, water-based substances will gradually dry up and return to the
great water, the element of fire is lost and the body becomes cold, and
the great wind no longer works within the body. At that time, the spirit
must follow the karma each person has created while living to change
lives and be reincarnated into the six realms, altering image, exchange
body, etc in the cylce of births and deaths—Four constituents:
1)
Địa Đại (Kiên): Prithin (skt)—Pathavi (p)—Đất (tóc, răng, móng,
da, thịt, xương, thận, tim, gan, bụng, lá lách, phổi, bao tử, ruột, phẩn,
và những chất cứng khác). Địa Đại là thành phần vật chất mở rộng hay thể
nền của vật chất. Không có nó vật thể không có h́nh tướng và không thể
choán khoảng không. Tính chất cứng và mềm là hai điều kiện của thành
phần nầy. Sau khi chúng ta chết đi rồi th́ những thứ nầy lần lượt tan ră
ra thành cát bụi, nên nó thuộc về Địa Đại—Earth—Solid matter. Prithin
means the element of extension, the substratum of matter. Without it
objects have no form, nor can they occupy space. The qualities of
hardness and softness are two conditions of this element. After death,
these parts will decay and deteriorate to become soil. For this reason,
they belong to the Great Soil.
2)
Thủy Đại (Thấp): Apas (skt)—Apo (p)—Nước (đàm, mủ, máu, mồ hôi,
nước tiểu, nước mắt, nước trong máu, mũi dăi, tất cả các chất nước trong
người nói chung). Không giống như địa đại, nó không thể nắm được. Thủy
đại giúp cho các nguyên tử vật chất kết hợp lại với nhau. Sau khi ta
chết đi rồi th́ những chất nước nầy thảy đều cạn khô không c̣n nữa, nói
cách khác chúng hoàn trả về cho nước—Water, fluidity, or liquid. Unlike
the earth element it is intangible. It is the element which enables the
scattered atoms of matter to cohere together. After death, these
water-based substances will dry up. In other words, they have returned
to water.
3)
Hỏa Đại (Noăn): Tjas (skt)—Tejo (p)—Lửa (những món gây ra sức
nóng để làm ấm thân và làm tiêu hóa những thứ ta ăn uống vào). Hỏa đại
bao gồm cả hơi nóng lạnh, và chúng có sức mạnh làm xác thân tăng trưởng,
chúng là năng lượng sinh khí. Sự bảo tồn và phân hủy là do thành phần
nầy.Sau khi ta chết, chất lửa trong người tắt mất, v́ thế nên thân xác
dần dần lạnh—Fire or heat. Fire element includes both heat and cold, and
fire element possesses the power of maturing bodies, they are vitalizing
energy. Preservation and decay are due to this element. After death,
the element of fire is lost and the body gradually becomes cold.
4)
Phong Đại (Động): Vayu (skt)—Vayo (p)—Gió (những chất hơi thường
lay chuyển, hơi trong bao tử, hơi trong ruột, hơi trong phổi). Gió là
thành phần chuyển động trong thân thể. Sau khi ta chết rồi th́ hơi thở
dứt bặt, thân thể cứng đơ v́ phong đại đă ngừng không c̣n lưu hành trong
cơ thể nữa—Air, wind, motion, or energy of motion. Air element is the
element of motion in the body. After death, breathing ceases, body
functions become catatonic or completely rigid because the great wind no
longer works within the body.
Tứ Đại Bất Điều:
Bốn yếu tố lớn không ḥa hợp với nhau sẽ khiến cho cơ thể sanh ra 440
thứ bệnh hoạn—The inharmonious working of the four elements in the body,
which causes the 440 ailments.
Tứ Đại Bồ Tát Trong
Kinh Pháp Hoa: Bốn vị Bồ Tát lớn trong Kinh Pháp Hoa—Four Great
Bodhisattvas of Lotus Sutra:
(A)
1)
Di Lặc Bồ Tát: Maitreya.
2)
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát: Manjusri.
3)
Quán Thế Âm Bồ Tát: Avalokitesvara.
4)
Đại Thế Chí Bồ Tát: Samantabhadra.
(B)
1)
Thượng Hạnh: Visistacaritra.
2)
Vô Biên Hạnh: Anantacaritra.
3)
Tịnh Hạnh: Visuddhacaritra.
4)
An Lập Hạnh: Supratisthitacaritra.
Tứ Đại Bộ Châu: The four great continents of the world—See Tứ
Châu.
Tứ Đại Bộ Kinh: Four great sutras:
1)
Hoa Nghiêm: Avatamsaka Sutra—The Flower Ornament Scripture.
2)
Bảo Tích: Maharatnakuta.
3)
Bát Nhă: Prajna.
4)
Niết Bàn: Nirvana.
Tứ Đại Châu: The four great continents of the world—See Tứ Châu.
Tứ Đại Chủng: See Tứ Đại.
Tứ Đại Danh Sơn: Bốn ngọn núi hay bốn tự viện nổi tiếng bên Trung
Quốc—The four famous hills or monasteries in China:
1)
Phổ Đà Sơn: Chỗ ở của Đức Quán Âm, tiêu biểu cho Thủy Đại—P’u-T’o
Shan, for Kuan-Yin, element water.
2)
Ngũ Đài Sơn: Chỗ ở của Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, tiêu biểu cho
Phong Đại—Wu-T’ai Shan, for Manjusri (Wên-Shu), element Wind.
3)
Nga Mi Sơn: Chỗ ở của Ngài Phổ Hiền, tiêu biểu cho Hỏa Đại—O-Mei
Shan, for Samantabhadra (P’u-Hsien), element Fire.
4)
Cửu Hoa Sơn: Chỗ ở của Ngài Địa Tạng Bồ Tát—Chiu-Hua Shan, for
Earth-Store Bodhisattva (Ti-Tsang), element Earth.
Tứ Đại Đệ Tử: Bốn đệ tử lớn của Đức Phật—Four great disciples of
the Buddha:
(A)
1)
Sariputra: Xá Lợi Phất (đệ nhứt trí huệ).
2)
Mahamaudgalyayana: Ma Ha Mục Kiền Liên (đệ nhứt thần thông).
3)
Subhuti: Tu Bồ Đề (đệ nhứt hạnh không).
4)
Mahakasyapa: Ma Ha Ca Diếp (đệ nhứt khổ hạnh).
(B)
1)
Ma Ha Ca Diếp: Mahakasyapa.
2)
Tân Đầu Lư: Pindola.
3)
La Hầu La: Rahula.
4)
Quân Đề Bạt Thán: Kaundinya.
Tứ Đại Đệ Tử Phật:
See Tứ Đại Đệ Tử.
Tứ Đại Hải: Bốn
biển lớn ở bốn phía của núi Tu Di, trong mỗi biển lớn đều có một đại
châu—The four great oceans in a world, around Sumeru, in which are the
four great continents.
** For more
information, please see Tứ Châu.
Tứ Đại Hộ Pháp:
The four great guardian devas of the four quarters:
1)
Kim Cang Vô Thắng Kết Hộ: South Guardian deva.
2)
Vô Úy Kết Hộ: East guardian deva.
3)
Hoại Chư Bố Kết Hộ: North guardian deva.
4)
Nan Giáng Phục Kết Hộ: West guardian deva.
Tứ Đại Minh Vương:
Bốn vị thiên vương trị v́ bốn hướng, thường hộ pháp trong các tự viện—The
four deva-kings of the four quarters, guardians in a monastery—See Tứ
Thiên Vương.
Tứ Đại Nguyên Vô
Chủ: Triệu Pháp Sư, đời Diêu Tần vào thế kỷ thứ tư sau Tây Lịch, lúc
gần tịch có làm bài kệ—The verse uttered by Chao Fa-Shih when facing
death under the Yao-Ch’in Emperor, fourth century AD:
Tứ đại nguyên vô
chủ,
No master have the
four elements,
Ngũ uẩn giai không,
Unreal are the
five skandhas,
Khi đầu đáo bạch
đao,
When my head meets
the white blade,
Mới biết ḿnh đang
xẻ gió Xuân.
T’will be but
slicing the spring wind.
Tứ Đại Phật Hộ Viện:
Nhóm thứ mười ba trong Thai Tạng Giới—The thirteen group of the
Garbhadhatu.
Tứ Đại Phiền Năo:
Four fundamental evil passions—Bốn thứ nầy được xem là những phiền năo
căn bản bắt nguồn từ kiến giải cho rằng thực sự có một bản thể được gọi
là ngă-linh hồn thường hằng—These four are regarded as the fundamental
evil passions originating from the view that there is really an eternal
substance known as ego-soul.
1)
Ngă Kiến: Atmadrishti (skt)—Tin vào sự hiện hữu của một ngă thể—The
belief in the existence of an ego-substance.
2)
Ngă Si: Atmamoha (skt)—Sự mê muội về cái nhă—Ignorance about the
ego.
3)
Ngă Mạn: Atmamana (skt)—Kiêu mạn về cái ngă—Conceit about the
ego.
4)
Ngă Ái: Atmasukha (skt)—Tự yêu thương ḿnh—Self-love.
Tứ Đại Sư: Bốn
vị sư đứng đầu trong tự viện, được nhà vua chính thức bổ nhiệm (dưới
thời nhà Đường)—The four monastic heads imperially appointed during the
T’ang dynasty.
Tứ Đại Thanh Văn:
Bốn vị Thanh văn vào thời Đức Phật—The four great sravakas—See Tứ Đại Đệ
Tử.
Tứ Đại Thiên Vương:
Catummaharajika (p)—Gồm bốn chi đối lại với bốn hướng; mỗi hướng được
ngự trị bởi những Đại Thiên Vương và các á thần—The Realm of the Four
Great Kings which has four divisions corresponding to the four
directions (quarters); each is ruled over by its own guardian deity and
inhabited by a different class of demi gods--See Tứ Thiên Vương.
Tứ Đại Tứ Vương:
Catur-maharajas or Lokapalas (skt)—Bốn vị Thiên Vương trị v́ quanh núi
Tu Di, canh giữ sự tấn công của ác thần hay A-Tu-La, v́ vậy có tên là Hộ
Thế Tứ Thiên Vương—The four deva-kings. Indra’s external ‘generals’ who
dwell each on a side of Mount Meru, and who ward off from the world the
attacks of malicious spirits, or asuras, hence they obtained their names
as the four deva-kings or the guardians of the world—See Tứ Thiên Vương.
Tứ Đại Vương Thiên:
Catur-maharaja-kayikas (skt)—Bốn cơi trời của bốn vị Thiên Vương—The
four heavens of the four deva-kings--See Tứ Thiên Vương.
Tứ Đàn Pháp:
Four kinds of altar-worship—See Tứ Chủng Đàn Pháp.
Tứ Đao Lợi Giao
H́nh: Sự giao h́nh (hay giao hợp) giữa nhất và nhị thiên, như giữ Tứ
Thiên Vương và Đao Lợi Thiên—Copulation in the first and the second
devalokas, i.e. the four heavenly kings (catur-maharajas) and the
Trimyastrimsas:
1)
Tam Thiên giao h́nh bằng cách ôm nhau: In the third, it is by
embrace.
2)
Tứ Thiên giao h́nh bằng cách nắm tay: In the fourth, by holding
hands.
3)
Ngũ Thiên giao h́nh bằng cách cùng cười: In the fifth, by mutual
smiling.
4)
Lục Thiên giao h́nh bằng cách cùng ngó nhau: In the sixth, by a
mutual look.
Tứ Đảo: The
four viparvaya (inverted or false beliefs)—See Tứ Điên Đảo.
Tứ Đạo: Bốn con
đường hay bốn cách tu hành dẫn đến Niết Bàn—The four modes of progress
or stages—The “Tao” or road means the nirvana-road:
1)
Gia Hạnh Đạo: Ra sức thực hành tam học vị, tam hiền, tứ thiện căn
đến tam tu giới định tuệ. Giai đoạn nầy liên hệ tới Thánh quả dự lưu Tu
Đà Hườn—Discipline or effort to cultivate from the four good roots to
the three studies (morality, meditation and wisdom). This stage
associated with the stage of a Srota-apanna.
2)
Vô Gián Đạo: Hành vi phát chánh trí đoạn trừ phiền năo sau khi
công đức gia hạnh đă thành tựu. Giai đoạn nầy liên hệ tới giai đoạn của
nhị Thánh Tư Đà Hàm—Uninterrupted progress to the stage in which all
delusion is banished. This stage associated with the stage of a
Sakrdagamin.
3)
Giải Thoát Đạo: Hành vi sanh nhất niệm chánh trí và chứng ngộ
chân lư sau khi đă thành tựu vô gián đạo. Giai đoạn nầy liên hệ tới giai
đoạn của Tam quả A Na Hàm—Liberation or freedom, reaching the state of
assurance or proof and knowledge of the truth. This stage associated
with the stage of an Anagamin.
4)
Thắng Tiến Đạo: Hành vi ngày càng tăng tiến để tăng trưởng định
tuệ sau khi đă thành tựu giải thoát đạo. Giai đoạn nầy liên hệ tới giai
đoạn thành tựu của bậc A La Hán—Surpassing progress in dhyana-wisdom.
This stage associates with the stage of an Arhat.
Tứ Đáp: The
Buddha’s four methods of dealings with questions—See Tứ Kư.
Tứ Đạt:
Saindhava (skt)—Tiên Đà Bà—Bốn thứ cần thiết—The four neccesaries:
1)
Muối cho thức ăn: Salt for food.
2)
Nước để rửa rái: Water for washing.
3)
B́nh đựng nước: A utensil or a vessel to contain water.
4)
Ngựa để làm phương tiện hoằng hóa: A horse for progress in
spreading the Buddha-truth.
Tứ Đẳng:
(A) Chư Phật Tứ Đẳng:
Tứ Vô Lượng Tâm (Từ, Bi, Hỷ, Xả)—The four virtues which a Buddha out of
his infinte heart manifest equally to all:
1)
Tự Đẳng: Chư Phật ba đời đều có một danh hiệu như nhau (đều được
gọi là Phật)—All Buddhas have the same title or titles.
2)
Ngữ Đẳng: Chư Phật ba đời đều dùng một thứ ngôn ngữ mà giảng
thuyết (Phạn Ngữ)—All the Buddhas speak the same language (Sanskrit).
3)
Pháp Đẳng: Chư Phật ba đời đều được ba mươi bảy phẩm trợ đạo như
nhau—All Buddhas proclaim the same truth (thirty-seven aids to
enlightenment)—See Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo.
4)
Thân Đẳng: Chư Phật ba đời đều có ba thân (Pháp, Báo, Hóa) như
nhau—All Buddhas have each the threefold body or trikaya.
(B)
1)
Chư Pháp Tứ Đẳng Kể Cả Chân Như: All things are equally included
in the Bhutatathata.
2)
Phát Tâm Đẳng: Lư tính sở y b́nh đẳng, nên tâm năng phát cũng
b́nh đẳng—The mind nature being universal, its field of action is
universal.
3)
Đạo Đẳng: Phát tâm b́nh đẳng, nên đạo sở hành cũng b́nh đẳng—The
way or method is also universal.
4)
Từ Bi Đẳng: Đạo sở hành b́nh đẳng, nên đức từ bi được thể hiện ra
khi đắc đạo cũng b́nh đẳng—The mercy of the Buddhas is universal for
all.
Tứ Đế:
Catvari-arya-satyani—Bốn giáo thuyết căn bản của Đức Phật Thích Ca, gồm
có khổ, tập, diệt, đạo—The four dogmas or noble truths—The primary
fundamental doctrine of Sakyamuni, including suffering, the cause of
suffering, the possibility of its cure or extinction, and the way to
extinction.
** For more
information, please see Tứ Diệu
Đế and Tứ Thánh
Đế, and Bát Chánh Đạo
in
Vietnamese-English Section.
Tứ Đế Kinh:
Kinh Tứ Đế được Ngài An Thế Cao soạn, một quyển—The sutra of the four
dogmas, composed by An-Shih-Kao, one book.
Tứ Đệ Nhứt Kệ:
Đệ nhứt nghĩa kệ bốn câu trong Trang Nghiêm Luận—A verse from the Chuang-Yen-Luan:
Sức khỏe là
tài sản đệ nhứt,
Health is the
best wealth,
Tri túc là
giàu có đệ nhứt,
Contentment
the best riches,
T́nh bằng hữu
là liên hệ đệ nhứt,
Friendship the
best relationship,
Niết Bàn là
hỷ lạc đệ nhứt.
Nirvana the
best joy.
Tứ Điên Đảo:
The four viparvaya—Four inverted, upside-down, or false beliefs—Bốn lối
suy nghĩ điên đảo khiến cho chúng sanh xoay vần trong sanh tử. Trong bốn
điên đảo nầy, mỗi điên đảo đều có thể được cảm thọ theo ba cách—Four
ways of upside-down thinking that cause one to resolve in the birth and
death.
(A)
1)
Thường: Vô thường mà cho là thường; thường mà cho là vô thường—Permanent
(Buddhist doctrine emphasizes that all is impermanent. Only Nirvana is
permanent—Mistaking the impermanent for the permanent.
2)
Lạc: Khổ mà cho là lạc; lạc th́ lại cho là khổ—Joy (All is
suffering. Only Nirvana is joy—Mistaking what is not bliss for bliss.
3)
Ngă: Vô ngă mà cho là ngă; hữu ngă mà cho là vô ngă—Self or
personal (All is non-self or without a soul—Mistaking what is not self
for self.
4)
Tịnh: Bất tịnh mà cho là tịnh; t́nh mà cho là bất tịnh—Purity
(All is impure. Only Nirvana is pure—Mistaking what is impure for pure.
(B)
1)
Tham: Greed.
2)
Sân: Hatred.
3)
Si: Stupidity.
4)
Mạn: Pride.
(D)
Theo niềm tin thông thường của Phật giáo, nhưng bị truyền thống
giáo lư nguyên thủy chối bỏ—According to the common Buddhist belief,
which denied by the early Budhist doctrine:
1)
Vô Thường: Impermanent—Trước hết chúng ta bị đánh lừa bởi những
bộ mặt tạm bợ bên ngoài của sự vật. Chúng không lộ vẻ là đang thay đổi,
chứng tỏ ổn định trước các giác quan hay các căn si muội của chúng ta.
Chúng ta không cảm nhận những quá tŕnh trong biến dịch sinh động mà chỉ
cảm nhận những thực thể đang tiếp tục tồn tại như chúng ta tưởng. Sự
tương tự, v́ lẽ nó cho thấy một chuỗi biến dịch theo một hướng cho sẵn,
nên thường bị nhận lầm là sự giống y. Nếu sự hiểu biết sai lạc nầy bén
rễ vững chắc trong tâm ta, th́ mọi sự chấp thủ và ham muốn sự vật và
con người sẽ được h́nh thành và chúng sẽ được mang theo nhiều phiền muộn,
v́ nh́n sự vật và con người theo cách nầy th́ chính là nh́n chúng qua
một tấm gương méo mó. Đấy không phải là nh́n chúng một cách dúng đắn,
đấy là nh́n chúng một cách điên đảo mà xem như là thường hằng vậy—We are
deceived by the momentary exterior appearance of things. They do not
appear to be changing; they appear to our delusion-dulled sense as
static. We do not perceive processes in dynamic change but only as we
think, entities which go on existing. Similarity, due to a line of
change in a given direction, is often mistaken for sameness. If this
misapprehension is firmly rooted in our mind, all sorts of attachments
and cravings for things and people, including attachment to oneself will
be formed and these bring them much sorrow, for to regard things and
people in this way is to regard them as through a distorting glass. It
is not seeing them correctly, it is seeing them invertedly as though
permanent.
2)
Khổ: Sufering—Khổ đau xuất hiện một cách điên đảo thành ra lạc
thú. Như vậy con người phung phí nhiều đời sống quư báu của họ vào “lạc
thú” này hay “lạc thú” khác v́ họ không bao giờ thỏa măn được những ǵ
họ khao khát nên họ bị đẩy đưa từ sự việc này sang sự việc khác. “Lạc
thú” có thể sản sinh ra những cảm thọ thoải mái nhất thời của hạnh phúc
trần tục, nhưng chúng luôn luôn được nối tiếp bằng chán nản, hối tiếc,
mong cầu một cảm xúc khác nữa, biểu thị sự vắng bóng của một thỏa măn
thật sự. Những ai thích thú trong tham, sân, si hiển nhiên là những kẻ
đang nỗ lực một cách điên đảo để hưởng thọ những ǵ không thể hưởng thọ.
Khổ đau đi liền với bất cứ trạng thái nào có tham, sân, si nhập vào.
Không thể mong có được sự thỏa măn khi có sự vận hành của ba căn bản bất
thiện ấy, v́ ba căn bản nầy luôn vận hành quanh những ǵ vốn tự bản chất
đă là khổ đau—The unsatisfactory invertedly appears to be pleasant. Thus
people fritter away much of their precious lives on this or that
‘pleasure’ and as they never actually get the satisfaction they crave
for, so they are driven on from one thing to another. ‘Pleasures’ may
produce temporary feelings of ease, of worldly happiness, but they are
always linked to succeeding disappointment, regret, longing for some
other emotion indicating an absence of real satisfaction. Those who
actually rejoice in Greed, Aversion or Delusion are of course,
invertedly trying to enjoy what is not enjoyable. Dukkha is linked to
any mental state into which the above Three roots enter. Nothing really
satisfactory can be expected where they operate as they certainly do in
turning round what is by nature unsatisfactory and making it appear the
opposite.
3)
Vô Ngă: Impersonal—Theo Phật giáo, chúng sanh kể cả con người, có
là do nhân duyên ḥa hợp, một sự ḥa hợp của năm uẩn (sắc, thọ, tưởng,
hành, thức). Khi năm uẩn tập hợp th́ gọi là sống, khi năm uẩn tan ră th́
gọi là chết. Điều nầy Đức Phật gọi là “vô ngă.”—Sentient beings
including human beings come into being under the law of conditioning, by
the union of five aggregates or skandhas (material form, feeling,
perception, mental formation or dispositions, and consciousness). When
these aggregates are combined together, they sustain life; if they
disintegrate, the body will die. This the Buddha called
“Impersonal.”—See Vô Ngă.
4)
Bất Tịnh: Impure.
** For more
information, please Tam Điên
Đảo, Thất Điên
Đảo, and Bát Điên Đảo in
Vietnamese-English Section.
Tứ Điền: Bốn
mảnh ruộng phước điền—The four fields for cultivating happiness
(blessing)—See Tứ phước điền:
1)
To animals: Nơi súc sanh.
2)
To the poor: Cho người nghèo.
3)
To parents: Với song thân.
4)
To the religion: Cho việc hoằng dương chánh pháp.
Tứ Định: Tứ
Thiền Thiên và Tứ Thiền tương ứng—The four dhyana havens of form, and
the four degrees of dhyana corresponding to them—See Tứ Thiền Thiên.
Tứ Đọa:
Parajikas (skt)—Tứ Ba La Di—Tứ Cực Trọng Cảm Đọa Tội—Tứ Khí—Tứ Trọng—Những
tội lỗi mà chư Tăng Ni có thể phạm phải được xếp theo mức độ nặng nhẹ.
Các lỗi nặng nhất được xếp dưới tiêu đề Ba La Di (Parajika), khiến phải
bị trục xuất ra khỏi Tăng Ni chúng. Chữ Parajika được lấy từ gốc chữ Bắc
Phạn Para và Jika có nghĩa là ĐỌA. Tứ Đọa có nghĩa là bốn tội Ba La Di
thoái đọa pháp phải bị khai trừ khỏi Tăng Chúng. Theo quan điểm xuất gia
của Phật giáo th́ những vi phạm nầy được xem là có tính chất nghiêm
trọng. Bất cứ vị Tăng nào, bất kể thứ bậc và thâm niên trong Giáo Đoàn,
hễ phạm phải một trong Tứ Ba La Di nầy sẽ bị trục xuất khỏi Giáo Đoàn.
Một khi bị trục xuất sẽ không bao giờ được phép trở lại Giáo Đoàn (bất
cứ hệ phái nào trong Phật Giáo). Những vị nầy sẽ vĩnh viễn bị đọa lạc.
V́ thế mà Đức Phật khuyến cáo chư Tăng Ni phải cẩn trọng đừng để vướng
phải một trong Tứ Ba La Di nầy—The four grave prohibitions or sins—The
offences that may be committed by monks and nuns have been classified
according to their gravity. The worst offences grouped under the heading
“Parajika,” which entailed the expulsion of the guilty from the
community of monks and nuns. The word Parajika is derived from the
Sanskrit root Para and Jika which means that makes DEFEAT. Four
parajikas mean four causes of falling from grace and final
excommunication or expulsion of a monk or nun. According to the monastic
point of view, these offences are regarded as very serious in nature.
Any monks, regardless of their ranks and years in the Order, violate any
one of these offences, are subject to expulsion from the Order. Once
they are expelled, they are never allowed to join the Order again. They
are defeated forever. Therefore, the Buddha cautioned all monks and nuns
not to indulge in any one of them:
(A)
Theo Đại Thừa và Tiểu Thừa—According to the Mahayana and Hinayana:
1)
Sát: Giết hại chúng sanh—Vadha-himsa (skt)—Killing—See Sát Sanh.
2)
Đạo: Trộm Cắp—Adattadana (skt)—Stealing—See Trộm Cắp.
3)
Dâm Dục: Phạm tội thông dâm—Abrahmacarya (skt)—Adultery—Sexual
immorality or bestiality—See Dâm.
4)
Vọng: Vọng ngữ hay nói dối—Uttaramanusyadharma-pralapa (skt)—False
speaking—Falsity—See Nói Dối, and Nói Lời Đâm Thọc.
(B)
Theo Mật Giáo—According to the Esoteric sect:
1)
Xả Chánh Pháp: Phế bỏ Chánh Pháp—Discarding the truth.
2)
Xả Bồ Đề Tâm: Phế bỏ Bồ Đề tâm—Discarding the Bodhi-mind.
3)
Khan Lận Thắng Pháp: Ích kỷ trong việc truyền bá Chánh Pháp—Being
mean or selfish in regard to the supreme law.
4)
Năo Hại Chúng Sanh: Làm tổn hại đến chúng sanh—Injuring the
living.
Tứ Đọa Lạc Pháp:
See Tứ Đọa.
Tứ Đoạn: Four
cuts—See Tứ Giới (D).
Tứ Đoạt Niệm Phật:
Buddha Recitation and the Four Realizations—Theo Ḥa Thượng Thích Thiền
Tâm trong Niệm Phật Thập Yếu, môn niệm Phật văng sanh là giáo pháp viên
đốn Đại thừa bởi người tu lấy sự giác ngộ quả địa làm điểm phát tâm ở
nhân địa. Từ một phàm phu trong tứ sanh lục đạo, nhờ Phật tiếp dẫn mà
lên ngôi Bất Thối, đồng hàng với bậc thượng vị Bồ Tát; nếu chẳng phải
chính miệng Phật nói ra, ai có thể tin được? Bởi muốn vào vị sơ trụ lên
ngôi Tín Bất Thối, người tu các giáo môn khác phải trải qua một muôn
kiếp mà mỗi đời đều phải liên tục tinh tấn tu hành. Nếu nói đến vị Bất
Thối, Hạnh Bất Thối, Niệm Bất Thối lại c̣n xa nữa! Về môn Tịnh Độ, hành
giả đă tin Phật lực lại dùng hết tự lực, tất muôn người tu muôn người
văng sanh, siêu thoát khỏi luân hồi không c̣n thối chuyển. Nếu dùng hạnh
niệm Phật để phát minh tâm địa, ngộ tánh bản lai, th́ Tịnh Độ tông không
khác với các tông phái kia. C̣n dùng Tịnh Độ để văng sanh cơi Phật th́
Tịnh Độ lại có phần đặc biệt hơn. Tịnh Độ có môn Tứ Đoạt mà các tông
khác không có. Chữ “Đoạt” có nghĩa là thông suốt lư thể. Bởi toàn thể
pháp giới là nhất tâm, người và cảnh đều như huyễn, nếu thấy có người
văng sanh, có cảnh để sanh về, là c̣n chấp nhơn chấp pháp, phân biệt kia
đây, nên gọi là không đoạt, tức không thông suốt lư thể. Và trái lại,
tức là đoạt. Cổ đức nói: “Có niệm đồng không niệm. Không sanh tức là
sanh. Chẳng phiền dời nửa bước. Thân đến giác vương thành” là ư nầy vậy.
Người và cảnh đều đoạt là mức cao tuyệt của hành giả niệm Phật. Nhưng y
theo ba kinh Tịnh Độ và Thiên Thân Luận (Kinh Phật Thuyết A Di Đà, Vô
Lượng Thọ, và Quán Vô Lượng Thọ—Thiên Thân Luận, Tứ Văng Sanh Luận hay
Vô Lượng Thọ Kinh Luận) th́ nên lấy “người và cảnh đều không đoạt” làm
tông, mới hợp với ư nghĩa của hai chữ văng sanh. Bởi Đức Như Lai biết
hàng phàm phu ở cơi ngũ trược, nhứt là vào thời mạt pháp nầy, nghiệp
chướng sâu nặng, nên Ngài lập cảnh tướng để cho chúng sanh y theo đó trụ
tâm tu hành, c̣n khó có kết quả nói chi đến việc ĺa tướng? . Phàm phu
thời mạt pháp trụ tướng mà tu tất hạnh nguyện dễ khẩn thiết, kết quả
văng sanh cũng dễ đoạt thành. Khi về Tây Phương chừng ấy lo ǵ không
được chứng vào cơi vô sanh vô tướng? Nếu chưa phải là bậc thượng căn lợi
trí, vội muốn cầu cao ĺa tướng tu hành, tất tâm không nương vào đâu để
sanh niệm khẩn thiết, nguyện đă không thiết làm sao được văng sanh.
Không văng sanh th́ làm sao thoát được cảnh luân hồi khổ lụy? Ấy là muốn
mau mà trở thành chậm, muốn cao trái lại thấp, muốn khéo hóa ra vụng.
Nhiều kẻ ưa nói huyền lư, thường bác rằng: “Niệm Phật cầu sanh là chấp
tướng ngoài tâm t́m pháp, chẳng rơ các pháp đều duy tâm.” Những người
nầy ư muốn diệu huyền, nhưng kỳ thật lại thành thiển cận. Bởi họ không
rơ Ta Bà đă duy tâm th́ Cực Lạc cũng duy tâm, tất cả đâu ngoài chân tâm
mà có? Vậy th́ niệm Phật A Di Đà là niệm Đức Phật trong tâm tánh ḿnh,
về Cực Lạc tức là về nơi cảnh giới của tự tâm, chớ đâu phải ở ngoài? Ta
Bà và Cực Lạc đều không ngoài tâm, th́ ở Ta Bà để chịu sự điên đảo luân
hồi, bị ngọn lửa ngũ trược đốt thiêu, sao bằng về Cực Lạc an vui, hưởng
cảnh thanh lương tự tại. Nên biết đúng tư cảnh để tôn sùng duy tâm tịnh
độ, phải là bậc đă chứng pháp-tánh-thân, mới có thể tự tại trong mọi
hoàn cảnh. Chừng đó dù trụ nơi Ta bà hay Cực Lạc cũng đều là Tịnh Độ, là
duy tâm, là giải thoát cả. Bằng chẳng thế th́ dù cho có nói huyền nói
diệu thế nào vẫn không khỏi sự hôn mê khi cách ấm, rồi tùy nghiệp luân
hồi chịu khổ mà thôi. Chính v́ thế mà nói rằng Tịnh Độ đặc biệt hơn các
tông phái khác. Người tu theo Tịnh Độ cũng nên nhớ lời cổ đức dạy về “Tứ
Đoạt”—According to Most Venerable Thích Thiền Tâm in The Pure Land
Buddhism in Theory and Practice, reciting the Buddha’s name seeking
rebirth in the Pure Land is a “perfect sudden” method in the Mahayana
tradition, because the cultivator takes Enlightenment in the “effect
stage” as his point of departure of awakening the mind in the “causal
stage.” If it were not taught by Sakyamuni Buddha Himself, who would
believe that a common mortal of the “Four Ways of Birth and Six Paths”
could reach the stage of non-retrogression, equal to the higher level
Bodhisattvas, thanks to Amitabha Buddha’s power of “welcoming and
escorting”? After all, cultivators following other methods would have
to spend ten thousand eons in diligent, continuous cultivation to obtain
such results. With the Pure Land method, since the cultivator has put
his faith in the Buddha’s power in addition to using all his “self
power,” every single cultivator will be reborn in the Land of Ultimate
Bliss, escape the cycle of Birth and Death and achieve
non-retrogression. If we were to use Buddha Recitation to discover the
Mind-Ground and awaken to our Original Nature, the Pure Land method
would be no different from other methods. However, when we rely on
Buddha Recitation to seek rebirth in the Pure Land, the Pure Land method
has unique characteristics. The Pure Land has four statements explain
the Four True Realizations of Pure Land teachings. True Realization
means thorough comprehension of essence, or noumenon. Since the whole
Dharma Realm or cosmos is only Mind, sentient beings and realms are
illusory. If we conceive that there are sentient beings achieving
rebirth in the Pure Land and that there are realms to go back to, we are
still attached to beings and dharmas and are still making a distinction
between hwere and there. This is not True Realization, i.e., not a
completed understanding of essence and noumenon. The reverse is called
the True Realization. The ancients have summarized the idea in the
following stanza: “Recitation is equal to non-recitation. No Birth is
Birth. Having reached that stage do not bother to move even half a step.
You have arrived at the Enlightened Capital City.” True realization of
beings and realms is the ultimate goal of Pure Land practitioners.
Nevertheless, the doctrine taught in the Three Pure Land sutras and
Commentary on Rebirth (not True Realization of Realms and Beings), which
is consonant with seeking rebirth in the Pure Land. This is because
Sakyamuni Buddha knew that common mortals in this world of the Five
Turbidities, especially in this Dharma-Ending Age, would have heavy and
deep karmic obstructions; establishing a realm of marks or the Pure
Land, enabling them to anchor their minds and cultivate, would be
difficult enough, not to mention abandoning all marks! If common human
beings of this Dharma-Ending Age cultivate while grasping at marks,
i.e., the Pure Land, their Practice and Vows will be more earnest and
the final result of rebirth in the Pure Land is easier to achieve. Once
reborn in the Pure Land, why worry about not attaining the state of
No-Birth and No-Mark? For those who are not of the highest capacity or
endowed with a sharp mind, hastening to achieve lofty goals and engaging
in cultivation without marks leave the minds with no anchor. Earnestness
and sincerity are then difficult to develop. If their Vows are not
earnest, how can they achieve rebirth in the Pure Land, and without
rebirth in that Land, how can they escape Birth and death? This is an
instance of “haste makes watse,” climbing high but landing low, wanting
to be clever and ending up clumsy and awkward! Many who like to voice
lofty principles frequently reject the Pure Land method in these terms:
“To recite the Buddha’s name seeking rebirth in the Pure Land is to
grasp at marks. Seeking the Dharma outside the Mind, failing to
understand that all dharmas are Mind-Only.” These individuals, seeking
the subtle and lofty, are in reality shallow and superficial! This is
because they do not understand that if the Saha World is Mind-Only, then
the Western Pure Land is also Mind-Only, and nothing can be found
outside the True Mind. Thus, to recite Amitabha Buddha’s name is to
recite the Buddha of our own Nature and Mind; to be reborn in the Pure
Land is to return to the realm of our own Mind, not to an outside realm!
Since neither the Saha World nor the Pure Land is outside the Mind, how
can remaining in the Saha World, enduring samsara, scorched and burn by
the fire of the Five Turbidities, be compared with returning to the
tranquil and blissful Pure Land, the pure and cool realm of freedom? We
should realize that the ones truly in a position to honor the Mind-Only
Pure Land are those who have attained the Dharma-Nature-Body, always
free and at ease in all circumstances. At that time, whether in the Saha
World or in the Land of Ultimate Bliss, they are in a “pure land,” in
the state of Mind-Only, in the state of liberation. Otherwise, though
they may discourse endlessly on the mystery and loftiness of the Pure
Land, they cannot escape bewilderment and delusion in the “bardo stage,”
and following their karma, revolving in the cycle of Birth and Death!
Chính v́ thế mà nói
rằng Tịnh Độ đặc biệt hơn các tông phái khác. Người tu theo Tịnh Độ luôn
nhớ về pháp môn Tứ Đoạt Niệm Phật—Thus, the Pure Land method has unique
characteristics. Pure Land practitioners should always remember the
“Buddha recitation and the Four Realizations.”
1)
Đoạt cảnh chẳng đoạt người: True realization of realm, not of
beings—Sanh tất quyết định sanh, về thật không có về—Birth in the Pure
Land is definitely birth; however, return to the Pure Land is, in truth,
no return.
2)
Đoạt người chẳng đoạt cảnh: True realization of beings, not of
realms—Về tất quyết định về, sanh không thật có sanh—return is
definitely return; however, birth is, in truth, No Birth.
3)
Cảnh người đều đoạt: True realization of both realms and beings—Về
thật chẳng có về, sanh cũng thật không sanh—Return is, in reality, no
return; birth is also, in truth, no birth.
4)
Cảnh và người đều không không đoạt: Not a true realization of
realms and beings—Về tất quyết định về, sanh cũng quyết định sanh—Return
is definitely return; birth is definitely birth.
Tứ Độ: Theo
Tông Thiên Thai, có Tứ Phật Độ—According to the T’ien-T’ai Sect, there
are four Buddha-ksetra, or realms:
1)
Phàm Thánh Đồng Cư Độ: Cơi Thánh phàm đồng cư—Cơi nước trong đó
hạng Nhân, Thiên, Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát và Phật cùng ở chung với
nhau—The land of common residence of beings and saints—Realms where all
classes dwell (men, devas, Buddhas, disciples, non-disciples)—Lands
where saints (Buddhas and Bodhisattvas) and ordinary people (six lower
and six upper worlds) dwell together.
2)
Phương Tiện Hữu Dư Độ: Chốn văng sanh của chư A-la-hán và những
vị Thánh c̣n kém bậc Bồ Tát, những bậc đă đoạn trừ kiến tư phiền năo—Temporary
realms, where the occupants have got rid of the evils of unenlightened
views and thoughts, but still have to be reborn—The Land of
Expediency—Land of Expedient Liberation, inhabited by Arhats and lesser
Bodhisattvas.
3)
Thực Báo Vô Chướng Ngại Độ: Nơi trụ của chư Bồ Tát sắp thành Phật—Realms
of permanent reward and freedom, for those who have attained bodhisattva
rank—The Land of Real Reward, inhabited by the highest Bodhisattvas.
4)
Thường Tịch Quang Độ: Nơi thường trú của chư Phật—Realm of
eternal rest and light (wisdom) and of eternal spirit (dharmakaya), the
abode of Buddhas; but in reality all the others are included in this,
and are only separated for convenience’ sake—The Land of Eternally
Quiescent Light, in which Buddhas dwell.
Tứ Độ Gia Hành:
Bốn mức độ tiến tu trong Mật Giáo (trước kia muốn được truyền thụ tứ độ
gia hành phải mất từ 800 đến 1000 ngày; bây giờ giảm xuống c̣n 200 ngày)—Advancement
in four degrees of the esoterics (formerly extending over 800 or 1,000
days, later contracted to 200):
1)
Thập Bát Đạo: The eighteen ways.
2)
Thai Tạng: Garbhadhatu.
3)
Kim Cang: Vajra.
4)
Hộ Ma: Homa.
Tứ Độc Xà: Bốn
con rắn độc trong giỏ ám chỉ tứ đại trong thân thể (tạo nên thân thể con
người)—Four poisonous snakes in a basket which imply the four elements
in a body (of which a man is formed):
1)
Đất: Earth.
2)
Nước: Water.
3)
Lửa: Fire.
4)
Gió: Air.
** For more
information, please see Tứ Xà.
Tứ Động Tâm:
The four Buddhist Holy, Sacred Places, or Pilgrimage Sites in
India—Theo truyền thống Phật giáo, hằng năm Phật tử thường hành hương về
những trung tâm Phật giáo ở Ấn Độ và Népal có liên hệ với cuộc đời của
Đức Phật. Theo Phật Giáo Nh́n Toàn Diện của Tỳ Khưu Bồ Đề, trong khi ngự
tại rừng Long Thọ ở Câu Thi Na một vài tiếng đồng hồ trước khi Ngài nhập
diệt, Đức Phật lúc ấy đă tám mươi tuổi, nói với Đại Đức A Nan, vị thị
giả trung tín và quí mến nhất của Ngài về Tứ Động Tâm. Phật nói: “Những
Phật tử thuần thành nên nhiệt tâm đến viếng với những cảm xúc gợi hứng.”—According
to the Buddhist tradition, every year Buddhists often go on a pilgrim to
the Buddhist centers in India and Nepal associated with the life of the
Buddha. According to The Spectrum of Buddhism, written by Bhikkhu Bodhi,
while staying in the Sala Grove at Kusinara a few hours before he
attained parinirvana, the Supreme Buddha, at the age of eighty,
addressing the Venerable Ananda, his most dutiful and beloved attendant
about the four holy places of Buddhism. The Buddha said: “There are four
places, Ananda, which devotees should visit with feelings of
inspiration.”
1)
Nơi Đức Phật Đản Sanh—Lumbini, the birth-place of the Buddha—Vườn
Lâm Tỳ Ni mà bây giờ là Rummindei ở Né-Pal, nơi Thái Tử Sĩ Đạt Ta (Phật)
đản sanh. Vườn nằm về hướng bắc cách Ba La nại một trăm dặm Anh, và từ
nơi đây người ta có thể nh́n thấy trọn vẹn dăy núi Hy Mă Lạp Sơn phủ
tuyết trắng phao: Lumbini Park, now is known as Rummindei in Nepal which
is the Birth Place of Prince Siddhattha (the Buddha). Situated one
hundred miles north of Benares, the full range of the snow-crowned
Himalayas can be seen—See Lumbini in Sanskrit/Pali-Vietnamese Section.
2)
Nơi Đức Phật Thành Đạo—Buddha-Gaya in India, where the Buddha
attained Enlightenment—Bồ Đề Đạo Tràng ở Ấn Độ nơi Phật giác ngộ, một
thánh tích thiêng liêng nhất của người Phật tử trên khắp thế giới v́
chính nơi nầy Phật đă giác ngộ đạo quả Tối Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác
vào ngày trăng tṛn tháng chạp, lúc mặt trời vừa ló dạng trên vùng trời
phương Đông, lúc ấy Ngài vừa ba mươi lăm tuổi: Buddhagaya or Bodhi Gaya
in India, the most sacred place to all the Buddhists in the world, where
the Buddha became enlightened (the site of the Buddha’s enlightenment)
on the full moon day of December as the sun rose in a glowing eastern
sky, at the the age of thirty-five—See Bồ Đề Đạo Tràng in
Vietnamese-English Section.
3)
Nơi Đức Phật Thuyết Pháp Đầu Tiên—Sarnath, where the Buddha
preached his first sermon—Vườn Lộc Uyển (Isipatana) mà bây giờ gọi là
Sarnath, nơi Phật chuyển Pháp Luân (thuyết thời pháp đầu tiên về Tứ Diệu
Đế) vào ngày trăng tṛn tháng bảy: Isipatana or presently Sarnath in
India, where the Buddha set in motion the Wheel of the Dharma (preached
his first sermon about the Four Noble Truths) on the full moon day of
Asalha (July)—See Lộc Uyển.
4)
Nơi Đức Phật Nhập Diệt—Kusinagara, where the Buddha passed away—Câu
Thi Na nơi Phật nhập diệt (lúc Ngài 80 tuổi) trong rừng Ta La Song Thọ,
nằm trong vùng Uttar Pradesh khoảng 120 dậm về phía Đông Bắc của
Baranasi: Kusinara, presently Kusinagara in Northern India where the
Buddha entered Nirvana (at the age of eighty) under the Tala trees. It
is in Uttar Pradesh about 120 miles north-east of Baranasi—See
Kusinagara in Sanskrit/Pali-Vietnamese Section, and Câu Thi Na in
Vietnamese-English Section.
Tứ Đức (Tứ Pháp):
(A)
Tứ Đức Niết Bàn theo Phật Giáo, hay bốn phẩm hạnh cao thượng của
Như Lai được thuyết giảng trong Kinh Niết Bàn (đây là bốn phẩm hạnh rốt
ráo của Đức Như Lai, có bốn đức nầy tức là đắc Đại Bát Niết Bàn của Đại
Thừa)—The four nirvana virtues or characteristics in Buddhism, or four
noble qualities of the Buddha’s life expounded in the Nirvana Sutra:
2)
Thường Đức: Thể của Niết Bàn thường hằng bất biến, không sinh
diệt—Permanence (Eternity).
3)
Lạc Đức: Lạc Ba La Mật—Thể của Niết Bàn tịch diệt vĩnh an—Joy—The
paramita of joy.
4)
Ngă Đức: Personality or Soul.
5)
Tịnh Đức: Thể của Niết Bàn giải thoát khỏi mọi cấu nhiễm—Purity.
(B)
Bốn đức mà Đức Khổng Phu Tử đă chỉ giáo trong Khổng Học cho một
người đàn bà—The four virtues a good woman must possess in
Confucian teaching:
1)
Công: Proper employment.
2)
Dung: Proper demeanor.
3)
Ngôn: Proper speech.
4)
Hạnh: Proper behavior.
Tứ Đức Ba La Mật:
The four transcendent paramitas—See Tứ Đức, and Tứ Đức Lạc Bang.
Tứ Đức Lạc Bang:
Thế giới an lạc có đủ bốn đức Thường, Lạc, Ngă, Tịnh, đó là cơi Niết Bàn—The
joyful realm—The nirvana realm—The abode or dharmakaya of the Tathagata—See
Tứ Đức.
Tứ Đức Truyền Thừa
Tổ Tịnh Độ: Theo Ḥa Thượng Thích Thiền Tâm trong Liên Tông Thập Tam
Tổ, Tịnh Độ không có sự truyền thừa y bát như chư vị Tổ sư bên Thiền
Tông. Sở dĩ có chư Tổ Tịnh Độ là do các vị Tăng, Tục tu pháp môn niệm
Phật đời sau họp lại chọn lựa ra những vị siêu xuất mà tôn lên làm Tổ.
Sự siêu xuất đó được biểu lộ qua “Tứ Đức Truyền Thừa Tổ Tịnh Độ” hay bốn
điểm chánh yếu sau đây—According to Most Venerable Thích Thiền Tâm in
The Thirteen Patriarchs of Pureland Buddhism, Pureland Buddhism’s
Patriarchs do not have a tradition of ‘handed-down’ of robe and bowl,
similar to the Patriarchs of Zen Buddhism. The reason there are Pureland
Patriarchs is because in the generations following the death of a Great
Master, various ordained and lay Buddhists who cultivate Pureland
Buddhism would come together and selected Great Masters who were
considered the most extraordinary and distinguished in their
contributions to the Pureland Buddhism. There were four characteristics
they used to determine whether a Great Master was most ‘distinguished.’
1)
Về phần kiến thức—With regard to knowledge and understanding:
a)
Phải là bậc thông hiểu thâm sâu cả tông lẫn giáo: The individual
must be a person with a deep and profound grasp of the purpose and
teachings of Buddhism.
b)
Phải giải ngộ Phật pháp đến mức thượng thừa: The person must be
at the highest level in having insights and understanding of the Buddha
Dharma.
2)
Về phần đạo hạnh—With regard to religious conduct:
a)
Phải giữ giới phẩm tinh nghiêm, hoàn toàn thanh tịnh: Must
maintain precepts purely in a most examplary manner.
b)
Phải tu hành tinh tấn: Must cultivate diligently and with great
vigor.
c)
Lâm chung hiện rơ thoại tướng văng sanh: Upon death, demonstrate
clear signs and characteristics of gaining rebirth to the Amitabha
Buddha’s Pureland.
3)
Về phần hoằng hóa—With regard to propagating Pureland Teachings:
a)
Phải có công lao lớn trong viêc tuyên dương pháp môn Tịnh Độ:
Must have made significant contributions in propagating Pureland
Buddhism.
b)
Phải hộ tŕ chánh pháp không tiếc thân mệnh: Must protect the
Proper Dharma Teachings without any reservation.
c)
Phải khuyến dắt dẫn đạo đến ngàn muôn người niệm Phật: Must
encourage and guide up to hundreds and thousands of people to practice
Buddha recitation.
4)
Về phần trước tác phiên dịch—With regard to literary works:
a)
Phải có trước tác biên soạn tối thiểu từ ba bộ sách khuyến dạy
hoặc hoằng tuyên Tịnh Độ trở lên: Must have written a minimum of three
books teaching and encouraging others or popularizing Pureland Buddhism.
b)
Phải có khả năng phiên dịch và chú sớ kinh điển đến mức thượng
thừa: Must have the highest ability in translating and explaining the
Sutra teachings.
Tứ EÁ: Bốn màn
che phủ—The four films or things that becloud:
1)
Mưa Mây: Rain-clouds.
·
Biểu tượng của tham dục: Emblematic of desire.
2)
Băo Cát: Dust-storms.
·
Biểu tượng của sân hận: Emblematic of hate.
3)
Khói: Smoke.
·
Biểu tượng của vô minh: Emblematic of ignorance.
4)
Nhật Thực hay Nguyệt Thực: Asuras—Eclipse of sun and moon.
·
Biểu tượng của ngă mạn cống cao: Emblematic of pride.
Tứ Gia Hạnh:
1)
The four good roots—See Tứ Thiện Căn (B).
2)
Theo Kinh Thủ Lăng Nghiêm, quyển Tám, Đức Phật đă nhắc ngài A Nan
về tứ gia hạnh như sau: “Ông A Nan! Người thiện nam đó, thảy đều thanh
tịnh, 41 tâm gần thành bốn thứ diệu viên gia hạnh.”—According to the
Surangama Sutra, book Eight, the Buddha reminded Ananda as follows:
“Ananda! When these good men have completely purified these forty-one
minds, they further accomplish four kinds of wonderfully perfect
additional practices.”
a)
Noăn Địa: The level of heat—Lấy Phật giác để dùng làm tâm ḿnh,
dường như hiểu rơ Phật giác mà kỳ thật chưa hiểu rơ. Ví dụ như khoang
cây lấy lửa, lửa sắp cháy lên, mà chưa thật sự cháy. Đây gọi là noăn địa—When
the enlightenment of a Buddha is just about to become a function of his
own mind, it is on the verge of emerging but has not yet emerged, and so
it can be compared to the point just before wood ignites when it is
drilled to produce fire. Therefore, it is called ‘the level of heat.’
b)
Đỉnh Địa: Level of the summit—Lại lấy tâm ḿnh thành đường lối đi
của Phật, dường như nương mà chẳng phải nương. Như lên núi cao, thân vào
hư không, dưới chân c̣n chút ngại. Gọi là Đỉnh Địa—He continues on with
his mind, treading where the Buddhas tread, as if relying and yet not.
It is as if he were climbing a lofty mountain, to the point where his
body is in space but there remains a slight obstruction beneath him.
Therefore it is called ‘the level of the summit.’
c)
Nhẫn Địa: Level of patience—Tâm và Phật đồng nhau, th́ khéo được
trung đạo. Như người nhẫn việc, chẳng phải mang sự oán, mà cũng chẳng
phải vượt hẳn sự ấy. Đó gọi là nhẫn địa—When the mind and the Buddha are
two and yet the same, he has well obtained the middle way. He is like
someone who endures something when it seems impossible to either hold it
in or let it out. Therefore it is called '‘he level of patience.'’
d)
Thế đệ nhất địa: Level of being first in the world—Số lượng tiêu
diệt, trung đạo giữa mê và giác, đều không c̣n tên gọi. Đây gọi là thế
đệ nhất địa—When numbers are destroyed, there are no such designations
as the middle way or as confusion and enlightenment; this is called the
‘level of being first in the world.’
** For more
information, please see Tứ
Thiện Căn.
Tứ Giác: Bốn
thứ giác ngộ theo Đại Thừa Khởi Tín Luận—The four intelligences or
apprehensions mentioned in the Awakening of Faith (Khởi Tín Luận):
1)
Bổn Giác: Tự tánh thanh tịnh tâm của hết thảy chúng sanh vốn dĩ
ĺa vọng niệm và có đức chiếu minh—The original apprehension.
2)
Tương Tự Giác: Giác được tri kiến và tư hoặc mà ĺa được chúng—Resembling
to apprehension.
3)
Tùy Phần Giác: Từng phần đoạn vô minh, từng phần giác chân giáo—Partial
apprehension.
4)
Cứu Cánh Giác: Đă đoạn hết căn bản vô minh, chứng được chân giác
cứu cánh—Enlightened apprehension.
Tứ Giai Cấp Ấn Độ:
Bốn giai cấp ở Ấn Độ vào thời Đức Phật c̣n tại thế. Chế độ giai cấp bất
b́nh đẳng của xă hội Ấn Độ thời bấy giờ gây nên áp bức, nghi kỵ, và thù
hiềm lẫn nhau; từ đó phát sinh những phong trào chống đối và cải cách.
Đây là sự kiện khiến Phật giáo xuất hiện. Ngoài bốn giai cấp kể trên,
c̣n có một hạng người thuộc giai cấp Chiên Đà La, bị các giai cấp trên
coi như giai cấp thấp nhất, gờm nhớp mà không ai dám đụng tới, bị đối xử
tàn nhẫn như thú vật—Four classes or castes in India at the time of the
Buddha. The hierarchical structure of the Hindu old society resulted in
oppression, suspicion, resentment and hostility. From there sprung
opposition movements and hostility. This is why Buddhism had come out as
a spiritual counter-force. Apart from these four castes, there is still
a fifth category of people called Candala, the lowest one, regarded by
the other castes as untouchables who are mistreated and exploited:
1)
Bà La Môn: Brahman (skt)—Giai cấp tu sĩ tịnh hạnh (họ chuyên về
lễ nghi tế tự, họ cậy vào thế lực Ấn Độ Giáo—Hinduism, luôn luôn củng cố
địa vị và quyền lợi ăn trên ngồi trước của họ). Họ tạo ra nhiều huyền
thoại để củng cố địa vị của ḿnh. Theo Kinh Vệ Đà th́ hạng Bà La Môn đời
đời nối nghiệp giữ đạo cổ truyền trong sạch của cha ông, người giảng
giải kinh Vệ Đà, thầy dạy về kiến thức tôn giáo, và chủ chăn hay là gạch
nối giữa con người, thế giới và Thượng đế. Những vị nầy phải giữ ǵn
tịnh hạnh như ăn chay, cử rượu, vân vân—One who observes ascetic
practices. They created so many legends to strengthen and consolidate
their powers. According to the Vedics, Brahmans were traditionally the
custodians, interpreters, and teachers of religious knowledge, and as
priests, acted as intermediaries between humans, the world, and God.
They were expected to maintain pure conduct and observe dietary rules,
e.g. vegetarianism, abstinence from alcohol, etc.
·
Họ cho rằng Bà La Môn sanh ra từ miệng của Phạm Thiên:
Brahman, born from the mouth of Brahma or Lord of the heavens.
·
Sát Đế Lợi sanh ra từ vai của Phạm Thiên: Ksattriya, born
from the shoulders of Brahma.
·
Phệ Xá sanh ra từ hông của Phạm Thiên: Vaisya, born from
the flanks of Brahma.
·
Thủ Đà La sanh ra từ bàn chân của Phạm Thiên: Sudra, born
from the feet of Brahma.
2)
Sát Đế Lợi: Ksattriya (skt)—Giai cấp quư tộc (giữ quyền thống trị
đất nước về quân sự và hành chánh)—Military and ruling.
3)
Phệ Xá: Vaisya (skt)—Giai cấp thương nhân và địa chủ (họ chuyên
buôn bán và làm chủ các sở đất)—Traders and landlords.
4)
Thủ Đà La: Sudra (skt)—Nông nô hay giai cấp nông dân và tôi mọi (họ
là những người bị dân tộc Nhă Lợi An—Aryan chinh phục, sai khiến, và bắt
buộc làm nô lệ cho ba giai cấp vừa kể trên)—Farmers and serfs.
Tứ Giai Thành Đạo:
Tứ Giai Thành Phật—Bốn bậc đều thành đạo hay việc thành đạo của Tiểu
Thừa có bốn bậc—The four Hinayana steps for attaining Buddhahood:
1)
Tam Kỳ: The myriad deeds of the three asankhyeya kalpas.
2)
Trăm Kiếp: The continually good karma of a hundred great kalpas.
3)
Thân cuối cùng đoạn trừ phiền năo của tám địa dưới: In the final
body the cutting off of the illusions of the lower eight states.
4)
Tam Thập Tứ Tâm Đoạn Phi Tưởng Hoặc: Ba mươi bốn tâm đoạn trừ phi
tưởng hoặc—The taking of one’s seat on the bodhi-plot for final
enlightenment, and the cutting off of the thirty-four forms of delusive
thought.
Tứ Giai Thành Phật:
The four Hinayana steps for attaining Buddhahood—See Tứ Giai Thành Đạo.
Tứ Giáo: Bốn
giáo—Four teachings, doctrines or schools:
(A)
Quang Trạch Tứ Giáo của Ngài Pháp Vân ở chùa Quang Trạch đời
Lương mượn ba xe kề cửa và trâu trắng lớn ngoài đường trong nhà lửa đang
cháy được Phật nói đến trong Kinh Pháp Hoa—The four schools of Fa-Yun of
the Kuang-Chai monastery are the four vehicles referred to in the
burning house parable of the Lotus Sutra:
1)
Thanh Văn Thừa Giáo: Chỉ việc Phật thuyết pháp Tứ Đế—Sravaka and
the Buddha’s preaching of the doctrine of the Four Noble Truths.
2)
Duyên Giác Thừa Giáo: Chỉ việc Phật thuyết pháp mười hai nhân
duyên—Pratyeka-buddha and the Buddha’s preaching of the twelve nidanas.
3)
Bồ Tát Thừa Giáo: Chỉ việc Phật thuyết Lục Độ Ba La Mật—Bodhisattva
and the Buddha’s preaching of the six paramitas.
4)
Nhất Phật Thừa Giáo: Chỉ Thực Giáo—Buddhayana—The final or one
vehicle.
(B)
Thiên Thai Tứ Giáo—The T’ien-T’ai four vehicle teaching:
1)
Tạng Giáo: Chính thống Tiểu thừa—The tripitaka doctrine or
orthodox Hinayana.
2)
Thông Giáo: The Intermediate or Interrelated doctrine, such as
Hinayana-cum-Mahayana.
3)
Biệt Giáo: Biệt Giáo như Nguyên Thủy Đại Thừa—The Differentiated
or separated doctrine, such as Early Mahayana.
4)
Viên Giáo: Viên giáo hay toàn giáo được t́m thấy trong Kinh Pháp
Hoa—The Perfect teaching or the last is being found in the final or
complete doctrine of the Lotus Sutra.
(C)
Hiểu Công Tứ Giáo: Do Nguyên Hiểu ở chùa Hải Đông lập ra—Founded
by Yuan-Hsiao of the Hai-Tung monastery:
1)
Tam Thừa Biệt Giáo: Tiêu biểu bởi Tứ Đế Duyên Khởi Kinh—The
Differentiated doctrine of Three Vehicles, represented by the Sutra of
Arising Causes in the Four Noble truths.
2)
Tam Thừa Thông Giáo: Tiêu biểu bởi Kinh Bát Nhă (cả ba Thanh Văn,
Duyên Giác và Bồ Tát cùng học)—The Intermediate doctrine of the Three
Vehicles, represented by the Prajna Sutra.
3)
Nhất Thừa Phần Giáo: Tiêu biểu bởi Kinh Phạm Vơng (Bồ Tát chẳng
học cùng với Nhị Thừa)—The Partial doctrine of the One Vehicle,
represented by the Brahma Net Sutra.
4)
Nhất Thừa Măn Giáo: Tiêu biểu bởi Kinh Hoa Nghiêm—The complete
doctrine of the One Vehicle, represented by the Flower-Adornment Sutra (Hua-Yen).
(D)
Uyển Công Tứ Giáo—The group of Hi-Yuan:
1)
Mê Chân Dị Chấp Giáo: Phàm phu ngoại đạo mê muội về chân tính nên
khởi lên nhiều dị chấp—The school of unbelievers, who are misled and
mislead.
2)
Chân Nhất Phần Bán Giáo: Chỉ Thanh Văn và Duyên Giác, chỉ chứng
được một phần sự (hiện tượng) chân như hay một phần của “tùy duyên bất
biến của chân như.”—The school of sravakas and pratyeka-buddhas who know
only the phenomenal bhutatathata.
3)
Chân Nhất Phần Măn Giáo: Bồ Tát sơ tâm chỉ chứng được một phần lư
chân như hay một phần “bất biến” mà chẳng được “tùy duyên.”—The school
of the novitiate Bodhisattvas who know only the noumenal bhutatathata.
4)
Chân Cụ Phần Măn Giáo: Bồ Tát hiểu rơ cả hai “tùy duyên” và “bất
biến”—The school of fully developed Bodhisattvas, who know both.
(E)
Long Thọ Tứ Giáo—Bồ tát Long Thọ dùng bốn môn để phân tách và
giải thích Kinh Luận—Nagarjuna’s division of the canon:
1)
Hữu Môn: Chỉ về bộ Kinh A Hàm (hết thảy nhân quả đều thực hữu)—The
school of existence, dealing with existence or reality, represented by
the Agama Sutra.
2)
Không Môn: Tiêu biểu bởi Kinh Bát Nhă (thuyết về chân lư không
thực tướng để trừ bỏ tánh chấp trước của chúng sanh)—The school of Void,
represented by the Prajna Sutra.
3)
Diệc Hữu Diệc Không Môn: Tiêu biểu bởi Kinh Thâm Mật (thuyết về
tính không tướng hữu)—The school of both Existence and the Void,
represented by the Sutra of Secret and Profound Meaning.
4)
Phi Hữu Phi Không Môn: Tiêu biểu bởi Trung Luận (phá bỏ cả hữu
lẫn không)—The school of neither Existence nor Void, represented by the
Madhyamika Sastra.
Tứ Giáo Địa:
Four stages of the four four developments of the Buddha’s own
teaching—See Tứ Giáo (B).
Tứ Giáo Nghi:
Tác phẩm sáu quyển của Ngài Trí Khải của Tông Thiên Thai sáng tác tác
vào đời nhà Tùy—A work of six books of Chih-I of T’ien-T’ai, during the
Suy dynasty.
Tứ Giáo Ngũ Thời:
Thiên Thai Tứ Giáo Ngũ Thời—The T’ien-T’ai doctrine of the four
developments of the Buddha’s own teaching (four main doctrinal schools)
and the five periods of the above developments:
(A)
Thiên Thai Tứ Giáo: The T’ien-T’ai four developments of the
Buddha’s own teaching—See Tứ Giáo (B).
(B) Thiên Thai Ngũ Thời: The T’ien-T’ai five periods of the Buddha’s
teaching—See Thiên Thai Ngũ Thời Bát Giáo and Ngũ Thời Giáo.
Tứ Giáo Tam Mật:
Thiên Thai Tứ Giáo Chân Ngôn Tam Mật—The T’ien-T’ai’s four open schools
and the Shingon three esoteric teaching:
(A)
Thiên Thai Tứ Giáo: The T’ien T’ai four open schools—See Tứ Giáo
(B).
(B)
Chân Ngôn Tam Mật: The Shingon three esoteric teachings:
1)
Chân Ngôn Thân Mật: The Shingon esoteric teaching (special
function) of the body.
2)
Chân Ngôn Khẩu Mật: The Shingon esoteric teaching (special
function) of the mouth.
3)
Chân Ngôn Ư Mật: The Shingon esoteric teaching (special function)
of the mind.
Tứ Giáo Tam Quán:
Thiên Thai Tứ Giáo Tam Quán—The T’ien-T’ai four main doctrinal divisions
and its three kinds of meditation:
(A)
Thiên Thai Tứ Giáo: The T’ien-T’ai four main doctrinal
divisions—See Tứ Giáo (B).
(B)
Thiên Thai Tam Quán: The T’ien-T’ai three kinds of meditation—See
Tam Quán.
Tứ Giáo Tứ Môn:
The four sects four doors—See Tứ Môn and Thiên Thai Tam Giáo.
Tứ Giới:
(A)
Tứ Pháp Giới—The realms—See Tứ Pháp Giới.
(B)
Theo Kinh Phúng Tụng trong Trường Bộ Kinh, có Tứ Đại—According to
the Sangiti Sutta in the Long Discourses of the Buddha, there are four
elements:
1)
Đất: Pathavi-dhatu (p)—Earth.
2)
Nước: Apo-dhatu (p)—Water.
3)
Lửa: Tejo-dhatu (p)—Fire.
4)
Gió: Vayo-dhatu (p)—Wind or Air.
(C)
Bốn loại giới luật—Four stages in moral development:
1)
Giải Thoát Giới: Giới từ bỏ thế tục để trở thành tu sĩ—Morality
of release or deliverance from the world on becoming a monk.
2)
Định Công Giới: Khi nhập tứ thiền định th́ thân sanh giới thể có
công năng pḥng ngừa điều sai và ngăn chặn điều ác—Morality that arising
from the four meditations on the realms of form.
3)
Đạo Cộng Giới: Loại giới của những bậc từ kiến đạo hay sơ Bồ Tát
trở lên, chứng được đạo vô lậu có khả năng pḥng phi chỉ ác—Morality of
those who are in or above the stage of beholding the truth (the first
stage of Bodhisattva).
4)
Đoạn Giới: Loại giới giúp hành giả đoạn tận tham sân si để thành
đạo quả—Morality which help practictioners end allmoral evil and cease
all delusions.
(D)
Theo Kinh Thủ Lăng Nghiêm, quyển Sáu, Đức Phật đă nhắc nhở ngài A
Nan về bốn giới quan trọng—According to the Surangama Sutra, the Buddha
reminded Ananda about the four important precepts.
1)
Đoạn Dâm—Cutting off lust:
a)
Nếu các chúng sanh trong các thế giới ở lục đạo, mà tâm chẳng dâm,
th́ không bị sinh tử nối tiếp: If living beings in the six paths of any
mundane world had no thoughts of lust, they would not have to follow a
continual succession of births and deaths.
b)
A Nan! Ông tu tam muội, gốc để ra khỏi trần lao, nếu tâm dâm
chẳng trừ, th́ không thể ra được: Ananda! Your basic purpose in
cultivating is to transcend the wearisome defilements. But if you don’t
renounce your lustful thoughts, you will not be able to get out of the
dust.
c)
Dù có đa trí, thiền định hiện tiền, nhưng chẳng đoạn dâm, th́
quyết bị lạc về ma đạo: Even though one may have some wisdom and the
manifestation of Zen Samadhi, one is certain to enter demonic paths if
one does not cut off lust.
d)
Thượng phẩm là ma vương, trung phẩm là ma dân, hạ phẩm là ma nữ:
At best, one will be a demon king; on the average, one will be in the
retinue of demons; at the lowest level, one will be a female demon.
e)
Các ma kia cũng có đồ chúng, đều tự xưng ḿnh thành vô thượng đạo:
These demons have their groups of disciples. Each says of himself he has
accomplished the unsurpassed way.
f)
Sau khi tôi diệt độ, trong đời mạt pháp, phần nhiều các ma dân ấy
xí thịnh trong đời, hay làm việc tham dâm, làm bậc thiện tri thức, khiến
các chúng sanh lạc vào hầm ái kiến, sai mất đường Bồ Đề: After my
extinction, in the Dharma-Ending Age, these hordes of demons will
abound, spreading like wildfire as they openly practice greed and lust.
Calming to be good knowing advisors, they will cause living beings to
fall into the pit of love and views and lose the way to Bodhi.
g)
A Nan! Ông dạy người đời tu tam ma địa, trước hết phải đoạn dâm:
Ananda! When you teach people in the world to cultivate samadhi, they
must first of all sever the mind of lust.
h)
Ấy gọi là lời dạy rơ ràng thanh tịnh, quyết định thứ nhứt của Như
Lai: This is the first clear and unalterable instruction on purity given
by the Thus Come Ones and the Buddhas of the past, World Honored Ones.
i)
V́ cớ đó nếu chẳng đoạn dâm mà tu thiền định, ví như nấu cát muốn
thành cơm, trải qua trăm ngh́n kiếp chỉ thấy cát nóng mà thôi:
Therefore, Ananda, if cultivators of Zen Samadhi do not cut off lust,
they will be like someone who cooks sand in the hope of getting rice,
after hundreds of thousands of eons, it will still be just hot sand.
j)
Tại sao? Bởi v́ cát không phải là bản nhân của cơm: Why? It
wasn’t rice to begin with; it was only sand.
k)
A Nan! Nếu ông đem cái thân dâm mà cầu diệu quả của Phật, dù được
diệu ngộ, cũng đều là dâm căn, căn bản thành dâm, luân chuyển trong ba
đường, quyết chẳng ra khỏi: Ananda! If you seek the Buddha’s wonderful
fruition and still have physical lust, then even if you attain a
wonderful awakening, it will be based in lust. With lust at the source,
you will revolve in the three paths and not be able to get out.
l)
Do đường lối nào tu chứng Niết Bàn của Như Lai? Quyết khiến thân
tâm đều đoạn cơ quan dâm dục, đoạn tính cũng không c̣n, mới có thể trông
mong tới Bồ Đề của Phật: Which road will you take to cultivate and be
certified to the Thus Come One’s Nirvana? You must cut off the lust
which is intrinsic in both body and mind. Then get rid of even the
aspect of cutting it off. At that point you have some hope of attaining
the Buddha’s Bodhi.
m)
Như thế tôi nói, gọi là Phật thuyết. Nói chẳng đúng thế, tức là
ma Ba Tuần thuyết: What I have said here is the Buddha’s teaching. Any
explanation counter to it is the teaching of Papiyan.
2)
Đoạn Sát—Cutting off killing:
a)
A Nan! Nếu các chúng sanh trong các thế giới ở lục đạo, mà tâm
chẳng sát, th́ không bị sanh tử nối tiếp: Ananda! If living beings in
the six paths of any mundane world had no thoughts of killing, they
would not have to follow a continual succession of births and deaths.
b)
A Nan! Ông tu tam muội, gốc để vượt khỏi trần lao, nếu sát tâm
chẳng trừ, th́ không thể ra khỏi được: Ananda! Your basic purpose in
cultivating samadhi is to transcend the wearisome defilements. But if
you do not remove your thoughts of killing, you will not be able to get
out of the dust.
c)
A Nan! Dù có đa trí, thiền định hiện tiền, nhưng chẳng đoạn
nghiệp sát, th́ quyết lạc về thần đạo: Ananda! Even though one may have
some wisdom and the manifestation of Zen Samadhi, one is certain to
enter the path of spirits if one does not cease killing.
d)
Thượng phẩm là đại lực quỷ, trung phẩm làm phi hành dạ xoa, các
quỷ soái, hạ phẩm là địa hành la sát. Các quỷ thần ấy cũng có đồ chúng,
đều tự tôn ḿnh thành vô thượng đạo: At best, a person will become a
mighty ghost; on the average, one will become a flying yaksha, a ghost
leader, or the like; at the lowest level, one will become an earth-bound
rakshasa. These ghosts and spirits have their groups of disciples. Each
says of himself that he has accomplished the unsurpassed way.
e)
Sau khi ta diệt độ, trong đời mạt pháp, nhiều quỷ thần ấy xí
thịnh trong đời, tự nói: “Ăn thịt cũng chứng được Bồ Đề.”—After my
extinction, in the Dharma-Ending Age, these hordes of ghosts and spirits
will aboud, spreading like wildfire as they argue that eating meat will
bring one to the Bodhi Way.
f)
A Nan! Tôi khiến các Tỳ Kheo ăn ngũ tịnh nhục, thịt đó đều do tôi
thần lực hóa sinh, vẫn không mạng căn, v́ rằng về đất Bà La Môn, phần
nhiều ẩm thấp, lại thêm nhiều đá, nên cây cỏ và rau không sinh. Tôi dùng
thần lực đại bi giúp, nhân đức từ bi lớn, giả nói là thịt. Ông được ăn
các món đó: Ananda! I permit the Bhikshus to eat five kinds of pure
meat. This meat is actually a transformation brought into being by my
spiritual powers. It basically has no life-force. You Brahmans live in a
climate so hot and humid, and on such sandy and rocky land, that
vegetables will not grow. Therefore, I have had to assist you with
spiritual powers and compassion. Because of the magnitude of this
kindness and compassion, what you eat that tastes like meat is merely
said to be meat; in fact, however, it is not.
g)
Thế sau khi Như Lai diệt độ rồi, các Thích tử lại ăn thịt chúng
sanh?—After my extinction, how can those who eat the flesh of living
beings be called the disciples of Sakya?
h)
Các ông nên biết: người ăn thịt đó, dù được tâm khai ngộ giống
như tam ma địa, cũng đều bị quả báo đại la sát. Sau khi chết quyết bị
ch́m đắm biển khổ sinh tử, chẳng phải là đệ tử Phật. Những người như vậy
giết nhau, ăn nhau, cái nợ ăn nhau vướng chưa xong th́ làm sao ra khỏi
được tam giới?—You should know that these people who eat meat may gain
some awareness and may seem to be in samadhi, but they are all great
rakshasas. When their retribution ends, they are bound to sink into the
biter sea of birth and death. They are not disciples of the Buddha. Such
people as they kill and eat one another in a never-ending cycle. How can
such people transcend the triple realm?
i)
A Nan! Ông dạy người đời tu tam ma địa, phải đoạn nghiệp sát sanh:
Ananda! When you teach people in the world to cultivate samadhi, they
must also cut off killing.
j)
Ấy gọi là lời dạy rơ ràng, thanh tịnh và quyết định thứ hai của
Như Lai: This is the second clear and unalterable instruction on purity
given by the Thus Come Ones and the Buddhas of the past, World Honored
Ones.
k)
V́ cớ đó, nếu chẳng đoạn sát mà tu thiền định, ví như người bịt
tai nói to, muốn cho người đừng nghe. Nhu thế gọi là muốn dấu lại càng
lộ: Therefore, Ananda, if cultivators of Zen Samadhi do not cut off
killing, they are like one who stops up his ears and calls out in a loud
voice, expecting no one to hear him. It is to wish to hide what is
completely evident.
l)
Các Tỳ Kheo thanh tịnh cùng các Bồ Tát lúc đi đường chẳng dẫm lên
cỏ tươi, huống chi lấy tay nhổ: Bhikshus and Bodhisattvas who practice
purity will not even step on grass in the pathway; even less will they
pull it up with their hand.
m)
Thế nào là đại bi khi lấy chúng sanh huyết nhục để làm món ăn:
How can one with great compassion pick up the flesh and blood of livign
beings and proceed to eat his fill?
n)
Nếu các Tỳ Kheo chẳng mặc các đồ tơ lụa của đông phương, và những
giày dép, áo, lông, sữa, phó mát, bơ của cơi nầy. Vị đó mới thật là
thoát khỏi thế gian. Trả lại cái nợ trước hết rồi, chẳng c̣n đi trong ba
cơi nữa: Bhikshus who do not wear silk, leather boots, furs, or down
from this country or consume milk, cream, or butter can truly transcend
this world. When they have paid back their past debts, they will not
have to re-enter the triple realm.
o)
Tại sao? Dùng một phần thân loài vật, đều là trợ duyên sát nghiệp.
Như người ăn trăm thứ lúa thóc trong đất, chân đi chẳng dời đất: Why? It
is because when one wears something taken from a living creature, one
creates conditions with it, just as when people eat the hundred grains,
their feet cannot leave the earth.
p)
Quyết khiến thân tâm không nỡ ăn thịt hay dùng một phần thân thể
của chúng sanh, tôi nói người đó thật là giải thoát: Both physically and
mentally one must avoid the bodies and the by-products of living beings,
by neither wearing them nor eating them. I say that such people have
true liberation.
q)
Tôi nói như vậy, gọi là Phật nói. Nói không đúng thế, tức là ma
Ba Tuần thuyết: What I have said here is the Buddha’s teaching. Any
explanation counter to it is the teaching of Papiyan.
3)
Đoạn Đạo—Cutting off stealing:
a)
A Nan! Nếu các chúng sanh trong các thế giới ở lục đạo, mà tâm
chẳng thâu đạo, th́ chẳng theo nghiệp ấy bị sanh tử tương tục: Ananda!
If living beings in the six paths of any mundane world had no thoughts
of stealing, they would not have to follow a continuous succession of
births and deaths.
b)
A Nan! Ông tu tam muội, cốt để thoát khỏi trần lao, nếu cái “thâu
tâm” chẳng trừ th́ quyết không thể ra khỏi được: Ananda! Your basic
purpose in cultivating samadhi is to transcend the wearisome
defilements. But if you do not renounce your thoughts of stealing, you
will not be able to get out of the dust.
c)
A Nan! Dù có đa trí, thiền định hiện tiền, , như chẳng đoạn đạo
nghiệp, quyết lạc về tà đạo. Thượng phẩm làm loài tinh linh, trung phẩm
làm loài yêu mị, hạ phẩm làm người tà, bị mắc cái yêu mị: Ananda! Even
though one may have some wisdom and the manifestation of Zen Samadhi,
one is certain to enter a devious path if one does not cease stealing.
At best, one will be an apparition; on the average, one will become a
phantom; at the lowes level, one will be a devious person who is
possessed by a Mei-Ghost.
d)
Các loại tà ấy cũng có đồ chúng, đều tự tôn ḿnh thành vô thượng
đạo: These devious hordes have their groups of disciples. Each says of
himself that he has accomplished the unsurpassed way.
e)
Sau khi tôi diệt độ, trong đời mạt pháp, nhiều loài tà mị ấy xí
thịnh trong đời, dấu diếm sự gian trá, xưng là thiện tri thức. Họ tự tôn
ḿnh được pháp của bậc thượng nhân, dối gạt những kẻ không biết, khủng
bố khiến người kia mất cái tâm, đi đến đâu làm nhà cửa của người bị hao
tổn: After my extinction, in the Dharma-Ending Age, these phantoms and
apparitions will abound, spreading like wildfire as they
surreptitiously cheat others. Calling themselves good knowing advisors,
they will each say that they have attained the superhuman dharmas.
