TỔ ĐÌNH MINH ĐĂNG QUANG
PHẬT HỌC TỪ ĐIỂN
BUDDHIST DICTIONARY
VIETNAMESE-ENGLISH
THIỆN PHÚC
Ta
Ta:
1) Nương
tựa vào—To rely on—To avail oneself of.
2) Tiếng
thở dài: To sigh—Alas!
Ta Bà: Jambudvida (skt)— The
saha world—The worldly world—Impure Land—Ta Bà có nghĩa là khổ não, lại
cũng có nghĩa là phiền lụy hay trói buộc, chẳng được ung dung tự tại. Thế
giới Ta Bà, nơi đầy dẫy những mâu thuẫn, hận thù và bạo động. Nơi mà chúng
ta đang sống là một thế giới bất tịnh, và Phật Thích Ca đã bắt đầu thanh
tịnh nó. Con người sống trong thế giới nầy chịu phải vô vàn khổ hãi vì tam
độc tham, sân, si cũng như những dục vọng trần tục. Cõi Ta Bà nầy đầy dẫy
những đất, đá, gai chông, hầm hố, gò nổng, thường có những mối khổ về đói
khát, lạnh, nóng. Chúng sanh trong cõi Ta Bà phần nhiều tham đắm nơi phi
pháp, tà pháp, chớ chẳng chịu tin chánh pháp, thọ số của họ ngắn ngủi,
nhiều kẻ gian trá. Nói về vua quan, dầu có nước để cai trị, họ chẳng hề
biết đủ, mà ngược lại sanh lòng tham lam, kéo binh đánh chiếm nước khác,
khiến cho nhiều người vô tội chết oan; lại thêm nhiều thiên tai như hạn
hán, bão lụt, mất mùa, đói khát, vân vân nên chúng sanh trong cõi nầy phải
chịu vô lượng khổ sở. Nơi cõi Ta Bà nầy, sự thuận duyên cùng an vui tu tập
thì ít, mà nghịch duyên phiền não thì nhiều. Hầu hết người tu hành đều dễ
bị thối thất tâm Bồ Đề đã phát lúc ban đầu. Theo Đức Phật, quả đất mà
chúng ta đang ở đây có tên là Nam Thiệm Bộ Châu, nằm về hướng nam của núi
Tu Di, vốn là một phần nhỏ nhất trong hệ thống Đại Thiên Thế Giới do Đức
Phật Thích Ca Mâu Ni làm giáo chủ—Saha means sufferings and afflictions;
it also means worries, binding, unable to be free and liberated. The
worldly world is full of storm, conflict, hatred and violence. The world
in which we live is an impure field, and Sakyamuni is the Buddha who has
initiated its purification. People in this world endure many sufferings
stemming from three poisons of greed, anger and delusion as well as
earthly desires. The Saha World is filled with dirt, rocks, thorns, holes,
canyons, hills, cliffs. There are various sufferings regarding thirst,
famine, hot, and cold. The people in the Saha World like wicked doctrines
and false dharma; and do not have faith in the proper dharma. Their lives
are short and many are fraudulent. Kings and mandarins, although already
have had lands to govern and rule, are not satisfied; as they become
greedy, they bring forces to conquer other countries causing innocent
people to die in vain. In addition, there are other infinite calamities
such as droughts, floods, loss of harvest, thirst, famine, epidemics, etc.
As for this Saha World, the favorable circumstances to cultivate in peace
and contenment are few, but the unfavorable conditions of afflictions
destroying path that are rather losing Bodhi Mind they developed in the
beginning. Moreover, it is very difficult to encounter a highly virtuous
and knowledgeable advisor. According to the Buddha, the planet in which we
are currently living is called Virtuous Southern Continent. It is situated
to the south of Mount Sumeru and is just a tiniest part of the Great World
System of the Saha World in which Sakyamuni Buddha is the ruler.
Ta Bà Thế Giới: Saha-loka-dhatu
(skt)—The world of human beings.
Ta Bà Tịnh Độ: Samsara and the
Pure Land—Theo Kinh Phật Thuyết A Di Đà, có hai cõi là Ta Bà và Tịnh
Độ—According to the Amitabha Sutra, there are two realms, they are samsara
and the Pure Land:
1) Ta Bà:
Samsara—See Ta Bà.
2) Tịnh
Độ: The Pure Land—See Tịnh Độ.
Ta Cát Lợi Đa Da Ni: Agni
(skt)—See Ác Kỳ Ni.
Ta La Thọ: The Tala tree—Its
edible fruit resembling the pomegranate, its leaves being used for
writing.
Ta La Bồ Tát: Bồ Tát Ta La là
một hình thức của Quan Âm, người ta nói rằng Bồ Tát Ta La được tạo thành
bởi con mắt của Quán Âm—Tara Bodhisattva, as a form of Kuan-Yin, is said
to have been produced from the eye of Kuan-Yin.
Ta Thán: To complain.
Ta Thông Khai Đạo: Hai tông
Biệt giáo và Viên giáo đều dựa vào Thông giáo để tiến hóa—The two other
schools of Differentiated and Complete Teachings depend on the T’ung or
Intermediate school for their evolution.
Tá: Giả tá (mượn)—To borrow—To
lend.
Tá Hoa Hiến Phật: Mượn Hoa cúng
Phật (ý nói lấy đồ của người khác để cúng Phật)—To borrow a flower to
offer to Buddha, i.e. to serve him with another’s gift.
Tá Túc: To stay overnight at
someone’s house.
Tà:
Deviant—Improper—Evil—Deflected—Erroneous—Heterodox—Depraved—Opposite.
Tà Chấp: Cố chấp vào kiến giải
bất chính—Heterodox tenets and attachment to them.
Tà Chính: Slanting and
straight.
Tà Dâm: Kamesu-micchacara (p).
(I) Nghĩa
của tà dâm—The meaning of Kamesu-micchacara:
1) Sexual
misconduct—Obscene—Adultery.
2) See
Dâm in Vietnamese-English Section.
(II) Bốn điều
kiện cần thiết để tạo nghiệp tà dâm—Four conditions that are necessary to
complete the evil of sexual misconduct:
1) Ý nghĩ
muốn thỏa mãn nhục dục: The thought to enjoy.
2) Cố
gắng thỏa mãn nhục dục: Consequent effort.
3) Tìm
phương tiện để đạt được mục tiêu: Means to gratify.
4) Sự
thỏa mãn: Gratification.
(III)
Theo Đức Phật và Phật Pháp của Hòa Thượng Narada, đây là những quả
báo không tránh khỏi của tà dâm—According to The Buddha and His Teachings,
written by Most Venerable Narada, these are the inevitable consequences of
Kamesu-micchacara.
1) Có
nhiều kẻ thù: Having many enemies.
2) Đời
sống vợ chồng không hạnh phúc: Union with undesirable wives and husbands
(spouses).
3) Sanh
ra làm đàn bà hay làm người bán nam bán nữ: Birth as a woman or as a
eunuch (thái giám).
(IV)
Những lời Phật dạy về “Tà Dâm” trong Kinh Pháp Cú—The Buddha’s teachings
on “Sexual misconduct” in the Dharmapada Sutra:
1) Buông
lung theo tà dục, sẽ chịu bốn việc bất an: mắc tội vô phước, ngủ không
yên, bị chê là vô luân, đọa địa ngục—Four misfortunes occur to a careless
man who commits adultery: acquisition of demerit, restlessness, moral
blame and downward path (Dharmapada 309).
2)
Vô phước đọa ác thú bị khủng bố, ít vui, quốc vương kết trọng tội:
đó là kết quả của tà dâm. Vậy chớ nên phạm đến—There is acquisition of
demerit as well as evil destiny. No joy of the frightened man. The king
imposes a heavy punishment. Therefore, man should never commit adultery
(Dharmapada 310).
Tà Dục: To follow wrong desires
or emotions.
Tà Đảo Kiến: Perverted views.
Tà Đạo: Paganism—Heterodox way
or doctrine.
Tà Định: Miccha-samadhi—Wrong
concentration—Evil samadhi—The accummulation of suffering to be endured in
purgatory by one of heterodox nature.
Tà Giải: Paramasa
(p)—Misapprehension—Một từ để chỉ “tà kiến” vì nó sanh khởi dưới hình thức
không thấy được tự tính của một pháp, lại thấy cách khác không thực—A term
for “wrong view,” because it occurs in the aspect of missing the
individual essence of a given dharma and apprehending an unactual
individual-essence.
Tà Giáo: Heresy—Tà giáo nguyên
thủy là một từ ngữ của khái niệm tôn giáo của Tây Phương; không có từ
tương đương trong Phật giáo. Phạn ngữ “Drsti” có nghĩa là “tà kiến,” không
phải vì lý luận mà vì khát vọng hay ao ước. Theo truyền thống Phật giáo,
hình thức tà giáo tệ hại nhất là nhóm chủ trương có một cái ngã hằng
hữu—Heresy is primary a Western religious concept; there is no exact
Buddhist equivalent. The Sanskrit word “Drsti” literally means a wrong
view, that is due not to reason but to craving or desire. According to
Buddhist tration, the most serious form of heresy is to assert the reality
and permanence of the individual human ego, i.e., the assertion of atta or
atman.
Tà Giới: Heretical rules
(precepts).
Tà Hành: erroneous ways.
Tà Hạnh:
1) Tà
Dâm: Adulterous conduct.
2) Chín
mươi sáu cách tà hạnh: The ninety-six heretical ways.
3) Giới
hạnh ngoại đạo: The diciplines of non-Buddhist sects.
4) Theo
Thanh Tịnh Đạo, tà hạnh là làm những điều đáng lý không nên làm, và không
làm cái nên làm, do tham sân si và sợ. Chúng được gọi là đường xấu vì đó
là những con đường mà bậc Thánh không đi—According to The Path of
Purification, “Bad Ways” is a term for doing what ought not to be done and
not doing what ought to be done, out of desire, hate, delusion, and fear.
They are called “bad ways” because they are ways not to be travel by Noble
Ones.
Tà Hạnh Chân Như: Hiện tượng
chân như, từ đó khởi lên khổ đau chồng chất—The phenomenal bhutatathata,
from which arises the accumulation of misery.
Tà Hạnh Chướng: Common
unenlightened conduct.
Tà Kế: Dishonest (wicked) plan.
Tà Khí: Bad air.
Tà Kiến: Drishti (skt)—False
views—Heretical views—Không thừa nhận nhân quả, không theo Phật pháp, một
trong ngũ kiến và thập ác. Trong thời Đức Phật còn tại thế, có ít nhất là
62 tà kiến ngoại đạo—Improper views—Wrong views—Heterodox views—Not
recognizing the doctrine of normal karma—To follow wrong views—Perverted
(wrong) views or opinions, not consistent with the dharma, one of the five
heterodox opinions and ten evils. There were at least sixty-two heretical
views (views of the externalist or non-Buddhist views) in the Buddha’s
time.
(I) Tà
kiến theo quan điểm Phật Giáo Đại Thừa—Wrong views according to the point
of views of Mahayana Buddhism: Theo Phật Giáo Đại Thừa, có ít nhất hai
loại tà kiến—According to Mahayana, there are at least two kinds of wrong
views:
1) Đoạn
kiến: Annihilation-View.
2) Thường
kiến: Eternity-View.
(II) Tà Kiến
theo quan điểm Phật Giáo Nguyên Thủy—Wrong views according to Hinayana
Buddhism:
(A) Theo Phật
Giáo nguyên Thủy được ghi lại trong A Tỳ Đạt Ma Luận, tà kiến là ba quan
kiến sai lầm sau đây được ghi lại trong Kinh Tạng—According to Theravada
Buddhism in Abhidharma, wrong views are the following three wrong views
which mentioned in the Sutra Pitaka:
1)
Ahetuka-ditthi (p): Tin rằng mọi sự vật từ nhiễm đến tịnh đều phát sanh
không có nguyên nhân, nhiễm tịnh chỉ là tình cờ mà thôi—The acausality
view, which states that there is no cause or condition for the defilement
and purification of beings, that beings are defiled and purified by
chance, or necessity.
2)
Akiriya-ditthi (p): Tin rằng hành động dầu tốt hay xấu đều không tạo quả,
do đó chối bỏ luân lý đạo đức—The inefficacy of action view, which claims
that deeds have no efficacy in producing results and thus invalidates
moral distinctions.
3)
Natthika-ditthi (p): Đoạn kiến—Tin rằng không có kiếp sống nào sau kiếp
nầy, do đó chối bỏ mọi ý nghĩa đạo lý của nghiệp—Nihilism, which denies
the survival of the personality in any form after death, thus negating the
moral significance of deed.
(B) Cũng theo
Phật Giáo Nguyên Thủy, có mười loại tà kiến khác—Also according to the
Hinayana Buddhism, there are another ten kinds of wrong views:
1) Tin
rằng không có cái gì gọi là “để bát,” nghĩa là để bát cho chư Tăng Ni
không đem lại lợi ích gì: There is no such virtue and generosity. This
means that there is no good effect in giving alms.
2) Tin
rằng không có gì gọi là “cúng dường,” nghĩa là cúng dường cho chư Tăng Ni
không đem lại lợi ích gì: There is no such virtue as liberal alms-giving.
3) Tin
rằng không có gì gọi là “dâng tặng,” hay dâng tặng vật dụng đến chư Tăng
Ni không đem lại lợi ích gì: There is no such virtue as offering gifts to
guests. This means there is no effetc in such charitable actions.
4) Tin
rằng không có nhân quả, nghĩa là hành động thiện ác đều không gây hậu quả
nào: There is neither fruit, nor result of good or evil deeds.
5) Tin
rằng không có gì gọi là “thế gian nầy”: There is no such belief as “this
world.”
6) Tin
rằng không có gì gọi là “thế giới tới,” nghĩa là người sanh ở đây không
chấp nhận có tiền kiếp và kiếp vị lai: There is no such belief as “a world
beyond,” i.e. those born here do not accept a past existence, and those
living here do not accept future life.
7) Tin
rằng không có “mẹ”: There is no “mother.”
8) Tin
rằng không có “cha,” nghĩa là đối xử với cha mẹ thế nào cũng không có hậu
quả: There is no father, i.e. there is no effect in anything done to them.
9) Tin
rằng không có chúng sanh chết và tái sanh: There are no beings that died
and are reborn.
10) Tin rằng
không có những bậc tu sĩ xa lánh chốn phồn hoa đô hội để tìm nơi vắng vẻ
tham thiền nhập định, cũng như những bậc thiện tri thức, đức độ cao
thượng, đạo hạnh trang nghiêm đã chứng đạt đạo quả (chư Phật và A La Hán):
There are no righteous and well-disciplined recluses and brahmins who,
having realized by their own super-intellect this world and the world
beyond, make known the same (Buddhas and Arahants).
(III) Theo Kinh Ví Dụ Con Rắn trong Kinh Trung Bộ, Đức Phật dạy về người
có tà kiến như sau: “Đây là thế giới, đây là tự ngã, sau khi chết, tôi sẽ
thường còn, thường hằng, thường trú, không biến chuyển. Tôi sẽ trú như thế
này cho đến mãi mãi.”—According to the Simile of the Snake in the Middle
length Discourses of the Buddha, the Buddha taught about someone who has
the wrong views as follows: “This is self, this is the world; after death
I shall be permanent, everlasting, eternal, not subject to change; I shall
endure as long as eternity.”
(IV) Hai điều kiện cần thiết để thành lập nghiệp tà kiến—Two
things that are necessary to complete the evil of wrong
views:
1) Tánh
cách sai lầm trong lối nhìn sự vật: Perverted manner in which the object
is viewed.
2) Cố
chấp theo quan niệm sai lầm ấy: The understanding of it according to that
misconception.
(V) Những hậu
quả không thể tránh được của nghiệp tà kiến—The inevitable consequences of
false views:
1) Những
ham muốn thấp hèn: Base desire.
2) Kém
trí tuệ: Lack of wisdom.
3) Thiếu
thông minh: Dull wit.
4) Bệnh
hoạn kinh niên: Chronic diseases.
5) Tư
tưởng xấu xa đáng chê trách: Blameworthy ideas.
(VI)Không tà kiến—Having no wrong views: Theo Kinh Ví Dụ Con Rắn trong
Trung Bộ Kinh, Đức Phật đã dạy: “Người nào nghe Như Lai hay đệ tử Như Lai
thuyết pháp để bạt trừ tất cả kiến xứ, cố chấp, thiên chấp, thiên kiến,
tùy miên, sự tịnh chỉ mọi hành động, sự từ bỏ mọi sanh y, sự diệt trừ khát
ái để đưa đến ly tham, đoạn diệt, Niết Bàn. Vĩ ấy nghĩ rằng chắc chắn ta
sẽ bị đoạn diệt, chắc chắn ta sẽ bị hoại diệt, chắc chắn ta sẽ không tồn
tại. Vị ấy không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc; vị ấy không đấm
ngực, không đi đến bất tỉnh.”—According to the Simile of the Snake in the
Middle Length Discourses of the Buddha, the Buddha taught about someone
who does not have wrong views as follows: “Here Bhikkhus! Someone who
hears the Tathagata or a disciple of the Tathagata teaching the Dharma for
the elimination of all standpoints, decisions, obsessions, adherences, and
underlying tendencies, for the stilling of all formations, for the
relinquishing of all attachments, for the destruction of craving, for
dispassion, for cessation, for Nirvana. He thinks that he will be
annihilated, he will be perished; he will have no more sorrow, grieve, and
lament; he does not weep beating his breast and become distraught.”
***For more information, please see Ngũ Kiến Vi Tế and Thập Ác.
(VII) Những lời Phật dạy về “Tà Kiến” trong
Kinh Pháp Cú—The Buddha’s teachings on “Wrong views” in the Dharmapada
Sutra:
1) Không
đáng hổ lại hổ, việc đáng hổ lại không, cứ ôm tà kiến ấy, địa ngục khó
lánh xa—Those who embrace the wrong views, are ashamed of what is not
shameful, and are not ashamed of what is shameful, will not be able to
avoid the hell (Dharmapada 316).
2) Không
đáng sợ lại sợ, việc đáng sợ lại không, cứ ôm tà kiến ấy, địa ngục khó
lánh xa—Those who fear when they should not fear, and don’t fear in the
fearsome, embrace these false views, will not be able to avoid the hell
(Dharmapada 317).
3) Không
lỗi tưởng là lỗi, có lỗi lại tưởng không, cứ ôm tà kiến ấy, địa ngục khó
lánh xa—Those who perceive faults in the faultless, and see no wrong in
what is wrong; such men, embracing false doctrines, will not be able to
avoid the hell (Dharmapada 318).
Tà Kiến Thừa: Cỗ xe tà kiến—The
Vehicle of perverted views.
Tà Kiến Trù Lâm: Tà kiến có
muôn hình vạn trạng như cây rừng chằng chịt um tùm—The thickets of
heterodoxy.
Tà Kiến Võng: See Tà Võng.
Tà Lộ: Evil way.
Tà Ma: Maras—Evil spirit—Evil
demons and spirits.
Tà Ma Ngoại Đạo: Maras and
heretics.
Tà Mạn: Mithyamana (skt)—Không
tôn kính Tam Bảo, làm những việc quấy ác để được lợi mình. Ngã mạn trong
tà kiến và những việc làm xằng bậy—To hold to heterodox views and not to
reverence Triratna—Perverse or evil pride—Doing evil for
self-advancement—Vaunting lack of virtue for virtue—Pride in false views
or doings.
Tà Mệnh: Tỳ Kheo không khất
thực để tự sống như giới luật đã quy định mà sinh sống bằng phương cách tà
vạy, làm những nghề bị giới luật cấm. Một vị sư đi làm kiếm tiền, xem quẻ,
dùng tài để sinh sống, nịnh bợ, làm ảo thuật, xin ăn hay cầu được bố thí
cúng dường, vân vân—Heterodox or improper way to obtain a living on the
part of a monk by doing work by his hands, by astrology, his wits,
flattery, magic, etc.
** For more information,
please see Tứ Chủng
Tà Mệnh.
Tà Mệnh Thuyết Pháp: Thuyết
pháp lấy tiền kiếm sống là tà mệnh thuyết pháp—The heterodox way of
preaching or teaching, for the purpose of making a living.
Tà Mệnh Thực: See Tà Mệnh.
Tà Ngụy: Dishonest—False.
Tà Nhãn: Wicked eyes.
Tà Nịnh: Dishonest and
flattering.
Tà Pháp: Heterodoxy—False
doctrine or methods.
Tà Phiến: Quạt tà, dùng tà đạo
để kích động nhân tâm—Heterodox fanning, i.e. to influence people by flase
doctrine.
Tà Sơn:
1) Một
núi tà kiến: A mountain of error or heterodox ideas.
2) Tà
kiến lớn như một ngọn núi: Heterodox ideas are as great as a mountain.
Tà Tà:
1)
Slanting—Oblique—Inclined.
2) To be
slow.
Tà Tâm: Evil mind.
Tà Thuyết: False doctrine.
Tà Thuyết Pháp: Thuyết những
giáo pháp tà ngụy hoặc thuyết giảng Phật pháp kiếm tiền sinh sống—To
preach false doctrine—To preach or teach the Dharma for the purpose of
making a living.
Tà Tính Định: Tà Định—Tà Định
Tụ, một trong tam tụ—The accumulation of suffering to be endured in
purgatory by one of heterodox nature, one of the three accumulation.
Tà Trí: Evil wisdom.
Tà Tụ: Khổ đau chồng chất vì tà
kiến, một trong tam tụ—The accumulation of misery produced by false views,
one of the three accumulations.
Tà Tuần: Jhapita (skt)—Dùng lầm
lẫn cho từ “Trà Tỳ”—Being erroneously used to represent “Burial or
cremation.”
Tà Tư: Ham muốn hay dục vọng vị
kỷ—Depraved and selfish desires, lust.
Tà Tư Duy: Sự tư duy tà
vạy—Heterodox reflection or thought.
Tà Vạy: Crooked—Dishonest
Tà Vân: Đám mây tà kiến phủ
trùm Phật tánh trong tâm—Clouds of falsity or heterodoxy, which cover over
the Buddha-nature in the heart.
Tà Võng: Lưới tà hay tà kiến
đan bện vào nhau như như cái lưới—The net of heterodoxy, or falsity.
Tả:
1) Bên
trái: Left—The left hand.
2) Giả
dối: False.
3) Tuôn
ra: To purge—To drain.
4) Viết:
To write.
Tả Dược: Thuốc xổ—Purgatives.
Tả Đạo: False doctrine.
Tả Hữu: Left and right.
Tả Khê: Tso-Ch’i—Vị tổ thứ tám
của tông Thiên Thai, tên là Huyền Lang—The eighth T’ien-T’ai patriarch,
named Hsuan-Lang.
** For more information,
please see
Huyền Lang.
Tả Kinh: Chép kinh—To copy the
scriptures.
Tạ: Cảm ơn—To thank—To return
with thanks.
Tạ Giới: Cảm tạ (Tam Bảo) khi
thọ giới—To give thanks for being given the commandments, i.e. being
ordained.
Tạ Lỗi: See Tạ Tội.
Tạ Ơn: To express gratitude to
somone
Tạ Thế: To pass away—To die.
Tạ Tội: To apologize—To beg
pardon—To excuse oneself.
Tạ Từ: To thank and leave.
Tác:
1) Dây
gai: Cord.
2) Làm:
To make—To do—To act.
3) Sợ dây
mà Kim Cang Vương dùng để trói cột những kẻ ác: The cord or snoose of the
Vajra-King by which he binds the evil.
4) Sợi
dây mà Đức Quán Thế Âm dùng để nối kết những người thiện lại với nhau: The
cord or snoose of Kuan-Yin by which he binds the good.
Tác Ác: Làm việc ác—To do evil.
Tác Bình Thiên Tử: See Táo Bình
Thiên Tử.
Tác Chứng: Sacchikatabbo or
Sacchikatori (p)—Ngộ hay nhận rõ như thực—To realize—To be realized (Zen).
Tác Cử: Trong ngày tự tứ, mời
vị sư có đức độ trong Tăng chúng chủ trì, nêu rõ các tội mà vị Tỳ Kheo nào
đó phạm phải cho Tăng chúng biết—The accusation of sin made against
particular monk by the virtuous monk who presides at the pravarana
gathering on the last day of the summer’s rest.
Tác Dụng: Function—Activity.
Tác Động: To manifest.
Tác Gia: Vị tổ khai sáng, một
từ được dùng trong Thiền tông—Leader, founder, head of sect, a term used
by the Ch’an (Zen) or Intuitive school.
Tác Giả:
1) Người
viết hay người biên soạn: Author—Writer.
2) Tác
nhân của hành động: A doer, he who does things—Maker—Creator.
Tác Giới: Tên gọi khác của
“biểu sắc.” Tuân theo những giới luật để thành tựu thân khẩu bên ngoài
(những tác nghiệp của thân và khẩu khi thụ giới thì gọi là “tác giới.”
Những nghiệp thể thâu nhận vào bên trong thân thể thì gọi là “vô tác
giới”), đối lại với vô tác giới hay vô biểu sắc bên trong—Obedience to the
commandments, external fulfillment of them, in contrast with the inner
grace.
Tác Hại: To harm—To hurt—To
damage.
Tác Họa: To cause misfortunes.
Tác Hợp: To combine.
Tác Lễ: To pay one’s respect by
worship—To make an obeisance.
Tác Náo: To cause a stir.
Tác Nghiệp: Nghiệp được làm ra
bởi thân, khẩu, ý đều được rút ra trong kiếp tới—Karma produced (by action
of body, words, and thought, which educe the kernel of the next rebirth).
Tác Nguyện Môn: Thệ nguyện cứu
độ chúng sanh và hoàn thành bổn nguyện như là được sanh vào cõi Tịnh Độ
của Phật A Di Đà. Đây là đệ tam môn trong Ngũ Môn Tịnh Độ—To make a vow to
benefit self and others, and to fulfill the vow so as to be born in the
Pure Land of Amitabha. This is the third of the five doors or ways of
entering the Pure Land.
Tác Ngữ: See Tác Thoại.
Tác Nhân: Kartri (skt)—Nhân tố
tạo ra sự tác động—Agent.
Tác Pháp: Karma, which results
from action (the deeds of the body, mouth and mind)—To perform ceremony.
Tác Pháp Đắc: To receive
ceremonial ordination as a monk.
Tác Pháp Giới: The place of
assembly for ceremonial purpose.
Tác Phạm: Phạm tội bằng hành
động (hay phạm những giới mà mình đã thụ) như sát sanh, trộm cắp, vân vân
thì gọi là “tác phạm.”—Transgression sin by action, active sin, or
positive in doing evil such as killing, stealing, etc.
Tác Pháp:
1) Làm
lễ: To perform ceremonies.
2) Hậu
quả từ tạo tác nơi thân miệng: Karma, which results from action, i.e. the
“deeds” of body or mouth.
Tác Pháp Đắc: Thọ giới Yết Ma
phải có đầy đủ tam sư thất chứng (một hội đồng gồm ba vị Tăng cao tuổi hạ,
và bảy người khác có thể là chư Tăng hay những vị hộ trì Phật pháp lâu
năm)—To receive ceremonial ordination as a monk, with the witness of an
assembly of three senior monks, and seven other people, either monks or
senior lay people.
Tác Pháp Giới: Địa phận hay nơi
để nhiếp Tăng (thực hành theo pháp yết ma mà kết thành địa giới thì gọi là
“Tác Pháp Giới”)—The place of assembly for ceremonial purposes.
Tác Pháp Sám Hối: Một trong ba
loại sám hối (thân lễ bái, miệng xưng lời, ý suy nghĩ)—One of the three
kinds of monastic confession and repentance.
Tác Phẩm: Work (of a writer or
painter).
Tác Phật: Thành Phật, cắt đứt
mọi phiền não, hoàn thành giác ngộ và chấm dứt giai đoạn cuối cùng của Bồ
Tát—To become or be a Buddha (to cut off illusion, attain complete
enlightenment, and end the stage of Bodhisattva discipline).
Tác Phật Sự: Làm việc Phật sự
hay hành lễ theo nghi thức Phật giáo—To do the work of Buddha—To perform
Buddhist ceremony.
Tác Quyền: Copyright.
Tác Thành: To accomplish—To
combine.
Tác Thị Tư Duy Thời, Thập Phương Phật Giai
Hiện Tiền: Một khi đã có chánh tư duy thì mười phương chư Phật
đều hiện tiền—When establish the right thinking, the Buddhas of the ten
directions all appear.
Tác Thiện: Làm việc thiện như
tu hành, bố thí, vân vân—To do good (Worship, bestow alms, etc).
Tác Thoại: Express, expression
in words; forced statements, a demand or request, e.g. for information.
Tác Trì: Doing what is right
(worship, monastic life, etc).
Tác Trì Giới: Tích cực trì
giới (việc thiện vâng làm), đối lại với thụ động hay tiêu cực trì giới
(chỉ trì giới hay việc ác không làm) như không sát sanh, không trộm cắp,
vân vân—Active keeping of the commandments, active law in contrast with
passive, such as not killing, not stealing, etc.
Tác Văn: To write an essay.
Tác Ý: Manasikara
(p)—Cittotpada or Manaskara (skt).
1) Sự chú
ý của tâm: Attention-Attention of the mind.
2) Có
những tư tưởng dấy lên nơi tâm, có tác dụng mách cho tâm nương theo cái
cảnh sở duyên—To have the thought arise—Be aroused, beget the resolve.
Tạc: To engrave—To sculpture—To
carve.
Tạc Nhật: Hôm qua.
Tạc Nhật Thuyết Định Pháp, Kim Nhật Thuyết
Bất Định Pháp: Hôm qua thuyết về định pháp, hôm nay thuyết về
những ngoại lệ—Yesterday preaching an established rule, today preaching
and exception to the rule.
Tạc Tượng: To carve a statue.
Tách: To split—To separate.
Tai:
1) Lỗ
tai: Ear.
2) Tai
họa: Calamity.
Tai Biến:
Catastrophe—Disaster—Calamity.
Tai Hại: Damaging—Disastrous.
Tai Họa: Disaster—Terrible that
happens unexpectedly.
Tai Nạn: Accident.
Tai Nạn Bất Kỳ: Unfoerseen
accident.
Tai Thính: Quick ear.
Tai Tiếng: Bad reputation.
Tai To Mặt Lớn: Important or
distinguished person.
Tai Ương: Disaster.
Tái:
1)
Repeat—Again—The second time.
2)
Pale—White.
Tái Diễn: To happen again.
Tái Hồi: To see again.
Tái Lập: To set-up again—To
re-establish.
Tái Phạm: To repeat an
offence—To replase into a crime.
Tái Sanh: Rebirth—To be born
again—To come to life again—Reincarnation: Sự tái sanh là do hậu quả của
nghiệp. Theo niềm tin Phật giáo, không có sự đầu thai của một linh hồn hay
một chất nào từ một thân xác nầy đến một thân xác khác. Cái thực sự xãy ra
tiến trình tư tưởng chủ động của người sắp chết (Javana) phóng ra một số
lực thay đổi tùy theo sự thanh tịnh của năm chập tư tưởng trong loạt nầy.
Những lực nầy gọi là “năng lượng nghiệp” (Karma vega) tự nó lôi cuốn vào
lớp vật chất tạo ra bởi cha mẹ trong dạ con người mẹ. Uẩn vật chất trong
hợp chất phôi thai phải có những đặc tính khả dĩ có thể tiếp nhận loại
năng lượng nghiệp đặc biệt nầy. Sự lôi cuốn theo cách thức này của những
loại uẩn vật chất khác nhau tạo ra bởi cha mẹ xuất hiện do hoạt động của
cái chết và đem lại sự tái sinh thuận lợi cho người sắp chết. Một tư tưởng
bất thiện sẽ đưa đến một sự tái sanh không thuận lợi. Khi đầu thai, mỗi
mỗi chúng sanh đều có hình dáng xấu đẹp, sang hèn khác nhau, đó đều là do
các nghiệp nhân đã tạo ra khi còn mang thân tiền hữu cảm thành—Rebirth is
the result of karma. In Buddhist belief, there is no transmigration of
soul or any substance from one body to another. What really happens is
that the last active thought (Javana) process of dying man releases
certain forces which vary in accordance with the purity of the five
thought moments in that series. These forces are called karma vega or
karmic energy which attracts itself to a material layer produced by
parents in the mother's’womb. The material aggregates in this germinal
compound must possess such characteristics as are suitable for the
reception of that particular type of karmic energy. Attraction in this
manner of various types of physical aggregates produced by parents occurs
through the operation of death and gives a favourable rebirth to the dying
man. An unwholesome thought gives an unfavourable rebirth. Each and every
type of sentient being will have different appearance whether it be
beautiful or ugly, superior or inferior. This is determined and is
manifested based solely on the various karma sentient beings created while
alive with their antecedent bodies.
Tái Thế: To come to life
again—To be reborn.
Tái Vãng: The second time
(reincarnation).
Tài:
1) Tài
giỏi: Talent.
2) Tài
lợi: Vasu (skt)—Wealth—Riches.
Tài Ăn Nói: Talent for
speaking.
Tài Chủ: A wealthy (rich) man.
Tài Cúng Dường: Một trong ba
phép cúng dường một vị Phật, lấy của cải châu báu thế gian mà cúng dường
lên chư Phật—One of the three modes of serving a Buddha, offerings or
gifts of material goods—See Tam Cúng Dường.
Tài Danh: Talent and fame.
Tài Dục: Một trong năm tà
dục—One of the five wrong desires, the desire for wealth—See Ngũ Dục.
Tài Đức: Talent and virtue.
Tài Hoa: Genius.
Tài Khan: Tham xan bỏn
xẻn—Meanness—Stinginess.
Tài Liệu: Document.
Tài Lợi: Rich and interest.
Tài Lực: Talent and strength.
Tài Năng: Ability—Capability.
Tài Sắc: Tiền tài và sắc đẹp
của đàn bà—Wealthy and beauty (beauty of a woman).
Tài Thần: Kuvera (skt)—The god
of wealth.
Tài Thí: Dana (skt)—Lấy của
cải, quần áo, thức ăn, ruộng nương, nhà cửa, châu báu mà bố
thí—Almsgiving—Offering of goods—See Tài Cúng Dường, Tam Cúng Dường, and
Tam Bố Thí.
Tài Thí Cúng Dường: See Tài
Thí.
Tài tình: Skilful—Clever.
Tại: At—In—On—Present.
Tại Gia: Cư sĩ tại gia, chứ
không phải tu sĩ xuất gia—At home (a lay man or woman)—Not leaving home as
a monk or a nun—One who resides at home (in a family).
Tại Gia Nhị Giới: Hai giới tại
gia—Two kinds of commandments observed by the lay:
(A) Nhị
Giới Tiểu Thừa—Two kinds of commandments observed by the Hinayana
laypersons:
1) Tại
gia ngũ giới: Five commandments for the lay.
2) Tại
gia Bát quan Trai giới: Eight commandments for the lay.
(B) Thập
Thiện Cho Tại Gia Giới Đại Thừa—Commandments observed by the Mahayana
laypersons are ten good rules.
Tại Gia Trì Giới Xuất Gia: One
who is still at home, but observes the whole of a monk’s or nun’s rules.
Tại Gia Trì Thập Thiện (Sa Di Giới):
One who is still at home, but observes the ten good rules.
Tại Gia Xuất Gia:
1) Cư sĩ
và tu sĩ: Lay people and monks.
2) Vị cư
sĩ tại gia mà giữ cụ túc giới của một vị tăng hay Ni: One who while
remaining at home observes the whole of monk’s or nun’s rules.
Tại Lý Giáo: Tại Lý Giáo, thoát
thai từ Bạch Liên Xã, được thành lập tại tỉnh Sơn Đông vào đầu đời nhà
Thanh; danh hiệu “Lý” tự nó liên hợp ba tôn giáo lại với nhau, Khổng, Lão
và Phật; tín đồ của tông phái nầy không thờ hình tượng, không đốt nhang,
không hút thuốc, không uống rượu, và là những người trường chay—The
T’sai-Li secret society, an offshoot of the White Lily Society, was
founded in Shan-Tung at the beginning of the Ch’ing dynasty; the title :in
the Li” indicating that the society associated itself with all religions,
Confuciansim, Taoism, and Buddhism; its followers set up no image, burnt
no incense, neither smoke nor drank, and were vegetarian.
Tại Tại Thế Thế: In every
place.
Tại Tại Xứ Xứ: In every place.
Tại Tâm: In one’s heart.
Tại Thế:
1) Lúc
sanh thời: While alive.
2) Trên
thế giới: In the world.
3) Tam
Giới: Lokiya (p)—See Tam Giới.
Tại Tôi: Because of me.
Tại Triền: In bonds—See Tại
Triền Chân Như.
Tại Triền Chân Như: The
fettered bhutatathata—Lý chân như pháp tính ẩn trong phiền não triền
phược—The bhutatathata in limitations.
Tại Triền Như Lai: Tathagata in
bonds—See Tâm Pháp Thân.
Tại Tục: Trong trạng thái thế
tục—In and of the world—Unenlightened—In a lay condition.
Tại Vì: Because.
Tam: Tri or Traya (skt)—Three.
Tam A Tăng Kỳ Kiếp: Ba A Tăng
Kỳ kiếp—The three great asamhkyeya kalpas—The three timeless periods of a
bodhisattva’s progress to Buddhahood.
Tam Ác Đạo:
(A) Tam ác
thú—Three evil gati, or paths of transmigration—Three hardships or
sufferings in the three lower paths of transmigration:
1) Địa
ngục: The hells.
2) Ngạ
quỷ: The hungry ghosts.
3) Súc
sanh: The animals.
(B) Ấn Quang
Đại Sư khuyên người chuyên nhất niệm Phật cho tâm mình không còn tham
luyến chi đến việc trần lao bên ngoài. Đừng quên cái chết đang rình rập
bên mình chẳng biết xãy ra lúc nào. Nếu như không chuyên nhất niệm Phật
cầu sanh về Tây Phương, thì khi cái chết đến thình lình, chắc chắn là phải
bị đọa vào trong tam đồ ác đạo. Nơi đó phải chịu khổ có khi đến vô lượng
chư Phật ra đời hết rồi mà vẫn còn bị xoay lăn trong ác đạo, không được
thoát ly. Vì thế, hành giả lúc nào cũng phải nghĩ đến thân người mong
manh, cái chết thình lình. Đời trước và đời nầy đã tạo ra vô lượng vô biên
ác nghiệp, và luôn nghĩ đến sự khổ nơi tam đồ ác đạo đang đợi chúng ta, để
luôn tỉnh ngộ mà tâm không còn tham luyến chi đến các cảnh ngũ dục, lục
trần ở bên ngoài nữa: Great Master Ying-Kuang reminded Buddhist followers
to singlemindedly recite the Buddha’s name if they wish for their mind not
to be attaching and wandering to the external world. Do not forget that
death is lurking and hovering over us, it can strike us at any moment. If
we do not wholeheartedly concentrate to practice Buddha Recitation,
praying to gain rebirth to the Western Pureland, then if death should come
suddenly, we are certain to be condemned to the three unwholesome realms
where we must endure innumerable sufferings and sometime infinite Buddhas
have in turn appeared in the world, but we are still trapped in the evil
paths and unable to find liberation. Thus, cultivators should always
ponder the impermanence of a human life, while death could come at any
moment without warning. We should always think that we have committed
infinite and endles unwholesome karmas in our former life and this life,
and the sufferings awaiting for us in the unwholesome realms. Upon
thinking all these, we will be awakened in every moment, and we no longer
have greed and lust for the pleasures of the five desires and six elements
of the external world.
1) Nếu
như bị đọa vào địa ngục thì bị cảnh non đao, rừng kiếm, lò lửa, vạc dầu;
một ngày đêm sống chết đến vạn lần, sự đau khổ cùng cực không sao tả xiết:
If condemned to hell, then we will experience the torturous and agonizing
conditions of a moutain of swords, a forest of knives, stoves, frying
pans; in each day and night living and dying ten thousand times, the agony
of pain and suffering is inconceivable—See Núi Đạo, Rừng Kiếm, and Vạc
Dầu.
2) Nếu
như bị đọa vào ngạ quỷ thì thân mình xấu xa hôi hám. Bụng lớn như cái
trống, còn cổ họng thì nhỏ như cây kim; đói khát mà không ăn uống được.
Khi thấy thức ăn nước uống thì các vật ấy đều hóa thành ra than lửa, chịu
đói khát khổ sở, lăn lộn, khóc la trong muôn vạn kiếp: If condemned to the
path of hungry ghost, then the body is hideously ugly wreaking foul odors.
Stomach is large as a drum but neck is as small as a needle; though
starving and thirsty, the offenders cannot eat or drink. When seeing food
and drinks, these items transform into coals and fires. Thus, they must
endure the torture and suffering of famine and thirst, throwing, banging
their bodies against everything, crying out in pain and agony for tens and
thousands of kalpas.
3) Nếu
như bị đọa vào súc sanh thì bị nghiệp chở, kéo, nặng nề, bị người giết mà
ăn thịt, hoặc bị cảnh loài mạnh ăn loài yếu, hân tâm kinh sợ, khủng hoảng,
không lúc nào yên: If condemned to the animal realm, then they must endure
the karmic consequences of carrying and pulling heavy loads, get
slaughtered for food, or the strong prey on the weak, mind and body always
paranoid, frightened, and fearful of being eaten or killed, without having
any moment of peace.
Tam Ác Giác: The three evil
mental states:
1) Tham:
Desire.
2) Sân:
Hate—Anger.
3) Hại:
Malevolence.
Tam Ác Hạnh: Theo Kinh Trường
Bộ, Phúng Tụng Kinh, có ba ác hạnh—According to the Long Discourses of the
Buddha, there are three kinds of wrong conduct.
1) Thân
ác hạnh: Wrong conduct in body.
2) Khẩu
ác hạnh: Wrong conduct in speech.
3) Ý ác
hạnh: Wrong conduct in thought.
Tam Ái:
(I) Theo
Trường Bộ, Kinh Phúng Tụng, có ba loại ái—According to The Long Discourses
of the Buddha, there are three kinds of craving.