Enticing and deceiving the ignorant, or frightening them out of their
wits, they disrupt and lay watse to households wherever they go.
f)
Tôi dạy các Tỳ Kheo đi các nơi khất thực, khiến bỏ cái tham,
thành đạo Bồ Đề: I teach the Bhikshus to beg for their food in an
assigned place, in order to help them renounce greed and accomplish the
Bodhi Way.
g)
Các ông Tỳ Kheo chẳng tự nấu chín mà ăn, tạm ở đời cho qua cái
sống thừa, ở trọ tạm ba cơi, chỉ một mặt đi qua, rồi không trở lại (nhất
lai): The Bhikshus do not prepare their own food, so that, at the end of
this life of transitory existence in the triple realm, they can show
themselves to be once-returners who go and do not come back.
h)
Thế nào cái người giặc, mượn y phục của tôi, buôn bàn pháp của
Phật để nuôi ḿnh, tạo các nghiệp, đều nói là Phật pháp: How can thieves
who put on my robes and sell the Thus Come One’s dharmas, saying that
all manner of karma one creates is just the Buddhadharma?
i)
Trở lại chê người xuất gia, giữ giới cụ túc là đạo tiểu thừa:
They slander those who have left the home-life and regard Bhikshus who
have taken complete precepts as belonging to the path of the small
vehicle.
j)
Bởi vậy làm nghi lầm vô lượng chúng sanh, kẻ đó sẽ bị đọa vào địa
ngục vô gián: Because of such doubts and misjudgments, limitless living
beings fall into the Unintermittent Hell.
k)
Nếu sau khi tôi diệt độ, có ông Tỳ Kheo phát tâm quyết định tu
tam ma đề, có thể đối trước h́nh tượng Phật, nơi thân phần, làm một cái
đèn, hoặc đốt một ngón tay, và trên thân đốt một nén hương. Tôi nói
người ấy một lúc đă trả xong các nợ trước từ vô thủy, từ giả luôn thế
gian, thoát khỏi các hoặc lậu. Dù chưa liền nhận rơ đường vô thượng giác,
người ấy đă quyết định tâm với pháp: I say that Bhikshus who after my
extinction have decisive resolve to cultivate samadhi, and who before
the images of Thus Come Ones can burn a candle on their bodies, or burn
off a finger, or burn even one incense stick on their bodies, will in
that moment, repay their debts from beginningless time past. They can
depart from the world and forever be free of outflows. Though they may
not have instantly understood the unsurpassed enlightenment, they will
already have firmly set their mind on it.
l)
Nếu chẳng làm chút nhân nhỏ mọn bỏ thân như vậy, dù thành đạo vô
vi, quyết phải trở lại sinh trong cơi người, để trả nợ trước. Như tôi ăn
lúa của ngựa ăn không khác. A Nan! Ông dạy người đời tu tam ma địa, sau
sự đoạn dâm, đoạn sát, phải đoạn thâu đạo: If one does not practice any
of these token renunciations of the body on the causal level, then even
if one realizes the unconditioned, one will still have to come back as a
person to repay one’s past debts exactly as I had to undergo the
retribution of having to eat the grain meant for horses. Ananda! When
you teach people in the world to cultivate samadhi, they must also cease
stealing.
m)
Ấy gọi là lời dạy rơ ràng, thanh tịnh, quyết định thứ ba của Như
Lai: This is the third clear and unalterable instruction on purity given
by the Thus Come One and the Buddhas of the past, World Honored Ones.
n)
A Nan! Bởi vậy nếu chẳng đoạn thâu đạo mà tu thiền định, ví như
người đổ nước vào chén vỡ, muốn cho đầy chén, dù trải qua nhiều kiếp,
không bao giờ đầy: Therefore, Ananda, if cultivators of Zen Samadhi do
not cease stealing, they are like someone who pours water into a leaking
cup and hopes to fill it. He may continue for as many eons as there are
fine motes of dust, but it still will not be full in the end.
o)
Nếu các Tỳ Kheo, ngoài y bát ra, một phân một tấc cũng chẳng nên
chứa để. Đồ ăn xin được, ăn thừa, ban lại cho chúng sanh đói. Giữa chúng
nhóm họp, chắp tay lễ bái, có người đánh và mắng, xem như là khen ngợi.
Quyết định thân tâm, hai món đều dứt bỏ. Thân thịt cốt huyết, cho chúng
sanh dùng: If Bhikshus do not store away anything but their robes and
bowls; if they give what is left over from their food-offerings to
hungry living beings; if they put their palms together and make
obeisance to the entire great assembly; if when people scold them they
can treat it as praise: if they can sacrifice their very bodies and
minds, giving their flesh, bones, and blood to living creatures.
p)
Chẳng đem quyền nghĩa của Phật nói, xoay làm kiến giải của ḿnh,
để lầm kẻ sơ học. Phật ấn chứng cho người ấy được chân tam muội: If they
do not repeat the non-ultimate teachings of the Thus Come One as though
they were their own explanations, misrepresenting them to those who
have just begun to study, then the Buddha gives them his seal as having
attained true samadhi.
q)
Tôi nói như vậy, gọi là Phật thuyết. Nói chẳng đúng thế, gọi là
ma thuyết: What I have said here is the Buddha’s teaching. Any
explanation counter to it is the teaching of Papiyan.
4)
Đoạn Vọng—Cutting off false speech:
a)
A Nan! Như các chúng sanh trong mọi thế giới ở lục đạo, dù thân
tâm không có sát, đạo, dâm, ba hạnh ấy đă viên măn. Nếu đại vọng ngữ th́
tam ma địa chẳng được thanh tịnh, thành ái kiến ma, mất giống của Như
Lai: Ananda! Though living beings in the six paths of any mundane world
may not kill, steal, or lust either physically or mentally, these three
aspects of their conducts thus being perfect, yet if they tell lies, the
samadhi they attain will not be pure. They will become demons of love
and views and will lose the seed of the Thus Come One.
b)
Gọi là: chưa được nói là được, chưa chứng nói là chứng. Hoặc cầu
được tôn quư thứ nhất trong đời. Nghĩa là trước mọi người nói: “Tôi đă
chứng sơ quả, nhị, tam quả, A La Hán, Duyên Giác, Bồ tát trước và sau
Thập Địa.” Cầu cho người lễ bái sám hối. Tham những món cúng dường:
They say that they have attained what they have not attained, and what
they have been certified when they have not been certified, perhaps they
seek to be foremost in the world, the most vererated and superior
person. To their audiences they say that they have attained the fruition
of a Shrotaapanna, the fruition of a Sakridagamin, the fruition of an
Anagamin, the fruition of an Arhat, the Pratyeka Buddha vehicle, or the
various levels of Bodhisattvahood up to and including the ten grounds,
in order to be revered by others and because they are greedy for
offerings.
c)
Ấy là một loại “tín bất cụ,” tiêu diệt giống Phật, như người lấy
dao cắt cây đa la: These Icchantikas destroy the seeds of Buddhahood
just as surely as a Tala tree is destroyed.
d)
Phật ghi rằng người ấy trọn mất căn lành, không c̣n tri kiến,
ch́m ba biển khổ, chẳng thành tam muội: The Buddha predicts that such
people sever their good roots forever and lose their knowledge and
vision. Immersed in the sea of the three sufferings, they cannot attain
samadhi.
e)
Sau khi tôi diệt độ, khiến các vị Bồ tát cùng A La Hán nên ứng
thân sinh trong đời mạt pháp, hiện các h́nh tướng, để độ các kẻ bị luân
chuyển. Hoặc làm sa môn, cư sĩ, nhân vương, tể quan, đồng nam, đồng nữ,
cho đến dâm nữ, quả phụ, kẻ cắp, vân vân đồng sự với người đời, tán thán
Phật thừa. Khiến giúp họ thân tâm được vào tam ma địa: I command the
Bodhisattvas and Arhats to appear after my extinction in response-bodies
in the Dharma-Ending Age, and to take various forms in order to rescue
those in the cycle of rebirth. They should either become Shramanas,
elite-robed lay people, kings, ministers or officials, virgin youths or
maidens, and so forth, even prostitutes, widows, profligates, thieves,
butchers, or dealers in contraband, doing the same things as these kinds
of people while they praise the Buddha Vehicle and cause them to enter
samadhi in body and mind.
f)
Không bao giờ nói: “Tôi thật là Bồ Tát, thật là A La Hán,” tiết
lộ mật nhân của Phật, và khinh kẻ chưa học: But they should never say of
themselves, ‘I am truly a Bodhisattva;’ or ‘I am truly an Arhat,’ or let
the Buddha’s secret cause leak out by speaking casually to those who
have not yet studied.
g)
Trừ ra khi chết, bí mật có di chúc cho Phát tử. Thế nào là người
nói láo mê loạn chúng sanh thành tội vọng ngữ?—How can people who make
such claims, other than at the end of their lives and then only to
those who inherit the Teaching, be doing anything but deluding and
confusing living beings and indulging in a gross false claims?
h)
A Nan! Ông dạy người đời tu tam ma địa, sau chót phải đoạn trừ
các đại vọng ngữ, ấy gọi là lời dạy rơ ràng, thanh tịnh, quyết định thứ
tư của Như Lai: Ananda! When you teach people in the world to cultivate
samadhi, they must also cease all lying. This is the fourth clear and
unalterable instruction on purity given by the Thus Come Ones and the
Buddhas of the past, World Honored Ones.
i)
Bởi vậy, nếu chẳng đoạn đại vọng ngữ, như lấy phân người khắc
thành h́nh hương chiên đàn, muốn được mùi thơm, không có lẽ ấy:
Therefore, Ananda, one who does not cut off lying is like a person who
carves a piece of human excrement to look like Chandana, hoping to make
it fragrant. He is attempting the impossible.
j)
Tôi dạy Tỳ Kheo rằng: Trực Tâm là Đạo Tràng,” với bốn uy nghi,
trong tất cả hạnh, không có hư giả: I teach the Bhikshus that the
straight mind is the Bodhimanda and that they should practice the four
awesome deportments in all their activities. Since they should be devoid
of all falseness, how can they claim to have themselves attained the
dharmas of a superior person?
k)
Thế nào tự xưng được pháp thượng nhân. Ví dụ người nghèo khó, mạo
xưng là đế vương, tự cầu lấy cái chết. Huống chi pháp vương, thế nào lại
hư vọng? Nhân địa chẳng chân chính, kết quả bị cong queo. Cầu Phật Bồ Đề,
như người cắn rún, không thể nào được: That would be like a poor person
falsely calling himself an emperor; for that, he would be taken and
executed. Much less should one attempt to upsurp the title of dharma
king. When the cause-ground is not true, the effects will be distorted.
One who seeks the Buddha’s Bodhi in this way is like a person who tries
to bite his own navel. Who could possibly succeed?
l)
Nếu các Tỳ Kheo Tâm Thẳng như Dây Đàn, tất cả chân thật, vào tam
ma địa, trọn không bao giờ có sự ma. Tôi ấn chứng người ấy thành tựu Bồ
Đề vô thượng trí giác. Nói như tôi nói, gọi là Phật thuyết. Nói chẳng
đúng thế, tức là ma thuyết: If Bhikshus’ minds are as straight as lute
strings, true and real in everything they do, then they can enter
samadhi and never be involved in the deeds of demons. I certify that
such people will accomplish the Bodhisatvas’ unsurpassed knowledge and
enlightenment. What I have said here is the Buddha’s teaching. Any
explanation counter to it is the teaching of Papiyan.
Tứ Giới Hối Quá:
Patidesaniya (skt)—Theo Tôn Sư Minh Đăng Quang trong Luật Nghi Khất Sĩ,
chữ Patidesaniya là gốc chữ Bắc Phạn, có nghĩa là phát lồ xưng ra sự vi
phạm luật xuất gia trước Giáo Hội. Bốn giới Ba La Đề Xá Ni là những vi
phạm mà h́nh phạt phải được Giáo Hội quyết định—According to Most
Honorable Master Minh Đăng Quang in The Rules for Mendicant Bhiksus, the
word Patidesaniya is a Sanskrit word means a confession of an offence or
some sort of transgression of monastic rules which ought to be confessed
before the Order, and the punishments for these offences are decided by
the Order.
1)
Cấm chẳng đau mà ăn nhờ đồ của Tỳ Kheo Ni xa lạ: A monk should
not eat or partake of solid food or soft food, having accepted it with
his own hand from the hand of a nun who is not a relation.
2)
Cấm chẳng từ chối Tỳ Kheo Ni nói với thí chủ đăi cơm cho ḿnh (khi
thí chủ mời chư Tăng đến nhà thiết đăi Trai Tăng. Nếu có một vị Tỳ Kheo
Ni đến bên bảo thí chủ đem đến cho chư Tăng món cà ri, món cơm, vân vân.
Vị Tăng phải quở trách ngay vị Tỳ Kheo Ni ấy “Ni sư nên đứng qua một bên
khi chư Tăng đang thọ dụng.” Nếu không là phạm phải tội Ba La Đề Xá Ni):
When a householder invites a monk to come to the family. If a nun comes
to be standing as though giving directions, saying: “Here give curry,
give cooked rice here,” that nun should be rebuked by the monk, saying:
“Stand aside, sister, while the monks eat.” If not, the monk violates
the Patidesaniya.
3)
Cấm xin măi một nhà, làm cho người ta nghèo túng: A monk should
not keep begging for foods at the same house to cause them to be poor
because of their continuous offerings.
4)
Cấm sư ẩn cư ở chỗ nguy hiểm, để có sự nguy hại cho thí chủ khi
đem cơm tới cho ḿnh: A monk should not reside in those jungle lodgings
that are dangerous and frightening for donators who travel to offer
foods and drinks.
Tứ Giới Nhiếp Tŕ:
Tứ đại là phần vật chất tŕ giữ chư pháp—The four elements (earth,
water, fire, wind) are the substance and upholders of all things.
Tứ Hà: Bốn con
sông ở Ấn Độ nổi tiếng cùng phát nguồn từ hồ A Na Bà Đáp Ta (trung bộ
Thiệm Châu) bên Tây Tạng—The four rivers in India which reputed to arise
out of a lake in Tibet, Anavatapta:
1)
Hằng Hà: Sông Hằng, phát nguồn từ phía đông hồ, chảy ra biển phía
đông nam—Ganges, originated from the east of the lake, then flows to the
sea in the southeast.
2)
Ấn Hà: Tín Độ—Tân Đầu—Phát nguồn phía Nam hồ, chảy ra biển phía
Tây Nam—Sindhu (Indus), originated from the South of the lake, then
flows to the sea in the Southwest.
3)
Phọc Xô: Phọc Xoa, phát nguồn từ phía Tây hồ, chảy ra biển phía
Tây Bắc—Vaksu (Oxus), originated from the West of the lake, flows to the
sea in the Northwest.
4)
Tỷ-Đa: Tư Đà, phát nguồn từ phía Bắc hồ, chảy ra biển hướng Đông
Bắc—Tarim, originated from the North of the lake, then flows to the sea
in the Northeast.
Tứ Hải: Bốn
biển quanh núi Tu Di—The four oceans around Mount Sumeru.
Tứ Hải Luận Chủ:
Tôn hiệu của nhà sư Kính Thoát đời Tùy—Honorific title of the monk
Ching-T’o of the Suy dynasty.
Tứ Hàm: The
four agami sutras—See Tứ A Hàm.
Tứ Hành: Four
kinds of progress—Theo Kinh Phúng Tụng trong Trường Bộ Kinh, có bốn loại
hành—According to the Sangiti Sutta in the Long Discourses of the
Buddha, there are four kinds of progress:
(A)
1)
Khổ Hành Tŕ Chứng: Painful progress with slow comprehension.
2)
Khổ Hành Tốc Chứng: Painful progress with quick comprehension.
3)
Lạc Hành Tŕ Chứng: Pleasant progress with slow comprehension.
4)
Lạc Hành Tốc Chứng: Pleasant progress with quick comprehension.
(B) Bốn loại hành
khác—Four more kinds of
progress:
1)
Bất Kham Nhẫn Hành: Akkhama-patipada (p)—Progress with
impatience.
2)
Kham Nhẫn Hành: Khama-patipada (p)—Patient progress.
3)
Điều Phục Hành: Dama-patipada (p)—Controlled progress.
4)
Tịch Tịnh Hành: Sama-patipada (p)—Calm progress.
Tứ Hành Tướng:
Bốn hạnh tướng trong quán tưởng hay thiền quán—To meditate upon the
implications or disciplines of:
1)
Khổ: Pain or suffering.
2)
Không: Unreality, or emptiness.
3)
Vô Thường: Impermanence.
4)
Vô Ngă: Non-ego.
Tứ Hạnh: Bốn
hạnh—The four disciplinary processes:
(A)
1)
Bồ Đề: Enlightenment.
2)
Phúc Đức hay Thiện nghiệp: Good deeds.
3)
Trí Tuệ: Wisdom.
4)
Lễ Bái: Worship.
(B) Theo Sơ Tổ Bồ Đề Đạt Ma—According to the first patriarch Bodhidharma:
1)
Báo Oán Hạnh—How to requite hatred?
Báo oán hạnh nghĩa là ǵ? Người tu hành khi gặp cảnh khổ nên tự nghĩ như
vầy: “Ta từ bao kiếp trước buông lung không chịu tu hành, nặng ḷng
thương ghét, gây tổn hại không cùng. Đời nay tuy ta không phạm lỗi,
nhưng nghiệp dữ đă gieo từ trước nay kết trái chín, điều ấy nào phải do
trời hoặc người tạo ra đâu, vậy ta đành nhẫn nhục chịu khổ, đừng nên oán
trách chi ai. Như kinh đă nói ‘gặp khổ không buồn.’ V́ sao vậy? V́ đă
thấu suốt luật nhân quả vậy. Đây gọi là hạnh trả oán để tiến bước trên
đường tu tập.”—What is meant by ‘How to requite hatred?’ Those who
discipline themselves in the Path should think thus when they have to
struggle with adverse conditions: “During the innumerable past eons I
have wandered through multiplicity of existences, never thought of
cultivation, and thus creating infinite occasions for hate, ill-will,
and wrong-doing. Even though in this life I have committed no
violations, the fruits of evil deeds in the past are to be gathered now.
Neither gods nor men can fortell what is coming upon me. I will submit
myself willingly and patiently to all the ills that befall me, and I
will never bemoan or complain. In the sutra it is said not to worry over
ills that may happen to you, because I thoroughly understand the law of
cause and effect. This is called the conduct of making the best use of
hatred and turned it into the service in one’s advance towards the
Path.
2)
Tùy Duyên Hạnh—To obedient to karma: Chúng sanh đều do duyên
nghiệp mà chuyển thành, chứ chẳng có cái ‘tôi.’ Mọi nỗi khổ vui đều do
nhân duyên sanh. Nếu nay được quả báo tốt, hưởng đủ vinh dự, ấy là do
nhân lành thuở trước cảm nên, nay mới được vậy. Hễ duyên hết th́ lại
hoàn không, mừng vui nỗi ǵ? Được mất ǵ đều tùy theo duyên, nhưng tâm
người th́ không v́ vậy mà được thêm hay bớt mất cái ǵ. Nếu thấu đáo
được như vậy th́ gió vui chẳng động, lặng lẽ mà thuận đạo, nên nói là
tùy thuận theo duyên nghiệp vậy—Being obedient to karma, there is not
‘self’ (atman) in whatever beings that are produced by the interplay of
karmic conditions; pain and pleasure we suffer are also the results of
our previous action. If I am rewarded with fortune, honor, etc., this is
the outcome of my past deeds which, by reason of causation, affect my
present life. When the force of karma is exhausted, the result I am
enjoying now will disappear; what is then the use of being joyful over
it? Gain or loss, let us accept karma as it brings us the one or the
other; the spirit itself knows neither increase nor decrease. The wind
of gladness does not move it, as it is silently in harmony with the
Path. Therefore, his is called ‘being obedient to karma.’
3)
Vô Sở Cầu Hạnh—Not to seek after anything:Người đời măi măi đắm
mê, việc ǵ cũng tham trước, thế gọi là cầu. Bậc trí ngộ lẽ chân, chuyển
ngược thế tục, nên an tâm trụ nơi vô vi, thân h́nh tùy nghi mà vận
chuyển. Muôn vật đều là không, có ǵ vui mà cầu được. Hễ có công đức th́
liền có hắc ám đuổi theo. Ở lâu trong ba cơi khác nào như trong nhà lửa.
Có thân có khổ, được ǵ mà vui? Thông suốt được vậy ắt buông hết sự vật,
dứt tường, chẳng cầu. Kinh nói: ‘C̣n cầu c̣n khổ. Hết cầu mới được vui.
Xét biết không cầu mới thực là đạo hạnh nên nói là hạnh không cầu mong—By
‘not seeking after anything’ is meant this: “Men of the world, in
eternal confusion, are attached everywhere to one thing or another,
which is called seeking. The wise, however, understand the truth and are
not like the vulgar. Their minds abide serenely in the uncreated while
the body turns about in accordance with the laws of causation. All
things are empty and there is nothing desirable and to be sought after.
Wherever there is nothing merit of brightness there follows the demerit
of darkness. The triple world there one stays too long is like a house
on fire; all that has a body suffers, and who would ever know what is
rest? Because the wise are thoroughly acquainted with this truth, they
get neer attached to anything that becomes, their thoughts are quieted,
they never seek. Says the sutra: ‘Wherever there is seeking, there you
have sufferings; when seeking ceases you are blessed. Thus we know that
not to seek is verily the way to the truth. Therefore, one should not
seek after anything.”
4)
Xứng Pháp Hạnh—To be in accord with the Dharma: Cái lư thanh tịnh
của tự tánh gọi là pháp. In hiểu lư ấy th́ mọi h́nh tướng hóa thành
không. Không nhiễm không trước, không bỉ không thử. Kinh nói: ‘Pháp
không có chúng sanh, hăy ĺa chúng sanh cấu. Pháp không có tướng ngă,
hăy ĺa ngă cấu.’ Bậc trí ví như tin hiểu được vậy th́ tùy xứng theo
pháp mà hành. Bổn thể của pháp vốn không tham lận cho nên dầu đem thân
mạng và của cải ra mà bố thí vẫn không hối tiếc. Thấu rơ ba cái không
th́ không c̣n ỷ lại và chấp trước. Chỉ cần gạn trừ trần cấu, tùy nghi mà
giáo hóa chúng sanh, nhưng không mắc phải h́nh tướng, thế tức là tự hành,
đă lợi người lại thêm trang nghiêm đạo Bồ Đề. Bố thí đă vậy th́ năm độ
Bát Nhă khác cũng thế. V́ dứt trừ vọng tưởng mà hành pháp tu lục độ,
nhưng thật không ǵ gọi là hành cả, nên nói là hạnh tùy xứng theo pháp—By
‘being in accord with the Dharma; is meant that the reason in its
essence is pure which we call the Dharma, and that this reason is the
principle of emptines in all that is manifested, as it is above
defilements and attachments, and as there is no ‘self’ or ‘other’ in it.
Says the sutra: ‘In the Dharma there are no sentient beings, because it
is free from the stains of being; in the Dharma there is no Self because
it is free from the stain of selfhood. When the wise understand this
truth and believe in it, their conduct will be in accordance with the
Dharma. As the Dharma in essence has no desire to possess, the wise are
ever ready to practise charity with their body, life, property, and they
never begrudge, they never know what in ill grace means. As they have a
perfect understanding of the threefold nature of emptiness they are
above partiality and attachment. Only because of their will to cleanse
all beings of their stains, they come among them as of them, but they
are not attached to the form. This is known as the inner aspect of their
life. They , however, know also how to benefit others, and again how to
clarify the path of enlightenment. As with the virtue of charity, so
with the other five virtues in the Prajnaparamita. That the wise
practise the six virtues of perfection is to get rid of confused
thoughts, and yet they are not conscious of their doings. This is called
‘being in accord with the Dharma.’
Tứ Hạnh Niệm Phật:
Four practices of Buddha Recitation—Sở thích và căn túc của chúng sanh
vẫn thường sai biệt, cho nên tuy đồng tu hạnh niệm Phật, sự hành tŕ
không khỏi có sự khác biệt nhau. V́ thế, trên đường Tịnh Độ, cổ nhân đă
khái ước chia thành bốn hạnh là Thiền Tịnh, Giáo Tịnh, Mật Tịnh và Thuần
Tịnh—Sentient beings usually differ in preferences and innate
capacities. Therefore, although they may engage in the common practice
of Buddha Recitation, they are bound to differ somewhat in their
practice. For this reason, ancient masters have summarized four types of
practice: Zen-Pure Land; Sutra Recitation-Pure Land; Esotericism-Pure
Land; Exclusive Pure Land Practice.
1)
Những vị niệm Phật làm chánh, tham thiền làm phụ, thuộc về hạnh
Thiền Tịnh. Đây cũng là lối thiền tịnh song tu, nhưng lại lấy sự văng
sanh Tịnh Độ làm yếu điểm chung cuộc, c̣n việc thấy tánh ngộ đạo chỉ
thuộc phần tùy duyên: The first category of cultivators comprises those
who engage primarily in Buddha Recitation but practice Zen as well. They
are said to practice Zen-Pure Land, also called dual practice of Zen and
Pure Land. Here, rebirth in the Pure Land is the principal goal, while
seeing the True Nature and becoming enlightened to the Way is a
secondary matter which depends on the individual practitioner’s good
roots and conditions.
2)
Những vị lấy niệm Phật làm chánh, tụng kinh làm phụ, gọi là Giáo
Tịnh. Về phần kinh giáo, có người thích tụng kinh Kim Cang hay Di Đà; có
vị thích tụng Hoa Nghiêm hay Pháp Hoa, hoặc phẩm Phổ Môn hay Phổ Hiền
Hạnh Nguyện chẳng hạn: The second category comprises those whose main
practice is Buddha Recitation with Sutra Recitation as an ancillary
practice. They are said to practice Sutra Recitation-Pure Land. As for
the sutras chanted, some prefer the Diamond Sutra or the Amitabha Sutra,
while others prefer the Avatamsaka Sutra or Lotus Sutra, or else
individual chapters, such as the “Avalokitesvara Chapter” in the Lotus
Sutra (chapter 25), or the Chapter on Samantabhadra’s Practices and Vows
in the Avatamsaka Sutra (chapter 40).
3)
Những vị lấy niệm Phật làm chánh, tŕ chú làm phụ, đó là tu về
Mật Tịnh. Trong sự tŕ chú, mỗi người lại ưa thích riêng mỗi môn đà la
ni như Đại Bi, Chuẩn Đề, Văng sanh, Công Đức Bảo Sơn, Văn Thù Ngũ Thanh
thần chú, Lục Tự Đại Minh chân ngôn, hoặc các đà la ni khác: The third
category is composed of those who engage in Buddha Recitation as their
primary practice and Mantra Recitation as an ancillary one. They follow
the practice of Esotericism-Pure Land. The mantras vary with the
practitioner and include such dharani as the Great Compassion Mantra,
the Thousand-Armed Avalokitesvara Dharani, the Rebirth Dharani, etc.
4)
Những vị chỉ chuyên niệm Phật, không xen tạp môn nào khác, thuộc
về các hành giả tu hạnh Thuần Tịnh. Trong đây các vị căn cơ cao th́ theo
Thập Lục Quán, c̣n đại đa số chỉ chuyên về hạnh tŕ danh: The fourth
category of cultivators comprises those who practice Buddha Recitation
diligently and exclusively without cultivating other methods. Within
this group, those of high capacities practice the sixteen Meditations as
taught in the Meditation Sutra, while the great majority only practice
oral recitation of the Buddha's name.
·
Ḥa Thượng Thiện Đạo chỉ dạy chuyên tu niệm Phật để tiếp
dẫn hàng trung và hạ căn. Đây là lối dạy về chuyên tu niệm Phật: The
Pure Land Patriarch Shan-Tao taught diligent Buddha Recitation alone,
which is designed to help those of limited or moderate capacities and
belng to the exclusive Pure Land practice.
·
Vĩnh Minh Thiền Sư bên Trung Hoa, ngoài việc niệm mười
muôn câu niệm Phật, c̣n tu các hạnh khác, tất cả gồm 108 môn. Lối nầy
dùng để khuyến tấn các bậc thượng thượng căn, thuộc về “Viên Tu.”:
Master Yung-Ming’s method, totalling of 108 in all, aims specifically to
encourage those of the highest capacity, and belongs to the Perfect
Practice.
Tứ Hệ Phược:
Theo Tương Ưng Bộ Kinh, Phẩm Tầm Cầu, có bốn Hệ Phược—According to The
Connected Discourses of the Buddha, Chapter Esanavaggo (Searches), there
are four knots:
1)
Tham Thân Hệ Phược: The bodily knot of covetousness.
2)
Sân Thân Hệ Phược: The bodily knot of ill-will.
3)
Giới Cấm Thủ Hệ Phược: The bodily knot of distorted grasp of
rules and vows.
4)
Chấp Chân Lư Hệ Phược: Chấp đây là chân lư—The bodily knot of
adherence to dogmatic assertion of truth.
Tứ Hoa: Bốn
loại hoa—The four divine flowers:
(A)
1)
Hoa Mạn Đà La: Sen trắng nhỏ—Mandara—Small white lotuses.
2)
Hoa Ma Ha Mạn Đà La: Sen trắng lớn—Mahamadara—Large white
lotuses.
3)
Hoa Mạn Thù Sa: Sen đỏ nhỏ—Manjusaka—Small red lotuses.
4)
Hoa Ma Ha Mạn Thù Sa: Sen đỏ lớn—Mahamanjusa—Large red lotuses.
(B)
1)
Hoa Phân Đà Lợi: Sen trắng—Pundarika—White lotuses.
2)
Hoa Ưu Bát La: Sen xanh—Utpala—Blue lotuses.
3)
Bát Đặc Ma: Sen hồng—Padma—Red lotuses.
4)
Câu Vật Đầu: Sen vàng—Kumuda—Yellow lotuses.
Tứ Hóa Pháp:
See Tứ Vô Ngại.
Tứ Hoặc: See Tứ
phiền năo.
Tứ Hoằng Thệ Nguyện:
Bốn phổ nguyện lớn của Phật và Bồ Tát—The four universal vows of a
Buddha or Bodhisattva (four magnanimous Vows or four all-encompassing
vows):
(A)
Theo Phật Giáo Đại Thừa—According to the Mahayana Buddhism:
1)
Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ: Nguyện cứu độ hết thảy chúng
sanh—Vow to save all living beings without limits—Sentient beings are
numberless (countless), I vow to save them all.
2)
Phiền năo vô tận thệ nguyện đoạn: Nguyện đoạn tận hết thảy phiền
năo dục vọng—Vow to put an end to all passions and delusions, though
inumerous—Afflictions (annoyances) are inexhaustible (endless), I vow to
end (cut) them all.
3)
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học: Nguyện học hết vô lượng pháp
môn—Vow to study and learn all methods and means without end—Schools and
traditions are manifold, I vow to study them all—The teachings of Dharma
are boundless, I vow to learn them all.
4)
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành: Nguyện chứng thành Phật đạo
vô thượng—Vow to become perfect in the supreme Buddha-law—The Buddha-Way
(Truth) is supreme (unsurpassed) , I vow to complete (realize) it.
(B)
Theo Lục Tổ Huệ Năng—According to
the Sixth Patriarch Hui-Neng:
·
I vow to take across the limitless living beings of my own
mind.
·
I vow to cut off the inexhaustible afflictions of my own
mind.
·
I vow to study the immeasurable Dharma-doors of my own
nature.
·
I vow to realize the supreme Buddha Way of my own nature.
1)
Tự tâm chúng sanh vô biên thệ
nguyện độ, tự tâm phiền năo vô biên thệ nguyện đoạn, tự tánh pháp môn vô
tận thệ nguyện học, tự tánh Vô Thượng Phật đạo thệ nguyện thành.” Nầy
thiện tri thức! Cả thảy đâu chẳng nói: “Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ,
nói thế ấy, vả lại không phải là Huệ Năng độ.” Nầy thiện tri thức! Chúng
sanh trong tâm, chỗ gọi rằng tâm tà mê, tâm cuống vọng, tâm bất
thiện, tâm tật đố, tâm ác độc, những tâm như thế trọn là chúng sanh, mỗi
người nên tự tánh tự độ, ấy gọi là chơn độ. Sao gọi là tự tánh tự độ?
Tức là trong tâm những chúng sanh tà kiến, phiền năo, ngu si, mê vọng,
đem chánh kiến mà độ. Đă có chánh kiến bèn sử dụng trí Bát Nhă đánh phá
những chúng sanh ngu si mê vọng, mỗi mỗi tự độ, tà đến th́ chánh độ, mê
đến th́ ngộ độ, ngu đến th́ trí độ, ác đến th́ thiện độ, độ như thế gọi
là chơn độ—Good Knowing Advisors, did all of you not just say, “I vow to
take across the limitless beings? What does it mean? You should remember
that it is not Hui-Neng who takes them across. Good Knowing Advisors,
the ‘living beings’ within your mind are deviant and confused thoughts,
deceitful and false thoughts, unwholesome thoughts, jealous thoughts,
vicious thoughts: and these thoughts are ‘living beings’ The
self-nature of each one of them must take itself across. That is true
crossing over. What is meant by ‘the self-nature taking across?’ It is
to take across by means of right views the living beings of deviant
views, affliction, and delusion within your own mind. Once you have
right views, use Prajna Wisdom to destroy the living beings of delusion,
confusion, and falsehood. Each one takes itself across. Enlightenment
takes confusion across, wisdom takes delusion across, goodness takes
evil across. Such crossong over is a true crossing.
2)
Lại phiền năo vô biên thệ nguyện
đoạn, đem tự tánh Bát Nhă trí trừ hư vọng tư tưởng tâm ấy vậy—Further,
‘I vow to cut off the inexhaustible afflictions.’ That is to use the
Prajna Wisdom of your own self-nature to cast out the vain and
false thoughts in your mind.
3)
Lại pháp môn vô tận thệ nguyện học,
phải tự thấy tánh của ḿnh, thường hành chánh pháp, ấy gọi là chơn học—Further,
‘I vow to study the immeasurable Dharma-door.’ You must see your own
nature and always practice the right Dharma. That is true study.
4)
Lại vô thượng Phật đạo thệ nguyện
thành, đă thường hay hạ tâm hành nơi chơn chánh, ĺa mê, ĺa giác,
thường sanh Bát Nhă trừ chơn trừ vọng, tức thấy được Phật tánh, liền
ngay nơi lời nói, liền thành Phật đạo, thường nhớ tu hành, ấy là pháp
nguyện lực--Further, ‘I vow to realize the supreme Buddha Way,’ and with
humble mind to always practice the true and proper. Separate yourself
from both confusion and enlightenment, and always give rise to Prajna.
When you cast out the true and the false, you see your nature and
realize the Buddha-way at the very moment it is spoken of. Always be
mindful; cultivate the Dharma that possesses the power of this vow.”
Tứ Hối: See Ngũ
Hối (A) bỏ đi phần đầu (Sám Hối)—See Ngũ Hối (A) and omit the first.
Tứ Huệ: Bốn
loại trí huệ—Four kinds of wisdom:
(A)
Tán Tuệ—Trí tuệ có được từ tán tâm—Wisdom obtained from the
scattering mind:
1)
Sinh Đắc Tuệ: Bẩm sinh trí tuệ—Wisdom received by birth or
nature.
2)
Văn Tuệ: Trí tuệ do nghe và trau dồi mà có—Wisdom by hearing or
being taught.
3)
Tư Tuệ: Trí tuệ đạt được do suy tư mà có—Wisdom by thoughts.
(B)
Định Tuệ—Trí tuệ có được từ định tâm—Wisdom obtained from the
mind of concentration:
4)
Tu Tuệ: Trí tuệ do thiền định mà có—Wisdom by dhyana meditation.
Tứ Hướng: Bốn
Thánh quả trong Tiểu Thừa—The four stages in Hinayana sanctity:
1)
Tu Đà Hoàn: Srota-Apanna (skt).
2)
Tư Đà Hàm: Sakrdagamin (skt).
3)
A Na Hàm: Anagamin (skt).
4)
A La Hán: Arhan (skt).
** For more
information please see Tứ Thánh
Quả (B).
Tứ Hữu: See Tứ
Hữu Vi Tướng.
Tứ Hữu Lậu:
Four principal poisonous outflows.
1)
Dục Lậu: Kama (skt)—Sự ham muốn—Lust.
2)
Hữu Lậu: Bhava (skt)—Sự bám víu lấy đời sống—Clinging to life.
3)
Kiến Lậu: Drishti (skt)—Kiến giải phàm phu—Ordinary speculation.
4)
Vô Minh Lậu: Avidya (skt)—Ignorance.
** For more
information, please see Asrava
in Sanskrit/Pali-Vietnamese
Section.
Tứ Hữu Vi Tướng:
Bốn loại hữu vi tướng—The four forms of activity:
1)
Sinh: Coming into existence.
2)
Trụ: Abiding.
3)
Dị: Change.
4)
Diệt: Extinction.
Tứ Kết:
Samyojana (skt)—Thân Hệ Phược—Theo Thanh Tịnh Đạo, có bốn mấu kết làm
ngăn che sự phát triển. Sở dĩ gọi là kết v́ chúng buộc kết cái thân tâm
lư vào cái thân vật lư—According to The Path of Purification, there are
four knots or bonds which hinder free development. They are so called
because they tie the mental body and the material body.
1)
Tham Kết: The bodily tie of covetousness.
2)
Sân Kết: The bodily tie of ill-will.
3)
Giới Cấm Thủ Kết: The bodily tie of adherence to rites and
rituals.
4)
Tà Giải Kết: Cho rằng cái ḿnh giải thích mới là sự thật—The
bodily tie of misinterpreting (that this only is the truth).
** For more
information, please see Tứ Ế and
Tứ Phược.
Tứ Khí: Tứ Ba
La Di—Tứ Trọng—Tứ Cực Trọng Cảm Đọa Tội—Bốn tội Ba La Di đưa đến việc bị
khai trừ khỏi giáo đoàn—The four parajika sins resulting in
excommunication—See Tứ Đọa.
Tứ Khô Tứ Vinh:
Khi Đức Phật nhập diệt, bốn trong tám cây Ta La bị héo khô, c̣n bốn cây
khác vẫn tươi, đây là dấu hiệu của bốn pháp bị hoại diệt, trong khi bốn
pháp khác tiếp tục hưng thịnh—When the Buddha died, four of the eight
sala-trees surrounding him are said to have withered, while the other
four continued in full leaf, a sign that a four doctrines were to perish
and the other four were to flourish.
(A)
Tứ Khô: Bốn pháp bị hoại diệt—The four doctrines that were to
perish:
1)
Khổ: The suffering.
2)
Không: The void.
3)
Vô Thường: Impermanence.
4)
Vô Ngă: Impermanence.
(B)
Tứ Vinh: Bốn pháp tiếp tục hưng thịnh—The four doctrines (the
transcendent bodhisattva doctrines) that were to flourish:
1)
Thường: Permanence.
2)
Lạc: Joy.
3)
Ngă: Personality.
4)
Tịnh: Purity.
Tứ Không: See
Tứ Không Xứ.
Tứ Không Định:
See Tứ Không Xứ.
Tứ Không Thiên:
See Tứ Không Xứ.
Tứ Không Xứ:
Catur-arupya (skt)—Brahma-lokas (skt).
(A)
Tứ Vô Sắc, Tứ Vô Sắc Giới, Tứ Không Định, hay Tứ Không Thiên theo
quan điểm Phật Giáo Đại Thừa—The four Immaterial or Formless Heavens,
arupa-dhatu, above the eighteen brahmalokas, according to the point of
views of Mahayana Buddhism:
1)
Không Vô Biên Xứ: Akasanantya-yatanam (skt)—Hư Không Xứ—Không xứ
đầu tiên trong Tứ Không Xứ. Khi cái tâm được tách khỏi cảnh giới h́nh và
chất, được đặc biệt đưa thẳng đến không gian vô biên th́ nó được gọi là
đang trú trong không vô biên xứ. Để đạt đến cơi nầy, hành giả đă đạt tới
tầng thiền thứ năm trong sắc giới có thể trau dồi thiền vô sắc, bắt đầu
gom tâm vào điểm sáng phát ra từ đề mục hay đối tượng (kasina), cho đến
khi nào điểm sáng ấy lớn dần đến bao trùm toàn thể không gian. Đến đây
hành giả không c̣n thấy ǵ khác ngoài ánh sáng nầy, cùng khắp mọi nơi.
Từ ngữ Không Vô Biên Xứ hay không gian đầy ánh sáng nầy không có thực,
không phải là một thực tại, mà chỉ là một khái niệm (không gian phát huy
từ đối tượng). Đây là cơi trời vô biên nơi mà tâm trở nên vắng lặng và
vô tận như hư không. Thọ mệnh trong cơi trời nầy có thể dài đến 20.000
đại kiếp—The first of the four immaterial jhanas. When the mind,
separated from the realm of form and matter, is exclusively directed
towards infinite space, it is said to be abiding in the
Akasanantya-yatanam. To reach this, a meditator who has mastered the
fifth fine-material jhana based on a “kasina” object spreads out the
counterpart sign of the “kasina” until it becomes immeasurable in
extent. The he removes the “kasina” by attending only to the space it
pervaded, contemplating it as “infinite space.” The expression “base of
infinite space,” strictly speaking, refers to the concept of infinite
space which serves as the object of the first immaterial-sphere
consciousness. This is the state or heaven of boundless space, where
the mind becomes void and vast like space. Existence in this stage may
last 20,000 great kalpas.
2)
Thức Vô Biên Xứ: Vijnananantyayatanam (skt)—Sau khi đạt được
trạng thái “Không Vô Biên Xứ,” hành giả tiếp tục gom tâm vào sơ thiền vô
sắc cho đến lúc phát triển nhị thiền vô sắc, hay khi cái tâm vượt khỏi
cái không gian vô biên mà tập trung vào sự vô biên của thức. Đây là cơi
trời vô tận trí nơi mà khả năng hiểu biết và thẩm thấu là vô tận. Thọ
mệnh trong cơi trời nầy có thể kéo dài đến 40.000 đại kiếp—After
attaining the state of the base of infinite space, meditator continues
to concentrate on this state of “infinite space” until he takes as
object the consciousness of the base of infinite space, and contemplates
it as “infinite consciousness” until the second immaterial absorption
arises, or when the mind going beyond infinite space is concentrated on
the infinitude of consciousness it is said to be abiding in the
Vijnananantya. This is the state or heaven of boundless knowledge. Where
the powers of perception and understanding are unlimited. Existence in
this stage may last 40,000 great kalpas.
3)
Vô Sở Hữu Xứ: Akincanyatanam (skt)—Đề mục của tầng thiền vô sắc
thứ ba là “không có ǵ hết,” nơi đây hành giả phải chú ư vào sự vắng mặt
của “thức” trong nhị thiền vô sắc. Khi mà tâm của hành giả vượt khỏi cả
cái cảnh giới của thức mà thấy không có chỗ nào riêng để trú, th́ nó đạt
được cái định gọi là “Không biết chỗ nào để hiện hữu.” Đây là cơi trời
vô hữu nơi không c̣n sự phân biệt. Thọ mệnh trong cơi trời nầy có thể
kéo dài đến 60.000 đại kiếp—The third immaterial attainment has its
object the present non-existence or voidness. Meditators must give
attention to the absence of that consciousness in the second
immaterial-sphere consciousness. When the mind going even beyond the
realm of consciousness finds no special resting abode, it acquires the
concentration called “knowing nowhere to be.” This is the state or
heaven of nothing or non-existence. Where the discriminative powers of
mind are subdued. Existence in this stage may last 60,000 great kalpas.
4)
Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ: Naivasam-jnanasanjnayatanam (skt)—Gọi
là “Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ” v́ ở trạng thái nầy, “tưởng” không thể
được bao gồm mà cũng không thể bị loại trừ. mà cũng không có “không
tưởng.” Bản chất của cái định nầy là không ở trong cảnh giới hoạt động
của tâm thức mà cũng không ở ngoài cảnh giới ấy. Đây là cơi trời vô
tưởng, nơi chỉ c̣n trí trực giác chứ không c̣n suy tưởng nữa. Thọ mệnh
trong cơi trời nầy có thể kéo dài đến 80.000 đại kiếp—This fourth and
final immaterial attainment is so called because it cannot be said
either to include perception or to exclude perception. The nature of
this concentration is neither in the sphere of mental activities nor out
of it. This is the state or heaven of neither thinking nor not thinking
which may resemble a state of intuition. The realm of consciousness or
knowledge without thought is reached (intuitive wisdom). Existence in
this stage may last to 80,000 great kalpas.
(B)
Tứ không xứ hay bốn cảnh trời vô sắc, là quả cho những hành giả
đắc được bốn bậc thiền vô sắc—Four formless realms which are the fruits
of practitioners who have reached the four arupa jhanas:
1)
Không Vô Biên Thiên: Akasanancayatana (p)—The infinity of space.
·
Tâm thiện đeo níu trong trạng thái “không vô biên thiên”—Moral
or wholesome consciousness dwells in the infinity of space.
2)
Thức Vô Biên Thiên: Vinnanancayatana (p)—The infinity of
consciousness.
·
Tâm thiện đeo níu trong trạng thái “thức vô biên thiên”—Moral
or wholesome consciousness dwells on the infinity of consciousness.
3)
Vô Sở Hữu Thiên: Akincannayatana (p)—Nothingness.
·
Tâm thiện đeo níu trong trạng thái “vô sở hữu thiên”—Moral
or wholesome consciousness dwells on nothingness.
4)
Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Thiên: N’eva sanna n’asannayatana
(p)—Neither perception, nor non-perception.
·
Tâm thiện đeo níu trong trạng thái “phi tưởng phi phi
tưởng thiên”—Moral or wholesome consciousness dwells in the neither
perception nor non-perception.
Tứ Khổ: Bốn nỗi
khổ của con người—Four miseries—Four universal sufferings—The four
afflictions that are the lot of every man:
1)
Sanh khổ: Birth is suffering.
2)
Già khổ: Old age is suffering.
3)
Bịnh khổ: Disease (illness) is suffering.
4)
Chết khổ: Death is suffering.
** For more
information, please see Bát Khổ.
Tứ Khởi (Tứ Ái Sanh):
Bốn thứ làm khởi dậy ái dục cho chư Tăng Ni—Four sources of affection
for a bhiksu or bhiksuni:
1)
Food: Ăn.
2)
Clothes: Mặc.
3)
Bedding: Ở.
4)
Gifts: Quà cáp.
Tứ Kiên Tín:
Bốn niềm tin không hoại diệt—The four firm or indestructible beliefs:
1)
Kiên tín nơi Phật: Firm belief in the Buddha.
2)
Kiên tín nơi Pháp: Firm belief in the Law.
3)
Kiên tín nơi Tăng: Firm belief in the Order (Sangha).
4)
Kiên tín nơi giới luật: Firm belief in the commandments.
Tứ Kiếp (Tứ Trạng):
Theo Câu Xá Luận, có bốn trạng thái hay bốn kiếp, mỗi kiếp gồm 20 tiểu
kiếp qua các thời kỳ thành, trụ, hoại, không—According to the Kosa
Sastra, there are four kalpas or epochs, or periods of time, each
consisting of twenty small kalpas, during which worlds go through
formation, existing, destruction, and annihilation:
1)
Thành Kiếp: Vivarta-kalpa (skt)—Thành kiếp gồm 20 tiểu kiếp trong
lúc các thế giới và chúng sanh được thành lập—Kalpa of
formation—Formation or completion which consists of twenty small kalpas
during which worlds and the beings on them are formed.
2)
Trụ Kiếp: Vivarta-siddha (skt)—Trụ kiếp trong đó mặt trời mặt
trăng mọc lên, giới tính phân biệt, anh hùng khởi dậy, bốn giai cấp được
thành lập, và cuộc sống xă hội tiến hóa—Kalpa of existing—Existing or
abiding or existence, sun and moon rise, sexes are differentiated,
heroes arise, four castes are formed, social life evolves.
3)
Hoại Kiếp: Samvarta kalpa (skt)—Hoại kiếp gồm 64 tiểu kiếp trong
đó lửa, nước và gió tàn phá tất cả mọi thứ, ngoại trừ Tứ Thiền Thiên—Kalpa
of destruction or decay—Destruction consists of sixty-four small kalpas
when fire, water and wind destroy everything except the Fourth Dhyana.
4)
Không Kiếp: Samvarta-siddha kalpa (skt)—Sự hủy diệt kế tiếp bởi
không kiếp, trong giai đoạn nầy không thứ ǵ có thể tồn tại được. Đây là
giai đoạn hoàn toàn hoại diệt—Kalpa of annihilation—Annihilation or the
succeeding void, during which nothing exists, or the final annihilation.
Tứ Kim Cang:
The four maharajas—See Tứ Thiên Vương.
Tứ Kinh Vệ Đà:
Bốn bộ kinh Vệ Đà ở Ấn Độ—Four Veda Sutras in India—The four Vedas:
1)
Độc Tụng Vệ Đà: Gồm những bài ca tụng thần thánh—Rig Veda.
2)
Ca Vịnh Vệ Đà: Gồm những bài ca trong khi hành lễ—Sama Veda.
3)
Tế Tự Vệ Đà: Những bài nghị thức tế lễ—Yajur Veda.
4)
Nhương Tai Vệ Đà: Gồm những bài chú để cầu nguyện—Atharva Veda.
Tứ Kính: Thể
tướng bổn giác có bốn nghĩa tương tự như một cái kính—The four
resemblances between a mirror and the bhutatathata in the Awakening of
Faith:
1)
Như Thực Không Kính (Không Chân Như): Thể của chân như bản lai
không tịch lên mọi vọng tướng, giống như không kính ĺa mọi thể ngoại
vật—The bhutatathata, like the mirror, is independent of all beings.
2)
Nhân Huân Tập Kính (Bất Không Chân Như): Giáo thể chân như có đủ
vô lượng đức tính, là nhân của tịnh pháp, giống như thể tính của gương,
có khả năng thể hiện muôn vạn h́nh tượng—The bhutatathata, like a
mirror, reveals all objects.
3)
Pháp Xuất Ly Kính (Thể Chân Như): Giác thể chân như chân giám
trong phiền năo của chúng sanh, gọi là Như Lai Tạng, nay ĺa khỏi mọi
tiềm cấu phiền năo, thuần nhứt trong sáng giống như tịnh kính (tấm gương
trong lau chùi th́ sạch bụi bặm)—The bhutatathata, like a mirror, is not
hindered by objects.
4)
Duyên Huân Tập Kính (Dụng Chân Như): Lúc giác thể chân như ĺa
khỏi triền phược th́ có vô biên diệu dụng, nhưng do huân tập vọng tâm
của chúng sanh từ bên ngoài hay huân tập ngoại duyên như gương sáng trên
đài mà thu dụng—The bhutatathata, like a mirror, serves all beings.
Tứ Kư: Bốn
phương pháp Phật trả lời câu hỏi—The Buddha’s four methods of dealing
with questions:
1)
Trả lời thẳng: Direct answer.
2)
Trả lời bằng cách phân biệt: Discriminating answer.
3)
Trả lời bằng cách hỏi lại: Questioning in return.
4)
Giữ im lặng: Remaining silent.
Tứ Kư Tâm: Theo
Kinh Tự Hoan Hỷ trong Trường Bộ Kinh, có bốn loại kư tâm sai khác—According
to the Sampasadaniya Sutta in the Long Discourses of the Buddha, there
are four ways of teaching Dhamma in regard to the telling of thought:
1)
Loại Kư Tâm Thứ Nhất—The firs way of teaching Dhamma in regard to
telling of thought: Có hạng tự lộ bằng h́nh tướng, nói rằng: “Ư của
ngươi thế nầy, ư của ngươi là như vậy, không phải ǵ khác.”—One tells by
a visible sign by saying: “This is what you think, this is in your mind,
you thought is like this.” An however much one declares, it is so and
not otherwise.
2)
Loại Kư Tâm Thứ Hai—The second way of teaching Dhamma in regard
to telling of thought: Có loại không tự tỏ lộ bằng h́nh tướng, nhưng tự
tỏ lộ sau khi nghe tiếng phát ra bởi người, phi nhân, hay chư Thiện: “Ư
của ngươi là như thế, ư của ngươi là như vậy, tâm của ngươi là như thế
nầy. Nếu có tỏ lộ nhiều đi nữa, th́ sự tỏ lộ là như vậy, không phải ǵ
khác.”—One tells not by a visible sign, but through hearing a sound made
by humans, non-humans, or devas (the rest remains the same as in Tứ Kư
Tâm 1).
3)
Loại Kư Tâm Thứ Ba—The third way of teaching Dhamma in regard to
telling of thought: Có loại không tỏ lộ bằng h́nh tướng, cũng không tỏ
lộ sau khi nghe tiếng phát ra bởi nhân, phi nhân hay chư Thiên, mà tự tỏ
lộ sau khi nghe tiếng rơ ràng và hợp lư, phát ra từ sự suy tầm, tư duy—One
tells neither by a visible sign nor by a sound uttered, but by applying
one’s mind and attending to something conveyed by sound (the rest
remains the same as in Tứ Kư Tâm 1).
4)
Loại Kư Tâm Thứ Tư—The fourth way of teaching Dhamma in regard to
telling of thought: Có loại không tự tỏ lộ bằng h́nh tướng, cũng không
tự tỏ lộ sau khi nghe tiếng phát ra từ nhân, phi nhân và chư Thiên, cũng
không tự tỏ lộ sau khi nghe tiếng rơ ràng và hợp lư phát ra từ sự suy
tầm và tư duy, nhưng khi chứng được định, không tầm, không tứ, có thể
biết được tâm người khác với tâm của ḿnh: “Tùy ư nguyện hợp ư hành của
vị nầy, vị nầy sẽ hướng đến tâm nầy. Nếu có tỏ lộ nhiều đi nữa, thời sự
tỏ lộ là như vậy, không phải ǵ khác.”—One tells, not by any of the
above mentioned means in 1, 2, and 3, but when one has attained a state
of mental concentration without thinking and pondering, by divining
another’s thoughts in one’s mind, and one says: “As far as so-and-so’s
mind-force is directed, so his thoughts will turn to that thing.”
Tứ Lạc Pháp:
See Tứ Đọa.
Tứ Liên Hoa:
Four kinds of lotus—See Liên Hoa.
Tứ Liệu Giản:
(A)
Bốn cách cân nhắc trong giáo tướng của tông Lâm Tế—A summary of
Lin-Chi school, an offshoot of the Ch’an:
1)
Chủ Quan: Bỏ người chẳng bỏ cảnh—Subjective.
2)
Khách Quan: Bỏ cảnh chẳng bỏ người—Objective.
3)
Cả Chủ Quan lẫn Khách Quan: Bỏ cả người lẫn cảnh—Both subjective
and objective.
4)
Chẳng Chủ Quan chẳng Khách Quan: Chẳng bỏ người chẳng bỏ cảnh—Neither
subjective nor objective.
(B)
Trong thời Đại Sư Diên Thọ, người đời c̣n đang bị phân vân, ngờ
vực giữa Thiền tông và Tịnh Độ, chưa biết phải tu môn nào để được kết
quả chắc chắn, nên ngài Diên Thọ đă làm bài kệ TỨ LIỆU GIẢN để so sánh
với Thiền Tông—During the time of Den Suu, many Buddhists were skeptical
and unclear about the differences between Zen and Pureland, not knowing
which tradition to practice to obtain guaranteed results; therefore,
Den-Suu wrote a poem entitled “Four Clarifications” to make comparisons.
1)
Hữu Thiền Vô Tịnh Độ, thập nhân cửu thác lộ. Ấm cảnh nhược hiện
tiền, miết nhĩ tùy tha khứ (Có Thiền không Tịnh Độ, mười người chín lạc
đường. Ấm cảnh khi hiện ra, chớp mắt đi theo nó): Having Zen but not
having Pureland, nine out of ten cultivators will be lost. When life
images flash before death, in a split second, must follow that karma.
2)
Vô Thiền Hữu Tịnh Độ, vạn tu vạn nhơn khứ. Đản đắc kiến Di Đà, hà
sầu bất khai ngộ (Không Thiền có Tịnh Độ, muôn tu muôn thoát khổ. Văng
sanh thấy Di Đà, lo ǵ không khai ngộ): Without Zen but having Pureland,
thousand cultivators, thousand find liberation. Gain rebirth, witness
Amitabha Buddha, what worry is there for not becoming awakened!
3)
Hữu Thiền Hữu Tịnh Độ, do như đái giác hỗ. Hiện thế vi nhân sư,
lai sanh tác Phật Tổ (Có Thiền có Tịnh Độ, như thêm sừng mănh hổ. Hiện
đời làm thầy người, về sau thành Phật Tổ): Having Zen and having
Pureland, is similar to giving horns to a tiger. Present life one will
be the master of men; in the future one will become Buddha and
Patriarch.
4)
Vô Thiền Vô Tịnh Độ, thiết sàng tinh đồng trụ. Vạn kiếp dữ Thiên
sanh, một cá nhơn y hổ (Không Thiền không Tịnh Độ, giường sắt cột đồng
lửa. Muôn kiếp lại ngàn đời, chẳng có nơi nương tựa): Without Zen and
without Pureland, iron beds and copper poles await. In tens and
thousands of lifetimes, having nothing to lean on.
Tứ Linh: Bốn
linh vật—The four supernatural creatures:
1)
Long: Dragon.
2)
Lân: Unicorn.
3)
Quy: Tortoise.
4)
Phụng: Phoenix.
Tứ Loại Chúng Sanh:
See Four Kinds of Sentient Beings in English-Vietnamese Section.
Tứ Lô: Bốn loại
hỏa ḷ hay bàn thờ của Mật Giáo, mỗi thứ đều có h́nh thể khác nhau—The
four furnaces, or altars of the esoteric cult, each differing in shape:
1)
Địa Lô: Ḷ đất h́nh vuông—Earth furnace, square in shape.
2)
Thủy Lô: Ḷ nước h́nh tṛn—Water furnace, round in shape.
3)
Hỏa Lô: Ḷ lửa h́nh chữ nhật—Fire furnace, triangular in shape.
4)
Phong Lô: Ḷ gió h́nh bán nguyệt—Wind furnace, half-moon in
shape.
Tứ Luân: Theo
Câu Xá Luận, có tứ luân tạo nên thế giới—According to the Kosa Sastra,
there are four wheels on which the earth rests:
(A)
Đại Địa Tứ Luân—The four wheels on which the earth rests:
1)
Hư Không Luân: The Space wheel.
2)
Thủy Luân: The Water wheel—See Thủy Luân.
3)
Phong Luân: The Wind (Air) wheel.
4)
Kim Luân: The Metal wheel.
(B)
Bốn h́nh tượng của tứ luân—Four images with wheels:
1)
Màu vàng quan hệ tới vàng hay kim loại—Yellow associated with
metal or gold.
2)
Màu trắng với nước: White with water.
3)
Màu đỏ với lửa: Red with fire.
4)
Màu đen với gió: Black with wind.
(C)
Tứ Phật Luân—The four dhyani-buddhas:
1)
Kim Cang Luân với A Súc Bệ Phật: Vajra-Wheel with Aksobhya
Buddha.
2)
Bảo Luân với Bảo Tướng Phật: Ratna-Wheel with Ratnasambhava
Buddha.
3)
Pháp Luân với A Di Đà Phật: Dharma-Wheel with Amitabha Buddha.
4)
Yết Ma Luân với Nam Phật: Amoghasiddhi.
(D)
Tứ Luân của Tứ Thiên Vương—The four wheels of the Cakravartin
kings:
1)
Kim Luân (vàng): Gold wheel.
2)
Ngân Luân (bạc): Silver wheel.
3)
Đồng Luân: Copper wheel.
4)
Thiết Luân (sắt): Iron wheel.
Tứ Luân Vương:
Bốn loại Tứ Thiên Vương—The four kinds of Cakravartin kings—See Tứ Luân
(D).
Tứ Luận: Bốn bộ
luận nổi tiếng—The four famous sastras:
1)
Trung Quán Luận (bốn quyển): Pranyamula-sastratika by Nagarjuna
(Long Thọ), four books.
2)
Bách Luận (hai quyển): Sata-sastra by Devabodhisattva, two books.
3)
Thập Nhị Môn Luận (một quyển): Dvadasanikaya-mukha-sastra by
Nagarjuna, one book.
4)
Đại Trí Độ Luận (100 quyển): Mahaprajnaparamita-sastra by
Nagarjuna, one hundred books.
Tứ Luận Chứng:
Bốn luận chứng mà ngài Thế Thân đă trích dẫn từ nền văn học Luận Tạng.
Trong đó Thế Thân tán đồng quan điểm của Thế Hữu (3) là hợp lư nhất
trong số bốn luận chứng, dù ông không hoàn toàn thỏa măn với nó—The four
arguments which Vasubandhu quoted from the Exegetic Literature.
Vasubandhu prefers Vasumitra’s opinion (3) as the best of the four
arguments though he was not entirely satisfied with it.
1)
Luận chứng của Pháp Cứu, bàn về sai biệt giữa phẩm loại hay kết
quả, như một thoi vàng có thể được làm thành ba thứ đồ dùng, nhưng mỗi
thứ vẫn giữ y bản chất của vàng: Dharmatrata’s argument from the
difference of kind or result, as a gold piece may be made into three
different articles, yet each retains the real nature of gold.
2)
Luận chứng của Diệu Âm, bàn về sai biệt tướng dạng hay kiện tố,
như cùng một công việc có thể đạt đến được bằng ba nhân công khác nhau:
Shosa’s argument from the difference of mark or factor as the same
service can be obtained from three different employees.
3)
Luận chứng của Thế Hữu, bàn về sai biệt nhiệm vụ hay vị trí, như
trong kế toán, cùng một con số có thể được dùng để diễn tả ba giá trị
khác nhau, ví dụ như một đơn vị số có thể là một hay chỉ cho 10, hay cho
100 (1 mét=10 deci-mét=100 centi-mét). Theo luận chứng nầy th́ ta có thể
đưa ra nhiều giá trị khác nhau cho mỗi một trong ba thời (quá khứ, vị
lại, và hiện tại): vị lai là giai đoạn chưa hiện hành, hiện tại là giai
đoạn đang hiện hành thực sự, và quá khứ là giai đoạn mà hiện hành đă
chấm dứt. Do bởi những sai biệt về giai đoạn, nên ba thời phân ly rơ rệt,
và tất cả các pháp trong đó đều là những thực thể có thực. Do đó có công
thức “Tam Thế Thực Hữu, Pháp Thể Hằng Hữu” (ba giai đoạn của thời gian
đều có thực và do đó thực thể của tất cả các pháp đều liên tục là thực
hữu): Vasumitra’s argument from the difference of function or position
in accounting where the same numeral may be used to express three
different values, for instance, the numeral one may by 1 or the index of
10 or of 100 (1 meter=10 decimeters=100 centimeters). According to this
argument, it is possible to give different values to each of the three
periods of time, the future is the stage which has not come to function,
the present is the actually functioning stage, and the past is the stage
in which the function has come to an end. Owing to the differences in
stages, the three periods are distinctly separate, and all things or
elements in them are real entities. Hence the formula: “The three
periods of time, are real and so is the entity of all elements at any
instant.”
4)
Luận chứng của Giác Thiên, sai biệt về quan điểm hay tương quan;
như một người đàn bà có thể cùng một lúc vừa là con gái, là vợ và bà mẹ,
tùy theo sự tương quan với mẹ, với chồng hay với con của ḿnh:
Buddhadeva’ argument from the difference of view or relation, as a woman
can at once be daughter, wife, and mother according to the relation she
holds to her mother, her husband, and her child.
** For more
information, please see Nhất
Thiết Hữu Bộ
(B).
Tứ Luận Tông:
Tứ Luận Tông được thành lập vào đời nhà Tùy, chủ thuyết dựa trên bộ Tứ
Luận được soạn bởi Ngài Long Thọ và Đề Bà Bồ Tát. V́ lúc ấy Tam Luận
Tông quá thiên trọng về duy tâm luận phủ định, nên nảy lên một phái tích
cực là Tứ Luận Tông, bằng cách thêm vào một tác phẩm thứ tư của Ngài
Long Thọ, đó là Đại Trí Độ Luận, trong đó chúng ta thấy rằng ông thiết
lập quan điểm “Nhất Nguyên” của ḿnh một cách xác quyết hơn trong bất cứ
tác phẩm nào khác. V́ Tam Luận hay Tứ Luận đều từ tay Ngài Long Thọ, nên
khuynh hướng tổng quát của những luận chứng siêu h́nh cũng gần giống
nhau. Tuy nhiên, khi Tam Luận Tông chiếm ưu thế hơn, Tứ Luận tông đành
nhượng bộ và mất hẳn khỏi môi trường tranh luận tánh không—The Four-Sastra
Sect, which formed during the Sui dynasty, its doctrines based on those
four sastras composed by Nagarjuna and Devabodhisattva. As the
Madhyamika School is much inclined to be negativistic idealism, there
arose the more positive Four-Treatise School or Shih-Lun which adds a
fourth text by Nagarjuna, namely, the Prajnaparamita Sastra in which we
see that he establishes his monistic view much more affirmatively than
in any other text. Because all being from Nagarjuna’s hand, the general
trend of metaphysical argument is much the same. However, as the
Madhyamika School carried the day, the Four Treatise School gave way to
it and soon disappeared from the arena of Sunyata controversy.
** For more
information, please see Tứ Luận,
and Tam Luận
Tông.
Tứ Luật Ngũ Luận:
Bốn Luật Năm Luận—The four Vinaya and the five Sastras:
(A)
Bốn Luật—The four Vinaya or disciplinary regulations:
1)
Thập Tụng Luật: Bộ Thập Tụng Luật được Ngài Phật Nhược Đà La đời
Hậu Tần dịch ra Hoa Ngữ gồm 61 quyển—Sarvastivada-version, translated
into Chinese in 61 books by Punyatara.
2)
Tứ Phần Luật: Bộ Tứ Phần Luật được Ngài Phật Đà Da Xá đời Diêu
Tần dịch ra Hoa Ngữ 60 quyển—Dharmagupta’s version, translated into
Chinese by Buddhayasas in 60 books.
3)
Tăng Kỳ Luật: Bộ Tăng Kỳ Luật được Ngài Phật Đà Bạt Đà La đời
Đông Tấn dịch ra Hoa ngữ, 40 quyển—Samghika-version or Mahasamghika-version,
translated into Chinese in 40 books by Buddhabhadra.
4)
Ngũ Bộ Luật: Sa Di Tắc Bộ Ḥa Hê Ngũ Phần Luật (Mahisasaka-nikaya-pancavargavinaya)—Bộ
Ngũ Bộ Luật do Ngài Phật Đà Thập đời Tống dịch ra Hoa ngữ, 30 quyển—Mahisasaka-version,
translated into Chinese in 30 books by Buddhajiva.
(B)
Ngũ Luận—The five sastras:
1)
T́ Ni Mẫu Luận:
2)
Ma Đắc Lặc Già Luận:
3)
Thiện Kiến Luận:
4)
Tát Bà Đa Luận:
5)
Minh Liễu Luận:
Tứ Lực:
(A)
Theo Kinh Phúng Tụng trong Trường Bộ Kinh, có bốn lực—According
to the Sangiti Sutta, there are four powers:
1)
Tinh tấn lực: Energy.
2)
Niệm lực: Mindfulness.
3)
Định lực: Concentration.
4)
Tuệ lực: Wisdom.
(B)
Bốn loại lực giúp ta đạt được giác ngộ—Four powers for attaining
enlightenment:
1)
Tự lực: Tự ḿnh tinh tấn dũng mănh phát tâm Bồ Đề—Independent
personal power.
2)
Tha lực: Do lực giáo giới của người khác tác động vào nên phát
tâm Bồ Đề—Power derived from others.
3)
Nhân Lực: Nhờ thiện nghiệp lực từ quá khứ mà đời nay phát tâm Bồ
Đề: Power of past good karma.
4)
Phương Tiện Lực: Do lực từ hoàn cảnh bên ngoài hay từ những
phương tiện thiện xảo mà phát tâm Bồ Đề: Power arising from environment.
Tứ Lương Dược:
The four good physicians or medicines—See Tứ Thánh Hành and Tứ Y (A).
Tứ Lưu: Bốn
ḍng suy tưởng, tức những thứ phiền năo khiến chúng sanh trôi dạc, ch́m
đắm trong ḍng thác luân hồi sanh tử—Four currents that carry the
thinking along. These are the defilements that sweep away the wholesome
dharmas and cause sentient beings to drift and drown in the torrential
stream of Samsara:
1)
Kiến Lưu: Tà kiến hay những suy tưởng ảo ảnh hay kiến hoặc của
tam giới—Wrong views, or the ilusion of seeing things as they seem, not
as they really are.
2)
Dục Lưu: Suy tưởng dục vọng hay các hoặc của dục giới—Desires, or
thinking of desires.
3)
Hữu Lưu: Suy tưởng về sự có của đời sống hay ủa báo sinh tử chẳng
mất—Samsaric existence, or thinking of existence or life.
4)
Vô Minh Lưu: Suy tưởng mê muội hay vô minh của tam giới—Ignorance,
or Unenlightened thinking or condition.
Tứ Ly Ách: Four
unyokings—Theo Kinh Phúng Tụng trong Trường Bộ Kinh, có bốn ly ách—According
to the Sangiti Sutta in the Long Discourses of the Buddha, there are
four unyokings:
1)
Ly Dục Ách: Unyoking from sensuality.
2)
Ly Hữu Ách: Unyoking from becoming.
3)
Ly Kiến Ách: Unyoking from wrong views.
4)
Ly Vô Minh Ách: Unyoking from ignorance.
Tứ Ma: Trong
Phật giáo, ma nói về những chướng ngại cho việc giác ngộ. Có bốn loại ma
chính—In Buddhism, demons refer to obstructions of enlightenment—There
are four major sources of distraction and delusion:
1)
Ma ngũ uẩn: The demons of the mind-body clusters (form,
sensation, perception, condition, consciousness).
2)
Ma phiền năo: The demons of afflictions.
3)
Ma tử: The demons of death.
4)
Ma thiên: The demons of heaven—Wish to be in the realm of desire
and thus blocks transmundane goodness.
Tứ Ma Thất:
Sima (skt)—Biệt trụ của chư Tăng Ni và khách thập phương—A boundary, a
separate dwelling or dwellings for monks and visitors.
Tứ Mă: Bốn loại
ngựa để ví với bốn loại Tỳ Kheo—Four kinds of horses, likened to four
classes of monks:
1)
Loại ngựa hay nhất: Loại cứ theo bóng soi mà dong ruổi, nhanh
chậm tả hữu tùy theo ư chủ—The first ones are those that respond to the
shadow of the whip.
2)
Loại ngựa thứ nh́: Roi chạm lông đuôi, xét ư người cưỡi mà theo ư
đó—The second ones are those that respond to the lightest touch of the
whip.
3)
Loại ngựa thứ ba: Roi vọt chạm vừa phải là làm theo ư chủ—The
third ones are those that respond to the mild application of the whip.
4)
Loại ngựa thứ tư: Phải lấy vùi sắt đâm vào thân thấu đến tận
xương mới chịu làm theo ư chủ—The fourth ones are those that need the
spur to bite the bone.
Tứ Mê: See Tứ
Chấp.
Tứ Minh: Four
Shingon emblems, aids to Yoga-possession by a Buddha or Bodhisattva:
1)
Câu Minh: A hook, for summoning.
2)
Tác Minh (sách minh): A cord, for leading.
3)
Tỏa Minh: A lock, for firmly holding.
4)
Linh Minh: A bell, for the resultant joy.
Tứ Minh Gia:
Phái chính thống của tông Thiên Thai—Ssu-Ming school in the direct line
of T’ien-T’ai.
Tứ Minh Sơn:
Dăy núi ở Ninh Phụ nơi có thể thấy được Tứ Minh—A mountain range in
Ningpo perfecture where the four emblems are clearly seen:
1)
Nhựt Sơn: The Sun.
2)
Nguyệt Sơn: The Moon.
3)
Tinh Sơn: The Stars.
4)
Đại Hùng Tinh Sơn: The Constellations.
Tứ Minh Tôn Giả:
Pháp Tri Lễ đời nhà Tống, ở núi Tứ Minh hoằng truyền chánh pháp của tông
Thiên Thai, có hiệu là Tôn Giả Tứ Minh—Chih-Li of the Sung dynasty is
known as the honoured one of the Ssu-Ming.
Tứ Minh Vương:
Bốn vị thiên vương hộ pháp trong các tự viện—The four deva kings of the
four quarters (guardians in a monastery)—See Tứ Thiên Vương.
Tứ Môn: Bốn môn—The
four doors, or schools of thought, or theories:
1)
Hữu Môn: Tam tạng Giáo cho rằng thế giới hiện tượng có thật—The
phenomenal world is real.
2)
Không Môn: Thông giáo cho rằng thế giới hiện tượng không có thật—The
phenomenal world is unreal.
3)
Diệc Hữu Diệc Không Môn: Biệt giáo cho rằng thế giới hiện tượng
cũng là hữu mà cũng là không—The phenomenal world is both real and
unreal.
4)
Phi Hữu Phi Không Môn: Viên giáo cho rằng thế giới hiện tượng
chẳng phải hữu mà cũng chẳng phải không—The phenomenal world is neither
real nor unreal.
** For more
information, please see
Thiên Thai Tam
Giáo.
Tứ Môn Du Quán:
Đức Phật Thích Ca khi c̣n là Thái Tử Tất Đạt Đa, do chơi thăm bốn cửa
thành mà nh́n thấy bốn cảnh khổ—The four distresses observed during his
wandering by the Buddha when he was a prince:
1)
Sanh: Birth.
2)
Lăo: Old age.
3)
Bệnh: Sickness—Diseases.
4)
Tử: Death.
Tứ Môn Mật Giáo:
Bốn giai đoạn tu hành trong Mật tông—The four stages in esoteric
symbolism:
1)
Phát Tâm: Xuất Gia—The stage of Initiation.
·
Đông Khai: Liên hệ với phương Đông—Associated with the
East.
·
Xuân Ôn: Liên hệ với mùa Xuân ấm áp—Associated with the
warm season.
2)
Tu Hành: The stage of development.
·
Nam Tu Hành: Liên hệ với phương Nam—Associated with the
South.
·
Thị Hạ Nhiệt: Liên hệ với mùa Hạ nóng nực—Associated with
the hot season.
3)
Bồ Đề: Giác ngộ đạo Bồ Đề—The stage of enlightenment.
·
Tây Ngộ: Liên hệ với phương Tây—Associated with the West.
·
Thu Lănh Liên hệ với mùa Thu mát mẽ—Associated with the
season of coolness.
4)
Niết Bàn: The stage of Nirvana.
·
Bắc Niết Bàn: Liên hệ với phương Bắc—Associated with the
North.
·
Nhập Đông Hàn: Liên hệ với Đông mùa lạnh lẽo—Associated
with the cold season.
Tứ Môn Niệm Phật:
Four methods of Buddha Recitation—Theo Ḥa Thượng Thích Thiền Tâm trong
Niệm Phật Thập Yếu, niệm Phật không chỉ chuyên về miệng niệm, mà c̣n
dùng tâm để tưởng niệm. Cho nên trong môn niệm Phật, ngoài phương pháp
“Tŕ Danh Niệm Phật” c̣n có ba pháp môn khác—According to Most Venerable
Thích Thiền Tâm in Pure Land Buddhism in Theory and Practice, Buddha
Recitation does not consist of oral recitation alone, but also includes
contemplation and meditation. Therefore, within the Pure Land School, in
addition to oral recitation, there are three other methods. They are:
1)
Thật Tướng Niệm Phật: Thật tướng niệm Phật là nhập vào đệ nhất
nghĩa tâm, niệm tánh Phật bản lai của chính ḿnh. Đây chính là quán pháp
thân thật tướng của Phật, kết quả sẽ chứng được ‘Chân Như Tam Muội.’
Phương pháp nầy thuộc về thiền định, nhưng cảnh giới do tâm thiền hiển
lộ lại là ‘Tịnh Độ.’ Pháp nầy không gồm thâu những bậc trung hay hạ căn,
nếu không phải là bậc thượng thượng căn, tất không thể ngộ nhập. V́ thế
trong Tịnh Độ Tông ít có người đề xướng, mà phần hoằng hóa lại thuộc về
các vị bên Thiền tông. Theo thiển ư, khi c̣n đi trên đoạn đường hành tŕ
chưa đạt đến địa vị viên giác, th́ tất cả các pháp môn đều là phương
tiện, niệm Phật cũng là phương tiện, mà tham thiền cũng là phương tiện.
Theo tam kinh Tịnh Độ, Đức Thích Tôn mở phương tiện chỉ bày cơi Cực Lạc
của Đức Phật A Di Đà, khuyên chúng hữu t́nh nên niệm Phật cầu sanh về
thế giới ấy để không c̣n bị luân hồi, mượn cảnh duyên thắng diệu để tiếp
tục tu hành mau tiến lên Phật quả. Niệm Phật tinh chuyên cũng tỏ ngộ như
bên Thiền tông, nhưng điểm chánh yếu của môn niệm Phật là cầu văng sanh,
c̣n tỏ ngộ được bao nhiêu cũng thuộc về thứ yếu. Cho nên pháp Thật Tướng
Niệm Phật luận về chỗ cứu cánh mà vẫn nhiếp thuộc Tịnh Độ. Nhưng nếu nói
đến phương tiện văng sanh th́ pháp nầy vẫn chưa chính thức thuộc về Tịnh
Độ, như ư nghĩa trong tam kinh Tịnh Độ mà Đức Phật đă đề xướng. Có lẽ v́
vậy mà chư tổ bên Tịnh Độ tông chỉ đề cập để cho rộng thêm về nghĩa lư
Tịnh Độ, mà không rộng tuyên hóa để khuyên người tu chăng?—‘Real Mark’
or ‘Self-Nature’ Buddha Recitation. This entails penetrating the Mind’s
foremost meaning, reciting our own original Buddha Nature. It is to
contemplate the Real Mark Dharma Body of the Buddhas, resulting in
attainment of True Thusness Samadhi. This method is really a Zen
practice; however, since the realm revealed by the meditational mind is
the Pure Land, it also qualifies as a Pure Land practice. This method is
not for those of limited or moderate capacities. If the practitioner is
not of the highest capacity, he cannot become enlightened and enter into
it. For this reason, few Pure Land teachers promote it and the
proponents of the method are found chiefly within the Zen tradition.
Incidentally, I would venture to say here that while we are still
treading the path of practice, not having reached the sage of Perfect
Enlightenment, all Dharma methods are expedients. Buddha Recitation is
an expedient and so is Zen. According to the three Pure Land sutras,
Buddha Sakyamuni provided the expedient teaching of the Western Pure
Land, and urged sentient beings to recite Amitabha Buddha’s name seeking
rebirth there. Within this method, they can escape Birth and Death,
avail themselves of that wonderful, lofty realm to pursue cultivation,
and swiftly attain Buddhahood. Diligent Buddha Recitation also leads to
Awakening, as in Zen; however, the principal goal of the Pure Land
School is rebirth in the Land of Ultimate Bliss, while the degree of
Awakening achieved is a secondary consideration. Thus, the goal of Real
Mark Buddha Recitation falls within Pure Land teachings. However, from
the standpoint of an expedient leading to rebirth in the Land of
Ultimate Bliss, it does not trully qualify as a Pure Land method within
the meaningof the Three Pure Land sutras taught by Buddha Sakyamuni.
This is, perhaps, the reason why Pure Land Patriarchs merely referred to
it to broaden the meaning of Buddha Recitation, but did not expound it
widely.
2)
Pháp Quán Tưởng Niệm Phật: Quán tưởng niệm Phật là chiếu theo
Kinh Quán Vô Lượng Thọ để quán tưởng y báo chánh báo nơi cơi Cực Lạc.
Trong kinh nầy có dạy 16 phép quán, nếu quán hạnh được thuần thục, th́
lúc mở mắt hay nhắm mắt hành giả đều thấy cảnh Cực Lạc hiện tiền, tâm
thần dạo chơi nơi cơi tịnh, khi mạng chung quyết định sẽ văng sanh. Công
đức của pháp nầy lớn lao không thể nghĩ bàn, nhưng v́ cảnh quán quá vi
tế sâu mầu, nên ít người hành tŕ được thành tựu. Bởi đại để có năm điều
khó, ít có người được đầy đủ, nên phép quán tưởng nầy thuộc về môn khó
hành tŕ—Contemplation by Thought Recitation. This entails meditation on
the features of Buddha Amitabha and His Land of Ultimate Bliss, in
accordance with the Meditation Sutra (the sutra teahces a total of 16
contemplations). If this practice is perfected, the cultivator will
always visualize the Pure Land before him. Whether his eyes are open or
closed, his mind and thoughts are always coursing through the Pure Land.
At the time of death, he is assured of rebirth there. The virtues
obtained through this method are immense and beyond imagination, but
since the object of meditation is too profound and subtle, few
practictioners can achieve it. This is because, in general, the method
presents five difficulties. Very few can avoid all five pitfalls. Thus
upon reflection, this method also belongs to the category of difficult
Dharma doors:
a)
Nếu độn căn, tất khó thành tựu: With dull capacities, one cannot
easily succeed.
b)
Nếu tâm thô thiển, tất khó thành tựu: With a crude mind, one
cannot easily succeed.
c)
Nếu không biết khéo dùng phương tiện xoay chuyển trong khi tu,
tất khó thành tựu: Without knowing how to use expedient skillfully and
flexibly during actual practice, one cannot easily succeed.
d)
Nếu ghi nhận ấn tượng không sâu, tất khó thành tựu: Without the
ability to remember images clearly, one cannot easily succeed.
e)
Nếu tinh lực yếu kém, tất khó thành tựu: With low energy, one
cannot easily succeed.
3)
Quán Tượng Niệm Phật: Quán tượng niệm Phật là phương thức đem một
bức tượng Phật A Di Đà để trước mặt, ghi nhận mọi nét của bức tượng ấy,
rồi quán tưởng cho đến khi dù không có tượng, lúc mở mắt hay nhắm mắt
đều thấy h́nh tượng Phật hiện rơ trước mắt. Phương pháp nầy cũng khó, v́
cần phải có tinh lực mạnh, kư ức sâu, và trí phương tiện khéo. Đă có
người áp dụng cách thức nầy, nhưng v́ không khéo dùng phương tiện thay
đổi, nên bị hư hỏa xông lên, mang chứng nhức đầu khó trị. Tuy nhiên, xét
lại dùng phép quán tượng để văng sanh, không thấy nói trong kinh điển.
Đây chỉ là cách thức phụ giúp cho sự tŕ danh hiệu Phật, để hành giả tâm
không tán loạn, dễ được chánh niệm mà thôi. Nếu người tu với ḷng thành
tín, cũng có thể được cảm ứng, tiêu tội nghiệp sanh phước huệ, từ nơi
h́nh tượng giả mà thấy được Phật tướng thật và được văng sanh—Contemplation
of an Image Recitation. In this method, the practictioner faces a statue
of Amitabha Buddha and impresses all the features of that statue in his
memory, contemplating to the point where, even in the absence of a
statue, and whether his eyes are open or closed, he clearly sees the
image of Amitabha Buddha. This method is also difficult, because it
requires a great deal of energy, a faithful memory and skillful use of
expedients. There are cases of individuals who have practiced it in an
inflexible way and have developed headaches difficult to cure. Moreover,
upon examination, this method of seeking rebirth in the Pure Land is not
mentioned in the Buddhist sutras. It is merely a technique to assist in
the practice of Buddha Recitation, so that the practitioner can harness
his mind and achieve right thought. Still, if we practice this method in
a pure, devoted frame of mind, we can obtain a response, eradicate our
bad karma, develop virtue and wisdom, and, through an illusory statue of
Amitabha Buddha, awaken to His True Marks and achieve rebirth in the
Pure Land.
4)
Tŕ Danh Niệm Phật: Tŕ danh niệm Phật là phương pháp niệm ra
tiếng hay niệm thầm bốn hoặc sáu chữ hồng danh “Nam Mô A Di Đà Phật.”
Tŕ bốn chữ “A Di Đà Phật” được điểm lợi là dễ nhiếp tâm; nếu tŕ đủ sáu
chữ th́ được điểm lợi là dễ phát khởi sự kính thành cơ cảm. Phương pháp
nầy trong Kinh Phật Thuyết A Di Đà, Đức Thích Tôn đă đề xướng, hiện đang
được thông dụng nhứt—Oral Recitation. In this method, the practitioner
recites, aloud or silently, either “Nam Mo Amitabha Buddha” or “Amitabha
Buddha.” The short form (Amitabha Buddha) has the advantage of easily
focussing the cultivator’s mind, while the longer version facilitates
development of a truly earnest, respectful mind conducive to a response.
This method, taught by Sakyamuni Buddha in the Shorter Amitabha Sutra,
is the dominant form of Pure Land practice at the present time.
** For more
information, please see Thập
Chủng Tŕ Danh.
Tứ Môn Tam Muội:
See Tứ Chủng Tam Muội.
Tứ Môn Tri Kiến Phật: Four divisions of
the Enlightened Knowledge—Theo Kinh Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ Huệ Năng đă dạy:
“Nầy thiện tri thức! Nếu hay nơi tướng mà ĺa tướng, nơi không mà ĺa
không th́ trong ngoài chẳng mê. Nếu ngộ được pháp nầy, một niệm tâm khai,
ấy là khai Tri Kiến Phật. Phật tức là giác, phân làm bốn môn: Khai giác
tri kiến, thị giác tri kiến, ngộ giác tri kiến, nhập giác tri kiến. Nếu
nghe khai thị liền hay ngộ nhập tức là giác tri kiến, chơn chánh xưa nay
mà được xuất hiện. Các ông dè dặt chớ hiểu lầm ư kinh, nghe trong kinh
nói khai thị ngộ nhập rồi tự cho là Tri Kiến của Phật, chúng ta th́ vô
phần. Nếu khởi cái hiểu nầy tức là chê bai kinh, hủy báng Phật vậy. Phật
kia đă là Phật rồi, đă đầy đủ tri kiến, cần ǵ phải khai nữa. Nay ông
phải tin Phật tri kiến đó chỉ là tự tâm của ông, lại không có Phật nào
khác; v́ tất cả chúng sanh tự che phủ cái quang minh, tham ái trần cảnh,
ngoài th́ duyên với ngoại cảnh, trong tâm th́ lăng xăng, cam chịu lôi
cuốn, liền nhọc Đức Thế Tôn kia từ trong tam muội mà dậy, dùng bao nhiêu
phương tiện nói đến đắng miệng, khuyên bảo khiến các ông buông dứt chớ
hướng ra ngoài t́m cầu th́ cùng Phật không hai, nên nói khai Phật tri
kiến. Tôi cũng khuyên tất cả các người nên thường khai tri kiến Phật ở
trong tâm của ḿnh. Người đời do tâm tà, ngu mê tạo tội, miệng th́ lành
tâm th́ ác, tham sân tật đố, siểm nịnh, ngă mạn, xâm phạm người hại vật,
tự khai tri kiến chúng sanh. Nếu ngay chánh tâm, thường sanh trí huệ,
quán chiếu tâm ḿnh, dừng ác làm lành, ấy là tự khai tri kiến Phật. Các
ông phải mỗi niệm khai tri kiến Phật, chớ khai tri kiến chúng sanh. Khai
tri kiến Phật tức là xuất thế, khai tri kiến chúng sanh tức là thế gian.
Nếu ông chỉ nhọc nhằn chấp việc tụng niệm làm công khóa th́ nào khác con
trâu ly mến cái đuôi của nó!”—According to the Dharma Jewel Platform
Sutra, the Sixth Patriarch taught: “Good Knowing Advisors! If you can
live among marks and yet be seaprate from it, then you will be confused
by neither the internal nor the external. If you awaken to this Dharma,
in one moment your mind will open to enlightenment. The knowledge and
vision of the Buddha is simply that. The Buddha is enlightenment. There
are four divisions:
1)
Opening to the enlightened
knowledge and vision;
2)
Demonstrating the enlightened
knowledge and vision;
3)
Awakening to the enlightened
knowledge and vision; and
4)
Entering the enlightened knowledge
and vision.
If you listen to the opening and demonstrating of
the Dharma, you can easily awaken and enter. That is the enlightened
knowledge and vision, the original true nature becoming manifest. Be
careful not to misinterpret the Sutra by thinking that the opening,
demonstrating, awakening, and entering of which it speaks is the
Buddha’s knowledge and vision and that we have no share in it. To
explain it that way would be to slander the Sutra and defame the Buddha.
Since he is already a Buddha, perfect in knowledge and vision, what is
the use of his opening to it again? You should now believe that the
Buddha’s knowledge and vision is simply your own mind, for there is no
other Buddha. But, because living beings cover their brilliance with
greed and with the love or states of defilement, external conditions and
inner disturbance make slaves of them. That troubles the World-Honored
One to rise from Samadhi, and with various reproaches and expedients, he
exhorts living beings to stop and rest, not to seek outside themselves,
and to make themselves the same as he is. That is called ‘Opening the
knowledge and vision of the Buddha.’ I, too, am always exhorting all
people to open to the knowledge and vision of the Buddha within their
own minds. The mind of worldly people are deviant. Confused and deluded,
they commit offenses. Their speech may be good, but their minds are
evil. They are greedy, hateful, envious, given over flattery, deceit,
and arrogance. They oppress one another and harm living creatures, thus
they open not the knowledge and vision of Buddha, but that of living
beings. If you can with an upright mind constantly bring forth wisdom,
contemplating and illuminating your own mind, and if you can practice
the good and refrain from evil, you, yourself will open to the
knowledge and vision of the Buddha. In every thought you should open up
the knowledge and vision of the Buddha; do not open up to the knowledge
and vision of living beings. To be open to the knowledge and vision of
the Buddha is transcendental; to be open to the knowledge and vision of
living beings is mundane. If you exert yourself in recitation, clinging
to it as a meritorious exercise, how does that make you different from a
yak who loves his own tail?”
Tứ Nghi: Theo
Thượng Tọa Thích Hải Quang trong Thơ Gởi Người Học Phật, có bốn thứ nghi—According
to Venerable Thích Hải Quang in the Letters to Buddhist Followers, there
are four types of doubts:
1)
Nghi về Thân—Doubts of the body:
a)
Nghi rằng trong quá khứ ḿnh đă từng có thân hay không?—Doubting
that whether in the past one had a body or not?
b)
Nghi rằng trong hiện tại thân nầy có thật sự hiện hữu hay không?—Doubting
that whether at the present this body really exists or not?
c)
Nghi rằng trong tương lai có đầu thai hay không?—Doubting that
whether in the future one will have another body or not (one will be
reincarnated or not)?
d)
Nghi rằng trong quá khứ và vị lai thân ta là nam hay nữ?—Doubting
that in the past and in the future, whether one will have a male’s or
female’s body?
2)
Nghi về Mạng-Doubts of Life:
a)
Nghi rằng có thân có mạng hay có thân không mạng?—Doubting that
whether there is life and body or there is body but no life?
b)
Nghi rằng thân cùng mạng nầy là thường hay vô thường?—Doubting
that life and body are permanent or impermanent?
c)
Nghi rằng thân cùng mạng nầy do ai tạo ra?—Doubting about who
created this life and body, such as:
·
Trời Tự Tại tạo ra?—Was created by Isvaradeva (God of
Free-Will).
·
Theo luật tiến hóa tạo ra—Was created through time or
evolution.
·
Tự nhiên sanh ra—Was naturally created.
·
Do đời tạo ra—Was created by the nature of life.
·
Do cát bụi tạo ra. Nghi rằng nếu thân nầy không do cát bụi
tạo ra th́ tại sao khi tan ră rối th́ thân ấy lại hoàn về cát bụi—Was
created from the soil. Doubting that if the body was not formed from
the soil, then how come once it deteriorates it returns to the soil?
·
Nghi rằng thân do pháp hay do chẳng phải pháp tạo ra—Doubting
that the body was created by dharma or not dharma.
·
Nghi rằng thân nầy do nghiệp hay chẳng do nghiệp tạo ra—Doubting
that this body was created by karma or not karma.
·
Nghi rằng thân nầy do phiền năo tạo ra—Doubting that this
body was created by afflictions.
·
Nghi rằng thân nầy có phải do cha mẹ tạo ra hay không—Doubting
that whether this body was created by parents or not.
3)
Nghi về Ngă—Doubts of Self:
a)
Nghi rằng Ngă từ đâu sanh ra và sẽ đi về đâu?—Doubting where does
the Self come from and where will it go?
b)
Nghi rằng nếu có cái Ngă, th́ Ngă ấy là sắc hay chẳng phải sắc?—Doubting
if there is a Self, then does that Self have form or doesn’t have form?
c)
Nghi rằng nếu có Ngă th́ cái Ngă ấy là tướng hay chẳng phải là
tướng?—Doubting if there is Self, then does that Self have
characteristics or doesn’t it have characteristics?
d)
Nghi rằng cái Ngă ở trong thân hay ở ngoài thân?—Doubting whether
the Self exists within the body or outside the body?
e)
Nghi rằng cái Ngă ở trong tâm hay ở trong mắt?—Doubting whether
the Self exists within the mind or within the eyes?
f)
Nghi rằng cái Ngă ở đời quá khứ thuộc giống nào (là thú, hay là
người và nó hành xử ra sao)?—Doubting about what type of the Self in
the past (was it an animal, a human, and how did it behave, etc)?
g)
Nghi về cái Ngă đời vị lai thuộc giống nào?—Doubting about what
will be the type of the Self in the future?
4)
Nghi về Tội—Doubts about Transgressions:
a)
nghi rằng sát sanh có phạm tội hay không?—Doubting if killing
living things (animals) is considered transgressions or not?
b)
Nghi rằng uống rượu hay những chất cay độc có phạm hay không phạm
tội?—Doubting if drinking alcohol or other substances is considered a
transgression or not?
c)
Nghi rằng tội ta tự tạo hay v́ người khác mà gây tạo?—Doubting
one’s transgressions are created by the individual or created by someone
else?
d)
Nghi rằng nếu gây tạo tội rồi th́ thân nầy sẽ thọ báo hay Ngă nầy
sẽ thọ báo?—Doubting if transgressions are created will one reap the
retribution or will the Self reap those retributions?
Tứ Nghiệp: Four
kinds of kamma—Theo Kinh Phúng Tụng trong Trường Bộ Kinh, có bốn loại
nghiệp—According to the Sangiti Sutta in the Long Discourses of the
Buddha, there are four kinds of kamma:
1)
Hắc Nghiệp Hắc Báo: Kanha-vipakam (p)—Black kamma, or evil deeds
with black results.
2)
Bạch Nghiệp Bạch Báo: Sukka-vipakam (p)—Bright kamma with bright
result.
3)
Hắc Bạch Nghiệp, Hắc Bạch Báo: Kanha-sukka-vipakam
(p)—Black-and-bright kamma with black-and-bright result.
4)
Phi Hắc Phi Bạch Nghiệp, Phi Hắc Phi Bạch Báo, đưa đến sự tận
diệt các nghiệp: Akanham-asukkam (p)—Kamma that is neither black nor
bright, with neither black nor bright result, leading to the destruction
of kamma.
Tứ Ngung Tứ Hạnh Bồ
Đóa: Bốn vị nữ thị giả của Ngài Đại Nhật Như Lai trên Kim Cang Giới—The
four female attendants on Vairocana in the Vajradhatu—See Tứ Ba La Mật
Bồ Tát.
Tứ Nguyện: Tứ
Thắng Xứ—Four kinds of resolve—Theo Kinh Phúng Tụng trong Trường Bộ Kinh,
có bốn nguyện—According to the sangiti Sutta in the Long Discourses of
the Buddha, there are four kinds of resolve:
1)
Tuệ Thắng Xứ: Gaining wisdom.
2)
Đế Thắng Xứ: Gaining truth.
3)
Xả Thắng Xứ: Gaining relinquishment.
4)
Chỉ Tức Thắng Xứ: Gaining tranquility.
Tứ Nguyệt:
Asadha (skt)—Tháng thứ tư—The fourth month.
Tứ Nguyệt Bát Nhật:
Ngày tám tháng tư, ngày Đản Sanh của Đức Phật—The eighth of the fourth
moon, the Buddha’s birthday.
Tứ Nhăn: Bốn
lực thị giác của chư Bồ Tát, cũng giống như Ngũ Nhăn ngoại trừ phần
cuối cùng là Phật Nhăn—The four powers of sight of Bodhisattvas. They
are similar to the that (five powers of sight of) a Buddha, except the
last one, the Buddha-eye—See Ngũ Nhăn.
Tứ Nhân Duyên:
Theo Kinh Lăng Già, có bốn nhân duyên—According to the Lankavatara
Sutra, there are four Causations (Hetupratyaya):
1)
Nhân Duyên: Hetupratyaya-hetu (skt)—Luật tổng quát về nhân duyên—The
general law of causation.
2)
Thứ Đệ Duyên: Samanantara-hetu (skt)—Đệ Vô Gián Duyên—Điều kiện
điều động sự diễn tiến của các sự kiện—Condition governing the
succession of events.
3)
Sở Duyên Duyên: Alambana-hetu (skt)—Điều kiện trở thành một đối
tượng của nhận thức—Condition becoming an object of cognition.
4)
Tăng Thượng Duyên: Karana-hetu (skt)—Điều kiện tối cao—The
supreme condition.
Tứ Nhân Quán Thế:
Bốn hạng người quán sát về thế gian hay bốn cách nh́n về nhân thế—The
world from four points of view:
1)
Phàm phu hưởng thụ vô tâm chẳng chút giác tri: Men thoughtlessly
view the world as pleasure place to live.
2)
Thanh văn Duyên giác nh́n thế gian khó chịu như nh́n căn nhà lửa
đang rực cháy: Sravakas and pratyeka-buddhas uneasily view the world as
a burning house.
3)
Bồ Tát nh́n thế gian là không như một đóa hoa trống rỗng hay hoa
không: Bodhisattvas view the world as an empty flower.
4)
Giác tâm tức Phật (chư Phật quan sát thấy tam giới chỉ là tâm):
Buddhas view the world as mind (all things being for or of intelligent
mind).
Tứ Nhập Thai:
Four ways of descent into the womb—Theo Kinh Phúng Tụng trong Trường Bộ
Kinh, có bốn cách nhập thai—According to the Sangiti Sutta in the Long
Discourses of the Buddha, there are four ways of descent into the womb:
1)
Không tỉnh giác nhập mẫu thai, không tỉnh giác trú mẫu thai,
không tỉnh giác xuất mẫu thai: One descends into the mother’s womb
unknowing, stays there unknowing, and leaves it unkmowing.
2)
Tỉnh giác nhập mẫu thai, không tỉnh giác trú mẫu thai, không tỉnh
giác xuất mẫu thai: One enters the womb knowing, stays there unknowing,
and leaves it unknowing.
3)
Tỉnh giác nhập mẫu thai, tỉnh giác trú mẫu thai, không tỉnh giác
xuất mẫu thai: One enters the womb knowing, stays there knowing, and
leaves it unknowing.
4)
Tỉnh giác nhập mẫu thai, tỉnh giác trú mẫu thai, tỉnh giác xuất
mẫu thai: One enters the womb knowing, stays there knowing, leaves it
knowing.
Tứ Nhất: Theo
tông Thiên Thai giải thích qua Kinh Pháp Hoa, có bốn thứ duy nhất—According
to the T’ien-T’ai sect in the Lotus sutra, there are four “ones” or four
kinds of unity:
1)
Giáo Nhất: Giáo thuyết chỉ duy có Nhất Phật Thừa—Its teaching of
one vehicle.
2)
Hành Nhất: Chỉ chuyên nhất thực hành theo Bồ Tát đạo—Its sole
bodhisttva procedures.
3)
Nhân Nhất: Người chỉ y theo Phật tri kiến mà tu hành, người đó
chỉ là Bồ Tát—Its men all and only as bodhisattvas.
4)
Lư Nhất: Lư sở chứng chỉ là một lư thực tướng của các pháp—Its
one ultimate truth of the reality of all existence.
Tứ Nhật:
Catvarah-suryah (skt)—Bốn mặt trời (trong Phật giáo)—The four suns (in
Buddhism):
1)
Mă Minh Bồ Tát: Asvaghosa.
2)
Đề Bà Bồ Tát: Devabodhisattva.
3)
Long Thọ Bồ Tát: Nagarjuna.
4)
Cưu Ma La Bạt Đà: Kumaralabdha.
Tứ Nhiếp Bồ Tát:
Tứ Chúng Bồ Tát—Chỉ bốn vị Bồ Tát trong Kim Cang Giới với bốn đức hóa
tha —The four Bodhisattvas in the Vajradhatu whose office is to convert
or transform the living:
1)
Kim Cang câu Bồ Tát: The Bodhisattva with the Hook.
2)
Kim Cang Sách Bồ Tát: The Bodhisattva with the Rope.
3)
Kim Cang Tỏa Bồ Tát: The Bodhisattva with the Chain.
4)
Kim Cang Kinh Bồ Tát: The Bodhisattva with the Bell.
Tứ Nhiếp Pháp:
Catvari-samgraha-vastuni (skt)—Bốn pháp để dẫn dắt chúng sanh—Four
elements of popularity—Four ways of leading human beings to
emancipation. Also called four means of integration, four integrative
methods, four means of integration, four attractions, four Dharmas of
attraction, or four all-embracing virtues—Tứ nhiếp pháp là cửa ngơ vào
hào quang của chư pháp, v́ khi sống với tứ nhiếp pháp chúng ta biết chấp
nhận tha nhân và sau khi giác ngộ bồ đề, chúng ta sẳn sàng chia xẻ với
tha nhân những ǵ ḿnh chứng ngộ (đây là bốn phép mà chư Phật và chư Bồ
tát tùy dùng để thâu nhiếp lấy cái tâm của chúng sanh, làm cho họ thân
ái với ḿnh để ḿnh có cơ hội dạy đạo lư cho họ)—The four elements of
sociability is a gate of Dharma illumination; for with them we accept
all living beings and after we have attained the truth of bodhi, we
bestow upon all living beings the Dharma:
1)
Bố Thí Nhiếp: Dana (skt)—Charity—Cho những thứ mà người khác cần
(chúng sanh nào thích của th́ thí của, chúng sanh nào thích pháp th́ thí
pháp) hầu giúp họ có được yêu thương và hiểu thông chân lư—Giving,
charity, or generosity—Giving unsparingly what others need in order to
lead them to love and receive the truth.
2)
Ái Ngữ Nhiếp: Priyavacana (skt)—Kindly talk—Tùy theo căn tánh của
chúng sanh mà dùng lời lẽ tốt lành để dẫn dắt họ vào con đường đạo đức—Kind
speech, or pleasant words—Affectionate speech—Kind communication—Kind
words which help beings love and receive the truth.
3)
Lợi Hành Nhiếp: Artha-carya (skt)—Useful deeds—Khởi thiện hành về
thân khẩu ư để làm lợi cho người khác để họ nhiếp thụ chân lư—Beneficial
action—Useful conduct, or beneficial action—Conduct profitable to
others—Beneficial conduct which helps others love and receive the truth.
4)
Đồng Sự Nhiếp: Samana-arthata (skt)—Engaging in the same work—Tùy
sự ưa thích của chúng sanh mà cùng hợp tác làm việc với nhau để giúp dẫn
dắt họ đi vào chân lư—Cooperation, or comaradeship and
accommodation—Like work—Sharing a common aim—Cooperation with and
adaptation of oneself to others, to lead them into the truth.
Tứ Như Thực Quán:
A meditation method on the four good roots—See Tứ Thiện Căn.
Tứ Như Ư Túc:
Rddhipada (skt)—Iddhipada (p)—Tứ Thần Túc—Bốn điều nên biết đủ—Four
Sufficiences:
1)
Dục Như Ư Thần Túc: Dục Thần Túc: Chanda-rddhi-pada (skt).
·
Mong muốn phát triển thần thông như ư: Desire to develop
magic.
·
Vị Tỳ Kheo tu tập dục thần túc, câu hữu với tinh tấn thực
hiện Dục Thiền Định—Strong aspiration or will—Sufficience of
desire—Strong aspiration—Intensive longing. Here a monk develops
CONCENTRATION OF INTENTION accompanied by effort of the will power.
2)
Niệm Như Ư Thần Túc (Tâm Thần Túc): Citta-rddhi-pada (skt).
·
Mong muốn ghi nhớ phải thực hành chánh pháp: Endeavor to
remember to practice correct dharmas.
·
Ở đây vị Tỳ Kheo tu tập tâm thần túc câu hữu với tinh tấn
thực hiện Tâm Thiền Định—Intense concentration or thoughts—Sufficience
of concentration—Intense concentration—Memory or intense holding on to
the position reached. Here a monk develops concentration of
consciousness accompanied by effort of the thought power.
3)
Tinh Tấn Như Ư Thần Túc (Cần Thần Túc): Virya-rddhi-pada (skt).
·
Tinh tấn thực chứng thần thông: Effort to realize magic.
·
Ở đây vị Tỳ Kheo tu tập cần thần túc câu hữu với tinh tấn
thực hiện Tinh Tấn Thiền Định—Vigor or exertion—Sufficience of
energy—Vigor—Intensified effort. Here a monk develops concentration of
energy accompanied by strenuous efforts.
4)
Tư Duy Như Ư Thần Túc (Quán Thần Túc): Mimamsa-rddhi-pada (skt).
·
Mong muốn nhiếp tâm vào một đề mục: Meditation on one
subject.
·
Ở đây vị Tỳ Kheo tu tập quán thần túc câu hữu với tinh tấn
thực hiện Tư Duy Thiền Định—Intense contemplation or
meditation—Investigation—Suffience of contemplation—The state of dhyana—Intense
contemplation. Here a monk develops concentration of investigation
accompanied by effort of deep thinking.
Tứ Niệm Châu:
Bốn loại niệm châu—The four classes of “prayer-beads.”
1)
Hạ phẩm: Lower, numbering 27.
2)
Trung phẩm: Middle, numbering 54.
3)
Tối thắng phẩm: Superior, numbering 108.
4)
Thượng phẩm: Most superior, numbering 1.080.
Tứ Niệm Trú:
The four basic subjects of Buddhist meditation—Theo Thiền Sư Thích Nhất
Hạnh trong phần giải Kinh Bát Đại Nhân Giác, th́ đoạn kinh nói về điều
giác ngộ thứ nhất là đoạn kinh thuyết minh về phép “Tứ Niệm Trú.” Tứ
niệm trú là bốn phép thiền quán căn bản của đạo Phật, là sự nhớ nghĩ
thường trực về bốn đặc tính của thực hữu: vô thường, khổ không, vô ngă
và bất tịnh. Nếu chúng ta biết quán sâu vào những thứ nầy một cách cần
mẫn th́ có thể dần dần thoát ly được thế giới sinh tử—According to Zen
Master Thích Nhất Hạnh in the explanation of the first Awakening in the
Sutra On The Eight Realizations of the Great Beings, the first awakening
explains and clarifies the four basic subjects of Buddhist meditation:
impermanence, suffering, no-self, and impurity. If we always remember
and meditate on these four principles of reality, we will gradually be
released from the round of birth and death (samsara).
1)
Vô Thường hay bản chất vô thường của vạn hữu: Impermanence or the
impermanent nature of all things—Mọi vật trên thế gian nầy biến đổi
trong từng giây từng phút, đó gọi là sát na vô thường. Mọi vật trên thế
gian, kể cả nhân mạng, núi sông và chế độ chính trị, vân vân, đều phải
trải qua những giai đoạn sinh, trụ, dị, diệt. Sự tiêu diệt nầy được gọi
là “Nhất kỳ vô thường.” Phải quán sát để thường xuyên nh́n thấy tính
cách vô thường của mọi sự vật, từ đó tránh khỏi cái ảo tưởng về sự miên
viễn của sự vật và không bị sự vật lôi kéo ràng buộc—All things in this
world, including human life, mountains, rivers, and political systems,
are constantly changing from moment to moment. This is called
impermanence in each moment. Everything passes through a period of
birth, maturity, transformation, and destruction. This destruction is
called impermanence in each cycle. To see the impermanent nature of all
things, we must examine this closely. Doing so will prevent us from
being imprisoned by the things of this world.
2)
Khổ Không: Người Ấn Độ xưa có quan niệm về tứ đại, cho rằng bản
chất của sự vật là đất hay yếu tố rắn chắc, nước hay yếu tố lưu nhuận,
lửa hay yếu tố nhiệt lượng, và gió hay yếu tố năng lực, gọi chung là tứ
đại. Bậc giác ngộ thấy rằng v́ sự vật là do tứ đại kết hợp, cho nên khi
có sự điều ḥa của tứ đại th́ có sự an lạc, c̣n khi thiếu sự điều ḥa ấy
th́ có sự thống khổ. Vạn vật v́ do tứ đại kết hợp, không phải là những
cá thể tồn tại vĩnh cữu, cho nên vạn vật có tính cách hư huyễn, trống
rỗng. Vạn vật v́ vô thường, nên khi bị ràng buộc vào vạn vật, người ta
cũng bị sự vô thường làm cho đau khổ. Vạn vật v́ trống rỗng cho nên khi
bị ràng buộc vào vạn vật, người ta cũng bị sự trống rỗng làm cho đau khổ.
Nhận thức được sự có mặt của khổ đau là khởi điểm của sự tu đạo. Đó là
chân lư thứ nhất của Tứ Diệu Đế. Mất ư thức về sự có mặt của khổ đau,
không quán niệm về tính cách khổ đau của vạn hữu th́ dễ bị lôi kéo theo
vật dục, làm tiêu ṃn cuộc đời ḿnh trong sự đuổi theo vật dục. Thấy
được khổ đau mới có cơ hội t́m ra nguyên nhân của khổ đau để mà đối trị—The
ancient people of India said that all things are composed of four
elements: earth, water, fire, and air. Acknowledging this, Buddhas and
Bodhisattvas understand that when there is a harmonious relationship
among the four elements, there is peace. When the four elements are not
in harmony, there is suffering. Because all things are created by a
combination of these elements, nothing can exist independently or
permanently. All things are impermanent. Consequently, when we are
caught up in the things of the world, we suffer from their impermanent
nature. And since all things are empty, when we are caught up by things,
we also suffer from their emptiness. Awareness of the existence of
suffering leads us to begin to practice the way of realization. This is
the first of the Four Noble Truths. When we lose awareness of and do not
meditate on the existence of suffering in all things, we can easily be
pushed around by passions and desires for worldly things, increasingly
destroying our lives in the pursuit of these desires. Only by being
aware of suffering can we find its cause, confrint it directly, and
eliminate it.
3)
Vô Ngă: Selflessness—Tính cách vô ngă của tự thân. Đạo Phật dạy
rằng con người được năm yếu tố kết hợp nên, gọi là ngũ uẩn: vật chất,
cảm giác, tư tưởng, hành nghiệp và nhận thức. Nếu vật chất là do tứ đại
cấu thành, trống rỗng, không có thực chất th́ con người, do ngũ uẩn kết
hợp, cũng không có tự ngă vĩnh cữu, hay một chủ thể bất biến. Con người
thay đổi từng giây từng phút, cũng trải qua sát na vô thường và nhất kỳ
vô thường. Nhờ nh́n sâu vào ngũ uẩn cho nên thấy “Ngũ ấm vô ngă, sinh
diệt biến đổi, hư ngụy không chủ” và đánh tan được ảo giác cho rằng thân
nầy là một bản ngă vĩnh cữu. Vô Ngă Quán là một đề tài thiền quán quan
trọng vào bậc nhất của đạo Phật. Nhờ Vô Ngă Quán mà hành giả tháo tung
được biên giới giữa ngă và phi ngă, thấy được ḥa điệu đại đồng của vũ
trụ, thấy ta trong người và người trong ta, thấy quá khứ và vị lai trong
hiện tại, và siêu việt được sinh tử—The nature of our bodies. Buddhism
teaches that human beings’ bodies are composed of five aggregates,
called skandhas in Sanskrit. If the form created by the four elements is
empty and without self, then human beings' bodies, created by the
unification of the five skandhas, must also be empty and without self.
Human beings’ bodies are involved in a transformation process from
second to second, minute to minute, continually experiencing
impermanence in each moment. By looking very deeply into the five
skandhas, we can experience the selfless nature of our bodies, our
passage through birth and death, and emptiness, thereby destroying the
illusion that our bodies are permanent. In Buddhism, no-self is the most
important subject for meditation. By meditating no-self, we can break
through the barrier between self and other. When we no longer are
separate from the universe, a completely harmonious existence with the
universe is created. We see that all other human beings exist in us and
that we exist in all other human beings. We see that the past and the
future are contained in the present moment, and we can penetrate and be
completely liberated from the cycle of birth and death.
4)
Bất Tịnh: Impurity—Tính chất bất tịnh của thân tâm—Bất tịnh có
nghĩa là không tinh sạch, không thánh thiện, không đẹp đẽ. Đứng về cả
hai phương diện sinh lư và tâm lư, con người là bất tịnh. Đây không phải
là một cái nh́n tiêu cực hay bi quan, mà chỉ là cái nh́n khách quan về
con người. Thấy được sự cấu tạo của cơ thể, từ tóc trên đỉnh đầu, cho
đến máu, mủ, đàm, phân, nước tiểu, những vi khuẩn ẩn náo trong ruột và
những bệnh tật cứ chực sẳn để phát sinh, ta thấy phần sinh lư của ta quả
là bất tịnh. Phần sinh lư đó cũng là động lực thúc đẩy ta đi t́m sự thỏa
măn dục lạc, do đó nên kinh gọi thân thể là nơi tích tụ của tội lỗi. C̣n
phần tâm lư? V́ không thấy được sự thật về vô thường, khổ không và vô
ngă của sự vật cho nên tâm ta thường trở thành nạn nhân của tham vọng
thù ghét; do tham vọng và thù ghét mà chúng ta tạo ra biết bao tội lỗi,
cho nên kinh nói “tâm là nguồn suối phát sinh điều ác.”—Impurity is the
nature of our bodies and minds. Impurity means the absence of an
immaculate state of being, one that is neither holy nor beautiful. From
the psychological and physiological standpoint, human beings are impure.
This is not negative or pessimistic, but an objective perspective on
human beings. If we examine the constituents of our bodies from the hair
on our head to the blood, pus, phlegm, excrement, urine, the many
bacteria dwelling in the intestines, and the many diseases present
waiting for the opportunity to develop, we can see clearly that our
bodies are quite impure and subject to decay. Our bodies also create the
motivation to pursue the satisfaction of our desires and passions. That
is why the sutra regards the body as the place where misleads gather.
Let us now consider our psychological state. Since we are unable to see
the truth of impermanence, suffering, and the selfless nature of all
things, our minds often become the victims of greed and hatred, and we
act wrongly. So the sutra says, “The mind is the source of all
confusion.”
** For more
information, please see Tứ Niệm
Xứ.
Tứ Niệm Trụ:
Smrty-upasthana (skt)—Four abodes of mindfulness—Four foundations of
mindfulness (in Theravada)—See Tứ Niệm Xứ in Vietnamese-English
Section.
Tứ Niệm Xứ:
Four kinds of mindfulness.
(I)
Bốn đối tượng thiền quán để trụ tâm hay bốn cách Thiền theo Phật
giáo để diệt trừ ảo tưởng và đạt thành giác ngộ. Phật giáo Tiểu thừa gọi
những phương pháp nầy là “nghiệp xứ” (kammatthana), là một trong những
phương pháp tư duy phân biệt. Có lối bốn mươi pháp Thiền như vậy được
liệt kê trong Thanh Tịnh Đạo Luận (Visuddhi-Magga) bao gồm Tứ Vô Lượng
Tâm, Mười Bất Tịnh, Bố Vô Sắc, Mười Biến Xứ, Mười Niệm, Một Tướng và Một
Tưởng—Four meditations, or four foundations of Mindfulness, or four
objects on which memory or thought should dwell. Four types of Buddhist
meditation for eradicating illusions and attaining enlightenment.
Hinayana calls these practices ‘basis of action’ (kammathana) which is
one of the modes of analytical meditation. Some forty such meditations
are given in the Visuddha-Magga: four ‘measureless meditations, ten
impurities, four formless states, ten universals, ten remembrances, one
sign, and one mental reflex:
1)
Thân Niệm Xứ (Quán Thân Bất Tịnh): Quán và toàn chứng được thân
nầy bất tịnh—Meditation and full realization on the impurity of the
body.
·
Bản chất của thân tâm chúng ta là bất tịnh, chứ không đẹp
mà cũng chẳng Thánh thiện. Theo quan điểm tâm sinh lư th́ thân thể con
người là bất tịnh. Điều nầy không có nghĩa tiêu cực hay bi quan. Khách
quan mà nói về thân thể con người, nếu chúng ta xem xét cho kỹ th́ sẽ
thấy rằng sự kết thành của thân nầy từ tóc, máu, mủ, phân, nước tiểu,
ruột, gan, bao tử, vân vân, là hang ổ của vi khuẩn, là những nơi mà bệnh
tật chờ phát triển. Thật vậy, thân chúng ta bất tịnh và bị hoại diệt
từng phút từng giây. Quán thân cấu uế bất tịnh, phủ nhận ư nghĩ về “tịnh.”
Ở đây vị Tỳ Kheo quán thân trên thân, tinh cần, tỉnh giác, chánh niệm để
nhiếp phục tham sân trên đời—Kaya-smrtyupasthana (skt)—The nature of our
bodies and minds are impure which is neither holy nor beautiful. From
psychological and physiological standpoint, human beings are impure.
This is not negative or pessimistic. Objectively speaking, if we examine
the constituents of our bodies from the hair, blood, pus, excrement,
urine, intestines, liver, and stomach, etc., they are dwelling places
for many bacteria. Many diseases are awaiting for the opportunity to
develop. In fact, our bodies are impure and subject to decay. The body
as an abode of mindfulness—Contemplation of the impurity of the body,
or to contemplate the body as impure. Midfulness of the body as impure
and utterly filthy (consider the body is impure). This negates the idea
of “Purity.”—Here a monk abides contemplating body as body, ardent,
clearly aware and mindful, having put aside hankering and fretting for
the world.
·
Như trên ta thấy khi quán thân th́ thân nầy là bất tịnh.
Nó bị coi như là một cái túi da đựng đầy những rác rưỡi dơ bẩn, và chẳng
bao lâu th́ nó cũng bị tan ră. V́ vậy chúng ta không nên luyến chấp vào
thân nầy: As we see above, through contemplation we see that our body is
not clean. It is viewed as a skinned bag containing dirty trash, that
will soon be disintegrated. Therefore, we must not become attached to
it.
2)
Thọ Niệm Xứ (Quán thọ thị khổ): Quán và toàn chứng được những cảm
thọ là xấu xa, dù là cảm thọ khổ đau, vui sướng hay trung tính—Meditation
and full realization on the evils of sensations, no matter they are
painful, joyous, or indifferent sensations.
·
Chúng ta kinh qua những cảm thọ tốt và xấu từ ngũ quan.
Nhưng cảm thọ tốt chẳng bao lâu chúng sẽ tan biến. Chỉ c̣n lại những cảm
thọ xấu làm cho chúng ta khổ đau phiền năo: We experience good and bad
feelings from our five senses. But good feelings never last long; and
sooner or later they will disappear. Only bad feelings remain from which
we will suffer.
·
Không có thứ ǵ trên cơi đời nầy hiện hữu riêng lẽ, độc
lập hay trường cửu. Vạn hữu kể cả thân thể con người chỉ là sự kết hợp
của tứ đại đất, nước, lửa, gió. Khi bốn thứ nầy liên hợp chặt chẻ th́
được yên vui, ví bằng có sự trục trặc là khổ. Quán thọ thị khổ để phủ
nhận ư nghĩ về “lạc.” Ở đây vị Tỳ Kheo quán thọ trên các cảm thọ; thọ
thị khổ, từ đó tinh cần, tỉnh giác, chánh niệm để nhiếp phục tham sân
trên đời—Vedana-smrtyupasthana (skt)—Nothing in the universe can exist
independently or permanently. All things including bodies of human
beings are composed of four elements: earth, water, fire, and air. When
there is a harmonious relationship among these four elements, there is
peace. When the four elements are not in harmony, there is suffering.
Feelings as an abode of mindfulness, or to contemplate all feelings or
sensations lead to suffering, or mindfulness of feeling as the cause of
suffering. Sensation or consciousness as always resulting in suffering
(receiving is self-binding. Consider feelings or the senses as a source
of suffering). This negates the idea of “Joy.” Here a monk abides
contemplating feelings as feelings, ardent, clearly aware and mindful,
having put aside hankering and fretting for the world.
3)
Tâm Niệm Xứ (Quán Tâm Vô Thường): Quán và toàn chứng được tâm là
vô thường—Meditation and full realization on the evanescence or
impermanence of mind and thoughts (contemplating the impermanence of the
thought)—Vô thường là bản chất chính yếu của vạn hữu. Vạn hữu kể cả thân
tâm con người vô thường, từng giây từng phút biến đổi. Tất cả đều phải
trải qua tiến tŕnh sinh trụ dị diệt. Quán tâm vô thường, phủ nhận ư
nghĩ về “thường.” Ở đây vị Tỳ Kheo quán tâm trên tâm, tinh cần, tỉnh
giác, chánh niệm để nhiếp phục tham sân trên đời—Citta-smrtyupasthana (skt)—Impermanence
is the key nature of all things. From moment to moment, all things in
this universe, including human’s bodies and minds are in constant
transformation. Everything passes through a period of birth, maturity,
transformation and destruction. Mind as an abode of mindfulness, or
mindfulness of the mind as impermanent, or to contemplate the mind as
impermanent—Ordinary mind is impermanent, merely one sensation after
another (mind is everchanging—consider the mind to be a constant state
of flux). This negates the idea of “Permanence.” Here a monk abides
contemplating mind as mind, ardent, clearly aware and mindful, having
put aside hankering and fretting for the world.
4)
Pháp Niệm Xứ (Quán pháp vô ngă): Quán và toàn chứng vạn pháp vô
ngă—Meditation and full realization on the transiency selflessness of
all elements (contemplating that all the dharmas are without their own
nature)—Vạn pháp không có thực tướng, chúng chỉ là sự kết hợp của tứ đại,
và mỗi đại không có tự tánh, không thể đứng riêng lẽ, nên vạn pháp vô
ngă. Quán pháp vô ngă, chúng chỉ nương tựa vào nhau để thành lập, từ đó
phủ nhận ư nghĩ về “Ngă.” Ở đây vị Tỳ Kheo quán pháp trên các pháp, tinh
cần, tỉnh giác, chánh niệm để nhiếp phục tham sân trên đời—Dharma-smrtyupasthana
(skt)—Everything has no real nature, they are only a combination of the
four elements, and each element is empty and without a self of itself,
thus everything is without a self. Dharmas (real things and phenomena)
as an abode of mindfulness, or mindfulness of dharmas as dependent,
without self-entity, or to contemplate all things as being dependent,
without self-nature or self-identity—All phenomena lack
self-nature—There is no such thing as an ego—Things in general as being
dependent and without a nature of their own (things are composed and
egoless—consider everything in the world as being a consequence of
causes and conditions and that nothing remains unchanged forever). This
negates the idea of “Personality.” Here a monk abides contemplating monf-objects
as mind-objects, ardent, clearly aware and mindful, having put aside
hankering and fretting for the world.
** For more
information, please see Tứ Niệm
Trú.
(II)
Kinh Tứ Niệm Xứ—Satipatthana Sutta: Theo Kinh Trung A Hàm hay
Kinh Trung Bộ—According to the Majjhima Nikaya:
·
Tôi nghe như vầy. Một thuở nọ Thế Tôn ở xứ Câu Lâu, Kiềm
Ma Sắt Đàm là đô thị của xứ Câu Lâu. Rồi Thế Tôn gọi các Tỳ Kheo: “Này
các Tỳ Kheo.” Các Tỳ Kheo vâng đáp Thế Tôn: “Bạch Thế Tôn!” Thế Tôn
thuyết như sau: Thus, I have heard. On one occasion, the Blessed One was
living in the Kuru country at a town of the Kurus named Kammasadhamma.
There He addressed the Bhikkhus thus: “Bhikkhus.” “Venerable sir,” they
replied. The Blessed One said:
·
Nầy các Tỳ Kheo, đây là con đường độc nhất đưa đến thanh
tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu năo, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh
trí, chứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ—Bhikkhus, this is the direct
path for the purification of beings, for surmounting (overcoming)
sorrow and lamentation, for the disappearance of pain and grief, for the
attainment of the true Way, for the realization of Nibbana, namely, the
four foundations of mindfulness.
·
Thế nào là bốn? Nầy các Tỳ Kheo, ở đây Tỳ kheo sống quán
niệm thân thể trên thân thể, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự
tham ưu ở đời; sống quán niệm cảm thọ trên các cảm thọ, nhiệt tâm, tỉnh
giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán niệm tâm thức trên
tâm thức, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời;
sống quán pháp trên các pháp (hay đối tượng của tâm thức nơi các đối
tượng tâm thức), nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở
đời—What are the four? Here, Bhikkhus, a Bhikkhu abides contemplating
the body as a body, ardent, fully aware, and mindful, having put away
covetousness (envy) and grief for the world. He abides contemplating
feelings as feelings, ardent, fully aware, and mindful, having put away
covetousness and grief for the world. He abides contemplating mind as
mind, ardent, fully aware, and mindful, having put away covetousness
(envy) and grief for the world. He abides contemplating mind-objects as
mind-objects, ardent, fully aware, and mindful, having put away
covetousness (envy) and grief for the world.
QUÁN THÂN—CONTEMPLATION OF THE BODY
a)
Tỉnh Thức Về Hơi Thở—Mindfulness
of Breathing:
·
Và nầy các Tỳ Kheo, thế nào là Tỳ Kheo sống quán niệm thân
thể trên thân thể? Này các Tỳ Kheo, ở đây, Tỳ Kheo đi đến khu rừng, đi
đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, và ngồi kiết già, lưng thẳng và
an trú trong chánh niệm trước mặt. Vị ấy thở vô tỉnh giác là ḿnh đang
thở vô; vị ấy thở ra tỉnh giác là ḿnh đang thở ra. Thở vô một hơi dài,
vị ấy ư thức rằng: “Tôi đang thở vô một hơi dài.” Thở ra một hơi dài, vị
ấy ư thức rằng: “Tôi đang thở ra một hơi dài.” Thở vô một hơi ngắn, vị
ấy ư thức rằng: “Tôi đang thở vô một hơi ngắn.” Thở ra một hơi ngắn, vị
ấy ư thức rằng: “Tôi đang thở ra một hơi ngắn.” Cảm giác toàn thân, tôi
sẽ thở vô,” vị ấy tập; “cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở ra,” vị ấy tập;
“An tịnh toàn thân, tôi sẽ thở vô,” vị ấy tập; “An tịnh toàn thân, tôi
sẽ thở ra,” vị ấy tập. Này các Tỳ Kheo, như người thợ quay hay học tṛ
người thợ quay thiện xảo khi quay dài, tuệ tri: “Tôi quay dài” hay khi
quay ngắn, vị ấy ư thức rằng: “Tôi quay ngắn.” Cũng vậy, này các Tỳ Kheo,
Tỳ Kheo thở vô dài, ư thức rằng: “Tôi đang thở vô dài.” Thở ra dài, ư
thức rằng: “Tôi đang thở ra dài.” Thở vô ngắn, ư thức rằng: “Tôi đang
thở vô ngắn.” Thở ra ngắn, ư thức rằng: “Tôi đang thở ra ngắn.” Vị ấy
tập: “Tôi có ư thức rơ rệt về trọn cả hơi thở mà tôi đang thở vào.” Vị
ấy tập: “Tôi có ư thức rơ rệt về trọn cả hơi thở mà tôi đang thở ra.” Vị
ấy tập: “Tôi đang thở vào và làm cho sự điều hành trong thân thể tôi trở
nên an tịnh.” Vị ấy tập: “Tôi đang thở ra và làm cho sự điều hành trong
thân thể tôi trở nên an tịnh.”—An now, Bhikkhus, does a Bhikkhu abide
contemplating the body as a body? Here a Bhikkhu, gone to the forest or
to the root of a tree or to an empty hut, sit down; having folded his
legs crosswise, set his body erect, and established mindfulness in front
of him, ever mindful he breathes in, mindful he breathes out. Breathing
in long, he understands: “I breathe in long;” or breathing out long, he
understands: “I breathe out long.” Breathing in short, he understands:
“I breathe in short;” or breathing out short, he understands: “I breathe
out short.” He trains thus: “I shall breathe in experiencing the whole
body of breath;” he trains thus: “I shall breathe out experiencing the
whole body of breath.” He trains thus: “I shall breathe in tranquilizing
the bodily formation;” he trains thus: “I shall breathe out
tranquilizing the bodily formation.” Just as a skilled turner or his
apprentice, when making a long turn, understands: “I make a long turn;”
or when making a short turn, understands: “I make a short turn;” so too,
breathing in long, a Bhikkhu understands: “I breathe in long,” he trains
thus: “I shall breathe out tranquilizing the bodily formation.”
·
Như vậy, khi vị ấy sống quán niệm thân thể trên nội thân;
hay sống quán niệm thân thể trên ngoại thân; hay sống quán niệm thân thể
trên cả nội thân lẫn ngoại thân; hay vị ấy sống quán niệm tánh sanh khởi
trên thân thể; hay sống quán niệm tánh diệt tận trên thân thể; hay sống
quán niệm tánh sanh diệt trên thân thể. Hoặc người ấy quán niệm: “Có
thân đây,” vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh
trí, chánh niệm. Và vị ấy không nương tựa, không chấp trước vật ǵ trên
đời. Nầy các Tỳ Kheo, như vậy là Tỳ Kheo sống quán niệm thân thể trên
thân thể—In this way, he abides contemplating the body as a body
internally, or he abides contemplating the body as a body externally ,
or he abides contemplating the body as a body both internally and
externally. Or else, he abides contemplating in the body its arising
factors, ot he abides contemplating in the body its vanishing factors,
or he abides contemplating in the body both its arising and vanishing
factors. Or else mindfulness that ‘there is a body’ is simply
established in him to the extent necessary for bare knowledge and
mindfulness. And, he abides independent, not clinging to anything in the
world. That is how a Bhikkhu abides contemplating the body as a body.
b)
Tứ Oai Nghi—The Four Postures:
·
Lại nữa, này các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo đi, ư thức rằng: “Tôi
đang đi.” Khi đứng, ư thức rằng: “Tôi đang đứng.” Khi ngồi, ư thức rằng:
“Tôi đang ngồi.” Khi nằm, ư thức rằng: “Tôi đang nằm.”Thân thể được xử
dụng như thế nào, vị ấy ư thức thân thể như thế ấy—Again, Bhikkhus, when
walking, a Bhikkhu understands: “I am walking;” when standing, he
understands: “I am standing;” when sitting, he understands: “I am
sitting;” when lying down, he understands: “I am lying down;” or he
understands accordingly however his body is disposed.
·
Vị ấy sống quán niệm thân thể trên nội thân; hay vị ấy
sống quán niệm thân thể trên ngoại thân; hay vị ấy sống quán niệm thân
thể trên cả nội thân lẫn ngoại thân; hay vị ấy sống quán niệm tánh sanh
khởi trên thân thể; hay vị ấy sống quán niệm tánh diệt tận trên thân thể;
hay vị ấy sống quán niệm tánh sanh diệt trên thân thể. “Có thân đây,” vị
ấy an trú trong chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí,
chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật ǵ
trên đời nầy. Này các Tỳ Kheo, như vậy là Tỳ Kheo sống quán niệm thân
thể trên thân thể—In this way, he abides contemplating the body as a
body internally, externally, and both internally and externally. And he
abides independent, not clinging to anything in the world. That too is
how a Bhikkhu abides contemplating the body as a body.
c)
Hoàn Toàn Tỉnh Thức—Full
Awareness:
·
Lại nữa, này các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo khi bước tới bước lui,
biết rơ việc ḿnh đang làm; khi ngó tới ngó lui, biết rơ việc ḿnh đang
làm; khi co tay, khi duỗi tay, biết rơ việc ḿnh đang làm; khi mặc áo
Tăng Già Lê, mang bát, mang y, biết rơ việc ḿnh đang làm; khi ăn, uống,
nhai, nếm, biết rơ việc ḿnh đang làm; khi đại tiểu tiện, biết rơ việc
ḿnh đang làm; khi đi, đứng, ngồi, ngủ, thức, nói, im lặng, biết rơ các
việc ḿnh đang làm—Again, Bhikkhus, a Bhikkhu is one who acts in full
awareness when going forward and returning; who acts in full awareness
when looking ahead and looking away; who acts in full awareness when
flexing and extending his limbs; who acts in full awareness when wearing
his robes and carrying his outer robe and bowl; who acts in full
awareness when eating , drinking, consuming food and tasting; who acts
in full awareness when walking, standing, siting, falling asleep, waking
up, talking and keeping silent.
·
Như vậy, vị ấy sống quán niệm thân thể trên nội thân; hay
sống quán niệm thân thể trên ngoại thân; hay sống quán niệm thân thể
trên cả nội thân lẫn ngoại thân. Hay vị ấy sống quán niệm tánh sanh khởi
trên thân thể; hay sống quán niệm tánh diệt tận trên thân thể; hay sống
quán niệm tánh sanh diệt trên thân thể. “Có thân đây,” vị ấy an
trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và
vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật ǵ trên đời. Này
các Tỳ Kheo, như vậy là Tỳ Kheo sống quán niệm thân thể trên thân thể—In
this way, he abides contemplating the body as a body internally,
externally, and both internally and externally. And, he abides
independent, not clinging to anything in the world. That too is how a
Bhikkhu abides contemplating the body as a body.
d)
Thân Uế Trược—Foulness of the Body
Parts:
·
Lại nữa, này các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo quan sát thân nầy, từ
gót chân trở lên và từ đỉnh tóc trở xuống, bao bọc bởi một lớp da và
chứa đầy những vật bất tịnh khác nhau. Trong thân nầy: “Đây là tóc, lông,
móng, răng, da, thịt, gân, xương, thận, tủy, tim, gan, hoành cách mô, lá
lách, phổi, ruột, màng ruột bụng, phân, mật, đàm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ,
nước mắt, mỡ da, nước miếng, nước mủ, nước ở khớp xương, nước tiểu.” Này
các Tỳ Kheo, cũng như một bao đồ, hai đầu trống đựng đầy các loại hạt
như gạo, lúa, đậu xanh, đậu lớn, mè, gạo đă xay rồi. Một người có mắt,
đổ các hột ấy ra và quan sát: “Đây là hột gạo, đây là hột lúa, đây là
đậu xanh, đây là đậu lớn, đây là mè, đây là hột lúa đă xay rồi.” Cũng
vậy, nầy các Tỳ Kheo, một Tỳ Kheo quan sát thân nầy dưới từ bàn chân trở
lên trên cho đến đảnh tóc, bao bọc bởi da và chứa đầy những vật bất tịnh
khác nhau. Trong thân nầy: “Đây là tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân,
xương, tủy, thận, tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột, màng
ruột, bụng, phân, mật, đàm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, nước
miếng, nước mủ, nước ở khớp xương, nước tiểu.”—Again, Bhikkhus, a
Bhikkhu reviews this same body up from the soles of the feet and down
from the top of the hair, bounded by skin, as full of many kinds of
impurity thus: “In this body there are head-hairs, body-hairs, nails,
teeth, skin, flesh, sinews, bones, bone-marrow, kidneys, heart, liver,
diaphragm, spleen, lungs, large intestines, small intestines, contents
of the stomach, feces, bile, phlegm, pus, blood, sweat, fat, tears,
grease, spittle, snot, oil of the joints, and urine.” Just as though
there were a bag with an opening at both ends full of many sorts of
grain, such as hil rice, red rice, beans, peas, millet, and white rice,
and a man with good eyes were to open it and review it thus: “This is
hill rice, this is red rice, these are beans, these are peas, this is
millet, this is white rice;” so too, a Bhikkhu reviews this same body…
as full of many kinds of impurity thus: “In this body there are
head-hairs and urine.”
·
Như vậy vị ấy sống quán niệm thân thể trên nội thân; hay
sống quán niệm thân trên ngoại thân; hay sống quán niệm thân thể trên cả
nội thân lẫn ngoại thân. Hay vị ấy sống quán niệm tánh sanh khởi trên
thân thể; hay sống quán niệm tánh diệt tận trên thân thể; hay sống quán
niệm tánh sanh diệt trên thân thể. “Có thân đây,” vị ấy an trú chánh
niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống
không nương tựa, không chấp trước một vật ǵ trên đời. Nầy các Tỳ Kheo,
như vậy là Tỳ Kheo sống quán niệm thân thể trên thân thể—In this way he
abides contemplating the body as a body internally, externally, and both
internaly and externally... And, he abides independent, not clinging to
anything in the world. That too is how a Bhikkhu abides contemplating
the body as a body—See# 5.
e)
Thân Tứ Đại—Elements of the Body:
·
Lại nữa, nầy các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo quan sát thân nầy về các
vị trí các giới và sự sắp đặt các giới: “Trong thân nầy có địa đại, thủy
đại, hỏa đại, và phong đại.” Nầy các Tỳ Kheo, như một người đồ tể thiện
xảo, hay đệ tử của một người đồ tể giết một con ḅ, ngồi cắt chia từng
phần tại ngă tư đường. Cũng vậy, nầy các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo quán sát thấy
thân nầy về vị trí các giới: “Trong thân nầy có địa đại, thủy đại và
phong đại.”—Again, Bhikkhus, a Bhikkhu reviews this same body, however
it is placed, however disposed, as consisting of elements thus: “In this
body there are the earth element, the water element, the fire element,
and the air element.” Just as though a skilled butcher or his apprentice
had killed a cow and was seated at the crossroads with it cut up into
pieces; so too, a Bhikkhu reviews this same body as consisting of
elements thus: “In this body there are the earth element, the water
element, the fire element and the air element.”
·
Như vậy vị ấy sống quán niệm thân thể trên nội thân; hay
sống quán niệm thân thể trên ngoại thân; hay sống quán niệm thân thể
trên cả nội thân lẫn ngoại thân. Hay vị ấy sống quán niệm tánh sanh khởi
trên thân thể; hay sống quán niệm tánh diệt tận trên thân thể. Hay sống
quán niệm tánh sanh diệt trên thân thể. “Có thân đây, vị ấy an trú chánh
niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống
không nương tựa, không chấp trước một vật ǵ trên đời. Nầy các Tỳ Kheo,
như vậy là Tỳ Kheo sống quán niệm thân thể trên thân thể—In this way, he
abides contemplating the body as a body internally, externally, and both
internally and externally… And he abides independent, not clinging to
anything in the world. That too is how a Bhikkhu abides contemplating
the body as a body
f-n) Cửu Quán Về Nghĩa Địa—The Nine Charnel Ground Contemplations:
·
Lại nữa, nầy các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo như thấy một thi thể bị
quăng bỏ trong nghĩa địa một ngày, hai ngày, ba ngày, thi thể ấy trương
phồng lên, xanh đen lại, nát thối ra. Tỳ Kheo quán niệm- thân thể ấy như
sau: ‘Thân nầy tánh chất là như vậy, bản tánh là như vậy, không vượt
khỏi tánh chất ấy.”—Again, Bhikkhus, as though he were to see a corpse
thrown aside in a charnel ground, one, two, or three days dead, bloated,
livid, and oozing matter, a Bhikkhu compares this same body with it
thus: “This body too is of the same nature, it will be like that, it is
not exempt from that fate.”
·
Như vậy vị ấy sống quán niệm thân thể trên nội thân; hay
sống quán niệm thân thể trên ngoại thân; hay sống quán niệm thân thể
trên cả nội thân lẫn ngoại thân. Hay vị ấy sống quán niệm tánh sanh khởi
trên thân thể; hay sống quán niệm tánh diệt tận trên thân thể; hay sống
quán niệm tánh sanh diệt trên thân thể. “Có thân đây,” vị ấy an trú
chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị
ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật ǵ trên đời. Nầy các
Tỳ Kheo, như vậy là Tỳ Kheo sống quán niệm thân thể trên thân thể—In
this way, he abides contemplating the body as a body internally,
externally, and both internaly and externally. And, he abides
independent, not clinging to anything in the world. That too is how a
Bhikkhu abides contemplating the body as a body.
·
Lại nữa, nầy các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo như thấy một thi thể bị
quăng bỏ trong nghĩa địa, bị các loài quạ ăn, hay bị các loài diều hâu
ăn, hay bị các chim kên kên ăn, hay bị các loài chó ăn, hay bị các loài
giả can ăn, hay bị các loài ḍi bọ rúc rỉa. Tỳ Kheo quán chiếu sự thực
ấy vào thân thể của chính ḿnh: “Thân nầy tánh chất là như vậy, bản chất
là như vậy, không vượt khỏi tánh chất ấy.”—Again, as though he were to
see a corpse thrown aside in a charnel ground, being devoured by crows,
hawks, vultures, dogs, jackals, or various kinds of worms, a Bhikkhu
compares this same body with it thus: “This body too is of the same
nature, it will be like that, it is not exempt from that fate.”
·
Như vậy vị ấy sống quán niệm thân thể trên nội thân; hay
sống quán niệm thân thể trên ngoại thân; hay sống quán niệm thân thể
trên cả nội thân lẫn ngoại thân. Hay vị ấy sống quán niệm tánh sanh khởi
trên thân thể; hay sống quán niệm tánh diệt tận trên thân thể. Hay sống
quán niệm tánh sanh diệt trên thân thể. “Có thân đây, vị ấy an trú chánh
niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống
không nương tựa, không chấp trước một vật ǵ trên đời. Nầy các Tỳ Kheo,
như vậy là Tỳ Kheo sống quán niệm thân thể trên thân thể—That too is how
a Bhikkhu abides contemplating the body as a body.
·
Nầy các Tỳ Kheo, lại nữa, Tỳ Kheo như thấy một thi thể bị
quăng bỏ trong nghĩa địa, với các bộ xương c̣n liên kết với nhau, c̣n
dính thịt và máu, c̣n được nối liền bởi các đường gân…, với các bộ
xương c̣n liên kết với nhau, không c̣n dính thịt, nhưng c̣n dính máu,
c̣n được các đường gân cột lại với nhau…, với các bộ xương không c̣n
dính thịt, không c̣n dính máu, không c̣n được các đường gân cột lại với
nhau, chỉ c̣n có xương không dính lại với nhau, răi rác chỗ nầy chỗ kia.
Ở đây là xương tay, ở đây là xương chân, ở đây là xương ống, ở đây là
xương bắp vế, ở đây là xương mông, ở đây là xương sống, ở đây là xương
đầu. Tỳ Kheo ấy quán niệm thân ấy như sau: “Thân nầy tánh chất là như
vậy, bản tánh là như vậy, không vượt khỏi tánh tánh chất ấy.”—Again, as
though he were to see a corpse thrown aside in a charnel ground, a
skeleton with flesh and blood, held together with sinews… a fleshless
skeleton smeared with blood, held together with sinews… a skeleton
without flesh and blood, held together with sinews.. disconnected bones
scattered in all directions, here a hand-bone, there a foot-bone, here a
shin-bone, there a thigh-bone, here a hip-bone, there a back-bone, here
a rib-bone, there a breast-bone, here an arm-bone, there a
shoulder-bone, here a neck-bone, there a jaw-bone, here a tooth, there
the skull, a Bhikkhu compares this same body with it thus: “This body
too is of the same nature, it will be like that, it is not exempt from
that fate.”
·
Như vậy vị ấy sống quán niệm thân thể trên nội thân; hay
sống quán niệm thân thể trên ngoại thân; hay sống quán niệm thân thể
trên cả nội thân lẫn ngoại thân. Hay vị ấy sống quán niệm tánh sanh khởi
trên thân thể; hay sống quán niệm tánh diệt tận trên thân thể. Hay sống
quán niệm tánh sanh diệt trên thân thể. “Có thân đây, vị ấy an trú chánh
niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống
không nương tựa, không chấp trước một vật ǵ trên đời. Nầy các Tỳ Kheo,
như vậy là Tỳ Kheo sống quán niệm thân thể trên thân thể—That too is how
a Bhikkhu abides contemplating the body as a body.
·
Lại nữa, nầy các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo như thấy một thi thể bị
quăng bỏ trong nghĩa địa, chỉ c̣n toàn xương trắng màu vỏ ốc…, chỉ c̣n
một đống xương lâu hơn ba năm…, chỉ c̣n là xương thối trở thành bột. Tỳ
Kheo ấy quán niệm thân ấy như sau: “Thân nầy tánh chất là như vậy, bản
tánh là như vậy, không vượt khỏi tánh tánh chất ấy.”—Again, Bhikkhus, as
though he were to see a corpse thrown aside in a charnel ground, bones
bleached white, the color of shells; bones heaped up, more than a year
old; bones rotted and crumbled to dust, a Bhikkhu compares this same
body with it thus: “This body too is of the same nature, it will be like
that, it is not exempt from that fate.”
·
Như vậy vị ấy sống quán niệm thân thể trên nội thân; hay
sống quán niệm thân thể trên ngoại thân; hay sống quán niệm thân thể
trên cả nội thân lẫn ngoại thân. Hay vị ấy sống quán niệm tánh sanh khởi
trên thân thể; hay sống quán niệm tánh diệt tận trên thân thể. Hay sống
quán niệm tánh sanh diệt trên thân thể. “Có thân đây, vị ấy an trú chánh
niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống
không nương tựa, không chấp trước một vật ǵ trên đời. Nầy các Tỳ Kheo,
như vậy là Tỳ Kheo sống quán niệm thân thể trên thân thể—In this way he
abides contemplating the body as a body internally, or he abides
contemplating the body as a body internally, or he abides contemplating
the body as a body externally, or he abides contemplating the body as a
body both internally and externally. Or else he abides contemplating in
the body its arising factors, or he abides contemplating in the body its
vanishing factors, or he abides contemplating in the body both its
arising and vanishing factors. Or else mindfulness that ‘there is a
body’ is simply established in him to the extent necessary for bare
knowledge and mindfulness. And he abides independent, not clinging to
anything in the world. That too is how a Bhikkhu abides contemplating
the body as a body.
QUÁN THỌ—CONTEMPLATION OF FEELING
·
Nầy các Tỳ Kheo, như thế nào là Tỳ Kheo sống quán niệm cảm
thọ trên các cảm thọ? Nầy các Tỳ Kheo, ở đây Tỳ Kheo khi cảm giác lạc
thọ, vị ấy ư thức rằng: “Ta đang có một cảm thọ khoái lạc.” Mỗi khi có
một cảm thọ đau khổ, vị ấy ư thức rằng: “Ta đang có một cảm thọ đau khổ.”
Mỗi khi có một cảm thọ không khoái lạc cũng không đau khổ, vị ấy ư thức
rằng: “Ta đang có một cảm thọ không khoái lạc cũng không đau khổ.” Khi
có một cảm thọ khoái lạc vật chất, vị ấy ư thức rằng: “Ta đang có một
cảm thọ khoái lạc vật chất.” Khi có một cảm thọ khoái lạc tinh thần, vị
ấy ư thức rằng: “Ta đang có một cảm thọ khoái lạc tinh thần.” Khi có một
cảm thọ khổ đau vật chất, vị ấy ư thức rằng: “Ta đang có một cảm thọ khổ
đau vật chất.” Khi có một cảm thọ khổ đau tinh thần, vị ấy ư thức rằng:
“Ta đang có một cảm thọ khổ đau tinh thần.” Khi có một cảm thọ vật chất
không khoái lạc cũng không khổ đau, vị ấy ư thức rằng: “Ta đang có một
cảm thọ vật chất không khoái lạc cũng không đau khổ.” Khi có một cảm thọ
tinh thần không khoái lạc cũng không khổ đau, vị ấy ư thức rằng: “Ta
đang có một cảm thọ tinh thần không khoái lạc cũng không khổ đau.”—And
how, Bhikkhus, does a Bhikkhu abide contemplating feelings as feelings?
Here, when feeling a pleasant feeling, a Bhikkhu understands: “I feel a
pleasant feeling;” when feeling a painful feeling, he understands: “I
feel a painful feling;” when feeling a neither-painful-nor-pleasant
feeling, he understands: “I feel a neither-painful-nor-pleasant
feeling.” When feeling a worldly pleasant feeling, he understands: “I
feel a worldly pleasant feling;” when feeling an unworldly pleasant
feling, he understands: “I feel an unworldly pleasant feeling;” when
feeling a worldly painful feeling, he understands: “I feel a worldly
painful feeling;” when feeling an unworldly painful feeling, he
understands: “I feel an unworldly painful feeling;” when feeling a
worldly neither-painful-nor pleasant feeling, he understands: “I feel a
worldly neither-painful-nor-pleasant feeling;” when feeling an unworldly
neither-painful-nor-pleasant feeling, he understands: “I feel an
unworldly neither-painful-nor-pleasant feeling.”
·
Như vậy vị ấy sống quán niệm cảm thọ trên các nội thọ; hay
sống quán niệm cảm thọ trên các ngoại thọ; hay sống quán cảm thọ thể
trên cả nội thọ lẫn ngoại thọ. Hay vị ấy sống quán niệm tánh sanh khởi
trên các thọ; hay sống quán niệm tánh diệt tận trên các thọ. Hay sống
quán niệm tánh sanh diệt trên các thọ. “Có thọ đây, vị ấy an trú chánh
niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống
không nương tựa, không chấp trước một vật ǵ trên đời. Nầy các Tỳ Kheo,
như vậy là Tỳ Kheo sống quán niệm cảm thọ trên các cảm thọ—In this way
he abides contemplating feelings as feelings internally, or he abides
contemplating feelings as feelings externally, or he abides
contemplating feelings as feelings both internally and externally. Or
else he abides contemplating in feelings their arising factors, or he
abides contemplating in feelings their vanishing factors, or he abides
contemplating in feelings both their arising and vanishing factors. Or
else, mindfulness that ‘there is feeling’ is simply established in him
to the extent necessary for bare knowledge and mindfulness. And, he
abides independent, not clinging to anything in the world. That is how a
Bhikkhu abides contemplating feelings as feelings.
QUÁN TÂM—CONTEMPLATION OF MIND
·
Nầy các Tỳ Kheo, như thế nào là Tỳ Kheo sống quán niệm tâm
thức nơi tâm thức? Nầy các Tỳ Kheo, mội khi nơi tâm thức có tham dục, vị
ấy ư thức rằng tâm thức của ḿnh đang có tham dục. Mỗi khi tâm thức
không có tham dục, vị ấy ư thức rằng tâm thức của ḿnh không có tham dục.
Mỗi khi trong tâm thức ḿnh có sân hận, vị ấy ư thức rằng tâm thức của
ḿnh đang có sân hận. Mỗi khi tâm thức của ḿnh không có sân hận, vị ấy
ư thức rằng tâm thức của ḿnh đang không có sân hận. Mỗi khi tâm thức
ḿnh có si mê, vị ấy ư thức rằng tâm thức của ḿnh đang si mê. Mỗi khi
tâm thức của ḿnh không có si mê, vị ấy ư thức rằng tâm thức của ḿnh
đang không có si mê. Mỗi khi tâm thức ḿnh có thu nhiếp, vị ấy ư thức
rằng tâm thức của ḿnh đang có thu nhiếp. Mỗi khi tâm thức ḿnh tán loạn,
vị ấy ư thức rằng tâm thức của ḿnh đang tán loạn. Mỗi khi tâm thức ḿnh
trở thành khoáng đạt, vị ấy ư thức rằng tâm thức của ḿnh đang trở thành
khoáng đạt. Mỗi khi tâm thức ḿnh trở nên hạn hẹp, vị ấy ư thức rằng tâm
thức của ḿnh đang trở nên hạn hẹp. Mỗi khi tâm thức ḿnh đạt đến trạng
thái cao nhất, vị ấy ư thức rằng tâm thức của ḿnh đang đạt đến trạng
thái cao nhất. Mỗi khi tâm thức ḿnh không đạt đến trạng thái cao nhất,
vị ấy ư thức rằng tâm thức ḿnh không đạt đến trạng thái cao nhất. Mỗi
khi tâm thức ḿnh có định, vị ấy ư thức rằng tâm thức của ḿnh đang có
định. Mỗi khi tâm thức ḿnh không có định, vị ấy ư thức rằng tâm thức
của ḿnh đang không có định. Mỗi khi tâm thức ḿnh giải thoát, vị ấy ư
thức rằng tâm thức của ḿnh đang giải thoát. Mỗi khi tâm thức ḿnh không
có giải thoát, vị ấy ư thức rằng tâm thức của ḿnh đang không có giải
thoát—An how, Bhikkhus, doeas a Bhikhu abide contemplating mind as mind?
Here a Bhikhu understands mind affected by lust as mind affected by
lust, and mind unaffected by lust as mind unaffected by lust. He
understands mind affected by hate as mind affected by hate, and mind
unaffected by hate as mind unaffected by hate. He understands mind
affected by delusion as mind affected by delusion, and mind unaffected
by delusion as mind unaffected by delusion. He understands contracted
mind as contracted mind, and distracted mind as distracted mind. He
understands exalted mind as exalted mind, and unexalted mind as
unexalted mind. He understands surpassed mind as surpassed mind, and
unsurpassed mind as unsurpassed mind. He understands concentrated mind
as concentrated mind, and unconcentrated mind as unconcentrated mind. He
understands liberated mind as liberated mind, and unliberated mind as
unliberated mind.
·
Như vậy vị ấy sống quán niệm tâm thức trên nội tâm; hay
sống quán niệm tâm thức trên cả nội tâm lẫn ngoại tâm. Hay vị ấy sống
quán niệm tánh sanh khởi trên tâm thức; hay sống quán niệm tánh diệt tận
trên tâm thức. Hay sống quán niệm tánh sanh diệt trên tâm thức. “Có tâm
đây, vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí,
chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật ǵ
trên đời. Nầy các Tỳ Kheo, như vậy là Tỳ Kheo sống quán niệm tâm thức
trên các tâm thức—In this way he abides contemplating mind as mind
internally, or he abides contemplating mind as mind externally, or he
abides contemplating mind as mind both internally and externally. Or
else, he abides contemplating in mind its arising factors, or he abides
contemplating in mind its vanishing factors, or he abides contemplating
in mind both its arising and vanishing factors. Or else mindfulness that
‘there is mind’ is simply established in him to the extent necessary for
bare knowledge and mindfulness. And he abides independent, not clinging
to anything in the world. That is how a Bhikkhu abides contemplating
mind as mind.
QUÁN PHÁP—CONTEMPLATION OF MIND-OBJECTS
(A)
Năm Triền Cái—The Five Hindrance:
Nầy các Tỳ Kheo, thế nào là Tỳ Kheo sống quán niệm pháp trên các pháp?
Nầy các Tỳ Kheo, ở đây Tỳ Kheo sống quán niệm pháp trên các pháp đối với
năm triền cái (năm món ngăn che). Và nầy các Tỳ Kheo, thế nào là các Tỳ
Kheo sống quán niệm pháp trên các pháp đối với năm triền cái?—An how,
Bhikkhus, does a Bhikkhu abide contemplating mind-objects as
mind-objects? Here a Bhikkhu abides contemplating mind-objects as
mind-objects in terms of the five hindrances. And how does a Bhikkhu
abide contemplating mind-objects as mind-objects in terms of the five
hindrances?
1)
Nầy các Tỳ Kheo, ở đây nội tâm Tỳ
Kheo có ái dục, vị ấy ư thức rằng nội tâm của ḿnh đang có ái dục. Khi
nội tâm không có ái dục, vị ấy ư thức rằng nội tâm của ḿnh không có ái
dục. Và với ái dục chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy ư thức được sự đang
sanh khởi ấy. Khi một niệm ái dục đă sanh, vị ấy ư thức được sự đă sanh
khởi ấy. Khi ái dục đang được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa,
vị ấy ư thức như vậy—Here, there being sensual desire in him, a Bhikkhu
understands: “There is sensual desire in me;” or there being no sensual
desire in him, he understands: “There is no sensual desire in me;” and
he also understands how there comes to be the arising of unarisen
sensual desire, and how there comes to be the abandoning of arisen
sensual desire, and how there comes to be the future non-arising of
abandoned sensual desire.