(A) Tam
ái—Three kinds of craving:
1) Dục
ái: Kama-tanha (skt)—Sensual craving.
2) Hữu
ái: Bhava-tanha (skt)—Craving for becoming.
3) Vô hữu
ái: Vibhava-tanha (skt)—Craving for extinction.
(B) Tam ái
khác—Three other kinds of craving:
1) Dục
ái: Kama-tanha (skt)—Craving for the world of Sense-Desire.
2) Sắc
ái: Rupa-tanha (skt)—Craving for the world of form.
3) Vô sắc
ái: Arupa-tanha (skt)—Craving for the formless world.
(C) Ba ái
khác nữa—Three other kinds of craving:
1) Sắc
ái: Craving for the world of form.
2) Vô sắc
ái: Craving for the formless world.
3) Diệt
ái: Craving for cessation.
(II) Three
kinds of love—See Nhuận Sinh.
Tam An Cư: The three months of
Summer Retreat.
Tam Ấn: Three signs (usually in
Hinayana sutras):
1) Vô
thường: Non-permanence.
2) Vô
ngã: Non-personality.
3) Niết
bàn: Nirvana.
Tam Ấn Nhứt: The three vehicles
(Hinayana Tiểu thừa, Madhyamayana Trung Thừa, Mahayana Đại thừa) are one.
The three lead to bodhisattvaship and Buddhahood for all.
Tam Báo: Three recompenses:
1) Hiện
báo: Immediate result—Quả báo ngay trong kiếp hiện tại, hay quả báo của
những hành động, lành hay dữ, ngay trong đời nầy—Recompeses in the present
life for deeds done now, or result that happens in this present life.
2) Sinh
báo: Future result—Hành động bây giờ mà đến đời sau mới chịu quả
báo—Recompenses in the next rebirth for deeds now done, or future result
which will happen in the next life.
3) Hậu
báo: Deffered result—Hậu báo là quả báo về lâu xa sau nầy mới
gặt—Recompenses in subsequent lives, or result that is deffered for some
time to come.
Tam Bảo: Nền móng trong Phật
Giáo là Tam Bảo. Không tin, không tôn kính Tam Bảo thì không thể nào có
được nếp sống Phật giáo—Three Precious Ones—Triple Jewel—Triple Gem
(Buddha, Dharma, Sangha)—The foundation of Buddhism is the Three
Treasures, without trust in which and reverence for there can be no
Buddhist religious life. There are three kinds of Triratna (three
Treasures):
(A) Nhất Thể
Tam Bảo—The Unified or one-body Three Treasures:
1) Phật
Tỳ Lô Giá Na: Sự biểu thị sự thể hiện của thế giới Tánh Không, của Phật
tánh, của tánh Bình Đẳng Vô Ngại: The Vairocana Buddha, representing the
realization of the world of Emptiness, of Buddha-nature, of unconditioned
Equality.
2) Pháp:
Pháp từ vô thỉ vô chung mà tất cả mọi hiện tượng theo nhân duyên tùy thuộc
vào đó: The Dharma that is the law of beginningless and endless becoming,
to which all phenomena are subject according to causes and conditions.
3) Sự hòa
hợp giữa Phật Tỳ Lô Giá Na và Pháp (hai yếu tố trên) tạo thành toàn bộ
thực tại như những bậc giác ngộ kinh nghiệm: The harmonious fusion of the
preceding two, which constitutes total reality as experienced by the
enlightened.
(B) Hiện
Tiền Tam Bảo—The Manifested Three Treasures:
1) Đức
Phật Lịch Sử Thích Ca Mâu Ni: Người đã thể hiện nơi chính mình sự thật của
Nhất Thể Tam Bảo qua sự thành tựu viên mãn của Ngài: The historic Buddha
Sakyamuni, who through his perfect enlightenment relaized in himself the
truth of the Unified Three Treasures.
2) Pháp:
Bao gồm những lời dạy và những bài thuyết pháp của Phật Thích Ca Mâu Ni
trong ấy đã giải rõ ý nghĩa của Nhất Thể Tam Bảo và con đường đi đến thể
hiện được nó: The Dharma, which comprises the spoken words and sermons of
Sakyamuni Buddha wherein he elucidated the significance of the Unified
Three Treasures and the way to its realization.
3) Những
môn đệ trực tiếp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni: Bao gồm luôn cả những đệ tử
trong thời Ngài còn tại thế, đã nghe, tin, và thực hiện nơi bản thân họ
Nhất Thể Tam Bảo mà Ngài đã chỉ dạy: Sakyamuni Buddha’s Disciples,
including the immediate disciples of the Buddha Sakyamuni and other
followers of his day who heard, believed, and made real in their own
bodies the Unified Three Treasures that he taught.
(C) Thọ Trì
Tam Bảo—The Abiding Three Treasures:
1) Phật
bảo: Sự thờ cúng hình tượng chư Phật như đã được truyền đến chúng ta: The
Buddha—The Supremely Enlightened Being. The iconography of Buddhas which
have come down to us.
2) Pháp
bảo: Bao gồm những bài giảng, bài thuyết pháp của chư Phật (tức là những
đấng giác ngộ viên mãn) như đã thấy trong các kinh điển và bản văn Phật
giáo khác vẫn được phát triển: The Dharma—The teaching imparted by the
Buddha. All written sermons and discourses of Buddhas (that is, fully
enlightened beings) as found in the sutras and other Buddhist texts still
extant.
3) Tăng
bảo: Bao gồm các môn đệ đương thời tu tập và thể hiện chân lý cứu độ của
Nhất Thể Tam Bảo đầu tiên được Phật Thích Ca Mâu Ni khai thị: The
Sangha—The congregation of monks and nuns or genuine Dharma followers.
Sangha consists of contemporary disciples who practice and realize the
saving truth of the Unified Three Treasures that was first revealed by
Sakyamuni Buddha.
(D) See Kinh
Tam Bảo in Appendix E.
Tam Bảo Phật: Phật Thích Ca là
ngôi thứ Nhất của Tam Bảo, thì pháp của Ngài là ngôi Hai, và Tăng đoàn là
ngôi Ba. Tất cả ba ngôi nầy được coi như là sự thị hiện của chư Phật—While
Sakyamuni Buddha is the first person of the Trinity, his Law the second,
and the Order the third, all three by some are accounted as manifestations
of the All-Buddha.
** For more information,
please see Tam Bảo.
Tam Bảo Sắc Tứ Tự: Tên của một
ngôi chùa tọa lạc trong thị xã Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang, Nam Việt Nam.
Chùa được xây vào đầu thế kỷ thứ 19. Khi Chúa Nguyễn Ánh lên ngôi, chùa đã
được sắc phong là Sắc Tứ Tam Bảo Tự. Nguyên thủy chùa chỉ làm bằng gỗ, mái
lợp tranh, do bà Dương Thị Cán dựng lên để làm nơi tu trì. Ngôi chùa hiện
tại là do Hòa Thượng Chí Thiền xây dựng lại năm 1917—Name of a temple,
located in Rạch Giá town, Kiên Giang province, South Vietnam. The temple
was built in early nineteenth century. When Lord Nguyễn Ánh ascended the
throne, the temple was offered the royal proclamation. At first the temple
was made of wood and thatched roof, was a place for Ms. Dương Thị Cán
stayed and worshipped Buddhism. The present temple was rebuilt by Most
Venerable Chí Thiền in 1917.
Tam Bảo Tương Hệ Tương Tùy: Một
người không nhận ra Nhất Thể Tam Bảo thì không thể nào hiểu sâu ý nghĩa sự
giác ngộ của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, không thể đánh giá sự quý báu vô
cùng của những lời Ngài dạy, cũng như không thể ấp ủ hình ảnh chư Phật như
những thực thể sinh động. Lại nữa, Nhất Thể Tam Bảo sẽ không được biết đến
nếu nó không được Phật Thích Ca Mâu Ni thể hiện nơi thân tâm Ngài và con
đường thể hiện do Ngài triển khai cũng vậy. Cuối cùng, không có những
người giác ngộ theo con đường của Phật trong thời đại chúng ta khích lệ và
dẫn dắt người khác theo con đường Tự Ngộ nầy thì Nhất Thể Tam Bảo chỉ là
một lý tưởng xa xôi. Câu chuyện lịch sử cuộc đời Đức Phật Thích Ca sẽ là
câu chuyện lịch sử khô héo về những lời Phật dạy, hoặc sẽ là những chuyện
trừu tượng vô hồn. Hơn nữa, khi mỗi chúng ta thể hiện Nhất Thể Tam Bảo,
thì nền móng của Tam Bảo không gì khác hơn chính tự tánh của mình—The
Three Treasures are mutually related and interindependent. One unrealized
in the Unified Three Treasures can neither comprehend in depth the import
of Sakyamuni Buddha’s enlightenment, nor appreciate the infinite
preciousness of his teachings, nor cherish as living images and pictures
of Buddhas. Again, the Unified Three Treasures would be unknown had not it
been made manifest by Sakyamuni in his own body and mind and the Way to
its realization expounded by him. Lastly, without enlightened followers of
the Buddhas’ Way in our own time to inspire and lead others along this
Path to Self-realization, the Unified Three Treasures would be a remote
ideal, the saga of Sakyamuni’s life desiccated history, and the Buddhas’
words lifeless abstractions. More, as each of us embodies the Unified
Three Treasures, the foundation of the Three Treasures is none other than
one’s own self.
Tam Bát Nhã: The three prajnas
or perfect enlightenments:
1) Thực
tướng Bát nhã: Wisdom in its essence or reality.
2) Quán
chiếu Bát nhã: The wisdom of perceiving the real meaning of all things.
3) Phương
tiện Bát nhã: The wisdom of knowing things in their temporal and changing
condition.
** For more information,
please see Bát Nhã.
Tam Bất Dị: Three non-easy
things—Three reasons why the text should not be changed.
Tam Bất Hộ: Ba thứ không cần
phải bảo hộ—The three that need no guarding because they are above error.
They are Buddha’s body, mouth and mind.
Tam Bất Kiên Pháp: Three
unstable things:
1) Thân:
The body.
2) Mạng:
The length of life.
3) Tài:
Wealth.
Tam Bất Thiện Căn: Theo Kinh
Trường Bộ, Phúng Tụng Kinh, có ba bất thiện căn—According to the Long
Discourses of the Buddha, Sangiti Sutra, there are three bad (unwholesome)
roots or qualities:
1) Tham
Bất Thiện Căn: The unwholesome root of Greed or Desire.
2) Sân
Bất Thiện Căn: The unwholesome root of Anger or Hatred.
3) Si Bất
Thiện Căn: The unwholesome root of Stupidity, or Ignorance, or Delusion.
Tam Bất Thiện Giới: Theo Trường
Bộ, Kinh Phúng Tụng, có ba loại bất thiện giới—According to The Long
Discourses of the Buddha, Sangiti Sutra, there are three kinds of
unwholesome elements.
1) Dục
giới: The unwholesome element of sensuality.
2) Sân
giới: The unwholesome element of enmity.
3) Hại
giới: The unwholesome element of cruelty.
Tam Bất Thiện Nghiệp Môn: Theo
A Tỳ Đạt Ma Luận (Vi Diệu Pháp), có ba cửa gây ra bất thiện
nghiệp—According to the Abhidharma, there are three doors of unwholesome
kamma:
1) Cửa
Thân: The door of bodily action.
i) Sát
Sanh: Killing.
ii) Trộm
Cắp: Stealing.
iii) Tà
Dâm: Sexual misconduct.
2) Cửa
Khẩu: The door of verbal action.
i) Nói
Dối: False speech.
ii) Nói
Đâm Thọc: Slandering.
iii) Nói
lời Thô Lỗ: Harsh speech.
iv) Nói
Nhảm Nhí: Frivolous talk.
3) Cửa Ý:
The door of mental action.
i) Tham
Ái: Covetousness.
ii) Sân
Hận: Ill-will.
iii) Tà
Kiến: Wrong views.
Tam Bất Thiện Tầm:
Akusala-vitakka (skt)—Theo Trường Bộ, Kinh Phúng Tụng, có ba thức suy nghĩ
thiện—According to The Long Discourses of the Buddha, Sangiti Sutra, there
are three kinds of unwholesome investigation.
1) Dục
tầm: Kama-vitakko (skt)—The unwholesome investigation of sensuality.
2) Sân
tầm: Vyapada-vitakko (skt)—The unwholesome investigation of enmity.
3) Hại
tầm: Vihimsa-vitakko (skt)—The unwholesome investigation of cruelty.
Tam Bất Thiện Tư Duy: Theo
Trường Bộ, Kinh Phúng Tụng, có ba loại thiện tư duy—According to The Long
Discourses of the Buddha, Sangiti Sutra, there are three kinds of
unwholesome thought.
1) Dục tư
duy: The unwholesome thought of sensuality.
2) Sân tư
duy: The unwholesome of enmity.
3) Hại tư
duy: The unwholesome of cruelty.
Tam Bất Thiện Tưởng: Theo
Trường Bộ, Kinh Phúng Tụng, có ba loại bất thiện tưởng—According to The
Long Discourses of the Buddha, Sangiti Sutra, there are three kinds of
unwholesome perception.
1) Dục
tưởng: The unwholesome perception of sensuality.
2) Sân
tưởng: The unwholesome perception of enmity.
3) Hại
tưởng: The unwholesome perception of cruelty.
Tam Bất Thối Chuyển: The three
non-backslidings—Three kinds of non-retreat:
1) Vị bất
thối: Không thối chuyển từ chỗ đã đạt: From position attained—Non-retreat
from position—Never receding from position attained.
2) Hạnh
bất thối: Không thối chuyển từ những hành động thiện lành đang theo đuổi:
From line of good action pursued—Non-retreat from practice—Never receding
from a right course of action.
3) Niệm
bất thối: Không thối chuyển trong thiền định: In dhyana—Non-retreat from
mindfulness—Never receding from pursuing a right line of thought or mental
discipline.
Tam Bất Tịnh Nhục: Three kinds
of unclean flesh to a monk:
1) Mắt
thấy giết: When he has seen the animal killed.
2) Tai
nghe giết: When he has heard the animal killed.
3) Ngờ là
người giết vì mình: When he has doubted that the animal killed to offer
to him.
Tam Bí Mật: See Tam Mật.
Tam Bình Đẳng: Tâm, Phật, chúng
sanh là một—Mind, Buddha and the living are one and universal.
Tam Bịnh: The three ailments:
(A)
1) Tham:
Lust—Craving—Greed—For which the meditation on uncleanness (Quán thân bất
tịnh) is the remedy.
2) Sân:
Anger—Hate—Ire—For which the meditation on kindness (từ) and pity (bi) is
the remedy.
3) Si:
Stupidity—Ignorance—Unwilling to learn the truth—For which the meditation
on causality (Nhơn duyên) is the remedy.
(B)
1) Hủy
báng Đại Thừa: Slander of Mahayana.
2) Phạm
tội Ngũ nghịch: Commit the five gross sins (Xem Ngũ nghịch).
3) Tu
theo ngoại đạo: To practice outsider or heathen doctrine.
Tam Bố Thí: Three kinds of dana
or charity:
1) Tài
Thí: Tài thí gồm có ngoại tài (tiền bạc, vật chất) và nội tài thí (mắt,
tai, óc, v.v.)—Giving of goods includes outward (money, materials) and
inward giving (eyes, ears, brain, etc).
2) Pháp
Thí: Nói pháp giảng kinh hóa độ quần sanh—Giving of the doctrine—Giving of
the dharma to preach or to speak Dharma to save sentient beings.
3 Vô Úy
Thí: Abhaya—Khi thấy ai sợ sệt, hay đang trong cơn nguy hiểm, mà mình có
thể an ủi vỗ về, hay đem sự vô úy không sợ hãi lại cho người, là vô úy
thí—Giving of courage or fearlessness—Whenever we find someone who is
frightened or encountered some difficult circumstances, we try to comfort.
Tam Bồ Đề: Sambodhi—The
insight, wisdom and assimilation of truth essential to the higher
attainment of Arhatship.
Tam Bộ Nhứt Bái: Three steps
one bow.
Tam Cảnh: Theo Pháp Tướng Tông,
đối tượng của thế giới bên ngoài in hình bóng vào tâm thức gồm có ba loại
cảnh. Theo Giáo Sư Junjiro Takakusu trong Cương Yếu Triết Học Phật Giáo,
thì thuyết về ba loại cảnh có thể là xuất xứ từ Na Lan Đà. Những bài kệ
thông dụng của Pháp Tướng Tông lại hầu như có nguồn gốc từ Trung Hoa, như
sau: “Tâm cảnh bất tùy tâm. Độc ảnh duy tùy kiến. Đái chất thông tình bản.
Tánh chủng đẳng tùy ưng.” Bài kệ nầy giải thích bằng cách nào mà ba loại
cảnh liên hệ với nhiệm vụ chủ thể và bản chất nguyên bản ngoại tại. Bạn có
thể điên đầu trong khi tìm hiểu vì sao Duy Thức Học lại có cái gọi là
“thực thể nguyên bản.” Thực ra, đừng quên rằng mặc dù nó là thực thể ngoại
tại, nó lại là cái biểu lộ ra ngoài từ nơi thức. Đệ bát A Lại Da thức tự
nó không phải là thực thể cố định không thay đổi; nó luôn luôn biến chuyển
từng sát na, và được huân tập hay ghi nhận ấn tượng bằng tri nhận và hành
động, nó trở thành tập quán và hiệu quả trong sự biểu lộ ngoại tại. Nó
giống như dòng nước chảy không bao giờ dừng lại ở một nơi nào trong hai
thời hạn tiếp nối nhau. Và chỉ duy có dựa vào sự liên tục của dòng nước ta
mới có thể nói về “dòng sông”—According to the Dharmalaksana, the objects
of the outer world (visaya), which throw shadows on the mind-face are of
three kinds. The theory of three kinds of the object-domain may have
originated from Nalanda, but the four-line memorial verse current in the
school is probably of Chinese origin. It runs as follow: “The object of
nature does not follow the mind (subjective). The
subject may be good or evil, but the object is
always neutral. The mere shadow only
follows the seeing (subjective). The object
is as the subject imagines. The object with the
original substance. The character, seed,
etc, are various as occasions require. The
object has an original substance, but the
subject does not see it as it is.”
This four-line verse
explains how the three kinds of the object-domain are related to the
subjective function and the outer original substance. One may be puzzled
in understanding how an idealism can have the so-called original
substance. We should not forget that though it is an outer substance it is
after all a thing manifested out of ideation. The eighth, the
Alaya-consciousness itself, is not an unchangeable fixed substance
(dravya), but is itself ever changing instantaneously (ksanika) and
repeatedly; and, being ‘perfumed’ or having impressions made upon it by
cognition and action, it becomes habituated and efficient in
manifestation. It is like a current of water which never stops at one
place for two consecutive moments. It is only with reference to the
continuity of the stream that we can speak of a river. Let examine these
three kinds of object-domain:
1) Tánh
Cảnh: Tri nhận tức thời, nghĩa là đối tượng có bản chất nguyên bản và
trình bày nó như là chính nó, cũng như năm đối tượng giác quan, sắc,
thinh, hương, vị, xúc, được tri nhận như vậy. Tiền ngũ thức và đệ bát A
Lại Da thức, tri nhận đối tượng theo cách nầy—The object domain of nature
or immediate perception, i.e., the object that has the original substance
and presents it as it is, just as the five objects of the sense, form,
sound, smell, taste and touch, are perceived as they are. The first five
sense-consciousnesses and the eighth, the store-consciousness, perceive
the object in this way.
2) Độc
Ảnh Cảnh: Hay là ảo giác. Hình bóng chỉ xuất hiện tự nơi tưởng tượng và
không có hiện hữu thực sự. Lẽ dĩ nhiên, nó không có bản chất nguyên bản,
như một bóng ma vốn không có hiện hữu. Chỉ có trung tâm giác quan thứ sáu
hoạt động và tưởng tượng ra loại cảnh nầy—The object-domain of mere shadow
or illusion. The shadow-image appears simply from one’s own imagination
and has no real existence. Of course, it has no original substance as a
ghost which which does not exist at all. Only the six sense-center,
functions on it and imagines it to be.
3) Đối
Chất Cảnh: Đối tượng có một bản chất nguyên bản nhưng lại không được tri
nhận đúng y như vậy. Khi đệ thất Mạt Na Thức nhìn lại nhiệm vụ chủ thể của
đệ bát A Lại Da Thức, nó xem thức nầy như là ngã. Nhiệm vụ chủ thể của A
Lại Da đệ bát thức có bản chất nguyên bản, nhưng nó không được đệ thất Mạt
Na Thức nhìn thấy y như vậy, và chỉ được xem như là ngã, mà thực tại thì
chỉ là ảo giác vì nó không phải là ngã—The object-domain with the
original substance. The object has an original substance and yet is not
perceived as it is. When the seventh, the thought-center, looks at the
subjective function of the eighth, the store-center, it considers that it
is self or ego. The subjective function of the eighth, the store-center,
has its original substance or entity, but it is not seen as it is by the
seventh consciousness and is regarded to be self or an abiding ego, which
is in reality an illusion since it is not self at all.
Tam Căn: Three cultivated
levels—Mỗi căn trong lục căn đều có ba khả năng khác nhau—Each of the six
organs has three different powers:
1) Thượng
Căn: Clever (high).
2) Trung
Căn: Middle capacity (intermediate).
3) Độn
căn: Dull (low).
Tam Cấu Nhiễm: Tam Độc—Theo
Tương Ưng Bộ Kinh, Phẩm Tầm Cầu, có ba Cấu Nhiễm—According to The
Connected Discourses of the Buddha, Chapter Esanavaggo (Searches), there
are three defilers or stains:
1) Tham
Cấu Nhiễm: Desire—Greed—The stain of lust.
2) Sân
Cấu Nhiễm: Anger—Ire—The stain of hatred.
3) Si Cấu
Nhiễm: Stupidity—Ignorance—The stain of delusion.
Tam Chân Như: Three aspects of
Bhutatathata:
(A)
1) Vô
tướng: Without form—Above the limitation of form.
2) Vô
sinh: Without creation—Above the limit of creation.
3) Vô
tánh: Without nature (soul)—Above the limit of a soul.
(B)
1) Thiện
pháp chân như: The bhutathatata as good.
2) Bất
thiện pháp chân như: The bhutathatata as evil.
3) Vô ký
pháp chân như: The bhutathatata as neither good nor evil.
**For more information,
please see Chân Như.
Tam Chấp Thủ: Three
attachments—Theo Giáo Sư Junjiro Takakusu trong Cương Yếu Triết Học Phật
Giáo, để chứng ngộ Nhất Thiết Không, người ta phải lìa bỏ ba sự chấp
thủ—According to Prof. Junjiro Takakusu in the Essentials of Buddhist
Philosophy, to realize Total-Voidness, one must do away with the three
attachments.
1) Chấp
thủ vào giả Danh Tâm—Attachment to the temporary name: Vạn hữu và vạn vật,
vì hiện hữu như là sự kết hợp của những nhân quả được liệt vào giả danh
bởi vì không có cách nào để chỉ định hiện hữu biến chuyển của nó ngoại trừ
bằng tên gọi. Ta phải nhận ra rằng thật vô dụng khi bám chặt vào một tự
ngã mà thực sự nó chỉ là một tên gọi. Trước hết chúng ta phải từ bỏ sự
chấp thủ vào giả danh của mình—All beings and things, since they exist as
the combination of causations, are given temporary names, beause there is
no way to designate changing existence except by name. One must realize
that it is useless to be attached to a self which is in truth only an
appellation. One must first get rid of this attachment to one’s temporary
name.
2) Chấp
thủ vào Pháp Tâm—Attachment to all elements: Các pháp là nền tảng mà tên
giả danh khởi lên. Từ bỏ sự chấp thủ vào các pháp là chúng ta phải chứng
nhập không tánh như trên—The elements are the basis on which the temporary
name arises. To be rid of the attachment to the elements is to realize
their voidness.
3) Chấp
thủ vào Không Tâm—Attachment to the Void itself: Khi chúng ta chứng ngộ
không tánh của Ngã và Pháp, chúng ta tưởng chừng đã có thể đạt được Nhất
Thiết Không; kỳ thật, chúng ta vẫn còn có ý thức về Không chẳng khác gì
như có một sự thể nào đó đang hiện hữu. Không tâm nầy có thể xóa bỏ khi
người ta đi vào Diệt Tận Định (Nirodha-samapatti) hay vào Niết Bàn viên
mãn. Diệt tận Định, như ở nơi vị A La Hán, là một trạng thái trong đó tất
cả những tham dục đều bị xả ly; và Niết Bàn viên mãn, như ở trường hợp
của Đức Phật, là trạng thái trong đó tất cả những điều kiện của sự sống,
tâm và vật, đều bị diệt tận bằng sự giác ngộ, giống như bóng tối bị tiêu
diệt bởi ánh sáng; bởi vì Đức Phật đã đạt đến trạng thái Niết Bàn viên
mãn, nơi đây không còn những phẩm tánh phân biệt, và siêu viêu việt cả “Tứ
Cú.”—When as above, we have realized the voidness of both the individual
self and of the elements, we may sem to have attained Total Voidness, but
the truth there still remains the consciousness of the Void, and we are
liable to be attached to the idea of the Void as much as if it were
something existent. This void-consciousness can be removed when one enters
into the Meditation of Extinction (nirodha-samapatti or into Perfect
Nirvana. The former is, as in an Arhat, a state in which all passions we
have been done away with, and the later is as in the case of the Buddha,
the state in which all conditions of life, matter and mind, have been
extinguished by virtue of Enlightenment as darkness is extinguished by
light, because the Buddha had attained the state of Perfect Nirvana which
is in itself devoid of any extinguishing qualities and he had transcended
the “four arhument.
Tam Chiếu: So sánh giáo pháp
nhà Phật với ba ánh chiếu của mặt trời; một là ánh mặt trời trên đỉnh đồi,
sau đó là ánh chiếu trong thung lũng và cuối cùng là ánh chiếu trên vùng
đồng bằng. Đức Phật thuyết giảng Hoa nghiêm để chuyển hóa các đệ tử thành
Bồ tát; sau đó Ngài giảng Tiểu thừa cho hàng Thanh văn Duyên giác trong
vườn Lâm Tỳ Ni, và sau cùng Ngài thuyết giảng Phương Đẳng và Niết Bàn cho
chúng sanh mọi loài—The Buddha’s teachings compare to the three shinings
of the sun; the sun first shining on the hill-tops, then the valleys and
plains. The Buddha first preached Avatamsaka sutra (Kinh Hoa Nghiêm)
transforming his chief disciples into bodhisattvas; second he preached
Hinayana sutras to sravaskas and Pratyeka-buddhas in the Limbini garden;
third he preached Vaipulya (Phương Đẳng) and Nirvana for all the living.
Tam Chủng: Three kinds, sorts,
classes or categories.
Tam Chủng Ba La Mật: Ba loại Ba
La Mật—Three kinds of Paramitas. Trong Kinh Lăng Già, Đức Phật đưa ra ba
loại Ba La Mật—In the Lankavatara Sutra, the Buddha gave three kinds of
Paramitas:
1) Xuất
thế gian thượng thượng Ba La Mật—Paramitas of the supreme ones of
Bodhisattvas, relating to the future life for all: Các loại Ba La Mật siêu
thế gian trong ý nghĩa cao nhất được thực hành bởi một vị Bồ Tát hiểu rằng
thế giới được quan niệm một cách nhị biên do bởi cái tâm phân biệt và vị
ấy thoát khỏi những tưởng tượng sai lầm và những ràng buộc hư vọng như
tâm, hình tưởng, đặc tính, vân vân. Vị ấy thực hành đức hạnh bố thí chỉ
nhằm làm lợi cho tất cả chúng sanh hữu tình và đưa họ đến trạng thái tâm
linh hạnh phúc. Vị ấy thực hành trì giới mà không ra bất cứ điều kiện hay
sự ràng buộc nào, ấy là trì giới Ba La Mật của một vị Bồ Tát. Vị ấy biết
được sự khác biệt giữa chủ thể và đối tượng, nhưng vẫn yên lặng chấp nhận
mà không khởi lên bất cứ ý nghĩ nào về sự gắn bó hay tách rời nào, đó
chính là nhẫn nhục Ba La Mật của một vị Bồ Tát. Vị ấy tu tập một cách mạnh
mẽ suốt ngày suốt đêm, hòa mình theo mọi đòi hỏi của kỹ luật mà không khởi
lên cái tâm phân biệt nào, đó chính là tinh tấn Ba La Mật. Vị ấy không
chấp vào kiến giải về Niết Bàn của các triết gia và thoát khỏi mọi sự
phân biệt, đó chính là Thiền định Ba La Mật. Còn về Bát Nhã Ba La Mật, vị
ấy không sanh tâm phân biệt bên trong mình, không nhìn thế giới bằng bất
cứ loại hiểu biết hay phân tách nào, không rơi vào nhị biên mà gây nên sự
chuyển biến từ căn bản của tâm thức. Đó là không đoạn diệt sự vận hành của
nghiệp trong quá khứ, mà cố gắng tu tập để tạo ra một trạng thái tự
chứng—The Paramita that are super-worldly in the highest sense are
practiced by a Bodhisattva who understands that the world is dualistically
conceived, because of the discriminating mind, and who is detached from
erroneous imaginations and wrong attachments of all kinds, such as mind,
form, characters, etc. He would practice the virtue of charity solely to
benefit sentient beings and to lead them a a blissful state of mind. To
practice morality without forming any attachment to condition in which he
binds himself, this is his sila-paramita. Knowing the distinction between
subject and object, and yet quietly to accept it without waking any sense
of attachment or detachment, this is the Bodhisattva’s Kshanti-paramita.
To exercise himself most intently throughout the day and night, to conform
himself to all the requirements of discipline, and not to evoke a
discriminating mind, this is his Vyria-paramita. Not to cling to the
philosopher’s view of Nirvana and to be free from discrimination, this is
his Dhyana-paramita. As to Prajna-paramita, it is not to evoke a
discriminating mind within oneself, nor to review the world with any kind
of analytical understanding, not to fall into dualism, but to cause a
turning at the basis of consciousness. It is not to destroy the working of
a past karma, but to exert oneself in the exercise of bringing about a
state of self-realization, this is Prajna-paramita.
2) Xuất
thế gian Ba La Mật—Paramitas for Sravakas and Pratyeka-buddhas relating to
the future life for themselves: Loại Ba La Mật siêu thế gian được chư
Thanh Văn và Duyên Giác thực hành. Chư vị nầy chấp vào ý niệm về Niết Bàn
và quyết đạt cho được Niết Bàn bằng mọi giá. Họ cũng giống như người thế
gian bị ràng buộc vào sự hưởng thụ quy ngã—The super-worldly kind of
paramitas is practiced by Sravakas and Pratyekabuddhas who, clinging to
the idea of Nirvana, are determined to attain it at all costs; they are
like the worldly people who are attached to the enjoyment of egotism.
3) Thế
gian Ba La Mật—Paramitas for people in general relating to this world:
Loại thế gian Ba La Mật được thực hành bởi những người thế gian tầm
thường, thường chấp vào ý niệm về “ngã” và “ngã sở;” họ không thể vùng
thoát khỏi những ràng buộc nhị biên như hữu và phi hữu, và tất cả những
đức hạnh mà họ thực hành đều được đặt căn bản trên ý niệm đạt một cái gì
đó có tính cách vật chất như là một sự đền đáp lại. Họ có thể đạt được một
số khả năng tâm linh nào đó và sau khi chết được sanh vào cõi Trời của
Phạm Thiên—The worldly kind of paramitas is practiced by worldly people
who cling to the idea of an ego and what belongs to it; they are unable to
shake themselves off the fetters of dualism such as being and non-being,
and all the virtues they would practice are based on the idea of gaining
something material as a reward. They may gain certain psychic powers and
after death be born in the heaven of Brahma.
Tam Chủng Bố Thí: Ba loại bố
thí—Three kinds of dana or charity—See Tam Bố Thí.
Tam Chủng Bồ Đề: Three kinds of
bodhi.
(A)
1) Thanh
Văn Bồ Đề: Bồ Đề mà hàng Thanh Văn đạt được—The enlightenment of sravakas.
2) Duyên
Giác Bồ Đề: Bồ Đề mà hàng Duyên Giác đạt được—The enlightenment of
Pratyeka-buddhas.
3) Phật
Bồ Đề: Bồ Đề mà Phật đạt được—The enlightenment of Buddhas.
(B)
1) Hành
nguyện Bồ Đề Tâm: To start out for bodhi-mind to act out one’s vows to
save all living beings—See Hành Nguyện Bồ Đề Tâm.
2) Thắng
Nghĩa Bồ Đề Tâm: Bodhi-mind which is beyond description, and which
surpasses mere earthly ideas—See Thắng Nghĩa Bồ Đề Tâm.
3) Tam Ma
Địa Bồ Đề Tâm: Samadhi-bodhi mind—See Tam Ma Địa Bồ Đề Tâm.
Tam Chủng Cảnh A Lại Da Thức:
See A Lại Da Thức Tam Chủng Cảnh.
Tam Chủng Chấp Thủ: See Tam
Chấp Thủ.
Tam Chủng Chỉ Quán: Ba loại chỉ
quán—Three modes of entering dhyana (three methods of attaining
abstraction):
1) Tiệm
Thứ Chỉ Quán: Trước cạn sau sâu, trước đơn giản sau phức tạp, chẳng hạn
như trụ tâm tại đỉnh mũi hay rốn, vân vân—Gradual, from the shallow to the
deep, from the simple to the complex, such as fixing the mind on the nose,
or navel, etc.
2) Bất
Định Chỉ Quán: Đơn giản và phức tạp dung hòa lẫn nhau, chẳng hạn như ngừng
sự suy nghĩ khi nó vừa khởi lên—Irregular, simple and complex mixed, such
as stopping every thought as it arises.
3) Viên
Đốn Chỉ Quán: Tức thì và toàn diện, nghĩa là trước và sau không khác, trụ
tư tưởng vào chỗ không có gì tự hiện hữu, mà hiện hữu do nhân từ
trước—Immediate and whole, such as dwelling on the thought that nothing
exists of itself, but from a preceding cause.
Tam Chủng Cúng Dường: Ba loại
cúng dường—The three kinds of offerings—See Tam Cúng Dường.
Tam Chủng Dục: Three kinds of
desire—See Tam dục.
Tam Chủng Đà La Ni: Three kinds
of Dharani—See Tam Đà La Ni.
Tam Chủng Đại Trí: Ba loại đại
trí—Three kinds of major wisdom:
1) Tự đạt
trí: Self-acquired, no master needed.
2) Tự
tánh trí: Unacquired or natural.
3) Phổ
trí: Trí hiểu biết rộng lớn nhờ tu tập thiền định—Universal mind through
practicing medtiation.
Tam Chủng Địa Ngục: Three kinds
of hells:
1) Nhiệt
địa ngục: Hot hells.
2) Hàn
địa ngục: Cold hells.
3) Cô độc
địa ngục: Solitary hells.
** See Địa Ngục.
Tam Chủng Đoạn: Three kinds of
cutting-off, excision or bringing to an end (Uccheda)—See Tam Đoạn.
Tam Chủng Giáo Tướng: See Tam
Giáo Tướng.
Tam Chủng Hiện Hữu: Theo quan
niệm Phật Giáo, vạn hữu sinh khởi do tâm, và chỉ có tâm mà thôi. Nhứt là
trong học thức “Duy Thức,” cái mà chúng ta gọi là hiện hữu nó tiến hành từ
thức mà ra. Theo Duy Thức Tông, mọi vật hiện hữu được xếp tùy theo bản
tánh của nó vào ba loại—According to the Buddhist idea, all things are
born from mind and consist of mind only. Especially in the idealistic
theory, what we generally call existence proceeds from consciousness.
According to the Mind-Only School, everything that exists is classified as
to the nature of its origin into three species:
1) Vọng
Hữu Tánh: Parikalpita-laksana (skt)—Còn được gọi là “Biến Kế Sở Chấp
Tánh.” Những hiện hữu không thật vốn đồng thời không có một bản thể, như
ma quỷ chỉ hiện hữu trong sự tưởng tượng của con người chứ không có trong
thực tại—False existence, also called “Character of Sole Imagination.”
Those of false existence which are at the same time bereft of an original
substance (adravya), just like a ghost that exists merely in one’s
imagination but not in reality.
2) Giả
Hữu Tánh: Paratantra-laksana (skt)—Còn được gọi là “Y Tha Khởi Tánh.”
Những hữu thể giả tạm hay nhất thời không có tánh thường tại, như căn nhà
được dựng bằng gỗ, gạch, ngói, vân vân. Nó chỉ hiện hữu bằng một tràng
tổng hợp những nhân duyên và không tự hữu. Nó không có thực tại thường
tồn—Temporary or transitory existence, also called “Character of
Dependence upon others.” Those of temporary or transitory existence,
having no permanent character (asvabhava), like a house that is built by
timbers, stones, tiles, etc. It exists only by a combination of causes or
causal combination, and is not self-existent. It has no permanent reality.
3) Chân
Hữu Tánh: Parinispanna-laksana (skt)—Còn được gọi là “Viên Thành Thật
Tánh.” Những hữu thể chân thật, nghĩa là phi hữu trong ý nghĩa cao nhất
của danh từ nầy, xa lìa tất cả tướng không thật và giả tạm hay vô tướng.
Sự thực, cái nầy không phải là phi hữu mà là hiện hữu siêu việt. Tánh nầy
còn được gọi là “Bản Thể của tất cả” và chỉ có những người có trí tuệ siêu
việt mới thấu hiểu nó được. Tánh nầy tiêu biểu những gì còn sót lại sau
khi hai tánh trước đã bị loại bỏ—True existence, also called “Character of
Ultimate Reality.” Those of true existence, that is to say, non-existent
in the highest sense of the word, bereft of all false and temporary nature
(alaksana). This is, in truth, not non-existence but transcendental
existence. This is also called the “Substratum of all” and can be known
only by a person of supreme knowledge. It represents merely the remainder
after the elimination of the first two.
Tam Chủng Hương: Ba loại
nhang—Three kinds of scents or incense.
1) Nhang
làm bằng cành cây: Incense made from branches.
2) Nhang
làm bằng rễ cây: Incense made from roots.
3) Nhang
làm bằng bông: Incense made from flower).
Tam Chủng Hữu: Three kinds of
existence—See Tam Hữu.
Tam Chủng Kiến Hoặc: Ba loại
kiến hoặc—Three classes of delusive views or delusions:
1) Thường
hoặc: Nghi hoặc thông thường—Common delusions to humanity.
2) Tụ
hoặc: Trong khi tu tập thấy những điều nghi hoặc—Delusions of the
inquiring mind.
3) Thông
thái hoặc: Nghi hoặc của những học giả thông thái—Delusions of the learned
and settled mind.
Tam Chủng Lạc Sanh: Theo Trường
Bộ, Kinh Phúng Tụng, có ba loại lạc sanh—According to The Long Discourses
of the Buddha, Sangiti Sutra, there are three kinds of happy rebirths.
1) Có
những loài hữu tình trong quá khứ luôn luôn tạo ra thiền định lạc hay sống
trong sự an lạc, như các vị Phạm Chúng Thiên: There are beings who
continually produced happiness now dwell in happiness, such as the devas
of the Brahma group.
2) Có
những loài hữu tình thấm nhuần, biến mãn, sung mãn, hưng thịnh với an lạc.
Thỉnh thoảng họ thốt ra những câu cảm hứng ‘Ôi an lạc thay,’ như chư Quang
Âm Thiên: There are beings who are overflowing with happiness, drenched
with it, full of it, immersed in it, so that they occasionally exclaim ‘oh
what bliss’ such as the Radiant Devas.
3) Có
những loại hữu tình thấm nhuấn, biến mãn, sung mãn, hưng thịnh với an lạc.
Họ sống mãn túc với an lạc ấy, cảm thọ an lạc, như chư Biến Tịnh Thiên:
There are beings who are overflowing with happiness, drenched with it,
full of it, immersed in happiness, who supremely blissful, experience only
perfect happiness, such as the Lustrous Devas.
Tam Chủng Ma: Three types of
demons—“Ma” tiếng Phạn gọi là mara, Tàu dịch là “sát,” bởi nó hay cướp của
công đức, giết hại mạng sống trí huệ của người tu. “Ma” cũng chỉ cho những
duyên phá hoại làm hành giả thối thất đạo tâm, cuồng loạn mất chánh niệm,
hoặc sanh tà kiến làm điều ác, rồi kết cuộc bị sa đọa. Những việc phát
sanh công đức trí huệ, đưa loài hữu tình đến niết bàn, gọi là Phật sự. Các
điều phá hoại căn lành, khiến cho chúng sanh chịu khổ đọa trong luân hồi
sanh tử, gọi là ma sự. Người tu càng lâu, đạo càng cao, mới thấy rõ việc
ma càng hung hiểm cường thạnh. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong Niệm
Phật Thập Yếu, ma tuy nhiều, nhưng cốt yếu chỉ có ba loại: phiền não ma,
ngoại ma và Thiên ma—“Demons” are called “mara” in Sanskrit. In Chinese,
the word has connotation of “murderer” because demons usually plunder the
virtues and murder the wisdom-life of cultivators. “Demons” also represent
the destructive conditions or influences that cause practitioners to
retrogress in their cultivation. Demons can render cultivators insane,
making them lose their right thought, develop erroneous views, commit evil
karma and end up sunk in the lower realms. These activities which develop
virtue and wisdom and lead sentient beings to Nirvana are called Buddha
work. Those activities which destroy good roots, causing sentient beings
to suffer and revolve in the cycle of Birth and Death, are called demonic
actions. The longer the practitioner cultivates, and the higher his level
of attainment, the more he discovers how wicked, cunning and powerful the
demons are. According to Most Venerable Thích Thiền Tâm in The Pure Land
Buddhism in Theory and Practice, although there are numerous demons, they
can be divided into three types: demons of afflictions, external demons
and celestial demons.
1) Phiền
Não Ma: Demons of Afflictions.
a) Phiền
não ma chỉ cho các phiền não tham nhiễm, hờn giận, si mê, khinh mạn, nghi
ngờ, ác kiến; cho đến các thứ ma ngũ ấm, lục nhập, mười hai xứ, mười tám
giới. Loại ma nầy cũng gọi là nội ma, do lòng mê muội điên đảo sanh ra,
nên phải dùng tâm chân chánh sáng suốt giác ngộ mà giải trừ. Phàm phu tự
mình đã có những nghiệp riêng, lại do cộng nghiệp sống chung trong khung
cảnh, mà người xung quanh phần nhiều tánh tình hiểm ác, nghiệp chướng sâu
dầy, nên dễ động sanh phiền não. Có kẻ không chịu đựng nổi sự lôi cuốn của
ngũ trần nên bị sa ngã. Có người vì nghịch cảnh, khiến cho bi thương sầu
não, chí tiến thủ tiêu tan. Những sự việc nầy xui khiến người tu nhẹ thì
ưu sầu, uất ức sanh đau bệnh; nặng thì chán nãn bỏ đạo, hoặc phẫn chí tự
tận; nguy hại hơn nữa, tất đến chỗ đối với hàng xuất gia tại gia đều mất
hết mỹ cảm, tránh xa chán ghét, sanh việc khinh rẽ chê bai, không tin nhân
quả, làm điều ác, rồi phải đọa tam đồ—These demons represent the
afflictions of greed, anger, resentment, delusion, contempt, doubt and
wrong views. They also include the demons of the Five Skandas, the Six
Entrances, the Twelve Sense Fields, and the Eighteen Elements. These
demons are also called “internal” as they created by topsy-turvy, delusive
states of mind. Therefore, they must be overcome by the bright,
enlightened mind. The human mind is easily moved, developing afflictions
not only because of personal karma but also because of the common karma of
living in an environment filled, for the most part, with evil beings. Some
persons cannot resist the attractions of the five Dusts and thus fall into
evil ways. Others, encountering adverse conditions, grow sad and mournful
and lose their determination to progress. Such developments depending on
their severity, render the cultivator despondent , indignant and ill, or
worse still, cause him to abandon the Buddhist Order or even to commit
suicide out of despair. More harmful still, they can lead to loss of
respect and good will toward other cultivators, sometimes even hatred and
avoidance of clergy and lay people alike. Loss of faith in cause and
effect, bad karma and finally, descent upon the three Evil Paths are the
end result.
b) Muốn
đối trị thứ ma nầy, hành giả phải quán xét phiền não là hư huyễn, xao
động, nóng bức, trói buộc, tối tăm, chỉ làm khổ cho người và mình. Dứt
phiền não, ta sẽ trở về chân tâm tự tại giải thoát, mát lặng sáng trong,
an vui mầu nhiệm. Đối với sự mê chấp từ năm ấm cho đến mười tám giới, cũng
nên quán như thế—To counteract these demons, the practitioner should
reflect that all afflictions are illusory, upsetting, suffocating,
binding, evil and conducive only to suffering for both himself and others.
To eliminate afflictions is to return to the True Mind, free and
liberated, fresh and tranquil, bright and clear, happy and at peace,
transcendental and wondrous. The cultivator should also meditate in the
same way on all attachments, from the Five Skandas to the Eighteen
Elements.
·
Trong Kinh Pháp Hoa, Đức Phật bảo: “Các ngươi chớ nên tham
đắm sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, dù thô hay dù tế. Nếu mê đắm tham
trước, Tất bị nó thiêu đốt: In the Lotus Sutra, Sakyamuni Buddha said:
“You should not be greedy and attached to gross and vile forms, sound,
smell, taste, touch and dharmas. If you do, they will burn you up.”
·
Khi xưa Đức Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát hỏi một vị Thiên nữ:
“Ngươi xem mười tám giới như thế nào?” Thiên nữ đáp: “Như thấy kiếp lửa
đốt thế gian!” Đây là những lời cảnh giác để phá trừ loại ma phiền não:
Manjusri Bodhisattva once asked a female deity, “How do you see the
Eighteen Elements?” The deity replied, “They are similar to the eonic fire
burning up the whole world.” These are words of warning, reminding us to
eliminate the demons of afflictions.
·
Phiền não ma hay nội ma, nếu không chế phục được, tất sẽ
chiêu cảm đến ngoại ma ở ngoài đến phá. Lời xưa nói: “Trong cửa có tiểu
nhơn, ngoài cửa tiểu nhơn đến. Trong cửa có quân tử, ngoài cửa quân tử
đến.” Lại như khi ăn trộm đào ngách muốn vào nhà, gia chủ hay được tỏ ra
bình tỉnh răn trách, tất nó phải sợ hãi bỏ đi. Nếu chủ nhà kinh sợ rối rít
năn nỉ, đó chính là thái độ khuyên rước trộm vào nhà vậy: If the demons of
afflictions or internal demons are not subdued, they will attract external
demons which wreak havoc. The ancient have said: “If inside the door there
are mean-spirited people, mean-spirited people will arrive at the door; if
inside the door there are virtuous, superior people, noble superior people
will arrive at the door.” As an example, when thieves try to enter a
house through the side door, if the owner calmly scolds them in a loud
voice, they will naturally be frightened and leave. If on the other hand,
he is terrified and panic-stricken, and begs them to desist, he will
unwittingly be inviting them into his house.
2) Ngoại
Ma: External Demons—Ngoại ma là những loài ma quỷ thần yêu mị bên ngoài.
Người tu khi có đôi chút công phu, liền bị nó đến thử thách phá khuấy.
Loài nầy có thể chia thành ba hạng là bố ma, ái ma và não ma—External
demons take the form of various spirits, ghosts and deities. Once the
cultivator has reached a certain level of attainment, he will be subject
to demonic disturbances which will put him to the test. External demons
may be divided into three groups:
a) Bố Ma:
Terrorizing Demons—Bố ma là loài ma ưa khủng bố làm cho người kinh sợ. Thứ
ma nầy thường hóa hình cọp, sói, rắn, rít, hoặc các loài thú hung dữ kỳ
lạ, hay hình ác quỷ ghê rợn để dọa nhát người tu. Những hình tướng nầy
biến huyễn vô cùng, hoặc không đầu, nhiều đầu, nhiều tay, nhiều mắt; hoặc
mình người đầu thú, mình thú đầu người, hoặc cầm khí giới, hoặc phung lửa
đỏ. Nếu hành giả kinh hãi, liền bị nó phá làm mất chánh niệm, lắm khi sanh
điên cuồng. Gặp cảnh nầy, nên nghĩ các tướng đều giả dối, ma chỉ có thể
hủy diệt huyễn thân chớ không thể phá hoại được chân tâm. Suy xét như thế
rồi bình tĩnh không sợ chết, an nhiên chuyên tâm niệm Phật hoặc trì chú,
nó sẽ tự rút lui—These are ghosts that like to frighten and terrorize
people. They usually take the form of tigers, wolves, deadly serpents,
poisonous snakes or other ferocious beasts or hallucinatory, diabolic
apparitions to scare the cultivator. Their forms change ad infinitum. They
may have no head or many heads, many hands, many eyes, or a half-human,
half-bestial body. They may brandish weapons or spit fire. If the
practitioner is frightened, he loses his right thought and often goes
insane. Faced with these occurences, we should reflect that all forms and
marks are illusory, and that demons can only destroy the illusory body,
not the True Mind. Meditating this way, we should remain calm and unafraid
of death, peacefully concentrating on Buddha or Mantra Recitation. The
demons will then retrest of their own accord.
b) Ái Ma:
Demons of Lust and Attachment—Ái ma là loài ma khích động lòng ái dục cho
đến tâm tham nhiễm cảnh ngũ trần. Chúng hóa hình nam, nữ lõa lồ xinh đẹp;
hoặc hình cha mẹ anh em, kẻ thân mến, cho đến thân Phật, Bồ Tát tướng tốt
trang nghiêm để khuyến dụ. Nếu người thích ăn ngon, chúng hóa sơn hào hải
vị, hương thơm ngào ngạt đem dâng; người ưa bảo vật, chúng hiện hình thú
lạ ngậm châu ngọc đến hiến tặng. Tùy tâm niệm hành giả ưa thích điều chi,
chúng liền hiện ra thứ ấy. Chúng có thể dùng ma lực khiến cho người tu
được tà định, tà trí, tài biện thuyết, phép thần thông biết quá khứ vị
lai. Những kẻ không hiểu cho là đã chứng đạo quả, thảy đều tin phục; song
kỳ thật người kia trong tâm điên đảo, chuyên làm phép quỷ mê hoặc thế
gian—These are a type of demon which excites a range of emotions, from
lust to delusive attachment to the realm of the five Dusts, i.e., this
world. They take the appearance of alluring, nude men and women or of
parents, siblings or close relatives, as well as of Buddhas and
Bodhisattvas with beautiful, adorned features, in order to entice the
practitioner. If he is fond of good food, these demons bring him
succulent, fragrant dishes. If he likes diamonds or gold, they take the
appearance of strange animals holding precious stones in their mouths as
offerings. They cause whatever the practitioner desires to appear. They
can also use their psychic power to lead him into evil samadhi, evil
wisdom and eloquence, giving him the mystic power to know the past and the
future. Those who do not understand will mistake these occurences for
evidence that the practitioner has attained Enlightenment, and thus
believe in and trust him. In reality, however, the cultivator’s mind is
upside down and he spends all his time engaging in errant, demonic
practices to deceive others.
·
Có một nhà sư Việt Nam tu tại một ngôi chùa bỏ hoang bên
Lào. Trong khi thiền định ông thấy một nhóm mỹ nhân lõa lồ, nắm tay nhau
nhảy múa. Sư trấn định tâm không nổi, bèn thành khẩn niệm Phật, tướng ấy
liền tan—Once there was a Vietnamese monk cultivating at a deserted temple
in Laos. In one of his meditation sessions, he saw a group of beautiful,
ethereal women, all naked, holding hands and dancing around. The monk,
unable to calm his agitated mind, immediately recited the Buddha’s name in
all earnestness. Only then did this scene disappear.
·
Một câu chuyện khác—Another story—Khi xưa bên Trung Quốc có
một vị sư đang tham thiền, nhân khi trời lạnh bụng đói, động niệm tưởng
ăn; sư liền thấy một thiếu phụ bưng thức ăn đến cúng dường. Thiếu phụ quỳ
xuống sớt đồ ăn vào bát, thỉnh sư nên dùng liền kẻo nguội mất ngon. Sư vì
đói muốn thọ dụng ngay, nhưng nghĩ chưa đến giờ thọ trai, nên nhẫn nại bảo
hãy tạm để một bên, chờ đúng giờ sẽ ăn. Thiếu phụ nghe nói, có vẻ hờn giận
bỏ đi. Giây lâu sau đúng ngọ, sư giở bát ra thấy trong ấy toàn là dòi bò
lúc nhúc. Chừng ấy ông mới tỉnh ngộ, biết vừa động sanh vọng niệm, liền
rước lấy cảnh ma; may nhờ có chút định lực mới khỏi ăn đồ dơ và phạm giới
sát—Once in China, there was a monk seated in meditation. Because he was
cold and hungry, the thought of food arose in his mind. He suddenly saw a
woman presenting him with an offering of food. The woman knelt, put food
in his bowl, and respectfully asked him to eat immediately, before the
food grew cold and lost all taste. The monk, being hungry wanted to eat at
once but remembering that it was not yet noontime, he patiently told her
to put the bowl aside for the time being. The woman left, appearing angry
and upset. Some time later, at noon, he uncovered the bowl to discover
that it was full of worms, crawling all around. He then understood that
his false thought of food had attracted the demonic apparitions. Thanks to
his self-restaint and power of concentration, however, limited, he avoided
consuming the dirty food and violating the precept against killing.
·
Lại cũng một vị sư tu thiền trong núi, thấy mình lẻ loi cô
quạnh, nên sanh vọng tưởng muốn được một ít người cùng ở chung cho vui.
Vừa đâu có bà lão dẫn hai cô gái trẻ đẹp, bảo nhà ở dưới làng chân núi,
tìm đến am tranh cầu xin dạy đạo. Vị Tăng ban đầu không nghi ngờ, liền
thuyết pháp khai thị. Tới lui như thế lâu ngày, một hôm bà lão bạch sư xin
cho hai cô gái làm thị giả lo việc giặt giủ cơm nước cho sư đỡ cực nhọc.
Sư nghe nói thoáng sanh lòng nghi, liền nghiêm trách từ chối. Ba người tỏ
vẻ hờn thẹn bỏ đi. Sư lén theo dõi qua một khúc quanh bỗng chợt mất bóng,
sư đến xem thì đã cùn đường, lại không có nhà cửa chi cả, chỉ thấy ba gốc
cổ thụ, một to hai nhỏ. Sư suy nghĩ biết đây là yêu tinh cổ thụ, muốn đem
búa chặt đốn hoặc nổi lửa thiêu đốt để dứt trừ hậu hoạn. Vừa nghĩ đến đó
bỗng thấy ba người hiện ra cầu sám hối và xin tha mạng. Thế mới biết tâm
yên cảnh lặng, vọng khởi ma sanh, người tu phải ghi nhớ điều nầy—Yet
another story concerns a Zen monk who practiced in a deserted mountain
area. Lonely and isolated, he had a deluded thought, wishing to have some
fellow-cultivators practicing along with him to make life more bearable.
Immediately, an old woman appeared from nowhere, leading two beautiful
young girls by the hand, who, she said, lived in the village down in the
valley. They had come, they claimed , to seek guidance in the Way. The
monk, unsuspicious, immediately gave a Dharma talk to the group. One day,
after many such visits over a period of time, the old woman respectfully
requested that the two girls be allowed to become attendants to the monk
and relieve him of his daily chores. The monk, hearing this, became
suspicious. He reprimanded the old woman severely and refused the offer.
The three women left, apparently angry and ashamed. The monk, intrigued,
followed them discreetly until they disappeared around a bend in the road.
When he reached the spot, he found it was a dead end with no habitation or
anything else around, except for three very old trees, one big tree and
two small ones. He thought it over and realized that he had been tested .
A fleeting thought occurred to him, that he should cut down the trees,
start a bonfire, and burn them into ground. At that moment, the three
women reappeared, repentant, begging him to forgive them and spare their
lives. Therefore, the cultivator should remember: when the mind is still,
all realms are calm; when delusion arises, demons are born.
c) Não
Ma: Nuisance Demons.
·
Não ma là loại ma chuyên phá rối, làm não loạn người tu. Có
giống tinh mị mỗi loài đến theo giờ của nó, đại khái mỗi giờ có ba loài,
mười hai giờ thành ba mươi sáu loài tinh thú. Như giờ Dần đến, tất là loài
cọp, beo, gấu; giờ Mẹo đến là loài mèo, thỏ, cáo; giờ Thìn là loài, rồng,
cá, thuồng luồng…Theo trong Tọa Thiền Chỉ Quán có thứ quỷ Du Lạp Kiết Chi,
Tàu gọi là Đôi Dịch, đầu mặt như cây đàn tỳ bà, bốn mắt hai miệng, thường
ưa khuấy động phá rối người tu. Chúng chờ khi người tu đang tụng niệm, hóa
ra sâu trùng, hoặc bò lên khắp đầu mặt, hoặc chun vào miệng, lỗ mũi, mắt,
lỗ tai; hoặc chui vào nách, bụng của hành giả mà cắn chích. Đôi khi chúng
kêu vang vào lỗ tai, làm thành tiếng ồn ào, nhức óc; hoặc chợt ôm giữ
người, quơ tìm thì không đụng thấy. Chúng còn hóa ra cảnh ngũ trần hoặc
thuận, hoặc nghịch, hoặc không thuận nghịch, biến huyễn khôn lường, làm
cho hành giả loạn động chẳng biết đâu mà nhận thức, dễ mất định tâm. Muốn
đối trị với ba mươi sáu loài tinh thú, cứ theo giờ kêu tên của nó mà quở
trách; với ma Đôi Dịch, nên tụng tam quy ngũ giới hoặc giới bổn, bởi chúng
là thứ quỷ phạm tội phá giới. Làm như thế chúng liền ẩn mất. Hoặc cách đối
trị tổng quát là nên nhiếp tâm vào chánh định, hay chuyên chỉ trì chú niệm
Phật, chúng sẽ tan biến—This type of demon concentrates on harassing and
disturbing the practitioner. There is a certain species of spirits and
ghosts which can be subdivided into many types, each appearing at a fixed
time of the day. In general, each hour has three types of spirits. For
example, during the period between seven and nine in the morning, they
take the appearance of dragons, fish, and serpent-like creatures. In his
commentaries Samatha and Vipassana for Beginners, the Patriarch Chih-I
mentioned a type of demon with a face like a pear-shaped lute, four eyes
and two mouths, which enjoys disturbing cultivators. Waiting for the
individual to begin to practice, it takes the form of worms or tiny
insects and crawls all over his head and face, penetrates into his mouth,
nose, eyes and ears, or goes under his armpits or belly to sting him. At
other times it shouts loudly into the practitioner’s ears, creating a
great disturbance and giving him a headache; or it suddenly embraces him
tightly. If the practitioner attempt to seize it in return, nothing is
there. This type of nuisance demon also causes scenes of the five Dusts to
appear, either favorable or unfavorable, or neither favorable nor
unfavorable. Such transformations are countless and can cause the
practitioner to become agitated. As he does not know what to make of all
this, he loses his concentration. The general way to subdue these nuisance
demons is to “gather” the mind in correct samadhi or diligently recite
mantras or the Buddha’s name, they will then all disappear.
·
Ngoại ma còn là những ma bàng môn tả đạo. Những vị kiếp
trước hoặc kiếp nầy đã từng tu theo ngoại đạo, sau trở lại quy y Phật
pháp; hoặc những vị tuy chỉ nương về Tam Bảo, nhưng xưa kia ông bà cha mẹ
đều theo bàng môn tả đạo, thường hay bị ngoại ma phá rối. Bởi lối tu của
ngoại đạo đều không rời phiền não hữu lậu, còn trong vòng tự cao chấp ngã,
tham đắm quyền danh, nên hàng ngoại đạo hay quy tụ bè phái, không muốn cho
người có ít nhiều liên hệ với phe mình tu theo đạo khác: External demons
also include demons belonging to externalist cults and other false or
quasi-Buddhist sects; or practitioners who have belonged to cults in this
or previous lives but have now converted to Buddhism, as well as those who
are themselves Buddhists but who come from families formerly active in
other faiths and cults, tend to be bothered by external demons. This is
because the cultivation methods of externalists are within the realm of
worldly afflictions and are tainted with pride, ego attachment, power and
fame. Therefore, they stick together and do not want people connected with
them in some way to follow other teachings.
3) Thiên
Ma: Celestial Demons.
a) Thiên
ma là loại ma ở cõi trời Tha Hóa Tự Tại, thuộc tầng thứ sáu của trời Lục
Dục. Loại ma nầy có phước báo, hưởng sự vui mầu nhiệm cao tột của ngũ
trần, cho đó là cảnh khoái lạc tuyệt đối, nắm quyền hạn về dục nhiễm,
không muốn ai thoát khỏi phạm vi ấy. Khi hành giả đạt đến mức tu khá cao,
tâm quang phát lộ, ánh sáng chiếu thấu lên cõi trời Tha Hóa làm cho cung
điện ma rung động, chúng liền phát giác và vì sợ e có người giải thoát,
quyến thuộc mình sẽ giảm bớt đi, nên tìm cách phá hoại. Chúng hiện ra
nhiều cảnh, hoặc hăm dọa, hoặc khuyến dụ, hoặc giúp sức cho tà định tà trí
cùng thần thông cốt để gạt gẫm; lại thay phiên nhau rình rập không giây
phút nào rời để chờ cơ hội thuận tiện. Nếu hành giả có một niệm sơ hở,
liền bị chúng ám nhập, xúi dục làm những điều trái đạo đức, đời tu kể như
đã hư tàn: This refers to the type of demon that resides in the Sixth
Heaven, also called the Heaven of Free Enjoyment of Others’ Emanations.
This type of demon possesses merits and blessings and enjoys the highest
heavenly bliss in the Realm of desire, of which our world is but a small
part. They then mistake such happiness and bliss as ultimate, and do not
wish anyone to escape their influence. When a practitioner has attained a
fairly high level of cultivation, his mind-light develops and shines up to
the realm of the Sixth Heaven. It is then discovered by the celestial
demons, who seek ways to sabotage his cultivation. Such action can take
many forms, threatening or cajoling, or even helping the practitioner
attain false samadhi “wisdom” and spiritual power, with the aim of
ultimately deceiving him. These demons take turns watching the
practitioner constantly and without interruption, waiting for the
opportunity. If the practitioner has a delusive thought, they pounce on
him or steer him toward things contrary to the Way. The practitioner’s
entire lifetime of cultivation is then over, for all practical purposes.
b) Trong
Đại Thừa Khởi Tín Luận, Mã Minh Bồ Tát đã từng khuyên dạy: “Trong khi hành
giả tịnh tu, thường bị các thiên ma, ngoại đạo, hoặc quỷ thần làm não
loạn. Chúng hiện các hình tướng ghê rợn để khủng bố, hoặc tướng nam nữ
xinh đẹp để quyến rũ. Có khi chúng hiện thân Phật, Bồ Tát hay chư Thiên đẻ
các tướng trang nghiêm; hoặc nói các môn đà la ni; hoặc nói pháp bố thí,
trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ; hoặc nói các pháp bình
đẳng, không, vô tướng, vô nguyện, khen ngợi cảnh không oán không thân,
không nhân không quả, cứu cánh rỗng không vắng lặng, bảo đó là chân niết
bàn. Hoặc chúng làm cho hành giả biết đời trước của mình, suốt việc quá
khứ vị lai, thấu rõ tâm niệm của mọi người, cho đến được biện tài vô ngại.
Chúng khiến người tu tham luyến danh lợi thế gian, tánh tình thất thường,
hay giận, hay cười, ưa ngủ, nhiều bệnh, dễ xót thương xúc cảm, có khi rất
tinh tấn, lắm lúc lại trễ nải biếng nhác. Hoặc chúng xui hành giả sanh tâm
nghi ngờ không tin, nhiều lo nghĩ, bỏ pháp tu căn bản trở lại tu các tạp
hạnh, đắm nhiễm những việc triền phược ở thế gian. Hoặc chúng làm cho hành
giả được một ít phần tương tợ như tam muội, có thể ở trong định từ một
ngày cho tới bảy ngày, thân tâm an vui không biết đói khát; song đó là do
sức tà chứng của ngoại đạo gia bị, không phải chân tam muội. Hoặc lại
khiến cho hành giả ăn uống không chừng độ, khi nhiều khi ít, sắc mặt biến
đổi luôn. Khi gặp những cảnh như trên, người tu phải dùng trí tuệ quán
sát, gắng giữ chánh niệm, đừng sanh tâm chấp trước mà lạc vào lưới tà.
Phải kiên trì như thế mới xa lìa được ma chướng.”—In the Awakening of
Faith, the Patriarch Asvaghosha admonished: “There may be some disciples
whose root of merit is not yet mature, whose control of mind is weak and
whose power of application is limited, and yet who are sincere in their
purpose to seek enlightenment, these for a time may beset and bewildered
by maras and evil influences who are seeking to break down their good
purpose. Such disciples, seeing seductive sights, attractive girls, strong
young men, must constantly remind themselves that all such tempting and
alluring things are mind-made; and, if they do this, their tempting power
will disappear and they will no longer be annoyed. Or, if they have vision
of heavenly gods and Bodhisattvas and Buddhas surrounded by celestial
glories, they should remind themselves that those, too, are mind-made and
unreal. Or, if they should be uplifted and excited by listening to
mysterious Dharanis, to lectures upon the paramitas, to elucidations of
the great principles of the Mahayana, they must remind themselves that
these also are emptiness and mind-made, that in their essence they are
Nirvana itself. Or, if they should have intimations within that they have
atained transcendental powers, recalling past lives, or foreseeing future
lives, or, reading others’ thoughts, or freedom to visit other
Buddha-lands, or great powers of eloquence, all of these may tempt them
to become covetous for worldly power and riches and fame. Or, they may be
tempted by extremes of emotion, at times angry, at other time joyous, or
at times very kind-hearted and compassionate, at other times the very
opposite, or at times alert and purposeful, at other times indolent and
stupid, at times full of faith and zealous in their practice, at other
times engrossed in other affairs and negligent. All of these will keep
them vacillating, at times experiencing a kind of fictitious samadhi, such
as the heretics boast of, but not the true samadhi. Or later, when they
are quite advanced they become absorbed in trances for a day, or two, or
even seven, not partaking of any food but upheld inward food of their
spirit, being admired by their friends and feeling very comfortable and
proud and complacent, and then later becoming very erratic, sometimes
eating little, sometimes greedily, and the expression of their face
constantly changing. Because of all such strange manifestations and
developments in the course of their practices, disciples should be on
their guard to keep the mind under constant control. They should neither
grasp after nor become attached to the passing and unsubstantial things
of the senses or concepts and moods of the mind. If they do this they will
be able to keep far away from the hindrances of karma.”
c) Kết
lại, chỉ có hai loại ma là nội ma và ngoại ma; Thiên ma cũng thuộc về loài
ngoại ma. Nhưng sở dĩ lập Thiên ma thành một loại riêng, là vì muốn cho
hành giả lưu ý đến sự phá hoại nguy hiểm tinh vi của nó. Ngoài phiền não
ma, ngoại ma, Thiên ma như trên, trong kinh còn nói đến bệnh ma và tử ma.
Bởi cơn đau bệnh thường làm cho hành giả tiêu giảm công phu, lại tu chưa
đến đâu rồi chết có thể khiến người thối thất đạo quả, nên mới gọi là ma.
Nhưng bệnh ma và tử ma đại ý chí sự chướng ngại của bệnh và chết thuộc về
thân tứ đại trên đường tu, không có tính cách phá hoại khuấy rối để giết
hại đạo tâm theo đúng nghĩa của ma—In summary and as a further
generalization, there are only two types of demon, internal and external.
Celestial demons are within the category of external demons; however, we
described them separately to alert the practitioner to the dangerous,
subtle havoc they can cause. In addition to the demons of afflictions,
external demons and celestial demons described above, Buddhist sutras also
mention “disease demons” and the “demons of death.” For disease will
usually wither the practitioner’s efforts, while death in the midst of
cultivation can make him retrogress. Thus, disease and death are called
demons. In general, they represent obstacles to the way that affect the
physical body, but they cannot harm and destroy the Bodhi-Mind in the true
sense of the word “demon.”
d) Sức tu
của người thời nay phần nhiều bị phiền não ma hoặc ngoại ma phá hoại, chưa
đủ để cho Thiên ma phải ra tay. Loại ma nầy chỉ đến với những vị tu cao.
Nếu Thiên ma quyết phá, những vị sức tu tầm thường khó có hy vọng thoát
khỏi. Trong Kinh Lăng Nghiêm, vì thương đường tu nhiều hiểm nạn, Đức Phật
khuyên các hành giả tham thiền nên kiêm trì mật chú, để được nhờ thần lực
gia hộ, thoát khỏi nạn ma thành tựu chánh định. Ấn Quang Đại Sư đã bảo:
“Mới xem qua dường như Kinh Lăng Nghiêm khác quan điểm với Tịnh Độ, nhưng
xét nghĩ sâu mới thấy kinh nầy vô hình đã khen ngợi tuyên dương Tịnh Độ.
Tại sao thế? Bởi bậc đã chứng đệ tam Thánh quả A Na Hàm mà còn có thể bị
ma cảnh làm cho thối đọa, thì sự niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ càng nổi bậc
thêm tánh cách trọng yếu, trong ánh sáng nhiếp hộ của Đức A Di Đà không
còn nạn ma nữa.”—Considering the level of cultivation of today’s
practitioners, they generally face harassment only from demons of
afflictions or external demons. Such cultivators are not advanced enough
to arouse opposition from celestial demons. However, should the latter set
their minds to destroying someone, that person has little hope of escaping
harm, unless his cultivation is examplary. In the Surangama Sutra,
Sakyamuni Buddha, out of compassion for cultivators faced with many
dangers along the Way, advised those who practiced meditation to recite
mantras at the same time. This would enable them to rely on the power of
the Buddhas to escape harm from demons and achieve correct samadhi. The
Patriarch Yin Kuang once said: “At first glance, it would appear that the
Surangama Sutra has a different viewpoint from Pure Land. However, upon
closer scrutiny, that sutra, in its essence, actually praised and
commended the Pure Land School. Why is this so? It is because, if even
those who have attained the third level of sagehood can suffer
retrogression caused by demons, we can see the crucial importance of
Buddha Recitation and rebirth in the Pure Land: in the gathering and
helping light of the Lord Amitabha Buddha, there is no more danger of
demons.
e) See
Năm Điều Kiện Cần Thiết Để Thành Công Của Người Tu Thiền.
f)
Trong Đại Thừa Khởi Tín Luận, Mã Minh Bồ Tát sau khi kết hợp tổng quát về
tinh yếu của pháp Đại Thừa, và trình bày xong đường lối tu tập, Ngài đã
bảo: “Cõi Ta Bà phiền não cang cường, chánh tín khó vững, không thường
được gặp Phật nghe pháp, đường tu nhiều hiểm nạn chướng duyên. Nên biết
Đức Như Lai có phương tiện thù thắng, dạy cầu sanh về cõi Tịnh Độ ở Tây
Phương. Như trong khế kinh nói ‘nếu chuyên tâm niệm Phật A Di Đà, đem công
đức tu hồi hướng cầu sanh Tây Phương, thì sẽ được về thế giới Cực Lạc,
thường thấy Phật nghe pháp, không còn thối chuyển. Nếu hành giả y theo
đường lối tu nầy, quyết định sẽ được vào chánh định tụ.”—In the Awakening
of Faith, after summarizing the essential points of Mahayana doctrine and
explaining the path of cultivation, the Patriarch Asvaghosha added: “Next,
suppose there is a man who learn this teaching for the first time and
wishes to seek the correct faith but lacks courage and strength. Because
he lives in this world of suffering, he fears that he will not always be
able to meet the Buddhas and honor them personally, and that faith being
difficult to perfect, he will be inclined to fall back. He should know
that the Tathagathas have an excellent expedient means by which they can
protect his faith: that is, through the strength of wholehearted
meditation-recitation on Amitabha Buddha, he will in fulfillment of his
wishes be able to be born in the Buddha-land beyond, to see the Buddha
always, and to be forever separated from the evil states of existence. It
is as the sutra says, ‘if a man meditates wholly on Amitabha Buddha in the
world of the Western Paradise and wishes to be born in that world,
directing all the goodness he has cultivated toward that goal, then he
will be born there.’ Because he will see the Buddha at all times, he will
never fall back. If a cultivator follows this path, he will be able to be
born there in the end because he abides in the correct samadhi.”
Tam Chủng Nhân: Three kinds of
people—See Nhị Chủng Nhân.
Tam Chủng Nhẫn Hành: Three
kinds of patience or forbearance—See Tam nhẫn.
Tam Chủng Pháp Thân: Three
kinds of dharmakaya—See Tam Pháp Thân.
Tam Chủng Phật Tử: Có ba loại
Phật tử—There are three kinds of Buddhist followers:
1) Ngoại
Tử: Người chưa tin đạo—External sons, who have not yet believed.
2) Thứ
Tử: Người theo Tiểu Thừa—Secondary sons, or Hinayanists.
3) Chân
Tử: Người theo Đại Thừa—True sons, or Mahayanists.
Tam Chủng Quán Đảnh: Ba loại
quán đảnh—Three kinds of baptism—Every Buddha baptizes a disciple by
either one of the below three kinds:
(A) Theo
truyền thống Đại Thừa—Mahayana Tradition:
1) Ma
đảnh quán đảnh: Every Buddha baptizes a disciple by laying a hand on his
head.
2) Thọ ký
quán đảnh: Buddhas baptizes a disciple by predicting Buddhahood to him.
3) Phóng
quang quán đảnh: Buddhas baptizes a disciple by revealing his glory to him
to his profit.
(B) Theo
truyền thống Mật Giáo—Tantric Tradition:
1) Sái
Thủy Quán Đảnh: To sprinkle the head with water.
2) See
(A) (2).
3) See
(A) (3).
Tam Chủng Quang Minh: Ba loại
ánh sáng—Three kinds of light:
1) Ngoại
quang: External light (sun, moon, stars, lamps, etc).
2) Pháp
quang: Dharma light or light of right teaching and conduct.
3) Phật
quang: The effulgence or bodily halo emitted by Buddhas, Bodhisattvas and
devas,
Tam Chủng Sa Di: Ba loại Sa Di
dựa theo tuổi tác—Three kinds of Sramanera which are recognized according
to age:
1) Khu Ô
Sa Di: Sa Di đuổi quạ, tuổi từ 7 đến 13 (đủ khả năng đuổi quạ)—“Drive away
crows” Sramanera, age from 7 to 13, old enough to drive away crows.
2) Ứng
Pháp Sa Di: Sa Di Ứng Pháp, tuổi từ 14 đến 19, đủ khả năng thực hành theo
Phật pháp—One who is able to respond to or follow the doctrine, age from
14 to 19.
3) Sa Di:
Tuổi từ 20 đến 70—Sramanera, age from 20 to 70.
Tam Chủng Sám Hối Pháp: Ba loại
sám hối—Three modes of repentance:
1) Vô
sinh sám hối: To meditate on the way to prevent wrong thoughts and
delusions—See Vô Sanh Hối.
2) Thủ
tướng sám hối: To seek the presence of the Buddha to rid one of sinful
thoughts and passions—See Thủ Tướng Sám.
3) Tác
pháp sám: In proper form to confess one’s breach of the rules before the
Buddha and seek remission—See Tác Pháp Sám.
Tam Chủng Sắc: Ba loại
sắc—Three kinds of rupa (appearance or object):
(A)
1) Hiện
sắc: Visible objects (body, face).
2) Ẩn
sắc: Invisible objects (sound, voice).
3) Trừu
tượng sắc: Immaterial or abstract objects.
(B)
1) Sắc:
Color.
2) Tướng
(hình thể): Shape.
3) Phẩm
chất: Quality.
Tam Chủng Sinh Ái Dục: Ba nguồn
gốc gây nên dục vọng và ảo tưởng—Three sources or causes of the rise of
the passions and illusions:
1) Tưởng
sinh: The mind or active thought.
2) Tướng
sinh: The objective world.
3) Lưu
chú sinh: Constant interaction, or the continuous stream of latent
predispositions.
Tam Chủng Tam Thế: See Tam Thế.
Tam Chủng Tâm Khổ: Three kinds
of mental distress (tham: desire, sân: hatred, si: stupidity)—See Tam Độc.
Tam Chủng Tầm Cầu: Theo Tương
Ưng Bộ Kinh, Phẩm Tầm Cầu, có ba loại tầm cầu—According to the Connected
Discourses of the Buddha, Chapter Esanavaggo (Searches), there are three
kinds of searches:
1) Tầm
Cầu Về Dục: The search for sensual pleasure.
2) Tầm
Cầu Về Hữu: The search for existence.
3) Tầm
Cầu Về Phạm Hạnh: The search for a holy life.
Tam Chủng Thanh Tịnh: Ba loại
thanh tịnh của Bồ Tát—Three purities of a bodhisattva—See Tam Thanh Tịnh.
Tam Chủng Thân: See Tam Thân.
Tam Chủng Thân Khổ: Three
dukhas or afflictions of the body:
1) Già:
Old age.
2) Bịnh:
Sickness.
3) Chết:
Death.
Tam Chủng Thị Đạo: Ba cách dẫn
dắt—Three ways in which bodhisattvas manifest themselves for saving those
suffering the pains of hell:
1) Thần
biến thị đạo: Dùng thân nghiệp dẫn dắt—Physically, by supernatural powers,
change of form.
2) Giáo
giải thị đạo: Dùng khẩu nghiệp (lời nói) mà dẫn dắt—Orally, by moral
exhortation.
3) Ký
thuyết thị đạo: Lúc nào cũng ghi nhớ và tìm đủ mọi cách mả giảng giải bằng
ý nghiệp—Mentally, through powers or memory and enlightenment.
Tam Chủng Thiên: Ba loại
trời—Thre kinds of heaven:
(A)
1) Tự
thiên: Heaven by name or title (divine king, son of king, etc).
2) Tái
sanh thiên: Heaven as a place of rebirth (the heavens of the gods).
3) Tịnh
Phật thiên: Cung trời nơi chư Phật đồng cư—The pure Buddha-land.
(B)
1) Danh
Thiên: Thiên vương hay thiên tử, vua trong loài người—Famous rulers on
earth
2) Sanh
Thiên: Thiên thú trong lục thú (từ vương thiên đến phi tưởng thiên)—The
highest incarantions of the six paths.
3) Tịnh
Thiên: Cõi của các bậc Thánh giả từ Thanh Văn đến Duyên Giác, đã diệt trừ
hết phiền não cấu chướng—The pure or the saints, from Sravakas to
Pratyeka-buddhas.
Tam Chủng Thiện Căn: Ba loại
thiện căn—Three kinds of good roots:
1) Bố
thí: Almsgiving.
2) Bi
mẫn: Mercy.
3) Trí
huệ: Wisdom.
Tam Chủng Thiện Tâm: Ba điều
thiện nơi tâm—Three good deeds of the mind:
1) Không
tham lam: Not to be greedy.
2) Không
sân hận: Not to be angry.
3) Không
si mê tà kiến: Not to be ignorant with wrong views.
Tam Chủng Thiện Thân: Ba điều
thiện nơi thân—Three good deeds of the body:
1) Không
sát sanh: Not to kill any living beings.
2) Không
trộm cắp: Not to steal any properties of others.
3) Không
tà dâm: Not to commit adultery.
Tam Chủng Thiện Tri Thức: Theo
Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong Niệm Phật Thập Yếu, người đả thất chuyên
tu (chuyên tu bảy ngày trong thất), phải có ba bậc thiện tri
thức—According to Most Venerable Thích Thiền Tâm in The Pure Land Buddhism
in Theory and Practice, in conducting a seven-day retreat, one can either
practice alone, to attain purity more easily, or with many other
cultivators. There are three types of good spiritual advisors:
1) Giáo
Thọ Thiện Tri Thức: Teaching Spiritual Advisor—Giáo thọ thiện tri thức là
vị thông hiểu Phật pháp và có kinh nghiệm về đường tu để thường chỉ dạy
mình; hay mình đến để thỉnh giáo trước và sau khi kiết thất. Trong trường
hợp nhiều người đồng đả thất, nên thỉnh vị giáo thọ nầy làm chủ thất, mỗi
ngày đều khai thị nửa giờ hoặc mười lăm phút—This is someone conversant
with the Dharma and experienced in cultivation. The retreat members can
have him follow their progress, guiding them throughout the retreat, or
they can simply seek guidance before and after the retreat. When several
persons hold a retreat together, they should ask a spiritual advisor to
lead the retreat and give a daily fifteen-to-thirty-minute inspirational
talk.
2) Ngoại
Hộ Thiện Tri Thức: Caretaking Spiritual Advisor—Đây là một hay nhiều vị
ủng hộ bên ngoài, lo việc cơm nước, quét dọn, cho hành giả được yên vui tu
tập. Thông thường, vị nầy thường được gọi là người hộ thất—This refers to
one or several persons assisting with outside daily chores such as
preparing meals or cleaning up, so that on retreat can cultivate
peacefully without distraction. Such persons are called “Retreat
assistant.”
3) Đồng
Tu Thiện Tri Thức: Common Practice Spiritual Advisor—Đây là những người
đồng tu một môn với mình, để nhìn ngó sách tấn lẫn nhau. Vị đồng tu nầy có
thể là người đồng kiết thất chung tu, hoặc có một ngôi tịnh am tu ở gần
bên mình. Ngoài sự trông nhìn sách tấn, vị đồng tu còn trao đổi ý kiến
hoặc kinh nghiệm, để cùng nhau tiến bước trên đường đạo. Lời tục thường
nói: “Ăn cơm có canh, tu hành có bạn” là ý nghĩa nầy—These are persons who
practice the same method as the individual(s) on retreat. They keep an eye
on one another, encouraging and urging each other on. These cultivators
can either be participants in the same retreat or cultivators living
nearby. In addition to keeping an eye out and urging the practitioners on,
they can exchange ideas or experiences for the common good. This concept
has been captured in a proverb: “Rice should be eaten with soup, practice
should be conducted with friends.”
Tam Chủng Thường: Ba phẩm chất
thường hằng của Phật—A Buddha in his three eternal qualities:
1) Bổn
tánh thường: Buddha nature or Dharmakaya.
2) Bất
đoạn thường: Buddha’s unbroken eternity or Sambhogakaya.
3) Tương
tục thường: Buddha’s continuous and eternally varied forms or Nirmanakaya.
Tam Chủng Tinh Tấn: Theo Luận
Thành Duy Thức, có ba loại tinh tấn—According to the Consciousness Only
Sastra (Mind-Only-Sastra), there are three kinds of virya:
1) Bộ
Giáp Tinh Tấn: Luôn mặc áo đại giáp của Bồ tát, không còn sợ tai ương gì
nữa—Entering the world with a Bodhisattva’s robe, and without and fear of
calmities, i.e. to go on a Bodhisattva path—See Bồ Tát Đạo.
2) Nhiếp
Thiện Tinh Tấn: Chăm tu thiện pháp không biết mệt mỏi—To cultivate good
deeds with zeal.
3) Lợi
Lạc Tinh Tấn: Chuyên cầu giáo hóa chúng sanh mà không nhập vào thế tục—To
benefit beings with the power of unfailing progress.
Tam Chủng Tịnh Nghiệp: Ba loại
tịnh nghiệp—Three foldway of obtaining a pure karma—See Tam Phước.
Tam Chủng Trí: Ba loại trí
huệ—Three kinds of wisdom—See Tam Trí.
Tam Chủng Từ Bi: Ba nguyên nhân
của Từ bi—Three reasons of a bodhisattva’s pity—See Tam Từ Bi.
Tam Chủng Tướng: Ba loại
tướng—Three kinds of appearance:
(A)
1) Phiêu
tướng: Inferential, as fire is inferred from smoke.
2) Hình
tướng: Formal or spacial, as length, breadth, ect.
3) Thể
tướng: Qualitative, as heat is in fire.