2)
Khi nội tâm có sân hận, vị ấy ư
thức rằng nội tâm ḿnh đang có sân hận. Khi nội tâm không có sân hận, vị
ấy ư thức rằng nội tâm ḿnh đang không có sân hận. Khi một niệm sân hận
chưa sanh nay bắt đầu sanh khởi, vị ấy ư thức được sự bắt đầu sanh khởi
ấy. Khi một niệm sân hận đă sanh khởi, nay được đoạn diệt, vị ấy ư thức
được sự đoạn diệt ấy. Khi một niệm sân hận đă được đoạn diệt và tương
lai không c̣n sanh khởi nữa, vị ấy ư thức được như vậy—There being
ill-will in him, a Bhikkhu understands: “There is ill-will in me;” or
there being no ill-will in him, he understands: “There is no ill-will in
me;” and he also understands how there comes to be the arising of
unarisen ill-will, and how there comes to be the abandoning of arisen
ill-will, and how there comes to be the future non-arising of abandoned
ill-will.
3)
Khi nội tâm có hôn trầm thụy miên
(mê muội và buồn ngủ), vị ấy ư thức được sự hôn trầm thụy miên ấy. Khi
nội tâm không có hôn trầm thụy miên, vị ấy ư thức được nội tâm của ḿnh
đang không có hôn trầm thụy miên. Khi hôn trầm và thụy miên chưa sanh
nay bắt đầu sanh khởi, vị ấy ư thức được sự đang sanh khởi ấy. Khi hôn
trầm và thụy miên đă sanh nay được đoạn diệt, vị ấy ư thức được sự đang
đoạn diệt ấy. Khi hôn trầm và thụy miên đă được đoạn diệt và tương lai
không thể sanh khởi nữa, vị ấy ư thức được điều đó—There being sloth and
torpor in him, a Bhikkhu understands: “There are sloth and torpor in
me;” or there being no sloth and torpor in him, he understands: “There
are no sloth and torpor in me;” and he also understands how there comes
to be the arising of unarisen sloth and torpor, and how there comes to
be the abandoning of arisen sloth and torpor, and how there comes to be
the future non-arising of abandoned sloth and torpor.
4)
Khi nội tâm có trạo hối (sự dao
động bất an và hối hận), vị ấy ư thức rằng ḿnh đang có dao động bất an
và hối hận. Khi nội tâm không có dao động bất an và hối hận, vị ấy ư
thức rằng nội tâm ḿnh đang không có sự dao động bất an và hối hận. Khi
dao động bất an và hối hận sanh khởi, vị ấy ư thức rằng nội tâm ḿnh
đang sanh khởi dao động bất an và hối hận. Khi dao động bất an và hối
hận đă sanh nay được đoạn diệt, vị ấy ư thức được sự đoạn diệt ấy. Với
dao động bất an và hối hận đă được đoạn diệt, tương lai không c̣n sanh
khởi nữa, vị ấy ư thức được như vậy—There being restlessness and remorse
in him, a Bhikkhu understands: “There are restlessness and remorse in
me;” or there being no restlessness and remorse in him, he understands:
“There are no restlessness and remorse in me;” and he also understands
how there comes to be the arising of unarisen restlessness and remorse,
and how there comes to be the abandoning of arisen restlessness and
remorse, and how there comes to be the future non-arising of abandoned
restlessness and remorse.
5)
Khi nội tâm có nghi, vị ấy ư thức
được nội tâm của ḿnh đang có nghi. Khi nội tâm không có nghi, vị ấy ư
thức được nội tâm ḿnh đang không có nghi. Khi nội tâm với nghi chưa
sanh nay đang sanh khởi, vị ấy ư thức được sự sanh khởi ấy. Với nghi đă
sanh nay được đoạn diệt, vị ấy ư thức được sự đoạn diệt ấy. Với nghi đă
được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy ư thức được như vậy—There
being doubt in him, a Bhikkhu understands: “There is doubt in me;” or
there being no doubt in him, he understands: “There is no doubt in me;”
and he also understands how there comes to be the arising of unarisen
doubt, and how there comes to be the abandoning of arisen doubt, and how
there comes to be the future non-arising of abandoned doubt.
·
Như vậy vị ấy sống quán niệm pháp trên các nội pháp; hay
sống quán niệm pháp trên các ngoại pháp; hay sống quán niệm pháp trên cả
nội pháp lẫn ngoại pháp. Hay vị ấy sống quán niệm tánh sanh khởi trên
các pháp; hay sống quán niệm tánh diệt tận trên các pháp. Hay sống quán
niệm tánh sanh diệt trên các pháp. “Có pháp đây, vị ấy an trú chánh niệm
như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống
không nương tựa, không chấp trước một vật ǵ trên đời. Nầy các Tỳ Kheo,
như vậy là Tỳ Kheo sống quán niệm pháp trên các pháp— In this way he
abides contemplating mind-objects as mind-objects internally, or he
abides contemplating mind-objects as mind-objects externally, or he
abides contemplating mind-objects as mind-objects both internally and
externally. Or else he abides contemplating in mind-objects their
arising factors, or he abides contemplating in mind-objects their
vanishing factors, or he abides contemplating in mind-objects both their
arising and vanishing factors. Or else mindfulness that ‘there are
mind-objects’ is simply established in him to the extent necessary for
bare knowledge and mindfulness. And he abides independent, not clinging
to anything in the world. That is how a Bhikkhu abides contemplating
mind-objects as mind-objects in terms of the five hindrances.
(B)
Lại nữa, nầy các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo
sống quán niệm pháp trên các pháp đối với ngũ uẩn. Nầy các Tỳ Kheo, thế
nào là Tỳ Kheo sống quán pháp trên các pháp đối với năm thủ uẩn? Nầy các
Tỳ Kheo, Tỳ Kheo quán chiếu như sau: Again, Bhikkhus, a Bhikkhu abides
contemplating mind-objects as mind-objects in terms of the five
aggregates affected by clinging. And how does a Bhikkhu abide
contemplating mind-objects as mind-objects in terms of the five
aggregates affected by clinging? Here a Bhikkhu understands:
1)
Đây là sắc (h́nh thể), đây là sắc
tập (sự phát sinh ra h́nh thể), đây là sắc diệt—Such is material form,
such its origin, such its disappearance.
2)
Đây là thọ, đây là thọ tập, đây là
thọ diệt—Such is feeling, such its origin, such its disappearance.
3)
Đây là tưởng, đây là tưởng tập,
đây là tưởng diệt—Such is perception, such its origin, such its
disappearance.
4)
Đây là hành, đây là hành tập, đây
là hành diệt—Such are the formations, such their origin, such their
disappearance.
5)
Đây là thức, đây là thức tập, đây
là thức diệt—Such is consciousness, such its origin, such its
disappearance.
·
Như vậy vị ấy sống quán niệm pháp trên các nội pháp; hay
sống quán niệm pháp trên các ngoại pháp; hay sống quán niệm pháp trên cả
nội pháp lẫn ngoại pháp. Hay vị ấy sống quán niệm tánh sanh khởi trên
các pháp; hay sống quán niệm tánh diệt tận trên các pháp. Hay sống quán
niệm tánh sanh diệt trên các pháp. “Có pháp đây, vị ấy an trú chánh niệm
như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống
không nương tựa, không chấp trước một vật ǵ trên đời. Nầy các Tỳ Kheo,
như vậy là Tỳ Kheo sống quán niệm pháp trên các pháp đối với ngũ uẩn—In
this way, he abides contemplating mind-objects as mind-objects
internally, or he abides contemplating mind-objects as mind-objects
externally, or he abides contemplating mind-objects as mind-objects both
internally and externally. Or else he abides contemplating in
mind-objects their arising factors, or he abides contemplating in
mind-objects their vanishing factors, or he abides contemplating in
mind-objects both their arising and vanishing factors. Or else
mindfulness that ‘there are mind-objects’ is simply established in him
to the extent necessary for bare knowledge and mindfulness. And he
abides independent, not clinging to anything in the world. That is how a
Bhikkhu abides contemplating mind-objects as mind-objects in terms of
the five aggregates.
(C)
Lại nữa, nầy các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo
sống quán niệm pháp trên các pháp đối với sáu nội ngoại xứ. Nầy các Tỳ
Kheo, thế nào là Tỳ Kheo sống quán pháp trên các pháp đối với sáu nội
ngoại xứ?—Again, Bhikkhus, a Bhikkhu abides contemplating mind-objects
as mind-objects in terms of the six internal and external bases. And how
does a Bhikkhu abide contemplating mind-objects as mind-objects in terms
of the six internal and external bases?
1)
Vị ấy ư thức về mắt và đối tượng
của mắt là h́nh sắc và về những ràng buộc tạo nên do mắt và h́nh sắc. Vị
ấy ư thức về những ràng buộc chưa sanh nay đang phát sanh. Vị ấy ư thức
về những ràng buộc đă phát sanh nay được đoạn diệt. Vị ấy ư thức về
những ràng buộc đă được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa—Here a
Bhikkhu understands the eye, he understands forms, and he understands
the fetter that arises dependent on both; and he understands how there
comes to be the arising of the unarisen fetter, and how there comes to
be the future non-arising of the abandoning fetter.
2)
Vị ấy ư thức về tai và đối tượng
của tai là âm thanh và về những ràng buộc tạo nên do tai và âm thanh. Vị
ấy ư thức về những ràng buộc chưa sanh nay đang sanh khởi. Vị ấy ư thức
về những ràng buộc đă sanh, nay đang được đoạn diệt. Vị ấy ư thức về
những ràng buộc đă được đoạn diệt, tương lai không c̣n sanh khởi nữa—Here
a Bhikkhu understands the ear, he understands sounds, and he understands
the fetter that arises dependent on both; and he understands how there
comes to be the arising of the unarisen fetter, and how there comes to
be the future non-arising of the abandoning fetter.
3)
Vị ấy ư thức về lổ mũi và đối
tượng của mũi là mùi hương và những ràng buộc tạo nên do lổ mũi và mùi
hương. Vị nầy ư thức về những ràng buộc chưa phát sanh nay đang sanh
khởi. Vị ấy ư thức về những ràng buộc đă phát sanh và đang được đoạn
diệt. Vị ấy ư thức về những ràng buộc đă được đoạn diệt, tương lai không
c̣n sanh khởi nữa—Here a Bhikkhu understands the nose, he understands
odours, and he understands the fetter that arises dependent on both; and
he understands how there comes to be the arising of the unarisen fetter,
and how there comes to be the future non-arising of the abandoning
fetter.
4)
Vị ấy ư thức về cái lưỡi và đối
tượng của lưỡi là vị nếm và những ràng buộc tạo nên do cái lưỡi và vị
nếm. Vị ấy ư thức về những ràng buộc chưa phát sanh nay đang phát sanh.
Vị ấy ư thức về những ràng buộc đă phát sanh nay đang được đoạn diệt. Vị
ấy ư thức về những ràng buộc đă được đoạn diệt, tương lai không c̣n sanh
khởi nữa— Here a Bhikkhu understands the tongue, he understands flavours,
and he understands the fetter that arises dependent on both; and he
understands how there comes to be the arising of the unarisen fetter,
and how there comes to be the future non-arising of the abandoning
fetter.
5)
Vị ấy ư thức về thân và đối tượng
của thân là sự xúc chạm. Vị ấy ư thức về những ràng buộc chưa sanh khởi
nay đang được sanh khởi. Vị ấy ư thức về những ràng buộc đă sanh khởi
đang được đoạn tận. Vị ấy ư thức về những ràng buộc đă được đoạn diệt,
tương lai không c̣n sanh khởi nữa—Here a Bhikkhu understands the body,
he understands tangibles, and he understands the fetter that arises
dependent on both; and he understands how there comes to be the arising
of the unarisen fetter, and how there comes to be the future non-arising
of the abandoning fetter.
6)
Vị ấy ư thức về đối tượng của ư là
tư tưởng và về những ràng buộc tạo nên do ư là tư tưởng. Vị ấy ư thức về
những ràng buộc chưa sanh khởi nay đang sanh khởi. Vị ấy ư thức về những
ràng buộc đă sanh khởi đang được đoạn diệt. Vị ấy ư thức về những ràng
buộc đă đoạn diệt, tương lai không c̣n sanh khởi nữa—Here a Bhikkhu
understands the mind, he understands mind-objects, and he understands
the fetter that arises dependent on both; and he understands how there
comes to be the arising of the unarisen fetter, and how there comes to
be the future non-arising of the abandoning fetter.
·
Như vậy vị ấy sống quán niệm pháp trên các nội pháp; hay
sống quán niệm pháp trên các ngoại pháp; hay sống quán niệm pháp trên cả
nội pháp lẫn ngoại pháp. Hay vị ấy sống quán niệm tánh sanh khởi trên
các pháp; hay sống quán niệm tánh diệt tận trên các pháp. Hay sống quán
niệm tánh sanh diệt trên các pháp. “Có pháp đây, vị ấy an trú chánh niệm
như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống
không nương tựa, không chấp trước một vật ǵ trên đời. Nầy các Tỳ Kheo,
như vậy là Tỳ Kheo sống quán niệm pháp trên các pháp đối với sáu nội
ngoại xứ—In this way he abides contemplating mind-objects as
mind-objects internally, or he abides contemplating mind-objects as
mind-objects externally, or he abides contemplating mind-objects as
mind-objects both internally and externally. Or else he abides
contemplating in mind-objects their arising factors, or he abides
contemplating in mind-objects their vanishing factors, or he abides
contemplating in mind-objects both their arising and vanishing factors.
Or else mindfulness that ‘there are mind-objects’ is simply established
in him to the extent necessary for bare knowledge and mindfulness. And
he abides independent, not clinging to anything in the world. That is
how a Bhikkhu abides contemplating mind-objects as mind-objects in terms
of the six internal and external bases.
(D)
Lại nữa, nầy các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo
sống quán niệm pháp trên pháp đối với thất giác chi. Nầy các Tỳ Kheo,
thế nào là Tỳ Kheo sống quán pháp trên pháp đối với thất giác
chi?—Again, Bhikkhus, a Bhikkhu abides contemplating mind-objects as
mind-objects in terms of the seven enlightenment factors. And how does a
Bhikkhu abide contemplating mind-objects as mind-objects in terms of the
seven enlightenment factors?
1)
Khi nội tâm có niệm giác chi (yếu
tố chánh niệm), vị ấy ư thức là ḿnh có chánh niệm. Vị ấy quán chiếu
rằng tâm ḿnh đang có chánh niệm. Khi không có chánh niệm, vị ấy ư thức
rằng tâm ḿnh không có chánh niệm. Vị ấy ư thức về chánh niệm chưa sanh
khởi nay đang sanh khởi. Vị ấy ư thức về chánh niệm đă phát sanh nay
đang thành tựu viên măn—Here, there being the mindfulness enlightenment
factor in him, a Bhikkhu understands: “There is the mindfulness
enlightenment factor in me;” or there being no mindfulness enlightenment
factor in him, he understands: “There is no mindfulness enlightenment
factor In me; and also understands how there comes to be the arising of
the unarisen mindfulness enlightenment factor, and how the arisen
mindfulness enlightenment factor comes to fulfilment by development.”
2)
Khi nội tâm có trạch giác chi (giám
định đúng sai thiện ác). Vị ấy ư thức là ḿnh đang có sự phân định đúng
sai thiện ác. Vị ấy quán chiếu rằng tâm ḿnh đang có sự giám định đúng
sai thiện ác. Khi không có sự giám định, vị ấy ư thức là ḿnh đang không
có sự giám định. Vị ấy ư thức về một sự giám định chưa sanh nay đang
sanh khởi. Vị ấy ư thức về một sự giám định đă sanh khởi nay đang thành
tựu viên măn—Here, there being the investigation-of-states enlightenment
factor in him, a Bhikkhu understands: “There is the
investigation-of-states enlightenment factor in me;” or there being no
investigation-of-states enlightenment factor in him, he understands:
“There is no investigation-of-states enlightenment factor In me; and
also understands how there comes to be the arising of the unarisen
investigation-of-states enlightenment factor, and how the arisen
investigation-of-states enlightenment factor comes to fulfilment by
development.”
3)
Khi nội tâm có tinh tấn giác chi,
vị ấy ư thức là ḿnh đang có sự tinh chuyên. Vị ấy quán chiếu rằng tâm
ḿnh đang có sự tinh chuyên. Khi nội tâm không có sự tinh chuyên, vị ấy
ư thức rằng tâm ḿnh không có sự tinh chuyên. Vị ấy ư thức về một sự
tinh chuyên chưa sanh khởi nay đang sanh khởi. Vị ấy ư thức về sự tinh
chuyên đă sanh khởi nay đang đi đến thành tựu viên măn—Here, there being
the energy enlightenment factor in him, a Bhikkhu understands: “There is
the energy enlightenment factor in me;” or there being no energy
enlightenment factor in him, he understands: “There is no energy
enlightenment factor in me;” and also understands how there comes to be
the arising of the unarisen energy enlightenment factor, and how the
arisen energy enlightenment factor comes to fulfilment by development.
4)
Khi nội tâm có hỷ giác chi, vị ấy
ư thức là ḿnh đang có an vui. Vị ấy quán chiếu rằng tâm ḿnh đang an
vui. Khi nội tâm không có an vui, vị ấy ư thức là ḿnh đang không có an
vui. Vị ấy ư thức về niềm an vui chưa sanh khởi, nay đang sanh khởi. Vị
ấy ư thức về niềm an vui đă sanh khởi, nay đang đi đến thành tựu viên
măn—Here, there being the rapture enlightenment factor in him, a Bhikkhu
understands: “There is the rapture enlightenment factor in me;” or there
being no rapture enlightenment factor in him, he understands: “There is
no rapture enlightenment factor In me; and also understands how there
comes to be the arising of the unarisen rapture enlightenment factor,
and how the arisen rapture enlightenment factor comes to fulfillment by
development.
5)
Khi nội tâm có khinh an giác chi,
vị ấy ư thức tâm ḿnh đang có khinh an (nhẹ nhơm). Vị ấy quán chiếu rằng
tâm ḿnh đang có khinh an. Khi nội tâm không có khinh an, vị ấy ư thức
rằng nội tâm ḿnh không có sự khinh an. Vị ấy ư thức về sự khinh an chưa
sanh khởi, nay đang sanh khởi. Vị ấy ư thức về sự khinh an đă sanh khởi,
nay đang đi đến thành tựu viên măn—Here, there being the tranquility
enlightenment factor in him, a Bhikkhu understands: “There is the
tranquility enlightenment factor in me;” or there being no tranquility
enlightenment factor in him, he understands: “There is no tranquility
enlightenment factor In me; and also understands how there comes to be
the arising of the unarisen tranquility enlightenment factor, and how
the arisen tranquility enlightenment factor comes to fulfillment by
development.
6)
Khi nội tâm có định giác chi, vị
ấy ư thức là ḿnh đang có định. Khi nội tâm không có định, vị ấy ư thức
là ḿnh đang không có định. Khi định chưa sanh khởi, nay đang sanh khởi,
vị ấy ư thức như vậy. Khi định đă sanh khởi, nay đang đi đến thành tựu
viên măn, vị ấy cũng ư thức như vậy—Here, there being the concentration
enlightenment factor in him, a Bhikkhu understands: “There is the
concentration enlightenment factor in me;” or there being no
concentration enlightenment factor in him, he understands: “There is no
concentration enlightenment factor in me;” and also understands how
there comes to be the arising of the unarisen concentration
enlightenment factor, and how the arisen concentration enlightenment
factor comes to fulfillment by development.
7)
Khi nội tâm có xả giác chi, vị ấy
ư thức là ḿnh đang buông xả. Vị ấy quán chiếu là tâm ḿnh có buông xả.
Khi nội tâm không có sự buông xả, vị ấy ư thức là tâm ḿnh đang không có
sự buông xả. Vị ấy ư thức về sự buông xả chưa sanh khởi, nay đang sanh
khởi. Vị ấy ư thức về sự buông xả đă sanh khởi, nay đang đi đế sự thành
tựu viên măn—Here, there being the equanimity enlightenment factor in
him, a Bhikkhu understands: “There is the equanimity enlightenment
factor in me;” or there being no equanimity enlightenment factor in him,
he understands: “There is no equamity enlightenment factor in me;” and
also understands how there comes to be the arising of the unarisen
equanimity enlightenment factor, and how the arisen equanimity
enlightenment factor comes to fulfillment by development.
·
Như vậy vị ấy sống quán niệm pháp trên các nội pháp; hay
sống quán niệm pháp trên các ngoại pháp; hay sống quán niệm pháp trên cả
nội pháp lẫn ngoại pháp. Hay vị ấy sống quán niệm tánh sanh khởi trên
các pháp; hay sống quán niệm tánh diệt tận trên các pháp. Hay sống quán
niệm tánh sanh diệt trên các pháp. “Có pháp đây, vị ấy an trú chánh niệm
như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống
không nương tựa, không chấp trước một vật ǵ trên đời. Nầy các Tỳ Kheo,
như vậy là Tỳ Kheo sống quán niệm pháp trên các pháp đối với thất giác
chi—In this way he abides contemplating mind-objects as mind-objects
internally, or he abides contemplating mind-objects as mind-objects
externally, or he abides contemplating mind-objects as mind-objects both
internally and externally. Or else he abides contemplating in
mind-objects their arising factors, or he abides contemplating in
mind-objects their vanishing factors, or he abides contemplating in
mind-objects both their arising and vanishing factors. Or else
mindfulness that ‘there are mind-objects’ is simply established in him
to the extent necessary for bare knowledge and mindfulness. And he
abides independent, not clinging to anything in the world. That is how a
Bhikkhu abides contemplating mind-objects as mind-objects in terms of
the seven enlightenment factors.
(E)
Lại nữa, này các Tỳ Kheo, vị Tỳ
Kheo sống quán niệm pháp trên các pháp đối với Tứ Diệu Đế. Này các Tỳ
Kheo, thế nào là Tỳ Kheo sống quán pháp trên các pháp đối với bốn sự
thật cao quư? Nầy các Tỳ Kheo, ở đây Tỳ Kheo ư thức: “Khi sự kiện là đau
khổ, vị ấy quán niệm đây là đau khổ. Khi sự kiện là nguyên nhân tạo
thành đau khổ, vị ấy quán niệm đây là nguyên nhân tạo thành sự đau khổ.
Khi sự kiện là sự chấm dứt khổ đau, vị ấy quán chiếu đây là sự chấm dứt
khổ đau. Khi sự kiện là con đường đưa đến sự chấm dứt khổ đau, vị ấy
quán niệm đây là con đường dẫn đến sự chấm dứt khổ đau.”—Again, Bhikkhus,
a Bhikkhu abides contemplating mind-objects as mind-objects in terms of
the Four Noble Truths. And how does a Bhikkhu abide contemplating
mind-objects as mind-objects in terms of the Four Noble Truths? Here a
Bhikkhu understands as it actually is: “This is suffering;” he
understands as it actually is: “This is the origin of suffering;” he
understands as it actually is: “This is the cessation of suffering;” he
understands as it actually is: “This is the way leading to the cessation
of suffering.”
·
Như vậy vị ấy sống quán niệm pháp trên các nội pháp; hay
sống quán niệm pháp trên các ngoại pháp; hay sống quán niệm pháp trên cả
nội pháp lẫn ngoại pháp. Hay vị ấy sống quán niệm tánh sanh khởi trên
các pháp; hay sống quán niệm tánh diệt tận trên các pháp. Hay sống quán
niệm tánh sanh diệt trên các pháp. “Có pháp đây, vị ấy an trú chánh niệm
như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống
không nương tựa, không chấp trước một vật ǵ trên đời. Nầy các Tỳ Kheo,
như vậy là Tỳ Kheo sống quán niệm pháp trên các pháp đối với Tứ Diệu Đế—In
this way he abides contemplating mind-objects as mind-objects
internally, or he abides contemplating mind-objects as mind-objects
externally, or he abides contemplating mind-objects as mind-objects both
internally and externally. Or else he abides contemplating in
mind-objects their arising factors, or he abides contemplating in
mind-objects their vanishing factors, or he abides contemplating in
mind-objects both their arising and vanishing factors. Or else
mindfulness that ‘there are mind-objects’ is simply established in him
to the extent necessary for bare knowledge and mindfulness. And he
abides independent, not clinging to anything in the world. That is how a
Bhikkhu abides contemplating mind-objects as mind-objects in terms of
the Four Noble Truths.
(F)
Nầy các Tỳ Kheo, vị nào tu tập Tứ
Niệm Xứ nầy như vậy trong bảy năm, vị ấy có thể chứng một trong hai quả
sau đây: Một là chứng Chánh Trí ngay trong hiện tại, hay nếu c̣n hữu dư
báo, th́ cũng đạt được quả vị Bất Hoàn (không c̣n tái sanh nữa). Nầy
các Tỳ Kheo, không cần ǵ đến bảy năm, một vị Tỳ Kheo nào tu tập Tứ Niệm
Xứ nầy như vậy trong sáu năm, trong năm năm, trong bốn năm, trong ba năm,
trong hai năm, trong một năm, vị ấy có thể chứng một trong hai quả vị
sau đây: Một là chứng được Chánh Trí trong hiện tại, hay nếu c̣n hữu dư
báo, th́ chứng quả Bất Hoàn. Nầy các Tỳ Kheo, không cần ǵ đến một năm,
một vị Tỳ Kheo nào tu tập Tứ Niệm Xứ nầy như vậy trong ṿng bảy tháng,
vị ấy có thể chứng một trong hai quả vị sau đây: Một là chứng được Chánh
Trí trong hiện tại, hay nếu c̣n hữu dư báo, th́ chứng quả Bất Hoàn. Nầy
các Tỳ Kheo, không cần ǵ đến bảy tháng, một vị Tỳ Kheo nào tu tập Tứ
Niệm Xứ nầy như vậy trong ṿng sáu tháng, trong năm tháng, trong bốn
tháng, trong ba tháng, trong hai tháng, trong một tháng, trong nửa tháng,
vị ấy có thể chứng một trong hai quả vị sau đây: Một là chứng được Chánh
Trí trong hiện tại, hay nếu c̣n hữu dư báo, th́ chứng quả Bất Hoàn. Nầy
các Tỳ Kheo, không cần ǵ đến nửa tháng, một vị Tỳ Kheo nào tu tập Tứ
Niệm Xứ nầy như vậy trong ṿng bảy ngày, vị ấy có thể chứng một trong
hai quả vị sau đây: Một là chứng được Chánh Trí trong hiện tại, hay nếu
c̣n hữu dư báo, th́ chứng quả Bất Hoàn—Bhikkhus, if anyone should
develop these four foundations of mindfulness in such a way for seven
years, one of two fruits could be expected for him: either final
knowledge here and now, or if there is a trace of clinging left,
non-return. Let alone seven years, Bhikkhus. If anyone should develop
these four foundations of mindfulness in such a way for six years, for
five years, for four years, for three years, for two years or for one
year, one of two fruits could be expected for him: either final
knowledge here and now, or if there is a trace of clinging left,
non-return. Let alone one year, Bhikkhus. If anyone should develop these
four foundations of mindfulness in such a way for seven months, for six
months, for five months, for four months, for three months, for two
months, for one monthor for half a month, one of two fruits could be
expected for him: either final knowledge here and now, or if there is a
trace of clinging left, non-return.
(G)
Nầy các Tỳ Kheo, đây là con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho
chúng sanh, vượt khỏi sầu năo, diệt trừ khổ ứu, thành tựu Chánh Trí,
chứng ngộ Niết Bàn. Đó là Bốn Niệm Xứ. Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các
Tỳ Kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời dạy của Thế Tôn—Bhikkhus, this is the
direct path for the purification of beings, for surmounting
(overcoming) sorrow and lamentation, for the disappearance of pain and
grief, for the attainment (achievement) of the true Way, for the
realization of Nibbana, namely, the four foundations of mindfulness.
That is what the Blessed One said. The Bhikkhus were satisfied and
delighted in the Blessed One’s words.
Tứ Niệm Xứ Quán:
Smrty-upasthana (skt)—See Tứ Niệm Xứ.
Tứ Oai Nghi:
Four forms of behavior.
(A)
Tứ oai nghi hay bốn phép tắc Bát Nhă phải được Tăng Ni thực hành
mỗi ngày—Four instances of prajna which a monk or nun should practise
everyday—Four respect-inspiring forms of demeanour.
1)
Oai Nghi Đi: Respect-inspiring of Walking.
2)
Oai Nghi Đứng: Respect-inspiring of Standing.
3)
Oai Nghi Nằm: Respect-inspiring of Lying down.
4)
Oai nghi Ngồi: Respect-inspiring of Sitting.
(B)
Đức Phật dạy về Tứ Oai Nghi trong Kinh Niệm Xứ—The Buddha taught
about the Four Postures in the Satipatthanasutta:
a)
Này các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo đi, ư
thức rằng: “Tôi đang đi.” Khi đứng, ư thức rằng: “Tôi đang đứng.” Khi
ngồi, ư thức rằng: “Tôi đang ngồi.” Khi nằm, ư thức rằng: “Tôi đang
nằm.”Thân thể được xử dụng như thế nào, vị ấy ư thức thân thể như thế ấy—Bhikkhus,
when walking, a Bhikkhu understands: “I am walking;” when standing, he
understands: “I am standing;” when sitting, he understands: “I am
sitting;” when lying down, he understands: “I am lying down;” or he
understands accordingly however his body is disposed.
b)
Lại nữa, này các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo khi bước tới bước lui, biết rơ
việc ḿnh đang làm; khi ngó tới ngó lui, biết rơ việc ḿnh đang làm; khi
co tay, khi duỗi tay, biết rơ việc ḿnh đang làm; khi mặc áo Tăng Già Lê,
mang bát, mang y, biết rơ việc ḿnh đang làm; khi ăn, uống, nhai, nếm,
biết rơ việc ḿnh đang làm; khi đại tiểu tiện, biết rơ việc ḿnh đang
làm; khi đi, đứng, ngồi, ngủ, thức, nói, im lặng, biết rơ các việc ḿnh
đang làm—Again, Bhikkhus, a Bhikkhu is one who acts in full awareness
when going forward and returning; who acts in full awareness when
looking ahead and looking away; who acts in full awareness when flexing
and extending his limbs; who acts in full awareness when wearing his
robes and carrying his outer robe and bowl; who acts in full awareness
when eating , drinking, consuming food, and tasting; who acts in full
awareness when walking, standing, siting, falling asleep, waking up,
talking, and keeping silent.
Tứ Oán: Bốn
loại thù oán—The four enemies:
1)
Phiền Năo Ma: The passions and delusion maras.
2)
Tử Ma: Death maras.
3)
Âm Ma: The five skandhas maras.
4)
Thiên Tử Ma: The supreme mara-king.
Tứ Phạm Chí:
Bốn vị phạm chí quyết trốn tử thần, nhưng đều thất bại—The four
Brahmacarins who resolved to escape death, and yet failed:
1)
Trốn tử thần bằng cách lên non: To escape death by going to the
mountain.
2)
Trốn tử thần bằng cách xuống biển: To escape death by going to
the sea.
3)
Trốn tử thần bằng cách bay lên trời: To escape death by flying
into the air.
4)
Trốn tử thần bằng cách đi vào phố chợ: To escape death by going
to the market place.
Tứ Phạm Đường:
Bốn cách đạt tới quả vị A La Hán, giống như trong Tứ Phạm trụ, chỉ trừ
phần thứ tư là ‘bảo hộ tha nhân’ thay v́ ‘vô lượng xả.’—The four ways of
attaining arhatship, which are the same as in the four noble states,
except that the last of the four is ‘protection of others’ instead of
‘unlimited indifference’—See Tứ Phạm Trụ.
Tứ Phạm Trụ:
Bốn chỗ trụ cao thượng—The four noble states:
1)
Vô Lượng Từ: Unlimited Love.
2)
Vô Lượng Bi: Unlimited pity.
3)
Vô Lượng Hỷ: Unlimited joy.
4)
Vô Lượng Xả: Unlimited indifference.
** For more
information, please seeTứ Vô
Lượng Tâm.
Tứ Pháp: Four
dharmas.
(A) Kinh Tâm Địa Quán:
1)
Giáo pháp: The teaching of the Buddha.
2)
Lư pháp: The principles or meaning.
3)
Hành pháp: The practice.
4)
Quả pháp: The fruits or rewards.
(B) Kinh Tâm Địa Quán:
1)
Bất xả Bồ đề tâm: Chẳng bỏ Bồ Đề tâm—Never losing the bodhi-mind.
2)
Bất xả thiện tri thức: Chẳng bỏ thiện tri thức—Never losing
good-knowing advisors.
3)
Bất xả kham nhẫn: Chẳng bỏ kham nhẫn—Never losing perseverance in
progress.
4)
Bất xả a-luyện-nhă (nơi tu hành tịch tỉnh): Chẳng bỏ đời sống
tịnh hạnh—Never losing the monastic forest life (aranyaka).
(C) Kinh Đại Thừa Kư
Pháp:
1)
Tín: Faith.
2)
Giải: Liberty.
3)
Hạnh: Deeds or action.
4)
Chứng: Realization.
(D) Theo Tịnh Độ—Pure
Land sect:
1)
Giáo pháp: Giáo pháp của Phật trong Kinh Vô Lượng Thọ—The
teaching of the Buddha in the Infinite Life Sutra.
2)
Hành pháp: Thực hành lời nguyện thứ 17 của Phật A Di Đà—The
practice of the seventeenth of Amitabha’s vows—See Tứ Thập Bát Nguyện
(17).
3)
Tín pháp: Tin vào lời nguyện thứ 18 của Đức A Di Đà—Faith in the
eightteenth of Amitabha’s vows—See Tứ Thập Bát Nguyện (18).
4)
Chứng pháp: Chứng trong lời nguyện thứ 11 của Phật A Di Đà—Realization
or proof of the eleventh of Amitabha’s vows—See Tứ Thập Bát Nguyện (11).
(E)
Theo Kinh Pháp Hoa, Đức Phật trả lời Ngài Phổ Hiền sau khi Đức
Phật diệt độ th́ những người tu tŕ theo Kinh Pháp Hoa sẽ được những ǵ—The
Lotus Sutra, the Buddha told Fu-Hsien (Samantabhadra) how the Lotus to
be possessed after the Buddha’s demise:
1)
Được Chư Phật Hộ Niệm: Protection of the Buddhas.
2)
Trồng Các Cội Đức: Cultivation of virtue.
3)
Nhập Chánh Định: Entry into correct dhyana.
4)
Phát Tâm Cứu Độ Hết Thảy Chúng Sanh: having a mind to save all
creatures.
(F)
Theo Kinh Phúng Tụng trong Trường Bộ Kinh, có một chuỗi Tứ Pháp
đă được Đức Phật giảng dạy—According to the Sangiti Sutta in the Long
Discourses of the Buddha, there are sets of Four Things which were
perfectly proclaimed by the Buddha:
(i) Tứ Niệm Xứ—Four foundations of mindfulness—See Tứ Niệm Xứ.
(ii) Tứ Chánh Cần:
Sammappadhana (p)—The
four great
efforts—See Tứ Chánh Cần.
(iii) Tứ Thần Túc:
Iddhipada (p)—Four roads
to power—See Tứ
Như Ư Túc.
(iv) Tứ Thiền: Four
Jhanas—See Tứ Thiền.
(v) Tứ Tu Tập Thiền
Định: Samadhi-bhavana
(p)—Four
concentrative meditations—See
Tứ Tu Tập Thiền
Định.
(vi) Tứ Vô Lượng Tâm—Four
boundless
states—See Tứ
Vô Lượng Tâm.
(vii) Tứ Thiền Vô Sắc—Four
formless
jhanas—See Tứ
Thiền Vô Sắc.
(viii) Tứ Y Chỉ: Four
supports—See Tứ Y Chỉ.
(ix)
Tứ Thánh Chủng: Four Ariyan lineages—See Tứ Thánh Hành.
(x)
Tứ Tinh Cần: Four efforts—See Tứ Tinh Cần.
(xi)
Tứ Trí: Four knowledges—See Tứ Trí (A).
(xii)
Bốn Trí Khác—Four more knowledges—See Tứ Trí (B).
(xiii) Tứ Dự Lưu Hướng
Chi—Four factors of
Stream-Attainment—See Tứ Dự Lưu
Hướng Chi.
(xiv)Tứ Dự Lưu Quả
Chi—Four
characteristics of a Stream-Winner—See
Tứ Dự Lưu Quả
Chi.
(xv) Tứ Sa Môn Quả:
Four fruits of the ascetic
life—See Tứ
Thánh Quả (B).
(xvi) Tứ Giới: Four
elements—See Tứ Giới
(B).
(xvii) Tứ Thực: Four
nutriments—See Tứ
Thực.
(xviii) Tứ Thức Trú:
Four stations of
consciousness—See Tứ Thức Trú.
(xix) Tứ Bất Hành Xứ
Hạnh: Agata-gamanani
(p)—Four ways
of going wrong—See Tứ
Bất Hành Xứ
Hạnh.
(xx) Tứ Ái Sanh: Four
arousals of craving—
See Tứ Ái Sanh.
(xxi) Tứ Hành: Four
kinds of progress—See
Tứ Hành (A).
(xxii) Bốn Hành Khác:
Four more kinds of
progress—See
Tứ Hành (B).
(xxiii) Tứ Pháp Túc:
Four ways of Dhamma—
See Tứ Pháp
Túc.
(xxiv) Tứ Pháp Thọ:
Four ways of undertaking
Dhamma—See
Tứ Pháp Thọ.
(xxv) Tứ Pháp Uẩn:
Four divisions of
Dhamma—See
Tứ Pháp Uẩn.
(xxvi) Tứ Lực: Four
powers—See Tứ Lực (A).
(xxvii) Tứ Nguyện:
Four kinds of resolve—
See Tứ
Nguyện.
(xxviii) Bốn Cách Trả
Lời Câu Hỏi: Four ways
of
answering questions—See Bốn Cách
Trả Lời Câu
Hỏi.
(xxix) Tứ Nghiệp: Four
kinds of kamma—See
Tứ Nghiệp.
(xxx) Bốn Pháp Cần
Phải Chứng Ngộ: Four
things to be
realized—See Bốn Pháp
Cần Phải
Chứng Ngộ.
(xxxi) Tứ Bộc Lưu:
Four floods—See Tứ Bộc
Lưu.
(xxxii) Tứ Ách: Four
yokes—See Tứ Ách.
(xxxiii) Tứ Ly Ách:
Four unyokings—See Tứ
Ly Ách.
(xxxiv) Tứ Hệ Phược:
Four ties—See Tứ
Phược.
(xxxv) Tứ Thủ: Four
clingings—See Tứ
Thủ.
(xxxvi)Tứ Sanh: Four
kinds of generations—
See Tứ Sanh.
(xxxvii) Tứ Nhập Thai:
Four ways of descend
into the
womb—See Tứ Nhập Thai.
(xxxviii)Bốn Phương
Cách được Tự Thể Mới:
Attabhava-patilabha (p)—Four ways of
getting a
new personality—See Bốn
Phương Cách
Được Tự Thể Mới.
(xxxix) Tứ Cúng Dường
Thanh Tịnh:
Dakkhina-visuddhiyo (p)—Four
purifications
of offerings—See Tứ Cúng
Dường Thanh
Tịnh.
(xl) Tứ Nhiếp Pháp:
Samgaha-vatthuni
(p)—See Tứ
Nhiếp Pháp.
(xli) Tứ Phi Thánh
Ngôn: Four un-Ariyan
modes of
speech—See Tứ Phi Thánh
Ngôn.
(xlii) Bốn Phi Thánh
Ngôn Khác: Four
more un-Ariyan
modes of speech—See
Tứ Phi Thánh
Ngôn (B).
(xliii) Tứ Thánh Ngôn:
Four Ariyan modes
of speech—See
Tứ Thánh Ngôn.
(xliv) Bốn Thánh Ngôn Khác: Four more
Ariyan modes of speech—See Tứ Thánh
Ngôn (B).
(xlv) Bốn Thánh Ngôn Khác: Four more
Ariyan modes of speech—See Tứ Thánh
Ngôn (C).
(xlvi) Bốn Thánh Ngôn Khác: Four more
Ariyan modes of speech—See Tứ Thánh
Ngôn (D).
(xlvii)Bốn Loại Người: Four types of
persons—See Tứ Chủng Nhân (A).
(xlviii) Bốn Loại Người Khác: Four more types
of persons—See Tứ Chủng Nhân (B).
(xlix) Bốn Loại Người Khác: Four more types
of persons—See Tứ Chủng Nhân (C).
(l) Bốn Loại Người Khác: Four more types of
persons—See Tứ Chủng Nhân (D).
Tứ Pháp Ấn: The
seal or impression of the four dogmas:
1)
Khổ: Suffering.
2)
Vô Thường: Impermanence.
3)
Vô Ngă: Non-ego.
4)
Niết Bàn: Nirvana.
Tứ Pháp Bản Mạt:
See Tứ Pháp Bổn Mạt.
Tứ Pháp Bất Hoại:
Bốn pháp chẳng hư hoại—The four imperishables:
1)
Chính Thụ Tâm: The correctly receptive heart.
2)
Kim Cang: The diamond.
3)
Xá Lợi của Phật: The relics of a Buddha.
4)
Cung Điện Quang Âm Thiên: Abhasvaras (skt)—The palace of the
devas of light and sound.
Tứ Pháp Bổn Mạt:
The alpha and omega in four laws or dogmas:
1)
Tất cả các hành đều vô thường: Nothing is permanent.
2)
Tất cả các hành đều khổ: All things involve suffering.
3)
Tất cả các hành đều vô ngă: There is no personality.
4)
Niết Bàn vĩnh tịch: Nirvan is eternal rest.
** For more
information, please see Tứ Pháp
Ấn.
Tứ Pháp Giới:
Tứ Chủng Pháp Giới—Theo tông Hoa Nghiêm, có bốn pháp giới—According to
the Hua-Yen school, there are Four Dharma Realms:
1)
Sự pháp giới: Cách nh́n pháp giới như là một thế giới của những
vật thể cá biệt, trong đó chữ giới (dhatu) có nghĩa là cái phân biệt.
Đây là thế giới của thực tại, thế giới hiện tượng, hay thế giới hiện
tượng, các pháp sắc và tâm của chúng sanh. Sự pháp giới biểu hiện cho
giáo lư duy thực của Tiểu Thừa—The idea of looking at the Dharmadhatu as
a world of individual objects, in which case the term “dhatu” means
“something separated.” This is the world of reality, the factual,
practical world, or the phenomenal realm, phenomenal world. The Dharma
Realm of Phenomena, or the realm of events (specifics). It represents
the Realistic Doctrine of Hinayana.
2)
Lư pháp giới: Cách nh́n Pháp Giới như là sự hiển hiện của nhất
tâm (ekacitta) hay một bản thể cơ bản (ekadhatu). Đây là thế giới thể
tánh nói về các pháp sắc và tâm của chúng sanh tuy có sai khác nhưng
cùng chung một thể tánh. Đây là thế giới của lư tắc. Nó được Tam Luận
Tông và Pháp Tướng Tông chủ xướng, dạy rằng lư tách rời với sự—The idea
of looking at the Dharmadhatu as a manifestation of one spirit (ekacitta)
or one elementary substance (ekadhatu). This is the noumenal realm, or
noumenal world. The Dharma Realm of Noumena, or the realm of principles.
This is the world of principle or theorical world. It is represented by
the Sam-Lun and Dharmalaksana Schools which teach that principle is
separate from facts.
3)
Lư sự vô ngại pháp giới: Cách nh́n Pháp Giới như là một thế giới
trong đó tất cả những hiện hữu riêng biệt của nó (vastu) có thể đồng
nhất được với một tâm là sở y. Pháp Giới nầy không có trở ngại giữa lư
và sự v́ lư do sự mà hiển bày, sự nhờ lư mà thành tựu. Khởi Tín và Thiên
Thai tông chủ trương nhất thể giữa sự và lư, nghĩa là thế giới của lư
tắc và thực tại được hợp nhất, hay thế giới lư tưởng được thể ngộ—The
idea of looking at the Dharmadhatu as a world where all its particular
existences (vastu) are identifiable with one underlying spirit. This
Dharmadhatu is the interdepence of phenomenal and noumenal realm—The
world in which phenomena are identical with noumena—The Dharma Realm of
non-obstructions of noumena and phenomena (principles and specifics)—The
realm of principles against events perfectly fused in unimpeded freedom.
The Awakening of Faith and the T’ien-T’ai School believe the identity of
fact and principle. That means the world of principle and reality
united, or the ideal world realized.
4)
Sự sự vô ngại pháp giới: Cách nh́n Pháp Giới như là một thế giới
trong đó mỗi một vật thể riêng biệt của nó đồng nhất với mọi vật thể
riêng biệt khác, mà tất cả những giới hạn phân cách giữa chúng thảy đều
bị bôi bỏ. Đây là thế giới của tất cả thực tại được kết dệt lại hay được
đồng nhất trong nhịp điệu toàn vẹn, nghĩa là tất cả mọi hiện tượng đều
tương ứng thông dung nhau, một tức nhiều, lớn chứa nhỏ. Đây là chủ
trương của tông Hoa Nghiêm, theo đó tất cả những sự thật hay thực tại dị
biệt nhất thiết phải tạo thành một toàn thể nhịp nhàng do sự tương dung
tương nhiếp để chứng ngộ thế giới lư tưởng là “nhất như.” Theo Giáo Sư
Junjiro Takakusu trong Cương Yếu Triết Học Phật Giáo, đem thực hành mà
thích ứng lư thuyết không phải là điều khó khăn, nhưng tai hại ở chỗ là
con người , kẻ th́ quá thiên về lư thuyết, người lại quá trọng thực hành.
Do đó cần phải có một giải pháp hữu lư. Lại nữa, trong thế giới thực tế,
thực hành thường chống lại thực hành, sự kiện chống lại sự kiện, công
tác chống lại công tác, cá thể chống lại cá thể, đẳng cấp chống lại đẳng
cấp, quốc gia chống lại quốc gia. Đó là sắc thái của thế giới cá nhân
chủ nghĩa, rồi từ đó toàn thể thế giới hóa ra phân chia thành mảnh vụn
vặt. Chủ nghĩa tập thể hay tinh thần tương trợ không ngừng, vẫn chưa đủ
để ngăn chận ác tính của đời sống. Để ḥa điệu một trạng thái sinh tồn
như vậy và để đưa tất cả vạn vật đến chỗ nhu ḥa, thế giới tương giao
tương cảm cần phải được tạo ra. Một thế giới lư tưởng như vậy được gọi
là “sự sự vô ngại pháp giới.”—The idea of looking at the Dharmadhatu as
a world where each one of its particular objects is identifiable with
every other particular object, with whatever lines of separation there
may be between them all removed. This is the world of all realities or
practical facts interwoven or identified in perfect harmony. It is to
say phenomena are also interdependent—The world in which phenomena
interpenetrate one another without hindrances—The Dharma Realm of
non-obstruction of phenomena and phenomena—The realm of events against
events (specifics and specifics) perfectly fused in unimpeded freedom.
It represents by the Hua-Yen School which teaches that all distinct
facts or realities will, and ought to, form a harmonious whole by mutual
penetration and mutual identification so as to realize the ideal world
of “One-True.” According to Prof. Junjiro Takakusu in The Essentials of
Buddhist Philosophy, it should not be difficult to make practice adapted
to theory, but such being the evil of men, some make too much of theory
while others make too much of practice. So a rational solution becomes
necessary. Moreover, in the world of realities (fact), practice often
goes against practice, fact against fact, business, agains business,
individual against individual, class against class, nation against
nation. Such is the feature of the world of individualism and thus the
whole world goes to pieces. Mere collectivism or solidarity will not
prevent the evil of life. To harmonize such a state of being and to make
all things go smoothly, the world of mutual reliance or interdependence
ought to be created. Such an ideal world is called “the fact and fact
world perfectly harmonized.”
** For more
information, please see Tứ
Chủng Vũ Trụ.
Tứ Pháp Tam Nguyện:
Bốn pháp và ba nguyện—The four dharmas and three vows:
(A)
Tứ Pháp: The four dharmas—See Tứ Pháp.
(B)
Tam Nguyện:
1)
Nguyện thứ 17 trong 48 lời Nguyện của Phật A Di Đà—See Tứ Thập
Bát Nguyện (17).
2)
See Tứ Thập Bát Nguyện (18).
3)
See Tứ Thập Bát Nguyện (11).
Tứ Pháp Thí:
Món quà của Phật về tứ pháp—The Buddha’s gift of the four laws or
dogmas:
1)
Chư Pháp Vô Thường: All things are impermanent.
2)
Chư Thọ Thị Khổ: All sentient beings existence is suffering.
3)
Chư Pháp Vô Ngă: There is no essential personality.
4)
Không: Tất cả vật chất đều trở về dạng không—All form or matter
returns to the void.
Tứ Pháp Thọ:
Four ways of undertaking Dhamma—Theo Kinh Phúng Tụng trong Trường Bộ
Kinh, có bốn Pháp Thọ—According to the Sangiti Sutta in the Long
Discourses of the Buddha, there are four ways of undertaking Dhamma:
1)
Có Pháp thọ, hiện tại khổ và tương lai quả báo khổ:
Dukkha-vipakam (p)—There is the way that is painful in the present and
brings painful future results.
2)
Có Pháp Thọ, hiện tại khổ và tương lai quả báo lạc: Sukha-vipakam
(p)—There is the way that is painful in the present and brings pleasant
future results.
3)
Có Pháp Thọ, hiện tại lạc và tương lai quả báo khổ: There is the
way that is pleasant in the present and brings painful future results.
4)
Có Pháp Thọ, hiện tại lạc và tương lai quả báo lạc: There is the
way that is pleasant in the present and brings pleasant future results.
Tứ Pháp Túc:
Four ways of Dhamma—Theo Kinh Phúng Tụng trong Trường Bộ Kinh, có bốn
pháp túc—According to the Sangiti Sutta in the Long Discourses of the
Buddha, there are four ways of Dhamma:
1)
Vô Tham Pháp Túc: Way of Dhamma without hankering.
2)
Vô Sân Pháp Túc: Way of Dhamma without enmity.
3)
Chánh Niệm Pháp Túc: Way of Dhamma with right mindfulness.
4)
Chánh Định Pháp Túc: Way of Dhamma with right concentration.
Tứ Pháp Uẩn:
Four divisions of Dhamma—Theo Kinh Phúng Tụng trong Trường Bộ Kinh, có
bốn pháp uẩn—According to the Sangiti Sutta in the Long Discourses of
the Buddha, there are four divisions of Dhamma:
1)
Giới Uẩn: Morality.
2)
Định Uẩn: Concentration.
3)
Công Đức Uẩn: Merit.
4)
Giải Thoát Uẩn: Liberation.
Tứ Phần: Pháp
Tướng Tông chia dụng của tâm vương và tâm sở của tám thức ra làm bốn
phần—The Dharmalaksana school divides the function of cognition into
four parts:
1)
Tướng Phần: Cảnh sở hiện trong tâm (tướng mạo nổi lên khi tâm
khởi)—Mental phenomena.
2)
Kiến Phần: Khả năng phân biệt cảnh sở hiện ra trong tâm hay tướng
phần—Discriminating such phenomena.
3)
Tự Chứng Phần: Lực tạo ra khả năng phân biệt—The power that
discriminates.
4)
Chứng Tự Chứng Phần: Bằng chứng hay sự bảo đảm cho lực tạo ra khả
năng phân biệt cảnh sở trong tâm—The proof or assurance of that power.
Tứ Phần Gia:
Pháp Tướng Tông chia Thức Tâm ra làm bốn phần—The Dharmalaksana divides
the cognition-mind into four parts—See Tứ Phần.
Tứ Phần Luật:
Four-division Vinaya of the Dharmagupta school (Trường Phái của Ngài Đàm
Vô Đức)—See Luật Tứ Phần.
Tứ Phần Pháp Tướng:
Four functions of cognition:
(A)
1)
Tướng phần: Mental phenomena.
2)
Kiến phần: Discriminating such phenomena.
3)
Tự chứng phần: The power that discriminates.
4)
Chứng tự chứng phần: The proof or assurance of that power.
** For more
information, please see Tứ Phần.
(B)
1)
Tín: Faith.
2)
Hành: Action.
3)
Giải: Liberty.
4)
Chứng: Assurance or realization.
Tứ Phần Tăng Giới:
See Tứ Phần Tăng Giới Bổn.
Tứ Phần Tăng Giới
Bổn: Những giới luật rút ra từ Tứ Phần Luật kèm theo kệ văn, được
đọc lên trong ngày tụng giới—Commandments extract from the four-division
Vinaya with verses, for uses on days when the discipline is recited--See
Luật Tứ Phần.
Tứ Phần Tâm Pháp:
Four parts of function of cognition—See Tứ Phần, and Tứ Phần Pháp Tướng.
Tứ Phần Thức:
See Bốn Phần Của Thức.
Tứ Phần Tông:
See Luật Tông.
Tứ Phật: Bốn
Phật ở bốn phương—Four of the five Dhyani-Buddhas—The four regional
Buddhas:
1)
Đông Phương A Sấm Phật: Aksobya in the East.
2)
Nam Phương Bảo Tướng Phật: Ratnaketu Buddha in the South.
3)
Tây Phương Vô Lượng Thọ Phật: Amitabha Buddha in the West.
4)
Bắc Phương Vi Diệu Thanh Phật: Amoghasiddhi or Sakyamuni Buddha
in the North.
Tứ Phật Độ: The
four Buddha-ksetra or realms—See Tứ Độ.
Tứ Phật Tri Kiến:
Theo Kinh Pháp Hoa, có bốn Tri Kiến Phật—According to the Lotus Sutra,
there are four purposes of the Buddha’s appearing, that the Buddha’s
knowledge might be:
1)
Khai: Revealed—Khai Phật tri kiến—Opening the knowledge and
vision of the Buddha.
2)
Thị: Proclaimed—Thị Phật tri kiến—Demonstrating the knowledge and
vision of the Buddha.
3)
Ngộ: Understood—Giác ngộ Phật tri kiến—Awakening to the knowledge
and vision of the Buddha.
4)
Nhập: Entered—Nhập Phật tri kiến—Entering into the knowledge and
vision of the Buddha.
Tứ Phi Thánh Ngôn:
Four un-Ariyan modes of speech—Theo Kinh Phúng Tụng trong Trường Bộ Kinh,
có bốn thứ không phải là lời nói của các bậc Thánh—According to the
Sangiti Sutta in the Long Discourses of the Buddha, there are four un-Ariyan
modes of speech:
(A)
1)
Vọng ngữ: Lying.
2)
Lưỡng thiệt: Slander.
3)
Ác khẩu: Abuse or rude words.
4)
Ỷ ngữ: Iddle gossip.
(B) Bốn Phi Thánh
Ngôn Khác—Four more
un-Ariyan
modes of speech:
1)
Không thấy nói thấy: Claiming to have seen known what one has not
seen.
2)
Không nghe nói nghe: Claiming to have heard, known one has not
heard.
3)
Không nghĩ nói nghĩ: Claiming to have sensed, known one has not
sensed.
4)
Không biết nói biết: Claiming to have known, known one has not
known.
(C)
Bốn Phi Thánh Ngôn Khác—Four more un-Ariyan modes of speech:
1)
Thấy nói không thấy: Claiming not to have seen, known what one
has seen.
2)
Nghe nói không nghe: Claiming not to have heard, known what one
has heard.
3)
Nghĩ nói không nghĩ: Claiming not to have sensed, known what one
has sensed.
4)
Biết nói không biết: Claiming not to have known, known what one
has known.
Tứ Phi Thường Kệ:
See Tứ Vô Thường Kệ.
Tứ Phiền Năo:
Tứ Hoặc—Bốn phiền năo gây ra bởi ngă chấp hay bốn loại căn bản phiền năo
thường xuyên tương ứng với Mạt Na Thức (thức thứ bảy)—Four delusions in
reference to the ego:
1)
Ngă Si Phiền Năo: Vô Minh—Ignorance in regard to the ego.
2)
Ngă Kiến Phiền Năo: Ngă Chấp—Holding to the ego idea.
3)
Ngă Mạn Phiền Năo: Kiêu căng ngạo mạn—Self-esteem—Egoism.
4)
Ngă Ái Phiền Năo: Ngă tham—Self-seeking or desire arising from
belief in ego.
Tứ Phước Điền:
Four fields for cultivating happiness:
1)
Thú Điền: Phước điền nơi súc sanh—To animal—The field of
felicity in animals.
2)
Khổ Điền:--Phước điền nơi người nghèo: To the poor—The field of
felicity in the poor.
3)
Ân Điền: Phước điền nơi song thân—To parents—The field of
felicity in parents.
4)
Đức Điền: Phước điền nơi các bậc hiền Thánh hay nơi việc hoằng
pháp: To the religion—The field of felicity in religion.
Tứ Phược: The
four bandhana or bonds:
(A)
1)
Tham dục: Desire.
2)
Chấp thủ: Possession or existence.
3)
Si mê: Mây mù vô minh—Ignorance—Smoke of ignorance.
4)
Tà kiến: Unenlightened views.
(B)
1)
Tham dục: Desire.
2)
Sân hận: Resentment—Dust-storms of hate.
3)
Tà giới: Heretical morality.
4)
Chấp ngă: Egoism.
(D)
Theo Kinh Phúng Tụng trong Trường Bộ Kinh, có bốn hệ phược—According
to the Sangiti Sutta in the Long Discourses of the Buddha, there are
four ties (gantha):
1)
Tham Thân Hệ Phược: Kaya-gantha (p)—The body tie of hankering (abhijjha).
2)
Sân Thân Hệ Phược: Vyapada (p)—Tie of ill-will.
3)
Giới Cấm Thủ Thân Hệ Phược: Silabbata-paramasa (p)—Attachment to
rite and ritual.
4)
Thử Thực Chấp Thân Hệ Phược: Idam-sacca-bhinivesa (p)—Dogmatic
fanaticism
Tứ Phương:
1)
H́nh vuông: A square.
2)
Four directions—The four cardinal points—The four quarters of the
compass:
a)
Đông phương, nơi Trời Đế Thích ngự trị: East, ruled by Indra.
b)
Tây phương, nơi Phạ Rô Nơa Long Vương ngự trị: West, ruled by
Varuna.
c)
Nam phương, nơi Dạ Ma Thiên ngự trị: South, ruled by Yama—See
Yama.
d)
Bắc phương, nơi ngự trị của Tỳ Sa Môn Thiên Vương: North, ruled
by Vaisramana.
3)
a)
Phương Đông Bắc, nơi Y Xá Ni ngự trị: Northeast, ruled by Isana.
b)
Phương Đông Nam, nơi Hộ Ma ngự trị: Southeast, ruled by Homa.
c)
Phương Tây Nam, nơi ngự trị của Niết Lư Để.
d)
Phương Tây Bắc, nơi ngự trị của Phạ Rô Nơa Long Vương: Northwest,
ruled by Varuna.
Tứ Phương Đại Tướng:
Bốn Đại tướng hộ pháp ở bốn phương. Mỗi đại tướng đều có 500 đồ đệ cai
quản 28 bộ quỷ thần—The four generals or guardians of the Law. Each has
500 followers and twenty-eight companies of demons and spirits:
1)
Bắc Phương Tán Chi Đại Tướng.
2)
Đông phương Lạc Dục Đại Tướng.
3)
Nam phương Đàn Đế Đại Tướng.
4)
Tây Phương Thiện Hiện Đại Tướng.
** For more
information, please see
Tứ Thiên Vương.
Tứ Phương Tứ Phật:
Bốn vị Phật ở bốn phương—The four Buddhas of the four regions:
1)
Đông phương, thế giới Hương Tích có A Súc Bệ Phật: East, the
world of abundant fragrance where reigns Aksobhya Buddha.
2)
Nam phương, Hoan Hỷ thế giới có Bảo Tướng Phật: South, the world
of pleasure where reigns Ratnaketu Buddha.
3)
Tây phương, Hoan Lạc thế giới có Vô Lượng Thọ Phật: West, the
world of restfulness or joyful comfort where reigns Amitabha Buddha.
4)
Bắc phương, Liên Hoa Trang Nghiêm thế giới có Vi Diệu Thanh Phật
hay Thích Ca Mâu Ni Phật: North, the world of Lotus Adornment where
reigns Amoghasiddhi Buddha or Sakyamuni.
Tứ Quả: See Tứ
Thánh quả in Vietnamese-English Section.
Tứ Quả Danh Hiệu Sa
Môn: Bốn danh hiệu ám chỉ bốn bực sa môn—The four titles applied to
four grades of sramanas:
1)
Hoàng Lam Hoa Sa Môn: Bậc Thánh giả của quả Tu Đà Hoàn—Yellow and
Blue Flower Sramanas.
2)
Phân Đà Lợi Hoa Sa Môn: Bậc Thánh giả của quả Tư Đà Hàm—Lotus
Sramanas.
3)
Nhu Nhuyễn Sa Môn: Bậc Thánh giả của quả A Na Hàm—Meek Sramanas.
4)
Nhu Nhuyễn Trung Nhu Nhuyễn Sa Môn: Bậc Thánh giả của quả A La
Hán—Ultra Meek Sramanas.
** For more
information, please see Tứ
Thánh Quả.
Tứ Quí: Bốn mùa—The
four seasons:
1)
Xuân: Spring.
2)
Hạ: Summer.
3)
Thu: Autumn (Fall).
4)
Đông: Winter.
Tứ Sa Môn Quả:
Four fruits of the ascetic life—See Tứ Thánh Quả.
Tứ Sanh: Chatur-Yoni
(skt)—Theo Kinh Phúng Tụng trong Trường Bộ Kinh, có bốn loại tái sanh có
thể có đối với những sanh linh trong sáu đường (tất cả chúng sanh đều
được sanh ra dưới bốn h́nh thức để đi vào trong lục lục đạo luân hồi)—According
to the Sangiti Sutta in the Long Discourses of the Buddha, there are
four forms of birth by which the beings of the six modes of existence
can be reborn (all births take place in four forms and in each case
causing a sentient being to enter one of the six gati or paths of
transmigration):
1)
Thai Sanh: Jarayuja (skt)—Loài sanh từ bào thai, như loài có vú,
loài người, trâu ḅ, cọp beo, vân vân (phúc sanh như loài người ở trong
thai mẹ thành thể rồi sau mới sanh ra)—Womb-born or Birth from the
womb—Viviparous, as is the case with mammals, people, cows, tigers,
etc.
2)
Noản Sanh: Andaja (skt)—Loài sanh từ trứng, như loài chim; loài
nầy ở trong trứng tạo thành h́nh thể, đúng ngày th́ trứng vỡ ra, như
loài gà vịt, chim, ngỗng, vân vân—Egg-born, or birth from eggs—Oviparious,
as is the case with chicken, goose, birds, etc.
3)
Thấp Sanh: Samsvedaja (skt)—Loài sanh từ nơi ẩm thấp, như côn
trùng dựa vào chỗ ẩm thấp mà sanh ra; loài nầy do sức nóng lạnh ḥa hiệp
mà sanh ra, ở chỗ ẩm thấp, nương theo chất ướt mà thọ h́nh sanh thể như
các loài côn trùng, bướm, sâu bọ, cá, tôm, vân vân—Moist and Wet
Conditions Born or, spawn-born, or birth from moisture
(wetness)—Moisture or water-born, as is the case with worms, fishes,
shrimps, etc.
4)
Hóa Sanh: Anpapaduka (skt)—Opapatika-yoni (p)—Không nương tựa vào
đâu, không nương theo chủng tộc, cũng chẳng nhờ nhân duyên của cha mẹ,
mà chỉ dựa vào nghiệp lực mà khởi sanh như loài ṿi hóa thành ruồi, bướm
bởi sâu mà hóa sanh ra, hay chúng sanh trong chư thiên, địa ngục và sơ
kiếp chúng sanh. Người ta nói những chúng sanh nầy, ngay khi chấm dứt
đời trước th́ lập tức hóa thân tùy theo nghiệp lực, chứ không nhờ sự trợ
giúp của cha mẹ hay bất cứ tác nhân nào khác—Born (birth) by
transformation, or spontaneous rebirth. Metamorphosis, as is the case
with maggot transforms into fly, moths from the chrysalis, caterpillar
becomes butterfly, or deities and superior beings of the Pure Land. It
is said that such beings, after the end of their previous lifetime,
suddenly appear in this fashion due to their karma, without the help of
parents or any other intermediary agency.
Tứ Sanh Bách Kiếp:
Chỉ người tu theo Duyên Giác Thừa, nhanh nhất cũng phải bốn đời mới được
đạo quả (Vốn Liếng Thanh Văn, Gia Hành Thanh Văn, Vốn Liếng Duyên Giác,
Nhập Kiến Đạo), c̣n chậm nhất th́ phải trải qua trăm kiếp tu hành mới
được đạo quả—Bốn đời trăm kiếp—A pratyeka-buddha method of obtaining
release, by intensive effort, at the shortest in four rebirts, at the
longest in a hundred kalpas.
Tứ Sanh Lục Thú:
Tứ sanh lục đạo—The four forms of birth and the six forms of
transmigrations:
(A)
Four forms of birth—See Tứ sanh in Vietnamese-English Section.
(B)
Six forms of transmigrations—See Lục Đạo in Vietnamese-English
Section.
Tứ Sơn:
(A)
Bốn núi theo Kinh Niết Bàn—According to the Nirvana Sutra, there
are four closing-in mountains:
1)
Sanh: Birth.
2)
Lăo: Old age.
3)
Bệnh: Sickness.
4)
Tử: Death.
(B)
Bốn núi theo Kinh A Hàm—Four closing-in mountains, according to
the Agama Sutra:
1)
Lăo: Old age.
2)
Bệnh: Sickness.
3)
Tử: Death.
4)
Hoại Diệt: Decay.
(C)
Bốn núi theo Kinh Tăng Nhất A Hàm—Four closing-in mountains,
according to the Ekottaragama (Agama Sutra Increased by One):
1)
Lăo: Old age.
2)
Bệnh: Sickness.
3)
Tử: Death.
4)
Vô Thường: Impermanence.
Tứ Sự: Bốn điều
cần thiết cho Tăng sĩ—The four necessaries of a monk:
1)
Ăn: Thức ăn—Food.
2)
Mặc: Quần áo—Clothing.
3)
Ở: Ngọa cụ—Bedding—Dwelling—Mat—Couch—Bed—Sleeping garments.
4)
Bịnh: Thuốc men—Medicine—Herbs.
Tứ Sự Cúng Dường:
Bố thứ đồ cúng dường cho một vị Tăng—The four offerings or provisions
for a monk—See Tứ Sự.
Tứ Sự Cúng Dường
Thanh Tịnh: Dakkhina-visuddhiyo (p)—Fours purifications of
offerings—Theo Kinh Phúng Tụng trong Trường Bộ Kinh, có bốn sự cúng
dường thanh tịnh—According to the Sangiti Sutta in the Long Discourses
of the Buddha, there are four purifications of offerings:
1)
Có sự cúng dường, người cúng dường thanh tịnh, nhưng người nhận
cúng dường lại không thanh tịnh: There is the offering purified by the
giver, but not by the recipient.
2)
Có sự cúng dường, người nhận cúng dường thanh tịnh, nhưng người
cúng dường lại không thanh tịnh: There is an offering purified by the
recipient, but not by the giver.
3)
Có sự cúng dường, cả người cúng dường và người nhận cúng dường
đều không thanh tịnh: There is an offering not purified by both the
giver and the recipient.
4)
Có sự cúng dường, cả người cúng dường và người nhận đều thanh
tịnh: There is an offering purified by both the giver and the recipient.
Tứ Sự Kinh:
Kinh nói về bốn phương pháp chuẩn bị của Bồ Tát—The Sutra of the Four
Methods of a bodhisattva’s preparation:
1)
Giảng kinh pháp: Preaching the Law.
2)
Vào giới: Into complete moral self-control.
3)
Vào định: Entry into meditation.
4)
Vào huệ cũng như có những lư luận sáng suốt: Into wisdom and into
clear discernment or clear reasoning.
Tứ Sự Pháp Môn:
Gần giống như Tứ Sự Kinh, Tứ Sự Pháp Môn là bốn cách chuẩn bị của Bồ Tát
trước khi giảng kinh—Almost the same as the four methods of a
bodhisattva’s preparation, the four methods of a bodhisattva’s
preparation for preaching the Law:
1)
Vào thiền: Entry into meditation.
2)
Vào huệ: Entry into wisdom.
3)
Vào giới tự chế: Entry into complete moral self-control.
4)
Nhận thức sáng suốt: Entry into clear discernment or reasoning (Biện
tài).
Tứ Tà: See Tứ
Chấp.
Tứ Tà Kiến: Bốn
loại tà kiến—Four Inverted (wrong) views:
1)
Vô thường mà cho là thường hằng: Considering what is really
impermanence to be permanence.
2)
Khổ mà cho là lạc: Considering what is really suffering to be
joy.
3)
Vô ngă mà cho là tự ngă: Considering what is not self to be a
self.
4)
Bất tịnh mà cho là tịnh: Considering what is impure to be pure.
Tứ Tà Mệnh: See
Tứ Chủng Tà Mệnh.
Tứ Tán:
Scattered in different directions.
Tứ Táng: Bốn
loại tống táng ma chay—Four kinds of burial:
1)
Thủy Táng: Ném xác chết xuống nước—Water-burial or casting a
corpse into the water—See Thủy Táng.
2)
Hỏa Táng: Jhapita (skt)—Cremation or Fire-burial—See Hỏa Táng.
3)
Địa Táng: Ground-burial.
4)
Lâm Táng: Mai táng trong rừng, bằng cách đem ném thi thể người
chết vào rừng cho thú ăn thịt—Forest burial—Buried in the forest—To cast
the corpse into a forest to be eaten by animals.
Tứ Tạng: Bốn
Tạng kinh điển—The fourfold canon.
1-3) From one to
three, see Tam Tạng.
4) Tạp Tạng:
Miscellaneous collection.
Tứ Tánh: Bốn
chủng tánh hay bốn gia cấp xă hội Ấn Độ—The four Indian classes, castes
or clans, which are born respectively from the mouth, shoulders, flanks,
and feet of Brahma:
1)
Bà La Môn: Hạng tu tịnh hạnh (hoặc xuất hoặc tại gia), sanh từ
miệng của Phạm Thiên Vương—Brahmana—Priestly, born from the mouth of
Brahma.
2)
Sát Đế Lợi: Ḍng dơi vua chúa, sanh từ vai của Phạm Thiên Vương,
đời đời cha truyền con nối cai trị đất nước—Ksatriya (skt)—Military and
ruling, born from the shoulders of Brahma.
3)
Phệ xá (Tỳ xá): Tầng lớp thương nhân, sanh từ hông sườn của Phạm
Thiên Vương—Vaisya (skt)—Traders, born from the flanks of Brahma.
4)
Thủ Đà la: Nông dân và nô lệ, sanh từ chân của Phạm Thiên Vương—Sudra
(skt)—Serfs—Farmers, born from the feet of Brahma.
Tứ Tánh Hạnh:
Bốn tánh hạnh của một vị Bồ tát—The four kinds of conduct natural to a
bodhisattva:
1)
Tự tánh hạnh: Bồ Tát vốn dĩ hiền lành, hiếu kính cha mẹ, kính tín
sa môn đủ mười điều thiện—Conduct arises from his native goodness.
2)
Nguyện tánh hạnh: Bồ Tát thuận theo sáu Ba La Mật mà tu hành—His
vow-nature is in accordance with the six paramitas.
3)
Thuận tánh hạnh: Bồ Tát thuận tánh tu hành—Bodhisattva’s
compliant nature.
4)
Chuyển tánh hạnh: Nhờ công hạnh tu hành mà chuyển phàm thành
Thánh—Bodhisattva’s transforming nature (powers of conversion or
salvation).
Tứ Tâm: Bốn tâm—Four
minds
1) The heart of
kindness: Tâm từ.
1)
The heart of pity: Tâm bi.
2)
The heart of joy: Tâm hỷ.
3)
The heart of indifference: Tâm xả.
** For more
information, please see Tứ Vô
Lượng Tâm.
Tứ Tầm Tư Quán:
Bốn pháp tầm tư quán của Pháp Tướng Tông—Four contemplations of the
Dharmalaksana:
1)
Danh: Danh của sắc—The terms used.
2)
Nghĩa: Dựa vào danh mà nói rơ cái thể của sắc—The meaning of the
things or phenomena.
3)
Tự tính: Thể tính tự thân của chư pháp—The nature of the things.
4)
Sai biệt: Chủng loại khác nhau trong thể (của người khác với của
chư thiên)—Their differentiation.
Tứ Tất Đàn: Bốn
loại thành tựu—The four kinds of siddhanta:
1)
Thế Giới Tất Đàn: Mundane or ordinary modes of expression.
2)
Cá Vị Nhơn Tất Đàn: Individual treatment, adapting his teaching
to the capacity of his hearers.
3)
Đối Trị Tất Đàn: Diagnostic treatment of their moral diseases.
4)
Đệ Nhứt Nghĩa Tất Đàn: Giảng thuyết về lư nhứt thực trung đạo,
khiến cho chúng sanh dứt bỏ mê hoặc, chứng ngộ chân lư. Đây c̣n là tài
khéo thuyết giảng của Đức Phật—The perfect and highest truth, the
highest universal gift of Buddha, his teaching which awakens the highest
capacity in all beings to attain salvation.
Tứ Thánh:
(A)
Bốn Thánh—Four saints—The four sagely Dharma Realms—Four kinds of
holy men:
1)
Thanh Văn: Những vị tu tập Tứ Diệu Đế, đệ tử trực tiếp của Phật—Hearers—Sound
Hearers. A direct disciple of the Buddha.
2)
Duyên Giác: Pratyeka buddhas—Một vị thành Phật nhờ tu tập 12 nhân
duyên; hay một vị Phật tự giác ngộ, chứ không giảng dạy kẻ khác—Individual
Illuminates—Independently awakened—Those enlightened to conditions; a
Buddha for himself, not teaching others.
3)
Bồ Tát: Bodhisattvas (skt)—Một người giác ngộ hay một vị Phật
tương lai—Enlightened Beings—A person who has the state of bodhi, or a
would-be-Buddha.
4)
Phật: Buddhas—Người đă đắc vô thượng chánh đẳng chánh giác—Người
chuyển Pháp luân. Một vị Phật không ở trong ṿng mười cơi thế gian nầy,
nhưng Ngài thị hiện giữa loài người để giảng dạy giáo lư của ḿnh nên
một phần Ngài được kể trong Tứ Thánh—One who has attained the supreme
right and balanced state of bodhi—One who turns the wonderful
Dharma-wheel. A Buddha is not inside the circle of ten realms, but as he
advents among men to preach his doctrine he is now partially included in
the “Four Saints.”
** For more
information, please see Tứ
Thánh Quả (B)
in Vietnamese-English
Section.
(B)
Bốn vị đại đệ tử của Ngài Cưu Ma La Thập—Four chief disciples of
Kumarajiva:
1)
Đạo Sinh: Tao-Shêng.
2)
Tăng Triệu: Sêng-Chao.
3)
Đạo Dung: Tao-Jung.
4)
Tăng Duệ: Sêng-Jui.
(C)
1)
Phật A Di Đà: Amitabha Buddha.
2)
Quán Thế Âm Bồ tát: Đứng bên trái của Phật A Di Đà—Avalokitesvara—Kuan-Yin,
standing on the left side of Amitabha Buddha.
3)
Đại Thế Chí Bồ Tát: Tiêu biểu cho trí tuệ của Phật A Di Đà, đứng
bên phải của Phật A Di Đà—Mahasthamaprapta, representing the
Buddha-wisdom of Amitabha, he is standing on the right sight of Amitabha.
4)
Đại Hải Chúng Bồ tát: The Bodhisattva of the Great Congregation.
Tứ Thánh Chủng:
See Tứ Thánh Hành and Tứ Y (A).
Tứ Thánh Đế: Tứ
Diệu đế—The four Noble Truths
1)
Khổ Thánh Đế: Khổ là chuyện không tránh khỏi của chúng sanh—Duhkha-Aryasat
(skt)—Suffering is the lot of the six states of existence—Misery is a
necessary attribute of sentient beings.
2)
Tập Thánh Đế: Nguyên nhân chánh gây ra đau khổ chất chồng là dục
vọng—Samudya (skt)—The aggregation of suffering by reason of the
passions—The accumulation of misery is caused by the passions (customs
and habits that lead to sufferings).
3)
Diệt Thánh Đế: Triệt tiêu dục vọng và những hệ quả của nó để chấm
dứt đau khổ—Nirodha (skt)—The extinction (cessation) of desire and its
consequences, and the leaving of the suffering—The extinction of passion
is possible.
4)
Đạo Thánh Đế: Con đường diệt khổ là con đường chấm dứt dục vọng—Marga
(skt)—The way to end all sufferings—Marga is the way that procures
cessation—The doctrine of the path that leads to the extinction of
passion.
Tứ Thánh Hành:
Ariya-vamsa (p)—Tứ Thánh Chủng—Tứ Y—Tứ Lương Dược—Theo Kinh Phúng Tụng
trong Trường Bộ Kinh, có bốn Thánh chủng—According to the Sangiti Sutta
in the Long Discourses of the Buddha, there are fhe four holy ways:
1)
Bằng ḷng mặc đồ bá nạp từ vải rách: Ở đây vị Tỳ Kheo tự bằng
ḷng với bất cứ loại y nào, tán thán sự bằng ḷng với bất cứ loại y nào,
không cố ư t́m cầu y một cách không xứng đáng, không buồn áo năo nếu
không được y; nhưng khi được y vị nầy không nhiễm trước, không say mê,
không có phạm tội, vị nầy dùng y, thấy các nguy hiểm và biết rơ sự giải
thoát. V́ tự bằng ḷng với bất cứ loại y nào nên vị ấy không khen ḿnh
chê người. Ở đây vị nầy khéo léo, tinh cần, tỉnh giác, chánh niệm. Vị Tỳ
Kheo nầy được gọi là một vị đă trung thành với Thánh chủng theo truyền
thống nguyên thủy quá khứ—Wearing rags from dust-heaps—Here a monk is
content with any old robe, praises such contentment, and does not try to
obtain robes improperly or unsuitably. He does not worry if he does not
get a robe, and if he does, he is not full of greedy, blind desire, but
makes use of it, aware of such dangers and wisely aware of its true
purpose. Nor is he conceited about being thus content with any old robe,
and he does not disparage others. And one who is thus skilful, not lax,
clearly aware and mindful, is known as a monk who is true to the
ancient, original Ariyan lineage.