(B)
1) Giả
danh tướng: Names, which are merely indications of the temporal.
2) Pháp
tướng: Dharmas or things.
3) Vô
tướng tướng: The formless.
Tam Chủng Vãng Sanh: Chúng sanh
tu tập cầu vãng sanh về Cực Lạc nhiều không kể xiết, còn hơn vô số điểm
giọt mưa. Tuy nhiên, theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong Niệm Phật Thập
Yếu, chúng sanh cầu về Tịnh Độ không riêng những hạng chán cảnh khổ Ta Bà
ngũ trược ác thế, mà cũng có hạng vì thương xót muốn tế độ chúng sanh cõi
Ta Bà, cho đến những bậc “thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh.” Tuy sở
nguyện có cao thấp, một khi đã sanh về Cực Lạc thì cũng đồng được sự lợi
ích như nhau, nghĩa là tất cả đều không thối chuyển, cuối cùng đều đạt đến
quả vị Phật. Cổ đức đã bảo: “Pháp môn Tịnh Độ rất cao thâm mầu nhiệm, duy
có Phật với Phật mới biết hết được, vì bậc Đẳng giác còn nguyện vãng sanh,
ngôi Nhất Sanh Bồ Tát còn phải trụ nơi miền Cực Lạc để học hỏi. Các Kinh
Đại Thừa như Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Đại Bảo Tích, vân vân đều khen ngợi
Tịnh Độ và đề cập đến sự vãng sanh.” Xét chung về tâm nguyện cầu sanh của
những vị ấy, có ba loại vãng sanh—Countless sentient beings will be reborn
in the Pure Land, their numbers exceeding even the innumerable rain drops.
However, according to Most Venerable Thích Thiền Tâm in The Pure Land
Buddhism in Theory and Practice, sentient beings who seek rebirth in the
Pure Land are not limited to those weary of the sufferings in the realm of
the Five Turbidities, there are also those who compassionately wish to
save sentient beings in the Saha World, and those who look upward to the
goal of Buddhahood and downward to the salvation of deluded sentient
beings throughout the worlds of the ten directions. Whether their vows and
aspirations are low or high, once they are reborn in the Pure Land, all
derive the same benefits; none will ever retrogress and will ultimately
achieve Buddhahood and help sentient beings. Ancient masters once said:
“The Pure Land method is extremely lofty, profound and wonderful; only the
Buddhas can really fathom its depth. This is why even those great
Bodhisattvas who have reached the level of Equal Enlightenment still vow
to be reborn there. Even “One-life Bodhisattvas” or those who will become
Buddhas in their next lifetime must remain there to study and practice.
Such Mahayana texts as the Avatamsaka Sutra, the Lotus Sutra, the
Maharatnakuta Sutra, etc., all extol the Pure Land and discuss rebirth
there. There are are three categories of rebirth in the Pure Land.
1) Hạng
thứ nhất, là những phàm phu thấp kém nhưng chân thật, không hiểu công đức
cùng sự trang nghiêm ở Tịnh Độ, chỉ cảm nghĩ đời sống nhiều vất vã khổ
nhọc, cõi Ta Bà đầy chán nãn lo phiền, nên nguyện sanh về cõi nước thanh
tịnh an vui—The first category comprises ordinary beings who are of
limited capacities but true and sincere. They may not understand what
constitutes the virtues or adornments of Buddha lands; nevertheless,
realizing that life is full of hardship and suffering, and that the Saha
World abounds in worries and troubles, they vow to be reborn in a pure and
happy land.
2) Hạng
thứ hai, tuy cũng là phàm phu nhưng có trí huệ và chí nguyện lớn, muốn
sanh về cõi Cực Lạc để bảo đảm thoát ly nẻo luân hồi, mau chứng đạo quả,
hoàn thành chí nguyện tự độ độ tha—The second category is composed of
individuals who, although ordinary beings, possess great aspirations and a
certain degree of wisdom. They seek rebirth in the Pure Land to ensure
escape from transmigration, swift attainment of Buddhahood and fulfillment
of their Vows to rescue themselves and others.
3) Hạng
thứ ba, gồm từ hàng tiểu Thánh đã thoát ly vòng sống chết cho đến bậc Đẳng
Giác Bồ Tát, vì muốn mau tiến lên thượng địa, muốn học hỏi diệu pháp thành
Phật, nên phát nguyện vãng sanh—The third category ranges from the lesser
saints who have escaped Birth and Death to the greatest Bodhisattvas,
those at Equal Enlightenment stage. They vow to be reborn in the Pure Land
in order to progress swiftly to the ultimate “Bodhisattva ground” and
study the wonderful Dharma leading to Buddhahood.
Tam Chủng Viên Dung: See Tam
Viên Dung.
Tam Chủng Xiển Đề: Ba loại xiển
đề—Three kinds of icchantika:
1) Nhứt
Xiển đề: The wicked.
2) A Xiển
đề ca: Đại bi Xiển đề—Bodhisattvas who become icchantika to save all
beings, i.e. Earth Store Bodhisattva.
3) Vô
tính Xiển đề: Those without a nature for final nirvana.
Tam Chuyển: Ba lần chuyển Pháp
Luân khi Đức Phật giảng pháp trong vườn Lộc uyển—The three turns of the
law-wheel when the Buddha preached in the Deer Park:
1) Thị
chuyển: Indicative, postulation and definition of the Four Noble Truths.
2) Cần
chuyển: Khuyến chuyển—Hortative, suffering should be diagnosed—See Khuyến
Chuyển.
3) Chứng
chuyển: Evidential overcoming suffering.
Tam Chướng: Ba loại chướng
ngại—Three kinds of Vighna—Three hinderers—Three barriers
(A)
1) Phiền
não chướng: Hoặc chướng—Hindrances of affliction—Chướng gây nên bởi dục
vọng, ham muốn, hận thù và ngu si—Hinderers or barriers caused by
passions, desires, hate, stupidity.
2) Nghiệp
chướng: Karmic hindrances—Chướng ngại gây nên bởi những nghiệp đã được
làm—Hinderers caused by the deeds done.
3) Báo
chướng: Hindrances of retribution—Chướng gây nên những quả báo—Hinderers
caused by the retributions.
(B)
1) Bì
phiền não: Chướng ngại bởi ngoại cảnh—Delusions from external objects.
2) Nhục
phiền não: Chướng ngại gây nên bởi nội kiến—Delusions from internal views.
3) Tâm
phiền não: Chướng ngại gây nên bởi tâm thần mê muội—Delusions from mental
ignorance.
(C)
1) Ngã
mạn: Self-importance.
2) Tật
đố: Envy.
3) Tham
dục: Desire.
Tam Cổng Niết Bàn: Ba cửa ngõ
đi vào Niết Bàn—Three gates to the city of nirvana:
1) Không:
The emptiness—The void—Immaterial.
2) Vô
tướng: Vô sắc—Formless.
3) Vô
tác: Inactivity.
Tam Cụ Túc: Ba món cần thiết
khi thờ cúng—The three essential articles for worship:
1) Bình
hoa: Flower vase.
2) Đèn:
Candlestick.
3) Lư
hương: Censer.
Tam Cúng Dường: Ba pháp cúng
dường—Three modes of serving the Buddha:
1) Tài
Cúng Dường: Dâng hương, hoa, quả—Offerings of incense, flowers and fruits.
2) Lễ Bái
Cúng Dường: Tỏ lòng tôn kính—Offerings of praise and reverence.
3) Giới
Cúng Dường: Hành trì tốt—Good (right) conduct.
Tam Cùng: Three togethers:
1) Cùng
ăn: Eat together.
2) Cùng
ở: Live together.
3) Cùng
làm việc: Work together.
Tam Cương:
(A) Ba bổn
phận của con người được Khổng Tử dạy trong Tứ thư—Three relations of a
man’s duty taught in Confucian theory:
1) Quân
thần: King and subject.
2) Phụ
tử: Father and son.
3) Phu
phụ: Husband and wife.
(B) Ba vị sư
chính trong tự viện—Three main monks in a monastery:
1) Tự
Chủ: Vị sư trong coi tổng quát trong tự viện—Head of a monastery—An abbot,
or controller of all affairs in a monastery.
2) Thượng
Tọa: Vị sư trông coi việc hoằng pháp—Venerable, or bhikkhu who is
responsible for preaching the dharma.
3) Duy
Na: Vị sư giám viện—Supervisors of monks in a monastery.
Tam Dao Động: Theo Tương Ưng Bộ
Kinh, Phẩm Tầm Cầu, có ba Dao Động—According to The Connected Discourses
of the Buddha, Chapter Esanavaggo (Searches), there are three kinds of
trouble:
1) Tham
Dao Động: The trouble of lust.
2) Sân
Dao Động: The trouble of hatred.
3) Si Dao
Động: The trouble of delusion.
Tam Diện Đại Hắc Thiên: Trời
mặt đen—The three-faced great black deva—Mahakala.
Tam Diệu Hạnh: Ba phẩm chất của
một tăng sĩ—Three characteristics of a good monk:
1) Kềm
thúc nơi thân: Control his body.
2) Kềm
thúc nơi khẩu: Control his mouth.
3) Kềm
thúc nơi ý: Control his mind.
Tam Dục: The three lusts—Three
kinds of desire:
(A)
1) Hình
mạo dục: Ưa thích mặt mày mình mẩy đẹp đẻ—Lust for form.
2) Tư
thái dục: Ưa thích dung nghi cốt cách—Lust for carriage or beauty.
3) Tế xúc
dục: Thích sự xúc chạm nhẹ nhàng êm ái—Lust for softness to the touch or
refinement.
(B)
1) Dâm:
Sex.
2) Thực:
Food.
3) Thùy:
Sleep.
Tam Dục Sanh: Kamupapattiyo
(skt)—Theo Trường Bộ, Kinh Phúng Tụng, có ba loại dục sanh—According to
The Long Discourses of the Buddha, Sangiti Sutra, there are three kinds of
rebirth in the realm of Sense-Desire.
1) Có
những loại hữu tình do dục an trú. Đối với các dục họ chịu sự an trú, họ
bị chi phối phụ thuộc, như loài người, một số chư Thiên, và một số tái
sanh trong các đọa xứ: There are beings who desire what presents itself to
them, and are in the grip of that desire, such as human beings, some
devas, and some in state of woe.
2) Có
những loại hữu có lòng dục đối với những sự vật do họ tạo ra. Họ tạo ra
các sự vật và họ sống bị chi phối phụ thuộc trong những dục vọng ấy, như
các loài chư Thiên, Hóa Lạc Thiên: There are beings who desire what they
have created, such as the devas who rejoice in their own creation.
3) Có
những loại hữu tình có lòng dục đối với sự vật do các loài khác tạo ra. Họ
sống bị chi phối phụ thuộc trong những dục vọng đối với sự vật do các loài
khác tạo ra, như các loài Tha Hóa Tự Tại Thiên: There are beings who
rejoice the creations of others, such as the devas Having Power over
Others’ Creation.
Tam Duyên: Ba mối duyên nối kết
khi chúng ta cầu niệm Phật—Three nidanas or links with the Buddha
resulting from calling upon him:
1) Thân
duyên: Đức Phật A Di Đà nghe những người trì niệm hồng danh của Ngài, thờ
phụng Ngài, biết tâm họ và tâm Ngài là một—That Amitabha hears those who
call his name, sees their worship, knows their hearts and is one with
them.
2) Cận
duyên: Đức Phật A Di Đà hiển hiện ngay trước những người mong mỏi được
thấy Ngài—That Amitabha shows himself to those who desire to see him.
3) Tăng
thượng duyên: Những người mà trong mỗi lời nguyện luôn nguyện tẩy sạch
tội chướng, khi lâm mạng chung thời Đức Phật A Di Đà sẽ tiếp dẫn—At every
invocation (cầu nguyện) aeons of sins are blotted out (tẩy đi), Amitabha
and his sacred host receive such a disciple at death.
Tam Dư: Ba thứ còn thừa lại
khiến chúng sanh tiếp tục luân hồi—The three after death remainders, or
continued mortal experiences, of sravakas and pratyeka-buddha, who
mistakenly think they are going to final nirvana (Vô dư Niết bàn), but
will still find the following three remainders:
1) Phiền
não dư: Further passion and illusion.
2) Nghiệp
dư: Further karma.
3) Quả
dư: Continued rebirth, in realms beyond the trailoka (tam giới).
Tam Đa: Three More Dharmas.
1) Thêm
bạn tốt: Making more friends with good people.
2) Nghe
nhiều Phật pháp: Hearing more of Dharma law.
3) Quán
chiếu nhiều hơn về sự bất tịnh: Meditation more on the impure.
Tam Đà La Ni: Ba pháp Đà La Ni
hay là ba lực trì giữ trí huệ—Three kinds of Dharani or the power to
maintain wisdom or knowledge:
1) Thính
trì Đà La Ni: The power to retain all the teaching one hears.
2) Phân
biệt Đà La Ni: Unerring powers of discrimination.
3) Nhập
Âm thanh Đà La Ni: Power to rise superior to external praise or blame.
Tam Đại: Ba “Đại” được nói đến
trong Khởi Tín Luận—The three great characteristics mentioned in the
Awakening of Faith:
(A)
1) Thể
đại: Substance—The greatness of the bhutatathata in its essence or
substance.
2) Tướng
đại: Form—The greatness of its attributes or manifestations; perfect in
wisdom and mercy and every achievement.
3) Dụng
đại: Function—The greatness of its functions and operations within and
without, perfectly transforming all the living to good works and good
karma now and hereafter.
(B) Three generations:
1) Ông:
Grandfather.
2) Cha:
Father,
3) Con:
Son.
Tam Đại Tai: Ba tai họa
lớn—Three major calamities:
1) Thủy
tai: Calamities of water.
2) Hỏa
tai: Calamities of fires.
3) Phong
tai: Calamities of wind.
Tam Đàn: Tam bố thí—Three kinds
of dana—See Tam Bố Thí.
Tam Đảnh Lễ: Three prostrates
or prostrating to the Triple Jewel.
1) Chí
tâm đảnh lễ: Nam mô tận hư không biến pháp giới quá, hiện, vị lai thập
phương chư Phật, Tôn Pháp Hiền Thánh Tăng thường trụ Tam Bảo—With one mind
I now prostrate: Namo to the end of space of all the infinite dharma
realms of the three lifespans of all the ten directions of Buddhas,
Dharmas and virtuous Sangha of the Unchanging Triple Jewels.
2) Chí
tâm đảnh lễ: Nam mô Ta Bà Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đương Lai
Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật, Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ Hiền
Bồ Tát, Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát, Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát—With one
mind I now prostrate: Namo the ruler of the Saha World, Sakyamuni Buddha,
future born Maitreya Buddha, Great Wisdom Manjusri Maha-Bodhisattva, Great
Conduct Samantabhadra Maha-Bodhisattva, Dharma Protectors
Maha-Bodhisattvas, Mount Gradhakuta Assembly of Buddha and
Maha-Bodhisattvas.
3) Chí
tâm đảnh lễ: Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà
Phật, Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Đại Nguyện Địa Tạng
Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát—With one mind I now
prostrate: Namo Western Ultimate Bliss World, the Greatly Compassionate
Amitabha Buddha, Greatly Compassionate Avalokitesvara Bodhisattva, Great
Strength Mahasthamaprapta, Bodhisattva, Great Vow Ksitigarbha King
Bodhisattva, and the Ocean Assembly of Peaceful Bodhisattva.
Tam Đạo:
(A) Ba con
đường mà mọi người chúng ta đều phải đi qua—The three paths all have to
tread:
1) Phiền
não đạo: The path of misery, illusion, mortality.
2) Nghiệp
đạo: The path of works, action or doing, productive of karma.
3) Khổ
đạo: The resultant path of suffering.
(B) Theo Giáo Sư Junjiro Takakusu trong Cương Yếu Triết Học Phật
Giáo—According to Prof. Junjiro Takakusu in The Essentials of Buddhist
Philosophy: Phật giáo đặt nền tảng trên Tam Học (siksa): Giới, Định, Tuệ.
Nghĩa là nếu không trì giới thì tâm không định, tâm không định thì không
phát tuệ. Định ở đây bao gồm những kết quả vừa tư biện vừa trực quán. Tiếp
đó Đạo Phật còn dạy hành giả phải đi vào Tam Đạo là Kiến đạo, Tu đạo, và
Vô học đạo. Đây là ba giai đoạn mà hành giả phải trải qua khi tu tập Kiến
Đạo với Tứ Diệu Đế bằng cách thực hành Bát Chánh Đạo; kế đến, hành giả tu
tập Tu Đạo với Thất Giác Chi. Tu đạo ở đây lại có nghĩa là kết quả của suy
tư chân chánh; và cuối cùng là thực hiện hoàn toàn bằng Vô Học Đạo. Nói
cách khác, không thấy được đạo thì không tu được đạo và không thực hiện
được đời sống lý tưởng—Buddhism lays stress on the Threefold Learning
(siksa) of Higher Morality, Higher Thought, and Higher Insight. That is to
say, without higher morals one cannot get higher thought and without
higher thought one cannot attain higher insight. Higher thought here
comprises the results of both analytical investigation and meditative
intuition. Buddhism further instructs the aspirants, when they are
qualified, in the Threefold Way (marga) of Life-View, Life-Culture and
Realization of Life-Ideal or No-More Learning. These are three stages to
be passed through in the study of the Fourfold Truth by the application of
the Eightfold Noble Path; in the second stage it is investigated more
fully and actualized by the practice of the Seven Branches of
Enlightenment, life-culture here again means the results of right
meditation; and in the last stage the Truth is fully realized in the Path
of No-More-Learning. In other words, without a right view of life there
will be no culture, and without proper culture there will be no
realization of life.
1) Kiến
Đạo—The Path of Life-View: Thấy được chân lý chấm dứt luân hồi sanh tử,
như các bậc Thanh Văn và Sơ Địa Bồ Tát. Trong Tứ Diệu Đế, Đạo đế với Bát
Thánh Đạo mà Đức Phật dạy hàng Thánh giả phải tu tập (chánh kiến, chánh tư
duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh mạng,
chánh định)—The way or stage of beholding the truth of no reincarnation,
i.e. that of the Sravakas and the first stage of the Bodhisattvas. In the
Fourfold Noble Truth, the Path to Enlightenment with the Eightfold Noble
Path which the Buddha taught to be pursued by the Ariya (right view, right
thought, right speech, right action, right mindfulness, right endeavor,
right livelihood, right concentration)—See Tứ Diệu Đế and Bát Chánh Đạo.
2) Tu
Đạo—The Path of Life-Culture (Cultivating the truth): Giai đoạn thứ hai
của con đường nầy là con đường tu tập hay Tu Đạo theo Thất Giác Chi (trạch
pháp, tinh tấn, hỷ, khinh an, niệm, định, và xả)—The next stage of the
path is the Path of Practice and is described as the Seven Branches of
Enlightenment (thorough investigation of the Principle, brave effort,
joyous thought, peaceful thought, mindfulness, concentration, and
equanimity)—See Thất Giác Chi.
3) Vô Học
Đạo—The Path of No-More-Learning: Đã hoàn toàn thấu triệt chân lý mà không
phải học nữa. Hành giả đi đến giai đoạn sau cùng, tức là con đường không
còn gì để học nữa, Vô Học Đạo. Khi đó kết quả mà hành giả hướng đến khi tu
tập tứ diệu đế sẽ tự đến. Khi hành giả đạt đến giai đoạn cuối cùng nầy thì
trở thành một vị A La Hán. Theo Tiểu Thừa, đó là quả vị giác ngộ cao nhất.
Nhưng theo Đại Thừa, A La Hán chỉ mới giác ngộ được một phần mà thôi. Lý
tưởng của đạo Phật là hoàn tất đức tính của con người, hay là đưa con
người đến Phật quả bằng căn bản trí tuệ giới hạnh, đó là nhân cách cao
nhất. Đó là những đặc điểm của đạo Phật—Completely comprehending the truth
without further study. Practitioners proceed to the last stage, i.e., the
Path of No-More-Learning. Then the firm conviction that they have realized
the Fourfold Truth will present itself. When the Ariya reaches this stage,
he becomes an arhat. According to the Hinayanistic view this is the
perfect state of enlightenment, but according to the Mahayanistic view an
arhat is thought to be only partially enlightened. The purpose of Buddhism
is to perfect a man's ’haracter, or to let him attain Buddhahood on the
basis of wisdom and right cultivation, i.e., the highest personality. Such
are the characteristics of Buddhism—See A La Hán.
** For more information,
please see Nghiệp,
Khổ, Hoặc nghiệp Khổ, and Phiền Não Nghiệp Khổ.
Tam Đạt: Ba siêu việt của
Phật—The three aspects of the omniscience of Buddha:
1) Biết
nghiệp tương lai: Knowledge of future karma.
2) Biết
nghiệp quá khứ: Knowledge of past karma.
3) Biết
phiền não và giải thoát trong hiện tại: Knowledge of present illusion and
liberation.
Tam Đắc: Ba loại thọ giới—Three
kinds of obtaining the commandments.
1) Đắc
Giới: Hiểu và hành trì được theo giới pháp—To attain to the understanding
and performance of the moral law—See Đắc Giới.
2) Tác
Pháp Đắc: Được truyền giới qua nghi thức—To obtain ordination in a
ceremony—See Tác Pháp Đắc.
3) Tự Thệ
Đắc: Self-ordination—See Tự Thệ Thọ Giới.
Tam Đẳng: Ba bình đẳng
tánh—Three equal and universal characteristics of the one Tathagata:
(A)
1) Thân:
Body.
2) Ngữ:
Discourse.
3) Ý:
Mind.
(B)
1) Tu
hành: Buddha’s life or works.
2) Pháp
thân: Spiritual body.
3) Độ
sinh: Salvation.
Tam Đẳng Lưu: Three equal or
universal currents or consequences:
1) Chân
đẳng lưu: Hậu quả theo sau hành động thiện, bất thiện hay trung tính—The
certain consequences that follow on a good, evil or neutral kind of nature
respectively.
2) Giả
đẳng lưu: Hậu quả đặc biệt của tiền kiếp như giết người thì yểu mệnh—The
temporal or particular fate derived from a previous life’s ill deeds
(shortened life from taking life).
3) Phân
vị đẳng lưu: Từng bộ phận khi tái sanh theo hậu quả trước, chẳng hạn mình
làm mù mắt ai trong kiếp trước thì kiếp nầy mình mù mắt—Each organ as
reincarnated according to its previous deeds (if you had made someone
blind in your previous life, you will be blind this or next life).
Tam Đẳng Trì:
Samadhi-equilibrium.
Tam Đế Thiên Thai: Theo Giáo Sư
Junjiro Takakusu trong Cương Yếu Triết Học Phật Giáo, nếu bạn giả thuyết
thật thể là một bản thể trường tồn là bạn hoàn toàn mê hoặc, thế nên tông
Thiên Thai đề ra ba chân lý hay tam đế. Theo tông nầy thì cả ba chân lý ấy
là ba trong một, một trong ba. Nguyên lý thì là một, nhưng phương pháp
diễn nhập lại là ba. Mỗi một trong ba đều có giá trị toàn diện—According
to Prof. Junjiro Takakusu in The Essentials of Buddhist Philosophy, if you
suppose noumenon to be such an abiding substance, you will be misled
altogether; therefore, the T’ien-T’ai School sets forth the threefold
truth. According to this school the three truths are three in one, one in
three. The principle is one but the method of explanation is threefold.
Each one of the three has the value of all:
1) Không
Đế: Chân lý của của Không—The truth of void—Mọi sự thể đều không có hiện
thực tính và do đó, tất cả đều không. Vì vậy, khi luận chứng của chúng ta
y cứ trên “Không,” chúng ta coi “Không” như là siêu việt tất cả ba. Như
vậy, cả thảy đều là “Không.” Và khi một là không thì cả thảy đều là
“Không.” (Nhất không nhất thiết không, nhất giả nhất thiết giả, nhất trung
nhất thiết trung). Chúng còn được gọi là “Tức không, tức giả, và tứ
trung,” hay Viên Dung Tam Đế, ba chân lý đúng hợp tròn đầy, hay là tuyệt
đối tam đế, ba chân lý tuyệt đối. Chúng ta không nên coi ba chân lý nầy
như là cách biệt nhau, bởi vì cả ba thâm nhập lẫn nhau và cũng tìm thấy sự
dung hòa và hợp nhất hoàn toàn. Một sự thể là không nhưng cũng là giả hữu.
Nó là giả bởi vi nó không, và rồi, một sự là không, đồng thời là giả cho
nên cũng là trung—All things have no reality and, therefore, are void.
Therefore, when our argument is based on the void, we deny the existence
of both the temporary and the middle, since we consider the void as
transcending all. Thus, the three will all be void. And, when one is void,
all will be void (When one is void, all will be void; when one is
temporary, all is temporary; when one is middle, all will be middle). They
are also called the identical void, identical temporary and identical
middle. It is also said to be the perfectly harmonious triple truth or the
absolute triple truth. We should not consider the three truths as
separate because the three penetrate one another and are found perfectly
harmonized and united together. A thing is void but is also temporarily
existent. It is temporary because it is void, and the fact that everything
is void and at the same time temporary is the middle truth.
2) Giả
Đế: Chân lý của giả tạm—The truth of temporariness—Dù sự thể có hiện hữu
thì cũng chỉ là giả tạm. Giống như khi biện luận về Không Đế, khi một là
Giả thì tất cả là Giả—Although things are present at the moment, they have
temporary existence. The same will be the case when we argue by means of
the temporary truth.
3) Trung
Đế: Chân lý của phương tiện—The truth of mean—Sự thể chỉ là phương tiện,
hay quảng giữa. Giống như biện luận trên Không Đế, khi một là Trung thì
tất cả là Trung. Trung không có nghĩa là ở giữa hai cái phi hữu và giả
hữu, mà nó ở trên, nó vượt qua cả hai. Thực ra nó là cả hai bởi vì thực
tướng có nghĩa Trung chính là không tướng và giả tướng—They are only mean
or middle. The same will be the case when we argue by means of the middle
truth. The middle does not mean that it is between the non-existence and
temporary existence. In fact, it is over and above the two; nor it is
identical with the two, because the true state means that the middle is
the very state of being void and temporary.
Tam Điên Đảo: Ba điên đảo làm
cho chúng sanh nghĩ tưởng điên đảo, vô thường cho là thường, khổ cho là
lạc, vô ngã cho là ngã, bất tịnh cho là tịnh—The three subversions or
subverters which make beings to apprehend objects that are impermanent,
painful, not self, and foul, as permanent, pleasant, self, and beautiful:
1) Tưởng
đảo: Evil thoughts.
2) Kiến
đảo: False views.
3) Tâm
đảo: A deluded mind.
** For more information,
please see Tứ Điên Đảo, Thất Điên Đảo,
and Bát Điên Đảo in Vietnamese-English
Section.
Tam Định: Three Samadhis—See
Tam Giải Thoát.
Tam Đoạn: Ba diệt đoạn—Three
cutting off or excisions of beguiling delusions or perplexities:
(A)
1) Kiến
sở đoạn: To cut off delusions of view.
2) Tu sở
đoạn: Practice to cut off delusions.
3) Phi sở
đoạn: Nothing left to cut off.
(B)
1) Tự
tính đoạn: To cut off the nature or roots of delusions.
2) Duyên
phược đoạn: To cut off the external bonds, or objective cause of delusion.
3) Bất
sinh đoạn: Delusions no longer arise, therfore, nothing produced to cut
off. This is the stage of an Arhat.
(C) Theo Thanh Tịnh
Đạo—The Path of Purification:
1) Ức
đoạn: Đoạn trừ bằng cách ức chế như đè cây lau bằng cách đặt trên ngọn cây
một cái bình đầy nước có lỗ—Abandoning by supressing. This is like the
pressing down of water-weed by placing a porous pot on weed-filled water.
2) Đoạn
bằng cách thay vào một pháp ngược lại, giống như thay thế bóng tối bằng
ánh sáng: Abandoning by substitution of opposite. It is like the abandning
of darkness at night through the means of a light—Please see Thập Bát Tuệ
Quán.
3) Đoạn
trừ bằng cách cắt đứt: Abandoning by cutting off.
Tam Đồ: Ba đường dữ—The three
unhappy gati or ways:
1) Hỏa
đồ: The hell of fires.
2) Huyết
đồ: The hell of blood where animals devour each other.
3) Đao
đồ: The hell of swords where the leaves and grasses are sharp-edged
swords.
Tam Đồ Ác Đạo: Ba đường
dữ—Three realms (paths) of woe—Three lower paths of the six
destinations—The paths of evil deeds—Three evil courses—Three miserable
worlds:
1) Địa
ngục: The hells.
2) Ngạ
quỷ: The world of hungry ghosts.
3) Súc
sanh: The world of animals.
Tam Đồ Lục Đạo: Ba nẻo sáu
đường—Three miserable paths and six realms—See Tam Đồ, Tam đồ Ác đạo and
Lục Đạo in Vietnamese-English Section.
Tam Độc: Còn gọi là Tam Cấu hay
Tam Chướng, là ba thứ độc hại hay ba món phiền não lớn. Đây là những thứ
ác căn bản gắn liền trong đời sống khởi sanh đau khổ. Phiền não có rất
nhiều, nói rộng thì đến 84 ngàn, nói hẹp thì có 10 loại phiền não gốc,
trong có có tam độc tham sân si—Three Poisons—Three sources of all
passions and delusions. The fundamental evils inherent in life which give
rise to human suffering. The three poisons are regarded as the sources of
all illusions and earthly desires. They pollute people’s lives. Men worry
about many things. Broadly speaking, there are 84,000 worries. But after
analysis, we can say there are only 10 serious ones including the three
evil roots of greed, hatred, and delusion.
1) Tham:
Raga (skt)—Greed—Concupiscience—Lust—Wrong desire—Lòng ham muốn vị kỷ thúc
đẩy chúng ta thỏa mãn những gì mình cần cũng như những gì mình không xứng
đáng được như ăn uống, nhà cửa, xe cộ, tài sản và danh vọng, vân vân. Mắt
thì ham nhìn nơi sắc đẹp không biết chán, tai ham nghe mọi thứ âm thanh du
dương, mũi ham mong ngửi mùi hương các loại, lưỡi ham nếm các vị béo bổ
ngọt ngon, thân ham những xúc chạm mịn màng, và ý ham các sự ghét thương
bỉ thử, vân vân. Lòng tham của con người như thùng không đáy, như biển cả
lấy nước liên tục từ trăm ngàn sông hồ to nhỏ, hết ngày nầy qua ngày khác.
Trong thời mạt pháp nầy, chúng sanh nói chung và nhân loại nói riêng, đã
và đang dùng đủ mọi phương cách, thủ đoạn, mưu chước để lường gạt và tàn
hại lẫn nhau. Thế nên cuộc đời của chúng sanh, nhất là nhân loại, vốn dĩ
đã đau khổ, lại càng đau khổ hơn. Tất cả đều do nơi tánh tham lam, lòng
ích kỷ bỏn xẻn mà ra. Chính bằng mưu gian chước quỷ, dối gạt, phương tiện
cũng như lật lọng bằng mọi thủ đoạn để đạt cho bằng được. Lòng tham là
mãnh lực tinh thần mạnh mẽ khiến cho người ta đấu tranh giết chóc, lọc lừa
dối trá lẫn nhau, ngay cả những hành động tàn độc cũng không chừa—It is a
selfish desire for more than we need or deserve, such as food, house, car,
wealth, honors, etc. Eyes are longing for viewing beautiful forms without
any satisfaction, ears are longing for melodious sounds, nose is longing
for fragrance, tongue is longing for delicate tastes, body is longing for
soothing touches, and mind is longing for various emotions of love and
hate from self and others. Human beings’ greediness is like a barrel
without bottom. It is just as the great ocean obtaining continuously the
water from hundreds and thousands of large and small rivers and lakes
everyday. In this Dharma Ending Age, sentient beings, especially human
beings use every method to manipulate and harm one another. Sentient
beings’ lives, especially, those of human beings’ are already filled with
pain and sufferings, now there are even more pain and sufferings. Through
tricks, expedients, and manipulations we try to reach our goal
irrespective of whatever happens to others. Greed is a powerful mental
force that drives people to fight, kill, cheat, lie and perform various
forms of unwholesome deeds.
2) Sân:
Pratigha (p)—Dosa or Dvesa (skt)—Anger—Aversion—Hate—Resentment—Sự sân hận
đốt cháy trong lòng chúng sanh, gây nên biết bao cảnh trái ý và thù nghịch
cho người khác. Người sân hận nói năng thô bỉ không có chút từ bi, tạo nên
không biết bao nhiêu là khổ não. Trong Tam Độc, mỗi thứ có một ác tính độc
đáo khác nhau; tuy nhiên, sân hận có một tướng trạng vô cùng thô bạo, nó
là kẻ thù phá hoại đường tu cũng như công hạnh của người tu Phật mạnh mẽ
nhất. Lý do là khi một niệm sân hận đã sanh khởi trong tâm thì liền theo
đó có muôn ngàn thứ chướng ngại khác lập tức hiện ra, ngăn trở con đường
tu đạo, công hạnh cũng như sự tiến tu của người học đạo. Chính vì thế mà
cổ đức có dạy rằng: “Nhứt niệm sân tâm khởi, bá vạn chướng môn khai.” (có
nghĩa là khi một niệm oán thù vừa chớm khởi, thì có ngàn muôn cửa chướng
khai mở). Thí dụ như đang lúc ngồi thiền, bỗng chợt nhớ đến người kia bạc
ác, xấu xa, gây cho ta nhiều điều cay đắng xưa nay. Do nghĩ nhớ như thế
nên tâm ta chẳng những không yên, mà còn sanh ra các sự buồn giận, bức
rức. Thân tuy ngồi yên đó mà lòng dẫy đầy phiền não sân hận. Thậm chí có
người không thể tiếp tục tọa thiền được nữa, cũng như không thể tiếp tục
làm những gì họ đang làm vì tâm họ bị tràn ngập bởi phiền não. Lại có
người bực tức đến quên ăn bỏ ngủ, nhiều khi muốn làm gì cho kẻ kia phải
chết liền tức khắc mới hả dạ. Qua đó mới biết cái tâm sân hận nó luôn dày
xéo tâm can và phá hoại con đường tu tập của người tu như thế nào. Chính
vì thấy như thế mà Đức Phật đã dạy cách đối trị sân hận trong Kinh Pháp
Hoa như sau: “Lấy đại từ bi làm nhà, lấy nhẫn nhục làm áo giáp, lấy tất cả
pháp không làm tòa ngồi.” Chúng ta phải nên nghĩ rằng khi ta khởi tâm giận
hờn phiền não là trước tiên tự ta làm khổ ta. Chính ngọn lửa sân hận ấy
bên trong thì thiêu đốt nội tâm, còn bên ngoài thì nó khiến thân ta ngồi
đứng chẳng yên, than dài, thở vắn. Như thế ấy, chẳng những chúng ta không
cải hóa được kẻ thù, mà còn không đem lại chút nào an vui lợi lạc cho
chính mình—It is a fire that burns in all human beings, causing a feeling
of displeasure or hostility toward others. Angry people speak and act
coarsely or pitiless, creating all kinds of sufferings. Of the three great
poisons of Greed, Hatred and Ignorance, each has its own unique evil
characteristic. However, of these poisons, hatred is unimaginably
destructive and is the most powerful enemy of one’s cultivated path and
wholesome conducts. The reason is that once hatred arises from within the
mind, thousands of karmic obstructions will follow to appear immediately,
impeding the practitioner from making progress on the cultivated path and
learning of the philosophy of Buddhism. Therefore, the ancient virtuous
beings taught: “One vindictive thought just barely surfaced, ten thousands
doors of obstructions are all open.” Supposing while you were practicing
meditation, and your mind suddenly drifted to a person who has often
insulted and mistreated you with bitter words. Because of these thoughts,
you begin to feel sad, angry, and unable to maintain peace of mind; thus,
even though your body is sitting there quietly, your mind is filled with
afflictions and hatred. Some may go so far as leaving their seat, stopping
meditation, abandoning whatever they are doing, and getting completely
caught up in their afflictions. Furthermore, there are those who get so
angry and so depressed to the point where they can’t eat and sleep; for
their satisfaction, sometimes they wish their wicked friend to die right
before their eyes. Through these, we know that hatred is capable of
trampling the heart and mind, destroying people’s cultivated path, and
preventing everyone from practicing wholesome deeds. Thus the Buddha
taught the way to tame hatred in the Lotus Sutra as follows: “Use great
compassion as a home, use peace and tolerance as the armor, use all the
Dharma of Emptiness as the sitting throne.” We should think that when we
have hatred and afflictions, the first thing that we should be aware of is
we are bringing miseries on ourselves. The fire of hatred and afflictions
internally burns at our soul, and externally influences our bodies,
standing and sitting restlessly, crying, moaning, screaming, etc. In this
way, not only are we unable to change and tame the enemy, but also unable
to gain any peace and happiness for ourselves.
3) Si:
Mudhaya (p)—Moha (skt)—Folly or Ignorance—Stupidity—Delusion—Unwillingness
to accept Buddha-truth—Unintelligence—Vì si mê mà người ta không thấy được
cái nhìn như thị, không thể phân biệt đúng sai. Ngu si làm cho người ta mù
quáng về chấp ngã, chấp pháp là những thứ vô thường, luôn thay đổi và hoại
diệt—Due to ignorance, people do not see things as they really are, and
cannot distinguish between right and wrong. They become blind under the
delusion of self, clinging to things which are impermanent, changeable,
and perishable.
Tam Độc Tham, Sân, Si Chẳng Những Gây
Phiền Chuốc Não Cho Ta, Mà Còn Ngăn Chận Không Cho Chúng Ta Hưởng Được
Hương Vị Thanh Lương Giải Thoát: Three poisons of greed, hatred
and ignorance do not only cause our afflictions, but also prevent us from
tasting the pure and cool flavor of emancipation (liberation).
Tam Đức: Ba đức của Phật là
thường hằng, hỷ lạc, và thanh tịnh (Thường, Lạc, Tịnh)—Three Buddha’s
virtues or powers which are eternal, joyful, and pure :
(A) Theo Đại Thừa, có ba đức của Phật—According to the Mahayana, there
are three Buddha’s virtues:
1) Pháp
thân đức: Pháp thân Phật là vĩnh hằng—Dharmakaya—The virtue or potency of
the Buddha’s eternal sipritual body.
2) Bát
nhã đức: Trí huệ Phật biết được thực tính của chư pháp—Buddha’s prjana or
wisdom, knowing all things in their reality.
3) Giải
thoát đức: Phật giải thoát, không còn vướng mắc nào—Buddha’s freedom from
all bonds and his sovereign liberty.
(B) Theo Kinh
Niết Bàn có ba đức của Phật—According to Nirvana Sutra, there are another
three Buddha’s virtues:
1) Trí
đức: Đức toàn giác—The potency of Buddha perfect knowledge.
2) Đoạn
đức: Đức đoạn diệt khổ đau và chứng nhập Niết bàn tối thượng—Buddha’s
ability to cut off all illusion and perfect of supreme nirvana—The power
or virtue of bringing to an end all passion and illusion, and enter the
perfect nirvana.
3) Ân
đức: Đức phổ cứu chúng sanh—Buddha’s universal grace and salvation which
bestows the benefits he has acquired on others.
(C)
1) Nhân
viên đức: Qua ba a tăng kỳ kiếp, nhân duyên tròn đầy—The perfection of
Buddha’s causative or karmaic works during his three great kalpas of
preparation.
2) Quả
viên đức: Toàn thiện quả vị và trí huệ Phật—The perfection of the fruit or
result of Buddha’s own character and wisdom.
3) Ân
viên đức: Toàn thiện ân cứu độ chúng sanh—The perfection of Buddha’s grace
in the salvation of others.
(D)
1) Trí
Đức: All-knowing virtues or qualities of a Buddha.
2) Bi
Đức: All-pitying virtues of a Buddha.
3) Định
Đức: Contemplative virtues of a Buddha.
Tam Giả: Prajnapti (skt)—Ba cái
không thật—Trong Phật giáo, đặc biệt là trong Thành Thực Luận và Kinh Bát
Nhã, mọi vật chỉ là hiện tượng, gồm những yếu tố cấu thành; không có cái
gì có thực hữu, chỉ là hư không và không thật—Three unrealities or three
phenomenals—Three fallacious postulates—In Buddhism, especially in the
Satyasiddhi-sastra and the Maha-Prajna Sutra, everything is merely
phenomenal, and consists of derived elements; nothing therefore has real
existence, but all is empty and unreal:
1) Pháp
giả: Chư pháp tự tánh vốn là hư giả không thật (pháp do nhân duyên mà
sinh ra)—All dharmas (things) are unreal.
2) Thọ
giả: Thọ nhận vốn không thật (chư pháp đều thọ nhận nơi các pháp khác, như
thọ nhận tứ đại mà thành vô tình chúng sanh, thọ nhận ngũ uẩn mà thành hữu
tình chúng sanh, tức là thọ nhận biệt thể để làm thành tổng
thể)—Sensations (feelings) are unreal.
3) Danh
giả: Cái tên của chư pháp đều không thật (Danh nương vào ý tưởng mà có chứ
không có tự tánh)—Names are unreal.
Tam Giả Quán: Ba cách quán chư
pháp là giả tạm—The meditation on three unreal objects:
1) Quán
pháp giả: Contemplate on unreal dharmas.
2) Quán
thọ giả: Contemplate on unreal sensations.
3) Quán
danh giả: Contemplate on unreal names.
Tam Giác: Ba loại giác
ngộ—Three kinds of enlightenments:
(A)
1) Tự
giác: Enlightenment for self.
2) Giác
tha: Help others attain enlightenment.
3) Giác
hạnh viên mãn: Perfect enlightenment and achievement.
(B)
1) Bổn
giác: Inherent, potential enlightenment or intelligence of every being.
2) Thủy
giác: Initial or early stage of enlightement, brought about through the
external or influence of teaching.
3) Cứu
cánh giác: Completion of enlightenment.
Tam Giải Thoát: Vimokshatraya
(skt)—Ba đối tượng quán chiếu dẫn tới giải thoát—Three subjects or objects
of the meditation that lead toward liberation (three emancipations):
1) Không:
Sunyata (skt)—Emptiness—Hiểu được bản chất của vạn hữu vốn không nên làm
cho cái tâm không, cái tôi không, cái của tôi không, khổ không, là giải
thoát—To empty the mind of the ideas of me, mine and sufferings which are
unreal.
2) Vô
Tướng: Animitta (skt)—Signlessness (having no-signs)—Đoạn trừ mọi hình
tướng bên ngoài là giải thoát—To get rid of the idea of form, or
externals. There are no objects to be perceived by sense-organs.
3) Vô
Nguyện: Apranihita (skt)—Wishlessness (desirelessness)—Đoạn trừ tất cả mọi
mong cầu cho đến khi nào không còn một mảy may ham muốn hay cố gắng để đạt
được bất cứ thứ gì là giải thoát—To get rid of all wishes or desires until
no wish of any kind whatsoever remains in the cultivator’s mind, for he no
longer needs to strive for anything.
Tam Giáo:
(A) Three
religions: Buddhism, Confucianism and Taoism.
(B)
Sakyamuni’s teaching:
1) Tạng
giáo hay Tam tạng giáo: The Tripitaka doctrine (the orthodox of
Hinayana)—See Tạng Giáo, Thiên Thai Ngũ Thời Bát Giáo and Thiên Thai Tông.
2) Thông
giáo: The intermediate, or interrelated doctrine
(Hinayana-cum-Mahayana)—See Thông Giáo and Thiên Thai Hóa Pháp Tứ Giáo.
3) Biệt
giáo: The differentiated or separated doctrine (Early Mahayana as a cult
or development, as distinct from Hinayana)—See Biệt Giáo.
Tam Giáo Thông Khảo: A Thorough
Study in the Three Religions—Bộ sách được biên soạn bởi An Thiền Thiền Sư,
Thiền sư nổi tiếng của Việt Nam vào đầu thế kỷ thứ 19. Sách được biên soạn
vào giữa thế kỷ thứ 19, có lẽ được in vào khoảng năm 1845. Sách gồm ba
phần—A book composed by Zen master An Thiền, A Vietnamese famous Zen
master in the early nineteenth century. The book was composed in the
middle of the nineteenth century. Probably printed in 1845. The bok
included three divisions:
I) Quyển
thứ nhất—Phật Giáo: First volume—Buddhism.
1) Phụng
Chiếu cầu pháp: Việc du học của Thiền sư Tính Tuyền Trạm Công—The travel
in seeking the Buddha Dharma of Zen Master Tính Tuyền Trạm Công.
2) Bản
Quốc Thiền Môn Kinh Bản: Các bản kinh khắc ở Việt Nam—Sutras printed in
Vietnam.
3) Đại
Nam Thiền Học Sơ Khởi: Khởi thủy Thiền học Việt Nam—The beginning of Zen
in Vietnam.
4) Đại
Nam Phật Tháp: Các tháp Phật ở Việt Nam—Buddha stupas in Vietnam.
5) Vô
Ngôn Thông Truyền Pháp: Thiền phái Vô Ngôn Thông—Wu-Yun-T’ung Zen Sect.
6) Danh
Trấn Triều Đình: Các cao Tăng nổi tiếng ở triều đình—Famous monks at the
Royal Palace.
7) Lê
Triều Danh Đức: Các cao Tăng thời Tiền Lê—Famous monks during the Tiền Lê
Dynasty.
8) Lý
Triều Danh Đức: Các cao Tăng thời nhà Lý—Famous monks during the Lý
Dynasty.
9) Trần
Triều Danh Đức: Các cao Tăng đời Trần—Famous monks during the Trần
Dynasty.
10) Tỳ Ni Đa
Lưu Chi Truyền Pháp: Thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi—Vinitaruci Zen Sect.
11) Tuyết Đậu
Truyền Pháp: Thiền phái Thảo Đường—Thảo Đường Zen Sect.
12) Những
việc thần bí liên quan đến các Thiền sư Việt Nam qua các triều đại: Mystic
things involving Vietnamese Zen masters throughout all dynasties.
13) Danh từ
Phật học và các thần thoại Phật Giáo ở Trung Hoa và Việt Nam: Buddhist
terms and mythological stories about Buddhism in China and Vietnam.
II) Quyển
thứ hai—Khổng Giáo: Second volume—Confucianism.
III) Quyển
thứ ba—Lão Giáo: Third volume—Taoism.
Tam Giáo Tướng: Ba cách dạy của
Phật—The three modes of the Buddha’s teaching of the Southern sects:
1) Đốn:
Immediate—See Đốn Giáo and Đốn Tiệm.
2) Tiệm:
Gradual or progressive—See Tiệm Giáo.
3) Bất
định: Intermediate—See Bất Định Giáo.
Tam Giới: Traidhatuka
(skt)—Trailokya (p)—Tại Thế—Three realms (three worlds) and Three sets of
commandments:
(A) Three
realms: Theo Trường Bộ, Kinh Phúng Tụng, cõi luân hồi sanh tử được chia
làm ba—According to The Long Discourses of the Buddha, Sangiti Sutra, the
realms of births and deaths divided into three realms of existence:
1) Dục
giới: Kamadhatu (skt)—Cảnh giới tham sắc dục và thực dục. Gồm sáu cõi
trời, cõi người và địa ngục. Chúng sanh trong cõi dục giới nầy đều có ngũ
uẩn tạo thành thân thể vật chất (thế giới vật chất bao trùm từ lục đạo đến
các cõi trời đều thuộc dục giới nầy)—The realm of passions—The realm of
(sensuous) desire of sex and food. It includes the six heavens, the human
world, and then hells. All beings in this realm possess five aggregates or
panca-skandha—See Ngũ Uẩn.
2) Sắc
giới: Rupadhatu (skt)—Cảnh giới bên trên Dục giới gồm Tứ Thiền Thiên—Đây
là cõi của thiên thần bậc thấp (Chúng sanh trong cõi nầy không có dâm dục
và thực dục, chỉ có thân thân thể vật chất tốt đẹp thù thắng, cõi nước
cung điện nguy nga. Tóm lại trong cõi nầy tham dục vật chất không ngừng tự
thạnh, nhưng chưa giải thoát hết các mối phiền trược của vật chất vi tế. Y
cứ theo tinh thần tu dưỡng cao cấp, cõi nầy chia làm tứ thiền thiên)—The
realm of Beauty—The realm of form or matter. It is above the lust world.
It is represented in the Brahamlokas (tứ thiền thiên)—The realm of the
lesser deities—See Tứ Thiền Thiên.
3) Vô sắc
giới: Arupadhatu (skt)—Cảnh giới vô sắc, không còn thân thể, cung điện, đồ
vật. Nơi đó tâm an trụ trong thiền định thâm diệu. Cảnh giới nầy trải dài
đến Tứ Không Xứ—Đây là cõi của thiên thần bậc cao (cảnh giới nầy cao hơn
cảnh sắc giới, chúng sanh không còn bị vật chất ràng buộc, đương thể thuần
là tinh thần độc lập, chúng sanh trong cõi nầy thường trụ trong thâm định,
không có cảnh giới xứ sở. Y theo thắng liệt của thiền định, cõi nầy là cõi
tứ không xứ)—The realm of no Beauty (non-form)—The formless or immaterial
realm of pure spirit. There are no bodies, palaces, things. Where the
mind dwells in mystic contemplation. Its extent is indefinable in the
four “empty” regions of spaces (Tứ không xứ)—This is the realm of the
higher deities—See Tứ Không Xứ.
(B) Ba giới
khác—Three more realms:
1) Sắc
giới: Rupa-dhatu (skt)—The realm of form.
2) Vô sắc
giới: Arupa-dhatu (skt)—The formless realm.
3) Diệt
giới: Nirodha-dhatu (skt)—The realm of cessation.
(C) Ba loại
giới khác—Three other realms:
1) Liệt
giới: Hina-dhatu (skt)—The low realm.
2) Trung
giới: Majjhima-dhatu (skt)—The middle realm.
3) Thắng
giới: Panita-dhatu (skt)—The sublime realm.
(D) Ba loại
giới luật—Three sets of commandments:
1) Sa di
giới: Mười giới Sa Di—The ten commandments for the novice.
2) Bát
quan trai giới: The eight commandments for the devout Buddhist at home.
3) Ngũ
giới: Năm giới cho Phật tử tại gia—The five commandments for the ordinary
laity.
** For more information,
please see Tam Hữu.
Tam Giới Do Tâm Sinh:
Cittamhi-traidhatukayonih (skt)—Tâm là nguồn gốc của ba cõi—The mind is
the origin of the triple world.
Tam Giới Duy Nhất Tâm:
Tribhavasva-cittamatram (skt)—Tam giới duy thị tự tâm hay tam giới duy chỉ
do tâm nầy. Trong Kinh Lăng Già, Đức Phật dạy: “Vị Bồ tát Ma ha Tát thấy
rằng thế giới chỉ là sự sáng tạo của tâm, mạt na và ý thức; rằng thế giới
được sinh tạo do phân biệt sai lầm bởi cái tâm của chính mình; rằng không
có những tướng trạng hay dấu hiệu nào của một thế giới bên ngoài mà trong
đó nguyên lý đa phức điều động; và cuối cùng rằng ba cõi chỉ là cái tâm
của chính mình—The triple world is but one mind—The triple world is just
Mind. In the Lankavatara Sutra, the Buddha taught: “The
Bodhisattva-mahasattvas sees that the triple world is no more than the
creation of the citta, manas, and mano-vijnana, that it is brought forth
by falsely discriminating one’s own mind, that there are no signs of an
external world where the principle of multiplicity rules, and finally that
the triple world is just one’s own mind.”
Tam Giới Duy Thị Tự Tâm:
Svacitta-matram-traidhatukam (skt)—Ba cõi chỉ là tâm của mình—The triple
world is no more than one’s own mind—See Tam Giới Duy Nhất Tâm.
Tam Giới Hỏa Trạch: The burning
house of the triple worlds—See Tam Giới Như Hỏa Trạch.
Tam Giới Nhãn: The
trailokya—Buddha who sees all the realms and the way of universal escape.
Tam Giới Như Hỏa Trạch: Dục
giới, sắc giới và vô sắc giới đang thiêu đốt chúng sanh với những khổ đau
không kể xiết. Tam giới giống như nhà lửa đang hừng hực cháy. Kinh Pháp
Hoa dạy: “Ba cõi không an, dường như nhà lửa, sự khổ dẫy đầy, đáng nên sợ
hãi.” Chúng sanh trong ba cõi, đặc biệt là chúng sanh trong cõi Ta Bà nầy,
luôn bị những sự khổ não và phiền muộn bức bách. Sống chen chúc nhau trong
đó như ở giữa một căn nhà đang bốc cháy, dẫy đầy hiểm họa, chẳng biết còn
mất lúc nào. Ấy thế mà mọi người chẳng biết, chẳng hay, cứ mãi nhởn nhơ
vui thú của ngũ dục, làm như không có chuyện gì xãy ra cả. Phật tử chơn
thuần nên luôn nhớ vậy để lúc nào cũng chuyên cần tinh tấn tu hành cầu
giải thoát—The three realms of Desire, Form and Formless realms scorching
sentient beings, such sufferings are limitless. The triple worlds as a
burning house. In the Lotus Sutra, the Buddha taught: “The three worlds
are unsafe, much like a house on fire. Suffering is all pervasive, truly
deserving to be terrified and frightened.” Sentient beings in the three
worlds, especially those in the Saha World, are hampered constantly by
afflictions and sufferings. Living crowded in the suffering conditions of
this Saha World is similar to living in a house on fire, full of dangers,
life can end at any moment. Even so, everyone is completely oblivious and
unaware, but continues to live leisurely, chasing after the five desires,
as if nothing was happening. Sincere Buddhists should always remember this
and should always diligently cultivate to seek liberation.
Tam Giới Sàng: The sick-bed of
the Trailokya—The Saha World of suffering.
Tam Giới Tạng: The
Trailokya-garbha—The womb or storehouse of all the transmigrational.
Tam Giới Tôn: The Honoured One
of the three worlds (Buddha).
Tam Giới Từ Phụ: The kindly
father of the triple world.
Tam Hành: Three lines of action
that affect karma:
(A) Sự hành
động dưới ba loại nghiệp—Actions under three kinds of karma:
1) Thập
thiện nghiệp: Phước Hành—The ten good deeds that cause happy karma.
2) Thập
ác nghiệp: The ten evil deeds that cause unhappy karma.
3) Vô ký
nghiệp (Vô thiện vô ác): Bất động nghiệp—Neither good nor evil karma, that
arise without activity.
(C) Sự hành
động dưới ba hình thức—Actions in three forms:
1) Thân
hành: Kaya-sankhara (p)—Physical actions.
2) Ngôn
hành: Vaci-sankhara (p)—Verbal actions.
3) Tâm
hành: Citta-sankhara (p)—Mental actions.
Tam Hỏa: Three fires:
1) Lửa
Tham dục: Fire of desire.
2) Lửa
Sân hận: Fire of hatred.
3) Lửa Vô
minh: Fire of stupidity or ignorance.
Tam Hoang Vu: Theo Tương Ưng Bộ
Kinh, Phẩm Tầm Cầu, có ba Hoang Vu—According to The Connected Discourses
of the Buddha, Chapter Esanavaggo (Searches), there are three kinds of
barrenness:
1) Tham
Hoang Vu: The barrenness of lust.
2) Sân
Hoang Vu: The barrenness of hatred.
3) Si
Hoang Vu: The barrenness of delusion.
Tam Hoặc: Tam phiền não—Tam
lậu—Tam cấu—Three delusions.
(A) Theo tông
Thiên Thai, có ba loại hoặc—According to the T’ien-T’ai Sect, there are
three delusions:
1) Kiến
tư hoặc: Thấy và nghĩ tưởng theo ảo vọng từ những nhận xét không hoàn hảo,
với những cám dỗ của yêu ghét, vân vân. Muốn loại bỏ những cấu chướng nầy,
người ta phải tuân thủ và hành trì giới luật (mê chấp tướng sanh
tử)—Things seen and thought illusions from imperfect perception, with
temptation to love, hate, etc., to be rid of these false views and
temptations, one must cultivate and observe moral precepts.
2) Trần
sa hoặc: Phiền não và cám dỗ trong lúc cứu độ chúng sanh (mê chấp cứu độ
chúng sanh để đuợc vào cõi Niết Bàn)—Illusion and temptation through the
immense variety of duties in saving others.
3) Vô
minh hoặc: Phiền não và cám dỗ khởi lên từ chỗ không hiểu chư pháp và thực
tánh của chúng. Phiền não khởi lên từ căn bản vô minh làm che lấp mất chân
lý. Trong Biệt Giáo và Viên Giáo, Bồ Tát khắc phục vô minh hoặc trong sơ
địa (mê chấp về tướng nhị biên)—The illusions and temptations that arise
from failure philosophically to understand things in their
reality—Illusion arising from primal ignorance which covers and hinders
the truth. In the Differentiated Teaching, this illusion is overcome by
the Bodhisattva from the first stage; in the Perfect Teaching, it is
overcome by the Bodhisatva in the first resting-place.
(B) Theo Phật
Giáo Nguyên Thủy, có ba nhóm lậu hoặc—According to the Hinayana Buddhism,
there are three groups of delusions:
1) Dục
lậu: Say mê về dục lạc trần thế: Kamasava (p)—Intoxicant of worldly
desires or sensual pleasures.
2) Hữu
lậu: Bhavasava (p)—Sự ham muốn hiện hữu trong một trong những cảnh giới
hữu lậu—The love of existence in one of the conditioned realms.
3) Vô
minh lậu: Avijjasava (p)—Sự uế nhiễm trong tâm khởi lên từ sự ngu si—The
defilements of ignorance in mind.
*** Ngoài ra, có người còn cho rằng có lậu thứ tư là Kiến lậu, là những
quan điểm đồi bại—Besides, some considers the fourth delusion: the
corruption of views.
Tam Học: Three studies—Three
practices of precepts, meditation and wisdom:
1) Giới:
Sila (skt & p)—Trì giới là để tránh những hậu quả xấu ác do thân khẩu ý
gây nên. Theo Phật Giáo Nhìn Toàn Diện của Tỳ Kheo Piyadassi Mahathera,
trước khi gia công thực hành những nhiệm vụ khó khăn hơn, như tu tập thiền
định, điều chánh yếu là chúng ta phải tự khép mình vào khuôn khổ kỷ cương,
đặt hành động và lời nói trong giới luật. Giới luật trong Phật Giáo nhằm
điều ngự thân nghiệp và khẩu nghiệp, nói cách khác, giới luật nhằm giúp
lời nói và hành động trong sạch. Trong Bát Chánh Đạo, ba chi liên hệ tới
giới luật là chánh ngữ, chánh nghiệp, và chánh mạng. Người muốn hành thiền
có kết quả thì trước tiên phải trì giữ ngũ giới căn bản không sát sanh,
trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ và uống rượu cũng như những chất cay độc làm
cho tâm thần buông lung phóng túng, không tỉnh giác—Discipline—Learning by
the commandments or prohibitions, so as to guard against the evil
consequences of error by mouth, body or mind. According to Bhikkhu
Piyadassi Mahathera in The Spetrum of Buddhism, it is essential for us to
discipline ourselves in speech and action before we undertake the arduous
task of training our mind through meditation. The aim of Buddhism morality
is the control of our verbal and physical action, in other words, purity
of speech and action. This is called training in virtue. Three factors of
the Noble Eightfold Path form the Buddhsit code of conduct. They are right
speech, right action, and right livelihood. If you wish to be successful
in meditation practice, you should try to observe at least the five basic
precepts of morality, abstinence from killing, stealing, illicit sexual
indulgence, speaking falsehood and from taking any liquor, including
narcotic drugs that cause intoxication and heedlessness—See Giới (I).
2) Định:
Dhyana (skt)—Thiền định. Theo Tỳ Kheo Piyadassi Mahathera trong Phật Giáo
Nhìn Toàn Diện, giới đức trang nghiêm giúp phát triển định tâm. Ba chi
cuối cùng của Bát Chánh Đạo là chánh tinh tấn, chánh niệm, và chánh định,
hợp thành nhóm định. Hành giả có thể ngồi lại trong một tịnh thất, dưới
một cội cây hay ngoài trời, hoặc một nơi nào thích hợp khác để gom tâm
chăm chú vào đề mục hành thiền, đồng thời không ngừng tinh tấn gội rữa
những bợn nhơ trong tâm và dần dần triệt tiêu năm triền cái để định tâm
vào một điểm—Meditation—By Dhyana or quiet meditation. According to
Bhikkhu Piyadassi Mahathera in The Spectrum of Buddhism, virtue aids the
cultivation of concentration. The first three factors of the Noble
Eightfold Path, right effort, right mindfulness and right concentration,
form the concentration group. This called training in concentration or
samadhi-sikkha. Progressing in virtue the meditator practices mental
culture, Seated in cloister cell, or at the foot of a tree, or in the open
sky, or in some other suitable place, he fixes his mind on a subject of
meditation and by unceasing effort washes out the impurities of his mind
and gradually gains mental absorption by abandoning the five hindrances.
3) Huệ:
Prajna (skt)—Cũng theo Tỳ Kheo Piyadassi Mahathera trong Phật Giáo Nhìn
Toàn Diện thì tâm định ở mức độ cao là phương tiện để thành đạt trí tuệ
hay tuệ minh sát. Tuệ bao gồm chánh kiến và chánh tư duy, tức là hai chi
đầu trong Bát Chánh Đạo. Trí tuệ giúp chúng ta phá tan lớp mây mờ si mê
bao phủ sự vật và thực chứng thực tướng của vạn pháp, thấy đời sống đúng
như thật sự, nghĩa là thấy rõ sự sanh diệt của vạn hữu—Wisdom—By
philosophy—Study of principles and solving of doubts. Also according to
Bhikkhu Piyadassi Mahathera in The Spectrum of Buddhism, high
concentration is the means to the acquisition of wisdom or insight. Wisdom
consists of right understanding and right thought, the first two factors
of the path. This is called the training in wisdom or panna-sikkha. Wisdom
helps us get rid of the clouded view of things, and to see life as it
really is, that is to see life and things pertaining to life as arising
and passing.
** For more information,
please see Tam Tu
in
Vietnamese-English Section.
Tam Huệ: Theo truyền thống Phật
giáo Nguyên Thủy, có ba cách đạt được trí huệ—According to the Theravadan
Buddhism, there are three modes of attaining moral wisdom:
1) Văn
Huệ: Sutamaya-panna (p)—Đạt được văn huệ qua đọc nghe và những lời giáo
huấn—Attaining moral wisdom from reading, hearing and
instruction—Attaining wisdom based on learning.
2) Tư
huệ: Cintamaya-panna (p)—Đạt được tư huệ qua suy tư—Attaining moral wisdom
from reflection—Attaining wisdom based on thinking.
3) Tu
huệ: Bhavanamaya-panna (p)—Đạt được tu huệ qua tu hành phát triển tâm
linh—Attaining moral wisdom from practice of abstract meditation
(attaining wisdom based on mental development).
Tam Hữu: Ba loại hiện hữu—Three
kinds of existence—Three states of mortal existence in the trailikya:
(A)
1) Tướng
trì hữu: Qualities (good, bad, length, shortness).
2) Giả
danh hữu: Phenomenal things—See Giả Danh Hữu.
3) Pháp
hữu: The noumenal or imaginary, understood as facts and not as
illusions—See Pháp Hữu.
(E) Theo
Tương Ưng Bộ Kinh, Phẩm Tầm Cầu, có ba loại hữu—According to The Connected
Discourses of the Buddha, Chapter Esanavaggo (Searches), there are three
kinds of existence:
1) Dục
Hữu: Hiện hữu dục giới—Existence in the realm of desire—Sense-sphere
existence.
2) Sắc
Hữu: Hiện hữu sắc giới—Existence in the realm of form—Form-sphere
existence.
3) Vô Sắc
Hữu: Hiện hữu hay quả báo thực tại của vô sắc giới—Existence in the realm
of formlessness (immaterial realm)—Formless-sphere existence.
(C)
1) Hiện
hữu: Bổn Hữu—Present existence or the present body and mind.
2) Trung
hữu: Antara-bhava (skt)—Thân tâm sau khi chết—The intermediate state of
existence.
3) Đương
hữu: Thân tâm đời sau—Existence in the future state.
** For more information,
please see Tam
Giới.
Tam Hữu Duy Phân Biệt: Ba cõi
là sản phẩm của phân biệt, không có cái gì như là thế giới bên ngoài
cả—The triple world is no more than the product of discrimination, there
is no such thing as an external world.
Tam Hữu-Vi Pháp: Three active
or functioning dharmas:
1) Sắc
pháp: Pratigha—Matter or form which has substantial resistance—Material
or things which have form.
2) Tâm
Pháp: Phi sắc pháp—The mind (mental).
3) Phi
sắc phi tâm pháp: Những pháp không phải sắc mà cũng không phải
tâm—Entities neither of matter nor mind.
Tam Hữu-Vi Tướng: Ba tướng hữu
vi—Three forms of all phenomena:
1) Sanh:
Upada—Birth.
2) Trụ:
Sthiti—Stay or life.
3) Chết:
Nirvana—Death.
Tam Kết: Samyoga (skt)—Đức Phật
đã nói trong Kinh Niết Bàn: “Này thiện nam tử, Tu Đà Hoàn tuy có thể cắt
đứt vô lượng phiền não, nhưng vì ba kết rất nặng nên chúng cũng bao hàm
tất cả kết mà Tu Đà Hoàn đã đoạn.”—In the Nirvana Sutra, the Buddha said:
“Srota-apanna though has cut off inummerable illusions; however, the
three ties are so serious that if he is able to cut off these three ties,
he can cut off all other ties:
1) Kiến
Kết: Ngã kiến—The tie of false views of permanent ego.
2) Giới
Thủ Kết: Silavrataparamarsa (skt)—Giới Cấm Thủ Kết.
·
Hành tà giới: The tie of wrong discipline.
·
Chấp vào cái công hạnh phát sinh do sự tuân thủ giới luật
đạo đức: Taking hold of the merit accruing from the observance of the
rules of morality.
3) Nghi
Kết: Nghi ngờ chánh lý—The tie of doubt.
Tam Khát Ái: Theo Tương Ưng Bộ
Kinh, Phẩm Tầm Cầu, có ba loại Khát Ái—According to The Connected
Discourses of the Buddha, Chapter Esanavaggo (Searches), there are three
kinds of craving:
1) Dục
Khát Ái: Craving (thirst) for sensual pleasures.
2) Hữu
Khát Ái: Craving (thirst) for existence.
3) Phi
Hữu Khát Ái: Craving (thirst) for extermination.
Tam Khổ: Theo Tương Ưng Bộ
Kinh, Phẩm Tầm Cầu, có ba loại khổ—Chúng sanh mọi loài đều kinh qua ba
loại khổ—According to The Connected Discourses of the Buddha, Chapter
Esanavaggo (Searches), there are three aspects of Dukkha—Three kinds of
duhkha (Pain—Sufferings)—All sentient beings experience three types of
sufferings:
1) Khổ
Khổ Tánh: Dukkha-dukkha (skt)—Khổ gây ra bởi những nguyên nhân trực tiếp
hay khổ khổ, gồm những nỗi khổ xác thân như đau đớn, già, chết; cũng như
những lo âu tinh thần—Dukkha as ordinary suffering—Suffering due to
pain—Suffering that produce by direct causes or suffering of misery,
Including physical sufferings such as pain, old age, death; as well as
mental anxieties.
2) Hoại
Khổ Tánh: Viparinama-dukkha (skt)—Khổ gây ra bởi những thay đổi—Dukkha as
produced by change—Suffering due to change—Suffering by loss or
deprivation or change.
3) Hành
Khổ Tánh: Samkhara-dukkha (skt)—Khổ vì chư pháp vô thường, thân tâm nầy vô
thường—Dukkha as conditioned states—Suffering due to formations—Suffering
by the passing or impermanency of all things, body and mind are
impermanent.
Tam Không: The three voids or
immaterialities, or the threefold of svabhava:
(A)
1) Không:
Empty—Void.
2) Vô
tướng: No-appearance.
3) Vô
nguyện: No vow.
(B) Svabhava (skt).
1) Ngã
không: No-self.
2) Pháp
không: All things are empty.
3) Câu
không: Tất cả đều không—All phenomena are empty or immaterial.
(C) Tam Không
trong bố thí Ba La Mật—Three voids in Paramita charity:
1) Không
thấy người nhận: No receiver.
2) Không
thấy người cho: No giver.
3) Tất cả
đều không: All are empty.
Tam Kiên: The three sure or
certain things for the true disciple:
1) Thân
sống vô cực: Infinite body or personality.
2) Mạng
thọ vô cùng: Endless life.
3) Tài
sản vô tận: Boundless sipritual possessions.
Tam Kiếp: The three asankhyeya
kalpas—The three countless aeons—The periods of a bodhisattva’s
development:
1) Trang
nghiêm kiếp: The past aeon.
2) Hiền
kiếp: The present aeon.
3) Tinh
túc kiếp: The future kalpa.
Tam Kiếp Tam Thiên Phật: The
thousand Buddhas in each of the three kalpas.
Tam Kiêu: Three
intoxications—See Tam Pháp (xxxxxiii).
Tam Kiêu Mạn: Theo Tương Ưng Bộ
Kinh, Phẩm Tầm Cầu, có ba loại kiêu mạn—According to The Connected
Discourses of the Buddha, Chapter Esanavaggo (searches), there are three
kinds of discrimination:
1) Kiêu
mạn ‘Tôi hơn’: The discrimination ‘I am superior.’
2) Kiêu
mạn ‘Tôi bằng’: The discrimination ‘I am equal.’
3) Kiêu
mạn ‘Tôi thua’: The discrimination ‘I am inferior.’
Tam Kinh Tịnh Độ: Three Pure
Land Sutras:
1) Kinh A
Di Đà: Amitabha Sutra.
2) Kinh
Vô Lượng Thọ: Longer Amitabha Sutra.
3) Kinh
Quán Vô Lượng Thọ: Meditation Sutra.
Tam Kỳ Đặc: The three
incomparable kinds of rareness.
1) Thần
Thông Kỳ Đặc: Thần lực kỳ đặc hóa độ chúng sanh—Incomparable kinds of
power to convert all beings.
2) Huệ
Tâm Kỳ Đặc: Trí huệ Phật—Buddha wisdom.
3) Nhiếp
Thọ Kỳ Đặc: Phật lực có khả năng lôi kéo và cứu độ chúng sanh—Buddha-power
to attract and save all beings.
Tam Lạc: Three joys:
1) Vui
được sanh Thiên: The joy of being born a deva.
2) Vui
trong thiền định: The joy of meditation.
3) Vui
nhập Niết bàn: The joy of nirvana.
Tam Lậu: Three taints—See Tam
Lậu Hoặc.
Tam Lậu Hoặc: Theo Tương Ưng Bộ
Kinh, Phẩm Tầm Cầu, có ba lậu hoặc—According to The Connected Discourses
of the Buddha, Chapter Esanavaggo (Searches), there are three affluences
or taints that feed the stream of mortality or transmigration:
1) Dục
Lậu Hoặc: Tất cả phiền não trong dục giới, ngoại trừ vô minh—Desire or the
taint of sensuality.
2) Hữu
Lậu Hoặc: Tất cả phiền não trong sắc giới và vô sắc giới ngoại trừ vô
minh—Material or phenomenal existence—The taint of existence.
3) Vô
Minh Lậu Hoặc: Vô minh trong tam giới—Ignorance of the way of escape—The
taint of ignorance.
Tam Liễu Tri: Theo Thanh Tịnh
Đạo, có ba loại Liễu Tri—According to The Path of Purification, there are
three kinds of Full-Understanding.
1) Sở Tri
Liễu Tri: Trí trong ý nghĩa hiểu biết—Full understanding as the known.
Understanding that is direct-knowledge is knowledge in the sense of the
known
2) Suy
Đạt Liễu Tri: Tuệ với tư cách liễu tri gọi là trí trong ý nghĩa phê
phán—Full understanding as investigating or judging. Whatever states are
fully-understod are judged.
3) Đoạn
Trừ Liễu Tri: Trí theo ý nghĩa từ bỏ—Full understanding as abandoning.
Tam Luân: The three-wheel.
(A)
1) Thân
Phật: Buddha’s body or deeds.
2) Khẩu
Phật: Buddha’s mouth or discourses.
3) Tâm
Phật: Buddha’s mind or ideas.
(B)
1) Thần
Thông Luân: Buddha’s supernatural powers, or powers of bodily
self-transformation, associated with his body.
2) Ký Tâm
Luân: Buddha’s discriminating understanding of others, asociated with his
mind.
3) Giáo
Giới Luân: Buddha’s oral powers of teaching, associated with his
discourses or speech.
(C) Bánh xe phiền não sanh nghiệp, nghiệp sanh khổ đau, và khổ đau lại
sanh phiền não. Ba bánh xe này luân chuyển không ngừng nghỉ—The wheel of
illusion produces karma, that of karma sets rolling that of suffering,
which in turn sets rolling the wheel of illusion. These three wheels are
in constant revolution
1) Hoặc
Luân: The wheel of Delusions.
2) Nghiệp
Luân: The wheel of Karma.
3) Khổ
Luân: The wheel of Suffering.
(D)
1) Vô
Thường Luân: The wheel of Impermanence.
2) Bất
Tịnh Luân: The wheel of Impurity.
3) Khổ
Luân: The wheel of Distress.
Tam Luân Giáo: The three
periods of the Buddha’s teaching:
1) Chuyển
Pháp Luân: The first rolling onwards of the Law-wheel, the first years
teaching of Hinayana, four axioms (Tứ Đế) and unreality (Không).
2) Chiếu
Pháp Luân: Illuminating or explaining the law-wheel, the thirty years
teaching of the Prajna (Bát Nhã) or Wisdom Sutras.
3) Trì
Pháp Luân: Maintaining the law-wheel, the remaining years of teaching of
the deeper truths of both unreality (Không) and reality (Hữu).
Tam Luân Hóa Đạo: Three
sovereign powers for converting others:
1) Thần
biến: Do thân nghiệp của Đức Phật hiện đủ loại thần biến, khiến chúng sanh
khởi chánh tín—Supernatural transformation (thân: physical).
2) Ký
tâm: Dùng ý nghiệp của Đức Phật phân biệt được tâm hành sai biệt của kẻ
khác (thức biệt tha tâm)—Memory or knowledge of all the thoughts of all
beings (ý: mental).
3) Giáo
giới: Dùng khẩu nghiệp của Đức Phật để răn dạy chúng sanh khiến họ tu
hành—Teaching and warning.
Tam Luân Thế giới: The
Three-Wheel world.
Tam Luận Sự: Three topics of
discussion—See Tam Pháp (xxxxxv).
Tam Luận Tông:
(A) Cương yếu
Tam Luận Tông—Preliminary of the Madhyamika School—Đây là tông phái chủ
trương “Đại Thừa Phủ Định Luận.” Tiếng Phạn gọi là Madhyamika, chủ trương
học thuyết Trung Đạo, Không Luận, hay Tương Đối Luận. Tam Luận Tông dựa
vào ba bộ luận được Ngài Long Thọ và đệ tử của ngài là Đề Bà biên soạn. Ba
bộ luận ấy là Trung Quán Luận, Thập Nhị Môn Luận, và Bách Luận (see Trung
Quán Luận, Thập Nhị Môn Luận, and Bách Luận). Những cố gắng của Tam Luận
Tông quy tụ vào sự bài bác tất cả các quan điểm tích cực và khẳng định của
các tông không lấy phủ định biện chứng làm căn bản. Sự bài bác trước tiên
nhắm thẳng vào những quan điểm sai lầm của Bà La Môn và tà giáo; kế đến
nhắm vào những thiên kiến của phái Tiểu Thừa; và sau cùng nhắm vào những
kiến giải độc đoán của đề ra bởi các tác giả của phái Đại Thừa không phải
là Tam Luận. Lý tưởng của Tam Luận Tông hình như là tiêu diệt hý luận. Căn
bản của mọi luận chứng của Tam Luận Tông là ‘Tứ Cú.’ (see Tứ Cú Tam Luận
Tông (A))—Madhyamika school of Nagarjuna, or the Mahayanistic Negativism,
called Madhyamika in Sanskrit. The doctrine of the Middle Path, or
Sunyatavada, the “Theory of Negativity” or “Relativity.” The school was
based on the three main sastras, Madhyamika-Sastra or Middle Path,
Dvadasa-dvara-Sastra or the Twelve Gates, and the Sata-Sastra or the One
Hundred Verse Treatise. The efforts of the Madhyamika School are centered
on the refutation of all positive and affirmative views of other schools
which have no foundation of dialectical negation. The refutation is
directed first against the wrong views of Brahmanism and heretics,
secondly against the one-sided views of Hinayana, and thirdly against the
dogmatic views positively set forth by the Mahayanistic authors other
than San-Lun School. The ideal of the Madhyamika School seems to have been
eliminated the ‘inexplicable in speech and unrealizable in thought.’ The
basis of all arguments is what we called the ‘Four Points of
Argumentation.”
(B) Sơ Tổ Tam
Luận Tông—The founder of the Madhyamika School: Long Thọ Bồ Tát—Nagarjuna
Bodhisattva—See Long Thọ (2) in Vietnamese-English Section, and Nagarjuna
in Sanskrit/Pali-Vietnamese Section.
(C) Lịch sử
thành lập Tam Luận Tông ở Ấn Độ—History of the formation of the Madhyamika
School in India—Theo Giáo Sư Stcherbatsky trong “Cương Yếu Triết Học Phật
Giáo,” được soạn bởi Giáo Sư Takakusu, những giai đoạn phát triển của giáo
lý Đại Thừa đặc biệt đề cập đến Trung Quán sau đây—According to Prof.
Stcherbatsky in The Essentials of Buddhist Philosophy composed by Prof.
Takakusu, the Mahayana philosophy has developed in the following periods
with special reference to Madhyamika:
1) Thế kỷ
thứ nhất sau Tây Lịch—First century A.D.: Sự hưng khởi của Đại Thừa A Lại
Da Thức và Chân Như, cả hai đều do Ngài Mã Minh khởi xướng—The rise of
Mahayana Alaya-vijnana or Store-Consciousness and Tathata or Thusness,
both admitted by Asvaghosa.
2) Thế kỷ
thứ hai sau Tây Lịch—Second century A.D.: Tánh Không Duyên Khởi Luận, do
Long Thọ và Đề Bà thành lập—The theory of universal relativity or Sunyata,
formulated by Nagarjuna and Aryadeva.
3) Thế kỷ
thứ ba và thứ tư sau Tây Lịch—Third and fourth centuries A.D.: Một khoảng
trống. Tuy nhiên, trong thời gian nầy có hai ngài Kiên Huệ và Di Lặc. Di
Lặc là vị thầy trực tiếp hay gián tiếp của ngài Vô Trước, và tính cách
lịch sử của ông thì không thể nghi ngờ gì được, mặc dù có những huyền
thuyết nên một số học giả xem ông như là nhân vật tưởng tượng—A gap;
however, during this time two great monks Saramati and Maiteya appeared.
Maitreya is a direct or indirect teacher of Asanga and his historicity
cannot be doubted, although, because of mysterious legends surrounding
him, some scholars are inclined to regard him as an imaginary person.
4) Thế kỷ
thứ năm—Fifth century: Lập trường duy tâm của Vô Trước và Thế Thân—The
idealistic interpretation of Asanga and Vasubandhu.
5) Thế kỷ
thứ sáu—Sixth century: Phân tranh giữa các phái duy tâm và tánh không—A
split between the idealistic and relativistic schools.
a) An Huệ
và Trần Na là những đại biểu cho phái Duy Tâm: Sthiramati and Dignaga are
representatives for the idealistic school.
b) Phật
Hộ và Thanh Biện là những đại biểu cho phái Tánh Không—Buddhapalita and
Bhavaviveka are representatives for the relativistic school.
6) Thế kỷ
thứ bảy—Seventh century: Hệ thống Trung Quán hoàn thành triệt để dưới sự
xiển dương của Nguyệt Xứng—Final establishment of Madhyamika system in
its extreme form by Candrakirti.
(D) Lịch sử
thành lập Tam Luận Tông ở Trung Quốc—History of the formation of the
Madhyamika School in China: Lịch sử của Tam Luận Tông bắt đầu ở Trung Hoa
với sự xuất hiện của Cưu Ma La Thập như sau—The history of the Madhyamika
School begins in China with the advent of the famous Kumarajiva, and the
transmission is said to have been as follows:
1) Thế kỷ
thứ năm sau Tây Lịch—Fifth century A.D.: Trung Luận Quán của ngài Long Thọ
được Cưu Ma La Thập phiên dịch và truyền cho các đồ đệ Đạo Sanh, Đàm Tế,
và Tăng Lãng. Trong số đó Tăng Lãng là một truyền nhân xuất sắc, cuối cùng
đã tách hẳn Tam Luận tông khỏi Thành Thật tông (Tiểu Thừa Không Luận
tông). Tam Luận Tông Trung Quốc có nền tảng thực thụ là do công trình của
Tăng Lãng—Nagarjuna’s Madhyamika Sastra was translated and expounded by
Kumarajiva and handed down to his pupil Tao-Sheng, T’an-Chi, and
Seng-Lang. Seng-Land, a distinguished successor, finally separated the
San-Lun School clearly from Satyasiddhi School, the Hinayanistic Nihilism.
The Chinese San-Lun School owes its real foundation to Seng-Lang’s work.
2) Thế kỷ
thứ sáu sau Tây Lịch—Sixth century A.D.: Pháp Lãng là một đạo sư vĩ đại,
có hai mươi lăm đệ tử dưới tay. Cát Tạng là một nhân vật lỗi lạc trong
nhóm nầy. Thân phụ ông đã xuất gia và thường dẫn ông đi nghe ngài Chân Đế
thuyết pháp. Rồi Cát Tạng xuất gia theo Pháp Lãng và được Pháp Lãng đặc
biệt dạy dỗ. Khi được 19 tuổi đọc và trùng tuyên những bài giảng của Thầy
không mảy may sai lạc, khiến thính chúng rất đỗi ngạc nhiên. Ông trụ tại
chùa Gia Tường, do đó được gọi là Gia Tường Đại Sư—Fa-Lang was a great
leader who had twenty-five pupils under him. Chi-Tsang was the outstanding
member of this group. His father had entered the order and often took
him to hear lectures by Paramartha, the then flourishing Indian teacher in
China. Chi-Tsang himself joined the order under Fa-Lang and received a
special training from him. When nineteen years of age, he lectured and
recapitulated his teacher’s lectures without any mistakes, to the great
atonishment of the listeners. He lived in Chia-Hsiang monastery and is
known by the name Chia-Hsiang Tashih, or the great master of
Chia-Hsiang—See Cát Tạng Đại Sư.
(E) Các bộ
luận căn bản—Basic commentaries:
1) Trung
Quán Luận: Trung Quán Luận được viết bởi Ngài Long Thọ. May mắn là bản
Phạn ngữ vẫn còn tồn tại. Bản Hán văn do Cưu Ma La Thập dịch—Madhyamika
Sastra written by Nagarjuna. Fortunately the Sanskrit text of it has been
preserved. It was translated into Chinese by Kumarajiva—See Trung Quán
Luận.
2) Thập
Nhị Môn Luận: Thập Nhị Môn Luận cũng được viết bởi Ngài Long Thọ—The
Twelve Gates, also written by Nagarjuna—See Thập Nhị Môn Luận.
3) Bách
Luận: Bách Luận được viết bởi Đề Bà, đệ tử của Ngài Long Thọ—The One
Hundred Verse Treatise, written by Aryadeva—See Bách Luận.
4) Đại
Trí Độ Luận: Prajnaparamita sastra—See Đại Trí Độ Luận.