2)
Bằng ḷng với đồ khất thực nhận được: A monk is content with any
alms-food he may get (similar as in 1).
3)
Bằng ḷng ngồi dưới gốc cây hay một pḥng xá cũ kỹ: A monk is
content with any old lodging-place or sitting under trees (similar as in
1).
4)
Hoàn toàn buông bỏ thế sự: Entire withdrawal from the world or
fond of abandoning (similar as in 1).
** For more
information, please see Tứ Y (A).
Tứ Thánh Ngôn:
Four Ariyan modes of speech—Theo Kinh Phúng Tụng trong trường Bộ Kinh,
có bốn Thánh ngôn—According to the Sangiti Sutta in the Long Discourses
of the Buddha, there are four Ariyan modes of speech:
(A)
1)
Ly vọng ngữ: Retraining from lying.
2)
Ly lưỡng thiệt: Refraining from slandering.
3)
Ly ác khẩu: Refraining from abusing or using rude words.
4)
Ly ỷ ngữ: Refraining from iddle gossip.
(B) Bốn Thánh Ngôn
Khác—There are four
more Ariyan
modes of speech:
1)
Không thấy nói không thấy: Stating that one has not seen, known
what one has not seen.
2)
Không nghe nói không nghe: Stating that one has not heard, known
what one has not heard.
3)
Không nghĩ nói không nghĩ: Stating that one has not sensed, known
what one has not sensed.
4)
Không biết nói không biết: Stating that one has not known, known
what one has not known.
(C)
Bốn Thánh Ngôn Khác—Four more Ariyan modes of speech:
1)
Thấy nói thấy: Stating that one has seen, known what one has
seen.
2)
Nghe nói nghe: Stating that one has heard, known what one has
heard.
3)
Nghĩ nói nghĩ: Stating that one has sensed, known what one has
sensed.
4)
Biết nói biết: Stating that one has known, known what one has
known.
Tứ Thánh Quả:
Phala (skt).
(A)
Bốn quả vị Thánh trong Phật giáo Đại thừa—The four kinds of holy
men in Mahayana:
1)
Thanh Văn: Sravakas.
2)
Duyên Giác: Pratyeka-buddhas.
3)
Bồ Tát: Bodhisattvas.
4)
Phật: Buddhas.
(B) Bốn quả vị Thánh
của Thanh Văn trong
Phật giáo Tiểu thừa hay Tứ Quả Sa Môn—The four rewards—Four
degrees of saintliness:
a)
Ba Bậc Hữu Học—Three stages requiring study:
1)
Tu Đà Hoàn: Srota-apanna (skt)—Sotapatti (p)—Dự lưu—Nhập Lưu—Nghịch
Lưu—Quả vị Dự Lưu đầu tiên—Hành giả đang trong tư thế thấy được Đạo.
Người ấy vẫn c̣n phải bảy lần sanh tử nữa—The Path of Stream-Entry—The
fruit of Stream-entry—Stream-enterer—The first fruit of “Stream
Winner”—One who has entered the stream—The position of the way of
seeing. He still has to undergo seven instances of birth and death.
2)
Tư Đà Hàm: Sakrdagamin (skt)—Sakadagami (p)—Once-return—Nhứt Lai—Quả
vị thứ nh́ “Nhất Lai”—Hành giả đang trong tư thế tu Đạo. Người ấy vẫn
c̣n phải sanh thiên một lần hay một lần nữa trở lại trong cơi người—The
Path of Once-returner—The second fruit of “Once-Returner”—The state of
returning only once again, or once more to arrive, or be born—One who is
still subject to “One-return.”—The position of the way of cultivation.
He still has to undergo “one birth” in the heavens or “once return”
among people. The second grade of arahatship involving only one rebirth.
3)
A Na Hàm: Anagami (skt & p)—Non-return—Bất Lai—Quả vị thứ ba “Bất
Lai”—Hành giả cũng đang trong tư thế tu Đạo. Người ấy không c̣n trở lại
sinh tử trong cơi Dục giới nữa—The Path of Non-Returner—The third fruit
of “Never returned”—The state which is not subject to return—One who is
not subject to returning—The position of the Way of Cultivation. He no
longer has to undergo birth and death in the Desire realm.
b)
Quả Vị Thứ Tư là Quả Vị Vô Học—The fourth stage is no longer
learning:
4)
A La Hán: Arahant (skt)—Arahatta (p)—Ứng Cúng—Bất Sanh—Giai đoạn
thứ tư và cũng là giai đoạn cuối cùng trong Thánh quả (Ứng Cúng) trong
đó mọi triền phược nhiễm cấu đều bị nhổ tận gốc—Hành giả trong giai đoạn
nầy không c̣n cần phải “học” hay “thực tập” nữa. Người ấy không c̣n phải
sanh tử nữa. A La Hán là vị đă đạt được cứu cánh tối thượng của dời sống
Phật giáo—The Path of Arahantship—The fourth and final stage of
sainthood (Worthy of offerings) in which all fetters and hindrances are
severed and taints rooted out—The position of the Way of Cultivation
without need of study and practice. He no longer has to undergo birth
and death. Arahant is he who has attained the highest end of the
Buddhist life.
(B)
Tứ Thánh Quả Tiểu Thừa theo quan niệm của Tịnh Độ Tông của Ấn
Quang Đại Sư—The four degrees of Hinayanist saintliness considered by
the Pure Land’s aspects from the Great Master Yin-Kuang:
1)
Sơ Quả Tu Đà Hoàn—The first fruit of Srotapanna Enlightenment: Sự
thấy biết rơ ràng của các bậc nầy giới hạn trong phạm vi của một tiểu
thế giới, gồm chúng sanh trong lục đạo, bốn đại châu, núi Tu Di, sáu cơi
trời dục giới, và một cơi sơ Thiền—The clear perception and knowledge of
the enlightened beings at this level is limited to a World System,
which includes the six unwholesome paths, four great continents, Sumeru
Mountain, six Heavens of Desires, First Dhyana Heaven.
2)
Nhị Quả Tư Đà Hàm—The second fruit of Sakadagami Enlightenment:
Sự thấy biết của các bậc nầy giới hạn trong một tiểu thiên thế giới, gồm
1000 tiểu thế giới—The perception and knowledge of these beings are
limited to a Small World System, consisting of 1,000 World Systems.
3)
Tam Quả A Na Hàm—The third fruit of Anagami Enlightenment: Sự
thấy biết của các bậc nầy bao hàm trong một trung thiên thế giới, gồm
một ngàn tiểu thiên thế giới—The perception and knowledge of these
beings include a Medium World System, consisting of 1,000 Small World
Systems.
4)
Tứ Quả A La Hán—The fourth fruit of Arahat Enlightenment: Sự thấy
biết của các bậc nầy gồm thâu một Đại Thiên Thế Giới, tức gồm một ngàn
trung thiên thế giới, 84.000 kiếp về trước và 84.000 kiếp về sau. Quá
nữa th́ không hiểu thấu—The perception and knowledge of these beings
encompass a Great World System, consisting of 1,000 Medium World Systems
or one billion World Systems. They are able to know clearly and
perfectly 84,000 kalpas in the past and 84,000 kalpas into the future.
Beyond that, they cannot fully perceive.
Tứ Tháp: Bốn
tháp thiêng—The four sacred stupas:
(A)
Tứ Tháp Thiên Trúc—The four stupas in India:
1)
Tháp Phật Đản sanh trong thành Ca Tỳ La Vệ: The stupa at the
place of Buddha’s birth in Kapilavastu.
2)
Tháp Phật Thành Đạo ở Ma Kiệt Đà: The stupa at the place of
Buddha’s enlightenment in Magadha.
3)
Tháp Phật Chuyển Pháp Luân ở Ba La Nại: The stupa at the place of
Buddha’s first preaching in Benares.
4)
Tháp Phật Nhập Niết Bàn trong thành Câu Thi Na: The stupa at the
place of Buddha’s parinirvana in Kusinagara.
(B)
Tứ Tháp nơi Cung Trời Đao Lợi—The four stupas which located in
the heavens of the Trayastrimsas gods:
1)
Tháp Thờ Tóc ở phương Đông: The stupa for his hair in the east.
2)
Tháp Thờ Móng ở phương Nam: The stupa for his nails in the South.
3)
Tháp Thờ Bát ở phương Tây: The stupa for his begging bowl in the
West.
4)
Tháp Thờ Răng ở phương Bắc: The stupa for his teeth in the North.
Tứ Thắng Xứ:
Four kinds of resolve—See Tứ Nguyện.
Tứ Thặng: Four
vehicles.
(I)
Trong Kinh Pháp Hoa, Phật có nói đến bốn cổ xe—The four vehicles
which the Buddha mentioned in the Lotus Sutra:
1)
Xe Dê: The goat cart.
2)
Xe Hưu: The deer cart.
3)
Xe Trâu: The Ox cart.
4)
Đại Bạch Ngưu: Great White Bullock cart.
(II) Theo Kinh Pháp Bảo Đàn, Phẩm thứ Bảy—According to the Dharma Jewel
Platform Sutra, Chapter Seventh:
·
Một hôm Sư Trí Thường hỏi Tổ rằng: “Phật nói pháp ba thừa,
lại nói Tối thượng thừa, đệ tử chưa hiểu, mong ngài chỉ dạy.”—One day
Chih-Ch’ang asked the Master, “The Buddha taught the dharma of the three
vehicles and also the Supreme Vehicle. Your disciple has not yet
understood that and would like to be instructed.”
·
Tổ bảo: “Ông xem nơi bản tâm ḿnh, chớ có chấp tướng bên
ngoài. Pháp không có bốn thừa, tâm người tự có những sai biệt.”—The
Master said, “Contemplate only your own original mind and do not be
attached to the marks of external dharmas. The Dharma doesn’t have four
vehicles; it is people’s minds that differ.”
·
Tổ nói thêm: “Thừa là nghĩa hành, không phải ở miệng tranh,
ông phải tự tu chớ có hỏi tôi, trong tất cả thời, tự tánh tự như.”—The
Master added: “Vehicles are methods of practice, not subjects for
debate. Cultivate on your own and do not ask me, for at all times your
own self-nature is itself ‘thus.”
1) Tiểu Thừa: Thấy nghe tụng đọc ấy là Tiểu thừa—Cultivating by
seeing, hearing, and reciting is the small vehicle.
2) Trung Thừa: Ngộ pháp hiểu nghĩa ấy là Trung thừa—Cultivating by
awakening to the Dharma and understanding the meaning is the middle
vehicle.
3)
Đại Thừa: Y pháp tu hành ấy là Đại thừa—Cultivating in accord
with Dharma is the great vehicle.
4)
Tối Thượng Thừa: Muôn pháp trọn thông, muôn pháp đầy đủ, tất cả
không nhiễm, ĺa các pháp tướng, một cũng không được gọi là Tối thượng
thừa—To penetrate the ten thousand dharmas entirely and completely while
remaining without defilement, and to sever attachment to the marks of
all the dharmas with nothing whatsoever gained in return: that is the
Supreme Vehicle.
** For more information, please see Tứ Xa.
Tứ Thân Cận:
Bốn vị Bồ Tát hộ tŕ bốn Phật ở bốn phương trong năm Phật của Kim Cang
Giới—The four Bodhisattvas associated with the five dhyani-buddhas in
the Vajradhatu.
Tứ Thân: Bốn
thân Phật—The four kayas or bodies:
(A)
Theo Kinh Lăng Già—According to the Lankavatara Sutra:
1)
Hóa Phật: Nirmakaya—Pháp thân.
2)
Công Đức Phật: Sambhogakaya—Báo thân.
3)
Trí huệ Phật: Sambhogakaya—Báo thân.
4)
Như như Phật: Dharmakaya—Hóa thân.
(B)
Theo Duy Thức Luận—According to the sastra on the Consciousness:
1)
Tự Tính Thân: Pháp Thân—Nirmakaya.
2)
Tha Thụ Dụng Thân: Báo Thân—Sambhogakaya.
3)
Tự Thụ Dụng Thân: Báo Thân—Sambhogakaya.
4)
Biến Hóa Thân: Hóa Thân—Dharmakaya.
(C)
Theo tông Thiên Thai—According to the T’ien-T’ai Sect:
1)
Pháp Thân: Nirmakaya.
2)
Báo Thân: Sambhogakaya.
3)
Ứng Thân: Sambhogakaya.
4)
Hóa Thân: Dharmakaya.
Tứ Thần Túc:
Rddhipada (skt)—Bốn thần túc—The four steps to supernatural powers (or
making the body independent of ordinary or natural law)—See Tứ Như Ư Túc
in Vietnamese-English Section.
Tứ Thập:
Catvarimsat (skt)—Forty.
Tứ Thập Bát Nguyện:
(A)
Lịch sử và đại cương của 48 lời nguyện—History and overview of
the forty-eight vows:
a)
Bốn mươi tám lời nguyện của Phật A Di Đà trong Kinh Vô Lượng Thọ.
Ngài đă thệ nguyện khi c̣n là Bồ Tát Pháp Tạng. Theo trường kinh A Di Đà,
Bồ Tát Pháp Tạng nguyện tạo cơi Phật nơi đó ngài sẽ ngự khi thành Phật.
Theo Kinh Vô Lượng Thọ, Đức Phật A Di Đà là tối yếu v́ sức mạnh nơi
những lời nguyện của Ngài. Sức mạnh nầy vĩ đại đến nỗi ai nhất tâm niệm
“Nam Mô A Di Đà Phật,” khi lâm chung có thể văng sanh Cực Lạc, và thành
Phật từ nơi cơi nước nầy. Chỉ cần niệm Hồng Danh Phật là được—The
forty-eight vows of Amitabha that he would not enter into his final
nirvana or heaven, unless all beings share it. The vows which Amitabha
Buddha made while still engaged in Bodhisattva practice as Bodhisattva
Dharmakara. According to Longer Amitabha Sutra, Bodhisattva Dharmakara
wished to create a splendid Buddha land in which he would live when he
attained Buddhahood. Also according to Amitabha Sutra (The Sutra of
Infinite Life), Amitabha Buddha is foremost. This is because of the
power of his vows. This power is so great that when you singlemindedly
recite “Nam Mo Amitabha Buddha,” after death you can be reborn in the
Western Pure Land, and become a Buddha from there. All you need to do is
recite the Buddha’s name.
b)
Thệ nguyện của Bồ Tát Pháp Tạng, vị Bồ Tát sắp thành Phật, hay
ngay cả Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, được biểu lộ đầy đủ bằng 48 lời nguyện,
trong đó lời nguyện thứ 12 và 13 nói về Vô Lượng Quang và Vô Lượng Thọ:
“Nếu ta không chứng được Vô Lượng Quang và Vô Lượng Thọ, ta sẽ không
thành Phật.” Khi Ngài thành Phật, Ngài có thể tạo nên cơi Phật tùy ư.
Một Đức Phật, lẽ dĩ nhiên là trụ tại “Niết Bàn Vô Trụ,” và do đó có thể
ở bất cứ nơi nào và khắp cả mọi nơi. Nguyện của Ngài là lập nên cơi Cực
Lạc cho tất cả chúng sanh mọi loài. Một quốc độ lư tưởng trang nghiêm
bằng bảo vật, có cây quư, có ao quư, để tiếp dẫn những thiện tín thuần
thành. Nguyện thứ 18 được xem là quan trọng nhất, hứa cho những ai y chỉ
hoàn toàn nơi Phật lực với trọn tấm ḷng thanh tịnh và chuyên niệm Phật
hiệu, sẽ được thác sinh về cơi Cực Lạc nầy. Nguyện thứ 19, nguyện tiếp
dẫn trước giờ lâm chung cho những ai có nhiều công đức. Nguyện thứ 20
nói rằng những ai chuyên niệm danh hiệu Ngài với ư nguyện thác sanh vào
nơi quốc độ của Ngài th́ sẽ được như ư: The vow, original to Dharmakara,
the would-be Buddha, or even to Sakyamuni Buddha himself, is fully
expressed in the forty-eight vows in the text. Vows numbered 12 and and
13 refer to the Infinite Light and the Infinite Life. “If he cannot get
such aspects of Infinite Light and Life, he will not be a Buddha.” If he
becomes a Buddha he can constitute a Buddha Land as he likes. A Buddha,
of course, lives in the ‘Nirvana of No Abode,’ and hence he can live
anywhere and everywhere. His vow is to establish the Land of Bliss for
the sake of all beings. An ideal land with adornments, ideal plants,
ideal lakes for receiving all pious aspirants. The eighteenth vow which
is regarded as most important, promises a birth in His Land of Bliss to
those who have a perfect reliance on the Buddha, believing with serene
heart and repeating the Buddha’s name. The nineteenth vow promises a
welcome by the Buddha himself on the eve of death to those who perform
meritorious deeds. The twentieth vow further indicates that anyone who
repeats his name with the object of winning a rebirth in His Land will
also be received.
(B)
Nội dung của 48 lời nguyện—Contents of the forty-eight vows:
1)
Vô Tâm Ác Thú Nguyện (nguyện không c̣n ba nẻo ác): Nếu tôi được
làm Phật, mà trong cơi nước c̣n có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, xin
chẳng giữ lấy ngôi chánh giác—I shall not attain supreme enlightenment
if there would still be the planes (realms) of hell-dwellers, hungry
ghosts, and animals in my land (When I become a Buddha, if, in my land,
there are still the planes of hell-dwellers, hungry ghosts, or animals,
I will not ultimately take up supreme enlightenment).
2)
Bất Cánh Ác Thú Nguyện (nguyện chúng sanh chẳng c̣n phải sa vào
ba nẻo ác): Nếu tôi được làm Phật, mà trời, người trong nước sau khi thọ
chung, c̣n phải trải qua ba nẻo dữ, xin chẳng giữ lấy ngôi chánh giác—I
shall not attain supreme enlightenment if any sentient beings,
especially the devas and humans from my land would fall to the three
miserable planes (realms) of existence in other lands.
3)
Tất Giai Kim Sắc Nguyện (nguyện hết thảy chúng sanh đều màu vàng
ṛng): Nếu tôi được làm Phật, mà trời, người trong nước chẳng hệch như
màu vàng y hết cả đó, xin chẳng giữ lấy ngôi chánh giác—I shall not
attain supreme enlightenment if the sentient beings, especially the
devas and humans in my land would not be endowed with a complexion of
genuine gold.
4)
Vô Hữu Hảo Xú Nguyện (nguyện không c̣n kẻ đẹp người xấu): Nếu tôi
được làm Phật, mà trời người trong nước h́nh sắc chẳng đồng, c̣n có
người đẹp kẻ xấu, xin chẳng giữ lấy ngôi chánh giác—I shall not attend
supreme enlightenment if there would be such distinctions as good and
ugly appearances among the sentient beings in my land, especially among
the devas and humans.
5)
Túc Mệnh Trí Thông Nguyện (nguyện hết thảy chúng sanh đều được
túc mệnh thông): Nếu tôi được làm Phật, mà trời, người trong nước chẳng
biết túc mạng, trở xuống chẳng biết trăm ngàn ức Na-do-tha việc các kiếp
đó, xin chẳng giữ lấy ngôi chánh giác—I shall not attain supreme
enlightenment if any sentient beings in my land, especially the devas
and humans, would fail to achieve the power to remember the past lives
of himself and others, even events that happened hundreds of thousands
of millions of billions of myriads of kalpas ago.
6)
Thiên Nhăn Trí Thông Nguyện (nguyện hết thảy chúng sanh đều được
thiên nhăn thông): Nếu tôi được làm Phật, mà trời người trong nước chẳng
được thiên nhăn, trở xuống nghe tiếng trăm ngàn ức Na-do-tha các cơi
Phật đó, xin chẳng giữ lấy ngôi chánh giác—I shall not attain supreme
enlightenment if any sentient beings in my land, especially the devas
and humans, would not be endowed with the deva-eye, enabling him to see
hundreds of thousands of millions of billions of myriads of
Buddha-lands.
7)
Thiên Nhĩ Trí Thông Nguyện (nguyện hết thảy chúng sanh đều được
thiên nhĩ thông): Nếu tôi được làm Phật, mà trời người trong nước chẳng
được thiên nhĩ, trở xuống nghe tiếng trăm ngàn ức Na-do-tha chư Phật
thuyết pháp mà chẳng thọ tŕ tất cả đó, xin chẳng giữ lấy ngôi chánh
giác—I shall not attain supreme enlightenment if any sentient beings in
my land, especially the devas and humans, would fail to obtain the deva-ear,
enabling him to hear the Dharma expounded by another Buddha hundreds of
thousands of millions of billions of myriads of leagues away.
8)
Tha Tâm Trí Thông Nguyện (nguyện hết thảy chúng sanh đều được tha
tâm thông): Nếu tôi được làm Phật, mà trời người trong nước chẳng được
thấy tha tâm trí, trở xuống chẳng biết trăm ngàn ức Na-do-tha tâm niệm
của chúng sanh trong các cơi Phật đó, xin chẳng giữ lấy ngôi chánh giác—I
shall not attain supreme enlightenment if any sentient beings in my
land, especiall the devas and humans, would not be endowed with the
power of knowing others’ minds, so that he would not know the
mentalities of the sentient beings in hundreds of thousands of millions
of billions of myriads of other Buddha-lands.
9)
Thần cảnh Trí Thông Nguyện (nguyện hết thảy chúng sanh đều được
thần túc thông): Nếu tôi được làm Phật, mà trời người trong nước chẳng
được thần túc, ở trong lối một niệm trở xuống chẳng vượt qua được trăm
ngàn ức Na-do-tha các nước Phật đó, xin chẳng giữ lấy ngôi chánh giác—I
shall not attain supreme enlightenment if any sentient beings in my
land, especially the devas and humans, would fail to achieve the perfect
mastery of the power to appear anywhere at will, so that he would not be
able to traverse hundreds of thousands of millions of billions of
myriads of Buddha-lands in a flash of thought.
10)
Tốc Đắc Lậu tận Nguyện (nguyện hết thảy chúng sanh đều chóng lậu
tận): Nếu tôi được làm Phật mà trời người trong cơi nước c̣n khởi tưởng
niệm tham, tính chuyện riêng thân ḿnh đó, xin chẳng giữ lấy ngôi chánh
giác—I shall not attain supreme enlightenment if any sentient beings in
my land, especially the devas and humas, would entertain even a single
the notion of “I” and “mine.”
11)
Trụ Chính Định Tự Nguyện (nguyện hết thảy chúng sanh đều trụ
trong chính định): Nếu tôi được làm Phật, mà trời người trong cơi nước
chẳng trụ nơi định-tụ, rồi diệt độ đó, xin chẳng giữ lấy ngôi chánh giác—I
shall not attain supreme enlightenment if any sentient beings in my
land, especially the devas and humans, would not certainly achieve
supreme enlightenment and realize great nirvana.
12)
Quang Minh Vô Lượng Nguyện (nguyện hết thảy chúng sanh đều được
vô lượng quang minh): Nếu tôi được làm Phật, mà quang minh có hạn lượng
trở xuống chẳng chiếu được trăm ngàn ức Na-do-tha các cơi Phật đó, xin
chẳng giữ lấy ngôi chánh giác—I shall not attain supreme enlightenment
if my light would be so limited as to be unable to illuminate hundreds
of thousands of millions of billions of myriads (or any number) of
Buddha-lands.
13)
Thọ Mệnh Vô Lượng Nguyện (nguyện hết thảy chúng sanh đều được vô
lượng thọ mệnh): Nếu tôi được làm Phật, mà thọ mạng có hạn lượng, trở
xuống tới trăm ngàn ức Na-do-tha Kiếp đó, xin chẳng giữ lấy ngôi chánh
giác—I shall not attaint enlightenment if my life span would be limited
to even hundreds of thousands of millions of billions of myriads of
kalpas, or any countable number of kalpas.
14)
Thanh Văn Vô Số Nguyện (nguyện có vô số chúng Thanh Văn): Nếu tôi
được làm Phật, mà bậc Thanh Văn trong cơi nước có thể đếm lường được,
cho chí chúng sanh trong tam thiên đại thiên thế giới đều thành Duyên
giác, ở trăm ngàn ức Kiếp tính đếm cọng lại biết được cái số (Thinh văn)
đó, xin chẳng giữ lấy ngôi chánh giác—I shall not attain supreme
enlightenment if anyone would be able to know number of Sravakas in my
land. Even if all sentient beings and Pratyeka-buddhas in a
billion-world universe exercised their utmost counting power to count
together for hundreds of thousands of years, they would not be able to
know it.
15)
Quyến Thuộc Trường Thọ Nguyện: Nếu tôi được làm Phật, th́ thọ
mạng của trời người trong cơi nước không hạn lượng được; trừ ra bổn
nguyện của họ dài, vắn đều được tự tại. Nếu chẳng được vậy, xin chẳng
giữ lấy ngôi chánh giác—I shall not attain supreme enlightenment if any
sentient beings in my land would have a limited life span, except those
who are born due to their vows.
16)
Vô Chư Bất Thiện Nguyện (nguyện hết thảy chúng sanh đều không có
các điều bất thiện): Nếu tôi được làm Phật, mà trời người trong cơi nước
cho đến nghe có tiếng chẳng lành đó, xin chẳng giữ lấy ngôi chánh giác—I
shall not attain supreme enlightenment if any sentient beings in my
lands, especially the devas and humans, would have a bad reputation.
17)
Chư Phật Xưng Dương Nguyện (nguyện mười phương đều được chư Phật
khen ngợi): Nếu tôi được làm Phật, mà vô lượng chư Phật ở mười phương
thế giới chẳng đều nức nở xưng danh hiệu cơi nước của tôi đó, xin chẳng
giữ lấy ngôi chánh giác—I shall not attain supreme enlightenment if my
land would not be praised and acclaimed by inumerable Buddhas in
countless Buddha-lands.
18)
Niệm Phật Văng Sanh Nguyện: Nếu tôi được làm Phật, th́ chúng sanh
mười phương chí tâm tín lạc, muốn sanh về nước tôi, cho đến mười niệm mà
chẳng sanh đó, Xin chẳng giữ lấy ngôi chánh giác. Chỉ trừ những kẻ phạm
tội ngũ nghịch và phỉ báng chánh pháp—When I realize supreme
enlightenment, there will be sentient beings in the Buddha-lands who,
after hearing my name, dictate their good roots to be born in my land in
thought after thought. Even if they had only ten such thoughts, they
will be born in my land, except for those who have performed karmas
leading to Uninterrupted Hell and those who speak ill of the true Dharma
or saints. If this would not be the case, I shall not attain
enlightenment.
19)
Phát Bồ Đề Tâm Nguyện (nguyện hết thảy chúng sanh đều phát bồ đề
tâm): Nếu tôi được làm Phật, th́ chúng sanh mười phương phát tâm Bồ đề,
tu các công đức, chí tâm phát nguyện, muốn sanh về nước tôi; tới lúc lâm
mạng chung thời, như tôi chẳng cùng đại chúng hầu quanh hiện ra ở trước
người ấy, xin chẳng giữ lấy ngôi chánh giác—When I become a Buddha, I
shall appear with an assembly of monks at the deathbeds of sentient
beings of other Buddha-lands who have brought forth bodhicitta, who
think of my land with a pure mind, and who dedicate their good roots to
birth in the Land of Utmost Bliss. I shall not attain supreme
enlightenment if I would fail to do so.
20)
Phát Tín Tâm Nguyện (nguyện hết thảy chúng sanh đều phát tín tâm):
Nếu tôi được làm Phật, th́ chúng sanh mười phương nghe danh hiệu của tôi,
đem ḷng tưởng niệm đến nước tôi, trồng các cội đức, chí tâm hồi hướng,
muốn sanh về nước tôi, như chẳng quả toại ḷng đó, xin chẳng giữ lấy
ngôi chánh giác—When I become a Buddha, all the sentient beings in
countless Buddha-lands, who, having heard my name and dedicated their
good roots to be born in the Land of Utmost Bliss, will be born there.
Otherwise, I shall not attain supreme enlightenment.
21)
Tam Thập Nhị Tướng Nguyện (nguyện hết thảy chúng sanh đều được 32
tướng hảo): Nếu tôi được làm Phật mà trời người trong cơi nước chẳng đều
thành măn 32 tướng của bực đại nhân đó, xin chẳng giữ lấy ngôi chánh
giác—I shall not attain supreme enlightenment if any bodhisattva in my
land would fail to achieve the thirty-two auspicious signs.
22)
Tất Chí Bổ Xứ Nguyện: Nếu tôi được làm Phật, th́ các chúng Bồ Tát
ở các cơi Phật các phương khác sanh lại nước tôi, rốt cuộc ắt tới Nhứt
sanh bổ xứ. Trừ ra cái bổn nguyện của ḿnh, tự tại hóa ra, v́ cớ chúng
sanh muốn được cứu độ nên thệ nguyện rộng lớn, kiên như áo giáp sắt,
chứa chan cội đức, độ thoát hết thảy, du hành đến các cơi Phật, tu hạnh
Bồ tát, cúng dường chư Phật Như Lai mười phương, khai hóa cho vô lượng
chúng sanh đông như cát sông Hằng, khiến cho lập nên cái đạo chánh chơn,
không chi trên được, cao tột hơn cái hạnh của các địa vị tầm thường,
hiện ra mà tu tập cái đức Phổ Hiền. Nếu chẳng được vậy, xin chẳng giữ
lấy ngôi chánh gíac—I shall not attain supreme enlightenment if any
Bodhisattvas in my land on their way to great bodhi would fail to reach
the stage of being only one lifetime away from Buddhahood. This excludes
those Bodhisattvas with great vows who wear the armor of vigor for the
sake of sentient beings; who strive to do beneficial deeds and cultivate
great nirvana; who perform the deeds of a Bodhisattva throughout all
Buddha-lands and make offerings to all Buddhas, the Tathagatas; and who
establish as many sentient beings as the sands of the Ganges in supreme
enlightenment. This also excludes those who seek liberation by following
the path of Samantabhadra, devoting themselves to Bodhisattvas’
practices even more than those who have attained the stage of being only
one lifetime away from Buddhahood.
23)
Cúng Dường Chư Phật Nguyện: Nếu tôi được làm Phật, mà Bồ Tát
trong cơi nước nương vào thần lực của Phật, muốn cúng dường chư Phật,
trong khoảng một bữa ăn, chẳng khắp tới được vô số vô lượng ức Na-do-tha
các cơi Phật đó, xin chẳng giữ lấy ngôi chánh giác—I shall not attain
supreme enlightenment if the Bodhisattvas in my land would not, by the
awesome power of the Buddha, be able to make offerings to countless
hundreds of thousands of millions of billions of myriads of Buddhas in
other Buddha-lands every morning return to their own land before
mealtime.
24)
Cúng Cụ Như Nguyện: Nếu tôi được làm Phật, th́ Bồ Tát ở trong cơi
nước, trước chư Phật, hiện ra cội đức của ḿnh, những đồ ḿnh cầu muốn
cúng dường, nếu chẳng như ư đó, xin chẳng giữ lấy ngôi chánh giác—I
shall not attain supreme enlightenment if the Bodhisattvas in my land
would not possess every variety of offering they need to plan good roots
in various Buddha-lands.
25)
Thuyết Nhất Thiết Trí Nguyện: Nếu tôi được làm Phật mà Bồ Tát
trong nước chẳng diễn thuyết được “hết thẩy mọi trí” đó, xin chẳng giữ
lấy ngôi chánh giác—I shall not attain supreme enlightenment if the
Bodhisattvas in my land would not be skilled in expounding the essence
of the Dharma in harmony with all-knowing wisdom.
26)
Na La Diên Thân Nguyện: Nếu tôi được làm Phật, mà Bồ Tát trong
cơi nuớc chẳng đặng cái thân kim cang Na-la-diên đó, xin chẳng giữ lấy
ngôi chánh giác—I shall not attain supreme enlightenment if the
Bodhisattvas in my land would not have enormous strength of a Narayana.
27)
Sở Tu Nghiêm Tịnh Nguyện: Nếu tôi được làm Phật, th́ trời người
trong cơi nước và hết thảy muôn vật đều nghiêm tịnh sáng đẹp, h́nh sắc
tinh diệu, không thể cân lường cho xiết được. Từ các chúng sanh cho chí
các bậc đă được thiên nhăn, nếu ai biện được tên và số cho rành rẽ đó,
xin chẳng giữ lấy ngôi chánh giác—When I become a Buddha, no one will be
able to describe completely the articles of adornment in my land; even
one with the deva-eye will not be able to know all their varieties of
shape, color, and brillance. If anyone could know and describe them all,
I shall not attain supreme enlightenment.
28)
Kiến Đạo Tràng Thụ Nguyện: Nếu tôi được làm Phật, mà từ Bồ Tát
trong cơi nước chí đến kẻ ít công đức chẳng thấy biết được cái vẻ sáng
chiếu vô lượng của cây Đạo Tràng cao bốn trăm muôn dặm đó, xin chẳng giữ
lấy ngôi chánh giác—I shall not attain supreme enlightenment if in my
land there would be Bodhisattvas with inferior roots of virtue who could
not know the numerous kinds of trees, four hundred thousand leagues
high, which will abound in my land.
29)
Đắc Biện Tài Trí Nguyện: Nếu tôi được làm Phật, th́ Bồ Tát trong
cơi nước nếu ai thọ đọc kinh pháp, phúng, tụng, tŕ, thuyết, mà chẳng
đặng cái biện tài trí huệ đó, xin chẳng giữ lấy ngôi chánh giác—I shall
not attain supreme enlightenment if those sentient beings in my land who
read and recite sutras and explain them to others would not acquire
superb eloquence.
30)
Trí Biện Vô Cùng Nguyện: Nếu tôi được làm Phật mà trí huệ, biện
tài của Bồ Tát trong cơi nước c̣n có thể hạn lượng được, xin chẳng giữ
lấy ngôi chánh giác—I shall not attain supreme enlightenment if any
Bodhisattva in my land would be unable to achieve limitless eloquence.
31)
Quốc Độ Thanh Tịnh Nguyện: Nếu tôi được làm Phật th́ cơi nước
thanh tịnh đều chiếu thấy vô lượng vô số thế giới chư Phật mười phương
chẳng thể nghĩ bàn, dường như tấm gương sáng soi thấy bộ mặt vậy. Nếu
chẳng được như vậy, xin chẳng giữ lấy ngôi chánh giác—When I become a
Buddha, my land will be unequaled in brightness and purity; it will
clearly illuminate countless, numberless Buddha-lands, inconceivable in
number, just as a clear mirror reveals one’s features. If this would not
be so, I shall not attain supreme enlightenment.
32)
Quốc Độ Trang Sức Nguyện: Nếu tôi được làm Phật, th́ từ dưới đất
trở lên tới chốn hư không, cung điện, lầu quán, ao hồ, hoa, cây… hết
thảy muôn vật ở trong cơi nước, đều dùng vô lượng của báu góp lại và
trăm ngàn các thứ hương mà hiệp cộng thành ra, sửa soạn cho thiệt lạ
lùng mầu nhiệm, hơn hết các cơi trời và cơi người; mùi hương của các vật
ấy huân khắp thế giới mười phương; hễ chư Bồ Tát ngửi mùi đều tu Phật
hạnh. Nếu chẳng như vậy, xin chẳng giữ lấy ngôi chánh giác—When I become
a Buddha, there will be inumerable kinds of incense on land and in air
within the borders of my land, and there wil be hundreds of thousands of
millions of billions of myriads of precious censers, from which will
rise the fragrance of the incense, permeating all of space. The incense
will be superior to the most cherished incense of humans and gods, and
wil be used as an offering to Tathagatas and Bodhisattvas. If this would
not be the case, I shall not attain supreme enlightenment.
33)
Xúc Quang Nhu Nhuyễn Nguyện: Nếu tôi được làm Phật, th́ vô lượng
các loài chúng sanh trong thế giới chư Phật mười phương chẳng có thể suy
nghĩ bàn bạc, đều nhờ ánh quang minh của tôi chạm vô ḿnh của họ, thân
tâm trở nên nhu nhuyễn trội hơn trời và người. Nếu chẳng như vậy, xin
chẳng giữ lấy ngôi chánh giác: When I become a Buddha, sentient beings
in countless realms, inconceivable and unequaled in number, throughout
the ten directions who are touched by the awesome light of the Buddha
will feel more secure and joyful in body and mind than other humans or
gods. Otherwise, I shall not attain supreme enlightenment.
34)
Văn Danh Đắc Nhẫn Nguyện: Nếu tôi được làm Phật, mà các loại
chúng sanh trong thế giới chư Phật mười phương vô lượng chẳng có thể
suy nghĩ bàn bạc, đều nghe danh tự của tôi, nếu chẳng đặng đức vô sanh
pháp nhẫn và các thâm tổng tŕ của bực Bồ Tát, xin chẳng giữ lấy ngôi
chánh giác—I shall not attain supreme enlightenment If Bodhisattvas in
countless Buddha-lands, inconceivable and unequaled in number, would not
realize the truth of non-arising and acquire dharanis after they hear my
name.
35)
Phế Nữ Nhân Thân Văng Sanh Nguyện: Nếu tôi được làm Phật, th́ vô
lượng thế giới chư Phật mười phương chẳng có thể suy nghĩ bàn bạc, trong
đó hễ có người phái nữ nào nghe danh tự của tôi mà hoan hỷ tin vui, phát
tâm Bồ đề, chán ghét nữ thân, thế mà sau khi qua đời, c̣n phải làm h́nh
con gái nữa, xin chẳng giữ lấy ngôi chánh giác—When I become a Buddha,
all the women in numberless Buddha-lands, inconceivable and unequaled in
number, who, after hearing my name, acquire pure faith, bring forth
bodhicitta, and are tired of the female body, will rid themselves of the
female body in their future lives. If this would not be the case, I
shall not attain supreme enlightenment (I refuse to enter into final
nirvana or final joy until every woman who calls on my name rejoices in
enlightenment and who, hating her woman’s body, has ceased to be reborn
as a woman).
36)
Thường Tu Phạm Hạnh Nguyện: Nếu tôi được làm Phật, th́ vô lượng
chúng Bồ tát trong thế giới chư Phật mười phương chẳng có thể suy nghĩ
bàn bạc, hễ nghe danh tự của tôi, th́ sau khi qua đời, thường tu phạm
hạnh cho tới khi thành Phật đạo. Nếu chẳng như vậy, xin chẳng giữ lấy
ngôi chánh giác—I shall not attain supreme enlightenment if Bodhisattvas
in countless Buddha-lands, inconceivable and unequaled in number, who
attain doctrine of non-arising after hearing my name would fail to
cultivate superb, pure conduct until they attain great bodhi.
37)
Thiên Nhân Trí Kính Nguyện: Nếu tôi được làm Phật, th́ vô lượng
chư thiên, nhân dân các cơi thế giới chư Phật mười phương chẳng có thể
suy nghĩ bàn bạc, hễ nghe danh tự của tôi, th́ năm thể (đầu, hai cùi chỏ
và hai đầu gối) đầu địa, dập đầu làm lễ, hoan hỷ tin vui, tu hạnh Bồ Tát,
trời và người không ai chẳng đem ḷng kính. Nếu chẳng như vậy, xin chẳng
giữ lấy ngôi chánh giác—I shall not attain supreme enlightenment if,
when I become a Buddha, humans and gods would not pay homage to all the
Bodhisattvas of numberless Buddha-lands who, after hearing my name,
prostrate themselves in obeisance to me and cultivate the deeds of
Bodhisattva with a pure mind.
38)
Y Phục Tùng Niệm Nguyện: Nếu tôi được làm Phật, th́ trời người
trong cơi nước muốn được đồ y phục, ư vừa dứt th́ đồ liền tới, y như đồ
mặc mầu nhiệm ứng pháp mà đức Phật khen, tự nhiên ở nơi ḿnh. Nếu ai c̣n
phải cầu lấy sự may vá, nhuộm, giặt, xin chẳng giữ lấy ngôi chánh giác—When
I become a Buddha, sentient beings in my land will obtain the clothing
they need as soon as they think of it, just as a man will be
spontaneously clad in a monastic robe when the Buddha says, “Welcome,
monk !” If this would not be the case, I shall not attain supreme
enlightenment.
39)
Thụ Lạc Vô Nhiễm Nguyện: Nếu tôi được làm Phật, mà sự khoái lạc
của trời người trong cơi nước thọ hưởng chẳng bằng bậc Tỳ Kheo lậu tận,
xin chẳng giữ lấy ngôi chánh giác—I shall not attain supreme
enlightenment if any sentient beings in my land would not at birth
obtain the necessities of life and become secure, pure, and blissful in
mind, like a monk who has ended all defilements.
40)
Kiêm Chư Phật Độ Nguyện: Nếu tôi được làm Phật, th́ Bồ Tát trong
cơi nước tùy ư muốn thấy vô lượng cơi Phật mười phương nghiêm tịnh, tức
th́ như nguyện, từ trong cây báu chiếu thấy đủ hết, dường như tấm gương
sáng ngó thấy bộ mặt. Nếu chẳng như vậy, xin chẳng giữ lấy ngôi chánh
giác—When I become a Buddha, if sentient beings in my land wish to see
other superbly adorned, pure Buddha-lands, these lands will immediately
appear to them among the precious trees, just as one’s face appears in a
clear mirror. If this would not be the case, I shall not attain supreme
enlightenment.
41)
Chư Căn Cụ Túc Nguyện: Nếu tôi được làm Phật, th́ chư Bồ Tát
chúng trong các cơi ở các phương khác nghe danh tự của tôi, cho đến khi
được làm Phật mà các căn c̣n thiếu thốn, chẳng đầy đủ đó, xin chẳng giữ
lấy ngôi chánh giác—I shall not attain supreme enlightenment if any
sentient beings in any other Buddha-lands, after hearing my name and
before attaining bodhi, would be born with incomplete organs or organs
restricted in function.
42)
Trụ Định Cúng Dường Phật Nguyện: Nếu tôi được làm Phật, th́ chư
Bồ Tát chúng trong các cơi ở các phương khác nghe danh tự của tôi, đều
kịp tới được cảnh Tam Muội “Thanh tịnh giải thoát” hết cả. Trụ ở cảnh
Tam muội ấy, trong một khoảnh vừa phát ra ư tưởng, th́ cúng dường vô
lượng, chẳng có thể suy nghĩ bàn bạc số chư Phật Thế tôn, thế mà chẳng
lạc mất cái ư định. Nếu chẳng như vậy, xin chẳng giữ lấy ngôi chánh giác—When
I become a Buddha, any Bodhisattva in any other Buddha-lands, after
hearing my name, will be able to know distinctly the name of superb
samadhis. While in remaining in samadhi, they will be able to make
offerings to countless, numberless Buddhas, inconceivable and unequaled
in number, in a moment, and will be able to realize great samadhis
instantly. If this would not be the case, I shall not attained supreme
enlightenment.
43)
Sinh Tồn Quư Gia Nguyện: Nếu tôi được làm Phật, th́ chư Bồ Tát
chúng ở trong các cơi phương khác nghe danh tự của tôi, sau khi qua đời,
sanh vào nhà tôn quí. Nếu chẳng như vậy, xin chẳng giữ lấy ngôi chánh
giác—I shall not attain supreme enlightenment if, when I become Buddha,
any Bodhisattva in any other Buddha-lands who has heard my name would
not be born in a noble family after death.
44)
Cụ Túc Đức Bản Nguyện: Nếu tôi được làm Phật, th́ Bồ Tát chúng
trong các cơi phương khác nghe danh tự của tôi, vui mừng hớn hở, tu hạng
Bồ Tát, trọn đủ cội đức. Nếu chẳng như vậy, xin chẳng giữ lấy ngôi chánh
giác—I shall not attain supreme enlightenment if when become a Buddha,
any Bodhisattva in any other Buddha-lands would not immediately
cultivate the Bodhisattva practices, become purified and joyful, abide
in equality, and possess all good roots after he hears my name.
45)
Trụ Định Kiến Phật Nguyện: Nếu tôi được làm Phật, th́ chư Bồ Tát
chúng trong các cơi ở các phương khác nghe danh tự của tôi, đều kịp tới
cảnh Phổ Đẳng Tam Muội. Trụ ở cảnh Tam muội ấy cho tới khi thành Phật,
thường thấy hết thảy vô lượng chư Phật chẳng có thể suy nghĩ bàn bạc.
Nếu chẳng như vậy, xin chẳng giữ lấy ngôi chánh giác—When I become a
Buddha, Bodhisattvas in other Buddha-lands will achieve the Samadhi of
Equality after hearing my name and will, without regression, abide in
this samadhi and make constant offerings to an inumerable, unequaled
number of Buddhas until those Bodhisattvas attain bodhi. If this would
not be the case, I shall not attain supreme enlightenment.
46)
Tùy Ư Văn Pháp Nguyện: Nếu tôi được làm Phật, th́ Bồ Tát trong
cơi nước tùy theo cái nguyện của ḿnh, hễ muốn nghe pháp, tự nhiên được
nghe. Nếu chẳng như vậy, xin chẳng giữ lấy ngôi chánh giác—I shall not
attain supreme enlightenment if Bodhisattvas in my land would not hear
at will the Dharma they wish to hear.
47)
Đắc Bất Thối Chuyển Nguyện: Nếu tôi được làm Phật, th́ chư Bồ Tát
chúng trong các cơi các phương khác nghe danh tự của tôi, mà chẳng được
tới nơi Bất Thối Chuyển tức th́ xin chẳng giữ lấy ngôi chánh giác—I
shall not attain supreme enlightenment if, when I become a Buddha, any
Bodhisattva in any other Buddha-lands would regress from the path to
supreme enlightenment after he hears my name.
48)
Đắc Tam Pháp Nhẫn Nguyện: Nếu tôi được làm Phật, th́ chư Bồ Tát
chúng trong các cơi các phương khác nghe danh tự của tôi, mà chẳng tới
được liền bậc Pháp nhẫn thứ nhứt, thứ nh́ và thứ ba, đối với pháp của
chư Phật liền chẳng được nơi Bất Thối Chuyển, xin chẳng giữ lấy ngôi
chánh giác—I shall not attain supreme enlightenment if, when I become a
Buddha, any Bodhisattva in any other Buddha-lands would not acquire the
first, the second or the third realization as soon as he heard my name,
or would not instantly attain nonregression with regard to Buddha-Dharmas.
Tứ Thập Bát Niên:
Bốn mươi tám năm—Theo Kinh Niết Bàn, “Thầy thuốc cũ bảo thầy thuốc mới
rằng người hầu hạ ta đủ 48 năm th́ ta sẽ truyền hết pháp của ta cho
người, cũng giống như những phương thức chậm chạp và khó khăn của Tiểu
Thừa và nguyên thủy Đại Thừa.”—According to the Nirvana Sutra, “The
forty-eight years of service demanded by an old physician of his pupil
in order to acquire his skill, likened to the slow and difficult methods
of Hinayana and of early Mahayana.”
Tứ Thập Bát Sứ Giả:
Bốn mươi tám sứ giả hàng phục ma quân của Bất Động Tôn Minh Vương—The
forty-eight demonsatellites of Aryacalanatha as subduer of demons.
Tứ Thập Cửu Đăng:
See Tứ Thập Cửu Tăng.
Tứ Thập Cửu Nhật:
Lễ cúng thất thứ bảy cho người quá văng—The seven times seven days of
funeral services—The forty-ninth day.
Tứ Thập Cửu Tăng:
Lễ Thắp Đèn Dược Sư, gồm bốn mươi chín vị Tăng tham dự, bảy ảnh tượng
Phật Dược Sư trước mỗi tượng được đặt bảy đèn—The service to the Master
of Healing, when forty-nine monks are engaged and forty-nine lamps are
displayed, seven of his images are used, seven of the lamps are being
placed before each image.
Tứ Thập Cửu trùng
Ma Ni Điện: Bảo Châu Ma Ni xoắn ốc thành cung báu Ma Ni 49 tầng trên
cơi Trời Đâu Suất (mỗi tầng đều có lan can do vạn ức hạt Phạm Ma Ni cùng
hợp thành)—The Mani or Pearl Palace of forty-nine stories above the
Tusita Heaven.
Tứ Thập Dư Niên Vị
Hiển Chân Thực: Trong Kinh Vô Lượng Nghĩa, Đức Phật đă dạy: “Từ ngày
thành đạo đến nay trong hơn bốn mươi năm ta chưa thể nói rơ đạo chân
thực cho đến khi ta thuyết Kinh Pháp Hoa.”—In the Infinite Meaning
Sutra, the Buddha said: “For forty and more years, I (the Buddha) was
unable to unfold the full truth until I first gave it in the Lotus
Sutra.”
Tứ Thập Nhất Vị:
Bốn mươi mốt trong năm mươi hai giai đoạn phát triển của Bồ Tát, tất cả
ngoại trừ Thập Tín và Diệu Giác—Forty-one of the fifty-two bodhisattva
stages of development, all except the ten faiths and enlightenment.
Tứ Thập Nhị Chương
Kinh: Sutra of forty-two sections—See Kinh Tứ Thập Nhị Chương.
Tứ Thập Nhị Phẩm Vô
Minh: Bốn mươi hai phẩm vô minh—Thiên Thai Viên Giáo đoạn trừ 42 vị—The
forty-two species of ignorance which, according to the T’ien-t’ai, are
to be cut off in the forty-two stages:
1)
Thập trụ: The ten grounds—See Thập Trụ.
2)
Thập Hạnh: Ten necessary activities—See Thập Hạnh.
3)
Thập Hồi Hướng: Ten kinds of dedication—See Thập Hồi Hướng.
4)
Thập Địa: Ten stages—See Thập Địa.
5)
Đẳng Giác: The fifty-first in the fifty-two stages toward the
Budhahood or the balanced state of truth—See Đẳng Giác.
6)
Diệu Giác: The wonderful enlightenment—See Diệu Giác.
Tứ Thập Nhị Sứ Giả:
Bốn mươi hai vị sứ giả của Bất Động Tôn—The forty-two messengers of the
Aryacalanatha.
Tứ Thập Vị: Bốn
mươi Tâm Bồ Tát trong Kinh Phạm Vơng—Forty bodhisattva positions in
Brahma-Net Sutra (Kinh Phạm Vơng):
1)
Thập Phát Thú Tâm: Mười giai đoạn phát tâm đầu tiên (những tâm
nầy liên hệ đến Thập Trụ)—Ten initial stages of directional decisions
(these minds are associated with the ten stages) in which the
bodhisattvas have the following minds:
a)
Xả Tâm: Bồ tát xả bỏ mọi thứ—The mind of abandoning things of the
world.
b)
Giới Tâm: Tâm giữ ǵn giới luật—The mind of keeping moral law.
c)
Nhẫn Nhục Tâm: Tâm nhẫn nhục—The mind of patience.
d)
Tiến Tâm: Tâm tinh tấn—The mind of zealous progress.
e)
Định Tâm: Tâm thiền định—The mind of Dhyana.
f)
Tuệ Tâm: Tâm trí huệ—The mind of wisdom.
g)
Nguyện Tâm: Tâm phát thệ nguyện—The mind of resolve.
h)
Hộ Tâm: Tâm hộ pháp—The mind of guarding the law.
i)
Hỷ Tâm: Tâm hỷ lạc—The mind of joy.
j)
Đỉnh Tâm: Tâm quyết được Phật thọ kư—The mind of spiritual
baptism by the Buddha.
** For more
information, please see Thập
Phát Thú Tâm.
2)
Thập Trưởng Dưỡng Tâm: Mười giai đoạn nuôi dưỡng tâm (những tâm
nầy liên hệ với Thập Hành)—Ten steps in the nourishment of perfection
(these minds are associated with the ten necessary activities) in which
the Bodhisattvas have the following minds:
a)
Từ Tâm: The mind of Kindness.
b)
Bi Tâm: The mind of Pity.
c)
Hỷ Tâm: The mind of Joy.
d)
Xả Tâm: Relinquishing.
e)
Bố Thí Tâm: Almsgiving.
f)
Hảo Ngữ Tâm (tâm giảng pháp): Good Discourse.
g)
Ích Tâm (tâm lợi tha): Benefitting.
h)
Đồng Tâm (tâm kết tụ bồ đề quyến thuộc): Friendship.
i)
Thiền Định Tâm: Dhyana.
j)
Trí Tuệ Tâm: Wisdom.
** For more
information, please see Thập
Trưởng Dưỡng
Tâm.
3)
Thập Kim Cang Tâm: Mười tâm kim cang liên hệ với Thập Hồi Hướng—Ten
“diamond” steps of firmness associated with ten bestowings one’s merits
to anothers (these are associated with the ten dedications).
a)
Tín Tâm: The bodhisattvas have the mind of faith.
b)
Niệm Tâm: Remembrance.
c)
Hồi Hướng Tâm: Bestowing one’s merits on others.
d)
Đạt Tâm: Thông triệt pháp tính—Understanding.
e)
Trực Tâm: Uprightness.
f)
Bất Thối Tâm: No-retreat.
g)
Đại Thừa Tâm: Mahayana.
h)
Vô Tướng Tâm: Formlessness.
i)
Tuệ Tâm: Wisdom.
j)
Bất Hoại Tâm: Indestructibility.
** For more
information, please see Thập
Kim Cang Tâm.
4)
Thập địa: Ten grounds
** For more
information, please see Thập Địa
Bồ Tát.
Tứ Thất Phẩm:
Hai mươi tám phẩm trong Kinh Pháp Hoa—The twenty-eight chapters of the
Lotus Sutra.
Tứ Thế: Bốn
thời—The four periods:
1)
Thời Đức Phật c̣n tại thế, c̣n gọi là Thánh Thế: The period of
the Buddha’s earthly life, also known as the sacred period or the period
of the sage—See Siddhartha.
2)
Thời Chánh Pháp: The period of Correct Law—See Chánh Pháp.
3)
Thời Tượng Pháp: The period of Semblance of the law—See Tượng
Pháp.
4)
Thời Mạt Pháp: The period of Decadence of the Law—See Mạt Pháp.
Tứ Thí: Bốn thứ
để bố thí của chư Tăng Ni—Four benefactions of the order:
1)
Viết: Pen.
2)
Mực: Ink.
3)
Kinh: Sutras.
4)
Thuyết pháp: Preaching.
Tứ Thiên Hạ: Tứ
đại châu—The four quarters or continents of the world—See Tứ Châu.
Tứ Thiên Thượng Hạ:
Những vùng bên trên là Tứ Thiên của Tứ Thiên Vương; bên dưới là Tứ Châu—In
the upper regions, there are four heavens of the four deva-kings; below
are the people of the four continents.
** For more
information, please see Tứ Thiên
Vương and Tứ Châu.
Tứ Thiên Vương:
Catur Maharajas-kayikas (skt)—Bốn cơi trời—Bốn vị thiên vương phục vụ
trời Đế Thích, và cai quản bốn cơi trời xung quanh núi Tu Di—Four
Heavenly (Guardian) Kings, or lords of the Four Quarters, who serve
Indra as his generals, and rule over the four continents surrounding
Mount Sumeru:
1)
Tŕ Quốc Thiên Vương: Dhrtarastra (skt)—Dhatarattha (p)—Đông
thiên vương (Đa La Tra) cai quản Càn Thát Bà (những vị trời nhạc sư)—Eastern
Heaven King—Deva who rules over the Gandhabbas and keeps his kingdom
(white color)—The celestial musicians.
2)
Tăng Trưởng Thiên Vương: Virudhaka (skt)—Virulhaka (p)—Nam thiên
vương (Tỳ Lưu Ly) cai quản Cưu Bàn Đồ và những vị thần canh giữ núi rừng
và những kho bảo tàng—Southern Heaven king who presides over the
kumbhandas—Deva of increase and growth (blue color)—The gnomic
caretakers of forests, mountains, and hidden treasures.
3)
Quảng Mục Thiên Vương: Virupaksa (skt)—Virupakkha (p)—Tây thiên
vương (Tỳ Lưu Bác Xoa) cai quản tất cả loài á thần rồng và phú đan na—The
broad-eyed (ugly-eyed) deva (perhaps a form of Siva)—Western Heaven king
(red color) who rules over the nagas, demi gods in the form of dragons (những
vị Trời Long Vương).
4)
Đa Văn Thiên Vương: Vaisravana or Dhanada (skt)—Vessavana (p)—Bắc
thiên vương (Tỳ Sa Môn) cai quản Dạ Xoa La Sát và bảo hộ tất cả đàn việt—A
form of Kuvera, a god of wealth. A deva who hears much and is
well-versed—Northern heaven king (yellow color), ruler of the yakkhas or
spirits.
Tứ Thiền: Four
jhanas—Theo Kinh Phúng Tụng trong Trường Bộ Kinh, trong chuỗi Tứ Pháp có
Tứ Thiền—According to the Sangiti Sutta in the Long Discourses of the
Buddha, in the sets of four things, there are Four Jhanas or four stages
of of mystic meditation, whereby the believer’s mind is purged from all
earthly emotions, and detached as it were from his body, which remains
plunged in a profound trance:
1)
Sơ Thiền: Ở đây vị Tỳ Kheo ly dục, ly ác pháp hay bất thiện pháp
để chứng và trú vào sơ thiền (trong đó những ham muốn say mê, và một số
tư tưởng bất thiện như dâm dục, ác ư, bạc nhược, lo lắng, bồn chồn, và
nghi ngờ đều bị loại bỏ), ngồi kiết già tu tập nhất tâm, từ từ tâm của
vị ấy đạt đến một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, với tầm, với tứ—Here
a monk, detached from all sense-desires, detached from unwholesome
mental states (passionate desires and certain unwholesome thoughts like
sensous lust, ill-will, languor, worry, restlessness, and doubt are
discarded), enters and remains in the first jhana, which is with
thinking and pondering, born of detachment, filled with delight and joy
(seated cross-legged, the practiser concentrates his mind upon a single
thought. Gradually his soul becomes filled with a supernatural ecstasy
and serenity; however, his mind is still reasoning in this stage).
2)
Nhị Thiền: Ở đây vị Tỳ Kheo, diệt tầm và tứ, chứng và trú vào nhị
thiền (tất cả những hoạt động tinh thần bị loại bỏ, tĩnh lặng và nhất
điểm tâm phát triển), một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm
không tứ, nội tâm nhất tỉnh—Here a monk, who is subsiding of thinking
and pondering, by gaining inner tranquility and oneness of mind, he
enters and remains in the second jhana (all intellectual activities are
suppressed, tranquility and one-pointedness of mind developed), which is
without thinking and pondering, born of concentration, filled with
delight and joy (concentrating his mind on the same subject, he frees it
from reasoning, the ecstasy and serenity remaining).
3)
Tam Thiền: Ở đây vị Tỳ Kheo ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác,
thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và an
trú trong Tam Thiền. Trong giai đoạn nầy cảm nghĩ hỷ lạc là một cảm giác
tích cực, cũng biến đi, trong khi khuynh hướng hỷ lạc vẫn c̣n thêm vào
sự thanh thản trong tâm—Here a monk, with the fading away of delight,
remaining imperturbable, mindful and clearly aware, he experiences in
himself that joy of which the Noble Ones say: “Happy is he who dwells
with equanimity and mindfulness.” He enters and remains in the third
jhana (in this stage he divests himself of ecstasy). The feeling of joy,
which is an active sensation, also disappears, while the disposition of
happiness still remains in addition to mindful equanimity.
4)
Tứ Thiền: Ở đây vị Tỳ Kheo xả lạc, xả khổ, diệt tất cả những hỷ
ưu đă cảm thọ từ trước, chứng và trú vào Tứ Thiền, không khổ, không lạc,
xả niệm thanh tịnh—Tất cả những cảm giác, cả đến hạnh phúc hay không
hạnh phúc, vui và phiền năo, cũng biến đi, chỉ c̣n lại sự tĩnh lặng
thanh tịnh và tỉnh thức—Here a monk, having given up pleasure and pain,
and with the disappearance of former gladness and sadness, he enters and
remains in the fourth jhana which is beyond pleasure and pain, and
purified by equanimity and mindfulness (in the fourth stage the mind
becomes indifferent to all emotions, being exalted above them and
purified). All sensations, even of happiness and unhappiness, of joy
and sorrow, disappear, only pure equanimity and awareness remaining.
Tứ Thiền Bát Định:
Tứ thiền trong cơi trời sắc giới và bát định (bốn trong sắc giới và bốn
trong vô sắc giới)—The four dhyanas on the form-realms and the eight
concentrations (four on the form-realms and four on the
formless-realms)—See Tứ Thiền Thiên.
Tứ Thiền Định:
Tứ Thiền định đưa tới Tứ Thiền Thiên—The four dhyana-concentrations
which lead to the four dhyana heavenly regions—See Tứ Thiền Thiên.
Tứ Thiền Thiên:
Brahmalokas (skt)—Tứ Tĩnh Lự Thiên—Bốn cảnh giới mà người tu đạt tới—The
fourth region, equal to a great chiliocosmos (Đại thiên giới)—The four
dhyana heavens:
1)
Sơ Thiền Thiên: Pathamajjhanabhumi (skt).
(A)
Nghĩa của Sơ Thiền Thiên—The meanings of Pathamajjhanabhumi—Cơi
trời thứ nhất nơi không c̣n vị giác hay khứu giác, không cần thực phẩm,
nhưng vẫn c̣n bốn giác quan c̣n lại (Nhăn, Nhĩ, Thân, Ư). Chúng sanh
trong cơi sơ thiền không c̣n sắc dục; tuy nhiên, họ vẫn c̣n những ham
muốn khác. Đây là cơi hỷ lạc xa ĺa cảnh gây tội tạo nghiệp. Sơ thiền
thiên gồm một thế giới, một vệ tinh, một núi Tu Di, và sáu cơi trời dục
giới. Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, quyển Chín, Đức Phật đă nói với ngài A
Nan về bậc Sơ Thiền như sau: “Ông A Nan! Ba bực thắng lưu trong sơ thiền,
tất cả khổ năo không thể bức bách. Dù chẳng phải chính tu tam ma địa,
trong tâm thanh tịnh, các mê lậu chẳng động.”—The first region, as large
as the whole universe. The inhabitants in this region are without
gustatory (tasting) or olfactory (smelling) organs, not needing food,
but possess the other four of the six organs. Heaven beings in this
Heaven are free from all sexual desires; nevertheless, they still have
other desires. This is the ground of joy of separation from production.
The first dhyana has one world with one moon, one meru, four continents
and six devalokas. In the Surangama Sutra, book Nine, the Buddha told
Ananda about the Pathamajjhanabhumi as follows: “Ananda! Those who flow
to these three superior levels in the Pathamajjhanabhumi (first dhyana)
will not be oppressed by any suffering or affliction. Although they have
not developed proper samadhi, their minds are pure to the point that
they are not moved by outflows.”
(B)
Những cơi trời thuộc cơi Sơ Thiền Thiên—Sublevels of the
First Dhyana Heaven:
·
Phạm chúng Thiên: Brahma-purohita (skt)—Theo Kinh Thủ Lăng
Nghiêm, quyển Chín, người tu hành không mượn thiền na, không có trí tuệ.
Chỉ giữ thân không dâm dục. Khi đi, khi ngồi, không có tưởng nhớ. Ái
nhiễm chẳng sinh, không c̣n lưu luyến cơi dục. Họ làm bạn với Phạm Thiên.
Gọi là Phạm Chúng Thiên—According to the Surangama Sutra, book Nine, all
those in the world who cultivate their minds but do not avail themselves
of dhyana and so have no wisdom, can only control their bodies so as to
not engage in sexual desire. Whether walking or sitting, or in their
thoughts, they are totally devoid of it. Since they do not give rise to
defiling love, they do not remain in the realm of desire. These people
can, in response to their thought, take on bodies of Brahma beings. They
are among those in the Heaven of Multitudes of Brahma.
·
Phạm Phụ Thiên: Brahma-parisadya (skt)—Theo Kinh Thủ Lăng
Nghiêm, quyển Chín, đây là những người thói quen dục đă trừ, tâm ly dục
hiện, an vui tùy thuận các luật nghi. Năng làm Phạm đức. Gọi là Phạm Phụ
Thiên—According to the Surangama Sutra, book Nine, those whose hearts of
desire have already been cast aside, the mind apart from desire
manifests. They have a fond regard for the rules of discipline and
delight in being in accord with them. These people can practice the
Brahma virtue at all times, and they are among those in the Heaven of
the Ministers of Brahma.
·
Đại Phạm Thiên: Mahabrahmana (skt)—Theo Kinh Thủ Lăng
Nghiêm, quyển Chín, những người thân tâm được diệu viên, uy nghi chẳng
thiếu, cấm giới thanh tịnh, lại sáng suốt tỏ ngộ. Thống lĩnh cả Phạm
chúng, làm Đại Phạm Vương. Gọi là Đại Phạm Thiên—According to the
Surangama Sutra, book Nine, those whose bodies and minds are wonderfully
perfect, and whose awesome deportment is not in the least deficient, are
pure in the prohibitive precepts and have a thorough understanding of
them as well. At all times these people can govern the Brahma Multitudes
as great Brahma Lords, and they are among those in the great Brahma
Heaven.
2)
Nhị Thiền Thiên: Dutiyajjhanabhumi (skt).
(A)
Nghĩa của Nhị Thiền Thiên—The meanings of Dutiyajjhanabhumi—Cơi
trời thứ nh́ tương đương với tiểu thiên thế giới. Chư thiên trên cơi
trời nầy hoàn toàn ngưng bặt năm giác quan đầu, chỉ c̣n lại “ư.” Đây là
cơi hỷ lạc Tam ma địa. Nhị thiền thiên gấp một ngàn lần thế giới của sơ
thiền thiên. Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, quyển Chín, Đức Phật đă nói với
ngài A Nan về Nhị Thiền Thiên như sau: “Ông A Nan! Ba bực thắng lưu
trong cơi Nhị Thiền, tất cả lo âu không thể bức bách họ. Dù chẳng phải
chính tu tam ma địa, trong tâm thanh tịnh đă dẹp tất cả hoặc lậu thô
thiển.”—The second region, equal to a small chilio cosmos. The
inhabitants in this region have ceased to require the five phisical
organs, possessing only the organ of mind. This is the ground of joy of
production of samadhi. The second dhyana has one thousand times the
worlds of the first. In the Surangama Sutra, book Nine, the Buddha told
Ananda about the Dutiyajjhanabhumi as follows: “Ananda! Those who flow
to these three superior levels in the second dhyana will not be
oppressed by worries or vaxations. Although they have not developed
proper samadhi, their minds are pure to the point that they have subdued
their coarser outflows.”
(B)
Những cơi trời thuộc cơi Nhị Thiền Thiên—Sublevels of the
Second Dhyana Heaven:
·
Thiểu Quang Thiên: Parittabha (skt)—Minor Light Heaven—Trong
Kinh Thủ Lăng Nghiêm, quyển Chín, từ Phạm Thiên tăng tiến lên, phạm hạnh
viên măn, tâm không động, phát sáng. Gọi là trời Thiểu Quang—In the
Surangama Sutra, book Nine, those beyond the Brahma Heavensgather in and
govern the Brahma beings, for their Brahma conduct is perfect and
fulfilled. Unmoving and with settled minds, they produce light in
profound stillness, and they are among those in the Heaven of Lesser
Light.
·
Vô Lượng Quang Thiên: Apramanabha (skt)—Infinite Light
Heaven—Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, quyển Chín, những người mà ánh hào
quang sáng chói rực rỡ vô cùng, chiếu cả mười phương cơi, thành như ngọc
lưu ly. Gọi là trời Vô Lượng Quang—In the Surangama Sutra, book Nine,
those whose lights illumine each other in an endless dazzling blaze
shine throughout the realms of the ten directions so that everything
becomes like crystal. They are among those in the Heaven of Limitless
Light.
·
Cực Quang Tịnh Thiên: Quang Âm Thiên—Abhasvara (skt)—Utmost
Light Purity Heaven—Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, quyển Chín, những người
hấp thụ và giữ ǵn cái ánh sáng hoàn toàn, thành tựu được giáo thể, phát
ra sự hóa đạo thanh tịnh, ứng dụng vô cùng. Gọi là trời Quang Âm hay Cực
Quang Tịnh Thiên—In the Surangama Sutra, book Nine, those who take in
and hold the light to perfection accomplish the substance of the
teaching. Crating and transforming the purity into endless responses and
functions, they are among those in the Light-Sound Heaven or the Utmost
Light Purity Heaven.
3)
Tam Thiền Thiên: Tatiyajjhanabhmi (skt).
(A)
Nghĩa của Tam Thiền Thiên—The meanings of the Tatiyajjhanabhumi—Cơi
trời thứ ba tương đương với trung thiên thế giới. Chư thiên trên cơi nầy
vẫn c̣n giác quan “ư” nhưng chỉ thọ nhận lạc thụ và xả thụ mà thôi. Đây
là cơi kỳ lạc và ngưng bặt mọi tư tưởng. Tam thiền thiên gấp một ngàn
lần các thế giới ở nhị thiền thiên. Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, quyển
Chín, Đức Phật đă nói với ngài A Nan về Tam Thiền Thiên như sau: “Ông A
Nan! Ba bực thắng lưu trong Tam Thiền Thiên đó, đầy đủ đại tùy thuận,
thân tâm yên lành, được vô lượng vui vẻ. Dù chẳng phải chính được tam ma
địa, trong tâm an lành, hoan hỷ gồm đủ.”—The third region, equal to a
middling chiliocosmos. The inhabitants in this region still have the
organ of mind are receptive of great joy. This is the ground of
wonderful bliss and cessation of thought. The third has one thousand
times the worlds of the second. In the Surangama Sutra, book Nine, the
Buddha told Ananda about the third dhyana as follows: “Ananda! Those who
flow to these three superior levels in the third dhyana will be replete
with great compliance. Their bodies and minds are at peace, and they
obtain limitless bliss. Although they have not obtained proper samadhi ,
the joy within the tranquility of their minds is total.”
(B)
Những cơi trời thuộc cơi Tam Thiền Thiên—Sublevels of the
Third Dhyana Heaven:
·
Thiểu Tịnh Thiên: Parittasubha (skt)—Minor (Lesser) Purity
Heaven—Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, quyển Chín, những chúng sanh có cái
sáng hoàn toàn thành âm, phát lộ mầu nhiêm, phát thành tịnh hạnh, thông
với cái vui tịch diệt. Gọi là Thiểu Tịnh Thiên—In the Surangama Sutra,
book Nine, Heavenly beings for whom the perfection of light has become
sound and who further open out the sound to disclose its wonder discover
a subtler level of practice. They penetrate to the bliss of still
extinction and are among those in the Heaven of Lesser Puirty.
·
Vô Lượng Tịnh Thiên: Apramanasubha (skt)—Infinite
(Limitless) Purity Heaven—Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, quyển Chín, những
người mà cảnh tịnh không hiện tiền, dẫn phát vô cùng, thân tâm nhẹ nhàng,
yên lành, thành cái vui tịch diệt. Gọi là Vô Lượng Tịnh Thiên—In the
Surangama Sutra, book Nine, those in whom the emptiness of purity
manifests are led to discover its boundlessness. Their bodies and minds
experience light ease, and they accomplish the bliss of still
extinction. They are among those in the Heaven of Limitless Purity.
·
Biến Tịnh Thiên: Subhakrtsna (skt)—Universal or Pervasive
Purity Heaven—Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, quyển Chín, những người mà thế
giới và thân tâm, tất cả đều viên tịnh. Thành tựu thịnh đức, thắng cảnh
hiện tiền, về nơi tịch diệt lạc. Gọi là Biến Tịnh Thiên—In the Surangama
Sutra, book Nine, those for whom the world, the body, and the mind are
all perfectly pure have accomplished the virtue of purity, and a
superior level emerges. They return to the bliss of still extinction,
and they are among those in the Heaven of Pervasive Purity.
4)
Tứ Thiền Thiên: Catutthajjhanabhumi (skt).
(A)
Nghĩa của Tứ Thiền Thiên—The meanings of the fourth dhyana—Cơi
trời thứ tư, tương đương với đại thiên thế giới. Chư thiên trên cơi nầy
vẫn c̣n “ư.” Đây là cơi thanh tịnh và xả bỏ mọi tư tưởng (chỉ có xả thụ
mà thôi). Tứ thiền thiên gấp một ngàn lần các thế giới ở tam thiền thiên.
Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, quyển Chín, Đức Phật đă nói với ngài A Nan
về Tứ Thiền Thiên như sau: “Ông A Nan! Bốn thắng lưu trong Tứ Thiền
Thiên, tất cả trong đời các cảnh khổ và vui không thể lay động. Dù chẳng
phải thật là chỗ vô vi bất động, có tâm sở đắc. Công dụng thuần thục—The
fourth region, equal to a great chiliocosmos. The inhabitants in this
region still have mind. This is the ground of purity and renunciation
of thought. The fourth dhyana has one thousand times those of the
third. In the Surangama Sutra, book Nine, the Buddha told Ananda about
the fourth dhyana as follows: “Ananda! Those who flow to these four
superior levels in the fourth dhyana will not be moved by any suffering
or bliss in any world. Although this is not the unconditioned or the
true ground of non-moving, because they still have the thought of
obtaining something, their functioning is nonetheless quite advanced.”
(B)
Những cơi trời thuộc cơi Tứ Thiền Thiên—Sublevels
of the Fourth Dhyana
Heaven:
·
Phúc Sanh Thiên: Punyaprasava (skt)—Felicitous Birth
heaven—Trong Kinh Lăng Nghiêm, quyển Chín, người tu thiền, khổ nhân đă
hết, không bức thân tâm. Cái vui chẳng phải thường trụ, lâu ngày phải
hoại. Kíp bỏ hai thứ khổ vui. Tướng thô trọng đều diệt. Sinh tính tịnh
phúc. Gọi là Phúc Sanh Thiên—In the Surangama Sutra, book Nine, heavenly
beings whose bodies and minds are not oppressed, put an end to the cause
of suffering, and realize that bliss is not permanent; that sooner or
later it will come to an end. Suddenly they simultaneously renounce both
thoughts of suffering and thoughts of bliss. Their coarse and heavy
thoughts are extinguished, and they give rise to the nature of purity
and blessing. They are among those in the Heaven of the Birth of
Blessing.
·
Phúc Ái Thiên: Anabhraka (skt)—Blessed Love Heaven—Trong
kinh Thủ Lăng Nghiêm, quyển Chín, những người v́ sự xả trước đă viên
dung, thắng giải thanh tịnh, được phúc rất tùy thuận, cùng đời vị lai.
Gọi là Phúc Ái Thiên—In the Surangama Sutra, book Nine, those whose
renunciation of these thoughts is in perfect fusion gain a purity of
superior understanding. Within these unimpeded blessings they obtain a
wonderful compliance that extends to the bounds of the future. They are
among those in the Blessed Love Heaven.
·
Quảng Quả Thiên: Brhatphala (skt)—Large or Abundant
Fruitage Heaven—Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, quyển Chín, từ cơi trời Phúc
Ái Thiên tiến lên có hai đường; đường thứ nhất là Quảng Quả Thiên và
đường thứ nh́ là Vô Tưởng Thiên. Đối với tâm diệu tùy thuận trước, được
tịnh quang vô lượng, phúc đức viên minh, tu chứng mà an trụ. Gọi là
Quảng Quả Thiên—In the Surangama Sutra, book Nine, from the Blessed Love
Heaven there are two ways to go: the first way is the Abundant Fruit
Heaven, and the second way is the No Thought Heaven. Those who extend
the previous thought into limitless pure light, and who perfect and
clarify their blessings and virtue, cultivate and are certified to one
of these dwellings. They are among those in the Abundant Fruit Heaven.
·
Vô Tưởng Thiên: Akanistha (skt)—The Heaven Above Thought
or No Thought Heaven—Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, quyển Chín, từ cơi trời
Phúc Ái Thiên tiến lên có hai đường, tâm nhàm chán khổ vui, cứu xét
không hề gián đoạn, tṛn đủ đạo xả, thân tâm đều dứt, tâm lự như tro
lạnh. Trải qua 500 kiếp. Đă lấy sinh diệt làm nhân, không biết phát minh
tính không sinh diệt. Trong nửa kiếp trước, ư lo nghĩ diệt trong nửa
kiếp sinh. Gọi là Vô Tưởng Thiên—In the Surangama Sutra, book Nine, from
the Blessed Love Heaven there are two ways to go. Those who extend the
previous thought into a dislike of both suffering and bliss, so that the
intensity of their thought to renounce them continues without cease,
will end up by totally renouncing the way. Their bodies and minds will
become extinct; their thoughts will become like dead ashes. For five
hundred aeons these beings will perpetuate the cause for production and
extinction, being unable to discover the nature which is neither
produced nor extinguished. During the first half of these aeons they
will undergo extinction; during the second half they will experience
production. They are among those in the Heaven of No Thought.
** Trong một hoại kiếp, sơ thiền thiên sẽ bị hủy diệt 56 lần bởi lửa,
nhị thiền thiên bảy lần bởi nước, tam thiền thiên một lần bởi gió, tứ
thiền thiên không bị ảnh hưởng; tuy nhiên, khi thiên mệnh đến (ngày tận
thế) th́ tứ thiền thiên cũng sẽ bị hủy diệt, nhưng hăy c̣n lâu lắm—Within
a kalpa of destruction, the first is destroyed fifty-six times by fire,
the second seven by water, the third once by wind, the fourth
corresponding to a state of “absolute indifference” remains
“unthouched” by all the other evolutions; however, when fate comes to
an end, then the fourth dhyana may come to an end too, but not sooner.
Tứ Thiền Vô Sắc:
Four formless jhanas.
(A)
Theo Kinh Phúng Tụng trong Trường Bộ Kinh, có bốn Thiền Vô Sắc—According
to the Sangiti Sutta in the Long Discourses of the Buddha, there are
four formless jhanas:
1)
Không Vô Biên Xứ: The Sphere of Infinite Space—Ở đây vị Tỳ Kheo
vượt lên mọi sắc tưởng, diệt trừ mọi chướng ngại tưởng, không tác ư đối
với dị tưởng, vị ấy nghĩ rằng “Hư Không là vô biên,” nên chứng và trú
Không Vô Biên Xứ—Here a monk, by passing entirely beyond bodily
sensations, by the disappearance of all senses of resistance, and by
non-attraction to the perception of diversity, seeing that space is
infinite, reaches and remains in the Sphere of Infinite Space.