(F) Lịch sử
thành lập Tam Luận tông tại Nhật Bản—The history of the formation of the
Madhyamika School in Japan: Ở Nhật Bản, Tam Luận tông không hề là một
ngành học độc lập, nhưng học thuyết vẫn được tiếp nối học hỏi một cách
nồng nhiệt đến cả ngày nay, vì nó thiết yếu cho người học Phật, là một khí
giới sắc bén của luận chứng biện chứng, cũng như là căn bản lý thuyết làm
nền tảng cho nhiều tông phái tích cực và hoạt động của Phật Giáo ngày
nay—In Japan, the school was never an independent institution, but the
study of its doctrine has been ardently continued even to the present time
because it is indispensable for Buddhist students as one of the chief
objects of Buddhist learning and a strong weapon of dialectic argument, as
well as the theoretical basis underlying many of the more positive and
active schools of Buddhism today.
1) Thế kỷ
thứ bảy—Seventh century A.D.: Huệ Quán, người Cao Ly, đồ đệ của Cát Tạng,
sang Nhật năm 625 và giảng giáo lý Tam Luận tại chùa Nguyên Hưng ở Nại
Lương. Đây là sự truyền thừa Tam Luận tông đầu tiên tại Nhật
Bản—Chi-Tsang’s Korean pupil, Hui-Kuan from Kauli, a state in Korea, came
to Japan in 625 and taught the Madhyamika doctrine at the monastery
Gwangoji in Nara. This is the first transmission of Madhyamika to Japan.
2) Truyền
thừa thứ hai do Trí tạng, một đồ đệ của Huệ Quán—The second transmission
was by Chizo, a pupil of Hui-Kuan.
3) Truyền
thừa thứ ba do Đạo Từ, đồ đệ của Nguyên Khang, tác giả bản Sớ Giải Tam
Luận—The third transmission was by Doji, a pupil of Yuan-K’ang, the author
of the commentary on the Three treatise.
(G) Triết Lý
Tam Luận Tông—Philosophy of the Madhyamika School: Triết lý Tam Luận Tông
có ba phần—The teaching of the Madhyamika School has three aspects:
1) Phá tà
hiển chánh: The refutation of erroneous views and elucidation of right
views—See Phá Tà Hiển Chánh.
2) Phân
biệt Chân Đế Tục Đế: The distinction between worldly truth and the higher
truth—See Nhị Đế.
3) Bát
Bất Trung Đạo: The Middle Path of the Eightfold Negation—See Bát Bất Trung
Đạo.
Tam Lực: Three powers:
1) Ngã
công đức lực: Năng lực tu hành của tự thân hay tự duyên—Personal power.
2) Như
lai gia trì lực: Sự gia trì của Đức Như Lai hay tha duyên—Tathagata power.
3) Pháp
giới lực: Phật tính sẳn có trong tự tâm hay nội nhân—Power of
Buddha-nature within.
Tam Lượng: Theo Hòa Thượng
Thích Thiền Tâm trong Niệm Phật Thập Yếu và Liên Tông Thập Tam Tổ, kinh
điển dạy rằng người niệm Phật nên y theo ba lượng để củng cố lòng
tin—According to Most Venerable Thích Thiền Tâm in The Pure Land Buddhism
in Theory and Practice and The Thirteen Patriarchs of Pure Land Buddhism,
the Buddhist sutras and commentaries, the Pure Land practitioner should
follow three guidelines to consolidate his faith.
1) Lý Trí
Lượng: The Guideline of Reason—Lý trí lượng là sự suy lường tìm hiểu của
lý trí, chẳng hạn như suy nghĩ, ‘các thế giới đều do tâm tạo, đã có cõi
người thuộc phân nửa thiện ác, tất có tam đồ thuộc nhiều nghiệp dữ, và các
cõi trời thuộc nhiều nghiệp lành. Như thế tất cũng có cõi Cực Lạc do
nguyện lực thuần thiện của Phật, và công đức lành của chư Bồ Tát cùng
những bậc thượng thiện nhơn—This is the reasoning and understanding of
human logic. For example, we may reflect, ‘all realms are created from the
mind. If there is a world such as ours, where god karma and bad karma are
about equal, there must exist other worlds such as the three Evil Paths,
with a preponderance of evil karma, as well as celestial realms, where
good karma prevails. It therefore stands to reason that the Western Pure
Land exists as a result of the pure, good Vows of Amitabha Buddha as well
as the virtues of the Bodhisattvas and other morally superior beings.
2) Thánh
Ngôn Lượng: The Guideline of the Teachings of the Sages—Thánh ngôn lượng
là giá trị lời nói của chư Phật và chư Bồ Tát trong các kinh điển. Đức Thế
Tôn đã dùng tịnh nhãn thấy rõ y báo và chánh báo nơi cõi Cực Lạc, và diễn
tả cảnh giới ấy trong các kinh Tịnh Độ. Các bậc đại Bồ Tát như Văn Thù,
Phổ Hiền đều ngợi khen cõi Cực Lạc và khuyên nên cầu vãng sanh. Người Phật
tử nếu không lấy lời của Phật, Bồ Tát làm mực thước, thử hỏi còn phải tin
ai hơn?—These are the words of the Buddhas and Bodhisattvas in sutras and
commentaries. Buddha Sakyamuni, with his pure vision, clearly saw the
auspicious environment and superior beings of the Western Pure Land and
described them in the Pure Land sutras. The great Bodhisattvas, such as
Manjusri and Samantabhadra, all extolled the Land of Ultimate Bliss and
enjoined sentient beings to seek rebirth there. If Buddhists are not
guided by the words of Buddhas and Bodhisattvas, whom then should they
believe?
3) Hiện
Chứng Lượng: The Guideline of Actual Seeing and Understanding—Hiện chứng
lượng là lối tìm hiểu do sự thấy biết hoặc chứng nghiệm hiện thực để khởi
lòng tin. Trong Tịnh Độ Thánh Hiền Lục đã chứng minh rất nhiều vị niệm
Phật được vãng sanh, và ở Việt Nam cũng có nhiều Phật tử tu Tịnh Độ được
về Cực Lạc. Chẳng những thế mà hiện tiền khi tịnh niệm, các vị ấy cũng
thấy cảnh Tịnh Độ hiện bày. Nếu không có cõi Cực Lạc, và không có Phật A
Di Đà tiếp dẫn, thì làm sao những vị ấy thấy rõ và được kết quả vãng
sanh?—This is a method of reasoning based on actual occurences, verifiable
through our eyes and understanding. The commentary, Biographies of Pure
Land Sages and Saints, has amply documented the stories of individuals who
have achieved rebirth in the Land of Ultimate Bliss through Buddha
Recitation. Moreover, those who have practiced Buddha Recitation with a
pure mind have been known to witness scenes of the Pure Land during their
current lifetimes.
Tam Lý Tâm Duyên Quyết Định:
Theo Trí Giả và Thiên Như Đại Sư trong Tịnh Độ Thập Nghi Hoặc Vấn Luận, có
ba lý do khiến vãng sanh Tịnh Độ không tùy thuộc vào ác nghiệp, hạnh tu và
thời gian tu tập lâu mau—According to Masters Chih-I and T’ien-Ju in The
Pure Land Buddhism, there are three reasons why rebirth in the Pure Land
does not necessarily depend on the weight of bad karma, the amount of
practice or the duration of cultivation.
1) Do bởi
Tâm—Because of Mind: Là loài hữu tình khi tạo tội đều từ nơi vọng niệm
điên đảo mà sanh, còn lúc niệm Phật lại từ nơi nghe danh hiệu công đức
chân thật của Phật A Di Đà mà khởi; một bên hư một bên thật đâu thể sánh
nhau! Ví như một gian thạch thất đóng kín để tối muôn năm, nếu được người
mở ra cho ánh sáng mặt trời soi vào, sự tối ấy liền mất; đâu phải vì do
tối tăm đã lâu mà không làm được sáng ư? Người tạo ra tội nhiều kiếp, khi
lâm chung với tâm thành tựu mười niệm vãng sanh cũng lại như vậy—The
transgressions committed by sentient beings spring from deluded, perverse
thought. Recitation of the Buddha’s name, on the other hand, arises from
right thought, that is, hearing of Amitabha Buddha’s name and true
virtues. One is false and the other is true. There is no possible
comparison between them! This is similar to a house which has been boarded
up for ten thousand years. If the windows are suddenly opened to let the
sunlight in, all darkness immediately dissipates. However, long the period
of darkness may have been, how can it fail to disappear? It is likewise
for sentient beings who have committed transgressions for many eons but
achieve rebirth at the time of death through ten pure recitations.
2) Do bởi
Duyên—Because of Conditions: Là loài hữu tình khi tạo tội đều từ nơi vọng
niệm tối tăm điên đảo, duyên theo cảnh giới hư huyễn mà sanh; lúc niệm
Phật từ nơi nghe danh hiệu công đức chân thật thanh tịnh của Phật A Di Đà
duyên theo Bồ Đề tâm mà khởi. Như thế, một bên chân một bên ngụy, đâu thể
sánh nhau! Ví như có người bị trúng tên độc, tên ghim sâu sức độc mạnh,
xương thịt nhiễm trọng thương, nếu được nghe tiếng trống thần dược, thì
tên tự bắn ra, độc tiêu tan hết; đâu phải vì do tên sâu độc nặng mà không
được an lành ư? Người tạo tội nhiều kiếp, khi lâm chung có duyên thành tựu
mười niệm mà được vãng sanh cũng lại như vậy—Transgressions grow out of
dark, inverted thoughts, combined with illusory circumstances and
environments. Buddha Recitation, on the contrary, arises from hearing of
Amitabha Buddha’s name and pure virtues, combined with the aspiration for
enlightenment. One is false and the other is true. There is no possible
comparison between them! This is analogous to a person struck by a
poisoned arrow. The arrow has penetrated deep inside his body and the
poison is strong, deeply wounding his flesh and bones. Still, if at that
moment he hears the ‘celestial drum,’ the arrow will shoot out of his
flesh by itself and the poison will be neutralized. The arrow has not
penetrate so deep nor is the poison so strong that he cannot recover! It
is likewise for sentient beings who have committed transgressions for many
eons but achieve rebirth at the time of death through ten pure
recitations.
3) Do Bởi
Quyết Định—Because of Certainty of Salvation: Là loài hữu tình khi tạo tội
đều từ nơi gián tâm hoặc hậu tâm; lúc lâm chung niệm Phật lại không có hai
tâm đó, mà từ nơi một niệm mãnh liệt trì danh rồi xả mạng, nên được siêu
thoát. Ví như sợi dây cực to, cả ngàn người bứt không đứt, nếu có đứa bé
cầm gươm Thái A mà chém, dây liền đứt đoạn. Lại như đống củi rất lớn chứa
góp từ cả ngàn năm, nếu có người dùng một đốm lửa mà đốt, củi liền cháy
hết. Và như có người trong đời tu mười nghiệp lành, ưng được sanh về cõi
trời, nhưng khi lâm chung kẻ ấy khởi một niệm tà kiến mạnh mẽ, liền bị đọa
vào A Tỳ địa ngục. Nghiệp ác vẫn hư vọng, mà do bởi tâm niệm quyết liệt,
còn có thể lấn lướt nghiệp lành một đời, khiến cho chúng sanh bị đọa vào
ác đạo; huống chi sự niệm Phật là nghiệp lành chân thật, có người khi lâm
chung, dùng tâm mãnh liệt trì danh, lại không thể lấn áp ác nghiệp từ vô
thỉ ư? Cho nên người tạo tội nhiều kiếp, khi lâm chung tâm mãnh liệt thành
tựu mười niệm mà không được vãng sanh, quyết không có lý do đó!—When
sentient beings committed transgressions, they do so either from the
‘intervening mental state’ or the ‘post mental state.’ These two mental
states do not apply, however, at the time of death: there is only one
extremely powerful, utterly intense thought of recitation, letting go of
everything before dying. Therefore, rebirth is achieved. This is analogous
to a very large, strong cable which even thousands of people cannot break.
Yet, a child wielding a ‘celestial sword’ can cut it in a several pieces
without difficulty. It is also similar to a huge pile of wood, accumulated
for thousands of years, which, when set on fire by a small flame, is
completely consumed within a short time. The same is true of someone who
has practiced the Ten Virtues throughout his life, seeking rebirth in the
Heavens. If, at the time of death, he develops an intense perverse
thought, he will immediately descend, instead, into the Avici or
Never-Ending Hell. Although bad karma is intrinsically false and illusory,
the overpowering strength of Mind and thought can still upset a lifetime
of good karma and cause the individual to descend onto the evil paths.
How, then, can Buddha Recitation, which is true, wholesome karma,
generated intensely at the time of death, fail to upset his bad karma,
even though that karma may have been accumulated from time immemorial?
Therefore, someone who has committed transgressions for many eons, but, at
the time of death accomplishes ten recitations with a totally earnest
Mind, will certainly be reborn in the Pure Land. Not to achieve rebirth
under such circumstances would indeed be inconceivable!
Tam Ma Địa: Tam Muội—Samadhi
(skt)—Concentration—Contemplation on reality—Trạng thái tâm không loạn
động, tập trung vào không định vì thế mà nội tâm đi vào trạng thái yên
tĩnh hoàn toàn—A state of mind in which the mind is free from distraction
(loạn động), is absorbed in intense, purposeless concentration, thereby
entering a state of inner serenity—See Samatha in Sanskrit/Pali-Vietnamese
Section and Samadhi in English-Vietnamese Section.
Tam Ma Địa Bồ Đề: Samadhi-bodhi
(skt)—Trạng thái giác ngộ trong đó tâm hành giả thoát khỏi mọi loạn động,
thoát mọi cấu chướng, tập trung vào “không định,” vì thế mà nội tâm đi vào
một trạng thái yên tĩnh hoàn toàn—A state of enlightenment in which the
mind is free from distraction, free from unclean hindrances, absorbed in
intense, purposeless concentration, thereby entering a state of inner
serenity.
** For more information,
please see Samadhi
in English-Vietnamese
Section.
Tam Mật: Thân Khẩu Ý—Thân khẩu
ý của mọi sinh vật là những phần của Chân như, nhưng phiền não che lấp bản
tánh chân như—The three mystic things (body, mouth and mind) of the
Tathagata—All creatures in body, voice and mind are only individualized
parts of the Tathagata, but illusion hides their Tathagata nature from
them. Buddhist cultivators seek to realize their Tathagata nature by
physical signs and postures, by voicing of dharani and by meditation:
1) Thân
mật: All things being this mystic body.
2) Khẩu
mật: All sound this mystic voice.
3) Ý mật:
All thought this mystic mind.
Tam Miệu: Turn together or in
one direction—Right and balanced.
** For more information, please see Đẳng Chánh Giác in
Vietnamese-English Section, and Samyak-sambuddha in
Sanskrit/Pali-Vietnamese Section.
Tam Miệu Tam Bồ Đề:
Samyak-sambodhi—Correct universal intelligence—Perfect knowledge or
wisdom—See Tam Miệu.
Tam Miệu Tam Phật Đà:
Samyaksambuddha—One who has perfect universal knowledge or understanding.
Tam Minh: Three insights—Three
kinds of clarity—Ba loại sáng suốt có thể đạt được bằng trì giới (theo
Thanh Tịnh Đạo của Ngài Bhadantacariya Buddhaghosa)—Three kinds of
knowledge which can be obtained by observing precepts (according to The
Path of Purification by Bhadantacariya Buddhaghosa):
1) Túc
mạng minh: Biết được các đời trước—Insight into the mortal conditions of
self and others in previous life.
2) Thiên
nhãn minh: Biết sự chết và tái sanh của các loài hữu tình—Supernatural
insight into future mortal conditions (deaths and rebirths).
3) Lậu
tận minh: Đoạn trừ tất cả các lậu hoặc (những dục vọng và quyến
rủ)—Nirvana insight—Insight into present mortal sufferings so as to
overcome all passions or temptations.
Tam Minh Trí: The three clear
conceptions of all beings:
1) Vô
thường: Anitya—All is impermanent.
2) Khổ:
Duhkha—All is sorrowful.
3) Vô
ngã: Anatman—All is devoid of a self.
Tam Môn Tịnh Độ: Three Methods
in the Pure Land Cultivation—Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong Tịnh Độ
Thập Nghi Hoặc Vấn Luận, pháp môn không cao không thấp, cao thấp do căn
tánh mà phân. Vì chúng sanh căn cơ sai biệt nhau, nên pháp tu cũng có
nhiều cách. Tuy nhiên, căn bản có ba môn tu trong Tịnh Độ—According to
Most Venerable Thích Thiền Tâm in The Pure Land Buddhism, the Dharma
methods are not, in themselves, high or low. It is only because the
different natures and capacities of individuals that they have been
categorized as such. Sentient beings are at different levels of spiritual
development, and therefore, various methods are required. There are
numerous methods; however, we can summarize in the three basic ones.
(I) Đệ
Nhất Môn là pháp môn Quán Tưởng—First Method, Visualization Method—Quán
tưởng là như trong Quán Kinh dạy: “Chư Phật Như Lai là thân pháp giới, vào
trong tâm tưởng của tất cả chúng sanh. Cho nên khi tâm các bạn tưởng Phật,
thì tâm ấy chính là 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp tùy hình, tâm ấy là tâm Phật,
tâm ấy chính là Phật. Biển chánh biến tri của Phật từ nơi tâm tưởng mà
sanh. Vì thế các bạn phải nhớ nghĩ và quán tưởng kỹ thân Đức Phật
kia.”—Visualization Method, is explained as follows in the Meditation
Sutra: “Every Buddha, Tathagata, is One who is a Dharma realm Body and
enters into the Mind of all beings. For this reason when you perceive the
Buddha-state in your Minds, this indeed is the Mind which possesses the
thirty-two signs of perfection and the eighty minor marks of excellence.
It is the Mind that becomes Buddha; indeed, it is the Mind that is Buddha.
The ocean of true and universal knowledge of all the Buddhas is born of
Mind and thought. For this reason, you ought to apply your Mind with one
thought to the meditation on that Buddha.
1) Thiên
Thai sớ nói mấy chữ “Chư Phật Như Lai” sắp xuống, là thuyết minh tất cả
chư Phật; lại nói mấy chữ “Phải nhớ nghĩ” sắp xuống, là chỉ cho quán
tưởng riêng Đức Phật A Di Đà, pháp giới thân là pháp thân của Báo Phật.
Tâm chúng sanh tịnh, pháp thân tự hiện, nên gọi là “vào;” như khi vầng
hồng nhật mọc lên tất bóng hiện xuống trăm sông. Đây là chỉ cho Phật thân
tự tại, có thể tùy vật hiện hình vậy. Lại “pháp giới thân” là chỉ cho thân
Phật, khắp tất cả chỗ, lấy pháp giới làm thể. Khi hành giả chứng được môn
Quán Phật Tam Muội nầy, giải nhập tương ưng, nên nói “vào trong tâm
tưởng.” “Tâm nầy là Phật” là Phật nguyên vẫn không, nhân chúng sanh tâm
tịnh mới có, sợ e người hiểu lầm cho rằng bỗng nhiên mà có, nên mới nói
“là Phật.” Mới khởi tu quán nên nói “làm,” sự tu đã thành nên gọi
“là.”—According to the T’ien-T’ai Treatise, the passage beginning from
‘Every Buddha, Tathagata’ refers to all Buddhas. The passge beginning with
‘You ought to apply your Minds,’ etc., refers specifically to meditation
on Buddha Amitabha. The Dharma Realm Body is the Dharma Body of the Reward
Buddha. If the Minds of sentient beings are pure, the Dharma Body reveals
itself. Thus, the word ‘enter’ is used. This is similar to the brilliant
sun; when it rises, its image appears in a multitude of rivers. This is to
indicate that the Buddha Body is free and unimpeded and can manifest
itself according to the object. Moreover, the ‘Dharma Realm Body’ refers
to the Buddha Body, appearing everywhere, taking the Dharma Realm as its
nature. When the practitioner achieves this Buddha Visualization Samadhi,
his understanding and actions (noumenon and phenomenon) interpenetrate and
become one. This is expressed in the words ‘enters into the Minds of all
beings.’ “It is the Mind that becomes Buddha” means that the Buddha has
always been inherently empty and void. Because the Minds of sentient
beings are pure, Buddha exists. Indeed, it is the Mind that is Buddha.
Since people might misunderstand what was said previously and think that
the Buddha has spontaneously come into existence, the words ‘is Buddha’
are used. The word ‘become’ indicates the beginning of visualization,
while the word ‘is’ means that visualization has been accomplished.
2) Diệu
Tông Thích nói: “Muốn tưởng thân Phật phải hiểu rõ quán thể. Thể đó là bản
giác; từ nơi đây mà khởi thành pháp quán. Bản giác là thân pháp giới của
chư Phật, vì chư Phật không sở chứng chi khác, toàn chứng bản tánh của
chúng sanh. Nếu thỉ giác có công, bản giác mới hiển, nên nói “pháp thân từ
nơi tâm tưởng mà sanh.” Lại Đức Di Đà cùng tất cả chư Phật đồng như một
pháp thân, một trí huệ, sự ứng dụng cũng như vậy. Hiển được thân Đức Di Đà
tức là hiển được thân chư Phật, tỏ được thân chư Phật tức là lộ được thể
Di Đà. Cho nên trong văn kinh nói rộng qua chư Phật để kết về sự quán
tưởng Đức A Di Đà. Từ mấy chữ “thân pháp giới” trở xuống là nói về sự giao
cảm của đạo cảm ứng và ước về lý giải nhập tương ưng—Another commentary
states: “To visualize the Buddha’s body, you should clearly understand the
nature of visualization. That nature is self-enlightenment. Visualization
methods are developed from there. Self-enlightenment is the Dharma Realm
Body of the Buddhas because what the Buddhas have completely attained is
nothing other than the Self-Nature of sentient beings. Only when the
‘initial enlightenment’ is meritorious does ‘self-enlightenment’ appear.
This is the meaning of the words ‘the Dharma Realm Body is born of Mind
and thought.’ Moreover, Amitabha Buddha and all Buddhas possess the same
Dharma Body, the same wisdom and the same capacities and functions. When
the body of Amitabha Buddha is manifested, the bodies of all Buddhas are
manifested; when the bodies of the Buddhas are understood, the nature of
Amitabha Buddha is revealed. Therefore, the Meditation Sutra refers
broadly to all Buddhas in order to end in the visualization of Amitabha
Buddha. “From the words ‘Dharma Realm Body’ on, the Sutra refers to the
mutual response between the Buddhas and the practitioner and the
'‘nterpenetration’ between understanding and action (theory and
practice).
Đại Sư
Dung Tâm đã phê bình về hai lời giải trên như sau: “Nếu không có lời giải
trước, thì môn quán tưởng ấy không phải là quán Phật; như không có lời
giải sau, e hành giả hiểu lầm rằng thể của chúng sanh và Phật khác nhau,
nên hai lối giải đã tác thành cho nhau mà thuyết minh thuyết Quán Pháp
vậy.”—Commenting on these two explanations, Elder Master Dung Tâm has
written: “Without the first explanation, the above visualization would not
be a meditation on the Buddha. Without the second explanation, the
practitioner could misunderstand and think that the nature of sentient
beings is different from that of the Buddhas. The two explanations are
complementary in elucidating the Visualization method.”
(II) Đệ Nhị
Môn là pháp môn Ức Niệm—The Second Method, Recitation or Recollection
Method—Nói ức niệm là hành giả hoặc duyên theo tướng tốt, hoặc trì danh
hiệu của Phật, đều gọi là ức niệm. Môn nầy có cả lý lẫn sự—With recitation
or recollection method, the cultivator either “recollects” the auspicious
features of Amitabha Buddha or “recites” His name. This method has both
noumenal and phenomenal aspects.
1) Lý
Nhất Tâm—One-pontedness of Mind on noumenal level: Trong Kinh Hoa Nghiêm,
Giải Thoát Trưởng Giả nói: “Nếu tôi muốn thấy Đức Vô Lượng Thọ Như Lai và
thế giới an lạc, thì tùy ý liền được thấy. Tôi có thể biết rõ tất cả chư
Phật, quốc độ tùy thuộc, cùng những việc thần thông của các ngài. Bao
nhiêu cảnh tướng trên đây, không từ đâu mà đến, không đi về đâu, không có
xứ sở và không chỗ trụ; cũng như thân tôi không thật có đi, đứng, tới lui.
Các Đức Như Lai kia không đến chỗ tôi, tôi cũng không đi đến chỗ của các
Ngài. Sở dĩ như thế, vì tôi hiểu rõ tất cả chư Phật cùng với tâm mình đều
như mộng. Lại hiểu tự tâm như nước trong chum, các pháp như hình bóng hiện
trong nước. Tôi đã ngộ tâm mình như nhà huyễn thuật, tất cả chư Phật như
cảnh huyễn hóa. Lại biết chư Phật chư Bồ Tát trong tự tâm, đều như tiếng
vang, như hang trống, tùy theo âm thanh mà phát ra tiếng dội lại. Ví tôi
ngộ giải tâm mình như thế nên có thể tùy niệm thấy Phật.” Về đoạn kinh
trên, ngài Trinh Nguyên giải rằng: “Từ đầu đến mấy chữ ‘chỗ của các Ngài’
chính là thuyết minh lý duy tâm, nếu ngộ tức tâm mà vô tâm liền vào chân
như tam muội. Khi hành giả hiểu rõ các cảnh tướng đều như huyễn, duy tâm
hiện ra, đã ngộ duy tâm và tức tâm tức Phật, thì tùy chỗ tưởng niệm, không
đâu chẳng là Phật. Đoạn văn sau nêu ra bốn điều thí dụ với đều đủ bốn quán
thông và biệt để hiển lý duy tâm, tất cả vẫn viên dung không ngại: In the
Avatamsaka Sutra, the Elder Liberation said: “If I wish to see Amitabha
Thus Come One in the World of Happiness, then as soon as I formulate the
intention I see Him. I can clearly see all the various Buddhas, their
lands and retinues as well as their spiritual powers. And yet, these Thus
Come Ones do not come here, nor do I go to them. . This is so because I
know that all Buddhas and my own Mind are completely like a dream. I know
that all Buddhas are like an image or reflection in the water. I know that
all thephysical characteristics of all Buddhas together with my own Mind,
are both like an illusion, an echo. I realize this as such and recollect
and consider this as such, that all Buddhas I see arise from my own Mind.
Because I clearly understand my Mind as such, I can at will see the
Buddhas. An Elder Master commented on the above quote as follows: “From
the first sentence to the words ‘Nor do I go to the Buddhas,’ the sutra
elucidates the truth of Mind-Only. If the practitioner is enlightened to
the truth of ‘Mind but not Mind,’ he immediately enters the True Thusness
Samadhi. When the practitioner truly understands that all realms and marks
are illusory, created from the Mind, and awakens to the truth of
‘Mind-Only and Mind is Buddha,’ then, depending on the object of his
thoughts and recollection, there is nothing which is not Buddha. The
second part of this quote refers to four examples. These four examples
encompass the Four Meditations and include the ‘general’ and the
‘specific,’ thus revealing the truth of Mind-Only, everything has always
been perfect and unobstructed:
a) Cảnh
mộng là dụ cho lý không đến không đi, có nghĩa là toàn thể đều duy tâm:
‘Like a dream’ stands for the truth of ‘neither coming nor going.’ This
means that everything is Mind-Only.
b) Hình
bóng trong nước là dụ cho lý không ra không vào, vì duy tâm nên tất cả đều
“không”: ‘Like a reflection in the water’ represents the truth of ‘neither
leaving nor entering.’ This shows that because it is Mind-Only, it is
empty.
c) Tướng
huyễn hóa là dụ cho lý chẳng có chẳng không, vì duy tâm nên tất cả đều
“giả”: ‘Like an illusion’ stands for the truth of ‘neither existing nor
non-existing.’ This indicates that because it is Mind-Only, it is false.
d) Tiếng
vang là dụ cho lý chẳng tan chẳng hợp, vì duy tâm nên tất cả đều “trung”:
‘Like an echo’ means ‘neither disintegrating nor amalgamating.’ This shows
that because it is Mind-Only, it is the Middle Way.
** Nếu hành giả hiểu rõ lý trên đây, rồi chấp trì bốn chữ A Di Đà
Phật, sẽ không còn những thứ sau đây—If the practitioner clearly
understands this truth and concentrates upon the Buddha’s name, he or she
will be free of the followings:
e) Tâm có
tâm không: The Mind of existence and non-existence.
f) Tâm
cũng có cũng không: The Mind of simultaneous existence and non-existence.
g) Tâm
chẳng phải có chẳng phải không: The Mind of simultaneous non-existence and
non-non-existence.
h) Dứt cả
quá khứ hiện tại vị lai mà niệm, đó gọi là “lý ức niệm” hay lý nhất tâm:
Serving all past, present and future, this is call “Noumenal recitation.
i) Và
ngày đêm sáu thời cứ như thế mà nhiếp tâm trì niệm, không cho gián đoạn,
không sanh một niệm, thì chẳng cần vượt giai tầng mà đi thẳng vào cõi
Phật. Đây cũng gọi là “lý nhất tâm.” Tóm lại, lý nhất tâm là người thông
đạt bốn lý quán trên, dùng tâm ấy mà niệm Phật, tương ưng với không huệ,
đi đến chỗ thuần chơn. Lý nhất tâm là hành môn của bậc thượng căn: If the
practitioner can recite singlemindedly in this way throughout the six
periods of day and night, i.e., all the time, without interruption and
without developing a single thought , he need not pass through any stage
of cultivation but can enter directly into the realm of the Buddhas. This
is also called “One-pointedness of Mind” or noumenal level.
One-pointedness of Mind on noumenal level is the practice of those of the
highest capacities.
2) Sự
Nhất Tâm—One-pointedness of Mind on phenomenal level: Về “sự ức niệm,” như
trong Kinh Lăng Nghiêm nói: “Nhớ Phật niệm Phật, hiện đời hoặc đương lai
nhất định sẽ thấy Phật, cách Phật không xa, không cần mượn phương tiện chi
khác mà tâm tự được khai ngộ.” Hay như các kinh sách khác đã chỉ dạy,
‘hoặc hệ niệm suốt một đời, hoặc trì niệm trong ba tháng, bốn mươi chín
ngày, một ngày đêm, cho đến bảy ngày đêm, hoặc mỗi buổi sớm mai giữ mười
niệm. Nếu hành giả dùng lòng tin sâu, nguyện thiết, chấp trì câu niệm Phật
như rồng gặp nước, như cọp dựa non, thì được sức Phật gia bị đều vãng sanh
về Cực Lạc. Theo trong Kinh cho đến hạng phàm phu tạo tội ngũ nghịch thập
ác, nếu khi lâm chung chí tâm xưng danh hiệu Phật mười niệm, cũng được
vãng sanh. Và đây gọi là “sự nhất tâm.” Tóm lại, sự nhất tâm là hành giả
tâm còn giữ niệm, mỗi niệm không cho xen hở, đi đến chỗ không còn tạp
niệm. Sự nhất tâm thông dụng cho hàng trung hạ: The Surangama Sutra
states: “Moreover, whoever recites the name of Amitabha Buddha, whether in
the present time, or in the future time, will surely see the Amitabha
Buddha and never become separated from him. By reason of that association,
just as one associating with the maker of perfumes becomes permeated with
the same perfumes, so he will become enlightened without Amitabha’s
compassion, and will become enlightened without any other expedient means.
Another sutra teaches that: “Whether he focusses on the Buddha constantly
throughout his life, or recites assiduously for three months, or
forty-nine days, or one to seven days and nights, or recites only ten
times each morning, as long as the practitioner holds the Buddha’s name
with deep faith and fervent vows, like a dragon encountering water or a
tiger hidden deep in the mountains, he will be assisted by the Buddha’s
power and achieve rebirth in the Pure Land. A dragon outside the ocean or
a tiger without the protection of the forest has but one thought in mind:
to return to its environment. One-pointedness of Mind on phenomenal level
refers to the practitioner whose Mind is still attached to recitation, one
recitation following another without pause, leading to he state of
extinction of all sundry thought.
(III)
Đệ Tam Môn là pháp môn Chúng Hạnh—The Third Method, method of
“Sundry Practices:
1) Nguyện
Lực Vãng Sanh—Seeking rebirth through the power of vows: Pháp Môn Chúng
Hạnh là môn nói về hành giả dùng nhiều hạnh để vãng sanh về Cực Lạc. Như
trong Kinh Hoa Nghiêm, Phổ Hiền Bồ Tát khuyến tấn Thiện Tài đồng tử và đại
chúng nơi hải hội dùng mười đại nguyện cầu sanh Tịnh Độ (see Thập Hạnh Phổ
Hiền). Trong mỗi nguyện ấy đều có nói khi nào cõi hư không, cõi chúng
sanh, nghiệp chúng sanh, phiền não của chúng sanh hết, thì nguyện tôi mới
hết. Và hành giả phải dùng ba nghiệp thân, khẩu, ý, thực hành nguyện đó
không gián đoạn, không chán mỏi. Đến khi lâm chung, tất cả mọi thứ tùy
thân đều để lại, cho đến các căn đều tan rã, duy những đại nguyện ấy hằng
theo bên mình trong khoảng sát na hành giả liền được sanh về Cực Lạc—The
“Sundry Practices” is the method in which the cultivator engages in many
practices seeking rebirth in the Pure Land. Thus, in the Avatamsaka Sutra,
the Bodhisattva Samantabhadra advises and urges the youth Sudhana (Good
Wealth) and the Ocean-Wide Great Assembly to seek rebirth throught the Ten
Great Vows (see Thập Hạnh Phổ Hiền). Each Vow contains the clause: “When
the realm of empty space is exhausted, my Vows will be exhausted. But
because the realm of empty space is inexhaustible, my Vows will never
end. In the same way, when the realm of living beings, the karma of living
beings, and the afflictions of living beings are exhausted, my Vows will
be exhausted. But the realms of living beings, the karma of living beings,
and the afflictions of living beings are inexhaustible. Therefore, my Vows
are inexhaustible. They continue in thought after thought without cease.
My body, mouth and mind never tire of doing these deeds. At the time of
death, when all family and possessions are left behind and all faculties
disintegrate, only these great vows will follow close behind, and in an
instant, the practitioner will be reborn in the Pure Land.
2) Tâm
Lực Vãng Sanh—Achieving rebirth through Mind-power: Lại như trong Kinh Đại
Bảo Tích, Đức Thế Tôn bảo Ngài Di Lặc về mười tâm như sau: “Mười thứ tâm
nầy không phải hạng phàm phu, bất thiện hay kẻ có nhiều phiền não có thể
phát được. Nếu có kẻ nào thành tựu một trong mười tâm trên, muốn sanh về
thế giới Cực Lạc mà không được như nguyện, đó là điều không khi nào
có.”—Moreover, in the Maharatnakuta Sutra, Sakyamuni Buddha told Maitreya
Bodhisattva: “These Ten Minds cannot be developed by ordinary people, nor
those who lack virtue and beset by afflictions (See Thập Tâm Tịnh Độ). For
someone to attain one of these ten frames of Mind while seeking rebirth in
the Pure Land and yet fail to be reborn is simply impossible.”
3) Thần
Lực Vãng Sanh—Achieving rebirth through spiritual power: Trong Kinh Đại Bi
Tâm Đà La Ni, Đức Quán Thế Âm Bồ Tát bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Nếu chúng
sanh nào trì tụng thần chú Đại Bi, mà còn bị đọa vào ba đường ác, tôi thề
không thành Chánh Giác. Tụng trì thần chú Đại Bi, mà không được sanh về
cõi Phật, tôi thề không thành Chánh Giác. Tụng trì thần chú Đại Bi nếu
không được vô lượng tam muội biện tài, tôi thề không thành Chánh Giác.
Tụng trì thần chú Đại Bi, tất cả sự mong cầu trong đời hiện tại, nếu không
được như nguyện, thì chú nầy không được gọi là chú Đại Bi Tâm Đà La Ni;
duy trừ cầu những việc bất thiện, trừ kẻ tâm không chí thành.” Ngoài ra,
những kẻ chí tâm trì tụng các chú như Bạch Tán Cái, Chuẩn Đề, Vãng Sanh,
đều có thể sanh về Cực Lạc hoặc các Tịnh Độ khác—Moreover, in the Sutra of
the Heart of Great Compassion Mantra, Avalokitesvara Bodhisattva
(Kuan-Yin) said to the Buddha: “Great Honored Teacher! If any sentient
being should assiduously recite the Great Compassion Mantra and still
descend upon the Three Evil Paths, I vow not to attain Buddhahood. If any
practitioner should assiduously recite the Great Compassion Mantra and
fail to be reborn in the lands of the Buddhas, I vow not to attain
Buddhahood. If any practitioner should assiduously recite the Great
Compassion Mantra and not to achieve innumerable samadhis and great
eloquence, I vow not to attain Buddhahood. If anyone should assiduously
recite the Great Compassion Mantra and not have all wishes and hopes of
his present life fulfilled, this dharani cannot be called the Great
Compassion Mantra! The only exceptions are wishes which are unwholesome
and those made when the Mind is not utterly sincere."”Moreover,
practitioners who assiduously recite such dharani as the Thousand-Armed
Avalokitesvara Mantra, the Rebirth Mantra, etc. with utmost sincerity, can
all be reborn in the Western Pure Land or other pure lands.
4) Phước
Lực Vãng Sanh—Achieving rebirth through the power of accumulated merits:
Lại nữa, Kinh Quán Vô Lượng Thọ có nói: “Muốn sanh về Cực Lạc, phải tu ba
thứ phước. Ba thứ phước nầy là chánh nhân tịnh nghiệp của chư Phật quá
khứ, hiện tại và vị lai”—Moreover, the Meditation Sutra states: “Those who
wish to be reborn in the land of Ultimate Bliss, must cultivate the
three-fold goodness. These are the efficient causes for the pure actions
of all the Buddhas of the three worlds, past, present and future.
a) Hiếu
dưỡng cha mẹ, phụng thờ sư trưởng, tâm từ bi không giết hại, tu mười
nghiệp lành: They should be filial toward their parents and support them;
serve and respect their teachers and elders; be of compassionate heart and
abstain from doing harm; and cultivate the ten virtuous actions.
b) Thọ
trì tam quy, giữ kỹ các giới, không phạm oai nghi: They should accept and
hold on to their refuge in the Three Jewels; perfectly observe all moral
precepts and not lower their dignity nor neglect ceremonial observances.
c) Phát
lòng Bồ Đề, tin lý nhân quả, đọc tụng kinh điển Đại Thừa, khuyến tấn người
tu hành. Ngoài ra, những kẻ cất chùa xây tháp, tạo tượng, lễ bái tán tụng,
giữ gìn trai giới, đốt hương, rải hoa, cúng dường tràng phan bảo cái, trai
Tăng bố thí, nếu hạnh lành thuần thục, dùng lòng tín nguyện hồi hướng, đều
có thể vãng sanh: They should awaken in their Minds a longing for Bodhi,
deeply believe in the principle of cause and effect, recite Mahayan
sutras, persuade and encourage other practitioners. Furthermore, those who
perform good deeds, carrying them out to perfection and transferring the
merits with a Mind of faith and vows, can all achieve rebirth as well.
These meritorious acts include erecting temples, stupas and statues of the
Buddhas, worshipping the Buddhas, burning incense, offering flowers,
donating pennants and other decorations to Buddhist temples, making
offerings of food to the clergy, practicing charity, etc.
Tam Muội (Tam ma địa): Chánh
định—Samaya—Samadhi—Từ nầy có nhiều nghĩa khác nhau. Theo Phật giáo, Tam
Muội có nghĩa là tâm định tĩnh, không bị quấy rối. Sự nối kết giữa người
quán tưởng và đối tượng thiền. Trong nhà Thiền, Tam Muội chẳng những ám
chỉ sự quân bình, tĩnh lặng hay nhất tâm bất loạn, mà nó còn ám chỉ trạng
thái tập trung mãnh liệt nhưng không hề gắng sức, mà là sự thấm nhập trọn
vẹn của tâm trong chính nó hay là sự trực quan cao rộng (nhập chánh định).
Tam Muội và Bồ Đề đồng nhất với nhau theo cái nhìn của tâm Bồ Đề Giác Ngộ,
tuy nhiên nhìn theo giai đoạn đang phát triển thì tam muội và ngộ khác
nhau—This term has a variety of meanings. In Buddhism, it means the mind
fixed and undisturbed—To assemble together—Putting together—Composing the
mind, intent contemplation, perfect absorption, union of the meditator
with the object of meditation. In Zen it implies not merely equilibrium,
tranquility, and one-pointedness, but a state of intense yet effortless
concentration, of complete absorption of the mind in itself, of heightened
and expanded awareness. Samadhi and Bodhi are identical from the view of
the enlightened Bodhi-mind. Seen from the developing stages leading to
enlightenment-awakening; however, samadhi and enlightenment are
different.
Tam Muội Da: Samaya
(skt)—Coming together—Meeting—Convention—Riddance of unclean hindrances
(trừ cấu chướng).
Tam Muội Da Giới: Giới Tam Muội
phải được nghiêm trì trước khi thọ giới đàn trong Mật Giáo—Samaya
commandments to be strictly observed before full ordination in the
esoteric sect.
Tam Muội Da Hình: Một biểu
tượng đặc biệt của Phật và Bồ Tát—The distinguishing symbol of a Buddha or
Bodhisattva (The Lotus of Kuan Shi Yin).
Tam Muội Da Mạn Đà La:
Samaya-mandala (skt)—One of the four kinds of magic circles in which the
saints are represented by the symbols of their powers.
Tam Muội Da Trí: See Tam Muội
Trí.
Tam Muội Giới:
1) Tam
Muội Giới là một danh từ phổ thông trong Mật Giáo: Samaya world, a general
name for esoteric sect.
2) Giới
phải nghiêm giữ trước khi được thọ giới đàn Cụ Túc trong Mật Giáo: Samaya
commandments (the rules to be strictly observed before full ordination in
the esoteric sect.
Tam Muội Hình: Tam muội thân,
biểu tượng đặc sắc của Phật và Bồ Tát, dùng diễn tả nội tánh—The
distinguishing symbol of a Buddha or a Bodhisattva which expresses his
inner nature (the stupa as one of the symbol of Vairocana, the lotus for
Kuan Shi Yin)—The embodiment of Samaya—Báo thân—Sambhogakaya.
Tam Muội Hỏa: Fire of samadhi
(the fire that consumed the body of the Buddha when he entered nirvana).
Tam Muội Lạc: Samadhisukha
(skt)—Hạnh phúc khởi sinh từ trạng thái tập trung của tâm. Những vị chưa
có thể lên đến hàng Bồ Tát thì quá mê đắm vào hạnh phúc của Tam Muội và
quên mất thế giới bên ngoài mà tại đấy có rất nhiều chúng sanh chưa giác
ngộ đang mong chờ sự giải thoát. Loại người theo Phật giáo tự mãn nầy
thường bị Đức Phật lên án nghiêm khắc—The bliss arising from a
concentrated state of mind. Those who have not yet been able to rise to
the rank of Bodhisattvahood are too deeply drunk with the beatitude of a
samadhi, forgetful of the outside world where so many unenlightened ones
are waiting for emancipation. This class of self-complacent Buddhists is
severely indicted by the Buddha.
Tam Muội Lạc Chánh Thọ Ý Sanh Thân:
Samadhi-sukha-samapatti-manomayakaya (skt)—Một trong ba loại thân do ý
sanh—One of the three will-bodies.
Tam Muội Ma: Một trong thập ma
ẩn núp trong tâm làm chướng ngại tiến bộ trong thiền định, làm cản trở
chân lý và phá nát trí tuệ—Samadhi mara, one of the ten maras who lurks in
the heart and hinders progress in meditation, obstructs the truth and
destroys wisdom.
Tam Muội Mạn Đà La:
Samaya-mandala—Một trong bốn vòng ảo thuật trong đó Thánh chúng dùng để
làm biểu tượng cho sức mạnh—One of the four kinds of magic circles in
which the saints are represented by the symbols of their power.
Tam Muội Nguyệt Luân Tướng: The
candra-mandala—The moon-wheel or disc samadhi (Nagarjuna is said to have
entered it).
Tam Muội Pháp Giới: Ba phương
pháp thiền quán về sự liên hệ giữa lý và sự trong Kinh Hoa Nghiêm—Three
meditations, on the relationship of the noumenal and phenomenal in the
Flower Ornament Scripture (Kinh Hoa Nghiêm):
1) Lý
pháp giới: The universe as law or mind that things or phenomena are of the
same Buddha-nature, or the Absolute.
2) Lý Sự
pháp giới: The Buddha-nature and the thing, or the Absolute and phenomena
are not mutually exclusive.
3) Sự sự
vô ngại pháp giới: Phenomena are not mutually exclusive, but in a common
harmony as pasrts of the whole.
Tam Muội Trí:
Samaya-wisdom—Buddhas’ or bodhisattvas’ wisdom.
Tam Muội Tương Ưng: The symbols
or offerings should tally with the object worshipped.
Tam Muội Vương: See Vương Tam
Muội.
Tam Muội Vương Tam Muội: See
Vương Tam Muội.
Tam Nan: See Tam Ác Đạo.
Tam Năng Biến: Duy Thức Luận
chia tám thức ra làm ba loại năng biến—The “Only-Consciousness” Sastra
divided the eight consciousnesses into three powers of change.
1) Sơ
Năng Biến: The first power of change—See A Lại Da Thức.
2) Đệ Nhị
Năng Biến: The second power of change—See Mạt Na Thức.
3) Đệ Tam
Năng Biến: The third power of change—See Lục Thức.
Tam Ngại: Ba mối lo ngại về tự
ngã, về tôn sư và về chư pháp—The three doubts of self, of teacher, and of
the dharma-truth.
Tam Nghi:
(A) Three doubts:
1) Nghi
mình: Doubts of self.
2) Nghi
Thầy: Doubts of teachers.
3) Nghi
Pháp: Doubts of Dharma.
(B) Three ranks:
1) Trời:
Heaven.
2) Đất:
Earth.
3) Người:
Man.
Tam Nghiệp: Ba nghiệp—The three
conditions, inheritances, or three kinds of karma:
(A) Three kinds of
behavior:
1) Thân
nghiệp: Behavior of body—Action—Deed—Doing.
2) Khẩu
nghiệp: Behavior of speech—Speech—Word—Speaking.
3) Ý
nghiệp: Behavior of mind—Thought—Thinking.
(B)
1) Hiện
Phước nghiệp: Present life happy karma.
2) Hiện
Phi Phước nghiệp: Present life unhappy karma.
3) Hiện
Bất Động nghiệp: Karma of an imperturbable nature.
(C)
1) Hữu
lậu nghiệp: Karma of ordinary rebirth.
2) Vô lâu
nghiệp: Karma of Hinayan Nirvana.
3) Phi
lậu phi vô lậu nghiệp: Karma of Mahayana Nirvana.
Tam Nghiệp Cúng Dường: Ba loại
cúng dường—The three kinds of offerings or praises:
1) Thân
nghiệp cúng dường: The offering or praise of the body.
2) Khẩu
nghiệp cúng dường: The offering or praise of the lips.
3) Ý
nghiệp cúng dường: The offering or praise of the mind.
Tam Nghiệp Hằng Thanh Tịnh, Đồng Phật Vãng
Tây Phương: By keeping the karma of body, speech and mind pure,
we will be no different from Buddhas when reborn into the Pure Land.
Tam Nguyên: The three big days
of the year in Buddhism tradition:
1) Thượng
nguyên (ngươn): Ngày rằm tháng giêng—The fifteen of the first moon.
2) Trung
nguyên (ngươn): Ngày rằm tháng bảy—The fifteen of the seventh moon.
3) Hạ
nguyên (ngươn): Ngày rằm tháng mười—The fifteen of the tenth moon.
Tam Nhẫn: Ba loại nhẫn—Three
forms of ksanti (Patience—Endurance—Tolerance):
(A)
1) Âm
hưởng nhẫn: Kham nhẫn chịu đựng những âm thanh mình nghe—Endure the sound
we hear—Patience in hearing the sound—Understanding the truth we hear.
2) Nhu
thuận nhẫn: Kham nhẫn khi lắng nghe chân lý—Patience in obeying the truth.
3) Vô
sanh pháp nhẫn: Kham nhẫn khi đạt thành chân lý tuyệt đối—Patience in
attaining absolute reality.
(B)
1) Thân
nhẫn: Nhẫn nhục nơi thân—Patience or forbearance of the body.
2) Khẩu
nhẩn: Nhẫn nhục nơi khẩu—Patience or forbearance of the mouth.
3) Ý
nhẫn: Nhẫn nhục nơi ý—Patience or forbearance of the mind.
Tam Nhất Nhị Thừa: Có ba hàng
nhị thừa trước khi Phật thuyết Kinh Pháp Hoa là Thanh Văn, Duyên Giác và
Bồ Tát, khi tới hội Pháp Hoa thì tất cả đều đã được thành thục để đi vào
Nhứt Thừa—The “Two Vehicles” of “Three” and “One,” the three being the
pre-Lotus ideas of Sravaka, Pratyeka and Bodhisattva, the one being the
doctrine of the Lotus Sutra which combined all three in one.
Tam Nhật Phần: Ba phần trong
một ngày—The three divisions of the day.
1) Sơ
Nhật Phần: The beginning of the day.
2) Trung
Nhật Phần: The middle of the day.
3) Hậu
Nhật Phần: The end of the day.
Tam Nhiễm: Three kasaya—Ba
nhiễm trược—Three infections:
1) Dục
nhiễm: The infection of the passions.
2) Nghiệp
nhiễm: Karma infection.
3) Tái
sanh nhiễm: The infection of reincarnation.
Tam Nhiệt: Ba nỗi khổ đau—The
three heats—Three kinds of burning:
1) Khổ
đau vì ngoại nhiệt làm nóng cháy da: The pain of hot wind and sand being
blown against the skin.
2) Khổ
đau vì tai ương làm tiêu tan trang sức áo quần: The pain of disasters
(violent winds) which take away jeweled clothes and ornaments.
3) Khổ
đau vì bị garuda (loài chim hay ăn thịt rồng) ăn thịt: Khổ đau vì bị ngũ
dục giết chết huệ mạng—The pain of being eaten by a garuda, a
dragon-eating bird—The pain of wisdom-life being killed by the five
desires.
Tam Nhơn: Three causes:
1) Sanh
nhơn: Producing cause, as good or evil deeds cause good or evil karma.
2) Tập
nhơn: habit cause—Lust breeding lust.
3) Y
nhơn: dependent or hypostatic cause (Lục căn Six organs and their lục trần
or six objects causing the cognitions lục thức or six consciousnesses).
Tam Nhơn Phật Tánh: The first
three characteristics of Buddha’s nature—See Ngũ Phật Tánh (A).
Tam Nhơn Tam Quả: The three
causes produce their three effects:
1) Dị
thục nhơn dị thục quả: Mọi nhân trong kiếp hiện tại đều tạo thành quả
trong kiếp tới—Differently ripening causes produce differently ripening
effects (every developed cause produces its developed effect, especially
the effect of the present causes in the next transmigration).
2) Phúc
nhơn phúc báo: Phúc nhơn tạo phúc quả ở đời nầy và đời sau—Blessed deeds
produce blessed rewards, now and hereafter.
3) Trí
nhơn trí quả: Trí nhơn tạo trí quả sau nầy—Wisdom now produces
wisdom-fruit hereafter.
Tam Nhứt Nhị Thừa: See Tam Nhất
Nhị Thừa in Vietnamese-English Section.
Tam Niệm Trụ (Xứ): Phật luôn
luôn trụ trong chánh tâm và trí huệ. Phật không vui sướng cũng không khổ
sầu, dù rằng chúng sanh có tin, không tin, hơi tin hay hơi không tin, Phật
vẫn luôn giữ mình vượt trên những vui sướng khổ sầu—The Buddha always
rests in his proper mind and wisdom. He neither rejoices, nor grieves
whether all creatures believe, do not believe, part believe and part do
not believe. The Buddha always keep himself above the disturbances of joy
and sorrow.
Tam Niết Bàn Môn: See Tam Giải
thoát môn—Three gates to the city of Nirvana:
1) Không:
The void—Immaterial.
2) Vô
tướng: Formlessness.
3) Vô
tác: Inactivity.
Tam Pháp:
(A) Three dharma:
1) Phật
pháp: The Buddha’s teaching.
2) Hành
pháp: The practice of Buddha dharma.
3) Chứng
pháp: The realization of experiential proof of the dharma in bodhi or
nirvana.
(B) Tam Bất Thiện
Căn—Three unwholesome
roots: Theo Kinh Phúng Tụng trong Trường Bộ Kinh, có một chuỗi ba
pháp—According to the Sangiti Sutta in the Long Discourses of the Buddha,
there are sets of THREE THINGS:
1) Tham
bất thiện căn: Lobho akusala mulam (p)—Unwholesome root of greed.
2) Sân
bất thiện căn: Doso akusala mulam (p)—Unwholesome root of hatred.
3) Si bất
thiện căn: Moho akusala mulam (p)—Unwholesome root of delusion.
(D) Tam Thiện Căn—Three
wholesome
roots:
1) Vô
tham thiện căn: alobho kusala (p)—Wholesome root of non-greed.
2) Vô sân
thiện căn: Adoso kusala (p)—Wholesome root of non-hatred.
3) Vô si
thiện căn: Amoho kusala (p)—Wholesome root of non-delusion.
(E) Tam Ác Hạnh—Three
kinds of wrong
conduct:
1) Thân
ác hạnh: Kaya-duccaritam (p)—Wrong conduct in body.
2) Khẩu
ác hạnh: Vaci-duccaritam (p)—Wrong conduct in speech.
3) Ý ác
hạnh: Mano-duccaritam (p)—Wrong conduct in thought.
(F) Tam
Thiện Hạnh—Three kinds of right
conduct:
1) Thân
thiện hạnh: Kaya-succaritam (p)—Roght conduct in body.
2) Khẩu
thiện hạnh: Vaci-succaritam (p)—Right conduct in speech.
3) Ý
thiện hạnh: Mano-succaritam (p)—Right conduct in thought.
(G) Tam
Bất Thiện Tầm: Akusala vitakka
(p)—Three kinds of unwholesome
thought:
1) Dục
tầm: Kama-vitakko (p)—Unwholesome thought of sentuality.
2) Sân
tầm: Vyapada-vitakko (p)—Unwholesome thought of enmity.
3) Hại
tầm: Vihimsa-vitakko (p)—Unwholesome thought of cruelty.
(H) Tam
Thiện Tầm—Three kinds of
wholesome thought:
1) Ly dục
tầm: Nekkkama-vitakko (p)—Wholesome thought of renunciation.
2) Vô sân
tầm: Wholesome thought of non-enmity.
3) Vô hại
tầm: Wholesome thought of non-cruelty.
(I) Tam Bất Thiện Tư
Duy—Three kinds of unwholesome
motivation:
1) Dục
bất thiện tư duy: Unwholesome motivation through sensuality.
2) Sân
bất thiện tư duy: Unwholesome motivation through enmity.
3) Hại
bất thiện tư duy: Unwholesome motivation through cruelty.
(J) Tam Bất Thiện
Tưởng—Three kinds of unwholesome
perception:
1) Dục
bất thiện tưởng: Unwholesome perception of sensuality.
2) Sân
bất thiện tưởng: Unwholesome perception of enmity.
3) Hại
bất thiện tưởng: Unwholesome perception of cruelty.
(K) Tam Thiện Tưởng—Three
kinds of wholesome
perception:
1) Ly dục
tưởng: Wholesome perception of renunciation.
2) Vô sân
tưởng: Wholesome perception of non-enmity.
3) Vô hại
tưởng: Wholesome perception of non-cruelty.
(L) Tam Bất Thiện
Giới—Three unwholesome
elements:
1) Dục
giới: Sensuality.
2) Sân
giới: Enmity.
3) Hại
giới: Cruelty.
(M) Tam Thiện Giới—Three
wholesome elements:
1) Ly dục
giới: Renunciation.
2) Vô sân
giới: Non-enmity.
3) Vô hại
giới: Non-cruelty.
(N) Ba Giới Khác—Three
more elements:
(a)
i) Dục giới: kama-dhatu (p)—The element of
sense-desire.
ii) Sắc
giới: Rupa dhatu (p)—The element of form.
iii) Vô
sắc giới: Arupa-dhatu (p)—The formless element.
(b)
i) Sắc giới: Rupa-dhatu (p)—The element of form.
ii) Vô
sắc giới: Arupa-dhatu (p)—The formless element.
iii) Diệt
giới: Nirodha-dhatu (p)—The element of cessation.
(c)
i) Liệt giới: Hina-dhatu (p)—The low
element.
ii)
Trung giới: Majjhima-dhatu (p)—The middling element.
iii) Thắng
giới: Patina-dhatu (p)—The sublime element.
(O) Tam Ái—Three kinds of
craving:
1) Dục
ái: Kama-tanha (p)—Sensual craving.
2) Hữu
ái: Bhava-tanha (p)—Craving for becoming.
3) Vô hữu
ái: Vibhava-tanha (p)—Craving for extinction.
(P) Ba Ái Khác—Three more
kinds of craving:
1) Dục
ái: Kama-tanha (p)—Craving for the world of sensual desire.
2) Sắc
ái: Rupa-tanha (p)—Craving for the world of form.
3) Vô sắc
ái: Arupa-tanha (p)—Craving for the formless world.
(Q) Ba Ái Khác—Three more
kinds of craving:
1) Sắc
ái: Craving for the world of form.
2) Vô sắc
ái: Craving for the formless world.
3) Diệt
ái: Craving for cessation.
(R) Tam Kiết Sử:
Samyojanani (p)—Three fetters:
1) Thân
kiến kiết sử: Sakkaya-ditthi (p)—The fetter of personality belief.
2) Nghi
kiết sử: Vici-kiccha (p)—The fetter of doubt.
3) Giới
cấm thủ: Silabhata-paramaso (p)—The fetter of attachment to rite and
ritual.
(S) Tam Lậu: Asava
(p)—Three corruptions:
1) Dục
lậu: kamasavo (p)—The corruption of desire.
2) Hữu
lậu: Bhavasavo (p)—The corruption of becoming.
3) Vô
minh lậu: Avijjasavo (p)—The corruption of ignorance.
(T) Tam Hữu—Three kinds
of becoming:
1) Dục
hữu: Kama-bhavo (p)—Becoming in the world of sense-desire.
2) Sắc
hữu: Rupa-bhavo (p)—Becoming in the world of form.
3) Vô sắc
hữu: Arupa-bhavo (p)—Becoming in the formless world.
(U) Tam Cầu—Three quests:
1) Dục
cầu: Kamesana (p)—Quests for sense-desire.
2) Hữu
cầu: Bhavesana (p)—Quests for becoming.
3) Phạm
hạnh cầu: Brahmacariyesana (p)—Quests for the holy life.
(V) Tam Mạn—Three forms
of conceit:
1) Thắng
mạn: Tôi tốt hơn—I am better than…
2) Đẳng
mạn: Tôi bằng—I am equal to…
3) Ty
liệt mạn: Tôi tệ hơn—I am worse than…
(W) Tam Thời—Three times:
1) Quá
khứ: Atito addha (p)—Past.
2) Vị
lai: Anagato addha (p)—Future.
3) Hiện
tại: Paccuppanno addha (p)—Present.
(X) Tam Biên—Three ends:
1) Hữu
thân biên: Sakkaya anto (p)—Personality.
2) Hữu
thân tập biên: Sakkaya-samudayo anto (p)—Arising of personality.
3) Hữu
thân diệt biên: Sakkaya-noridho anto (p)—Cessation of personality.
(Y) Tam Thọ—Three
feelings:
1) Lạc
thọ: Sukha vedana (p)—The pleasant feeling.
2) Khổ
thọ: Dukkha vedana (p)—The painful feeling.
3) Phi
khổ phi lạc thọ: Adukkham-asukha vedana (p)—Neither pleasant nor painful
feeling.
(Z) Tam Khổ Tánh—Three
kinds of suffering:
1) Khổ
khổ: Dukkha-dukkhata (p)—Suffering as pain.
2) Hành
khổ: sankhara-dukkhata (p)—Suffering as inherent in formations.
3) Hoại
khổ: Viparinama-dukkhata (p)—Suffering as due to change.
(AA) Tam Tụ—Three
accumulations:
1) Tà
định tụ: Micchatta-niyato rasi (p)—Evil accumulation with fixed result.
2) Chánh
định tụ: Sammatta-niyato rasi (p)—Good accumulation with fixed result.
3) Bất
định tụ: Aniyato rasi (p)—Indeterminate.
(BB) Tam Nghi—Three
obscurations:
1) Đối
với vấn đề thuộc về quá khứ nghi ngờ, do dự, không quyết định, không hài
lòng: One hesitates, vacillates, is undecided, is unsettled about the
past.
2) Đối
với vấn đề thuộc về tương lai nghi ngờ, do dự, không quyết định, không hài
lòng: One hesitates, vacillates, is undecided, is unsettled about the
future.
3) Đối
với vấn đề thuộc về hiện tại nghi ngờ, do dự, không quyết định, không hài
lòng: One hesitates, vacillates, is undecided, is unsettled about the
present.
(CC) Ba điều Như Lai không
cần gìn giữ—Three things a
Tathagata has no need to guard against:
1) Như
Lai thanh tịnh hiện hành về thân, Như Lai không có ác hạnh về thân mà Như
Lai phải gìn giữ: A Tathagata is perfectly pure in bodily conduct. There
is no misdeed of the body which He must conceal lest anyone should get to
hear about it.
2) Như
Lai thanh tịnh hiện hành về miệng. Như Lai không có ác hạnh về miệng mà
Như Lai phải gìn giữ: A Tathagata is perfectly pure in speech. There is no
misdeed of the speech.
3) Như
Lai thanh tịnh hiện hành về ý. Như Lai không có ác hạnh về ý mà Như Lai
phải gìn giữ: A Tathagata is perfectly pure in thought. There is no
misdeed of thought.
(DD) Tam Chướng—Three
obstacles:
1) Tham
chướng: Rago-kincanam (p)—Obstacles of Lust.
2) Sân
chướng: Dosa kincanam (p)—Obstacles of hatred.
3) Si
chướng: Moho kincanam (p)—Obstacles of delusion.
(EE) Tam Chủng Hỏa—Three
fires:
1) Lửa
tham: Ragaggi (p)—Fire of lust.
2) Lửa
sân: Dosaggi (p)—Fire of hatred.
3) Lửa
si: Mohaggi (p)—Fire of delusion.
(FF) Ba Loại Lửa
Khác—Three more fires:
1) Lửa
của người hiếu kính: Ahuneyyaggi (p)—The fire of those to be revered.
2) Lửa
của người gia chủ: Gahapataggi (p)—The fire of the householder.
3) Lửa
của người đáng cúng dường (cha mẹ, vợ con, và các vị xuất gia):
Dakkhineyyaggi (p)—The fire of those worthy of offerings (parents,
husband, wife, children, monks and nuns).
(GG) Tam Chủng Sắc
Tụ—Threefold classification of
matter:
1) Hữu
kiến hữu đối sắc: Sanidas-sana-sappatigham rupam (p)—Visible and resisting
matter.
2) Vô
kiến hữu đối sắc: Anidassana-sappatigham rupam (p)—Invisible and resisting
matter.
3) Vô
kiến vô đối sắc: Anidas-sana-appatigham-rupam (p)—Invisible and
unresisting matter.
(HH) Tam Hành—Three kinds
of karmic formation:
1) Phước
hành: Punnabhisankharo (p)—Meritorious karmic formation.
2) Phi
phước hành: Apunnabhisankharo (p)—Demeritorious karmic formation.
3) Bất
động hành: Anenjabhisankharo (p)—Imperturbable karmic formation.
(II) Tam Chủng Nhân—Three
persons:
1) Hữu
học nhân: Sekho puggalo (p)—The learner.
2) Vô học
nhân: Asekho puggalo (p)—The non-learner.
3) Phi
hữu học phi vô học nhân: N’eva sekho nasekho puggalo (p)—The one who is
neither the learner nor the non-learner.
(JJ) Tam Vị trưởng
Lão—Three elders:
1) Sanh
trưởng lão: Jati-thero (p)—An elder by birth.
2) Pháp
trưởng lão: Dhamma thero (p)—An elder in Dhamma.
3) Nhập
định trưởng lão: Sammuti-thero (p)—An elder by convention.
(KK) Tam Phước Nghiệp
Sự—Three grounds based on
merit:
1) Thí
hành phước nghiệp sự: Danamayam punna kiriya vatthu (p)—The merit of
giving.
2) Giới
hành phước nghiệp sự: Silamayam punna kiriya vatthu (p)—The merit of
morality.
3) Tu
hành phước nghiệp sự: Bhavanamaya punna kiriya vatthu (p)—The merit of
meditation.
(LL) Tam Cử Tội Sự—Three
grounds for reproof:
1) Thấy:
Ditthena (p)—Reproof based on what has been seen.
2) Nghe:
Sutena (p)—Reproof based on what has been heard.
3) Nghi:
Parisankaya (p)—Reproof based on what has been suspected.
(MM) Tam Dục Sanh—Three
kinds of rebirth in the
realm of Sense-Desire:
1) Hữu
tình do dục an trú, họ bị chi phối phụ thuộc, như loài người, một số chư
Thiên, và một số tái sanh trong đọa xứ: Paccuppatthita-kama (p)—There are
beings who desire what presents itself to them, and are in the grip of
that desire, such as human beings, some devas, and some in states of woe.
2) Hữu
tình có lòng dục đối với những sự vật do họ tạo ra, như chư Hóa Lạc Thiên:
Nimmita-kama (p)—There are beings who desire what they have created, such
as the devas who rejoice in the own creation (nimmanarati).
3) Hữu
tình có lòng dục đối với sự vật do các loài khác tạo ra, như chư Thiên Tha
Hóa Tự Tại: There are beings who rejoice in the creations of others, such
as the devas Having Power over Others’ Creation (Pranimmita-vasavati).
(NN) Tam Chủng Lạc Sanh:
Sukhupapattiyo (p)—Three happy
rebirths:
1) Hữu
tình luôn tạo ra thiền định lạc hay sống trong sự an lạc, như các vị Phạm
Thiên: There are beings who, having continually produced happiness now
dwell in happiness, such as the devas of the Brahma group.
2) Hữu
tình thấm nhuần, biến mãn, sung mãn, hưng thịnh với an lạc. Thỉnh thoảng
họ thốt ra những câu cảm hứng: “Ôi an lạc thay! Ôi an lạc thay!” như chư
Quang Âm Thiên: There are beings who are overflowing with happiness,
drenched with it, fuul of it, immersed in it, so that they occasionally
exclaim: “Oh what bliss!” such as the Radiant devas (abhasara).
3) Hữu
tình thấm nhuần, biến mãn, sung mãn, hưng thịnh với an lạc. Họ sống mãn
túc với an lạc ấy, cảm thọ an lạc, như chư Biến Tịnh Thiên: There are
beings who are overflowing with happiness, drenched with it, full of it,
immersed in it, who, supremely blissful, experience only perfect
happiness, such as the lustrous devas (subhakina).
(OO) Tam Tuệ—Three kinds
of wisdom:
1) Hữu
học tuệ: The wisdom of the learner.
2) Vô học
tuệ: The wisdom of the non-learner.
3) Phi
hữu học phi vô học tuệ: The wisdom of the one who is neither the learner
nor the non-learner.
(PP) Ba Loại Tuệ
Khác—Three Three more kinds of
wisdom:
1) Tư
sanh tuệ: Cintamaya panna (p)—The wisdom based on thought.
2) Văn
sanh tuệ: Sutamaya panna (p)—The wisdom based on learning.
3) Tu
sanh tuệ: Bhavanamaya panna (p)—The wisdom based on mental development.
(QQ) Tam Chủng Binh
Khí—Three armaments;
1) Nghe:
Sutavudham (p)—What one has learnt.
2) Xả ly:
Pavivekavudham (p)—Detachment.
3) Tuệ:
Pannavudham (p)—Wisdom.
(RR) Tam Căn—Three
faculties:
1) Vị tri
đương tri căn: Anannatam-nassamitindriyam (p)—Trí căn dùng để biết những
gì chưa được biết—The faculty of knowing that one will know the unknown.
2) Dĩ tri
căn: Annindriyam (p)—Trí căn tối thượng—The faculty of highest knowledge.
3) Cụ tri
căn: Annata-indriyam (p)—Trí căn của bậc thức giả—The faculty of the one
who knows.
(SS) Tam Nhãn—Three eyes:
1) Nhục
nhãn: Mamsa-cakkhu (p)—The fleshly eye.
2) Thiên
nhãn: Dibba-cakkhu (p)—The divine eye.
3) Tuệ
nhãn: Panna-cakkhu (p)—The eye of wisdom.
(TT) Tam Học—Three kinds
of training:
1) Tăng
thượng giới học: Adhisila-sikkha (p)—Training in higher morality.
2) Tăng
thượng tâm học: Adhicitta-sikkha (p)—Training in higher thought.
3) Tăng
thượng tuệ học: Adhipanna-sikkha (p)—Training in higher wisdom.
(UU) Tam Sự Tu Tập—Three
kinds of development:
1) Thân
tu: Kaya-bhavana (p)—Development of the emotions.
2) Tâm
tu: Citta-bhavana (p)—Development of mind.
3) Tuệ
tu: Panna-bhavana (p)—Development of wisdom.
(VV) Tam Vô Thượng—Three unsurpassables:
1) Kiến
vô thượng: Dassananuttariyam (p)—The unsurpassable of vision.
2) Hành
vô thượng: Patipadanuttariyam (p)—The unsurpassable of practice.
3) Giải
thoát vô thượng: Vimuttanuttariyam (p)—The unsurpassable of liberation.
(WW) Tam Định—Three kinds
of concentration:
1) Hữu
tầm hữu tứ định: Savotakko-savicaro samadhi (p)—The concentration of
thinking and pondering.
2) Vô tầm
hữu tứ định: Avitakko-vicara-matto samadhi (p)—The concentration with
pondering without thinking.
3) Vô tầm
vô tứ định: Avitakko-avicaro samadhi (p)—The concentration with neither
thinking nor pondering.
(XX) Ba Định Khác—Three
more kinds of concentration:
1) Không
định: Sunnato-samadhi (p)—The concentration on emptiness.
2) Vô
tướng định: Animitto-samadhi (p)—The concentration on the signlessness.
3) Vô
nguyện định: Appanihito samadhi (p)—The concentration on desirelessness.
(YY) Tam Thanh Tịnh—Three
purities:
1) Thân
thanh tịnh: Kaya-socceyam (p)—Purity of body.
2) Ngữ
thanh tịnh: Vaci-socceyam (p)—Purity of speech.
3) Ý
thanh tịnh: Mano-socceyam (p)—Purity of mind.
(ZZ) Tam Tịnh Mặc—Three
qualities of the sage:
1) Thân
tịnh mặc: Kaya-moneyyam (p)—Qualities of the sage as to the body.
2) Ngữ
tịnh mặc: Vaci-moneyyam (p)—Qualities of the sage as to speech.
3) Ý tịnh
mặc: Mano-moneyyam (p)—Qualities of the sage as to mind.
(3A) Tam Thiện Xảo—Three
skills:
1) Tăng
ích thiện xảo: Aya-kosallam (p)—Skills in going forward.
2) Tổn
ích thiện xảo: Apaya-kosallam (p)—Skills in going down.
3) Phương
tiện thiện xảo: Upaya-kosallam (p)—Skills in means to progress.
(3B) Tam Kiêu—Three
intoxications:
1) Vô
bệnh kiêu: Arogya-mado (p)—Kiêu mạn vì thân không bệnh—Intoxication with
health.
2) Niên
tráng kiêu: Yobbana-mado (p)—Kiêu mạn vì tuổi tráng niên—Intoxciation with
youth.
3) Hoạt
mạng kiêu: Jivita-mado (p)—Kiêu mạn vì có đời sống sung túc—Intoxication
with one’s prosperous life.
(3C) Tam Tăng Thượng—Three Predominant
influences:
1) Ngã
tăng thượng: Attadhipateyyam (p)—The predominant influence on oneself.
2) Thế
tăng thượng: Lokadhipateyyam (p)—The predominant influence on the world.
3) Pháp
tăng thượng: Dhammadhipateyyam (p)—The predominant influence on the
Dhamma.
(3D) Tam Luận Sự—Three
topics of discussion:
1) Bàn
luận về vấn đề quá khứ (sự việc nầy xãy ra trong quá khứ): Talk may be of
the past (that’s how it used to be).
2) Bàn
luận về vấn đề tương lai ((sự việc nầy xãy ra trong tương lai): Talk may
be of the future (that’s how it will be).
3) Bàn
luận về vấn đề hiện tại (sự việc này xãy ra trong hiện tại): Talk may be
of the present (that’s how it is now).
(3E) Tam Minh—Three
knowledges:
1) Túc
mạng minh: Pubbenivasanussati-nanam-vijja (p)—Knowledge of one’s past
lives.
2) Hữu
tình sanh tử minh: Sattanam-cutupapate-nanam-vijja (p)—Knowledge of the
decease and rebirth of beings.
3) Lậu
tận trí minh: Asavanam-khaye-nanam-vijja (p)—Knowledge of the destruction
of the corruption.
** For more information,
please see Tam Minh.
(3F) Tam Trú—Three
abidings:
1) Thiên
trú: Dibbo-viharo (p)—Deva-abiding.
2) Phạm
trú: Brahma-viharo (p)—Brahma-abiding.
3) Thánh
trú: Ariyo-viharo (p)—Ariyan-abiding.
(3G) Tam Thần Thông—Three miracles:
1) Thần
túc thần thông: Iddhi-patihariyam (p)—The miracle of psychic power.
2) Tha
tâm thần thông: Adesana-patihariyam (p)—The miracle of telepathy.
3) Giáo
giới thần thông: Anusasani-patihariyam (p)—The miracle of
instruction.
Tam Pháp Ấn: Trilaksana
(skt)—Tilakkhana (p)—Three Dharma Seals—Three marks of existence, or three
characteristics of all phenomenal existence:
(A)
1) Vô
thường: Anicca (p)—Impermanence.
2) Khổ:
Dukkha (p)—Suffering or unsatisfaction.
3) Vô
ngã: Anatta (p)—No-self—Egoless—Impersonality.
(B)
1) Vô
Thường: Impermanence.
2) Vô
Ngã: Non-ego.
3) Niết
Bàn: Niết Bàn Tịch Tĩnh Ấn—Nirvana.
Tam Pháp Diệu: The mystery of
the three things—See Tâm, Phật, Cập Chúng Sanh Thị Tam Vô Sai Biệt.
Tam Pháp Giới: Three realms—See
Ngũ Pháp Giới, Lý Pháp Giới and Sự Sự Pháp Giới.
Tam Pháp Thân: Ba Pháp
Thân—Three kinds of dharmakaya:
1) Pháp
Hóa Sinh Thân: Pháp thân Phật do pháp tính hóa hiện như Phật Thích Ca Mâu
Ni—The manifested Buddha, i.e., Sakyamuni.
2) Ngũ
Phần Pháp Thân: Năm phần công đức giới, định, tuệ hay lực thuyết giáo của
Phật—The power of his teaching.
3) Thực
Tướng Pháp Thân: Thực tướng không tính của chư pháp—The absolute or
ultimate reality.
Tam Pháp Tánh: Three tones of
all dharmas:
1) Lạc:
The tone of pleasure.
2) Khổ:
The tone of displeasure.
3) Không
khổ không lạc: The tone of indifference.
Tam Phát Tâm: Three vows of the
awakening of faith:
1) Tín
thành tựu phát tâm: To perfect bodhi of faith.
2) Giải
hành phát tâm: To understand and carry into practice this wisdom.
3) Chứng
phát tâm: The realization or proof of or union with bodhi.
Tam Phẩm Sa Di: Ba phẩm Sa
Di—The three grades of Sramanera:
1) Hạ
phẩm Sa Di: Khu Ô Sa Di—Tuổi từ 7 đến 13—From 7 to 13 years old.
2) Trung
phẩm Sa Di: Ứng Pháp Sa Di—Tuổi từ 14 đến 19—From 14 to 19 years old.
3) Thượng
phẩm Sa Di: Danh Tự Sa Di—Tuổi từ 20 trở lên—20 years or older.
Tam Phẩm Thính Pháp: Ba phẩm
thính pháp—Three grades of hearers:
1) Thượng
phẩm thính pháp: Nghe Pháp bằng cả tâm thức—Hearing Dharma with the
spirit.
2) Trung
phẩm thính pháp: Nghe Pháp bằng tâm—Hearing Dharma with the mind.
3) Hạ
phẩm thính pháp: Nghe Pháp bằng lổ tai—Hearing Dharma with the ear.
Tam Phẩm Tịnh Độ: Ba phẩm Tịnh
Độ—Three kinds of attainment in the Pure Land:
1) Thượng
phẩm: Superior—To be born in the Vairocana Pure Land (Mật nghiêm quốc).
2) Trung
phẩm: Medium—To be born in the Western Paradise of the Pure Land (Tây
Phương Cực Lạc).
3) Hạ
phẩm: Inferior—To be born in the Sun Palace (Tu La Cung) among the devas.
Tam Phân Khoa Kinh: Ba phần của
kinh—The three divisions of a treatise on a sutra:
1) Tự
phân: Giới thiệu Kinh—Introduction.
2) Chính
tông phân: Thảo luận Kinh—Discussion of the subject.
3) Lưu
thông phân: Áp dụng Kinh—Application.
Tam Phật Bồ Đề: Thân hay trí
trong tam thân—The body or wisdom of each of the Trikaya (Trikaya Tam
thân):
1) Ứng
Hóa Phật Bồ Đề: Nơi nào nên hiện thì hiện, như Phật Thích Ca đã thành đạo
dưới cội Bồ Đề để cứu độ chúng sanh—One under the bodhi-tree.
2) Báo
Phật Bồ Đề: Thập địa viên mãn, chứng niết bàn chân thường—One of
parinirvana.
3) Pháp
Phật Bồ Đề: Như Lai tạng tính vốn thanh tịnh hay niết bàn miên viễn—One of
Tathagatagarbha in its eternal nirvana aspect.
Tam Phật Đà: Sambuddha—The
truly enlightened one—Correct enlightenment.
Tam Phật Ngữ: The Buddha’s
three modes of discourse:
1) Tùy tự
ý ngữ: Unqualified (out of the fullness of his nature).
2) Tùy
tha ý ngữ: Qualified to suit the intelligence of his hearers.
3) Tùy tự
tha ý ngữ: A combination of both of the above two methods.
Tam Phật Tánh: Trikaya—Three
kinds of Buddha-nature:
1) Tự
tánh trụ Phật tánh: The Buddha-nature which is in all living beings, even
those in the three evil paths (gati).
2) Dẫn
xuất Phật tánh: The Buddha-nature developed by the right discipline.
3) Trí
đắc quả Phật tánh: The final or perfected Buddha-nature resulting from the
development of the original potentiality.
Tam Phiền Não: Three kinds of
afflictions:
1) Kiến
Tư Hoặc: The ilusion or misleading views and thoughts—See Kiến Hoặc Tư
Hoặc.
2) Trần
Sa Hoặc: Delusion of “Dust and sand.”
3) Vô
Minh Hoặc: The illusion arising from primal ignorance—See Vô Minh and Vô
Minh Hoặc.
Tam Phước: Tam Phúc—Three
sources of felicity:
(A) Theo Vô
Lượng Thọ Kinh—According to The Infinite Life Sutra:
1) Ân
phước hay Thế phước: Hiếu dưỡng cha mẹ và tu hành thập thiện, bao gồm cả
việc phụng thờ sư trưởng, tâm từ bi không giết hại, và tu thập thiện:
Filial piety toward one’s parents and support them, serve and respect
one’s teachers and the elderly, maintain a compassionate heart, abstain
from doing harm, and keep the ten commandments.
2) Giới
phước: Thọ tam quy, trì ngũ giới cho đến cụ túc giới, không phạm oai
nghi—For those who take refuge in the Triratna, observe other complete
commandments, and never lower their dignity as well as miantaining a
dignified conduct.
3) Hành
phước—Tu hành phát bồ đề tâm, tin sâu nhơn quả—Đọc tụng và khuyến tấn
người cùng đọc tụng kinh điển Đại thừa—For those who pursue the Buddha way
(Awaken their minds a longing for Bodhi), deeply believe in the principle
of cause and effect, recite and encourage others to recite Mahayana
Sutras.
(B) Câu Xá
Luận—According to The Abhidharma Kosa:
1) Ân
phước hay thí loại phước (Quả phước bố thí): Almsgiving, in evoking
resultant wealth.
2) Giới
loại phước (Quả phước của trì giới): Obtaining a happy lot in the heaven
for observing commandments (not killing, not stealing, not lying, not
commiting adultery, etc).
3) Tu
loại phước (Phước tu hành): Observance meditation in obtaining final
escape from the mortal round.
Tam Phước Điền: Three fields
for cultivating welfare—See Tam Phước.
Tam Phược: Three fetters—See
Tam Độc.
Tam Phương Tiện: Three means to
cultivate or practice Buddha dharma:
1) Kềm
thân: Kềm thân không cho làm điều ác—To control one’s body for not doing
bad deeds.
2) Kềm
khẩu: Kềm khẩu không cho nói những điều vô ích hay tổn hại—To control
one’s mouth for not speaking vain talk or harsh speech.
3) Kềm
tâm: Kềm tâm không cho dong ruổi tạo nghiệp bất thiện—To control one’s
mind for not wandering with unwholesome karma.
Tam Quá: Three transgressions
of the body, mouth and mind (deeds, words, thoughts).
Tam Quả: Ba quả báo và bốn nhân
khiến cho đứa trẻ sanh vào một gia đình nào đó—Three consequences
associated with the causes for a child to be born into a certain family:
1) Hiện
báo: Current requital—Những tạo tác thiện ác sẽ có quả báo lành dữ ngay
trong đời nầy—Transgressions and wholesome deeds we perform, we will
receive misfortunes or blessings in this very life.
2) Sanh
báo: Birth requital—Những tạo tác thiện ác của đời nầy sẽ có quả báo lành
dữ của đời sau—Transgressions and wholesome deeds we perform in this life,
we will receive the good or bad results in the next life.
3) Hậu
báo: Future requital—Những tạo tác thiện ác đời nầy sẽ có quả báo lành dữ,
không phải ngay đời sau, mà có thể là hai, ba, hoặc bốn, hoặc trăm ngàn
hay vô lượng kiếp đời sau—Transgressions or wholesome deeds we perform in
this life, we will not receive good or bad results in the next life;
however, good or bad results can appear in the third, fourth or thousandth
lifetime, or until untold eons in the future.
Tam Quán: Theo tông Thiên Thai,
có ba loại quán—According to the T’ien-T’ai sect, there are three
contemplations (meditations).
1) Quán
chân không lìa tướng: The meditation (contemplation) of true emptiness
that cuts off marks.
2) Quán
lý sự vô ngại: The meditation (contemplation) of the non-obstruction
between noumena and phenomena.
3) Quán
sự sự vô ngại: The meditation of pervasive inclusiveness—The meditation of
non-obstruction between phenomena and phenomena.
Tam Quán Đảnh: Three kinds of
baptism—See Tam Chủng Quán Đảnh.
Tam Quang: Three lights (sun,
moon, and star).
Tam Quang Thiên: See Tam Quang
Thiên Tử.
Tam Quang Thiên Tử: Devas from
the Three lights:
1) Bảo
Quang Thiên Tử: Nhựt Thiên Tử—Đức Quán Âm tên là Bảo Ý Thiên
Tử—Avalokitesvara—Divine son of the Sun.
2) Minh
Nguyệt Thiên Tử: Bảo Cát Tường Thiên Tử—Nguyên Thiên Tử—Đại Thế Chí Bồ
Tát—Mahasthamaprpta—Divine son of the Moon.
3) Minh
Tinh Thiên Tử: Phổ Quang Thiên Tử—The bodhisattva of the empyrean (Hư
không tạng Bồ Tát)—Divine son of the bright stars.
Tam Quy: See Tam Quy-Y
Tam Quy Y: Sarana-gamana
(skt)—Take refuge in Triratna—Take refuge in the three Precious Ones—The
Three Refuges:
(A)
1) Quy y
Phật vị đạo sư vô thượng: Take refuge in the Buddha as a supreme teacher.