2)
Thức Vô Biên Xứ: The Sphere of Infinite Consciousness—Ở đây vị Tỳ
Kheo vượt lên mọi không vô biên xứ, nghĩ rằng “Thức là vô biên,” nên
chứng và trú Thức Vô Biên Xứ—Here a monk, passing entirely beyond the
Sphere of Infinite Space, seeing that consciousness is infinite, he
reaches and remains in the Sphere of Infinite Consciousness.
3)
Vô Sở Hữu Xứ: The Sphere of No-Thingness—Ở đây vị Tỳ Kheo vượt
lên mọi thức vô biên xứ, nghĩ rằng “Không có vật ǵ,” nên chứng và trú
Vô Sở Hữu Xứ—Here a monk, by passing entirely beyond the Sphere of
Infinite Consciousness, seeing that there is nothing, he reaches and
remains in the Sphere of No-Thingness.
4)
Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ: The Sphere of Neither Perception Nor
Non- Perception—Ở đây vị Tỳ Kheo vượt lên trên mọi vô sở hữu xứ, chứng
và trú trong Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ—Here a monk, by passing entirely
beyond the Sphere of No-Thingness, he reaches and remains in the Sphere
of Neither-Perception-Nor-Non-Perception.
(B)
Theo Kinh Thủ Lăng Nghiêm, quyển Chín, Đức Phật đă nói với ngài A
Nan về Tứ Thiền Vô Sắc như sau: “Lại nữa A Nan! Từ trên đỉnh của sắc
giới, lại tẽ ra hai đường. Nếu nơi tâm xả phát minh trí tuệ, sáng suốt
viên thông, bèn ra cơi trần, thành A La Hán, vào Bồ Tát Thừa, hạng nầy
gọi là Hồi Tâm Đại A La Hán—In the Surangama Sutra, book Nine, the
Buddha told Ananda about the four formless jhanas as follows: “Ananda!
From the summit of the form realm, there are two roads. Those who are
intent upon renunciation discover wisdom. The light of their wisdom
becomes perfect and penetrating, so that they can transcend the defiling
realms, accomplish Arhatship, and enter the Bodhisattva Vehicle. They
are among those called great Arhats who have turned their minds around.”
1)
Không Xứ—Heaven of the Station of Boundless Emptiness: Nếu nơi
tâm xả được thành tựu, thấy thân chướng ngại, bỏ ngại vào không, hạng
nầy gọi là Không Xứ—Those who dwell in the thought of renunciation and
who succeed in renunciation and rejection, realize that their bodies are
an obstacle. If they thereupon obliterate the obstacle and enter into
emptiness, they are among those at the Station of Emptiness.
2)
Thức Xứ—Heaven of the Station of Boundless Consciousness: Các
ngại tiêu hết rồi, trong đó chỉ c̣n A Lại Da Thức với nửa phần vi tế của
Mạt Na, hạng nầy gọi là Thức Xứ—For those who have eradicated all
obstacles, there is neither obstruction nor extinction. Then there
remains only the Alaya Consciousness and half of the subtle functions of
the Manas. These beings are among those at the Station of Boundless
Consciousness.
3)
Vô Sở Hữu Xứ—Heaven of the Station of Nothing Whatsoever: Sắc và
không đă mất, tâm thức đều diệt, mười phương yên lặng, không c̣n chỗ đến,
hạng nầy gọi là Vô Sở Hữu Xứ—Those who have already done away with
emptiness and form eradicate the conscious mind as well. In the
extensive tranquility of the ten directions is nowhere at all to go.
These beings are among those at the Station of Nothing Whatsoever.
4)
Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ—Heaven of the Station of Neither
Thought nor Non-Thought: Dùng thức tính chẳng động để diệt sự nghiền
ngẫm, thành ra ở nơi vô tận lại tỏ bày tánh tận, như c̣n mà chẳng c̣n,
tận mà chẳng tận, hạng nầy gọi là Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ—When the
nature of their consciousness does not move, within extinction they
exhaustively investigate. Within the endless they discern the end of
the nature. It is as if were there and yet not there, as if it were
ended and yet not ended. They are among those at the Station of Neither
Thought Nor Non-Thought.
Tứ Thiện Căn:
Catus-kusala-mula (skt)—Bốn thiện căn đưa đến những quả vị tốt đẹp—The
four good roots, or sources from which spring good fruit or development:
(A)
Theo Đại Thừa—According to the Mahayana:
1)
Thanh Văn: Sravakas.
2)
Duyên Giác: Pratyeka-buddhas.
3)
Bồ Tát: Bodhisattvas.
4)
Phật: Buddhas.
(B)
Theo Câu Xá Tông—According to the Kosa Sect:
1)
Noăn Pháp: The level of heat.
2)
Đỉnh Pháp: The level of the summit.
3)
Nhẫn Pháp: The level of patience.
4)
Thế Đệ Nhất Pháp: The level of being first in the world.
** For more
information, please see Tứ Gia
Hạnh.
Tứ Thiện Khẩu
Nghiệp: See Four Wholesome (good) deeds of the mouth in
English-Vietnamese Section.
Tứ Thời: See Tứ
Quí.
Tứ Thời Công Phu:
See Tứ Thượng.
Tứ Thú: Tứ Ác—Bốn
đường dữ—The four evil directions or destinations:
1)
Địa ngục: Hells.
2)
Ngạ quỷ: Hungry ghosts.
3)
Súc sanh: Animals.
4)
A-tu-la: Asuras.
Tứ Thủ:
Upadanani (p)—Four clingings—Theo Kinh Phúng Tụng trong Trường Bộ Kinh,
có bốn thủ—According to the Sangiti Sutta in the Long Discourses of the
Buddha, there are four clingings:
1)
Dục Thủ: Chấp thủ vào dục lạc—Clinging to sensuality.
2)
Kiến Thủ: Ditthi (p)—Chấp thủ vào tà kiến—Clinging to wrong
views.
3)
Giới Cấm Thủ: Silabbata-paramasa (p)—Chấp thủ vào giới cấm hay lễ
nghi—Clinging to rules and ritual.
4)
Ngă Thuyết Thủ: Attavada (p)—Chấp thủ vào ngă tín—Clinging to
ego-belief.
Tứ Thuật: Bốn
nghệ thuật—The four arts;
1)
Cầm: Đàn hát—Playing music instrument.
2)
Kỳ: Đánh cờ—Playing chess.
3)
Thi: Thi thơ—Poetry.
4)
Họa: Họa vẽ—Painting.
Tứ Thư Ngũ Kinh:
Bốn quyển thi thơ và năm quyển kinh pháp của Khổng giáo, dạy con người
về nhân đức—Four books and five classics—Volumes of Confucianism
teaching responsibility and the need to be a good and virtuous human
being.
Tứ Thừa: The
four yanas or vehicles—See Tứ Thặng and Tứ Xa.
Tứ Thức Trú:
Vinnana-tthitiyo (p)—Four stations of consciousness—Theo Kinh Phúng Tụng
trong Trường Bộ Kinh, có bốn thức trú—According to the Sangiti Sutta in
the Long Discourses of the Buddha, there are four stations of
consciousness:
1)
Sắc Thức Trú: Phenomenon—Khi duyên sắc, thức khởi lên và an trú,
thức ấy lấy sắc làm cảnh, lấy sắc làm sở y, lấy sắc làm căn cứ thọ hưởng;
được tăng trưởng, tăng thịnh, và tăng quảng—Consciousness gains a
footing in relation to materiality, with materiality as object and
basis, as a place of enjoyment; and there it grows, increases, and
flourishes.
2)
Thọ Thức Trú: Receptivity—Khi duyên thọ, thức khởi lên và an trú,
thức lấy thọ làm cảnh, lấy thọ làm sở y, lấy thọ làm căn cứ thọ hưởng;
được tăng trưởng, tăng thịnh, và tăng quảng—Consciousness gains a
footing in relation to feelings, with feelings as object and basis, as a
place of enjoyment.
3)
Tưởng Thức Trú: Cognition—Khi duyên tưởng, thức khởi lên và an
trú, thức lấy tưởng làm cảnh, lấy tưởng làm sở y, lấy tưởng làm căn cứ
thọ hưởng; được tăng trưởng, tăng thịnh, và tăng quảng—Consciousness
gains a footing in relation to perceptions, with perceptions as object
and basis, as a place of enjoyment.
4)
Hành Thức Trú: Reaction—Khi duyên hành, thức khởi lên và an trú,
thức lấy hành làm cảnh, lấy hành làm sở y, lấy hành làm căn cứ thọ hưởng;
được tăng trưởng, tăng thịnh, và tăng quảng—Consciousness gains a
footing in relation to mental formations, with mental formations as
object and basis, as a place of enjoyment.
Tứ Thức Trụ:
See Tứ Thức Trú.
Tứ Thực: Ahara
(p)—Bốn loại thực phẩm—Four kinds of food (four nutriments):
(A)
1)
Đoạn thực (Đoàn thực): Thức ăn cho thân thể—Food for the body and
its senses.
2)
Lạc thực: Thức ăn cho t́nh cảm—Food for the emotion.
3)
Tư (niệm) thực: Thức ăn cho tư tưởng—Food for thought.
4)
Thức thực: Thức ăn cho trí tuệ—Food for wisdom (Alayavijnana is
the chief).
(B) See Tứ Đạt.
(C)
Theo Kinh Phúng Tụng trong Trường Bộ Kinh, có bốn loại thực—According
to the Sangiti Sutta in the Long Discourses of the Buddha, there are
four nutriments:
1)
Đoàn Thực: Kabalinkara (p)—Material food.
2)
Xúc Thực: Contact.
3)
Tư Niệm Thực: Manosancetana (p)—Mental volition.
4)
Thức Thực: Consciousness.
Tứ Thực Thời:
Bốn thời ăn—Four times for food (See Tứ Thực A):
1)
Chư thiên ăn vào buổi sáng: The devas eat at dawn.
2)
Chư Phật ăn đúng ngọ: All Buddhas eat at noon.
3)
Súc sanh ăn vào buổi chiều: Animals eat in the evening.
4)
Quỷ ma ăn vào buổi tối: Demons and ghosts eat at night.
Tứ Thượng: Bốn
lần thượng đường lễ bái trong ngày—The four times a day of going up to
worship:
1)
Công Phu Sáng: Worship at daybreak.
2)
Công Phu Trưa: Worship at Noon.
3)
Công Phu Chiều: Worship at evening.
4)
Công Phu Khuya: Worship at midnight.
Tứ Tiên Tỵ Tử:
Bốn vị trốn chạy tử thần một cách vô vọng—The four wise men who sought
escape from death, all in vain:
1)
Người chạy lên núi: One in the mountain.
2)
Kẻ khác chạy xuống biển: Another in the ocean.
3)
Kẻ khác bay vào không trung: Another in the air.
4)
Kẻ đi vào phố chợ: Another in the market place.
Tứ Tiết: Bốn
tiết hay bốn ngày quan trọng trong Thiền Lâm—The four monastic annual
periods.
1)
Kết Hạ: Beginning of summer.
2)
Giải Hạ: End of summer.
3)
Đông Chí: Winter soltice.
4)
Niên Triều: The New Year.
** For more
information, please see Tứ Quí.
Tứ Tín Tâm:
Theo Đại Thừa Khởi Tín Luận, có bốn loại tín tâm—According to th
Awakening of Faith, there are four kinds of faith:
1)
Tín căn Bản: Tin lư Chân Như là thầy của chư Phật—Faith in
bhutatathata (chân như) as the teacher of all Buddhas.
2)
Tin Phật: Faith in the Buddha
3)
Tin Pháp: Faith in the Dharma.
4)
Tin Tăng: Faith in the Sangha.
Tứ Tín Ngũ Hạnh:
The four right objects of faith and five right modes of procedure:
(A)
The four right objects of faith: See Tứ Tín Tâm.
(B)
Ngũ hạnh: Five right modes of procedure:
1)
Bố thí: Almsgiving.
2)
Tŕ giới: Morality.
3)
Nhẫn nhục: Patience.
4)
Tinh tấn: Zeal, Progress or Effort.
5)
Thiền định: Meditation.
Tứ Tinh Cần:
Four efforts—Theo Kinh Phúng Tụng trong Trường Bộ Kinh, có bốn thứ tinh
cần—According to the Sangiti Sutta in the Long Discourses of the Buddha,
there are four efforts.
1)
Chế ngự tinh cần: Samvara-padhanam (p)—The effort of restraint—Ở
đây vị Tỳ Kheo, khi mắt thấy sắc (tai nghe âm thanh, mũi ngửi mùi, lưỡi
nếm vị, thân xúc chạm) không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng
riêng. Những nguyên nhân ǵ, v́ nhăn căn không được chế ngự, khiến tham
ái, ưu bi, các ác, bất thiện pháp khởi lên, vị Tỳ Kheo tự chế ngự nguyên
nhân ấy, hộ tŕ và thực hành sự chế ngự nhăn căn (nhĩ căn, tỷ căn, thiệt
căn, thân căn, ư căn). Vị ấy đă có được sự chế ngự tinh cần—Here a monk,
on seeing an object with the eye (or hearing the sounds, or smelling a
smell, tasting a flavour, touching an object), does not grasp at the
whole or its details, striving to restrain what might cause evil,
unwholesome states, such as hankering or sorrow, to flood in on him.
Thus he watches over the sense of sight and guards it (watches over the
sense of hearing, smelling, tasting, touching and guards them). He is
said to have the effort of restraint.
2)
Đoạn Trừ Tinh Cần: The effort of abandoning—Ở đây vị Tỳ Kheo
không nhẫn chịu dục tầm, sân tầm, và hại tầm đă khởi lên, từ bỏ, đoạn
trừ, tiêu diệt, không cho hiện hữu. Vị Tỳ Kheo ấy được gọi là vị đă có
được Đoạn Trừ Tinh Cần—Here a monk who does not assent to a thought of
lust, of hatred, of cruelty, makes them disappear. This monk is said to
have the effort of abandoning.
3)
Tu Tập Tinh Cần: The effort of development—Ở đây vị Tỳ Kheo tu
tập niệm giác chi, pháp nầy y xả ly, y ly dục, y đoạn diệt, thành thục
trong đoạn trừ, tu tập trạch pháp giác chi, tu tập tinh tấn giác chi, tu
tập hỷ giác chi, tu tập khinh an giác chi, tu tập định giác chi, tu tập
xả giác chi, pháp nầy y ly xả, y ly dục, y đoạn diệt, thành thục trong
đoạn trừ. Vị Tỳ Kheo nầy được gọi là đă có được Tu Tập Tinh Cần—Here a
monk develops the enlightenment-factor of mindfulness, based on
solitude, detachment, extinction, leading to maturity of surrender (vosagga-parinamim);
he develops the enlightenment factor of investigation of states, of
energy, of delight, of tranquility, of concentration, of equanimity,
based on solitude, detachment, extinction, leading to maturity of
surrender. He is said to have the effort of development.
4)
Hộ Tŕ Tinh Cần: The effort of preservation—Ở đây vị Tỳ Kheo hộ
tŕ định tướng tốt đẹp đă khởi lên, cốt tưởng, trùng hám tưởng, thanh ứ
tưởng, đoạn hại tưởng, trương bành tưởng. Vị Tỳ Kheo nầy được gọi là Hộ
Tŕ Tinh Cần—Here a monk who keeps firmly in his mind a favourable
object of concentration which has arisen, such as a skeleton, or a
corpse that is full of worms, blue-black, full of holes, bloated. He is
said to have the effort of preservation.
Tứ Tính: The
four Indian clans—See Tứ Tánh.
Tứ Tĩnh Lự Thiên:
See Tứ Thiền Thiên.
Tứ Tịnh Định:
Tịnh định thứ tư—Fourth dhyana, the “pure” dhyana.
Tứ Tịnh Độ:
Four Pure Lands—See Tứ Độ in Vietnamese-English Section.
Tứ Tịnh Thiên:
See Tứ Thiền Thiên.
Tứ Tông: Bốn
tông phái—The four kinds of inference in logic:
(A)
Theo Ngài Tịnh Ảnh—According to Ching-Ying:
1)
Lập Tính Tông: Sarvastivada—Lower Hinayana—Everything exists or
has its own nature.
2)
Phá Tính Tông: Satyasiddhi—Higher Hinayana—Everything has not a
nature of its own.
3)
Phá Tướng Tông: Lower Mahayana—Form has no reality because of the
doctrine of the void.
4)
Hiển Thực Tông: Higher Mahayana—All comes from the bhutatathata—Revelation
of reality.
(B)
Theo Ngài Đàm Ẩn tại chùa Đại Diễn Trung Quốc—According to T’an-Yin:
1)
Nhân Duyên Tông: All things are causally produced (Lập tánh).
2)
Giả Danh Tông: Things are but names (Phá tánh).
3)
Bất Chân Tông: Denying the reality of form (Phá tướng), but fails
to define reality.
4)
Chân Tông: The school of the real, in contrast with the seeming.
Tứ Trai Nhựt:
Bốn ngày trai trong tháng là mồng một, mồng tám, rằm và 23—The four
fast days of the month (moon) are new moon, full moon, 8th and 23rd.
Tứ Trấn: The
four guardians—See Tứ Thiên Vương.
Tứ Tri: Bốn
người biết rơ sự vận hành của tâm trong việc tốt xấu—The four who know
the workings of the mind for good or evil:
1)
Trời: Heaven.
2)
Đất: Earth.
3)
Người tâm phúc: One’s intimates.
4)
Tự ḿnh: Oneself.
Tứ Tri Kiến:
Four knowledge and vision of the Buddha—Theo Kinh Pháp Bảo Đàn, Phẩm thứ
bảy, Lục Tổ dạy: “Nếu hay nơi tướng mà ĺa tướng, nơi không mà ĺa không
th́ trong ngoài chẳng mê. Nếu ngộ được pháp nầy, một niệm tâm khai, ấy
là khai Tri Kiến Phật. Phật tức là giác, phân làm bốn môn—According to
the Dharma Jewel Platform Sutra, Chapter Seventh, the Sixth Patriarch
said: “If you can live among marks and yet be separate from it, then you
will be confused by neither the internal nor the external. If you awaken
to this Dharma, in one moment your mind will open to enlightenment. The
knowledge and vision of the Buddha is simply that. The Buddha is
enlightenment. There are four divisions.”
1)
Khai giác tri kiến: Opening to the enlightened knowledge and
vision.
5)
Thị giác tri kiến:
Demonstrating the enlightened knowledge and vision.
5)
Ngộ giác tri kiến: Awakening to the enlightened knowledge and
vision.
6)
Nhập giác tri kiến: Entering the enlightened knowledge and
vision.
Tổ liền giải thích thêm cho Sư Pháp Đạt về “Khai
Thị Ngộ Nhập như sau: “Nếu nghe khai thị liền hay ngộ nhập tức là giác
tri kiến, chơn chánh xưa nay mà được xuất hiện. Ông dè dặt chớ hiểu lầm
ư kinh, nghe trong kinh nói khai thị ngộ nhập rồi tự cho là Tri Kiến của
Phật, chúng ta th́ vô phần. Nếu khởi cái hiểu nầy tức là chê bai kinh,
hủy báng Phật vậy. Phật kia đă là Phật rồi, đă đầy đủ tri kiến, cần ǵ
phải khai nữa. Nay ông phải tin Phật tri kiến đó chỉ là tự tâm của ông,
lại không có Phật nào khác; v́ tất cả chúng sanh tự che phủ cái quang
minh, tham ái trần cảnh, ngoài th́ duyên với ngoại cảnh, trong tâm th́
lăng xăng, cam chịu lôi cuốn, liền nhọc Đức Thế Tôn kia từ trong tam
muội mà dậy, dùng bao nhiêu phương tiện nói đến đắng miệng, khuyên bảo
khiến các ông buông dứt chớ hướng ra ngoài t́m cầu th́ cùng Phật không
hai, nên nói khai Phật tri kiến. Tôi cũng khuyên tất cả các người nên
thường khai tri kiến Phật ở trong tâm của ḿnh. Người đời do tâm tà, ngu
mê tạo tội, miệng th́ lành tâm th́ ác, tham sân tật đố, siểm nịnh, ngă
mạn, xâm phạm người hại vật, tự khai tri kiến chúng sanh. Nếu ngay chánh
tâm, thường sanh trí huệ, quán chiếu tâm ḿnh, dừng ác làm lành, ấy là
tự khai tri kiến Phật. Ông phải mỗi niệm khai tri kiến Phật, chớ khai
tri kiến chúng sanh. Khai tri kiến Phật tức là xuất thế, khai tri kiến
chúng sanh tức là thế gian. Nếu ông chỉ nhọc nhằn chấp việc tụng niệm
làm công khóa th́ nào khác con trâu ly mến cái đuôi của nó!”—The Sixth
Patriarch further explained about”
Opening-Demonstrating-Awakening-Entering” to Fa-Ta: “If you listen to
the opening and demonstrating of the Dharma, you can easily awaken and
enter. That is the enlightened knowledge and vision, the original true
nature becoming manifested. Be careful not to misinterpret the Sutra by
thinking that the opening, demonstrating, awakening, and entering of
which it speaks is the Buddha’s knowledge and vision and that we have no
share in it. To explain it that way would be to slander the Sutra and
defame the Buddha. Since he is already a Buddha, perfect in knowledge
and vision, what is the use of his opening to it again? You should now
believe that the Buddha’s knowledge and vision is simply your own mind,
for there is no other Buddha. But, because living beings cover their
brilliance with greed, and their love with states of defilement;
external conditions and inner disturbance make slaves of them. That
troubles the World-Honored One to rise from Samadhi, and with various
reproaches and expedients, he exhorts living beings to stop and rest,
not to seek outside themselves, and to make themselves the same as he
is. That is called ‘Opening the knowledge and vision of the Buddha.’ I,
too, am always exhorting all people to open to the knowledge and vision
of the Buddha within their own minds. The mind of worldly people are
deviant. Confused and deluded, they commit offenses. Their speech may be
good, but their minds are evil. They are greedy, hateful, envious, given
to flattery, deceit and arrogance. They oppress one another and harm
living creatures, thus, they open not the knowledge and vision of Buddha
but that of living beings. If you can with an upright mind constantly
bring forth wisdom, contemplating and illuminating your own mind, and if
you can practice the good and refrain from evil, you, yourself will
open to the knowledge and vision of the Buddha. In every thought you
should open up to the knowledge and vision of the Buddha; do not open up
to the knowledge and vision of living beings. To be open to the
knowledge and vision of the Buddha is transcendental; to be open to the
knowledge and vision of living beings is mundane. If you exert yourself
in recitation, clinging to it as a meritorious exercise, how does that
make you different from a yak who loves his own tail?”
Tứ Trí:
(A)
Theo Kinh Phúng Tụng trong Trường Bộ Kinh, có bốn trí—According
to the Sangiti Sutta in the Long Discourses of the Buddha, there are
four knowledges.
1)
Pháp Trí: Knowledge of Dharma.
2)
Loại Trí: Anvaye-nanam (p)—Knowledge of what is consonant with it
.
3)
Tha tâm trí: Paricce-nanam (p)—Knowledge of others’ minds.
4)
Thế tục trí: Sammuti-nanam (p)—Conventional knowledge.
(B)
Theo Kinh Phúng Tụng trong Trường Bộ Kinh, có bốn loại trí khác—According
to the Sangiti Sutta in the Long Discourses of the Buddha, there are
four more knowledges:
1)
Khổ Trí: Knowledge of suffering.
2)
Tập trí: Knowledge of the origin of suffering.
3)
Diệt trí: Knowledge of the cessation of suffering.
4)
Đạo trí: Knowledge of the path (to eliminate sufferings).
(C)
Bốn loại trí huệ Phật—The four forms of wisdom of a Buddha:
1)
Đại Viên Cảnh Trí (Của Phật A Súc): The great perfect mirror
wisdom of Aksobhya (A Súc Bệ Phật).
2)
B́nh Đẳng Tánh Trí (của Phật Bảo Tướng): The wisdom of
Equality—The universal wisdom of Ratnaketu (Bảo Tướng Phật).
3)
Diệu Quán Sát Trí (của Phật A Di Đà): The wisdom of wonderful
contemplation or the profound observing wisdom of Amitabha (A Di Đà Phật).
4)
Thành Sở Tác Trí (của Phật Bất Không hay Vi Diệu Thanh hay Phật
Thích Ca Mâu Ni): The wisdom that accomplishes what is done. The
perfecting wisdom of Amoghasiddhi (Bất Không Phật).
(D)
Theo Kinh Pháp Bảo Đàn, Phẩm thứ Bảy—According to the Dharma
Jewel Platform Sutra, Chapter Seventh:
1)
Đại Viên Cảnh Trí (Của Phật A Súc): The great perfect mirror
wisdom of Aksobhya (A Súc Bệ Phật)—Đại Viên Cảnh Trí là tánh thanh tịnh
của chúng sanh (chuyển thức thứ tám làm Đại Viên Cảnh Trí)—The wisdom of
the great, perfect mirror is the clear and pure nature of all sentient
beings (the eighth consciousness turned to become the wisdom of Great
Perfect Mirror).
2)
B́nh Đẳng Tánh Trí (của Phật Bảo Tướng): The wisdom of
Equality—The universal wisdom of Ratnaketu (Bảo Tướng Phật)—B́nh Đẳng
Tánh Trí là tâm không bệnh của chúng sanh (chuyển thức thứ bảy làm B́nh
Đẳng Tánh Trí)—The wisdom of equal nature is the mind without disease of
sentient beings (the seventh consciousness turned to become the Wisdom
of Equal Nature).
3)
Diệu Quán Sát Trí (của Phật A Di Đà): The wisdom of wonderful
contemplation or the profound observing wisdom of Amitabha (A Di Đà Phật)—Diệu
Quán Sát Trí là trí thấy mà không phải dụng công của chúng sanh (thức
thứ sáu được chuyển thành Diệu Quán Sát Trí)—The Wonderful observing
wisdom is seeing without effort of sentient beings (the sixth
consciousness turned to become the Wonderfully Observing Wisdom).
4)
Thành Sở Tác Trí (của Phật Bất Không hay Vi Diệu Thanh hay Phật
Thích Ca Mâu Ni): The wisdom that accomplishes what is done. The
perfecting wisdom of Amoghasiddhi (Bất Không Phật)—Thành Sở Tác Trí
giống như Viên Cảnh Trí (năm thức đầu được chuyển thành Thành Sở Tác Trí)—The
Perfect wisdom is the same as the perfect mirror (the first five
consciousnesses turned to become the perfecting wisdom).
(E)
Theo Duy Thức, có bốn loại Phật Trí—According to the Vijnanamatra,
there are four kinds of Buddha’s wisdom—See Ngũ Trí from (2) to (5):
Tứ Trí Ấn: Bố
Trí Ấn của tông Chân Ngôn—Four wisdom symbols of the Shingon cult:
1)
Đại Trí Ấn: Maha-jnana-mudra (skt)—The forms of the images.
2)
Tam Muội Da Ấn: Samaya-jnana-mudra (skt)—Symbols and manual
signs.
3)
Pháp Trí Ấn: Dharma-jnana-mudra (skt)—The magic formula.
4)
Yết Ma Trí Ấn: Karma-jnana-mudra (skt)—The emblems of their
specific functions.
Tứ Trí Tụng:
Bài tụng cho bốn trí—The praise hymns of the four wisdoms—See Tứ Trí.
Tứ Trọng: Tứ Ba
La Di—Tứ Khí—Tứ Cực Trọng Cảm Đọa Tội—The four grave prohibitions or
sins—See Tứ Đọa.
Tứ Trọng Bát Trọng:
Bốn tội Ba La Di cho Tỳ Kheo và tám tội Ba La Di cho Tỳ Kheo Ni—The four
Parajikas for monks and eight for nuns.
(A)
Bốn Tội Ba La Di Cho Tỳ Kheo: The four Parajikas for monks—See Tứ
Đọa.
(B)
Tám Tội Ba La Di Cho Tỳ Kheo Ni: Eight Parajikas for nuns—See Bát
Ba La Di.
Tứ Trọng Cấm:
The four grave prohibitions or sins—See Tứ Đọa.
Tứ Trọng Tội:
The four grave prohibitions or sins—See Tứ Đọa.
Tứ Trợ Duyên:
Theo Câu Xá Tông trong A Tỳ Đàm Luận, có bốn trợ duyên trong luật Nhân
Quả—According to the Kosa School in the Abhidharma, there are four
sub-causes in the theory of Causal Relation.
1)
Nhân Duyên: Hetu-pratyaya (skt)—Nhân duyên hoạt động như một căn
nhân, không có sự phân biệt nào giữa căn nhân và trợ duyên, thí dụ nước
và gió tạo ra sóng—The cause sub-cause which acts as chief cause (hetu-pratyaya),
there being no distinction between the chief cause and the secondary
cause, i.e., the water and the wind cause a wave.
2)
Thứ Đệ Duyên: Samanantra-pratyaya (skt)—Thứ đệ duyên là loại
duyên diễn ra trong trật tự, cái nầy tiếp theo cái kia, những hậu quả
đến trực tiếp và b́nh đẳng sau những nhân trước, như những làn sóng nầy
kế tiếp theo những làn sóng khác—The immediate sub-cause, occuring in
order, one after another, consequences coming immediately and equally
after antecedents, as waves following one after another.
3)
Sở Duyên Duyên: Alambana-pratyaya (skt)—Sở duyên duyên có một đối
tượng hay môi trường khi một nguyên nhân diễn ra, thí dụ những làn sóng
được tạo ra do ao, hồ, sông, biển hay tàu bè—The objective sub-cause,
which has an object or environment as a concurring cause, as waves are
conditioned by a basin, a pond, a river, the sea, or a boat.
4)
Tăng Thượng Duyên: Adhipati-pratyaya (skt)—Tăng thượng duyên là
nguyên nhân có quyền năng nhất trong việc đưa những nguyên nhân tồn tại
đến chỗ cực thành; thí dụ, làn sóng cuối cùng làm lật đổ con thuyền
trong một cơn băo. Tăng thượng duyên và năng tác duyên là hai nguyên
nhân quan trọng nhất. Năng tác nhân tự nó là tăng thượng duyên—The
upheaving sub-cause which is the most powerful one to bring all the
abiding causes to a culmination, as the last wave that upsets a boat in
a storm. Among these four causes, the cause sub-cause and the upheaving
cause are the most important ones. The active cause is itself the
upheaving sub-cause.
** For more
information, please see Lục Căn
Nhân, and Lục
Căn Nhân Tứ Trợ Duyên.
Tứ Trụ: Bốn
loại kiết sử (trạng thái hay điều kiện) trong ṿng sanh tử tam giới—The
four states of conditions found in the three realms of mortality:
(A)
1)
Kiến nhứt thiết trụ địa: Mọi kiến hoặc trong tam giới—The
delusions arising from seeing things as they seem, not as they are.
2)
Dục ái trụ: Tư hoặc trong dục giới, mà tham ái là nặng nhất—The
desires in the desire realm.
3)
Sắc ái trụ: Tư hoặc hay Ái dục trong sắc giới—The desires in the
form-realm.
4)
Hữu ái tru: Tư hoặc hay Ái dục trong vô sắc giới—The desires in
the formless realm.
(B)
1)
Thiên trụ (trụ xứ của lục dục thiên): Cơi thiên trụ tương đương
với bố thí, tŕ giới, nhẫn nhục, và thiện tâm—The devalokas, equivalent
of charity, morality, patience and goodness of heart.
2)
Phạm trụ (trụ xứ của chư thiên cơi sắc giới tức là tứ vô lượng
tâm): Cơi phạm trụ tương đương với trạng thái từ, bi, hỷ, xả—The
brahmalokas, equivalent of benevolence, pity, joy and indifference.
3)
Thánh trụ (trụ xứ của bậc Thánh giả Tam thừa, tức là tam tam muội,
không, vô tướng và vô tác): Trụ xứ của Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát,
tương đương với tam ma địa của cảnh giới không, vô tướng và vô tác—The
abode of Sravakas, Pratyeka-Buddhas and Bodhisattvas, equivalent of
samadhi of the immaterial realm, formless and still.
4)
Phật trụ (trụ xứ của tất cả chư Phật tức là vô lượng tam muội):
Cơi Phật tương đương với vô tận Tam ma địa—The Buddha-abode, the
equivalent of the samadhi of the infinite.
Tứ Trụ Địa: See
Tứ Trụ (A).
Tứ Trung Đạo:
Theo sự giải thích của Ngài Long Thọ Bồ Tát trong Trung Quán Luận th́
‘chánh’ là một khoảng giữa. Khoảng giữa chiếm chỗ của hai thái cực là
một khoảng giữa của phản đề, hay khoảng giữa của tương quan: đối thiên
trung. Khoảng giữa vượt ngoài cả hai thái cực hoàn toàn bị phá hủy là
khoảng giữa vượt ngoài các thái cực: tận trung thiên. Khi ư tưởng về hai
thái cực hoàn toàn bị xóa bỏ, bấy giờ là khoảng giữa tuyệt đối: tuyệt
đăi trung. Như vậy tuyệt đăi chánh cũng là tuyệt đăi trung. Khi ‘tuyệt
đăi trung’ được đem ra giáo hóa quần chúng, nó trở thành một thứ Trung
Đạo hay chân lư giả tạm: thành giả trung. Cũng theo ngài Long Thọ th́ có
bốn thứ Trung Đạo—According to the interpretation of Nagarjuna
Bodhisattva in the Madhyamika Sastra, right is the middle. The middle
versus two extremes is antithetic middle or relative middle. The middle
after the two extremes have been totally refuted, is the middle devoid
of extremes. When the ideas of two extremes is removed altogether, it
is the absolute middle. Thus the absolute right is the absolute middle.
When the absolute middle condescends to lead people at large, it becomes
a temporary middle or truth. Also according to Nagarjuna Bodhisattva, we
have thus the fourfold Middle Path:
1)
Tục Hữu Chân Không: Khi hữu đối lập với vô th́ hữu được coi như
tục đế và vô là chân đế—When the theory of being is opposed to the
theory of non-being, the former is regarded as the worldly truth and the
latter the higher truth.
2)
Tục Hữu Không, Chân Phi Hữu Phi Không: Khi hữu và vô đối lập với
phi hữu phi vô, th́ hữu vô là tục đế và phi hữu phi vô là chân đế—When
the theory of being and non-being are opposed to those of neither being
nor non-being, the former are regarded as the worldly truth and the
latter the higher truth.
3)
Tục Hữu Không Phi Hữu Không, Chân Phi Phi Hữu Phi Phi Không: Nếu
cả bốn quan điểm đối lập trên đều thuộc tục đế, th́ những quan điểm nào
cao hơn, phủ nhận chúng được xem là chân đế—If the four opposed theories
just mentioned together become the worldly truth, the yet higher views
dening them all will be regarded as the higher truth.
4)
Tục Phi Phi Hữu Phi Phi Không, Chân Phi Phi Bất Hữu Phi Phi Bất
Không: Khi những quan điểm được diễn tả trong (3) trở thành tục đế, th́
sự phủ nhận tất cả chúng sẽ là chân đế—If the expressed in the last
stage become the worldly truth, the denial of them all will be the
higher truth.
Tứ Trùng Mạn Đồ La:
Thai Tạng Giới và ba viện chung quanh được gọi là Tứ Trùng Mạn Đồ La,
nơi trú ngụ của những vị Thánh trong bốn viện nầy—The Garbhadhatu
mandala of one central and three surrounding courts. The occupants are
described as the sacred host of the four courts:
1)
Thai Tạng Giới: The Garbhadhatu.
2)
Đệ Nhất Viện Trung Thai Bát Diệp Cửu Tôn: The first court of the
heart of eight-petal, eight-leaf lotus meditation.
3)
Đệ Nhị Viện Văn Thù: The second court of Manjusri.
4)
Đệ Tam Viện Thích Ca: The third court of Sakyamuni.
Tứ Trụy (Đọa) Lạc
Pháp: Parajika (skt)—Bốn tội sa đọa của chư Tăng Ni—The four causes
of falling from grace and final excommunication of a monk or nun:
1)
Sát sanh: Killing.
2)
Trộm cắp: Stealing.
3)
Dâm dục: Adultery.
4)
Gian dối: Falsity.
Tứ Tu Du: Bốn
thứ thời gian ngắn—The four short divisions of time:
1)
Một cái chớp mắt: A wink (closing and opening the eyelids
quickly).
2)
Một cái khảy móng tay: A snap of the fingers, said to be one
sixtieth of a twinking (shining with a flickering or sparkling light) .
3)
La Dự: Bằng hai mươi lần cái khảy móng—A lava, which is
equivalent to 20 finger-snaps.
4)
Tu Du: Bằng hai mươi lần La Dự tức 400 lần khảy móng—Ksana, said
to be 20 lava or 400 finger-snaps.
Tứ Tu Tập Thiền
Định: Samadhi-bhavana (p)—Four concentrative meditations—Theo Kinh
Phúng Tụng trong Trường Bộ Kinh, có bốn sự tu tập thiền định—According
to the Sangiti Sutta in the Long Discourses of the Buddha, there are
four concentrative meditations.
1)
Tu Tập Thiền Định Đưa Đến Lạc Trú Ngay Trong Hiện Tại: Ở đây vị
Tỳ Kheo ly dục, ly ác pháp, và trú sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ
thiền. Như vậy nhờ tu tập và hành tŕ thiền định nhiều lần mà đạt đến
lạc trú ngay trong hiện tại—Here a monk, having given up desires and
unwholesome deeds, having practiced, developed and expanded the first,
second, third and fourth jhanas, he will attain happines here and now.
2)
Tu Tập Thiền Định Đưa Đến Chứng Đắc Tri Kiến: Ở đây vị Tỳ Kheo tác
ư quang minh tưởng, an trú tưởng ban ngày, ban ngày thế nào ban đêm như
vậy, ban đêm thế nào ban ngày như vậy. Và như vậy với tâm mở rộng không
đóng kín, tạo ra một tâm có hào quang. Vị Tỳ Kheo nầy đang chứng đắc tri
kiến—Here a monk attends to the perception of light (alokasannam-manasikaroti),
he fixes his mind to the perception of day, by night as by day, by day
as by night. In this way, with a mind clear and unclouded, he develops a
state of mind that is full of brightness (sappabhasam cittam). This monk
is gaining knowledge-and-vision.
3)
Tu Tập Thiền Định Đưa Đến Chánh Niệm Tỉnh Giác: Ở đây vị Tỳ Kheo
biết được lúc thọ khởi, thọ trú và thọ diệt; biết được tưởng khởi, tưởng
trú và tưởng diệt; biết được tầm khởi, tầm trú và tầm diệt. Nhờ đó mà vị
Tỳ Kheo nầy luôn chánh niệm và tỉnh giác—Here a monk knows feelings as
they arise, remain and vanish; he knows perceptions as they arise,
remain and vanish; he knows thoughts as they arise, remain and vanish.
He therefore always has mindfulness and clear awareness.
4)
Tu Tập Thiền Định Đưa Đến Sự Diệt Tận Các Lậu Hoặc: Ở đây vị Tỳ
Kheo an trú, quán tánh sanh diệt trên năm thủ uẩn, Đây là sắc, đây là
sắc tập, đây là sắc diệt; đây là thọ; đây là tưởng; đây là hành; đây là
thức, vân vân. Nhờ đó mà vị Tỳ Kheo nầy diệt tận các lậu hoặc—Here a
monk abides in the contemplation of the rise and fall of the five
aggregates of grasping. This material form, this is its arising, this is
its ceasing; these are feelings; this is perception; these are mental
formations; this is consciousness, etc. Accomplishing these
contemplations will lead to the destruction of the corruptions.
Tứ Tuần: Forty
years of age.
Tứ Tuệ: Four
kinds of wisdom—See Tứ Huệ.
Tứ Tung: Những
hướng lộn xộn khác nhau (không có thứ tự)—In different directions (in
disorder).
Tứ Tuyệt:
(A)
Quatrain—Verse of four lines—Four-line poem.
(B)
Bốn tư tưởng cần phải loại trừ để đạt được chân lư—The four ideas
to be got rid of in order to obtain the “mean” of ultimate reality:
1)
Chư Pháp Hiện Hữu: Things exist.
2)
Chư Pháp Không Hiện Hữu: Things do not exist.
3)
Chư Pháp Diệc Hữu Diệc Phi: Things exist and do not exist.
4)
Chư Pháp Phi Hữu Phi Phi: Neither exist nor not exist.
Tứ Tự Tại: Bốn
tự tại—The four sovereign powers:
1)
Giới: The moral law.
2)
Thần thông: Supernatural powers.
3)
Trí: Knowledge.
4)
Huệ: Wisdom.
Tứ Tự Xâm: Bốn
điều tự làm tổn hại—The four self-injuries (self-raidings):
1)
Túc Dạ Bất Học: Thiếu thời không chăm học—In youth not to study
from morning till night.
2)
Lăo Bất Chỉ Dâm: Khi lớn tuổi không ngừng dâm dục—In advancing
years not to cease sexual intercourse.
3)
Đắc Tài Bất Thí: Giàu sang hay được của chẳng chịu bố thí—In
wealth not being charitable.
4)
Bất Thụ Ngôn Phật: Hiện đời không chịu tiếp thụ và tu tập Phật
pháp—In present life not to accept and practice the Buddha’s teaching.
Tứ Tướng:
Avastha (skt)—Bốn trạng thái của mọi hiện tượng hay Ngă Nhân Tứ Tướng
được nói đến trong Kinh Kim Cang—The four states of all phenomena or
four ejects of the ego mentioned in the Diamond Sutra:
(A)
Chư Pháp Tứ Tướng—The four states of all phenomena in general:
1) Sanh: Birth.
2) Trụ: Being.
3)
Dị: Change (decay).
4)
Diệt: Death.
(B)
Tứ Hữu Vi Tướng—The four forms of activity—See Tứ Hữu Vi Tướng.
(C)
Quả Báo Tứ Tướng—Four forms of the consequences
(recompenses—retribution—requitals) of one’s previous life:
1)
Sanh: Birth.
2)
Lăo: Già—Old age.
3)
Bệnh: Disease.
4)
Tử: Chết—Death.
(D)
Tàng Thức Tứ Tướng: Theo Khởi Tín Luận, tàng thức có bốn tướng—According
to the Awakening of Faith, there are four forms of Alaya-vijnana:
1)
Sinh: Initiation.
2)
Trụ: Continuation.
3)
Dị: Change.
4)
Diệt: Cessation.
(E) Ngă Nhân Tứ Tướng
(nói đến trong Kinh Kim Cang)—The four ejects of the ego mentioned in
the Diamond Sutra—See Ngă Nhân Tứ Tướng.
Tứ Tướng Hữu Vi:
Four forms of activity—See Tứ Tướng.
Tứ Tướng Quả Báo:
Bốn trạng thái của đời sống: sanh, lăo, bịnh, tử—The four states of all
being life: birth, aged, disease and death.
Tứ Tướng Tàng Thức:
Bốn trạng thái trong tàng thức—Initiation, continuation, change and
cessation.
Tứ Tỳ Kheo: See
Tứ Ác Tỳ Kheo.
Tứ Uy Nghi: Bốn
uy nghi—Four respect-inspiring forms of demeanor—Four respect-inspiring
behaviors:
1)
Walking: Đi.
2)
Standing: Đứng.
3)
Lying: Nằm.
4)
Sitting: Ngồi.
Tứ Uyển: Tứ
Viên—Bốn nơi vui thú bên ngoài Thiện Kiến Thành, thành phố của cơi trời
Đế Thích—The pleasure grounds outside of Sudarsana, the heavenly city of
Indra:
1)
Chúng Xa Uyển ở về phương Đông: Caitrarathavana (skt)—The park of
chariots in the east.
2)
Thô Ác Uyển ở về phương Nam: Parusakavana (skt)—The war park, in
the South.
3)
Tạp Lâm Uyển ở về phương Tây: Misrakavana (skt)—The park where
all desires are fulfilled, in the West.
4)
Hỷ Lâm Uyển ở về phương Bắc: Nandanavana (skt)—The park of all
delight, in the North.
Tứ Ưu Đàn Na:
Four Udana—The four dogmas:
(A)
1)
Nhất Thiết Hành Vô Thường: Vạn vật vô thường—All is impermanent.
2)
Nhất Thiết Hành Khổ: Mọi thứ đều đưa đến khổ đau—All is
suffering.
3)
Chư Pháp Vô Ngă: Chư pháp vô ngă—All things have no self.
4)
Niết Bàn Tịch Diệt: Chỉ có Niết bàn là vĩnh viễn, vô khổ và thanh
tịnh—Only Nirvana is permanent, joy with a real soul and purity.
(B) Theo Ḥa Thượng Thích Thiền Tâm trong Niệm Phật Thập Yếu, khi ngũ
dục lục trần nổi dậy hay tâm tham nhiễm ngũ dục lục trần, cách đối trị
tổng quát là nên quán sát thuần thục bốn lư: bất tịnh, khổ, vô thường,
vô ngă. Khi quán xét từ thân, tâm, đến cảnh giới đều bất tịnh, khổ, vô
thường và vô ngă, hành giả sẽ dứt trừ được tham nhiễm. Bởi chúng sanh
thiếu mất trí huệ, thường sống trong sự điên đảo, không sạch cho là sạch,
khổ cho là vui, vô thường cho là thường, vô ngă cho là ngă, rồi sanh ra
mê say đắm nhiễm, nên Đức Phật dạy phải dùng “Tứ Ưu Đàn Na” để quán phá
bốn sự điên đảo nầy. Chẳng hạn như phẩn uế, ta cho là thối tha nhơ nhớp,
nhưng loài chó lợn v́ nghiệp mê nhiễm, lại thấy là thơm sạch ngon, nên
đua nhau tranh giành. Sự dục nhiễm ở nhơn gian, loài người cho là vui
sạch đáng ưa thích, nhưng chư thiên cho là hôi tanh nhơ nhớp, chẳng khác
chi ta thấy loài chó lợn ăn đồ ô uế. Sự dục nhiễm của chúng sanh rất si
mê điên đảo đại khái là như thế, nên người tu phải cố gắng lần lượt phá
trừ—According to Most Venerable Thích Thiền Tâm in The Pure Land
Buddhism in Theory and Practice, when the five desires and six dusts
flare up, the general way to counteract them is through skillful
visualization of the four truths of impurity, suffering, impermanence,
and no-self. For example, the human excrement that we consider fetid
(bad smell) and dirty is regarded as fragrant, clean and succulent by
animals such as insects, dogs and pigs, because of their deluded karma.
They therefore compete and struggle to gobble it up. The defiled desires
of this world are considered by humans as lovely and clean. However, the
gods and immortals see them as foul-smelling, dirty and unclean, not
unlike the way human beings regard dogs and pigs eating filthy
substances. The various desires of sentient beings, defiled and upside
down, are general thus. The practitioner should strive gradually to
destroy them.
1)
Bất Tịnh: Impurity—Bất tịnh là chỉ cho thân không sạch, tâm không
sạch, và cảnh không sạch—This means that the body is impure, the mind is
impure and the realm is impure.
a)
Thân không sạch là phải quán xét thân ta và người bên ngoài nhờ
có lớp da che dấu, nhưng bên trong chỉ toàn là những thứ hôi tanh nhơ
nhớp như thịt, xương, máu, mủ, đờm, dăi, phẩn, nước tiểu, vân vân. Đă
thế mà các thứ nhơ nhớp bên trong c̣n bài tiết ra cửu khổng (chín lổ)
bên ngoài. Suy xét kỹ, sắc thân của chúng sanh không có chi đáng ưa
thích: Impurity of the body means that we should reflect on the fact
that beneath the covering layers of skin, our bodies and those of others
are composed entirely of filthy, smelly substances such as meat, bones,
blood, pus, phlegm, saliva, excrement, urine, etc. Not only that fluids
are excreted through nine apertures (see Cửu Khổng). If we stop to think
carefully, the physical body of sentient beings is hardly worth
cherishing.
b)
Tâm không sạch là khi tâm sanh tham nhiễm, tất nó sẽ thành xấu xa
nhơ bợn, chẳng khác chi hồ nước trong bị cáu bùn làm bẩn đục. Hồ nước
đục không thể soi bóng sắc cây núi trời mây, tâm nhơ bợn làm mất hết
thần thông trí huệ. Nên nhớ câu: “Biết tu hành chớ phí uổng công. Tâm
b́nh tịnh thần thông trí huệ!” Người đă phát nguyện bước lên đường tu,
phải lập chí lần lần dứt trừ tâm phiền năo nhiễm dục từ thô đến tế:
Impurity of the mind means that once the mind develops thoughts of
greed, it has already become evil and defiled, not unlike a limpid pond
that has been polluted with dirt and sludge. The dirt pond cannot
reflect the images of trees, mountains, sky, clouds; likewise, a
polluted mind has lost all spiritual powers and wisdom. Thus, we have
the saying: “Once who knows how to cultivate does not waste his efforts;
a peaceful, still mind will bring spiritual powers and wisdom.” Those
who are determined to tread the Way should endeavour gradually to sever
the mind of afflictions, polluted by greed in its gross and subtle
aspects.
c)
Cảnh không sạch là cảnh giới cơi ngũ trược đầy dẫy bùn đất, sỏi
đá, chông gai, lại dung chứa vô số chúng sanh từ thân đến tâm đều nhơ
bợn. Cho nên cảnh uế độ nầy không có chi đáng say mê tham luyến: The
impure realm is the world of the Five Turbidities, full of dirt and mud,
rocks and stones, spikes and thorns, which harbors countless sentient
beings defiled in body and mind. Therefore, this impure world is not
worth craving or clinging to.
2)
Nhứt Thiết Hành Khổ: Suffering—Thân khổ, tâm khổ và cảnh khổ—
This refers to the fact that the body undergoes suffering, the mind
endures suffering and the environment is one of suffering.
a)
Thân khổ là thân nầy đă nhơ nhớp, lại bị sự sanh già bệnh chết,
nóng lạnh, đói khát, vất vả cực nhọc chi phối, làm cho khổ sở không được
tự tại an vui: The suffering of the body means that our body is not only
impure, it is subject to birth, old age, disease and death, as well as
to heat and cold, hunger and thirst, and other hardships that cause us
to suffer, preventing us from being free and happy.
b)
Tâm khổ là khi tâm ta khởi phiền năo, tất bị lửa phiền năo thiêu
đốt, giây phiền năo trói buộc, roi phiền năo đánh đuổi sai khiến, khói
bụi phiền năo làm tăm tối nhiễm ô. Cho nên người nào khởi phiền năo tất
kẻ đó thiếu trí huệ, v́ tự làm khổ ḿnh trước nhất: The suffering of the
mind means that when the mind is afflicted, it is necessarily consumed
by the fire of afflictions, bound by the ropes of afflictions, struck,
pursued and ordered about by the whip of afflictions, defiled and
obscured by the smoke and dust of afflictions. Thus, whoever develops
afflictions is lacking in wisdom, because the first person he has caused
to suffer is himself.
c)
Cảnh khổ là cảnh nầy nắng lửa mưa dầu, chúng sanh vất vả trong
cuộc mưu sinh, mỗi ngày ta thấy trước mắt diễn đầy những hiện trạng nhọc
nhằn bi thảm: The suffering of the environment means that this earth is
subject to the vagaries of the weather, scorching heat, frigid cold and
pouring rain, while sentient beings must toil and suffer day in and day
out to earn a living. Tragedies occur every day, before our very eyes.
3)
Nhất Thiết Hành Vô Thường: Impermanence—Thân vô thường, tâm vô
thường, cảnh vô thường—This means the impermanence of the body, the mind
and the environment.
a)
Thân vô thường là thân nầy mau tàn tạ, dễ suy già rồi kết cuộc sẽ
phải đi đến cái chết. Người xưa đă than: “Nhớ thuở c̣n thơ dong ngựa
trúc. Thoát trông nay tóc điểm màu sương.” Mưu lược dơng mănh như Văn
Chủng, Ngũ Tử Tư; sắc đẹp dễ say người như Tây Thi, Trịnh Đán, kết cuộc
rồi cũng: “Hồng nhan già xấu, anh hùng mất. Đôi mắt thư sinh cũng mỏi
buồn.”: Impermanence of the body means that the body withers rapidly,
soon grows old and delibitated, ending in death. The ancients have
lamented: “Oh, that time when we were young and would ride bamboo
sticks, pretending they were horses, in the twinkling of an eye, our
hair is now spotted with the color of frost.” What happened to all those
brave and intelligent young men and those beautiful and enchanting women
of bygone days? They ended as in the following poem: “Rosy cheeks have
faded, heros have passed away; young students’ eyes, too, are weary and
sad.”
b)
Tâm vô thường là tâm niệm chúng sanh luôn luôn thay đổi, khi
thương giận, lúc vui buồn. Những niệm ấy xét ra hư huyễn như bọt nước:
Impermanence of the mind means that the mind and thoughts of sentient
beings are always changing, at times filled with love or anger, at times
happy or sad. Those thoughts, upon close scrutiny, are illusory and
false, like water bubbles.
c)
Cảnh vô thường là chẳng những hoàn cảnh chung quanh ta hằng đổi
thay biến chuyển, mà sự vui cũng vô thường. Món ăn dù ngon, qua cổ họng
rồi cũng thành không; cuộc sum họp dù đầm ấm, kết cuộc cũng phải chia
tan; buổi hát vui rồi sẽ văng; quyển sách hay, lần lượt cũng đến trang
cuối cùng: Impermanence of the environment means that not only do our
surroundings always change and fluctuate, but happiness, too, is
impermenent. Succulent food, once swallowed, loses all tastes; an
emotional reunion, however, sweet and joyful, ultimately ends in
separation; a delightful party soon becomes a thing of past; a good
book, too, gradually reaches the last pages.
4)
Chư Pháp Vô Ngă: No-Self—Chư pháp vô ngă là không có ta, không có
tự thể, tự chủ. Điều nầy cũng gồm có thân vô ngă, tâm vô ngă và cảnh vô
ngă—This means that there is no self, no permanent nature per se and
that we are not true masters of ourselves. This point, too, is divided
into the no-self body, the no-self mind, and the no-self environment.
a)
Thân vô ngă là thân nầy hư huyễn không tự chủ, ta chẳng thể làm
cho nó trẻ măi, không già chết. Dù cho bậc thiên tiên cũng chỉ lưu trụ
được sắc thân trong một thời hạn nào thôi: The no-self body means that
this body is illusory, not its own master. It cannot be kept eternally
young or prevented from decaying and dying. Even gods and immortals can
only postpone death for a certain period of time.
b)
Tâm vô ngă, chỉ cho tâm hư vọng của chúng sanh không có tự thể;
như tâm tham nhiễm, niệm buồn vui thương giận thoạt đến rồi tan, không
có chi là chân thật: The no-self of mind refers to the deluded mind of
sentient beings, which has no permanent nature. For example, the mind of
greed, thoughts of sadness, anger, love, and happiness suddenly arise
and then disappear, there is nothing real.
c)
Cảnh vô ngă là cảnh giới xung quanh ta như huyễn mộng, nó không
tự chủ được, và bị sự sanh diệt chi phối. Đô thị đổi ra g̣ hoang, ruộng
dâu hóa thành biển cả, vạn vật luôn luôn biến chuyển trong từng giây
phút, cảnh nầy ẩn mất, cảnh khác hiện lên: No-self of environment means
that our surroundings are illusory, passive and subject to birth and
decay. Cities and towns are in time replaced by abandoned mounds,
mulberry fields soon give way to the open seas, every single thing
changes and fluctuates by the second, one landscape disappears and
another takes its place.
Tứ Vận Tâm: Bốn
giai đoạn vận chuyển của tâm (chúng sanh mỗi khi khởi tâm đều phải trải
qua bốn bước)—The four stages of a thought:
1)
Vị Niệm: Chưa nảy ra ư niệm—A thought has not yet arisen.
2)
Dục Niệm: Sắp nảy ra ư niệm—Initiation of a thought.
3)
Chính Niệm: Đang nảy ra ư niệm—Realization of a thought.
4)
Dĩ Niệm: Đă nảy ra ư niệm rồi—The passing away of a thought.
Tứ Vi: Bốn h́nh
thức nhỏ nhứt mà thị giác, khứu giác, vị giác và xúc giác có thể cảm
nhận được—The four minutest forms or atoms perceptible to the four
senses of sight, smell, taste, and touch.
Tứ Vi Đà: The
four Vedas—See Tứ Kinh Vệ Đà.
Tứ Vị: Tông
Thiên Thai chia giáo thuyết của Phật ra làm bốn giai đoạn, nếu kể luôn
thời tiền thành đạo th́ có năm thời—The four ‘periods’—The T’ien-T’ai’s
definition of the four periods of the Buddha’s teaching from preliminary
to the fifth—See Thiên Thai Ngũ Thời Bát Giáo.
Tứ Viên: The
four parks—See Tứ Uyển.
Tứ Vong: Trạng
thái của một vị Thánh, vượt ra ngoài hay quên mất bốn trạng thái sau đây—The
state of a saint, i.e. beyond or oblivious of the four following
conditions:
1)
Nhất: Unity.
2)
Dị: Difference.
3)
Hữu: Existence.
4)
Vô: Non-existence.
Tứ Vọng (Tứ Ma):
Bốn kẻ thù—Four enemies:
1)
Ma phiền năo: The passion-and- delusion mara.
2)
Ma tử: Death mara.
3)
Ma ngũ uẩn: The five-skandhas mara.
4)
Ma vương: The supreme mara-king.
Tứ Vô: Bốn cái
không—The whole four sets embodying the impermanence of all things:
1)
Vô thường: Impermanence.
2)
Khổ: Suffering.
3)
Không: The void.
4)
Vô Ngă: Non-personality.
Tứ Vô Biên Xứ:
The four boundless stations:
1)
Không vô biên xứ: The station of Boundless Empty Space.
2)
Thức Vô Biên xứ: The station of Boundless Consciousness.
3)
Vô sở hữu xứ: The station of Nothing Whatsoever.
4)
Phi tưởng phi phi tưởng xứ: The station of neither thought nor
non-thought.
Tứ Vô Biên Xứ Giải
Thoát: Vimoksa (skt)—Giải thoát khỏi tứ vô biên xứ và đạt đến cảnh
giới cao hơn—The liberation from the state of boundless knowledge and
move to a higher state.
Tứ Vô Lượng Tâm:
Tứ Đẳng—Tứ Phạm Hạnh—Bốn Tâm Vô Lượng—Catvari-apramanani (skt)—Appamanna
or Brahmavihara (p)—Tâm vô lượng là tâm rộng lớn không thể tính lường
được. Tâm vô lượng không những làm lợi ích cho vô lượng chúng sanh, dẫn
sinh vô lượng phúc đức và tạo thành vô lượng quả vị tốt đẹp trong thế
giới đời sống trong một đời, mà c̣n lan rộng đến vô lượng thế giới trong
vô lượng kiếp sau nầy, và tạo thành vô lượng chư Phật. Bốn tâm vô lượng,
c̣n gọi là Tứ Đẳng hay Tứ Phạm Hạnh, hay bốn trạng thái tâm cao thượng.
Được gọi là vô lượng v́ chúng chiếu khắp pháp giới chúng sanh không giới
hạn không ngăn ngại. Cũng c̣n được gọi là “Phạm Trú” v́ đây là nơi trú
ngụ của Phạm Chúng Thiên trên cơi Trời Phạm Thiên—The mind is
immeasurable. It not only benefit immeasurable living beings, bringing
immeasurable blessings to them, and producing immeasurable highly
spiritual attainments in a world, in one life, but also spreads all over
immeasurable worlds, in immeasurable future lives, shaping up
immeasurable Buddha. The four immeasurables or infinite Buddha-states of
mind. Four Immeasurable Minds—The four virtues of infinite greatness—The
four kinds of boundless mind, or four divine abodes. These states are
called illimitables because they are to be radiated towards all living
beings without limit or obstruction. They are also called brahmaviharas
or divine abodes, or sublime states, because they are the mental
dwellings of the brahma divinities in the Brahma-world:
1)
Từ Vô Lượng Tâm: Maitri (skt)—Metta (p)—Immeasurable loving
kindness.
a)
Từ vô lượng tâm là ḷng thương yêu vô cùng rộng lớn đối với toàn
thể chúng sanh mọi loài, và gây tạo cho chúng sanh cái vui chân thật.
Cái vui của thế gian chỉ là cái vui giả tạm, vui không lâu bền, cái vui
ấy bị phiền năo chi phối; khi tham sân si được thỏa măn th́ vui; khi
chúng không được thỏa măn th́ buồn. Muốn có cái vui chân thật, cái vui
vĩnh viễn th́ trước tiên chúng ta phải nhổ hết khổ đau do phiền năo gây
ra. “Từ” phải có ḷng bi đi kèm. Bi để chỉ nguyên nhân của đau khổ và
khuyên bảo chúng sanh đừng gây nhân khổ, từ để chỉ phương pháp cứu khổ
ban vui: Immeasurable loving kindness is the greatest love dedicatedto
all sentient beings, together with the desire to bring them joy and
happiness. Human joy is totally impermanent; it is governed by misery,
that is, when our passions such as greed, anger, and ignorance are
satisfied, we feel pleased; but when they are not satisfied, we feel
sad. To have a permanent joy, we must first sever all sufferings. Loving
kindness generally goes together with pity whose role is to help the
subjects sever his sufferings, while the role of loving kindness is to
save sentient beings from sufferings and to bring them joy.
b)
Tâm đem lại niềm vui sướng cho chúng sanh. Ở đây vị Tỳ Kheo với
tâm đầy ḷng từ trải rộng khắp nơi, trên, dưới, ngang, hết thảy phương
xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy luôn an trú biến măn với tâm từ, quảng
đại, vô biên, không hận, không sân. Từ vô lượng tâm c̣n có nghĩa là tâm
ao ước mong muốn phúc lợi và hạnh phúc của chúng sanh. Tâm nầy giúp đoạn
trừ sân hận—Immeasurable Love, a mind of great kindness, or infinite
loving-kindness—Boundless kindness (tenderness), or bestowing of joy or
happiness. Here, a monk, with a heart filled with loving-kindness. Thus
he stays, spreading the thought of loving-kindness above, below, and
across, everywhere, always with a heart filled with loving-kindness,
abundant, magnified, unbounded, without hatred or ill-will. The
loving-kindness is also the wish for the welfare and happiness of all
living beings. It helps to eliminate ill-will.
c)
Nổi khổ của chúng sanh vô lượng th́ ḷng từ cũng phải là vô lượng.
Muốn thành tựu tâm từ nầy, Bồ Tát phải dùng đủ phương tiện để làm lợi
lạc cho chúng sanh, trong khi hóa độ phải tùy cơ và tùy thời. Tùy cơ là
quan sát tŕnh độ căn bản của chúng sanh như thế nào rồi tùy theo đó mà
chỉ dạy. Cũng giống như thầy thuốc phải theo bệnh mà cho thuốc. Tùy thời
là phải thích ứng với thời đại, với giai đoạn mà hóa độ. Nếu không thích
nghi với hoàn cảnh và không cập nhật đúng với yêu cầu của chúng sanh,
th́ dù cho phương pháp hay nhất cũng không mang lại kết quả tốt. Trong
Kinh Tâm Địa Quán, Đức Phật đă dạy về bốn thứ không tùy cơ là nói không
phải chỗ, nói không phải thời, nói không phải căn cơ, và nói không phải
pháp—To respond to immeasurable human sufferings, we should have
immeasurable loving kindness. To accomplish the heart of immeasurable
loving kindness, the Bodhisattvas have developed their immeasurable
loving kindness by using all means to save mankind. They act so
according to two factors, specific case and specific time. Specific
case, like the physician who gives a prescription according to the
specific disease, the Bodhisattva shows us how to put an end to our
sufferings. Specific time means the teachings must always be relevant to
the era, period and situation of the sufferers and their needs. The
Contemplation of the Mind Sutra teaches that we must avoid four
opportune cases: What we say is not at the right place, what we say is
not in the right time, what we say is not relevant to the spiritual
level of the subject, and what we say is not the right Buddhist Dharma.
2)
Bi Vô Lượng Tâm: Karuna (skt & p)—Immeasurable compassion—Tâm cứu
khổ cho chúng sanh. Ở đây vị Tỳ Kheo với tâm đầy ḷng bi mẫn trải rộng
khắp nơi, trên, dưới, ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới,
vị ấy luôn an trú biến măn với tâm bi, quảng đại, vô biên, không hận,
không sân. Bi vô lượng tâm c̣n làm tâm ta rung động khi thấy ai đau khổ.
Tâm ao ước mong muốn loại trừ đau khổ của người khác, đối lại với sự tàn
ác—Immeasurable Compassion, a mind of great pity, or infinite
compassion—Boundless pity, to save from suffering. Here a monk, with a
heart filled with compassion. Thus he stays, spreading the thought of
compassion, above, below, across, everywhere, always with a heart filled
with compassion, abundant, magnified, unbounded, without hatred or
ill-will. Compassion also makes the heart quiver when other are subject
to suffering. It is the wish to remove the suffering of others, and it
is opposed to cruelty.
3)
Hỷ Vô Lượng Tâm: Mudita (skt & p)—Immeasureable inner joy—Tâm vui
mừng khi thấy người khác thoát khổ được vui. Ở đây vị Tỳ Kheo với đầy
tâm hỷ trải rộng khắp nơi, trên, dưới, ngang, hết thảy phương xứ, cùng
khắp vô biên giới, vị ấy luôn an trú biến măn với tâm hỷ, quảng đại, vô
biên, không hận, không sân. Hỷ tâm c̣n là tâm vui khi thấy người thành
công thịnh vượng. Thái độ khen ngợi hay chúc mừng nầy giúp loại bỏ tánh
ganh tỵ bất măn với sự thành công của người—Immeasurable Joy, a mind of
great joy, or infinite joy—Boundless joy (gladness), on seeing others
rescued from suffering. Here a monk, with a heart filled with
sympathetic joy. Thus he stays, spreading the thought of sympathetic joy
above, below, across, everywhere, always with a heart filled with
sympathetic joy, abundant, magnified, unbounded, without hatred or
ill-will. Appreciative joy is the quality of rejoicing at the success
and prosperity of others. It is the congratulatory attitude, and helps
to eliminate envy and discontent over the success of others.
4)
Xả Vô Lượng Tâm: Upeksha (skt)—Upekkha (p)—Perfect equanimity or
immeasurable detachment.
a)
Xả bỏ là không luyến chấp khi làm lợi lạc cho tha nhân. Thói
thường khi chúng ta làm điều ǵ nhất là khi được kết quả tốt, th́ chúng
ta hay tự hào, tự măn, và đắc chí. Sự bất b́nh, căi vă xung đột giữa
người và người, nhóm nầy với nhóm khác cũng do tánh chấp trước mà nguyên
nhân là do sự chấp ngă, chấp pháp mà ra. Đức Phật dạy rằng nếu có người
lên án ḿnh sai, ḿnh nên trả lại họ bằng ḷng thương, không nên chấp
chặt. Khi họ càng cuồng dại th́ chúng ta càng xả bỏ, luôn tha thứ cho họ
bằng sự lành. Làm được như vậy là vui. Các vị Bồ Tát đă ly khai quan
niệm chấp pháp, nên không thấy ḿnh là ân nhân của chúng sanh; ngược lại,
lúc nào họ cũng thấy chính chúng sanh mới là ân nhân của ḿnh trên bước
đường lợi tha mẫn chúng, tiến đến công hạnh viên măn. Thấy chúng sanh
vui là Bồ Tát vui v́ ḷng từ bi. Các ngài xả bỏ đến độ người gần xa đều
xem b́nh đẳng, kẻ trí ngu đều coi như nhau, ḿnh và người không khác,
làm tất cả mà thấy như không làm ǵ cả, nói mà không thấy ḿnh có nói ǵ
cả, chứng mà không thấy ḿnh chứng ǵ cả—Detachment is the attitude of
those who give up, forget, do not attach any importance for what they
have done for the benefit of others. In general, we feel proud,
self-aggrandized when we do something to help other people. Quarrels,
conflicts, or clashes between men or groups of men are due to passions
such as greed or anger whose source can be appraised as self-attachment
or dharma-attachment. The Buddha taught that if there is someone who
misjudges us, we must feel pity for him; we must forgive him in order to
have peace in our mind. The Bodhisattvas have totally liberated
themselves from both self-attachment and dharma-attachment. When people
enjoy material or spiritual pleasures, the Bodhisattvas also rejoice,
from their sense of compassion, pity, and inner joy. They always
consider human beings as their benefactors who have created the
opportunities for them to practice the Four Immeasurable Minds on their
way to Enlightenment. In terms of the Immeasurable Detachment, the
Bodhisattvas consider all men equal, the clever as the stupid,
themselves as others, they do everything as they have done nothing, say
everything as they have said nothing, attain all spiritual levels as
they have attained nothing.
b)
Tâm xả bỏ mọi thứ vật chất cũng như vượt lên mọi cảm xúc. Ở đây
vị Tỳ Kheo với đầy tâm xả trải rộng khắp nơi, trên, dưới, ngang, hết
thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy luôn an trú biến măn với
tâm xả, quảng đại, vô biên, không hận, không sân. Xả vô lượng tâm c̣n
được coi như là nơi mà chư Thiên trú ngụ. Đây là trạng thái tâm nh́n
người không thiên vị, không luyến ái, không thù địch, đối lại với thiên
vị và thù hằn—Immeasurable Equanimity, a mind of great detachment, or
infinite equanimity. Limitless indifference, such as rising above all
emotions, or giving up all things. Here a monk, with a heart filled with
equanimity. Thus he stays, spreading the thought of equanimity above,
below, across, everywhere, always with a heart filled with equanimity,
abundant, magnified, unbounded, without hatred or ill-will. Equanimity
is also considered as a divine abode. It is the state of mind that
regards others with impartiality, free from attachment and aversion. An
impartial attitude is its chief characteristic, and it is opposed to
favouritism and resentment.
Tứ Vô Ngại:
Patisambhida (p)—Tứ Vô Ngại Biện—Tứ Vô Ngại Giải—Tứ Vô Ngại Trí—Bốn pháp
vô ngại của các Bồ Tát khi giảng thuyết hay lư luận—Four unhindered or
unlimited bodhisattva powers of interpretation or reasoning—Four
unobstructed eloquences:
(A)
Theo Giáo Thuyết Đại Thừa—According to Mahayana Doctrine:
1)
Pháp Vô Ngại Trí: Thấu triệt văn pháp trong kinh điển không
chướng ngại—Understand all the letters of the law (Dharma)—Unobstructed
(unlimited) eloquence in Dharma.
2)
Nghĩa Vô Ngại Trí: Biết rơ nghĩa lư mà giáo pháp chuyên chở không
chướng ngại—Understand deeply the meaning of the law (Artha)—Unobstructed
(unlimited) eloquence in meaning.
3)
Từ Vô Ngại Trí: Thông đạt tự tại về ngôn từ trong bất cứ ngôn ngữ
nào—Can understand the law in any languages (Nirukti)—Unobstructed
(unlimited) eloquence in phrasing or form of expression.
4)
Nhạo Thuyết Vô Ngại Trí: Biện thuyết không chướng ngại, lời lẽ
trôi chảy hợp với chánh lư—Pleasure in speaking or argument of the law (Pratibhana)—Unobstructed
(unlimited) eloquence in delight or pleasure in speaking or argument.
(B)
Theo Giáo Thuyết Nguyên Thủy (Thanh Tịnh Đạo)—According to
Theravada Doctrine (The Path of Purification):
1)
Nghĩa Biện Tài Vô Ngại: Atthapatisambhida (p)—Unobstructed
eloquence in meaning.
a)
Trí biết về nghĩa gọi là nghĩa biện tài vô ngại: Knowledge about
meaning is the discrimination of meaning.
b)
Nghĩa, nói gọn là danh từ chỉ kết quả của một nhân (hetu). V́ phù
hợp với nhân, nó được đạt đến, được phục vụ nên gọi là nghĩa hay mục
đích. Nhưng đặc biệt năm thứ cần được hiểu là nghĩa.—Meaning (Attha) is
briefly a term for the fruit of a cause (hetu). For in accordance with
the cause it is served, arrived at, reached, therfore it is called
‘meaning’ ot ‘purpose.’ But in particular, the five things should be
understood as meaning.
·
Thứ nhất là bất cứ thứ ǵ do duyên sanh: The first is
anything conditionally produced.
·
Thứ hai là Niết Bàn: The second is Nibanna
·
Thứ ba là ư nghĩa những ǵ được nói: The third is the
meaning of what is spoken.
·
Thứ tư là nghiệp quả: The fourth is the result.
·
Thứ năm là tâm duy tác: The fifth is functional
consciousness.
c)
Khi một người quán sát nghĩa nầy, bất cứ hiểu biết nào của vị ấy
thuộc về phạm trù liên hệ đến ư nghĩa, gọi là biện tài về nghĩa: When
anyone reviews that meaning, any knowledge of his, falling within the
category concerned with meaning, is the discrimination of meaning.
2)
Pháp Biện Tài Vô Ngại: Dhammapatisambhida (p)—Unobstructed
eloquence in the Law.
a)
Trí biết về pháp gọi là pháp biện tài vô ngại: Knowledge about
law is the discrimination of law.
b)
Pháp nói gọn là danh từ chỉ điều kiện hay duyên (paccaya). V́
điều kiện th́ cần đến một cái khác làm cho nó phát sinh, khiến nó xăy ra,
nên gọi là pháp (dhamma). Nhưng đặc biệt có năm thứ cần được hiểu là
pháp—Law (Dhamma) is briefly a term for a condition (paccaya). For since
a condition necessitates whatever it may be, makes it occur or allows it
to happen, it is therefore called law (dhamma). But in particular, the
five things should be understood as law:
·
Bất cứ nhân nào phát sinh ra quả: Any cause that produces
fruit.
·
Thánh đạo: The Noble Path.
·
Cái ǵ được nói lên: What is spoken.
·
Cái ǵ có lợi: What is profitable.
·
Cái ǵ không có lợi: What is unprofitable.
c)
Khi một người quán sát pháp ấy th́ bất cứ hiểu biết nào của vị ấy
về pháp gọi là biện tài về Pháp: When anyone reviews that law, any
knowledge of his, falling within the category concenred with law, is the
discrimination of law.
3)
Từ Ngữ Biện Tài Vô Ngại: Nirutti-patisambhida (p)— unobstructed
eloquence in the Language
a)
Trí biết về các từ ngữ đề cập đến nghĩa và pháp th́ gọi là từ ngữ
hay ngôn ngữ biện tài vô ngại—Knowledge about enunciation of language
dealing with meaning and law is the discrimination of language.
b)
Có ngôn ngữ ‘tự tánh,’ nghĩa là cách xử dụng nó không có ngoại lệ,
chỉ đề cập đến nghĩa ấy, pháp ấy. Bất cứ thứ ǵ thuộc phạm trù liên hệ
đến sự nói lên ngôn ngữ ấy, thốt ra, phát ngôn nó, liên hệ đến ngữ ngôn
căn để của mọi loài, ngôn ngữ Magadha tự tính, nói cách khác, là ngôn
ngữ của pháp, bất cứ trí ǵ biết được, vừa khi nghe ngôn ngữ ấy được
nói lên rằng đây là ngôn ngữ có tự tính hay đây không phải là ngôn ngữ
có tự tính như vậy gọi là biện tài vô ngại về ngôn ngữ: There is the
language that is individual essence, the usage that has no exceptions,
and deals with that meaning and that law. Any knowledge falling within
the category concerned with the enunciation of that, with the speaking,
with the utterance of that, concerned with the root-speech of all
beings, the Magadhan language that is individual essence, in other
words, the language of law (dhamma). This is the individual-essence
language, such knowledge is discrimination of language.
4)
Trí Biện Tài Vô Ngại: Patibhanapatisambhida (p)—Unobstructed
eloquence in intelligence.
a)
Trí biết về các loại trí gọi là trí biện tài vô ngại—Knowledge
about kinds of knowledge is discrimination of perspicuity.
b)
Khi một người xét lại và lấy bất cứ loại nào trong các loại trí
trên làm đối tượng cho hiểu biết của ḿnh, th́ bất cứ sự hiểu biết nào
của vị ấy có đối tượng là trí th́ gọi là trí biện tài vô ngại: When a
man is reviewing and makes any of the foregoing kinds of knowledge the
object of his knowledge, then any knowledge in him that has knowledge as
its object is discrimination of perspicuity, and so is any knowledge
about these aforesaid kinds of knowledge, which is concerned with
details of their individual domains, functions, and so on.
Tứ Vô Ngại Biện:
See Tứ Vô Ngại in Vietnamese-English Section.
Tứ Vô Ngại Giải:
See Tứ Vô Ngại in Vietnamese-English Section.
Tứ Vô Ngại Trí:
See Tứ Vô Ngại in Vietnamese-English Section.
Tứ Vô Sắc: The
four formless realms—Realms beyond form—Being above the realm of
form—See Tứ Không Xứ.
Tứ Vô Sắc Định:
Bốn trạng thái thiền định cuối cùng trong thập nhị thiền định—The four
balanced states which transcend the world of matter—The last four of the
twelve dhyanas:
1)
Không Vô Biên Xứ Định: Trạng thái thiền định trong đó tâm trống
rỗng như hư không—Balance in infinite space in which the mind becomes
void and vast like space.
2)
Thức Vô Biên Xứ Định: Trạng thái thiền định trong đó khả năng
hiểu biết không c̣n giới hạn—Balance in infinite consciousness in which
the power of perception and understanding are unlimited.
3)
Vô Sở Hữu Xứ Định: Trạng thái thiền định trong đó sự phân biệt
của tâm bị chế ngự—Balance in not having anything in which the
discriminative powers of mind are subdued.
4)
Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Định: Trạng thái siêu việt thiền định
của tưởng và phi tưởng—Balance in transcendence of thinking and not
thinking—The realm of consciouness or knowledge without thought is
reached—The intuitive wisdom.
** For more
information, please see Tứ
Không Xứ.
Tứ Vô Sắc Giới
Thiên: The four heavens of the formless realm:
1)
Không Vô Biên Xứ: The station of Boundless Emptiness.
2)
Thức Vô Biên Xứ: The station of Boundless Consciousness.
3)
Vô Sở Hữu Xứ: The station of Nothing Whatsoever.
4)
Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ: The station of Neither Thought nor
Non-thought.
** For more
information, please see Tứ
Không Xứ.
Tứ Vô Sở Úy:
See Tứ Vô Úy.
Tứ Vô Thường Kệ:
Tứ Phi Thường Kệ—Kinh Nhân Vương thuyết kệ văn và nghĩa lần lượt nói về
Vô Thường, Khổ, Không, Vô Ngă. Có tám kệ chia làm bốn tiết, mỗi tiết hai
kệ—Eight stanzas in the Jen-Wang Sutra, two each on impermanence,
suffering, the void, and non-personality; the whole four sets embodying
the impermanence of all things.
Tứ Vô Úy:
Four-fold Fearlessness—Theo Đại trí Độ Luận, có bốn thứ thuyết pháp vô
úy. Một khi đạt được một trong bốn vô úy nầy th́ bậc giác giả có khả
năng cứu độ chúng sanh, không e sợ cũng không thối chí—According to the
Sastra on the Prajna Sutra, there are four braveries and courages being
unafraid of anything. Once these four “fearlessnesses” are attained,
then one can help every sentient being without ever being afraid or
being discouraged:
(A)
Tứ Vô Úy của chư Phật—The Buddha-fearlessness:
1)
Nhứt Thiết Trí Vô Sở Úy: Có được Phật trí biết tất cả nên chẳng
sợ chi—Confidence in Omniscience—Confidence in Buddha—Fearlessly
realizing all things—The Buddha has the wisdom and knowledge to know
everything; therefore, there is nothing he is fearful of—The
fearlessness of all wisdom.
2)
Lậu Tận Vô Sở Úy: Dứt hết các phiền năo nên chẳng sợ chi hết—Confidence
in having extirpated (uprooted) all contamination—Fearlessly
extinguishing all defilements—The Buddha has the wisdom and knowledge to
end all burdens and afflictions; therefore, there is nothing he is
fearful of.
3)
Thuyết Chướng Đạo Vô Sở Úy: Giải thích hay chỉ rơ ràng được chỗ
ngăn hại đạo nên không sợ chi hết. Phật có trí tuệ có thể giải quyết mọi
khó khăn trong đạo giáo nên chẳng sợ chi hết—Confidence in explaining
the obstacles to enlightenment beings—Fearlessly expounding all
obstructions to liberation. The Buddha has the wisdom and knowledge to
solve all difficult problems in religion and life; therefore, there is
nothing he is fearful of. The fearlessness of speaking about dharmas
which obstruct the Way.
4)
Thuyết Tận Khổ Đạo Vô Sở Úy: Giảng thuyết hay chỉ dạy dứt tận các
sự khổ nên không sợ chi hết—Confidence in explaining the way to end
suffering—Fearlessly asserting the true path to liberation. The Buddha
has the wisdom and knowledge to explain and teach different Dharmas that
will end pain and suffering; therfore, there is nothing he is afraid of.
The fearlessness of speaking dharmas which leads to the end of the path
of suffering.
(B)
Bồ Tát Tứ Vô Úy—Bodhisattva-fearlessnesses:
1)
Tổng tŕ bất vong, thuyết pháp vô úy: Bồ Tát có khả năng nghe
hiểu giáo pháp và ghi nhớ các nghĩa mà chẳng quên, nên thuyết pháp không
hề e sợ trước đại chúng—Bodhisattva-fearlessness arises from powers of
memory and ability to preach without fear.
2)
Tận tri pháp dược cập chúng sanh căn dục tâm tính thuyết pháp vô
úy: Biết cả thế gian và xuất thế gian pháp, cũng như căn dục của chúng
sanh nên Bồ tát chẳng sợ khi thuyết pháp ở giữa đại chúng—Bodhisattva-fearlessness
arises from powers of moral diagnosis and application of the remedy.
3)
Thiện năng vấn đáp thuyết pháp vô úy: Khéo biết hỏi đáp thuyết
pháp chẳng sợ—Bodhisattva-fearlessness arises from powers of
ratiocination.
4)
Năng đoạn vật nghi thuyết pháp vô úy: Có khả năng dứt mối nghi
ngờ cho chúng sanh nên thuyết pháp chẳng e sợ—Bodhisattva-fearlessness
arises from powers of solving doubts.
Tứ Vu Nguyệt:
Bốn tháng chính trong năm—The four senior or prime months of the year,
the first of each season:
1)
Tháng giêng: The first month of the year.
2)
Tháng tư: The fourth month of the year.
3)
Tháng bảy: The seventh month of the year.
4)
Tháng mười: The tenth month of the year.
Tứ Vương Đao Lợi:
The above four and Trayastrimsas, Indra’s heaven—See Tứ Thiên
Vương.
Tứ Vương Thiên:
Catur-maharaja-kayikas (skt)—The four heavens of the four deva kings—See
Tứ Thiên Vương.
Tứ Xa: Tứ Thừa—Tứ
Thặng—Bốn loại xe được Phật kể trong Kinh Pháp Hoa, trong nhà lửa—The
four carts which the Buddha mentioned in the Lotus Sutra, representing
the four yanas from the Burning House parable:
1)
Xe Dê cho bậc Thanh Văn: The goat cart representing the Sravakas.
2)
Xe Nai cho bậc Duyên Giác: The deer cart representing the
Pratyeka-buddhas.
3)
Xe Trâu cho bậc Bồ Tát Tiểu Thừa: The ox-cart for the Hinayana
Bodhisattvas.
4)
Đại xa bạch ngưu cho Bồ Tát Đại Thừa: The great white ox-cart
for the Mahayana Bodhisattvas.
Tứ Xa Gia: Pháp
Hoa Tông đă thêm Phật Thừa vào trong Tam thừa nên từ đó có danh xưng Tứ
Xa Gia—The Lotus School which adds to the Triyana, or Three vehicles, a
fourth which includes the other three and the Buddhayana—See Phật Thừa
and Tam Thừa.
Tứ Xà: Bốn yếu
tố lớn được ví như bốn con rắn. The four elements are compared as the
four snakes—Chuyện kể có một người đang trong trạng thái hoang mang giữa
sống và chết, leo xuống giếng “Vô Thường” bằng một sợi dây “Mệnh Căn,”
nơi đó hai con chuột, “ngày và đêm” đang gậm nhắm sợi dây mây; trong
khi đó bốn bên giếng là bốn con rắn đang đầu độc anh ta. Chuyện nầy ví
tứ đại như ba con rồng độc đang phun lửa và cố bắt cho được anh ta. Khi
nh́n lên miệng giếng th́ anh thấy hai con voi (bóng tối và ánh sáng) đă
đến ngay miệng giếng; trong lúc tuyệt vọng, th́ một con ong bay ngang
nhả mật (ngũ dục) rớt ngay miệng anh, anh ta bèn liếm mật và quên hết
những hiểm nguy đang chực chờ—The parable of a man who fled from the two
bewildering forms of life and death, and climbed down a rope (of life),
into the well of impermanence, where two mice, night and day, gnawed the
rattan rope, on the four sides of four snakes sought to poison him. The
four elements of his physical body were the three dragons breathing fire
and trying to seize him. On looking up he saw that two elephants
(darkness and light) had come to the mouth of the well; he was in
despair, when a bee flew by and dropped some honey (the five desires)
into his mouth, which he ate and entirely forgot his peril—For more
information, please see Tứ Đại, Tứ Đại Bất Điều and Tứ Độc Xà.
Tứ Xả: Theo
Luận Đại Trí Độ, có bốn loại xả—According to the Sastra on the
Maha-Prajna Sutra, there are four givings:
1)
Tài Xả: The giving of goods.
2)
Pháp Xả: The giving of the Truth.
3)
Vô Úy Xả: The giving of courage or fearlessness.
4)
Phiền Năo Xả: The giving up of the passions and delusions.
Tứ Xứ:
Everywhere.
Tứ Xứ Thập Lục Hội:
Bốn chốn mười sáu hội nơi Phật thuyết Kinh Đại Bát Nhă Ba La Mật Đa (núi
Linh Thứu, vườn Cấp Cô Độc, Trời Đao Lợi, Trúc Lâm Tịnh Xá)—The sixteen
assemblies or addresses in the four places where the Buddha delivered
complete Prajna-Paramita Sutra.
Tứ Y: Bốn thứ
để dựa vào—The four necessaries, or things on which the religious rely:
(A)
Hành Tứ Y: Tứ Thánh Chủng—Bốn thứ mà người tu khổ hạnh phải tuân
theo—The four of ascetic practictioners:
a)
Mặc quần áo bá nạp: Patched or rag clothing.
b)
Khất thực: Begging for food.
c)
Ngồi nơi gốc cây: Sitting under trees.
d)
Luôn thanh lọc thân tâm bằng giới luật: Always purify the body
and mind with precepts and spiritual means.
(B)
Pháp Tứ Y: The four reliances of the dharma—See Tứ Y Pháp and
Pháp Tứ Y.
Tứ Y Bát Chánh:
The four reliances of ascetic practictioners—See Tứ Y (A) and Bát Chánh
Đạo.
Tứ Y Chỉ: Four
supports—Theo Kinh Phúng Tụng trong Trường Bộ Kinh, có bốn y chỉ—According
to the Sangiti Sutta in the Long Discourses of the Buddha, there are
four supports:
1)
Thọ Dụng: Ở đây vị Tỳ Kheo sau khi suy nghĩ phán xét mới thọ
dụng—Here a monk judges that one thing is to be pursued.
2)
Nhẫn Thọ: Ở đây vị Tỳ Kheo suy nghĩ nhẫn thọ—Here a monk judges
that one thing is to be endured.
3)
Viễn Ly: Ở đây vị Tỳ Kheo suy nghĩ viễn ly—Here a monk judges
that one thing is to be avoided.
4)
Khiển trừ: Ở đây vị Tỳ Kheo suy nghĩ khiển trừ—Here a monk judges
that one thing is to be suppressed.
Tứ Y Pháp: Bốn
phép nương vào để hiểu thấu Phật Pháp—Four reliances—The four trusts of
Dharma—Four basic principles for thorough understanding Buddhism:
1)
Y pháp bất y nhân: Nương vào pháp chứ không nương vào người—Relying
on the teaching, not on the person—Trust in the Law, not in men—Relying
in on the teaching, not merely on any persons (relying on the teaching
and not on the person who teaches it).
2)
Y liễu nghĩa kinh, bất y bất liễu nghĩa kinh: Nương vào kinh rơ
nghĩa (viên giáo) chứ không nương vào kinh không rơ nghĩa (phần giáo)—Rely
on the complete teaching, not on the partial teaching—Trust in sutras
containing ultimate truth, not incomplete one. Relying on the sutras
that give ultimate teachings, not on those which preach expedient
teachings (relying on discourses of definitive meaning, not on
discourses of interpretable meaning).
3)
Y nghĩa bất y ngữ: Nương vào nghĩa chứ không nương vào văn tự—Relying
on the meaning, not on the letter—Trust in truth, not in words
(letters). Relying on the true meaning or spirit of Dharma statement in
sutra, not merely on the words of the statement (relying on the meaning
of the teaching and not on the expression).
4)
Y trí bất y thức: Nương vào trí tuệ trực giác chứ không nương vào
tri thức phàm phu—Rely on knowledge, not on conditioned
consciousness—Trust in wisdom growing out of eternal truth and not in
illusory knowledge. Relying on intuitive wisdom, not on intellectual or
normal understanding (relying on intuitive wisdom and not on normal
consciousness).
** For more
information, please see Pháp Tứ
Y.
Tứ Ư Đoạn: See
Tứ Chánh Cần.
Tứ Yếu Phẩm:
Bốn phẩm quan trọng trong Kinh Pháp Hoa—The four most important chapters
of the Lotus Sutra:
1)
Phẩm Phương Tiện: Chapter of Tactfulness—The Second Chapter.
2)
Phẩm An Lạc Hạnh: Chapter of the Happy Life—The Fourteenth
Chapter.
3)
Phẩm Như Lai Thọ Lượng: Chapter of Revelation of the Eternal Life
of the Tathagata—The Sixteenth Chapter.
4)
Phẩm Phổ Hiền: Chapter of Encouragement of the Bodhisattva
Universal Virtue—The Twenty-eighth Chapter.
Từ:
1)
Chữ: A phrase—Words—Language.
2)
Chữi: To blame—To ridicule—To scold.
3)
Đồ Sứ: Porcelain—Chinaware.
4)
Người mẹ: Từ mẫu—Mother.
5)
Từ ái: Kindness—Loving-kindness to help others joyfully.
6)
Từ bi: T́nh thương yêu v́ đồng cảm nỗi khổ, nên muốn đem lại niềm
vui cho người khác, như t́nh mẹ thương con—Affection as that of a
mother—Mercy—Compassion—Tenderness.
7)
Từ bỏ: Parityajati (p)—Parityaj (skt)—To abandon—To give up—To
leave—To quit—To reject.
8)
Từ chỗ: From.
9)
Từ khi: Since.
10)
Từ Đường: The spring ancestral sacrifice—Ancestral temple or
hall.
11)
Ḷng “Từ” là một trong những cửa ngơ quan trọng đi đến đại giác,
v́ nhờ đó mà thiện căn lướt thắng mọi hoàn cảnh trong cuộc sống hằng
ngày của chúng ta—Loving-kindness (benevolence) is one of the most
important entrances to the great enlightenment; for with it, good roots
prevail in all situations in our daily life.
12)
Theo Kinh Duy Ma Cật, Phẩm Quán Chúng Sanh, khi Ngài Văn Thù Sư
Lợi đến thăm bệnh cư sĩ Duy Ma Cật, ngài có hỏi: “Bồ Tát quán sát phải
thực hành ḷng từ như thế nào?”—According to the Vimalakirti Sutra,
Chapter Seventh, Contemplating at Living Being, when Manjusri called on
to enquire Vimalakirti’s illness, Manjusri asked Vimalakirti: “When a
Bodhisattva meditates, how should he practise kindness (maitri)?
·
Ông Duy Ma Cật đáp—Vimalakirti replied: Bồ Tát quán sát
như thế rồi phải tự nghĩ rằng—When a Bodhisattva has made this
meditation, he should think that:
(a)
Phải v́ chúng sanh nói pháp như
trên, đó là ḷng từ chân thật: Ought to teach living beings to meditate
in the same manner; this is true kindness.
(b)
Phải thực hành ḷng từ tịch diệt,
bởi v́ không sanh: Should practise causeless (nirvanic) kindness which
prevents creativeness;
(c)
Phải thực hành ḷng từ không nóng
bức, bởi không có phiền năo: Should practice unheated kindness which
puts an end to klesa (troubles and causes of trouble);
(d)
Phải thực hành ḷng từ b́nh đẳng,
bởi ba đời như nhau: Should practice impartial kindness which coves all
the three periods of time (which means that it is eternal involving
past, future and present);
(e)
Phải thực hành ḷng từ không đua
tranh, bởi không có khởi: Should practice passionless kindness which
wipes out disputation;
(f)
Phải thực hành ḷng từ không hai,
bởi trong ngoài (căn trần) không hiệp: Should practice non-dual kindness
which is beyond sense organs within and sense data without;
(g)
Phải thực hành ḷng từ không hoại,
bởi hoàn toàn không c̣n: Should practice indestructible kindness which
eradicates all corruptibility;
(h)
Phải thực hành ḷng từ kiên cố,
bởi ḷng không hủy hoại: Should practice stable kindness which is a
characteristic of the undying self-mind;
(i)
Phải thực hành ḷng từ thanh tịnh,
bởi tánh các pháp trong sạch: Should practice pure and clean kindness
which is spotless like Dharmata;
(j)
Phải thực hành ḷng từ vô biên,
bởi như hư không: Should practice boundless kindness which is
all-pervasive like space;
(k)
Phải thực hành ḷng từ của A la
hán, v́ phá các giặc kiết sử: Should practice the kindness of the arhat
stage which destroys all bondage;
(l)
Phải thực hành ḷng từ Bồ Tát, ví
an vui chúng sanh: Should practice the Bodhisattva kindness which gives
comfort to living beings;
(m)
Phải thực hành ḷng từ của Như
Lai, v́ đặng tướng như như: Should practice the Tathagata kindness which
leads to the state of thatness;
(n)
Phải thực hành ḷng từ của Phật,
v́ giác ngộ chúng sanh: Should practice the Buddha kindness which
enlightens all living beings;
(o)
Phải thực hành ḷng từ tự nhiên,
v́ không nhơn đâu mà đặng: Should practice spontaneous kindness which
is causeless;
(p)
Phải thực hành ḷng từ Bồ Đề, v́
chỉ có một vị: Should practice Bodhi kindness which is one flavour (i.e.
uniform and unmixed wisdom);
(q)
Phải thực hành ḷng từ vô đẳng, v́
đoạn các ái kiến: Should practice unsurpassed kindness which cuts off
all desires;
(r)
Phải thực hành ḷng từ đại bi dẫn
dạy cho pháp Đại Thừa: Should practice merciful kindness which leads to
the Mahayana (path);
(s)
Phải thực hành ḷng từ không nhàm
mỏi, quán không, vô ngă: Should practice untiring kindness because of
deep insight into the void and non-existent ego;
(t)
Phải thực hành ḷng từ pháp thí
không có luyến tiếc: Should practice Dharma-bestowing (dana) kindness
which is free from regret and repentance;
(u)
Phải thực hành ḷng từ tŕ giới để
hóa độ người phá giới: Should practice precepts (sila) upholding
kindness to convert those who have broken the commandments;
(v)
Phải thực hành ḷng từ nhẫn nhục
để ủng hộ người và ḿnh: Should practice patient (ksanti) kindness which
protects both the self and others;
(w)
Phải thực hành ḷng từ tinh tấn để
gánh vác chúng sanh: Should practice Zealous (virya) kindness to
liberate all living beings;
(w1) Phải thực hành ḷng từ thiền định không thọ mùi thiền: Should
practice serene (dhyana) kindness which is unaffected by the five
senses;
(w2) Phải thực hành ḷng từ trí tuệ, đều biết đúng nhịp: Should practice
wise (prajna) kindness which is always timely;
(w3) Phải thực hành ḷng từ phương tiện, thị hiện tất cả: Should
practice expedient (upaya) kindness to appear at all times for
converting living beings;
(w4) Phải thực hành ḷng từ không ẩn dấu, ḷng ngay trong sạch: Should
practice unhidden kindness because of the purity and cleanness of the
straightforward mind;
(w5) Phải thực hành ḷng từ thâm tâm, không có hạnh xen tạp: Should
practice profound minded kindness which is free from discrimination;
(w6) Phải thực hành ḷng từ không phỉnh dối, không có lừa gạt: Should
practice undeceptive kindness which is faultless;
(w7) Phải thực hành ḷng từ an vui, làm cho tất cả được sự an vui của
Phật. Ḷng từ của Bồ Tát là như thế đó: Should practice joyful kindness
which bestows the Buddha joy (in nirvana). “Such are the specialities of
Bodhisattva kindness.”
Từ Ác Nhân Tới Bồ
Đề Chỉ Cách Nhau Một Bức Màng Mỏng: From being a devil to a
Bodhiattva only separated by a thin layer.
Từ Ân:
1)
Từ bi và ân huệ: Compassion and grace, merciful favour.
2)
Tên một tự viện ở Lạc Dương dưới thời nhà Đường, nơi trụ tŕ của
ngài Khuy Cơ, sơ tổ của Pháp Tướng Tông. Ngài là đệ tử và cũng là người
đă hợp tác với Huyền Trang Tam tạng Pháp Sư trong công tác dịch thuật.
Ngài thị tịch năm 682 sau Tây Lịch: Name of a temple in Lo-Yang, under
the T’ang dynasty, which gave its name to K’uei-Chi, founder of the
Dharmalaksana school (Consciousness-Only Sect). He was a disciple of and
collaborator with Hsuan-Tsang, and died around 682 A.D.
3)
Tên của một ngôi chùa nổi tiếng tọa lạc trong quận 11, thành phố
Sài G̣n, Nam Việt Nam. Chùa được xây năm 1957. Vào năm 1967, Ḥa Thượng
Hoàng Tu, thuộc phái Thiền Tào Động, trùng tu chùa với kiến trúc ba tầng
trên một diện tích 1.500 mét vuông. Trong Chánh điện có thờ tôn tượng
của Đức Quán Thế Âm Bồ Tát, tượng bằng đồng, cao 1 thước rưỡi—Name of a
famous pagoda located in the Eleventh district, Saigon City, South
Vietnam. It was built in 1957. In 1967 Most Venerable Hoàng Tu,
belonging to the Tào Động Sect, had the pagoda restored with three
floors in an area of 1,500 square meters. In the Main Hall, there is an
ancient statue of Avalokitesvara Bodhisattva, made of bronze, 1.5 meters
high.
Từ Ân Sắc Tứ Tự:
Tên của một ngôi chùa cổ tọa lạc trong quận Tân B́nh, thành phố Sài G̣n,
Nam Việt Nam. Chùa được Tổ Phật Ư xây trước năm 1752 tại thôn Tân Lộc,
xă Minh Hương, quận Tân B́nh. Đến năm 1752, tổ biến nơi đây thành Từ Ân
Tự. Trong lúc chiến tranh với quân Tây Sơn, Chúa Nguyễn Ánh đă lưu trú
tại đây, trong khi Hoàng Hậu th́ ở chùa Tường Khải, Diên Hoàng Tử Đởm,
tức vua Minh Mạng sau nầy, đă được hạ sanh tại đây năm 1791. Năm 1802,
chùa được xây dựng lại. Năm 1822 vua Minh Mạng ban tặng bản sắc “Sắc Tứ
Từ Ân Tự.” Vào cuối thế kỷ thứ 19, chùa được dời về cất lại tại Phú Lâm,
bên cạnh rạch Ông Buông, tức vị trí hiện nay—Name of an ancient temple,
located in Tân B́nh district, Saigon City, South Vietnam. The temple was
built by Patriarch Phật Ư in Tân Lộc hamlet, Minh Hương village, Tân
B́nh district. In 1752, the Patriarch turned it into Từ Ân Temple.
During the wartime against Tây Sơn, Lord Nguyễn Vương stayed at this
temple, and the Queen stayed at Khải Tường temple where Prince Đởm, the
so called King Minh Mạng, was born in 1791. In 1802, it was rebuilt. In
1822, King Minh Mạng offered it a board entitled “Royal Recognized Từ Ân
Pagoda.” In late nineteenth century, it was rebuilt in Phú Lâm, located
by Ông Buông canal, the present location.
Từ Ân Tam Tạng:
Biệt hiệu của Ngài Huyền Trang Tam Tạng Pháp Sư—Another name of
Tripitaka Master Hsuan-Tsang.
Từ Ân Tam Tạng Pháp
Sư Truyện: Truyện kư về Ngài Huyền Trang Tam Tạng Pháp Sư—The
Records of the Tripitaka Master Hsuan-Tsang—See Hsuan-Tsang in Sanskrit/Pali-Vietnamese
Section, and Huyền Trang in Vietnamese-English Section.
Từ Ân Tự: Tên
ngôi chùa ở Lạc Dương (một trong 16 ngôi chùa do hoàng hậu Vân Đức xây
dựng khi vua Đường Cao Tông c̣n là Thái tử. Chùa nằm về phía đông nam
huyện Trường An, tỉnh Thiểm Tây, và phía bắc Khúc Giang. Chùa được xây
trên nền chùa Vô Lượng đời nhà Tùy, phía nam trông ra Hoàng Cừ, tùng
trúc xum xuê, phía tây là ngọn tháp Phù Đồ cao 7 tầng (300 thước), về
sau nầy gọi là tháp Đại Nhạn. Chùa được Ngài Huyền Trang xây để dịch
kinh. Chính nơi đây Ngài Huyền Trang đă dịch trên 40 bộ kinh gồm hơn 400
quyển. Đệ tử của Ngài Huyền Trang là Khuy Cơ cũng trụ tŕ tại chùa nầy
và lập nên Từ Ân Tông. Chùa hiện nay vẫn c̣n, nằm về phía nam của thành
phố Tây An chừng 2 dậm)—Name of a temple in Lo-Yang—See Từ Ân (2).
Từ Ấy: Ever
since then—From that time.
Từ Bi: Karuna (skt).
1)
Compassion—Mercy—The mercy of the Buddha is universal for
all—Compassionate—Merciful—Benevolent—See Karuna in Sanskrit/Pali-Vietnamese
Section—Từ bi là một trong những cửa ngơ quan trọng đi đến đại giác, v́
nhờ đó mà thiện căn lướt thắng và cũng từ đó mà chúng ta không làm tổn
hại chúng sanh. Trong Kinh Pháp Cú, Đức Phật dạy: “An trụ trong căn nhà
Từ Bi ấy chính là một nơi kiên cố nhất, nơi bảo vệ cho thân tâm ta được
an toàn trước mọi kẻ thù phiền năo và sân hận. Nơi đó ta sẽ có sự an lạc.”
Thế nên, Phật tử chơn thuần nên luôn xem từ bi lớn làm nhà, nhu ḥa nhẫn
nhục làm y áo, và các pháp không làm ṭa—Loving-kindness (benevolence)
and compassion are some of the most important entrances to the great
enlightenment; for with it good roots prevail in all situations in life,
also with it we do not kill or harm living beings. In the Dharmapada
Sutra, the Buddha taught: “To dwell in the house of Compassion is the
safest, for it protects our minds and bodies from the enemies of hatred
and afflictions. It allows us to have peace and contentment.” Thus,
sincere Buddhists should always consider great pity and compassion their
room, gentleness and patience the robes, and the emptiness of all
phenomena the seat.
2)
See Từ (5) and (9) in Vietnamse-English Section and Kinh Từ Bi in
Appendix E.
Từ Bi Hoàn Toàn
Khác Với Ái Kiến: Compassionate is totally different from love.
Từ Bi Hỷ Xả:
See Tứ Vô Lượng Tâm.
Từ Bi Không Làm Tổn
Hại: Avihimsa-samkappa (p)—Compassion or non-harm.
Từ Bi Pháp Duyên:
See Pháp Duyên (2).
Từ Bi Quán: Một
trong năm pháp quán tâm, lấy từ bi diệt trừ sân hận—One of the five-fold
procedures for quieting the mind, the compassion-contemplation, in which
pity destroys resentment—See Ngũ Đ́nh Tâm Quán (2).
Từ Bi Tâm:
Heart of compassion or compassionate mind (mercy—benevolence)—Theo Ḥa
Thượng Thích Thiền Tâm trong Liên Tông Thập Tam Tổ, sao gọi là Từ Bi Tâm?
Từ bi là ḷng xót thương cứu độ mà ĺa tướng và không phân biệt chấp
trước. Nghĩa là thương xót cứu độ mà không có hậu ư lợi dụng. Chẳng hạn
như v́ thấy người giàu đẹp, sang cả, vân vân, nên giả bộ ‘Từ Bi’ để dụng
ư và mưu tính các việc riêng tư có lợi cho ḿnh. Đây chỉ được gọi là ‘Ái
Kiến,’ nghĩa là thấy giàu đẹp mà sanh khởi ḷng thương theo lối trói
buộc của chúng sanh, chớ không phải là Từ Bi—According to Most Venerable
Thích Thiền Tâm in The Thirteen Patriarchs of Pureland Buddhism, what is
the ‘compassionate mind?’ To be compassionate is to pity and to be
empathetic, wishing to help and rescue others without having
discriminations or attachment to various characteristics. This means
‘altruism’ or to have mercy and compassion, wishing to help others but
not to have any intention of taking advantages. For instance, seeing
someone rich, beautiful, etc, one pretends to be compassionate by
helping, but having ulterior motives of self-gain. This is called
“Desirous Views,” or developing love and lust when seeing wealth and
beauty according to binding ways of sentient beings; thus, to act in
this way cannot be called being ‘compassionate.’
**For more
information, please see Mười
Hoàn Cảnh Khởi Tâm
Đại Bi.
Từ Bi Thất:
Theo Kinh Pháp Hoa, th́ Từ Bi Thất là tên khác của nơi trú ngụ của Đức
Phật—According to the Lotus Sutra, this is the abode of compassion, the
dwelling of Buddha.
Từ Bi Trí Tuệ:
Compassionate and wisdom.
Từ Bi Vạn Hạnh:
Bồ Tát trụ ở tâm đại bi mà tu vạn hạnh, khác nào dùng nước từ bi mà tưới
cây vạn hạnh, làm cây xanh tốt (dùng pháp từ bi th́ mọi việc đều hanh
thông)—Bodhisattva’s tender compassion in all things, or with compassion
all things succeed.
Từ Bi Y: Đức
danh của pháp y, hay áo cà sa của chư Tăng—Compassionate garment, the
monk’s robe.
Từ Biện: Bàn
luận sự việc một cách từ bi—To discuss compassionately.
Từ Biệt: To say
good-bye—To take leave.
Từ Bỏ:
Parityajati (skt)—To give up—To renounce—To abandon—To forsake—To
desert—To drop—To quit—To reject—To disregard—To leave.
Từ Bỏ Ác Nghiệp:
Abandon negative karma.
Từ Bỏ Cực Đoan:
To give up extremes
Từ Bỏ H́nh Tướng Bề
Ngoài: Renounce all the amenities of the world (external
appearances).
Từ Bỏ Tất Cả Là
Được Tất Cả (Tịnh Độ): To abandon everything in worldly life means
to receive everything in the Pure Land.
Từ Bỏ Thế Tục:
Nekkhamma-samkappa (p)—Sau khi nhận ra rằng bản chất của cuộc sống con
người là đau khổ, Thái tử Sĩ Đạt Đa ngừng bặt mọi hưởng thụ dục lạc.
Ngài nghĩ cách xuất thế gian t́m đường cứu độ. Sau đó ngài trở thành một
kẻ không tiền, sống đời lang thang khổ hạnh, những mong đạt được đại
giác. Ngài đă tự hành hạ thân xác và tu hạnh ép xác. Tuy nhiên, sau sáu
năm khổ hạnh trong vô vọng, thân xác Ngài chỉ c̣n lại bộ xương. Ngài bèn
đổi cách và bỏ cách tu vô dụng. Ngài từ bỏ nhị biên, đi theo con đường
trung đạo và thành Phật vào năm 35 tuổi—Renunciation—After realizing
all nature of life and human suffering in life, Crown Prince Siddhartha
stopped enjoying worldly pleasures. He thought of leaving the world in
search of truth and peace. He then became a penniless wandering ascetic
to struggle for enlightenment. He did many penances and underwent much
suffering. He practiced many forms of severe austerity. However, he got
no hope after six years of torturing his body so much that it was
reduced to almost a skeleton. He changed his method as his penances
proved useless. He gave up extremes and adopted the Middle Path and
became a Buddha at the age of 35.
Từ Chối: To
decline—To deny—To refuse.
Từ Chức: To
resign—To give up one’s appointment .
Từ Chương:
1)
Văn chương: Literature.
2)
Học thuộc ḷng chứ không có óc sáng tạo: To learn by memory
without any inventive or creative ideas.
Từ Đàm: Tên của
một ngôi chùa cổ ở Trung Việt. Từ thuở khai sơn chùa có tên là Ấn Tôn,
chỉ là một am tranh do Ḥa Thượng Minh Hoằng Tử Dung xây vào khoảng năm
1690. Năm 1703, chúa Nguyễn Phước Tần chính thức công nhận tên chùa Ấn
Tôn. Năm 1814, Ḥa Thượng Đạo Trung Viên Minh, trụ tŕ chùa đă khởi công
trùng tu. Ngài Đạo Trung Viên Minh đồng thời c̣n là trụ tŕ chùa Thiên
Mụ. Năm 1841, vua Thiệu Trị đổi tên chùa là Từ Đàm. Năm 1961, chùa được
trùng tu đại qui mô, mở rộng chu vi nhà chùa; chánh điện, nhà Tổ, pḥng
trụ tŕ, và Tăng xá đều được trùng tu—Name of an old temple in Central
Vietnam. At first, the temple with the name of Ấn Tôn, was only a
thatched small temple, built by Most Venerable Minh Hoằng Tử Dung in
about 1690. In 1703, Lord Nguyễn Phước Tần officially recognized the
temple with the name Ấn Tôn. In 1841, king Thiệu Trị changed the name of
the temple to Từ Đàm. In 1961, the temple was reconstructed in a large
scale. Its grounds were enlarged, the main hall, the worship house
dedicated to the founder of the temple, the headmonk’s residence, and
houses for staff were also rebuilt.
Từ Điển:
Dictionary—Phrase-book.
Từ Đó: From
(since) that time.
Từ Đời Nầy Sang
Kiếp Khác: From lifetime to lifetime—From generation to
generation.
Từ Đường:
Ancestral temple or hall.
Từ Đường Ngân:
Lễ cúng người quá văng—An endowment for masses to be said for the
departed.
Từ Giă: To bid
farewell to someone—To say good-bye.
Từ Giă Cơi Đời:
To bid farewell to this world.
Từ Hàng: Tiếng
sủa của từ bi, ư nói có người bề ngoài trông dữ dằn, ăn nói rổn rảng,
nhưng trong ḷng luôn có từ tâm (khẩu xà tâm Phật)—The bark of mercy.
Từ Hiếu: Tên
của một ngôi chùa cổ tại Huế, Trung Việt. Sự xây dựng chùa gắn liền với
hành trạng của Ḥa Thượng Tánh Thiên Nhất Định vào khoảng giữa thế kỷ
thứ 19. Năm 1848, các vị thái giám và cung giám trong đại nội đă phát
tâm tái thiết chùa, mở rộng qui mô chánh điện gồm ba gian hai chái, tôn
trí tượng Phật Tam Thế, tượng Quán Thế Âm Bồ Tát, tượng Long Thiên Hộ
pháp và tượng Quan Thánh. Phía sau xây Thống Hội đường thờ các hương
linh các thái giám và cung giám quá cố, trong đó có án thờ Tả quân Lê
Văn Duyệt. Năm 1865, các vị cung giám lại tiếp tục trùng tu. Năm 1894,
Ḥa Thượng Cương Kỷ lại tiếp tục trùng tu với sự giúp đở của vua Thành
Thái, các thái giám và quan lại. Năm 1931, xây hồ bán nguyệt ở phía
trong cổng tam quan. Năm 1962 chỉnh trang toàn cảnh. Năm 1971 tu bổ cổng
tam quan và Tăng xá. Chùa Từ Hiếu là một tổ đ́nh nổi tiếng. Ngày xưa là
một trong những nơi tàng bản, ấn hành kinh luật của sơn môn Huế. Nơi đây
cảnh sắc hữu t́nh, với đồi thông bốn mùa xanh ŕ , ḍng khe trong vắt,
lại xa phố phường nên càng thanh tịnh. Chung quanh chùa lại c̣n những
vết tích xưa. Phía trước chùa là nền cũ thảo am Tường Vân, làm khu lăng
mộ của nhà thơ Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, khi sống đă gắn bó với An
Dưỡng Am, khi mất lại lấy nơi nầy làm vĩnh trạch. Phía sau chùa là khu
nghĩa địa của các thái giám, có bia văn của học sĩ Cao Xuân Dục. Phía
tây chùa là lăng mộ bà Chiêu Nghi phu nhân, một ái phi của chúa Vơ Vương
Nguyễn Phước Hoạt với ngôi bia danh tiếng của quan hàn lâm đương thời—Name
of an ancient temple in Huế, Central Vietnam. The building of this
temple was closely linked with Most Venerable Tánh Thiên Nhất Định’s
activities in the middle of the nineteenth century. In 1848, the eunuchs
of the throne committed themselves to rebuilt the temple, enlarging the
structure with a three-part main hall with two side-rooms which is
dedicated to statues of the Buddhas of the Past, Present and Future,
statue of Avalokitesvara Bodhisattva, statues of the guardian spirits
Long Thiên and that of Quan Thánh. In the back was Thống Hối Đường
worship with altars of dead eunuchs, among which there was the altar of
General Lê Văn Duyệt. In 1865, eunuchs carried out more reconstructions.
In 1894, Most Venerable Cương Kỷ rebuilt the temple with the aid of king
Thành Thái. In 1931, a half-moon form lake was built behind the
three-entrance gate. In 1962, the overall sight of the temple was
ameliorated. In 1971 the three-entrance gate and staff houses were
rebuilt. Từ Hiếu is a famous patriarchal temple. Formerly here was an
archive and a publishing house for canon and documents of Buddhist laws
of the clergy in Huế. Its sights are romantic with the evergreen pines
and the small glass-clear brook in front. The atmosphere around is
pleasantly quiet thanks to the long distance between the temple and the
noisy city. Also relics of the old days can be found about the place.
Before the temple is the old site of the thatched temple Tường Vân, now
burial place of Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, the poet who attached
himself to An Dưỡng worship house when he was living, and chose this
site for his tomb after his death. In the back of the temple is the
cemetery for the eunuchs with the stele inscribed by the scholar Cao
Xuân Dục. To the west is the tomb of lady Chiêu Nghi, a secondary wife
of Lord Vơ Vương Nguyễn Phước Hoạt, with the famous stele written by a
member of the Royal Academy.
Từ Huấn:
Maternal instructions.
Từ Khi: Since.
Từ Khước: To
deny—To decline—To withhold—To refuse.
Từ Kính: Loving
reverence.
Từ Lâm: Tên của
một ngôi cổ tự ở Huế, Trung Việt. Chùa tọa lạc trên đồi Quảng Tế, phía
tây nam phủ Phú Xuân, nay là phía tây bắc Đàn Nam Giao. Chùa do Ḥa
Thượng Từ Lâm khai sơn vào cuối thế kỷ thứ 17. Dưới thời Tổ Liễu Quán,
chùa vẫn c̣n là một thảo am. Duới thời chúa Nguyễn Phước Hoạt, đệ tử tổ
Liễu Quán là đại sư Tế Ngữ đă mở rộng quy mô chùa Từ Lâm. Nhưng từ năm
1775 đến đầu những năm 1800, chùa Từ Lâm trở nên điêu tàn v́ chiến tranh.
Đầu thời vua Thiệu Trị, Ḥa Thượng Đạo Thành đă trùng tu chùa. Dưới thời
vua Khải Định, chùa Từ Lâm được chuyển nhượng cho một người con của Tùng
Thiện Vương và con cháu tiếp tục quản lư ngôi chùa cho đến năm 1970 th́
chùa trở nên hoang phế. Cuối thập niên 80, thầy Phước Huệ đảm nhận việc
trùng tu ngôi cổ tự nầy—Name of an ancient temple in Huế, Central
Vietnam. The temple is located on hill Quảng Tế, southwest of Phú Xuân
Capital, now northwest of the Altar to Heaven of the Nguyễn Kings. When
Patriarch Liễu Quán stayed there, Từ Lâm was still a thatched temple.
During the reign of Lord Nguyễn Phước Hoạt, a disciple of Patriarch Liễu
Quán, great master Tế Ngữ, enlarged the structure of Từ Lâm temple.
However, from 1775 until the beginning of 1800s, Từ Lâm was devastated
by war. In the early years of king Thiệu Trị, Most Venerable Đạo Thành
rebuilt the entire temple. During the reign og king Khải Định, Từ Lâm
was transferred to a son of Tùng Thiện Vương, and his children and
grandchildren continued to take care of the temple until 1970, the
temple became ruined. In the 1980s, Venerable Phước Huệ was asked to
rebuilt the temple.
Từ Lâm Đại Sư:
Great master Từ Lâm—Ḥa Thượng Từ Lâm là một du Tăng Trung Hoa đă đến
Thuận Hóa trong đợt Tổ Nguyên Thiều sang Quảng Đông mời các danh Tăng về
Thuận Hóa sung vào ban thập sư truyền giới tại giới đàn chùa Thiên Mụ.
Ngài thị tịch vào đầu thế kỷ thứ 18, tháp mộ của ngài được xây ngay
trong sân chùa Từ Lâm—Most Venerable Từ Lâm was a Chinese wandering monk
who came to Thuận Hóa on the occasion when Patriarch Nguyên Thiều
returned to Kuang-Chou to seek celebrated Chinese monks for the ten-monk
committee for a regulation-affirming ceremony at Thiên Mụ temple. He
passed away in the early eighteenth century. His stupa was erected in
the garden of Từ Lâm temple.
Từ Lê Bạt Ma:
See Harivarman in Sanskrit/Pali-Vietnamese Section.
Từ Lê Lặc:
Haritaki (skt)—Một loại cây có sớ màu vàng, mọc nhiều ở miền đông Ấn Độ,
dùng làm thuốc hay làm mực—The yellow Myrobalan tree and fruit, grown in
East India, used for medicine, or ink.
Từ Lợi: Hari (skt)—C̣n
gọi là Từ Lê, có nghĩa là con sư tử—A lion—Tawny.
Từ Lợi Chi Xá:
Harikesa (skt).
1)
Bờm sư tử: Lion’s mane.
2)
Có tóc màu vàng: Yellow-haired.
3)
Tên của một loài Dạ Xoa: Name of a yaksa.
Từ Lợi Để:
Hariti or Ariti (skt)—C̣n gọi là A Lợi Đế, A Lợi Để, hay Từ Lợi Đế.
1)
Hấp dẫn: Charming.
2)
Màu xanh đậm: Dark green.
3)
Tàn bạo: Cruel.
4)
Tên của một loài La Sát Nữ, mẹ của loài quỷ, thề sát hại tất cả
trẻ nít trong thành Vương Xá, nhưng về sau được Phật chuyển hóa, quy-y
Phật và trở thành người hộ tŕ cho Ni chúng. Ngày nay các ni viện đều có
thờ h́nh bà bồng đứa trẻ: Mother of demons, a raksasi who was under a
vow to devour the children of Rajagrha, but was converted by the Buddha,
and became the guardian of nunneries, where her image, carrying a child
or in children’s ailments.
Từ Lợi Để Mẫu:
Hariti or Ariti (skt)—See Từ Lợi Để.
Từ Lộ: Phật răi
mưa từ bi tưới tẩm con người—The Buddha makes rain down compassion on
men.
Từ Lực: The
compassionate power.
Từ Lực Vương:
Maitribala-raja (skt)—C̣n gọi là Di Khư Bạt La, hay Di La Bạt La, tên
một vị vương có ḷng từ bao la, tiền thân của Phật Thích Ca khi Ngài c̣n
tu hành thập thiện, mọi người đều tŕ giới và tu hành tam nghiệp thanh
tịnh nên quỷ thần không có thịt thú để ăn. Bấy giờ có 5 quỷ dạ xoa không
chịu được đói khát, bèn đến gặp ngài. Ngài bèn lấy máu của chính ḿnh mà
bố thí cho chúng, và phát nguyện sau nầy thành Phật sẽ bố thí pháp thực
cho chúng—King of merciful virtue, or power, a former incarnation of the
Buddha when, as all his people had embraced the vegetarian life, and
yaksas had no animal food and were suffering, the king fed five of them
with his own blood, and he vowed that when he became enlightened he
would save all of them with his doctrine.
Từ Mẫn:
Kindness.
Từ Mẫu: Kind
mother.
Từ Minh: Một vị
sư nổi tiếng đời nhà Tống—Tzu-Ming, a noted monk of the Sung dynasty—See
Từ Minh Sở Viện Thiền Sư.
Từ Minh Sở Viện
Thiền Sư: Zen master Tzu-Ming-Chu-Yuan—Thiền Sư Từ Minh Sở Viện ở
Thạch Sương sanh năm 986, là đệ tử của Thiền Sư Phần Dương Thiện Châu—Zen
master Tzu-Ming-Sở Viện ở Thạch Sương sanh năm 986, là đệ tử của
Fan-Yang-Shan-Chou.
·
Sư đến Phần Dương đă hai năm mà chưa được nhập thất (thấy
tánh để được thầy gọi vào trong trượng thất dạy riêng). Mỗi khi sư vào
thưa hỏi, chỉ bị Phần Dương mắng chửi thậm tệ, hoặc nghe chê bai những
vị khác, nếu có dạy bảo chỉ toàn là lời thế tục thô bỉ. Một hôm sư trách:
“Từ ngày đến pháp tịch này đă qua mất hai năm mà chẳng được dạy bảo, chỉ
làm tăng trưởng niệm thế tục trần lao, năm tháng qua nhanh việc ḿnh
chẳng sáng, mất cái lợi của kẻ xuất gia.” Sư nói chưa dứt, Phần Dương
nh́n thẳng vào sư mắng: “Đây là ác tri thức dám chê trách ta.” Phần
Dương nổi nóng cầm gậy đuổi đánh. Sư toan la cầu cứu, Phần Dương liền
bụm miệng sư. Sư chợt đại ngộ, nói: “Mới biết đạo của Lâm Tế vượt ngoài
thường t́nh.” Sư ở lại đây hầu hạ bảy năm—Tzu-Ming came to Fen-Yang for
more than two years. One day he asked Zen master Fen-Yang: “I’ve been
here for two years and you haven’t given me any instruction! You’ve just
increased the world’s vulgarity, dust, and toil, while the years and
months fly away. Even what I knew before is no longer clear, and I’ve
lost whatever good came from leaving home.” But before Shi-Shuang could
finish speaking, Fen-Yang glared at him fiercely and cursed him, saying:
“What you know is vile! How dare you sell me short!” So saying, Fen-Yang
picked up his staff to drive Shi-Shang away. Shi-Shuang tried to plead
with him, but Fen-Yang covered Shi-Shuang's mouth with his hand. At that
moment, Shi-Shuang realized great enlightenment. He then exclaimed:
“It’s knowing the extraordinary emotion of Lin-Chih’s way!”
·
Một hôm sư thượng đường: “Thuốc nhiều bệnh lắm, lưới dày
cá đặc.” Liền bước xuống ṭa—One day, Shi-Shuang addressed the monks,
saying: “The more medicine that is used, the worse the disease becomes.
The finer the fishing net mesh, the more fish that escape.” Shi-Shuang
then left the hall.
·
Sư đến kinh nhận danh dự từ vua Tống Nhơn Tông, trên đường
trở về sư trúng phong, sư bảo thị giả: Ta vừa bị trúng phong.” Miệng sư
méo qua một bên. Thị giả nói: “Lúc b́nh thường quở Phật mắng Tổ, hôm nay
lại thế ấy?” Sư bảo: “Đừng lo, ta sẽ v́ ngươi sửa ngay lại.” Nói xong sư
lấy tay sửa lại, miệng ngay như cũ, sư nói: “Từ nay về sau chẳng nhọc
đến ngươi.” Sư nói: “Từ đây về sau chẳng giởn với ngươi nữa.” Đến năm
sau (1041) ngày năm tháng giêng, sư thị tịch—Shi-Shuang received honors
from Emperor Ren-Zong, and during the return trip to his temple he said
to his attendant: “I feel a paralizing wind.” Shi-Shuang’s mouth became
crooked. His attendant stopped and said: “What should we do? You’ve
spent your whole life cursing the Buddhas and reviling the ancestors. So
now what can you do?” Shi-Shuang said: “Don’t worry. I’ll straighten it
for you.” He then used his hand to straighten his mouth. Then Shi-Shuang
said: “From now on I won’t play any more jokes on you.” The next year,
on the fifth day of the first month, the master passed away.
Từ Môn: Phật
giáo c̣n được gọi là “từ môn,” v́ chư Phật và chư Bồ Tát từ trong tâm
của ḿnh phát ra công đức cũng như các phương tiện thiện xảo để cứu độ
chúng sanh—The gate of mercy, Buddhism.
Từ Nan: To
refuse.
Từ Nay: From
now forward—From this time onwards—Henceforth—Hence.
Từ Nghiêm:
1)
Mẹ Cha: Mother and father—The maternal-cum paternal spirit.
2)
Từ bi mà nghiêm khắt: Compassion and strictness.
3)
Tên của một ngôi chùa nổi tiếng nằm trong quận 10, thành phố Sài
G̣n, Nam Việt Nam. Từ trước chùa chỉ là một ngôi am nhỏ lợp tranh do
Thượng Tọa Đạt Từ trụ tŕ. Đến năm 1955, Ni chúng phát triển mạnh nên
Thượng Tọa đă nhường hẳn ngôi chùa nầy cho Ni và ngài trở về chùa Ấn
Quang tu hành. Vào hai ngày 6 và 7 tháng 10 năm 1956, Giáo Hội Tăng Già
Việt Nam đă tổ chức đại hội thành lập Ni Bộ Nam Việt, trụ sở đặt tại
chùa Từ Nghiêm. Chùa c̣n là một trong những Phật Học Viện của Ni Bộ bên
cạnh các chùa Diệu Đức và chùa Hồng Ân ở Huế, và chùa Dược Sư ở Sài G̣n.
Chùa được trùng tu năm 1959 và hoàn tất năm 1962. Từ năm 1964, chùa là
trụ sở của Ni Bộ Bắc Tông—Name of a famous pagoda located in the tenth
district, Saigon City, South Vietnam. At first, it was a small thatched
pagoda headed by Venerable Đạt Từ. In 1955, the number of nuns developed
strongly so the Venerable offered the pagoda to them and returned to Ấn
Quang pagoda to practise Dharma. On the sixth and seventh of October in
1956, the South Vietnam Buddhist Sangha Association held a Congress to
establish the South Vietnam Nun Association and chose Từ Nghiêm Pagoda
as its office. In addition to Diệu Đức, and Hồng Ân Pagodas from Huế,
and Dược Sư Pagoda from Saigon City. Từ Nghiêm Pagoda is one of Buddhist
Studies for nuns. It was rebuilt in 1959 and completed in 1962. Since
1964, Từ Nghiêm Pagoda has been a place for the office of Mahayana Nuns’
Department.
Từ Ngữ:
Expression.
Từ Nhăn: Ánh
mắt từ bi của Đức Phật—The compassionate eye of Buddha.
Từ Nhẫn: Hai
trong tam quỹ, từ bi và nhẫn nhục—Two of the three souces of
cultivation, compassion and patience, compassionate tolerance—See Tam
Quỹ in Vietnamese-English Section.
Từ Nhượng: To
refuse to make concessions.
Từ Phàm Phu Lên
Phật, Chỉ Cách Nhau Một Sợi Chỉ: From ordinary people to Buddha,
separated only by a thread.
Từ Phật Mạ Tổ:
Mắng Phật chữi Tổ—To scold a Buddha and abuse or blame an elder.
Từ Phong Hải Quưnh:
See Hải Quưnh.
Từ Phụ: Kind
father.
Từ Quang: Ánh
hào quang đại từ đại bi của chư Phật và chư Bồ Tát—Merciful light, that
of the Buddhas, and Bodhisattvas.
Từ Tạ: To take
leave and to thank.
Từ Tâm: Một
trong Tứ Vô Lượng Tâm, cái tâm muốn mang lại cho tha nhân niềm an lạc—One
of the four immeasurables, a kind heart, or a compassionate heart—See Tứ
Vô Lượng Tâm.
Từ Thạch: Đá
nam châm—A lodestone—Magnet.
Từ Thâm Tâm Khẩn
Thiết: From the depth of our earnest mind.
Từ Thân: Kind
parents.
Từ Thị: Đức Từ
Thị, theo tên gọi cũ là Đức Di Lặc—The compassionate one, Maitreya—See
Maitreya in Sanskrit/Pali-Vietnamese Section.
Từ Thiện:
Benevolent—Charitable.
Từ Thủy: Ḷng
từ ví như nước cam lồ rưới nhuận nhân sinh—Mercy as water fertilizing
the life.
Từ Tôn: C̣n gọi
là Từ Thị Bồ Tát hay Đức Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật—The compassionate
honoured one, Maitreya.
Từ Trần: To
pass away—To die.
Từ Tử: Đệ tử
của Đức Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật (trong khi đệ tử của Đức Phật Thích Ca
gọi là Thích tử)—Sons of compassion, i.e. the disciples of Maitreya.
Từ Tức Đa:
Hasta (skt)—Cánh tay hay bàn tay—An arm—A hand.
Từ Vân:
1)
Ḷng từ bi quảng đại của Đức Phật được ví như đám mây lành che
chở cho thế giới chúng sanh: The over-spreading, fructifying cloud of
compassion, the Buddha-heart.
2)
Từ Vân c̣n là tên của một vị sư nổi tiếng đời nhà Tống (ngài Linh
Ứng ở chùa Thiên Trúc Linh Sơn, thuộc tỉnh Hàng Châu. Ngài tên là Tuân
Thức, tự là Trí Bạch, sư quê Ninh Hải Thiên Thai. Sư từng đốt một ngón
tay trước tượng Đức Phổ Hiền ở chùa Quốc Thanh phát nguyện truyền bá
giáo lư Thiên Thai. Ngài được vua Tống Chân Tông ban cho tước hiệu Từ
Vân. Ngài thị tịch năm 69 tuổi): Tzu-Yun is also the name of a noted
monk during the Sung dynasty.
Từ Vô Lượng Tâm:
Boundless kindness—See Tứ Vô Lượng Tâm.
Từ Vô Ngại Trí:
Pratimsamvid (skt)—Một trong tứ vô ngại, trí không bị ngăn ngại bởi ngôn
từ—Unhindered knowledge of all languages or terms, one of the four
unobstructed eloquences—See Tứ Vô Ngại (3).
Từ Vô Thỉ: From
beginningless time—From time immemorial.
Từ Vô Thỉ Chúng
Sanh Đă Gây Tạo Nhiều Ác Nghiệp, Đều Do Tam Độc Tham, Sân, Si, Nay Xin
Chí Thành Sám Hối: From beginningless time, sentient beings have
being doing all kinds of evil deeds, caused by greed, anger and
ignorance, now vow to sincerely repent them all.
Từ Xa: From
afar.
Từ Ư: Tâm từ ư
mẫn—The mind or spirit of compassion and kindness.
Tưû:
(A) Con: Kumara (skt)—Son—Seed.
(B) Chết: Maranga (skt)—to
die—Death—
There are two
kinds of death:
1)
Tận mệnh Tử: Natural death.
2)
Ngoại duyên Tử: Violent death—Death caused by external causes.
Tử Biệt:
Separated by death.
Tử Biệt Khổ:
Chia ĺa xa cách v́ người thân yêu chết là khổ—Suffering of separation
from whom we love dies—The misery or pain of death (one of the four
sufferings).
Tử Chí: Decided
to die.
Tử Dung Minh Hoằng:
Thiền Sư Tử Dung Minh Hoằng—Zen Master Tử Dung Minh Hoằng—Thiền sư Trung
Hoa, quê ở Quảng Đông. Ngài là Pháp tử đời thứ 34 ḍng Thiền Lâm Tế. Năm
1665, ngài theo Thiền sư Nguyên Thiều sang Việt Nam và trụ tại Thuận Hóa.
Sau đó ít lâu, vào khoảng năm 1690, ngài đă dựng nên một ngôi thảo am
tên Ấn Tôn giữa vùng đồi núi cây cối um tùm, cảnh sắc tiêu sơ trên ngọn
đồi Long Sơn để tu tập. Năm 1703, chúa Nguyễn Phước Châu đă ban cho chùa
biển ngạch sắc tứ Ân Tông Tự, về sau chùa nầy được vua Thiệu Trị đổi tên
thành chùa Từ Đàm. Ngài truyền pháp cho Tổ Liễu Quán. Ngài thị tịch ở
đâu và hồi nào không ai biết—A Chinese monk from Kuang-Tung. He was the
Dharma heir of the thirty-fourth generation of the Linn-Chih Zen Sect.
In 1665, he followed Most Venerable Nguyên Thiều to arrive in Vietnam
and stayed in Thuận Hóa. Sometime later, maybe in 1690, he built a
thatched house in a desolate area in deep forest on Hill Long Sơn. In
1703, Lord Nguyễn Phước Châu officially recognized the temple with the
Ấn Tông. Later, king Thiệu Trị gave an edict for the temple name to
change to Từ Đàm. He transmitted his Dharma to Zen Master Liễu Quán. His
whereabout and when he passed away were unknown.
Tử Đạo: Phận
làm con—Filial duty.
Tử Đoạn: Cắt
đứt nhân sanh ra phiền năo trong luân hồi sanh tử—To cut off the seed
which produces the miseries of transmigration.
Tử Hải: Biển
sanh tử luân hồi—The sea of mortality.
Tử H́nh: Death
penalty.
Tử Hợp Quốc:
Kukyar (skt)—Một xứ nằm về phía Tây của Khotan—A country west of Khotan.
Tử Khổ: Nỗi khổ
sở hay đau đớn lúc chết, một trong bốn nỗi khổ—The misery or pain of
death, one of the four sufferings.
Tử Linh: Vong
linh của người chết—The spirit of one who is dead—A ghost.
Tử Lực: The
sharp sword of death.
Tử Ma: Demons
of death.
Tử Măn Quả: Một
loại trái có rất nhiều hột (trái lựu)—The fruit full of seeds
(pomegranate).
Tử Môn: Cửa tử
dẫn chúng sanh từ kiếp nầy qua kiếp khác—The gate or border of death,
which leads sentient beings from one incarnation to another.
Tử Nạn: Killed
in an accident.
Tử Ngữ: Dead
language.
Tử Phong: Trận
cuồng phong cuối cùng tàn phá thế giới—Destroying wind in the final
destruction of the world.
Tử Phược: Nhân
trói buộc hay phiền năo trong tâm khiến cho con người chẳng được tự tại—The
seed bond, or delusion of the mind, which keeps men in bondage.
Tử Quả:
1)
Nhân và Quả: Seed and fruit.
2)
Nhân sanh Quả: Seed produced fruit.
3)
Quả lập thành do nhân phiền năo đời trước: The fruit produced by
illusion in former incarnation.
Tử Quan: See Tử
Môn.
Tử Sanh: Chết
sống—Death and life—Mortality—Transmigration.
Tử Sơn: The
hill of death.
Tử Tặc: Tử thần—The
robber-death.
Tử Tế:
Amiable—Nice—Kind—Good.
Tử Thần:
Death—The spirit of death.
Những lời Phật dạy về
“Tử Thần” trong Kinh Pháp Cú—The Buddha’s teachings on “The spirit of
death” in the Dharmapada Sutra:
1)
Chẳng phải bay lên không trung, chẳng phải lặn xuống đáy bể,
chẳng phải chui vào hang sâu núi thẳm, dù t́m khắp thế gian nầy, chẳng
rơ nơi nào trốn khỏi tử thần—Not in the sky, nor in mid-ocean, nor in a
mountain cave, nowhere on earth where one can escape from death (Dharmapada
128).
2)
Người đắm yêu con cái và súc vật th́ tâm thường mê hoặc, nên bị
tử thần bắt đi như xóm làng đang say ngủ bị cơn nước lũ lôi cuốn mà
không hay—Death descends and carries away that man of drowsy mind greedy
for children and cattle, just like flood sweeps away a sleeping village
(Dharmapada 287).
3)
Một khi tử thần đă đến, chẳng có thân thuộc nào có thể thế thay,
dù cha con thân thích chẳng làm sao cứu hộ—Nothing can be saved, nor
sons, nor a father, nor even relatives; there is no help from kinsmen
can save a man from death (Dharmapada 288).
Tử Thi:
1)
Xác chết: Corpse.
2)
Ác Tăng: A wicked monk.
Tử Thiền Ḥa Tử:
1)
Thiền Tăng: A Zen monk.
2)
Một từ để mắng trong nhà Thiền: A term of abuse in regard to a
monk—Die! Monk—Dead monk!
Tử Thù: Mortal
enemy (foe).
Tử Tôn:
Children and grandchildren.
Tử Tuyền: Một
danh Tăng uyên bác đời Tống, hiệu là Trường Thủy, là tên của quận hạt cố
hương; ông có rất nhiều đệ tử. Lúc đầu th́ ông chuyên tu Thủ Lăng Nghiêm,
sau đó ông chấp nhận tu theo Ngài Hiền Thủ của trường phái Hoa Nghiêm—A
famous learned monk Tzu-Hsuan, of the Sung dynasty whose style was
Ch’ang-Shui, the name of his district; he had a large following. At
first he specialized on the Suramgama; later he adopted the teaching of
Hsien-Shou of the Hua-Yen school.
Tử Tướng: Tướng
của chúng sanh lúc chết. Xem xét tử tướng của con người có thể biết
được nơi văng sanh tốt hay xấu—The appearance of death. Signs at death
indicating the person’s good or evil karma.
Tử Viện: Small
courts and buildings attached to a central monastery.
Tử Vong: Dead
and gone (lost).
Tử Vương: Diệm
Ma Vương—Yama—Lord of death and hell.
Tưï:
1)
Tự ḿnh: Sva (skt)—Svayam (skt)—The self—One’s own—Personal—One’s
self.
2)
“Tự” được dùng với nghĩa đối lại với “tha”: “Self” is used as the
opposite of “another” or “other.”
3)
Chữ: Aksara (skt)—A letter—Character—Vowel.
4)
Lời tựa hay lời mở đầu của một bài kinh: Seriatim (skt)—Preface—Introduction—The
opening phrase of a sutra (Thus I have heard)—An opening phrase leading
up to a subject.
5)
Tiếp Nối: To succeed to—To continue.
6)
Tương tự: Apearance of—Seeming as—Like—As.
Tự Ái: Tự
thương chỉ có ḿnh, do đó mà gây ra khổ đau phiền năo. Chư Phật đoạn
diệt “tự ái” nên chứng đắc niết bàn—Self-love—Cause of all pursuit or
seeking, which in turn causes all sufferings. All Buddhas put away
self-love and all pursuit, or seeking, such elimination being nirvana.
Tự An: To be
satisfied (content) with one’s lot.
Tự An Ủi: To
advise oneself.
Tự Biện: To
stand up for oneself.
Tự Biết:
Svabuddhi (skt)—Self-awareness.
Tự Cải: To mend
one’s way.
Tự Cảm:
Self-induction.
Tự Cao Tự Đại:
Proud—Haughty.
Tự Cao Tự Măn:
Vain and conceited.
Tự Cấp: To
provide for oneself.
Tự Chế: To
restrain oneself.
Đức Phật dạy về Tự Chế
trong Kinh Pháp Cú—The Buddha taught about “Restraining oneself” in the
Dharmapada Sutra:
1)
Người nào nghiêm giữ thân tâm, chế ngự khắc phục ráo riết, thường
tu phạm hạnh, không dùng đao gậy gia hại sanh linh, th́ chính người ấy
là một Thánh Bà la môn, là Sa môn, là Tỳ khưu vậy—He who strictly
adorned, lived in peace, subdued all passions, controlled all senses,
ceased to injure other beings, is indeed a holy Brahmin, an ascetic, a
bhikshu (Dharmapada 142).
2)
Biết lấy điều hổ thẹn để tự cấm ngăn ḿnh, thế gian ít người làm
được. Người đă làm được, họ khéo tránh hổ nhục như ngựa hay khéo tránh
roi da—Rarely found in this world anyone who restrained by modesty,
avoids reproach, as a well-trained horse avoids the whip (Dharmapada
143).
3)
Các ngươi hăy nỗ lực sám hối như ngựa đă hay c̣n thêm roi, hăy
ghi nhớ lấy chánh tín, tịnh giới, tinh tiến, tam-ma-địa (thiền định) trí
phân biệt Chánh pháp, và minh hành túc để tiêu diệt vô lượng thống
khổ—Like a well-trained horse, touch by the whip, even so be strenuous
and zealous. By faith, by virtue, by effort, by concentration, by
investigation of the Truth, by being endowed with knowledge and conduct,
and being mindful, get rid of this great suffering (Dharmapada 144).
4)
Người tưới nước lo dẫn nước, thợ làm tên lo uốn tên, thợ mộc lo
nẩy mực cưa cây, người làm lành th́ tự lo chế ngự—Irregators guide the
water to their fields; fletchers bend the arrow; carpenters bend the
wood, the virtuous people control themselves (Dharmapada 145).
5)
Việc đáng làm không làm, việc không đáng lại làm, những người
phóng túng ngạo mạn, lậu tập măi tăng thêm—What should have been done is
left undone; what should not have been done is done. This is the way the
arrogant and wicked people increase their grief (Dharmapada 292).
6)
Thường quan sát tự thân, không làm việc không đáng, việc đáng
gắng chuyên làm, th́ khổ đau lậu tập dần tiêu tan—Those who always
earnestly practice controlling of the body, follow not what should not
be done, and constantly do what should be done. This is the way the
mindful and wise people end all their sufferings and impurities
(Dharmapada 293).
7)
Voi xuất trận nhẫn chịu cung tên như thế nào, ta đây thường nhẫn
chịu mọi điều phỉ báng như thế ấy. Thật vậy, đời rất lắm người phá giới
(thường ghét kẻ tu hành)—As an elephant in the battlefield endures the
arrows shot from a bow, I shall withstand abuse in the same manner.
Truly, most common people are undisciplined (who are jealous of the
disciplined) (Dharmapada 320).
8)
Luyện được voi để đem dự hội, luyện được voi để cho vua cỡi là
giỏi, nhưng nếu luyện được ḷng ẩn nhẫn trước sự chê bai, mới là người
có tài điêu luyện hơn cả mọi người—To lead a tamed elephant in battle is
good. To tame an elephant for the king to ride it better. He who tames
himself to endure harsh words patiently is the best among men
(Dharmapada 321).
9)
Con la thuần tánh là con vật lành tốt, con tuấn mă tín độ là con
vật lành tốt, nhưng kẻ đă tự điêu luyện được ḿnh lại càng lành tốt
hơn—Tamed mules are excellent; Sindhu horses of good breeding are
excellent too. But far better is he who has trained himself (Dharmapada
322).
10)
Chẳng phải nhờ xe hay ngựa mà đến được cảnh giới Niết bàn, chỉ có
người đă điêu luyện lấy ḿnh mới đến được Niết bàn—Never by those
vehicles, nor by horses would one go to Nirvana. Only self-tamers who
can reach Nirvana (Dharmapada 323).
11)
Chế phục được mắt, lành thay; chế phục được tai, lành thay; chế
phục được mũi, lành thay; chế phục được lưỡi, lành thay—It is good to
have control of the eye; it is good to have control of the ear; it is
good to have control of the nose; it is good to have control of the
tongue (Dharmapada 360).
12)
Chế phục được thân, lành thay; chế phục được lời nói, lành thay;
chế phục được tâm ư, lành thay; chế phục được hết thảy, lành thay. Tỳ
kheo nào chế phục được hết thảy th́ giải thoát hết thảy khổ—It is good
to have control of the body; it is good to have control of speech; it is
good to have control of everything. A monk who is able to control
everything, is free from all suffering (Dharmapada 362).
13)
Ǵn giữ tay chân và ngôn ngữ, ǵn giữ cái đầu cao, tâm mến thích
thiền định, riêng ở một ḿnh, thanh tịnh và tự biết đầy đủ, ấy là bậc Tỳ
kheo—He who controls his hands and legs; he who controls his speech; and
in the highest, he who delights in meditation; he who is alone, serene
and contented with himself. He is truly called a Bhikhshu (Dharmapada
362).
14)
Các ngươi hăy tự kỉnh sách, các ngươi hăy tự phản tỉnh! Tự hộ vệ
và chánh niệm theo Chánh pháp mới là Tỳ kheo an trụ trong an lạc—Censure
or control yourself. Examine yourself. Be self-guarded and mindful. You
will live happily (Dharmapada 379).
15)
Chính các nươi là kẻ bảo hộ cho các ngươi, chính các ngươi là nơi
nương náu cho các ngươi. Các ngươi hăy gắng điều phục lấy ḿnh như
thương khách lo điều phục con ngựa ḿnh—You are your own protector. You
are your own refuge. Try to control yourself as a merchant controls a
noble steed (Dharmapada 380).
Tự Chế Tự Thắng:
To restrain oneself and to gain victory over oneself.
Những lời Phật dạy về
“Tự chế Tự thắng” trong Kinh Pháp Cú—The Buddha’s teachings on
“Restraining oneself and gaining victory over oneself” in the Dharmapada
Sutra:
1)
Thắng ngàn quân địch chưa thể gọi là thắng, tự thắng được ḿnh
mới là chiến công oanh liệt nhứt—One who conquers himself is greater
than one who is able to conquer a thousand men in the battlefield
(Dharmapada 103).
2)
Tự thắng ḿnh c̣n vẻ vang hơn thắng kẻ khác. Muốn thắng ḿnh phải
luôn luôn chế ngự ḷng tham dục—Self-conquest is, indeed, better than
the conquest of all other people. To conquer onself, one must be always
self-controlled and disciplined one’s action (Dharmapada 104).
3)
Dù là thiên thần, Càn thát bà, dù là Ma vương, hay Phạm thiên,
không một ai chẳng thất bại trước người đă tự thắng—Neither the god, nor
demigod, nor Mara, nor Brahma can win back the victory of a man who is
self-subdued and ever lives in restraint (Dharmapada 105).
Tự Chủ:
1)
Độc lập: Independent.
2)
Tự chủ: Svavasa or vasita (skt)—Self-control—Self-mastery.
3)
Viện Chủ: An abbot—Head of a monastery—See Tam Cương (B) (1).
Tự Chứng:
Svasakshatkara (skt)—Inner witness—Inner assurance—Self-realization—The
witness within—Tự thân giác ngộ hay đạt được chân lư như Đức Phật đă
từng làm—Self-attained assurance of the truth, such as that of the
Buddha (to realize enlightenment by oneself).
Tự Chứng Đàn:
Tự Chứng Hội—Hội chúng của chư Phật hay chư Bồ Tát hiện thân trong Kim
Cang Giới Mạn Đà La—The assembly of all the Buddha and Bodhisattva
embodiments in the Vajradhatu mandala.
Tự Chứng Hội:
See Tự Chứng Đàn.
Tự Chứng Thánh Trí:
Pratyatmaryajnana (skt)—Tự chứng về chân lư của Phật—Personal
apprehension of Buddha-truth—See Tự Giác Thánh Trí.
Tự Chứng Thân:
Một danh hiệu của Đức Đại Nhật Như Lai, pháp thân tự chứng của Ngài, từ
đó mà phát ra đầy đủ chân lư trí bất nhị—A title of Vairocana, his
dharmakaya of self-assurance, or realization, from which issues his
retinue of proclaimers of the truth.
Tự Chứng Và Giáo
Pháp: Chánh Pháp của Phật gồm hai thứ, sự tự chứng và triết học hay
nhận thức tự nội và giáo thuyết. Những ai thấy suốt sự khác nhau giữa
những thứ nầy và hiểu rơ th́ sẽ không bị ảnh hưởng bởi sự suy diễn
suông—The Correct Law of the Buddha is said to be twofold nature:
realization (adhigama) and doctrinal teaching (agama) or
self-realization and philosophy (inner perception and doctrinal
teaching). Those who see into their differences and understand well will
not be influenced by mere speculation.
Tự Do: Free.
Tự Dối Ḿnh: To
deceive oneself.
Tự Duyên: Mẫu
Âm—12 hay 14 mẫu âm Phạn ngữ, đối lại với 34 hay 36 phụ âm Phạn ngữ,
những nguyên âm nầy là căn bản hay tự giới—The 12 or 14 Sanskrit vowels,
as contrasted with the 35 or 36 consonants, which are radical or limited
or fixed letters.
Tự Dưng:
Unexpectedly—Suddenly.
Tự Đại:
Haughty.
Tự Đắc: To be
proud of having done something.
Tự Điều Tự Tịnh Tự
Độ: Pháp tu hành của hai thừa Thanh Văn và Duyên Giác—The Sravaka
and Pratyeka-buddha method of salvation by personal discipline or work:
1)
Tự Điều: Tự tiến tu bằng cách tŕ giới (chánh ngữ, chánh nghiệp,
chánh mệnh)—Self-progress by keeping the commandments (right speech,
right action, right livelihood).
2)
Tự Tịnh: Tự thanh tịnh bằng cách thiền tâm tịnh lự (chánh
niệm)—Self-purification by emptying the mind (right mindfulness).
3)
Tự Độ: Tự độ bằng cách thành tựu trí tuệ (chánh kiến, chánh tư
duy, chánh phương tiện thiện xảo)—Self-release by attainment of gnosis
or wisdom (right view, right thought, right skillful means).
Tự Động:
Self-acting.
Tự Giác:
Vicaraparapraneya (skt).
1)
Quán sát bằng cái trí của chính ḿnh chứ không dựa vào kẻ khác:
To examine with one’s own intelligence, not depending upon another.
2)
Sự giác ngộ của Đức Phật: Buddha’s own or natural
enlightenment—Apperception.
Tự Giác Ngộ:
Svabodhi (skt)—Enlightenment derived from one’s self.
Lời Phật dạy về “Tự
Giác Ngộ” trong Kinh Pháp Cú—The Buddha’s teachings on
“Self-enlightenment” in the Dharmapada Sutra: “Các ngươi hăy tự nỗ lực
lên! Như Lai chỉ dạy cho con đường giác ngộ, chứ không giác ngộ cho ai
được. Sự trói buộc của ma vương sẽ tùy sức thiền định của các ngươi mà
được cỡi mở—You should make an effort by yourself! The Tathagatas are
only teachers. The Tathagatas cannot set free anyone. The meditative
ones, who enter the way, are delivered from the bonds of Mara.”
(Dharmapada 276).
Tự Giác Ngộ Tâm:
Giác ngộ bằng chính nội tâm của ḿnh chứ không do ngoại lực bên ngoài—A
mind independent of externals—Pure thought (capable of enlightenment
from within).
Tự Giác Thánh Trí:
Vajramati or Pratyatmaryajnana (skt)—Kim Cang trí—Pháp Giới Thể Tánh
Trí. Từ nầy gồm hai từ hợp lại—This term is a combination of other two
terms: pratyatma or self-realization, and aryajnana or jnana of the
sage.
1)
Thánh Trí siêu việt của Phật Tỳ Lô Giá Na: The uncaused
omniscience of Vairocana.
2)
Trí tuệ sắc bén và bất hoại như kim cương của Phật: The
indestructible and enriching diamond wisdom of the Buddha.
Tự Giác Tính:
Svabuddhabuddhata (skt)—Thể tính của Phật tính—The essence of
Buddhahood.
Tự Giải: To
free oneself.
Tự Giải Thoát Chính
Ḿnh: Self-emancipation (liberation).
Tự Hạ: To abase
(disparage) oneself.
Tự Hào: To be
proud.
Tự Hậu: From
now on—In the future—For the future.
Tự Học:
Self-educated (learned—taught).
Tự Hành Hóa Tha:
Tự dụng công tu hành để sau đó hóa độ người khác—To discipline and to
perform onself in order to convert or transform others.
** For more
information, please see Tự Lợi
Lợi Tha.
Tự Hiện Lượng:
Tự hiện lượng là do sự khởi dậy cái tâm phân biệt cho rằng vạn hữu là
thật, thí dụ như cái b́nh cái áo là cái b́nh cái áo, chứ không phải do
tứ đại hợp thành—A syllogism assuming that all things are real, i.e. a
vase or garment is real, and not made up of certain elements.
** For more
information, please see Nhân
Minh Nhập Chánh
Lư Luận.
Tự Khi: To
delude oneself.
Tự Khinh: To
look down on ourselves.
Tự Kiểm Soát:
Samyama (skt)—Kiểm soát giác quan—Self-control—Control of the senses.
Tự Kiêu: Proud.
Tự Kỷ: Self—For
self—By self.
Tự Làm Lấy:
Self-made—Made by oneself.
Tự Lập:
Independent.
Tự Lập Tông:
Tông chi trong ba chi của nhân minh, có chín lỗi. Tông chi nào phạm phải
một trong chín lỗi trên th́ gọi là “Tự Lập Tông”—A fallacious
proposition; containing any one of the nine fallacies connected with the
thesis, or pratijna, of the syllogism.
Tự Lo Liệu Lấy:
To make one’s own effort (witout help of others)—To manage in the best
way possible.
Tự Loại Nhân Quả:
Cause and effect of the same order.
Tự Lợi:
Atmahitam (skt)—Self-benefiting—Personal advantage or profit—Self-profit
(benefit)—Beneficial to oneself—Preoccupation with egoistic needs—To
have excessive regard for one’s own interests.
Tự Lợi Lợi Tha:
1)
Tự cải thiện (tu hành) lấy ḿnh với mục đích làm lợi ích cho
người khác—To improve oneself for the purpose of improving or benefiting
others.
2)
Tự lợi lợi tha và từ bi không ngằn mé là giáo thuyết chính của
trường phái Đại Thừa—Self-benefiting for the benefit of others,
unlimited altruism and pity being the theory of Mahayana.
3)
“Tự lợi lợi tha” là tính chất thiết yếu trong tu tập của một vị
Bồ Tát, làm lợi ḿnh, làm lợi người, hay tự ḿnh tu tập trong khuôn khổ
nhà Phật để cứu độ người khác. Tiểu Thừa coi việc tự lợi, tự độ là chính
yếu; trong khi Bồ Tát Đại Thừa th́ hành Bồ Tát Đạo vị tha là thiết yếu,
tự tiến tu, rồi giúp người tiến tu—“Self profit profit others,” the
essential nature and work of a Bodhisattva, to benefit himself and
benefit others, or himself press forward in the Buddhist life in order
to carry others forward. Hinayana is considered to be self-advancement,
self-salvation by works or discipline; Bodhisattva Buddhism as saving
oneself in order to save others, or making progress and helping others
to progress, Bodhisattvism being essentially altruistic.
Tự Lợi, Lợi Tha,
Giác Hạnh Viên Măn: For perfecting of the self, for perfecting
others (Self-perfect perfect others) and the attaining of Buddhahood—To
benefit oneself, to benefit others, and attaining of Buddhahood.
Tự Luân: Từ chữ
“Luân” mà chuyển và sanh ra các chữ khác, trong Mật tông, đặt biệt là
chữ “Luân” theo chữ Phạn bao hàm năm dấu đất, nước, lửa, gió, và hư
không—The wheel, rotation, or interchange of words for esoteric
purposes, especially the five Sanskrit signs adopted for the five
elements, earth, water, fire, air, and space.
Tự Luận:
Preface—Foreword.
Tự Lực: Giác
ngộ bằng chính khả năng tu tập của ḿnh, chứ không lệ thuộc vào ḷng từ
bi của chư Phật và chư Bồ Tát—Self-power (self-reliance)—By one’s own
force—One’s own power or strength, merit, intelligence,
discrimination—The attempt to attain enlightenment through one’s own
efforts rather than by relying upon the compassion of the Buddhas and
Bodhisattvas.
Tự Lực Tông:
Tông phái của những người tu hành giải thoát bằng sức lực của chính
ḿnh—Those who seek salvation by works, or by their own strength—For
more information, please see Tha Lực and Tha Lực Tông.
Tự Lượng: To
know one’s own capability.
Tự Măn:
Self-satisfied (pride or complacent).
Tự Mâu Thuẫn:
Self-contradictory.
Tự Mẫu: Mẫu tự
Phạn ngữ gồm 42, 47, hay 50 chữ—The Sanskrit alphabet of 42, 47, or 50
letters.
Tự Mẫu Biểu:
Quyển sách ghi lại cách thức và quy phạm của mẫu tự Phạn—A book deals
with alphabet.
Tự Năng Phá:
Pháp của Nhân Minh muốn bác bỏ lập nghĩa của người khác mà lập ra lượng
của tông chi; lượng đó nếu phạm vào một trong ba mươi ba lỗi liên hệ đến
tông, nhân, dụ, th́ gọi là “Tự Năng Phá”—A fallacious
counter-proposition; containing one of the thirty-three fallacies
connected with the thesis (pratijna—tông), reason (hetu—nhân), or
example (udaharana—dụ).
Tự Ngă: The
ego.
Tự Nghiệp Tự Đắc:
See Tự Tác Tự Thọ.
Tự Ngôn: See Tự
Luận.
Tự Nguyện:
Voluntary (doing on one’s own will).
Tự Ngữ Tương Vi:
Svartha-viruddha (skt)—Một trong chín lỗi của Minh Nhân Tông Pháp (ví dụ
như nói “Mẹ” ta là “Thạch Nữ,” tức là đàn bà không sinh nở giống như đá.
Thế nhưng về hữu pháp th́ lại nói là “mẹ ta” tức là người đă có con. Vậy
mà đối với năng biệt th́ lại nói là “Thạch Nữ,” như vậy có sự mâu thuẩn
giữa hữu pháp và năng biệt)—A manifest contradiction, one of the nine
fallacies of a proposition, i.e. “my mother is barren.”
Tự Nhiên:
Svayambhu (skt)—Natural.
Tự Nhiên Hư Vô Thân:
1)
Pháp Thân Phật: A Buddha’s spiritual or absolute body, his
dharmakaya.
2)
Những người được văng sanh Cực Lạc, “Tự Nhiên Hư Thân” của họ
được tức thời và độc lập sanh ra tại đó—Those who are born in Paradise,
who are spontaneously and independently produced there.
Tự Nhiên Ngoại Đạo:
Một trong mười phái ngoại đạo, khước từ lư nhân quả của nhà Phật và cho
rằng vạn pháp xăy ra một cách tự nhiên—One of the ten heretic sects
which denies Buddhist cause and effect and holding that things happen
spontaneously.
Tự Nhiên Ngộ Đạo:
Ngộ đạo bằng nội trí chứ không bằng giáo pháp bên ngoài; thành Phật bằng
chính tự lực của ḿnh như Phật Thích Ca người được gọi là Tự Nhiên Thích
Ca—Enlightenment by the inner light, independent of external teaching;
to become a Buddha by one’s own power, i.e. Sakyamuni Buddha who is
called Svayambhuvah.
Tự Nhiên Thành Phật
Đạo: Svayambhuvah (skt)—Thành Phật bằng tự lực—To become Buddha by
one’s own power—Independent of Buddhahood—See Tự Nhiên Ngộ Đạo.
Tự Nhiên Trí:
Trí bẩm sanh chứ không do thầy dạy của một vị Phật—The intuitive,
untaught or inborn wisdom of a Buddha, untaught to him and outside the
causal nexus.
Tự Nhiên Từ:
Ḷng từ bi tự nhiên có trong một vị Bồ Tát, không do thầy dạy hay không
liên hệ đến bất cứ lư do ǵ—Intuitive mercy possessed by a Bodhisattva,
untaught and without causal nexus.
Tự Nội Chứng:
Inner witness—See Tự Chứng.
Tự Pháp: Pháp
của đệ tử nối nghiệp thầy, từ mà thiền tông hay dùng—To succeed to the
dharma, or methods, of the master, a term used by the meditative school.
Tự Quán Chiếu Lư:
Thought and study for enlightenment in regard to truth.
Tự Quán Sát: To
reflect with one’s own intelligence—Người ta phải tự quán sát bằng trí
của ḿnh chứ không tùy thuộc vào ai—One must reflect with one’s own
intelligence, not depending upon another.
Tự Quyên Quyên Tha:
1)
Tự hại ḿnh và hại người: To harm oneself and harm others.
2)
Tự hại ḿnh cũng là hại người: To harm oneself is to harm
others.
Tự Quyết:
Self-determination—To determine (decide) by oneself.
Tự Sanh:
1)
Tự sanh hay tự nhiên hiện hữu: Self-produced, or naturally
existing.
2)
Chúng ma tự sanh hay hóa sanh, đối lại với Dạ Xoa được sanh ra
bởi cha mẹ: Demons born by transformation in contrast to the Yaksa who
are born from parents.
Tự Sát: Quyên
sinh—Đối với một vị Tỳ Kheo, quyên sinh là phạm giới—To commit
suicide—For a monk to commit suicide is said to be against the ordained
rules.
Tự Sinh:
Self-produced, or naturally existing.
Tự Sự: Kể tự
sự—To relate something from the beginning to the end.
Tự Tác Tự Thọ:
1)
Làm ra cái ǵ th́ thọ dụng cái nấy—As one does one receives
2)
Mỗi người đều phải nhận lănh hậu quả của nghiệp do ḿnh tạo
ra—Every man receives the reward of his deed, creating his own karma.
Tự Tại: Isvara
(skt).
1)
Tịnh mặc: Tranquil.
2)
Như ư ḿnh muốn: As one pleases—Satisifed—Content.
3)
Tiến thối tự do không trở ngại: Freedom of action or resistance.
4)
Tâm không bị ràng buộc bởi phiền năo: The mind being free from
delusion.
Tự Tại Danh Thiên
Vương: Heaven king of Name of Freedom—See King of the Teaching in
English-Vietnamese Section.
Tự Tại Đẳng Nhân
Tông: Tông phái thờ Thủ La Thiên, tám tay, ba mắt, cỡi ḅ. Đây là
một trong mười sáu tông phái ngoại đạo—Siva is represented with eight
arms, three eyes, sitting on a bull, one of the sixteen heretic sects.
Tự Tại Thiên:
Isvaradeva (skt).
1)
Cơi trời Tự Tại—King of the deva—God of freedom—God of Free
Movement.
2)
Danh hiệu của Ma Hê Thủ La (Siva): A title of Siva, king of deva.
3)
Đại Tự Tại Thiên: Mahesvara (skt)—Một danh hiệu của Bồ Tát Quán
Âm—A title applied to Kuan-Yin.
** For more
information, please see Thiên in
Vietnamese-English Section.
Tự Tại Thiên Ngoại
Đạo: Sivaites (skt)—Phái Ma Hê Thủ La ngoại đạo tin rằng có một vị
Trời Tự Tại (Ma hê Thủ La Thiên) có thể tạo hoại mọi sự mọi vật từ ngay
trên thân h́nh của ông ta, lấy đầu làm hư không, lấy mắt làm mặt trời
mặt trăng, lất thịt làm đất, lấy nước tiểu làm sông biển, lấy mặt làm
núi non, lấy hơi thở làm gió, lấy sức nóng làm lửa—One who ascribed
creation and destruction to Siva, and that all things from his body,
space his head, sun and moon his eyes, earth his body, rivers and seas
his urine, mountains his faces, wind his breath, fire his heat, and all
living things the vermin on his body
Tự Tại Trầm Tỉnh:
The rest with equanimity.
Tự Tại Vương:
Tiếng tôn xưng Đức Đại Nhật Như Lai—A title of Vairocana.
Tự Tánh:
Prakriti or Svabhava (skt)—Tự tính—Own nature—Self-nature—Tự tánh hay
bản tánh, trái lại với tánh linh thượng đẳng. Tự tánh luôn thanh tịnh
trong bản thể của nó—Original nature, contrasted to supreme spirit or
purusha. Original nature is always pure in its original essence.
Tự Tánh Di Đà:
Self-nature Amitabha—Mind-Only Pure Land—Mind is pure, the land, the
environment is pure as well.
Tự Tánh Di Đà Duy
Tâm Tịnh Độ: Self-nature Amitabha, mind-only Pure Land.
Tự Tánh Giới:
Tự tánh thiện—Bản Tánh Giới—Thập thiện giới là không đợi đến giới luật
của Phật, tự tánh biết thọ tŕ mười giới luật căn bản nầy—The ten
natural moral laws to man, apart from the Buddha’s commandments—See Thập
Thiện and Thập Thiện Nghiệp.
Tự Tánh Không:
Bhavasvabhava-sunyata (skt)—cái không của tự tánh, một trong bảy loại
không—Emptiness of self-nature, one of the seven Sunyatas—See Thất Chủng
Không (2).
Tự Tánh Ngũ Phần Pháp Thân Hương:
Theo Pháp Bảo Đàn
Kinh, Lục Tổ Huệ Năng đă dạy về Tự Tánh Ngũ Phần Pháp Thân
Hương—According to The Jewel Platform Sutra, the Sixth Patriarch taught
about the five-fold Dharma-body refuge of the self-nature.
1)
Một là giới hương, tức là trong tâm ḿnh không có quấy, không có
ác, không tật đố, không tham sân, không cướp hại, gọi là giới hương—The
first is the morality-refuge, which is simply your own mind when free
from error, evil, jealousy, greed, hatred and hostility.
2)
Hai là định hương, tức là thấy các cảnh tướng thiện ác mà tự tâm
chẳng loạn gọi là định hương—The second is the concentration-refuge,
which is just your own mind which does not become confused when seeing
the marks of all good and evil conditions.
3)
Ba là huệ hương, tức là tâm ḿnh không ngại, thường dùng trí huệ
quán chiếu tự tánh, chẳng tạo các ác, tuy tu các hạnh lành mà tâm không
chấp trước, kính bậc trên thương kẻ dưới, cứu giúp người cô bần, gọi là
huệ hương—The third is the wisdom-refuge, which is simply your own mind
when it is unobstructed and when it constantly uses wisdom to
contemplate and illuminate the self-nature, when it does no evil, does
good without becoming attached, and is respectful of superior,
considerate of inferiors, and sympathetic towards orphans and widows.
4)
Bốn là giải thoát hương, tức là tự tâm ḿnh không có chỗ phan
duyên, chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác, tự tại vô ngại gọi là giải thoát
hương—The fourth is the liberation-refuge, which is simply your own mind
independent of conditions, not thinking of good or evil, and free and
unobstructed.
5) Năm là giải thoát tri kiến hương, tức là tự tâm đă không có chỗ
phan duyên thiện ác, không thể trầm, không trệ tịch, tức phải học rộng
nghe nhiều, biết bản tâm ḿnh, đạt được lư của chư Phật, ḥa quang tiếp
vật, không ngă không nhơn, thẳng đến Bồ Đề, chơn tánh không đổi, gọi là
giải thoát tri kiến hương. Nầy thiện tri thức! Hương nầy mỗi người tự
huân ở trong, chớ hướng ra ngoài t́m cầu—The fifth is the refuge of
knowledge and views, which is simply your own mind when it is
independent of good and evil conditions and when it does not dwell in
emptiness or cling to stillness. You should then study this in detail,
listen a great deal, recognize your original mind, and penetrate the
true principle of all the Buddhas. You should welcome and be in harmony
with living creatures; the unchanging true nature. Good Knowing
Advisors, the incense of these refuges perfumes each of you within. Do
not seek outside.
Tự Tánh Tam Bảo:
Tự Tâm Tam Bảo—The Triratna, each with its own characteristic (Buddha
being wisdom).
1)
Phật Huệ: The Buddha being wisdom.
2)
Chánh Pháp: The Law correctness.
3)
Tịnh Tăng: The Order Purity.
Tự Tánh Thanh Tịnh:
Tự tánh thường thanh tịnh trong bản thể của nó—Self-existent pure
mind—Natural purity—The nature of the original nature is always pure in
its original essence.
Tự Tánh Thanh Tịnh
Tâm: Cái tâm vốn thanh tịnh (lại buông cho ảnh hưởng của các phiền
năo phụ thuộc, mạt na và cái ngă)—The citta, pure in its original
essence, gives itself up to the influence of the secondary evil
passions, Manas, etc., and the ego—See Tâm Tính.
Tự Tánh Thiện:
See Tự Tánh Giới.
Tự Tánh Trống Không:
Svabhava-sunyata (skt)—The emptiness of self-nature—See Thất Chủng Không
(2).
Tự Tâm:
Svacitta (skt)—Self-mind—One’s own mind—One’s own heart.
Tự Tâm Trung Sở
Hành Pháp Môn: Kỷ tâm trung sở hành pháp môn—The method of the
self-realization of truth, the intuitive method of meditation.
Tự Tận: Tự
vận—Theo giáo lư nhà Phật, một người không thể nào trốn tránh khổ đau
bằng tự kết liễu đời ḿnh, cũng không thoát khỏi luân hồi sanh tử. Theo
lời Phật dạy, được thân người là khó, cho nên tự kết liễu đời ḿnh là tự
phí đi cơ hội giác ngộ—Suicide—Immolation—Killing oneself—According to
Buddhist doctrine, a man cannot avoid suffering by taking his life, nor
does he escape from the wheel of life by so doing. According to the
Buddha’s teaching, to obtain one’s life is difficult; therefore, taking
one’s life is a waste of opportunity of enlightenment.
Tự Tập:
Self-taught.
Tự Tâm:
Svacetas (skt)—Mind-only—One’s own mind.
Tự Tâm Tịch Tịnh:
Complete stillness of the mind.
Tự Thân Di Đà Duy
Tâm Tịnh Độ: Ḿnh chính là Phật Di Đà, tâm ḿnh chính là Tịnh Độ.
Nhứt thiết duy tâm tạo, ngoài tâm ra không có vạn hữu, không có Phật và
cũng không có Tịnh Độ. Chính v́ thế mà Di Đà là Di Đà tự tâm, Tịnh Độ là
Tịnh Độ tự tâm—Myself is Amitabha, my mind is the Pure Land. All things
are but the one mind, so that outside existing beings, there is no
Buddha and no Pure Land. Thus Amitabha is the Amitabha within and the
Pure Land is the Pure Land of the mind.
Tự Thân Tự Phật:
Thân ḿnh chính là Phật—One’s own body is Buddha.
Tự Thệ Giới:
See Tự Thệ Thọ Giới.
Tự Thệ Thọ Giới:
Tự ḿnh thệ nguyện thọ giới trước bàn thờ Phật khi không thể thọ Giới
Đàn (Bồ Tát giới của Đại Thừa khi không có giới sư, cho phép tự thệ
nguyện trước Đức Phật mà thọ giới, song phải được diệu tướng, thường là
nằm mộng thấy)—To make the vows and undertake the commandments oneself
before the image of a Buddha (self ordination when unable to obtain
ordination from the Ordained); however, the person must see auspicious
marks, usually in dreams.
Tự Thiêu:
Self-immolation.
Tự Thọ Dụng Độ:
See Báo Độ (1).
Tự Thọ Dụng Tam
Muội: The state of natural balance.
Tự Thọ Dụng Thân:
Báo thân, một trong bốn loại thân (trong Tự Thọ Dụng Thân, một vị Phật
tự có Pháp Lạc)—Sambhogakaya for his own enjoyment, one of the four
kinds of kaya.
Tự Thọ Pháp Lạc:
The dharma-delights a Buddha enjoy in the above state.
Tự Thú: To
confess.
Tự Thuật: To
relate—To narrate—To tell.
Tự Thủy: From
the beginning.
Tự Thương Cảm:
Self-pity.
Tự Tiện: At
one’s convenience—Without asking for permission.
Tự Tin: To have
self-confidence—To be sure of oneself.
Tự Tính: See Tự
Tánh.
Tự Tôn: To
respect oneself.
Tự Trách: To
blame (reproach) oneself.
Tự Trầm: To
drown oneself.
Tự Trí:
Svabuddhi (skt)—Own intelligence—Nhờ vào trí tuệ của chính ḿnh, vị Bồ
Tát gây nên một sự chuyển biến trong trú xứ thâm sâu nhất của ngài, nơi
mà tập khí xưa cũ của ngài được tích tập—By means of his own
intelligence the Bodhisattva causes a revolution in his inmost abode
where his former memory is stored.
Tự Trị:
Self-government—Autonomy.
Tự Trọng: To
respect oneself—Self-respect.
Tự Trợ: To help
oneself.
Tự Tu: To mend
one’s way.
Tự Tu Tập Để Loại
Trừ Những Ganh Ghét, Sân Hận và Vị Kỷ: Train oneself to eliminate
hatred, anger and selfishness.
Tự Túc:
Self-sufficient.
Tự Tuyệt: To
destroy oneself.
Tự Tư Duy: To
think for self.
Tự Tứ:
Pravarana (skt).
1)
Phóng túng tùy ư: To follow one’s own bent.
2)
Chấm dứt kỳ kiết hạ an cư: The end of restraint, following the
period of retreat.
Tự Tứ Nhật:
Ngày cuối cùng trong kỳ kiết hạ an cư—The last day of the annual
retreat.
Tự Tử: To take
one’s own life—To commit suicide—To kill oneself.
Tự Tướng:
Svalaksana (skt).
1)
Tự tướng hay tính đặc thù hay những tướng trạng đặc thù phân biệt
loại hiện hữu với các loại khác, ví dụ, vật chất có những đặc tính riêng
của nó khác với tâm, và tâm có những đặc tính riêng của nó khác với vật
chất, vân vân: Individuality, or individual marks which distinguish one
class of beings from another; for instance, matter has its own
characteristics as distinguished from mind, and mind from matter, etc.
2)
“Tự Tướng” đối lại với “Cộng
Tướng”—Individuality—Particular—Personal as contrast with general or
common.
** For more
information, please see Nhị
Tướng.
Tự Tướng Tự Nghĩa:
1)
Chữ và nghĩa: Word-form and word-meaning.
2)
Mật Tông có lối giải thích khác, không theo một phương pháp nào:
Differentiated by the esoteric sect for its own ends, being considered
the “alpha” and root of all sounds and words.
3)
Chữ “tự” trong Mật Tông c̣n có nghĩa là “chủng tử” có sức mạnh
trên vật mà nó liên hệ tới: “Word” among the esoteric Buddhists is the
“bija” or “seed-word” possessing power through the object with which it
is associated.
Tự Vận: See Tự
Tử.
Tự Viện:
Monastery ground and buildings—A monastery.
Tự Vương: Lời
giới thiệu mà Ngài Trí Nhất Đại Sư đă viết trong kinh Pháp Hoa. Phần
giới thiệu chia làm ba phần—The introduction by Chih-I to the Lotus
Sutra. Introductions are divided into three parts:
1)
Tựa: Nói về lư do mà Phật thuyết kinh—The first relating to the
reason for the sutra.
2)
Chính: Phần thứ hai nói về phương cách—The second to its methods.
3)
Lưu Thông: Phần thứ ba nói về lịch sử theo sau đó của bộ kinh—The
third to its subsequent history.
Tự Xét: To
judge oneself.
Tự Xét Căn Tánh Và
Sở Thích Của Ḿnh: To judge oneself and to consider one’s own
capacities and preferences.
Tự Xưng: To
give oneself a title.
Tự Ư: To do
something of one’s own accord (account).
Từa Tựa: Pretty
much the same—Pretty near.
Tựa:
Preface—Foreword.
Tựa Hồ: As
if—As though.
Tức:
(A)
Nghĩa—Meanings:
1)
Chọc tức—To vex—To irritate.
2)
Đau tức—To be oppressed.
3)
Đồng ḥa không chia cách: United together.
4)
Bất Nhị: Identical or not two.
5)
Bất Ly: Not separate, inseparable
6)
Hơi thở: Breath—To breathe.
7)
Lợi tức: Interest.
8)
Nghỉ ngơi: To rest—To stop—To settle—To cease.
9)
Tức thị: Phiền năo tức thị Bồ Đề, sanh tử tức thị Niết Bàn—It
resembles implication, i.e. the afflictions or passions imply, or are,
bodhi; births and deaths imply, or are, nirvana.
(B)
Loại—Categories: Tông Thiên Thai có ba định nghĩa—T’ien-T’ai has
three definitions.
1)
Cái “tức” của hai vật tương hợp, như phiền năo hợp với Bồ Đề, một
thứ là tướng, một thứ là tánh, hai cái không tách rời nhau được; nói
cách khác, ngoài phiền năo không có Bồ Đề: The union, or unity, of two
things, i.e. the passions and enlightenment, the former being taken as
the form (tướng), the latter spirit (tánh), which two are inseparable;
in other words, apart from the subjugation of the passions there is no
enlightenment.
2)
Cái “tức” của hai mặt đối nhau, trước và sau không thể tách rời
(từ mặt mê mà nói th́ là phiền năo, thuận ở pháp tính là bồ đề niết
bàn): Back and front are inseparable.
3)
Cái “tức” đương thể toàn thị, như sóng và nước (chỉ là sự khác
nhau của sự nh́n thấy giữa thực trí và vọng t́nh): Substance and
quality, i.e. water and wave.
Tức Anh Ách:
Very vexed.
Tức Bực:
Irritated—Angry—Vexed.
Tức Cười:
Funny.
Tức Đắc: Đắc
quả tức th́, như là văng sanh Tịnh Độ—Immediately to obtain, i.e.
rebirth in the Pure Land, or new birth here and now.
Tức Giận: See
Tức Bực.
Tức Hóa: Chấm
dứt công việc chuyển hóa chúng sanh và nhập niết bàn, như Đức Phật ngày
xưa—To cease the transforming and enter nirvana as did the Buddha.
Tức Hữu Tức Không:
Tất cả các pháp hữu vi tự tánh vốn là không (chứ không phải bị hoại diệt
mới thành “không”)—All things, or phenomena, are identical with the
void, or the noumenon (not waiting until they are destroyed to become
void).
Tức Khổ: Chấm
dứt khổ đau—To cease or to put an end to suffering.
Tức Không Tức Giả
Tức Trung: Ba phép quán “Tức Không Tức Giả Tức Trung” của tông Thiên
Thai—According to the T’ien-T’ai sect, all things are void, or noumenal,
are phenomenal, are medial.
** For more
information, please see Tam
Quán.
Tức Kỵ Già Di:
Sakrdagamin (skt)—C̣n gọi là Tức Kỵ Đà Già Mê hay Tư Đà Hàm—Quả vị thứ
nh́ trong tứ Thánh quả, bậc chỉ một lần tái sanh trước khi nhập niết
bàn—The second of the four degrees of saintliness. He who is to reborn
only once before entering nirvana.
Tức Ly:
1)
Sự và lư không hai là “tức”—Phenomenon and noumenon are identical
and agreeable.
2)
Sự và lư sai biệt là “ly”—Phenomenon and noumenon are different
and disagreeable.
Tức Ḿnh:
Annoyed.
Tức Ngực: To
feel tightness across the chest—To have some weight on one’s chest.
Tức Nước Vỡ Bờ:
Everything has its day.
Tức Ói Máu:
Very angry.
Tức Phi: Giống
và khác nhau—Identity and difference.
Tức Phụ:
Daughter-in-law.
Tức Sự Nhi Chân:
Sự và lư vốn không hai (ở sự tướng nông cạn đă có đầy đủ cái chân lư sâu
sắc và huyền diệu), như nước và sóng—Approximates to the same meaning
that phenomena are identical with reality, i.e. water and wave.
Tức Sự Tức Lư:
Sự giống nhau giữa sự và lư, như thân không ĺa tâm—The identity of
phenomena with their underlying principle, i.e. spirit and body are a
unity.
Tức Tai: Phép
tiêu trừ các tai ương của thiên biến địa dị, binh hỏa, đói khát, bệnh
tật, hay những bất hạnh của cá nhân—To cause calamities to cease, for
which the esoteric sect uses magical formulae, especially for illness,
or personal misfortune.
Tức Tai Pháp:
Một trong bốn phép tu của tông Chân Ngôn để ngăn chặn tai ương—One of
the four methods or kinds of altar-worship of the Shingon sect, to cause
to cease calamities—See Tứ Chủng Đàn Pháp.
Tức Tâm:
1)
Duy tâm hay vạn hữu duy tâm, không thể ĺa tâm—Of the mind,
mental, i.e. all things are mental, and are not apart from mind.
2)
Dừng tâm lại, không cho nó tiếp tục làm tâm viên ư mă nữa: To set
the heart at rest, not allowing it to wander about.
3)
Từ dùng để chỉ đệ tử: A disciple.
Tức Tâm Niệm Phật:
Niệm hoặc nhớ tưởng đến hồng danh Phật A Di Đà trong tâm. Ngay lúc đó
tâm ḿnh là Tịnh Độ—To remember or to call upon Amitabha within the
heart. At that moment, one’s mind identifies with the Buddha’s (Pure
Land).
Tức Tâm Thành Phật:
See Tức Tâm Thị Phật.
Tức Tâm Thị Phật:
Tức Tâm Thành Phật—Tức Tâm Tức Phật—Pháp tối thượng thừa của Đại Thừa
Giáo, tâm này là Phật này. H́nh thức tiêu cực là “Phi Tâm Phi Phật” hay
ngoài tâm không có Phật—Mind here and now is Buddha—The identity of mind
and Buddha, the highest doctrine of Mahayana. The negative form is “No
mind no Buddha,” or apart from mind there is no Buddha; and all the
living are of the one mind.
Tức Tâm Tức Phật:
The identity of mind and Buddha—Mind is Buddha—The highest doctrine of
Mahayana—See Tức Tâm Thị Phật.
Tức Thân: Giáo
thuyết của Chân Ngôn tông cho rằng “thân tức Phật,” nói cách khác, không
chỉ tức tâm tức Phật, mà c̣n là tức thân tức Phật nữa—The doctrine of
the Shingon sect that the body is also Buddha; in other words Buddha is
not only “mind,” but also “body.”
Tức Thân Thành Phật:
Tức Thân Bồ Đề—Theo Chân Ngôn tông, tức thân tức Phật hay tức thân thành
Phật (thuộc nơi cái sự), trong khi tông Thiên Thai lại cho rằng “tức tâm
tức Phật” là tùy thuộc nơi cái lư—According to the Shingon sect, the
body is to consciously become Buddha by Yoga practices; while the
T’ien-T’ai believed that all things are mental, and are not apart from
mind.
Tức Th́: See
Tức Thời.
Tức Thời:
Immediately—At once—Right away.
Tức Trung: Tức
Trung bao gồm cả “không” và “giả”—The “via media” is that which lies
between or embraces both the void (noumenal) and the phenomenal.
Tức Từ: Tiếng
Phạn là Sa Di, người mới nhập vào Phật Môn, phải dẹp yên mọi t́nh cảm
thế tục để đem ḷng từ tế độ nhân sanh—At rest and kind, an old
translation of Sramana, one who has entered into the life of rest and
showed loving-kindness to all.
Tức Tướng Tức Tâm:
Giáo thuyết của Tịnh Độ Tông, cả hai thứ tướng và tâm không thể tách
rời, tách rời tự thân th́ không bao giờ có Tịnh Độ (Tịnh Độ h́nh tướng
cũng là Tịnh Độ trong tâm)—A doctrine of the Pure Land, both form and
mind are identical, i.e. the Pure Land as a place is identical with the
Pure Land in the mind or heart.
Tức Vị: To
ascend (come to) the throne.
Tưng: To
bounce.
Tưng Bốc: To
flatter.
Tưng Tiu: To
cherish.
Từng Phần:
Partly.
Từng Trải:
Experienced.
Tước:
1)
Nhai: To chew.
2)
Tước đoạt: To deprive of—To strip—To take away—To seize.
Tước Đoạt: See
Tước (2).
Tước Lạp: Nhai
sáp, ư nói vô vị—Chewing wax, tasteless.
Tươi: Fresh.
Tươi Cười:
Smiling.
Tươi Tỉnh: To
brighten someone’s face.
Tươi Tốt:
Fine—Fresh.
Tưới: To
sprinkle—To spray—To water.
Tương Ái: To
love one another.
Tương Đăi: Giáo
thuyết nói về tự và tha đối đăi với nhau, nhờ đó mà tồn tại, như h́nh
nhờ có ba cạnh mà thành h́nh tam giác, sắc cảnh đối đăi với nhăn căn mà
thành sắc cảnh, nhăn căn đối với sắc cảnh mà thành nhăn căn, ngắn đối
với dài mà thành ngắn, dài đối với ngắn mà thành dài—The doctrine of
mutual dependence or relativity of all things for their existence, i.e.,
the triangle depends on its three lines, the eye on things having color
and form, long or short—To be in agreement.
Tương Đẳng:
Equipollent.
Tương Đối:
Relative—Opposite—Opposed—In comparison.
Tương Đối (Nguyên
Lư): The Principle of Reciprocal Identification.
(A)
Nghĩa của chữ “Tương Đối”—The meaning of the word “Reciprocal
Identification.”
1)
Chữ “Tương Đối” theo nghĩa đen là hỗ tương đối đăi, nghĩa là
‘quan điểm hỗ tương lẫn nhau, ‘hỗ tương đồng nhất,’ cũng y như nói ‘trao
đổi các quan điểm,’ chứ không tách riêng từng cái để thực hiện một cuộc
giải ḥa về những quan điểm tương phản hay để gây hiệu quả nên một chủ
trương hỗn hợp giữa các hệ thống suy lư đối lập. Theo Giáo Sư Junjiro
Takakusu trong Cương Yếu Triết Học Phật Giáo, Phật giáo Tiểu Thừa thông
thường thỏa măn với phân tích và ít khi thiên về dung hợp. Trái lại, Đại
Thừa thường thiên về hỗ tương đối đăi giữa hai ư niệm tương phản. Nếu
phe nầy nhận quan điểm của riêng ḿnh và phe kia giữ chặt của riêng họ,
kết quả đương nhiên sẽ chia rẻ nhau. Đây là điều xăy ra trong trường
phái Tiểu Thừa. Đại Thừa Phật giáo dạy rằng phải ḥa đồng lập trường của
riêng ḿnh với lập trường của kẻ khác, phải hỗ tương dung hợp những lập
trường đối lập, để thấy những lập trường nầy hợp nhất toàn vẹn—The word
for “Reciprocal Identification” is more literally “mutual” and
“regarding,” that is “mutually viewing from each other’s point,” “mutual
identification,” which is as much as to say and “exchange of views.” It
is indispensable to bring about a reconciliation of conflicting opinions
or effect a syncretism among opposing speculative systems. According to
Prof. Junjiro Takakusu in The Essentials of Buddhist Philosophy,
Hinayana Buddhism is generally satisfied with analysis and rarely
inclined to synthesis. The Mahayana, on the other hand, is generally
much inclined to the reciprocal identification of two conflicting ideas.
If one party adheres to his own idea while the other party insists on
his own, a separation will be the natural result. This is what happens
in the Hinayana. The Mahayana teaches that one should put one’s own idea
aside for a moment and identify one’s own position with that of the
other party, thus mutually synthesizing the opposed positions. The both
parties will find themselves perfectly united.
2)
Chữ “tương đối” ở đây theo nghĩa đen là hỗ tương đối đăi, nghĩa
là “quan điểm hỗ tương lẫn nhau,” “hỗ tương đồng nhất” cũng y như nói
“trao đổi các quan điểm.” Không tách riêng từng cái để thực hiện cuộc
ḥa giải về những quan điểm tương phản hay để gây hiệu quả nên một chủ
trương hỗn hợp giữa những hệ thống suy lư đối lập. Thực tế, ngành tư
tưởng nầy đă có công lớn tái lập ư niệm bao dung nguyên thủy đă được
khai thị trong giáo pháp của Đức Phật nhưng hầu như mất hẳn trong nhiều
bộ phái Tiểu Thừa, chúng là kết quả của những dị biệt về tư tưởng: The
word for “reciprocal identification” is more literally “mutual” and
“regarding,” that is, “mutually viewing from each other’s point,”
“mutual identification,” which is as much as to say an “exchange of
views.” It is indispensable to bring about a reconciliation of
conflicting opinions or to effect a syncretism among opposing
speculative systems. This trend of thought, in fact, served greatly to
restore the original idea of tolerance which was revealed in the
Buddha’s teaching but was almost entirely lost in the various Schools of
Hinayana which resulted from differences of opinion.
3)
Theo Triết Học Trung Quán, tương đối là những hiện tượng không có
thực tại độc lập hay thực thể của chính chúng. Tương đối tánh hoặc sự
tùy thuộc là những đặc tánh chủ yếu của hiện tượng, và, một vật là tương
đối th́ không phải là ‘thật,’ hiểu theo ư nghĩa cao nhất của chữ nầy.
Tuyệt đối là thực tại của những hiện tượng. Tuyệt đối và thế giới không
phải là hai nhóm thực tại khác nhau đặt ở vị trí đối kháng nhau. Khi
hiện tượng được coi là tương đối, chịu sự chi phối của những nhân duyên
và những điều kiện cấu thành thế giới nầy th́ chúng là hiện tượng; và
khi hiện tượng được coi là phi hạn định bởi tất cả nhân duyên th́ hiện
tượng là tuyệt đối—According to the Madhyamaka philosophy, phenomena
have no independent, substantial reality of their own. Relativity or
dependence is the main characteristic of phenomena, and that which is
relative is not really the highest sense of the word. The Absolute is
the reality of the appearances. The Absolute and the world are not two
different sets of reality posited against each other. Phenomena viewed
as relative, as governed by causes and conditions constitute the world,
and viewed as free of all conditions are the Absolute.
(B)
Ba cách minh chứng cho những lư do của sự ḥa đồng của những quan
điểm đối lập—Three reasons which justify the identification of opposing
views:
1)
Đồng nhất trong h́nh thức hai yếu tố khác biệt kết hợp nhau để
thành một nhất thể: Identity in form as two different elements combining
to form unity—Đồng nhất tánh phải có v́ hai thành tố riêng biệt được hợp
thành một, như đồng đỏ và kẽm được pha trộn với nhau để tạo thành một
hợp kim là đồng. Lư đồng nhất trong h́nh thức nầy là lối giải thích
chung cho tất cả các trường phái của Phật Giáo—Identity is assumed
because two distinct factors are united into one as copper and zinc are
mixed together from one alloy, bronze. This identity in form is the
explanation common to all Buddhist schools.
2)
Đồng nhất trong bản thể có nhiều góc cạnh đối lập: Identity in
substance although there may be opposing angles—Đồng nhất tánh phải có
v́ sấp và ngữa có thể coi như khác nhau, nhưng trong thực tế chúng chỉ
là một. Có những quan điểm đối lập như là mặt trước và mặt sau của cùng
một ngôi nhà. Cũng vậy, nếu đời sống được nh́n từ quan điểm mê hoặc, th́
nó là đời sống; nhưng nếu nó được nh́n từ quan điểm giác ngộ th́ nó là
niết bàn. Cả hai thực ra chỉ là một. Một vài trường phái Đại Thừa chủ
trương lối giải thích về đồng nhất trong bản thể nầy—Identity is assumed
because one’s front and one’s back may appear differently but in reality
they are one. There are opposing views as are the front and back of the
same house. In the same way, if life is looked at from an illusioned
view, it is life, but, if it is looked at from an enlightened view, it
is nirvana.The two views are simply refer to one thing. Some Mahayana
schools hold this explanation of identity in substance.
3)
Đồng nhất trong h́nh thức và bản thể như nước và sóng hay “Hiện
Tượng Luận”: Identity in form and substance as water and wave or
phenomenology—Đồng nhất tánh phải có, v́ rằng toàn diện thực thể là cái
một toàn vẹn, như nước và sóng, toàn thể của nước được biểu hiện như là
sóng: Identity is assumed because the whole entity is entirely one, as
water and wave, the whole of water being manifested as wave.
(C)
Sự ứng dụng của Nguyên Lư Tương Đối—The applications of the
Reciprocal Theory:
1)
Hỗ tương đối đăi bằng cách tự hủy diệt, khi được thể hiện, có giá
trị thực tiển lớn san bằng những quan điểm tương phản hay tạo nên thiện
cảm giữa những phe phái đối nghịch. Bằng vào một, hay nhiều hơn, trong
số các phương pháp nầy, dị biệt tính có thể đưa đến liên hiệp, và cuộc
đời mộng ảo được dung hợp với đời sống giác ngộ. Những ư tưởng như nói:
nh́n bản thể trong hiện tượng, coi động như tĩnh và tĩnh như động, đồng
nhất và vô hành, tịnh và bất tịnh, toàn và bất toàn, một và nhiều, riêng
và chung, thường và vô thường, tất cả đều có thể đạt được bằng lư thuyết
nầy: Reciprocal identification by mutual self-negation, when realized,
has a great practical value in smoothing out conflicting opinions or in
creating sympathy among opposing parties. Through one or more of these
methods diversity can be brought to union, and illusory existence is
synthesized with the enlightened life. Such ideas as seeing noumenon in
phenomenon, regarding motion as calm or calm as motion, identifying
action and inaction, purity and impurity, perfection and imperfection,
one and many, the particular and the general, permanence and
impermanence, are all attainable by this theory. It is one of the most
important ideas of Mahayana and is indispensable for a clear
understanding of the Buddhist doctrine as taught in the Mahayana.
2)
Sự ứng dụng quan trọng nhất của học thuyết nầy là nhắm tới chỗ
đồng nhất của đời sống, sinh tử và Niết Bàn. Bản thân đời sống là Niết
Bàn cũng như nước với sóng là một. Đời sống là cái nầy th́ Niết Bàn là
cái không đời sống kia. Nếu đạt tới Niết Bàn ngay trong sự sống, đời
sống trở thành là một với Niết Bàn, nhưng chỉ đạt trong tâm v́ thân vẫn
hiện hữu. Nhưng Niết Bàn toàn vẹn hay trọn vẹn được đạt đến khi chết. Sự
diệt tận của thân xác là điều kiện tất yếu của Niết Bàn toàn vẹn, cũng
như sự dừng lặng của sóng chung cuộc nơi tĩnh lặng toàn vẹn của nước:
The most important application of this doctrine concerns the
identification of life and Nirvana. Life itself is Nirvana, just as
water and wave are identical. Life is one thing and Nirvana is another
lifeless thing. If one attains Nirvana while yet living, life becomes
identified with Nirvana but only in the sense of a state of mind because
the body still exists. But perfect or complete Nirvana is attained at
death. The extinction of the body is the perfect Nirvana, just as the
cessation of the wave results in the perfect quiescence of the water.
Tương Đồng: A
striking parallel—Equal.
Tương Đồng Gần Gủi:
Close correspondence
Tương Đương:
Equivalent.
Tương Giao: To
have relations.
Tương Hổ: Hổ
tương—Mutual—Reciprocal.
Tương Hợp:
Compatible.
Tương Kế Tựu Kế:
Chiến đấu bằng cách dùng vũ khí hay mưu mô của chính kẻ thù—To fight the
enemy with his own weapon (use the enemy’s tactics).
Tương Kiến: To
meet.
Tương Kính:
Mutual respect.
Tương Lai:
Future.
Tương Ngộ: To
meet.
Tương Nhập: Sự
ḥa trộn của sự vật, mà không tương phản nhau, giống như nhiều ánh đèn
ḥa lẫn vào nhau (đối với chư pháp tuy có sai biệt khác nhau về h́nh
thức, nhưng nghĩa luôn viên dung vô ngại)—Mutual entry; the blending of
things, i.e. the common light from many lamps (dharmas, though different
in forms, they’re completely similar in meanings).
Tương Phản: In
contrast—Opposed—Opposite—To contrast.
Tương Phù: To
coincide—To correspond.
Tương Phùng: To
meet.
Tương Quan:
Connection—Relation.
Tương Quan Mật
Thiết: To be closely interrelated.
Tương Tàn: To
kill one another.
Tương Tế: To
help one another.
Tương Thân:
Mutual affection.
Tương Tợ:
Analogy—Similar.
Tương Tri: To
know one another.
Tương Trợ: To
help one another.
Tương Truyền:
To pass from one generation to another generation.
Tương Tục:
Samtati (skt)—sự nối tiếp không ngừng nghỉ—Continuity—Nhân quả lần lượt
nối tiếp nhau không dứt—Continuity, especially of cause and effect.
Tương Tục Giả:
Một trong tam giả của Thành Thực Luận. Hết thảy các pháp hữu vi đều do
nhân quả tương tục, đó chỉ là giả hữu, chứ không có thực thể—Illusory
ideas continuously succeed one another producing other illusory ideas,
one of the three hypotheses of the Satya-siddhi-sastra.
** For more
information, please see Tam Giả.
Tương Tục Phân Biệt:
Sambandhavikalpa (skt)—Phân biệt về sự tùy thuộc—Discrimination as to
dependence.
Tương Tục Tâm:
Ư nghĩ không gián đoạn—A continuous mind, or unceasing thought.
Tương Tục Thức:
Theo Khởi Tín Luận, tương tục thức là thức không bao giờ mất nghiệp quá
khứ, hoặc không bao giờ không làm thành thục các nghiệp ấy—According to
the Awakening of Faith, the continuity-consciousness is a consciousness
which never loses any past karma or fails to mature it.
** For more
information, please see Ngũ Thức
(B).
Tương Tục Thường:
Nodal (skt)—Liên tục không gián đoạn, đối lại với bất đoạn thường (liên
tục có gián đoạn)—Successive continuity, in contrast with uninterrupted
continuity.
Tương Tục Tướng:
Theo Khởi Tín Luận, tương tục tướng là tướng thứ hai trong lục thô
tướng, v́ phân biệt hai cảnh thuận nghịch, nhân đó mà khơi lên những
niệm khổ lạc liên tục không dứt—According to the Awakening of Faith,
continuity of memory, or sensation, in regard to agreeables or
disagreeables, remaining through other succeeding sensation.
** For more
information, please see Lục Thô Tướng.
Tương Tư: To
love one another.
Tương Tự:
Alike—Like—Similar—Identical—Attainment-like (this is only a temporary
situation).
Tương Tự Giác:
1)
Địa vị Bồ Tát trong tam thập vị là Thập Trụ, Thập Hành và Thập
Hồi Hướng, đă phát ra trí tuệ giống như chân trí để chế phục phiền
năo—The approximate enlightenment which in the ten grounds, or stages or
periods in Bodhisattva-wisdom, ten necessary activities of a
Bodhisattva, ten kinds of dedications expounded by the Buddha of past,
present and future approximates to perfect enlightenment by the
subjection of all illusion—See Thập Hạnh, Thập Trụ in Vietnamese-English
Section, and Ten Kinds of Dedications Expounded By The Buddha of Past,
Present, and Future in English-Vietnamese Section.
2)
Loại thứ hai trong Tứ Giác đă nói trong Khởi Tín Luận: The
second of the four intelligences or apprehensions mentioned in the
Awakening of Faith—See Tứ Giác.
Tương Tự Tức Phật:
Tương Tự Tức—Tương Tự Phật—Một trong sáu giai đoạn phát triển lên Phật
của Bồ Tát theo Thiên Thai Viên Giáo, đối lại với Lục Vị trong Biệt
Giáo—Identity of the Individual and Buddha—Similarity in form with the
Buddha, one of the six forms or stages of Bodhisattva developments as
defined in T’ien-T’ai Perfect or Final Teaching, in contrast with the
ordinary six developments as found in the Differentiated or Separated
School.
** For more
information, please see Lục Tức
Phật and Lục Vị.
Tương Tức: Sự
tương tức của vạn hữu, như sóng tức là nước, nước tức là sóng, hay sắc
tức là không không tức là sắc (hai gương chiếu vào nhau và ḥa nhập vào
nhau th́ không phải là tương tức)—Phenomenal identity, i.e. the wave is
water and water is the wave; or matter is just the immaterial, the
immaterial is just matter.
Tương Ứng: Khế
hợp với nhau—Correspond—Tally—Agreement—To correspond to each
other—Coincide (in accord) with.
1)
Dục Ngất Đa: Khế Hợp (như sự tương ứng giữa tâm và tâm sở)—Union
of the tally.
2)
Du Già hay Du Kỳ: Khế Lư (thu nhiếp chư pháp)—One agreeing or
unting with the other.
Tương Ứng A Cấp Ma:
Samyuktagama (skt)—Tạp A Hàm—Miscelaneous Agamas—See Agama in
sanskrit/Pali-Vietnamese Section.
Tương Ứng Nhân:
Một trong lục nhân. Tâm vương là nhân mà khởi lên tâm sở, coi tâm sở là
nhân mà khởi lên tâm vương (ví bỉ thử tương ứng nên gọi là tương ứng
nhân)—Corresponding or mutual causation, i.e. mind, or mental conditions
causing mentation. One of the six causes.
**For more
information, please see Lục Nhân.
Tương Ứng Pháp:
Tên gọi khác của Tâm và Tâm Sở. Một khối tâm và tâm sở đồng thời khởi
dậy hay sự tương ứng giữa tâm và những dữ kiện tinh thần tùy thuộc vào
ngũ quan, lư luận, tiến tŕnh, thời gian và đối tượng—The correspondence
of mind with mental data dependent on five correspondences.
1)
Sở Y B́nh Đẳng: Tâm vương y theo nhăn căn th́ tâm sở cũng y theo
nhăn căn, cũng hiểu rơ thanh sắc—The correspondence among the senses.
2)
Sở Duyên B́nh Đẳng: Tâm vương duyên với thanh cảnh th́ tâm sở
cũng duyên với thanh cảnh, mà lư luận—The correspondence among
reasoning.
3)
Hành Tướng B́nh Đẳng: Tâm vương hiễu rơ thanh sắc th́ tâm sở cũng
hiễu rơ thanh sắc (tiến tŕnh của tâm vương và tâm sở)—The
correspondence among the process.
4)
Thời B́nh Đẳng: Tâm vương khởi dậy lúc nào th́ tâm sở cũng khởi
dậy lúc ấy—The correspondence among the time.
5)
Sự B́nh Đẳng: Thể của tâm vương là một th́ thể của tâm sở cũng là
một—The correspondence among the object.
Tương Ứng Phược:
Một trong nhị phược, tâm bị các phiền năo hay hệ phược của ảo vọng làm
mờ phản ứng của tâm trước những dữ kiện cao cấp—The bond of illusion
which hinders the response of mind to the higher data, one of the two
kinds of bond.
Tương Ứng Tông:
Du Già, tên khác của tông Chân Ngôn. Tông nầy dùng ư chỉ tam mật tương
ứng của thân khẩu ư (giữa Thầy tṛ, Phật và đệ tử)—Yoga, the sect of
mutual response between the man and his object of worship, resulting in
correspondence in body, mouth, and mind, i.e. deed, word, and thought;
it is a term for the Shingon school.
Tương Vi Nhân:
Sắc sinh nhân, nhưng gặp trở ngại nên không sinh được, một trong năm
nhân—Mutually opposing causes, one of the five causes.
** For more
information, please see Ngũ
Nhân, and Thập
Nhân Thập Quả in
Vietnamese-English Section.
Tướng:
Lakkhanam (p)—Lakshana (skt).
1)
Biểu hiện bên ngoài của sự vật: External appearance, the
appearance of things.
2)
Biểu tượng: Symbol.
3)
Dấu hiệu hay tướng hay tướng trạng của sự vật: Distinctive mark
or sign.
4)
Đặc tính: Characteristic.
** For more
information, please see Tam Thập
Nhị Hảo Tướng Của
Phật, and Tứ Tướng.
Tướng Chúng Sanh:
Mark of sentient beings (to see all things as real).
Tướng Danh Ngũ Pháp:
Five categories of forms and names—See Ngũ Pháp (A).
Tướng Đại:
Tướng là đức tướng, chỉ thể chân như có đủ đức tính vô lượng vô biên,
một trong “Tam Đại” được nói đến trong Khởi Tín Luận—The greatness of
potentialities, or attributes of the Tathagata, one of the three great
characteristics mentioned in the Awakening of Faith.
** For more
information, please see Tam Đại.
Tướng Hảo:
Laksana-vyanjana (skt).
1)
Tướng: Marks.
a)
Dấu hiệu kiết tường lớn: Larger signs.
b)
32 tướng tốt của Phật: The thirty two good marks.
2)
Hảo: Good signs
a)
Dấu hiệu nhỏ ám chỉ kiết tường: Small signs or marks that please.
b)
80 hảo tướng của Như Lai—Eighty good signs on the physical body
of Buddha.
3)
Trên Báo Thân Phật có 84.000 hảo tướng: The marks on a Buddha’s
sambhogakaya number 84,000.
** For more
information, please see Tam
Thập Nhị Hảo
Tướng Của Phật.
Tướng Không:
Yếu tố không của tướng. Giáo thuyết cho rằng vạn hữu giai không, đối lại
với Tiểu Thừa cho rằng chỉ có cái “ngă” mới là không—Forms of things are
unreal—Forms are temporary names—The unreality of form—The doctrine that
phenomena have no reality in themselves, in contrast with that of
Hinayana which only held that the ego had no reality.
Tướng Luân:
Luân Tướng—Chỉ cửu luân hay chín ṿng tṛn đặt trên đỉnh tháp—The sign
or form of wheels, i.e. the nine-wheels or circles at the top of a
pagoda.
Tướng Lưỡi Rộng Dài:
Long and broad tongue.
Tướng Mạo:
Sign—Mark—Appearance—Physiognomy and countenance.
Tướng Mạo Đoan
Trang Xinh Đẹp: Well-formed features.
Tướng Ngă: Mark
of self—See self as real.
Tướng Nhơn:
Mark of others—See beings as real.
Tướng Phần: Một
trong tứ phần tâm pháp. Tâm thể biến làm cảnh tướng sở duyên (tất cả chỉ
là khách quan thu nhiếp trong tâm lư học)—A form, an idea, a mental
eject, one of the four parts of function of cognition.
** For more information, please see Tứ Phần, and Tứ Phần Pháp Tướng
(A) in Vietnamese-English Section.
Tướng Phuợc: Bị
cảnh tướng của lục trần trói buộc làm cho tâm không được tự tại—To be
bound by externals (by six gunas or objects of sensation).
Tướng Sanh Diệt:
Mark of birht and death.
Tướng Số:
Physionomist—Fortune-teller—Psychic—Diviner.
Tướng Tánh:
Form and nature—Phenomenon and noumenon.
Tướng Thế Gian:
Mundane marks.
Tướng Thọ Giả:
Mark of life-span—To see life-after-life as real.
Tướng Tông: See
Pháp Tướng Tông.
Tướng Trạng Báo
Trước Khi Sắp Lâm Chung: Trong Kinh Đại Bảo Tích, ngài Bạt Đà La Bà
Lê thưa với Phật rằng: “Bạch Thế Tôn, một chúng sanh khi c̣n đang mang
thân tiền hữu, lúc sắp lâm chung có những tướng trạng nào báo trước sẽ
sanh về nơi ác đạo?” Đức Thế Tôn dạy như sau—In the Great Heap Sutra,
Venerable Batda Labale asked the Buddha: “Dear Lokanatha! A sentient
being who still has the antecedent existence body, is about to pass
away, what characteristics will be present?” The Buddha taught the
followings:
(A)
Sanh về nơi Thiện Đạo—To be reborn to the wholesome realms:
1)
Sanh lại cơi người—To be reborn in the human realm: Một người
được sanh lại cơi người, khi sắp lâm chung, sẽ có những tướng trạng sau
đây—A person is to be reborn in the human realm, when nearing death,
will exhibit the following signs and characteristics:
a)
Thân không bệnh nặng: Body is not burdened with major illnesses.
b)
Khởi niệm lành, sanh ḷng ḥa diệu, tâm vui vẻ vô tư, ưa việc
phước đức: Give rise to good and wholesome thoughts, have peace and
happiness, enjoy practicing meritorious and virtuous deeds.
c)
Ít sự nói phô, nghĩ đến cha mẹ, vợ con: There is little boasting,
thinking of mother, father, spouse, and children.
d)
Đối với các việc lành hay dữ, tâm phân biệt rơ ràng không lầm
lẫn: With regard to good and evil, their minds are capable of
discriminating clearly.
e)
Sanh ḷng tịnh tín, thỉnh Tam Bảo đến đối diện quy-y: Give rise
to pure faith, requesting the Triple Jewels to be present to take
refuge.
f)
Con trai, con gái đều đem ḷng thương mến và gần gũi xem như việc
thường: Sons and daughters are near and adore them just as before
without showing indifference.
g)
Tai muốn nghe tên họ của anh chị em và bạn bè: Ears are fond of
hearing the names of brothers, sisters, and friends.
h)
Tâm chánh trực không dua nịnh: Remaining dignified and having
integrity instead of being petty and a sycophant.
i)
Rơ biết bạn bè giúp đỡ ḿnh, khi thấy bà con đến săn sóc thời
sanh ḷng vui mừng: Clearly recognize helping friends, when seeing
family members take care of them, they are happy and contented.
j)
Dặn ḍ, phó thác lại các công việc cho thân quyến rồi từ biệt mà
đi: Advise and give responsibilities to loved ones before making the
last goodbye.
2)
Sanh lên cơi trời—To be reborn in Heaven: Một người khi sắp lâm
chung, được sanh lên cơi trời, sẽ có những tướng trạng sau đây—A person
is to be reborn in Heaven, when nearing death, will have the following
signs and characteristics:
a)
Sanh ḷng thương xót tha nhân: Having compassion for others.
b)
Phát khởi tâm lành: Give rise to a wholesome mind.
c)
Ḷng thường vui vẻ: Often happy and contented.
d)
Chánh niệm hiện ra: Proper thoughts are apparent.
e)
Đối với tiền của, vợ con, không c̣n tham luyến: No longer having
greed and attachment for money, possessions, spouse, children, etc.
f)
Đôi mắt có vẻ trong sáng: The eyes are clear and shiny.
g)
Ngước mắt nh́n lên không trung mỉm cười, hoặc tai nghe tiếng
thiên nhạc, mắt trông thấy cảnh trời: Eyes staring into space, smiling,
ears hearing heavenly music or eyes seeing heavenly landscape.
h)
Thân không hôi hám: Body does not emit odor.
i)
Sống mũi ngay thẳng, không xiên xẹo: Nose-bridge remains straight
without any crookedness.
j)
Ḷng không giận dữ: Mind does not exhibit hate and resentment.
(B)
Sanh về nơi Ác Đạo—To be condemned to the evil paths:
1)
Đọa vào loài súc sanh—Condemned to the Animal Realm: Người bị đọa
vào loài súc sanh, trước khi lâm chung sẽ có những tướng trạng sau đây—A
person is about to be condemned to the animal realm, when nearing death,
the following signs and characteristics will be present:
a)
Thân mang bệnh nặng, tâm mê mờ tán loạn như ở trong mây mù: Body
is burdened with great sicknesses, mind drifts in and out of
consciousness similar to being in dark clouds.
b)
Sợ nghe các danh hiệu Phật, không chịu nghe ai khuyên bảo điều
lành: Afraid of hearing the names of Buddhas, refusing to listen to
anyone with good and wholesome advice.
c)
Ưa thích mùi cá thịt: Derives joy from the smell of fish and
meat.
d)
Quyến luyến vợ con, đắm đuối không bỏ: Attached to spouse and
children, unable to let go.
e)
Các ngón tay chân đều co quắp lại: All fingers and toes are bent
together.
f)
Cả ḿnh toát mồ hôi: The entire body is filled with perspiration.
g)
Khóe miệng chảy ra nước: Saliva running out of mouth.
h)
Tiếng nói kḥ khè không rơ rất khó nghe: Voice is rugged and
unclear, very difficult to hear.
i)
Miệng thường ngậm đồ ăn: Mouth often holding food.
2)
Đọa vào ngạ quỷ—Condemned to the Hungry Ghost Realm: Người sắp bị
đọa vào loài ngạ quỷ sẽ có những tướng trạng sau đây—A person who is
about to be condemned to the Hungry Ghost Realm will have the following
signs and charateristics:
a)
Thân ḿnh nóng như lửa: Body is hot like fire.
b)
Lưỡi luôn luôn liếm môi: Tongue is constantly licking lips.
c)
Thường cảm thấy đói khát, ưa nói đến các việc ăn uống: Often
feels thirsty and hungry, prefers to talk about drinking and eating.
d)
Miệng hả ra chớ không ngậm lại: Mouth is always open and not
closed.
e)
Tham tiếc tiền của, dây dưa khó chết, làm khổ gia quyến: Greed
and regret over loss of money and possessions, death is prolonged
causing sufferings to family and friends.
f)
Mắt thường mở lớn lên chớ không chịu nhắm lại: Eyes are often
wide-open, refusing to close them.
g)
Đôi mắt khô khan như mắt chim gỗ: Eyes are dry similar to a
wooden bird.
h)
Không có tiểu tiện, nhưng đại tiện th́ nhiều: Do not urinate
frequently but defecation is often.
i)
Đầu gối bên mặt lạnh trước: Right knee is the first part of the
body to get cold.
j)
Tay bên mặt thường nắm lại, tiêu biểu cho ḷng tham lam bỏn xẻn:
The right hand is held together tightly, illustrating greed and
frugality.
k)
Lúc tắt hơi, hai mắt vẫn mở: When breathing ceases, the eyes
remain open.
3)
Đọa vào Địa Ngục—Condemned to the Hell Realm: Người nào sắp sửa
bị đọa vào địa ngục sẽ có những tướng trạng sau đây—A person who is
about to be condemned to the Hell realm will have the following signs
and charateristics:
a)
Nh́n ngó thân quyến bằng con mắt giận ghét: Looking at family and
friends with hatred and anger.
b)
Hai tay đưa lên quờ quạng trong chốn hư không: The two hands are
often flinging in space.
c)
Đi đại tiểu tiện ngay trên chỗ nằm mà không tự hay biết: Urinate
and defecate in bed without any awareness.
d)
Thân thường có mùi hôi hám: Body often wreaks foul odors.
e)
Nằm úp mặt xuống hoặc che dấu mặt mày: Lying face down or
covering and hiding the face.
f)
Hai mắt đỏ ngầu: Two eyes are red.
g)
Nằm co quắp và nghiêng về bên trái: Lying in fetal position
leaning to the left.
h)
Các lóng xương đau nhức: Bones and joints ache.
i)
Thiện tri thức dù có chỉ bảo họ cũng không tùy thuận: Even when
the good knowledgeable advisor teaches them, they refuse to follow.
j)
Đôi mắt nhắm nghiền chớ không mở: Eyes close tightly and refusing
to open.
k)
Mắt bên trái hay động đậy: The eye on the left often twitching.
l)
Sống mũi xiêng xẹo: The nose-bridge is crooked.
m)
Gót chân và đầu gối luôn luôn run rẫy: Constant tremors of the
heels and knees.
n)
Thấy ác tuớng hiện ra, vẻ mặt sợ sệt, không nói được, thảng thốt
kêu la lớn là có ma quỷ hiện: Seeing various evil images, facial
expressions full with terror, unable to speak, suddenly screaming saying
that there are demons and spirits appearing in the room.
o)
Tâm hồn rối loạn: Mind and spirit are totally disturbed.
p)
Cả ḿnh lạnh giá, tay nắm lại, thân thể cứng đơ: The entire body
is frozen, hands held tightly, body becomes immovable.
Tướng Trí: Trí
nương vào sự tướng thế gian—Knowledge derived from phenomena.
** For more
information, please see Nhị
Chủng Trí and Nhị
Trí.
Tướng Tưởng Câu
Tuyệt Tông: Một trong mười tông do ngài Hiền Thủ của tông Hoa Nghiêm
lập ra (tướng là cảnh sở duyên, tưởng là tâm năng duyên), nói rơ tông
chỉ yếu pháp là dứt hết tâm cảnh, đốn ngộ lư tính—One of the ten
schools, as classified by Hsien-Shou of Hua-Yen, which sought to
eliminate phenomena and thought about them, in favour of intuition.
Tướng Trí:
Knowledge dervied from phenomena.
Tướng Vi Diệu Của
Phật: Subtle aspect of the Buddha.
Tướng Vô Tánh:
Một trong tam vô tánh. Vạn hữu không thực, như lông rùa sừng thỏ (lấy
biến kế sở chấp mà bàn luận lư không th́ cái tướng do tâm tính toán cho
là có thực ngă thực pháp, gọi là biến kế sở chấp tính)—Unreal in
phenomena, i.e. turtle-hair or rabbit’s horn; the unreality of
phenomena, one of the three kinds of unreality.
Tường:
1)
Am tường: To know thoroughly.
2)
Bức tường: Wall.
3)
Kiết tường: Felicitous.
Tường Long: Tên
của một ngôi tháp cổ, tọa lạc trên núi Ngọc Sơn, phường Vạn Sơn, thị xă
Đồ Sơn, cách thành phố Hải Pḥng chừng 13 dậm. Dưới thời nhà Lư, lần đầu
tiên Tường Long được xây như một ngôi tháp nổi tiếng. Theo Đại Nam Nhất
Thống Chí, tháp được xây vào năm 1058 và có chín tầng. Vào tháng hai năm
1058, vua ngự ra Ba Lộ để thăm viếng tháp. Vào năm 1059, vua đặt tên
tháp là Tường Long (có nghĩa là đă được vua nh́n tận mắt). Vào năm 1258,
Tường Long được trùng tu, sau đó bị tàn phá dưới thời nhà Minh đô hộ.
Sau khi đất nước độc lập, vua Lê Thái Tổ ra lệnh xây lại tháp Tường
Long, nhưng sau đó lại bị tàn phá. Năm 1804, chánh quyền địa phương dưới
thời nhà Nguyễn lấy gạch từ những bức tường đổ nát của tháp Tường Long
để xây thành Trấn Hải Dương. Măi đến năm 1990 Tường Long mới được xây
cất lại như một ngôi chùa, nhưng kiến trúc vẫn giữ giống như tháp Tường
Long trước kia—Name of a famous ancient stupa, located on Mount Ngọc Sơn
in Vạn Sơn quarter, Đồ Sơn town, about 13 miles from Hải Pḥng City.
During the Ly dynasty, Tường Long was first built as a famous stupa.
According to “Đại Nam Nhất Thống Chí,” the stupa was built in 1058 and
had nine storeys. In february 1058, the King arrived at Ba Lộ to pay a
visit to the stupa. In 1059, the King named it Tường Long (means it had
been seen by the King). It was rebuilt in 1258, then destroyed in the
fifteenth century during the Ming’s invasion. After the independence,
King Lê Thái Tổ ordered to rebuild it. Then the stupa was in ruin again.
In 1804, the local government under the Nguyễn dynasty took all the
bricks out of the ruined walls of Tường Long stupa to build Trấn Hải
Dương citadel. It was rebuilt again in 1990 as a temple with the same
design as Tường Long stupa.
Tường Nguyệt:
Tháng kiết tường—Felicitous month, an anniversary.
Tường Quang Chiếu
Khoan: Zen Master Tường Quang Chiếu Khoan (1741-1830)—Thiền sư Tường
Quang, người Việt Nam, quê ở Hà Nội. Lúc thiếu thời, ngài xuất gia với
Ḥa Thượng Kim Liên ở chùa Vân Trai. Ngày ngày ngài dụng công tu hành
khổ hạnh. Ngài lấy Lục độ làm tiêu chuẩn tu hành cho chư Tăng Ni. Ngài
khuyến tấn Tăng Ni giảng kinh nói pháp và bố thí độ đời. Hầu hết cuộc
đời ngài hoằng pháp tại miền Bắc Việt Nam. Ngài thị tịch năm 1830, thọ
70 tuổi—A Vietnamese Zen master from Hanoi. At young age, he left home
and became a disciple of Most Venerable Kim Liên at Vân Trai Temple in
Hanoi. Everyday, he focused on ascetic practicing. He considered the
six paramitas as cultivation standards for monks and nuns. He always
encouraged monks and nuns to practice dharma preaching and almsgiving to
save sentient beings. He spent most of his life to expand the Buddha
Dharma in North Vietnam. He passed away in 1830, at the age of 70.
Tường Tận:
Clearly and thoroughly.
Tường Thảo:
Loại cỏ kiết tường, thứ cỏ mà Đức Phật dùng làm tọa cụ để ngồi thiền khi
Ngài thành đạo—The felicitous herb, or grass, that on which the Buddha
sat when he attained enlightenment.
Tường Thoại:
Kiết tường—Auspicious.
Tường Thuật: To
(Relate—Narrate—Tell) clearly.
Tường Tŕnh: To
report clearly.
Tường Vân: Tên
của một ngôi chùa cổ ở Huế, Trung Việt. Nguyên thủy, Tường Vân là tên
của một ngôi thảo am ở vùng núi trước chùa Từ Hiếu do Ḥa Thượng Tánh
Khoát hiệu Huệ Cảnh tạo dựng làm nơi hư dưỡng vào năm 1850. Nơi đây nhà
thơ Tùng Thiện Vương Miên Thẩm thường lui tới cùng sư đàm đạo. Cũng
trong thời gian nầy, trên vị trí chùa Tường Vân ngày nay, đă có chùa Từ
Quang do Ḥa Thượng Nhất Chơn trụ tŕ. Đến năm 1881, đại sư đă dời thảo
am Tường Vân về hợp nhất với chùa Từ Quang, lấy tên là chùa Tường Vân,
xây tường, lợp ngói, với sự tín cúng của đông đảo đàn na tín thí. Năm
1891, chùa được trùng tu lần nữa. Lần trùng tu mới đây nhất là vào năm
1972, dù được kiến thiết bằng vật liệu mới nhưng chùa vẫn giữ được nét
cổ kính. Qui mô chùa gồm năm dăy nhà kết cấu theo h́nh chữ khẩu—Name of
an ancient temple in Huế, Central Vietnam. Originally, Tường Vân was the
name of a thatched worship house in the neighboring hilly region in
front of Từ Hiếu temple. It was built in 1850 by Zen master Tánh Khoát
Huệ Cảnh for his old-age retirement. The famous poet Tùng Thiện Vương
Miên Thẩm often came here to have talks with the host monk. During the
same period of time, there had been Từ Quang temple on the site where
now Tường Vân temple situated, headed by Most Venerable Nhất Chơn. In
1881, the senior monk moved his thatched temple in the mountain to Từ
Quang temple and unified them into a combined temple with the name Tường
Vân. The new temple was solid with walls and tiled roofs thanks to the
contributions from a large number of lay Buddhists. In 1891, the temple
was rebuilt again. The latest reconstruction took place in 1972. Though
modern construction materials were used, the ancient look of the temple
still remains. The structure consists of five houses located in the
shape of the Chinese character “Khẩu.”
Tưởng:
1)
Suy tưởng: Vitakka (p)—To meditate—To reflect—To think—To
imagine—See Tư Tưởng.
2)
Tưởng rằng: To expect.
3)
Tưởng uẩn: Sanna (p)—Samjna (skt)—Perception, a function of
mind—See Ngũ Uẩn.
Tưởng Ái: Tư
tưởng dẫn đến tham ái—Thought of and desire for, thought leading to
desire.
Tưởng Diệt:
Samjnanirodha (skt)—Cessation of thought.
Tưởng Đến: To
think of someone.
Tưởng Địa Ngục:
Sanjiva (skt)—Tên khác của Đẳng Hoạt Địa Ngục, nơi tội nhân bị khổ sở
bức bách sinh ra có ư tưởng đă chết, nhưng nhờ gió lạnh thổi lên nên
sống lại—The resurrecting hell—See Địa Ngục (A) (a) (1).
Tưởng Điên Đảo:
Một trong tam điên đảo, phàm phu đối với lục trần mà suy tưởng điên đảo
rồi sinh ra các loại phiền năo—One of the three subversions, inverted
thoughts or perceptions, i.e. the illusion of regarding the seeming as
real.
Tưởng Lầm: To
delude oneself.
Tưởng Lệ: To
reward and to encourage.
Tưởng Nhớ: To
remember.
Tưởng Niệm: To
think and reflect.
Tưởng Phi Tưởng:
With thought and without thought.
Tưởng Thây Ma Mới
Chết: Meditation on the fresh corpse.
Tưởng Thưởng:
To recompense—To reward.
Tưởng Tượng:
Imagination—To imagine—To think.
Tưởng Uẩn:
Sanjna (skt)—Một trong năm uẩn—The aggregate of perception, one of the
five skandhas.
** For more
information, please see Ngũ Uẩn.
Tưởng Vọng: To
hope.
Tượng:
1)
H́nh tượng: Image—Portrait.
2)
Tương tự: Similar—Like—Resemblance—Semblance.
3)
Tượng h́nh: To form.
4)
Voi: Gaja or Naga (skt)—Tiếng Phạn là Ca Gia, c̣n gọi là Nga
Nhạ—Elephant.
Tượng Ảnh:
Image—Statue.
Tượng Chủ: Nam
Phương Tượng Chủ—The southern division of India, the Lord of the
elephant—See Tứ Chủ.
Tượng Đầu Sơn:
Gayasiras (skt)—Tên của hai ngọn núi ở hai nơi thuộc vùng bắc Ấn Độ, một
nơi gần Bồ Đề Đạo tràng, nơi kia gần sông Ni Liên Thiền—Elephant head
mountain, name of two mountains in northern India, one near Gaya, the
other said to be near the river Nairajnana.
Tượng Đọa Khanh:
Hastigarta (skt)—Cái hố tạo nên khi con voi té xuống đất, ư nói khi Đức
Phật Thích Ca ném con voi chết mà Đề Bà Đạt Đa đă bỏ giữa đường để cản
lối Phật, chỗ đó tạo ra một lỗ lớn gọi là “Tượng Đọa Khanh.”—Elephant’s
hole, i.e. the hollow formed by the elephant’s fall, when Sakyamuni
flung aside a dead elephant put in his path by Devadatta.
Tượng Giá: Xe
voi chở kinh đi dần về phương đông để ví với việc Phật giáo lan dần về
đông phương—The elephant chariot, or riding forward, i.e. the eastward
progress of Buddhism
Tượng Giáo: The
teaching by images or symbols.
Tượng Gỗ:
Wooden statue.
Tượng H́nh Văn Tự:
Pictography.
Tượng Giáo: See
Tượng Hóa (1).
Tượng Hóa:
1)
Tôn giáo của h́nh tượng: The religion of the image or symbol, the
teaching by images or symbols, i.e. Buddhism.
2)
See Tượng Pháp.
Tượng Kiên Sơn:
Pilusaragiri (skt)—Ngọn núi phía nam Kapisa, trên đỉnh ngọn núi nầy vua
A Dục đă cho dựng Tháp Pilusara—A mountain southwest of Kapisa, on the
top of which King Asoka erected a stupa, the Pilusara-stupa.
Tượng Kinh:
H́nh tượng và kinh điển—Images and sutras.
Tượng Mạt: Hai
thời kỳ cuối cùng của Phật giáo—The two final stages of Buddhism—See
Tượng Pháp, and Mạt Pháp.
Tượng Nha: Ngà
voi—Elephant’s tusk—Ivory.
Tượng Nha Hoa:
Hoa nở trên ngà voi (khi voi nghe sấm th́ trên ngà nở hoa. Kinh Niết Bàn
đă nói, ví như hư không sấm th́ mây nổi lên, trên tất cả ngà voi đều trổ
hoa. Nếu không có sấm động th́ hoa không nở. Phật tính của chúng sanh
lại cũng như thế)—Ivory flower.
Tượng Pháp:
saddharma-pratirupaka (skt)—The period of semblance Dharma—Thời Tượng
Pháp kéo dài 1000 năm sau thời Chánh Pháp. Trong thời kỳ nầy, chư Tăng
Ni và Phật tử vẫn tiếp tục tu tập đúng theo chánh pháp mà Đức Phật đă
dạy, và vẫn có thể vào định giới mặc dù rất ít người giác ngộ. Tuy
nhiên, trong thời gian nầy, pháp nghi giới luật của Phật để lại bị các
ma Tăng và ngoại đạo giảng giải sai lầm một cách cố ư. Tuy có giáo lư,
có người hành tŕ, song rất ít có người chứng đạo. Một trăm người tu th́
có chừng bảy tám người giác ngộ. Theo Kinh Ma Ha Ma Gia, vào khoảng tám
trăm năm sau ngày Đức Phật nhập diệt, hàng xuất gia phần nhiều tham
trước danh lợi, giải đăi, buông lung tâm tánh. Đến khoảng chín trăm năm
sau ngày Phật nhập diệt, trong giới Tăng Ni, phần nhiều là hạng nô tỳ bỏ
tục xuất gia. Một ngàn năm sau khi Phật nhập diệt, các Tỳ Kheo nghe nói
‘Bất Tịnh Quán’ hay phép quán thân thể ḿnh và chúng sanh đều không
sạch, pháp “Sổ Tức Quán’ hay pháp quán bằng cách đếm hơi thở, buồn chán
không thích tu tập. V́ thế, trong trăm ngàn người tu chỉ có một ít người
được vào trong chánh định. Từ đó về sau lần lần hàng xuất gia hủy phá
giới luật, hoặc uống rượu, hoặc sát sanh, hoặc đem bán đồ vật của ngôi
Tam Bảo, hoặc làm hạnh bất tịnh. Nếu họ có con trai th́ cho làm Tăng,
con gái th́ cho làm Ni, để tiếp tục mượn danh của Tam Bảo mà ăn xài
phung phí và thủ lợi cho riêng ḿnh. Đây là những dấu hiệu báo trước về
thời kỳ Mạt Pháp. Tuy vậy, vẫn c̣n một ít người biết giữ giới hạnh, gắng
lo duy tŕ và hoằng dương chánh giáo—Dharma Semblance Age—The Semblance
of Law period, or the formal period of Buddhism which lasted 1000 years
after the real period. In this period, Monks, Nuns and Lay Buddhists
still continue to practice properly the Dharma as the Buddha taught and
are still able to penetrate the spiritual realm of samadhi even though
fewer will attain enlightenment. However, in this age, the Buddha’s
Dharma and precepts left behind are destroyed by Evil-monks and
Non-Buddhists who disguise themselves as Buddhist monks and nuns to
destroy the teaching by falsely explaining and teaching the Buddha
Dharma. Thus, the Dharma still exists and there are still cultivators,
but very few attain enlightenment. Only seven or eight out of one
hundred cultivators will attain enlightenment. According to the Mahamaya
Sutra, about eight hundred years after the Buddha’s Maha-Nirvana, the
majority of ordained Buddhists will be greedy for fame and fortune, will
be lazy and not control their minds and consciences, lacking of
self-mastery. About nine hundred years after the Buddha’s Maha-Nirvana,
in the order of Bhikshus and Bhikshunis, the majority will be servants
who abandon the secular life to become ordained Buddhists. One thousand
years after the Buddha’s Maha-Nirvana, when Bhikshus hear of the
practice of ‘Envisioning Impurity,’ and the dharma of ‘Breathing
Meditation,’ they will get depressed and disenchanted having little
desire to cultivate. Therefore, in one hundred thousand cultivators,
only few will penetrate the proper Meditation State. From that time,
gradually those of religious ranks will destroy the precepts, whether by
drinking alcohol, killing, selling possessions and belongings of the
Triple Jewels, or practicing impure conducts. If they have a son, they
will let him become a Bhikshu, and if they have a daughter they will let
her become a Bhikshuni, so they can continue to steal from and destroy
Buddhism as well as using the good name of the Triple Jewels to reap
self-benefits. These are signs of warning that the Buddha Dharma is
nearing extinction. However, there are still some people who know how to
uphold the proper precepts and conducts by diligently trying to maintain
and propagate the proper doctrine.
Tượng Phật:
Buddha’s image—The statue of Buddha.
Tượng Phật Địa Mẫu:
The statue of the Earth Mother.
Tượng Phật nhập
Niết Bàn: The statue of Buddha at his Parinirvana.
Tượng Quân:
Hastikaya (skt)—Đoàn quân voi trong quân đội Ấn Độ—The elephant corps of
an Indian army.
Tượng Quư: Thời
kỳ cuối cùng của thời Tượng Pháp—The end of the formal period—See Tượng
Pháp.
Tượng Thủy: Bắt
đầu thời kỳ Tượng Pháp—The beginning of the formal period—See Tượng
Pháp.
Tượng Tôn Quốc:
Chỉ nước Ấn Độ, v́ các vị quốc vương của xứ nầy đều tôn quư loài voi—The
elephant honouring country, India.
Tượng Trưng: To
symbolize.
Tượng Tỵ:
1)
Ṿi voi: Elephant’s trunk.
2)
Mặc áo cà sa sai cách (mặc áo cà sa không như kiểu quấn của ṿi
voi, muốn quấn về đâu th́ quấn, mà phải đúng cách, góc phải quấn lên vai
trái và buông thỏng ra phía sau)—A wrong way of wearing a monk’s robe.
Tượng Vận: Thời
kỳ tượng h́nh hay thời vận của Tượng Pháp—The period of formality, or
symbolism—See Tượng Pháp.
Tượng Vương:
Gajapati (skt)—Lord of Elephants.
1)
Danh hiệu của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni: A term for Sakyamuni
Buddha.
2)
Vị vương trong huyền thoại trị v́ vùng phía Nam Diêm Phù Đề: The
fabulous ruler of the southern division of the Jambudvipa continent.
Tửu: Sura, or
Maireya, or Madya (skt)—Tiếng Phạn là Tố La, nghĩa là rượu; giới thứ năm
trong nhà Phật cấm tín đồ Tăng tục không được uống rượu—Wine—Alcoholic
liquor; forbidden to monks, nuns and lay-people by the fifth
commandment.
Tửu Lượng:
Capacity to drink wine or alcoholic liquor.
---o0o---
Mục Lục
Tự điển Phật Học
Việt-Anh
|
A |
Ba |
Be |
Bi |
Bo |
Bu |
Ca |
Ch
|
Co |
Cu |
D |
Đa |
Đe |
Đi |
Đo |
Đu |
|
E |
G |
Ha |
He |
Hi |
Ho |
Hy |
I |
K |
La |
Le |
Li |
Lo |
Lu |
Ly |
|
Ma |
Me |
Mi |
Mo |
Mu, My |Na
|
Ne |
Ng |
Nh
|
Ni |
No
|
Nu |
|
O |
Pha |
Phe
|
Phi |
Pho |
Phu |
Q |
R |
S |
Ta |
Te |Tha
|
Thă, Thâ |
|
The |
Thi |
Tho |
Thu |
Ti |
To |
Tr |
Tu |
Ty |
U |
V |
X |
Y|
---o0o---
Mục Lục |
Việt-Anh |
Anh -Việt |
Phạn/Pali-Việt |
Phụ Lục
---o0o---
Tŕnh
bày:
Minh Hạnh
& Thiện Pháp
Cập nhật:
3-4-2006