2) Quy y
Pháp thần y lương dược: Take refuge in the Dharma as the best medicine in
life.
3) Quy y
Tăng đệ tử tuyệt vời của Phật: Take refuge in the Sangha, wonderful
Buddha’s disciples.
(B)
1) Tự quy
y Phật, đương nguyện chúng sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1
lạy): To the Buddha, I return to rely, vowing that all living beings
understand the great way profoundly, and bring forth the bodhi mind (1
bow).
2) Tự quy
y Pháp, đương nguyện chúng sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1
lạy): To the Dharma, I return and rely, vowing that all living beings
deeply enter the sutra treasury, and have wisdom like the sea (1 bow).
3) Tự quy
y Tăng, đương nguyện chúng sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại:
To the Sangha, I return and rely, vowing that all living beings form
together a great assembly, one and all in harmony without obstructions(1
bow).
** Trong lúc lắng nghe ba pháp quy-y thì lòng mình phải nhất tâm hướng
về Tam Bảo và tha thiết phát nguyện giữ ba pháp ấy trọn đời, dù gặp hoàn
cảnh nào cũng không biến đổi—When listening to the three refuges,
Buddhists should have the full intention of keeping them for life; even
when life is hardship, never change the mind.
(C) Tam quy
chính là ba trong những cửa ngõ quan trọng đi vào đại giác, vì nhờ đó mà
tam ác đạo được thanh tịnh—The three refuges are three of the most
important entrances to the great enlightenment; for they purify the evil
worlds.
(D) Người
Phật tử mà không quy y Tam Bảo sẽ có nhiều vấn đề trở ngại cho sự tiến bộ
trong tu tập—There are several problems for a Buddhist who does not take
refuge in the Three Gems.
1) Không
có dịp thân cận chư Tăng (Tăng Bảo) để được chỉ dạy dẫn dắt. Kinh Phật
thường dạy, “không quy y Tăng dễ đọa súc sanh.” Không quy-y Tăng chúng ta
không có gương hạnh lành để bắt chước, cũng như không có ai đưa đường chỉ
lối cho ta làm lành lánh ác, nên si mê phát khởi, mà si mê là một trong
những nhân chính đưa ta tái sanh vào cõi súc sanh: There is no chance to
meet the Sangha for guidance. Buddhist sutras always say, “If one does not
take refuge in the Sangha, it’s easier to be reborn into the animal
kingdom.” Not taking refuge in the Sangha means that there is no good
example for one to follow. If there is no one who can show us the right
path to cultivate all good and eliminate all-evil, then ignorance arises,
and ignorance is one of the main causes of rebirth in the animal realms.
2) Không
có dịp thân cận Pháp để tìm hiểu và phân biệt chánh tà chân ngụy. Do đó
tham dục dấy lên, mà tham dục là một trong những nhân chính để tái sanh
vào cõi ngạ quỷ. Vì thế mà kinh Phật luôn dạy, “không quy y pháp dễ đọa
ngạ quỷ”: There is no chance to study Dharma in order to distinguish right
from wrong, good from bad. Thus desire appears, and desire is one of the
main causes of rebirth in the hungry ghost. Therefore, Buddhist sutras
always say, “if one does not take refuge in the Dharma, it’s easier to be
reborn in the hungry ghost realms.”
3) Không
được dịp thân cận với chư Phật chẳng những không cảm được hồng ân của quý
ngài, mà không có dịp bắt chước đức từ bi của các Ngài. Do đó sân hận ngày
một tăng, mà sân hận là một trong những nguyên nhân chính của địa ngục. Vì
thế mà kinh Phật luôn dạy, “không quy y Phật dễ bị đọa địa ngục”: There is
not any chance to get blessings from Buddhas, nor chance to imitate the
compassion of the Buddhas. Thus, anger increased, and anger is one of the
main causes of the rebirth in hell. Therefore, Buddhist sutras always
say, “if one does not take refuge in Buddha, it’s easier to be reborn in
hell.
(E) Muốn quy
y Tam Bảo, trước hết người Phật tử nên tìm đến một vị thầy tu hành giới
đức trang nghiêm để xin làm lễ quy y thọ giới trước điện Phật: To take
refuge in the Triratna, a Buddhist must first find a virtuous monk who has
seriously observed precepts and has profound knowledge to represent the
Sangha in performing an ordination ceremony.
Tam Quy Ngũ Giới: Nghi lễ thọ
Ưu Bà Tắc hay Ưu Bà Di Giới, trong đó Phật tử tại gia nguyền thọ tam quy
gìn ngũ giới—The ceremony which makes the recipient an upasaka or
upasika—Laymen or laywomen taking refuge in the Triratna, receiving the
Law and accepting the five commandments—See Tam Quy Y and Ngũ Giới in
Vietnamese-English Section.
Tam Quy Thọ Pháp: Về nương nơi
Tam Bảo, thọ pháp và được nhận làm Phật tử tại gia, sau nghi thức sám
hối—Take refuge in the Triratna, receiving of the Law, or admission of a
lay disciple, after recantation and repentance of his previous wrong
belief and sincere repetition to the abbot or monk of the three surrenders
(to Buddha, Dharma, Sangha).
Tam Quý: Three seasons in India
(Spring, Summer and Winter).
Tam Quỹ: Three sources of
cultivation.
1) Từ Bi:
Compassion and pity—See Từ Bi in Vietnamese-English Section.
2) Nhẫn
Nhục: Patience—See Nhẫn Nhục, and Nhẫn Nhục Ba La Mật in
Vietnamese-English Section.
3) Pháp
Không: The emptiness or unreality of all things—See Pháp Không in
Vietnamese-English Section.
Tam Sắc: Three kinds of
rupa—See Sắc (B).
Tam Sinh: Three generations
(Past, present, and coming).
Tam Sinh Thành Phật: Three
births to become a Buddha:
1) Kiến
văn sinh: A past life of seeing and hearing Buddha-truth.
2) Giải
hành sinh: Liberation in the present life.
3) Chứng
nhập sinh: Realization of life in Buddhahood.
Tam Sư: Ba loại thầy trong Phật
giáo—Three kinds of teachers in Buddhism.
1) Luật
Sư: Teacher of Vinaya.
2) Pháp
Sư: Teacher of doctrine.
3) Thiền
Sư: Teacher of the Intuitive school.
Tam Sư Thất Chúng: See Tam Sư
Thất Chứng.
Tam Sư Thất Chứng: Trong nghi
thức truyền giới đầy đủ hay đại giới đàn phải có sự chứng minh của ba vị
Tăng cao tuổi Hạ và bảy người chứng—For a full ordination or triple
platform ordination, it is required three superior monks and a minimum of
seven witnesses, except in outlandish places, two witnesses are valid.
Witnesses are usually monks.
(A) Tam sư
gồm A xà lê, Giáo thọ và Hòa thượng trụ trì—Three superior monks include
the Dharma master, the teaching spiritual advisor, and the most venerable
(head of the ceremony).
(B) Thất
chứng gồm bảy vị sư: Seven witnesses include seven venerables
Tam Sự Giới: Giới liên hệ tới
thân, khẩu và ý—The commands relating to body, speech and mind (thân khẩu
và ý).
Tam Tai: Three calamities or
three final catastrophes:
1) Phong
Tai: Storm—See Phong Tai.
2) Thủy
Tai: Water—See Thủy Tai.
3) Hỏa
Tai: Fire—See Hỏa Tai.
Tam Tam Muội: The three
samadhis or the samadhi on the three subjects:
1) Không
tam muội: Thẩm định về lẽ không—To empty the mind of the ideas of me and
mine and suffering, which are unreal.
2) Vô
tướng tam muội: Thẩm định về lẽ không có tướng—To get rid of the idea of
form, or externals.
3) Nguyện
tam muội: Thẩm định về lẽ không nguyện cầu—To get rid of all wish or
desire.
Tam Tạng: Tripitakas—Tam Tạng
Kinh điển gồm trọn vẹn giáo lý của Đức Phật (bằng 11 lần quyển Thánh
Kinh), được viết bằng tiếng Pali trong trường phái Tiểu Thừa và tiếng Phạn
trong trường phái Đại Thừa—The three store houses—Three Buddhist Canon
Baskets—The three baskets (tripitaka) of Buddhist Teachings which contains
the essence of the Buddha’s teaching (is estimated to be about eleven
times the size of the Bible)—The Theravada canon written in Pali and the
Mahayana canon written in Sanskrit.
(I) Luật
Tạng: Vinaya (skt)—Precepts—Theo Hòa Thượng Narada trong Đức Phật và Phật
Pháp, Luật Tạng được xem là cái neo vững chắc để bảo tồn con thuyền Giáo
Hội trong những cơn phong ba bão táp của lịch sử. Phần lớn Luật Tạng đề
cập đến giới luật và nghi lễ trong đời sống xuất gia của các vị Tỳ Kheo và
Tỳ Kheo Ni—According to Most Venerable Narada in The Buddha and His
Teaching, the Vinaya Pitaka, which is regarded as the sheet anchor of the
Holy Order, deals mainly with the rules and regulations of the Order of
Bhikkhus and Bhikkhunis.
1) Ngót
hai mươi năm sau khi thành đạo, Đức Phật không có ban hành giới luật nhứt
định để kiểm soát và khép chư Tăng vào kỷ cương. Về sau, mỗi khi có trường
hợp xãy đến, Đức Phật đặt ra những điều răn thích hợp—For nearly twenty
years after the enlightenment of the Buddha, no definite rules were laid
down for the control and discipline of the Sangha. Subsequently as
occasion arose, the Buddha promulgated rules for the future discipline of
the Sangha.
2) Luật
Tạng nêu rõ đầy đủ lý do tại sao và trường hợp nào mà Đức Phật đặc ra một
giới, và mô tả rành mạch các nghi thức hành lễ sám hối của chư Tăng—Vinaya
Pitaka mentions in details (fully describes) reasons for the promulgation
of rules, their various implications, and specific Vinaya ceremonies of
the Sangha.
3) Ngoài
ra, lịch trình phát triển đạo giáo từ thuở ban sơ, sơ lược đời sống và
chức nhiệm của Đức Phật, và những chi tiết về ba lần kết tập Tam Tạng Kinh
Điển cũng được đề cập trong Luật Tạng—Besides the history of the gradual
development of the Sasana from its very inception, a brief account of the
life and ministry of the Buddha, and details of the thee councils are some
other additional relevant contents of the Vinaya Pitaka.
4) Tóm
lại, đây là những tài liệu hữu ích về lịch sử thời thượng cổ, về các cổ
tục ở Ấn Độ, về kiến thức và trình độ thẩm mỹ thời bấy giờ—In summary,
Vinaya Pitaka reveals useful information about ancient history, Indian
customs, ancient arts and sciences.
5) Luật
Tạng gồm năm quyển—The Vinaya Pitaka consists of five books:
a) Tội
Nặng: Parajika (skt)—Major offences.
b) Tội
Nhẹ: Pacittiya (skt)—Minor offences.
c) Phần
lớn: Mahavagga (skt)—Great Section.
d) Phần
nhỏ: Cullavagga (skt)—Lesser Section.
e) Giới
luật toát yếu: Parivara (skt)—Epitome of the Vinaya.
6) See Cụ
Túc Giới Tỳ Kheo.
(II) Kinh Tạng: Sutra
(skt).
1) Kinh
Tạng đại để gồm những bài pháp có tính cách khuyên dạy mà Đức Phật giảng
cho cả hai, bậc xuất gia và hàng cư sĩ, trong nhiều cơ hội khác nhau. Một
vài bài giảng của các vị đại đệ tử như các ngài Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên
và A Na Đà cũng được ghép vào Tạng Kinh và cũng được tôn trọng như chính
lời Đức Phật vì đã được Đức Phật chấp nhận—The Sutra Pitaka consists
chiefly of instructive discourses delivered by the Buddha to both the
Sangha and the laity on various occasions. A few discourses expounded by
great disciples such as the Venerable Sariputra, Moggallana, and Ananda,
are incorporated and are accorded as much veneration as the word of the
Buddha himself, since they were approved by him.
2) Phần
lớn các bài pháp nầy nhắm vào lợi ích của chư Tỳ Kheo và đề cập đến đời
sống cao thượng của bậc xuất gia—Most of the sermons were intended mainly
for the benefit of Bhikkhus, and they deal with the holy life and with the
exposition of the doctrine.
3) Nhiều
bài khác liên quan đến sự tiến bộ vật chất và tinh thần đạo đức của người
cư sĩ. Kinh Thi Ca La Việt chẳng hạn, dạy về bổn phận của người tại gia.
Ngoài ra, còn có những bài giảng lý thú dành cho trẻ em—There are several
other discourses which deal with both the material and the moral progress
of his lay-followers. The Sigalaka Sutra, for example, deals mainly with
the duties of a layman. There are also a few interesting talks given to
children.
4) Tạng
Kinh giống như một bộ sách ghi lại nhiều quy tắc để theo đó mà thực hành,
vì đó là các bài pháp do Đức Phật giảng ở nhiều trường hợp khác nhau cho
nhiều người có căn cơ, trình độ và hoàn cảnh khác nhau. Ở mỗi trường hợp
Đức Phật có một lối giải thích để người thính pháp được lãnh hội dễ dàng.
Thoáng nghe qua hình như mâu thuẫn, nhưng chúng ta phải nhận định đúng
Phật ngôn theo mỗi trường hợp riêng biệt mà Đức Phật dạy điều ấy. Tỷ như
trả lời câu hỏi về cái “Ta,” có khi Đức Phật giữ im lặng, có khi Ngài giải
thích dông dài. Nếu người vấn đạo chỉ muốn biết để thỏa mãn tánh tọc mạch
thì Ngài chỉ lặng thinh không trả lời. Nhưng với người cố tâm tìm hiểu
chơn lý thì Ngài giảng dạy rành mạch và đầy đủ—The Sutra Pitaka may be
compared to books of prescriptions, since the discourses were expounded on
diverse occasions to suit the temperaments of various persons. There may
be seemingly contradictory statements, but they should not be
misconstrued, as they were uttered by the Buddha to suit a particular
purpose; for instance, to the self-same question he would maintain
silence, when the inquirer was merely foolishly inquisitive, or give a
detailed reply when he knew the inquirer to be an earnest seeker after the
truth.
5) Tạng
Kinh gồm năm bộ—The Sutra Pitaka consists of five volumes:
a) Tên
những kinh gọi theo Phật Giáo Nguyên Thủy—Names of the sutras called by
the Theravada:
i) Trường A Hàm: Digha-Nikaya (p)—Ghi chép
những bài pháp dài—Collection of Long iscourses.
ii)
Trung A Hàm: Majjhima Nikaya (p)—Ghi chép những bài pháp dài bậc
trung—Collection of Middle-Length Discourses.
iii) Tạp A
Hàm: Samyutta Nikaya (p)—Ghi chép những câu kinh tương tự nhau—Collection
of Kindred Sayings.
iv) Tăng
Nhứt A Hàm: Anguttara Nikaya (p)—Ghi chép những bài pháp sắp xếp theo
số—Collction of Gradual sayings.
v) Tiểu A
Hàm: Khuddaka Nikaya (p)—Ghi chép những bài kệ ngắn—Smaller Collection—See
Tiểu A Hàm.
b) Tên
kinh gọi theo Phật Giáo Đại Thừa—Names of the sutras called by the
Mahayana:
i) Trường Bộ Kinh: See (A) (1).
ii)
Trung Bộ Kinh: See (A) (2).
iii) Tương
Ưng Bộ Kinh: See (A) (3).
iv) Tăng
Chi Bộ Kinh: See (A) (4).
v) Tiểu
Bộ Kinh: See (A) (5).
(III)
Luận Tạng: Abhidharma or sastra (skt)—Abhidhamma Pitaka (p)—Commentaries.
(A) Theo Hòa
Thượng Narada trong Đức Phật và Phật Pháp, Luận Tạng thâm diệu và quan
trọng nhất trong toàn thể giáo pháp, vì đây là phần triết lý cao siêu, so
với Kinh tạng giản dị hơn. Đây là tinh hoa của Phật giáo. Đối với một vài
học giả, Luận Tạng không phải do Đức Phật mà do các nhà sư uyên bác khởi
thảo về sau nầy. Tuy nhiên, đúng theo truyền thống thì chính Đức Phật đã
dạy phần chánh yếu của Luận Tạng. Những đoạn gọi là Matika hay Nồng Cốt
Nguyên Thủy của giáo lý cao thượng nầy như thiện pháp, bất thiện pháp, và
bất định pháp, trong sáu tập của Luận Tạng (trừ tập nói về những điểm
tranh luận) đều do Đức Phật dạy—The Abhidhamma Pitaka is the most
important and most interesting of the three, containing as it does the
profound philosophy of the Buddha’s teaching in contrast to the simpler
discourses in the Sutta Pitaka. Abhidhamma, the higher doctrine of the
Buddha, expounds the quintessence of his profound teachings. According to
some scholars, Abhidhamma is not a teaching of the Buddha, but is later
elaboration of scholastic monks. Tradition, however, attributes the
nucleus of the Abhidhamma to the Buddha himself. The Matika or Matrices of
the Abhidhamma such as wholesome states (kusala dhamma), unwholesome
states (akusala dhamma), and indeterminate states (abhyakata dhamma),
etc., which have been elaborated in the six books, except the Kathavatthu,
were expounded by the Buddha
a) Ngài
Xá Lợi Phất được danh dự lãnh trọng trách giảng rộng và giải thích sâu vào
chi tiết—Venerable Sariputta was assigned the honour of having explained
all these topics in detail.
b) Dầu
tác giả, hay các tác giả là ai, chắc chắn Luận Tạng là công trình sáng tác
của một bộ óc kỳ tài chỉ có thể so sánh với một vị Phật. Và điểm nầy càng
nổi bậc hiển nhiên trong tập Patthana Pakarana, vừa phức tạp vừa tế nhị,
diễn tả mối tương quan của luật nhân quả với đầy đủ chi tiết—Whoever the
great author or authors may have been, it has to be admitted that the
Abhidhamma must be the product of an intellectual genius comparable only
to the Buddha. This is evident from the intricate and subtle Patthana
Pakarana which describes in detail the various causal relations.
c) Đối
với bậc thiện tri thức muốn tìm chân lý, Luận Tạng là bộ sách chỉ đạo khẩn
yếu, vừa là một bộ khải luận vô giá. Ở đây có đủ thức ăn tinh thần cho học
giả muốn mở mang trí tuệ và sống đời lý tưởng của người Phật tử. Luận Tạng
không phải là loại sách để đọc qua cầu vui hay giải trí—To the wise
truth-seekers, Abhidhamma is an indispensable gide and an intellectual
treat. Here is found food for thought for original thinkers and for
earnest students who wish to develop wisdom and lead an ideal Buddhist
life. Abhidhamma is not a subject of fleeting interest designed for the
superficial reader.
d) Khoa
tâm lý học hiện đại, còn hạn định, vẫn nằm trong phạm vi của Vi Diệu Pháp
khi đề cập đến tâm, tư tưởng, tiến trình tư tưởng, các trạng thái tâm.
Nhưng Luận Tạng không chấp nhận có một linh hồn, hiểu như một thực thể
trường tồn bất biến. Như vậy Vi Diệu Pháp dạy một thứ tâm lý trong đó
không có linh hồn—Modern psychology, limited as it is, comes within the
scope of Abhidhamma inasmuch as it deals with mind, thoughts,
thought-processes, and mental properties; but it does not admit of a
psyche or a soul. It teaches a psychology without a psyche.
(B) Trong Vi
Diệu Pháp, tâm hay tâm vương được định nghĩa rõ ràng. Tư tưởng được phân
tích và sắp xếp đại để thành từng loại về phương diện luân lý. Tất cả
những trạng thái tâm hay tâm sở đều được lược kê cẩn thận. Thành phần cấu
hợp của mỗi loại tâm được kể ra từng chi tiết. Tư tưởng phát sanh như thế
nào cũng được mô tả tỉ mỉ. Riêng những chập tư tưởng bhavanga và javana,
chỉ được đề cập và giải thích trong Vi Diệu Pháp—Consciousness (citta) is
defined. Thoughts are analyzed and classified chiefly from an ethical
standpoint. All mental properties (cetasika) are enumerated. The
composition of each type of consciousness is set forth in detail. How
thoughts arise is minutely described. Bhavanga and javana thought-moments.
1) Trong
Vi Diệu Pháp, những vấn đề không liên quan đến giải thoát đều bị gác hẳn
qua một bên—Irrelevent problems that interest students and scholars, but
have no relation to one’s deliverance, are deliberately set aside.
2) Vi
Diệu Pháp không nhằm tạo lập một hệ thống tư tưởng về tâm và vật chất, mà
chỉ quan sát hai yếu tố cấu tạo nên cái được gọi là chúng sanh để giúp
hiểu biết sự vật đúng theo thực tướng—Abhidhamma does not attempt to give
a systematized knowledge of mind and matter. It investigates these two
composite factors of the so-called being, to help the understanding of
things as they truly are.
(C) Bà Rhys
Davids đã viết: “Vi Diệu Pháp đề cập đến cái gì ở bên trong ta, cái gì ở
chung quanh ta, và cái gì ta khao khát thành đạt.”—Mrs. Rhys Davids wrote
about Abhidhamma as follows: “Abhidhamma deals with what we find within
us, around us, and of what we aspire to find.”
(D) Tạng Kinh
chứa những giáo lý thông thường, còn Luận Tạng chứa đựng những giáo lý
cùng tột—While the Sutta Pitaka contains the conventional teaching, the
Abhidhamma Pitaka contains the ultimate teaching.
(E) Hầu hết
các học giả Phật giáo đều cho rằng muốn thông hiểu Giáo lý của Đức Phật
phải có kiến thức về Luận Tạng vì đó là chìa khóa để mở cửa vào “thực
tế.”—It is generally admitted by most exponents of the Dhamma that a
knowledge of the Abhidhamma is essential to comprehend fully the teachings
of the Buddha, as it represents the key that opens the door of reality.
(F) Luận
Tạng gồm bảy bộ—
1) Pháp Trụ hay Phân Loại Các Pháp: Dhammasanghani (p)—Classification
od Dhamma.
3) Phân
Biệt hay những tiết mục: Vibhanga (p)—Divisions.
4) Đại
Thuyết hay luận giải về các nguyên tố: Dhatukatha (p)—Discourses of
Elements.
5) Nhơn
Thi Thuyết hay những danh tính cá nhơn: Puggala Pannatti (p)—The Book on
Individuals.
6) Thuyết
Sự hay những điểm tranh luận: Kathavathu (p)—Points of Controversy.
7) Song
Đối hay quyển sách về cặp đôi: Yamaka (p)—The Bok of Pairs.
8) Phát
Thú hay quyển sách đề cập đến nhân quả tương quan: Patthana (p)—The Bok of
Causal Relations.
Tam Tạng Học Giả: A student of
Tripitaka.
Tam Tạng Pháp Sư: Tripitaka
Dharma Master—Vị Thầy làu thông Kinh Luật Luận—A teacher of the law or a
master who is fluent in sutras, precepts and expounding of sutras.
Tam Tánh: Three types of
characters.
(A)
1) Tốt:
good.
2) Xấu:
Bad.
3) Trung
Tính: Không tốt không xấu—Undefinable (neutral).
(B) See Biến Y Viên.
Tam Tạo Tác Pháp: Three active
things:
1) Sắc:
Material or things which have form.
2) Tâm:
Mental.
3) Phi
sắc phi tâm: Neith form nor mental.
Tam Tạp Nhiễm: The three
kasaya—Mixed dyes or infections:
(A)
1) Dục
vọng: Passion.
2)
Nghiệp: Karma.
3) Luân
hồi: Reincarnation.
(B)
1) Ảo
vọng: Illusion.
2)
Nghiệp: Karma.
3) Khổ
đau: Suffering.
Tam Tăng Thượng: Three
predominant influences—See Tam Pháp (xxxxxiv).
Tam Tâm: The three minds or
hearts—Three assured ways of reaching the Pure Land:
(A)
1) Chí
thành tâm: Perfect sinerity.
2) Thâm
tâm: Profound resolve.
3) Hồi
hướng phát nguyện: Resolve on demitting one’s merits to others.
(B)
1) Căn
bổn tâm: The 8th Alaya vijnana—The store-house—Nguồn chứa mọi chủng tử
thiện ác—Source of all seeds of good or evil.
2) Y bổn
tâm: The 7th Mano-vijnana mind—Mạt na thức—The mediating cause of all
taint.
3) Khởi
sự tâm: The sadayatana mind—The immediate influence of the six senses.
(C)
1) Nhập
tâm: Entering into a condition.
2) Trụ
tâm: Staying in a condition.
3) Xuất
tâm: Departing the condition.
Tam Tế: Ba thứ vi tế—Three
refined, or subtle conceptions:
1) Vô
minh nghiệp tướng: Vô minh hay tình trạng không giác ngộ—Ignorance or the
unenlightened condition, considered as in primal action, the stirring of
the perceptive faculty, associated with corpus or substance—The objective
illusory world.
2) Năng
kiến tướng: Có thể thấy được mọi hiện tượng—Ability to perceive
phenomena—Perceptive faculties, associated with function—The subjective
mind.
3) Cảnh
giới tướng: Thế giới hiện tượng bên ngoài, còn gọi là Hiện Tướng hay Hiện
Thức—The object perceived, or empirical world, associated with
function—The external, or phenomenal world.
Tam Thanh Tịnh: Three purities
of a Bodhisattva:
1) Thân
thanh tịnh: A pure body.
2) Tướng
thanh tịnh: Perfectly pure and adorned appearance.
3) Tâm
thanh tịnh: A mind free from all impurity.
Tam Thánh: The three sages or
holy ones:
(A) Tam Thánh
Hoa Nghiêm: Ba vị Thánh trong thế giới Hoa Nghiêm—The three divinities in
the Flower Ornament world:
1) Phật
Tỳ Lô Giá Na ở giữa: Vairocana in the center.
2) Văn
Thù bên trái: Manjusri on the left.
3) Phổ
Hiền bên phải: Samantabhadra on the right.
(B) Thích Ca
Tam Thánh: Ba vị Thánh được nói đến trong kinh Hoa Nghiêm—The three
divinities in the Flower Ornament Scriptures:
1) Phật
Thích Ca Mâu Ni ở giữa: Sakyamuni Buddha in the center.
2) Same
as in (A) (2).
3) Same
as in (A) (3).
(C) Tam Thánh
Di Đà: Ba vị Thánh trong cõi Tịnh Độ của Đức Phật A Di Đà. Người ta tin
rằng ba vị Thánh nầy là những vị đạo sư tiếp dẫn linh hồn của người quá
vãng. Trong một vài trường hợp hiếm hoi, ta thấy ngài Địa Tạng được thay
vào chỗ của ngài Đại Thế Chí Bồ Tát—The three Pure Land divinities in the
Pure Land Sect. These three divinities are believed to welcome the
departed into the Pure Land. In some rare instances, Ksitigarbha
Bodhisattva takes the place of Mahasthamaprapta:
1) A Di
Đà ở giữa: Amitabha in the center.
2) Quan
Âm bên trái: Avalokitesvara (Kuan Yin) on the left.
3) Đại
Thế Chí bên phải: Mahasthama-prapta on the right.
(D) Tam Thánh
Dược Sư—The three divinities, according to the
Bhaisajya-guru-vaidurya-prabhasa sutra:
1) Phật
Dược Sư ở giữa: Bhaisajya-guru-vaidyrya-Buddha in the centre—See Dược Sư
Tam Tôn.
2) Nhật
Quang Bồ Tát bên trái: Surya-prabhasana on the left.
3) Nguyệt
Quang Bồ Tát bên phải: Candra-prabhasana on the right.
Tam Thân Phật: Trikaya (skt)—Ba
loại thân Phật. Một vị Phật có ba loại thân hay ba bình diện chơn
như—Buddha has a three-fold body. A Buddha has three bodies or planes of
reality.
(A) Theo
triết học Du Già, ba thân là Pháp thân, Báo thân, và Hóa thân—According to
the Yogacara philosophy, the Triple Body is Dharmakaya, Sambhogakaya, and
Nirmanakaya:
1) Pháp
Thân: Dharmakaya (skt).
a) Pháp
(dharma) ở đây có thể được hiểu như là “thực tính,” hoặc là “nguyên lý tạo
luật” hay đơn giản hơn là “luật.”—Dharma here may be understood in either
way as “reality,” or as “law giving principle,” or simply as “law.”
b) Thân
(kaya) nghĩa là “thân thể” hay “hệ thống.”—Kaya means “body” or “system.”
c) Tập
hợp Pháp Thân (Dharmakaya) có nghĩa đen là thân thể hay một người hiện hữu
như là nguyên lý, và nay nó có nghĩa là là thực tính tối thượng mà từ đó
các sự vật có được sự hiện hữu và luật tắc của chúng, nhưng thực tính nầy
tự nó vốn vượt khỏi mọi điều kiện—The combination, dharmakaya, is then
literally a body or person that exists as principle, and it has now come
to mean the highest reality from which all things derive their being and
lawfulness, but which in itself transcends all limiting conditions.
d) Tuy
nhiên Dharmakaya không phải là một từ triết học suông như khi nó được nêu
định bằng từ “kaya” là từ gợi lên ý niệm về nhân tính, đặc biệt là khi nó
liên hệ với Phật tính một cách nội tại và một cách thiết yếu, vì không có
nó thì Đức Phật mất đi toàn bộ sự hiện hữu của Ngài—However, Dharmakaya is
not a mere philosophical word, as is indicated by the term “kaya,” which
suggests the idea of personality, especially as it relates to Buddhahood.
It belongs to the Buddha, it is what inwardly and essentially constitutes
Buddhahood, for without it a Buddha loses altogether his being.
e) Pháp
Thân cũng còn được gọi là Svabhavakaya, nghĩa là “cái thân thể tự tính” tự
tính thân, vì nó trú trong chính nó, nó vẫn giữ như là giự tự tính của nó.
Đây chính là ý nghĩa của khía cạnh tuyệt đối của Đức Phật mà trong Ngài sự
tịch lặng toàn hảo là thù thắng—Dharmakay is also known as Svabhavakaya,
meaning “self-nature-body”, for it abides in itself, it remains as such
retaining its nature. It is this sense the absolute aspect of the Buddha,
in whom perfect tranquility prevails.
2) Báo
Thân: Sambhogakaya (skt)—Cái thân thứ hai là Báo Thân, thường được dịch là
cái thân của sự đền bù hay sự vui hưởng—The second body is the
Sambhogakaya, which is ordinarily translated as Body of Recompense, or
Enjoyment.
a) Theo
nguyên nghĩa “sự vui hưởng: là tốt nhất để dịch “sambhoga” vì nó nó xuất
phát từ ngữ căn “bhuj,” nghĩa là “ăn,” hay “vui hưởng,” tiền từ của nó là
“sam,” nghĩa là “cùng với nhau” được thêm vào đó—Literally, “enjoyment” is
a better word for sambhoga, for it comes originally from the root “bhuj,”
which means “to eat” or “to enjoy,” to which the prefix “sam” meaning
“together” is added.
b)
Sambhogakaya được dịch sang Hoa ngữ là “Cộng Dụng Thân” hay “Thọ Dụng
Thân,” hay “Thực Thân.”—Thus “sambhogakaya” is often translated into the
Chinese as “Kung-Yung-Shên,” or “Shou-Yung-Shen,” or “Chih-Shên.”
c) Khi
chúng ta có từ Báo Thân, cái thân của sự khen thưởng, đền đáp dành cho nó.
Cái thân thọ dụng nầy đạt được như là kết quả hay sự đền đáp cho một chuỗi
tu tập tâm linh đã thể hiện xuyên qua rất nhiều kiếp. Cái thân của sự đền
đáp, tức là cái thân được an hưởng bởi một vị rất xứng đáng tức là vị Bồ
Tát Ma Ha Tát—Since we have the term “sambhogakaya,” recompense or reward
body for it. This body of Enjoyment is attained as the result of or as the
reward for a series of spiritual discipline carried on through so many
kalpas. The body thus realized is the sambhogakaya, body of recompense,
which is enjoyed by the well-deserving one, i.e., Bodhisatva-Mahasattva.
d) Đức
Phật như là cái thân thọ dụng thường được biểu thị như là một hình ảnh bao
gồm tất cả sự vinh quang của Phật tính; vì ở trong Ngài, với hình hài, có
một thứ tốt đẹp thánh thiện do từ sự toàn hảo của đời sống tâm linh. Những
nét đặc trưng của từng vị Phật như thế có thể thay đổi theo các bổn
nguyện của Ngài, ví dụ, hoàn cảnh của Ngài, danh tánh, hình tướng, xứ sở
và sinh hoạt của Ngài có thể không giống với các vị Phật khác; đức Phật A
Di Đà có Tịnh Độ của Ngài ở phương Tây với tất cả mọi tiện nghi như Ngài
mong muốn từ lúc khởi đầu sự nghiệp Bồ Tát của Ngài; và Đức Phật A Súc
cũng thế, như được miêu tả trong bộ Kinh mang tên Ngài là A Súc Phật
Kinh—The Buddha as the Body of Enjoyment is generally represented as a
figure enveloped in all the glory of Buddhahood; for in Him incarnated
there is everything good and beautiful and holy accruing from the
perfection of the spiritual life. The particular features of each such
Buddha may vary according to his original vows; for instance, his
environment, his name, his form, his country, and his activity may not be
the same; Amitabha Buddha has his Pure Land in the West with all the
accommodations as he desired in the beginning of his career as
Bodhisattva; and so with Akshobhya Buddha as described in the sutra
bearing his name.
e) Báo
Thân thỉnh thoảng cũng được gọi là “Ứng Thân.”—The Body of Recompense is
sometimes called “Ying-Shên” or the Responding Body.
3) Hóa
Thân: Nirmanakaya (skt).
a) Cái
thân thứ ba là Hóa Thân, nghĩa là “thân biến hóa” hay đơn giản là cái thân
được mang lấy. Trong khi Pháp Thân là cái thân quá cao vời đối với những
chúng sanh bình thường, khiến những chúng sanh nầy khó có thể tiếp xúc tâm
linh được với nó, vì nó vượt khỏi mọi hình thức giới hạn nên nó không thể
trở thành một đối tượng của giác quan. Những phàm nhân phải chịu sinh tử
như chúng ta đây chỉ có thể nhận thức và thông hội với cái thân tuyệt đối
này nhờ vào những hình tướng biến hóa của nó mà thôi. Và chúng ta nhận
thức những hình tướng nầy theo khả năng của chúng ta về tâm linh, trí tuệ.
Những hình tướng nầy xuất hiện với chúng ta không theo cùng một hình thức
như nhau. Do đó mà chúng ta thấy trong Kinh Pháp Hoa rằng Bồ Tát Quán Thế
Âm hóa hiện thành rất nhiều hình tướng khác nhau tùy theo loại chúng sanh
mà Ngài thấy cần cứu độ. Kinh Địa Tạng cũng ghi rằng Bồ Tát Địa Tạng mang
nhiều hình tướng khác nhau để đáp ứng những nhu cầu của chúng sanh—The
third Body is Nirmanakaya, usually translated as “Hua-Shên,” which means
“Body of Transformation,” or simply “Assumed Body.” The Dharmakaya is too
exalted a body for ordinary mortals to come to any conscious contact with.
As it transcends all forms of limitation, it cannot become an object of
sense or intellect. We ordinary mortals can perceive and have communion
with this body only through its transformed forms. And we perceive them
only according to our capacities, moral and spiritual. They do not appear
to us in the same form. We thus read in the Saddharma-Pundarika Sutra that
the Bodhisattva Avalokitesvara transforms himself into so many different
forms according to the kind of beings whose salvation he has in view at
the moment. The Kshitigarbha Sutra also mentions that Kshitigarbha
Bodhisattva takes upon himself a variety of forms in order to respond to
the requirements of different sentient beings.
b) Quan
niệm về Hóa Thân là quan trọng, vì cái thế giới tương đối nầy đối lập với
giá trị tuyệt đối của Như Như là giá trị vốn chỉ đạt được tới bằng cái trí
như như. Bản thể của Phật tính là Pháp Thân, nhưng hễ chừng nào Đức Phật
vẫn ở trong bản thể của Ngài thì cái thế giới của những đặc thù vẫn không
có hy vọng được cứu độ. Vì thế Đức Phật phải từ bỏ trú xứ nguyên bổn của
Ngài và mang lấy hình tướng mà các cư dân của trái đất nầy có thể nhận
thức và chấp nhận được—The conception of the Nirmanakaya is significant,
seeing that this world of relativity stands contrasted with the absolute
value of Suchness which can be reached only by means of the knowledge of
Suchness or Tathatajnana. The essence of Buddhahood is the Dharmakaya, but
as long as the Buddha remains such, there is no hope for the salvation of
a world of particulars. Thus the Buddha has to abandon his original abode,
and must take upon himself such forms as are conceivable and acceptable to
the inhabitants of this world.
(B) Theo
Thiền Sư D.T. Suzki trong Thiền Luận, Tập III—According to Zen Master D.T.
Suzuki in Essays in Zen Buddhism, Book III:
1) Pháp
Thân: Dharmakaya (skt)—Pháp thân là tự thể của hết thảy chư Phật và chúng
sanh. Do Pháp thân mà chư pháp có thể xuất hiện. Không có Pháp thân sẽ
không có thế giới. Nhưng đặc biệt, Pháp thân là bản thân yếu tính của hết
thảy mọi loài, đã có sẵn từ trước. Theo nghĩa nầy, Pháp thân là Pháp tánh
(Dharmata) hay Phật tánh (Buddhata), tức Phật tánh trong hết thảy mọi
loài—The Dharmakaya is the essence-being of all the Buddhas and also of
all beings. What makes at all possible the existence of anything is the
Dharmakaya, without which the world itself is inconceivable. But,
especially, the Dharmakaya is the essence-body of all beings which forever
is. In this sense it is Dharmata or Buddhata, that is, the Buddha-nature
within all beings.
2) Báo
Thân: Sambhogakaya (skt)—Cũng gọi là Thọ Dụng Thân, là bản thân tâm linh
của các Bồ Tát, được Bồ Tát thọ dụng như là kết quả do tu tập các Ba La
Mật. Các ngài tự mình thành tựu điều nầy tùy theo định luật nhân quả trên
phương diện đạo đức, và trong đây các ngài giải trừ trọn vẹn tất cả những
sai lầm và ô nhiễm trong cảnh giới của năm uẩn—The Sambhogakaya is the
spiritual body of the Bodhisattvas which is enjoyed by them as the fruit
of their self-discipline in all the virtues of perfection. This they
acquire for themselves according the law of moral causation, and in this
they are delivered at last from all the defects and defilements inherent
in the realm of the five Skandhas.
3) Hóa
Thân: Nirmanakaya (skt)—Cũng gọi là Ứng Hóa Thân hay Biến Hóa Thân, phát
sinh từ đại bi tâm (mahakaruna) của chư Phật và chư Bồ Tát. Bằng lý thể
của đại bi mà các ngài hướng tới chúng sanh, các ngài không bao giờ thọ
dụng những kết quả của các hành vi đạo đức của mình. Chí nguyện thiết tha
của các ngài là chia xẻ những kết quả nầy cho tất cả chúng sanh. Nếu Bồ
Tát có thể thay thế kẻ phàm phu chịu khổ não, Bồ Tát thực hiện ngay. Nếu
kẻ phàm phu có thể được giác ngộ do Bồ Tát hồi hướng công đức cho mình,
ngài sẽ thực hiện ngay. Bồ Tát hồi hướng công đức và chịu khổ thay cho
chúng sanh nhờ Biến Hóa Thân của ngài. Hóa thân là hình tướng mà Đức Phật
đã xử dụng khi muốn dùng thân hình của một con người để đi vào thế giới
nầy. Do đó, trong tính cách không gian, Bồ Tát chia thân mình thành trăm
nghìn koti vô số thân. Ngài có thể hóa thân làm những loài bò bay máy cựa,
làm Thánh, làm Ma vương, nếu ngài thấy đó là cơ duyên thích hợp để cứu vớt
thế gian ra khỏi sự kềm tỏa của vô minh, phiền não và đủ mọi thứ nhiễm ô
bất tịnh—The Nirmanakaya is born of great loving heart (mahakaruna) of the
Buddhas and Bodhisattvas. By reason of this love they have for all beings,
they never remain in the self-enjoyment of the fruits of their moral
deeds. Their intense desire is to share those fruits with their
fellow-beings. If the ignorant could be saved by the Bodhisattva by his
vicariously suffering for them, he would do so. If the ignorant could be
enlightened by the Bodhisattva by turning his stock of merit over to them,
he would do so. This turning over of merit and this vicarious suffering
are accomplished by the Bodhisattva by means of his Nirmanakaya,
transformation-body. Nirmanakaya is a body assumed by the Buddha in order
to establish contact with the world in a human form. In this form,
therefore, the Bodhisattva, spatially speaking, divides himself into
hundreds of thousands of kotis of bodies. He can then be recognized in the
form of a creeping caterpillar, in a sky-scraping mountain, in the saintly
figure of Saints, and even in the shape of a world-devouring Evil One
(Mara), if he thinks it necessary to take this form in order to save a
world that has passed into the hands of ignorance, evil passions, and all
kinds of defilements and corruptions.
(C) Theo
Nhiếp Luận Tông—According to Samparigraha School:
1) Pháp
Thân: Dharmakaya (skt)—Bản tánh là lý thể và trí tuệ—Ideal body whose
nature is principle and wisdom.
2) Báo
Thân: Sambhogakaya (skt)—Thọ dụng thân, chỉ thị hiện cho Bồ Tát—Enjoyment
or Reward-body which appears only for the Bodhisattva.
3) Hóa
Thân: Nirmanakaya (skt)—Biểu hiện cho thường nhân để họ tôn sùng. Hóa thân
Phật là thân vật chất mà chư Phật thị hiện để cứu độ chúng
sanh—Transformation-body which manifests itself for ordinary people for
their worship. The transformation body of the Buddha, the body-of-form of
all Buddhas which is manifested for the sake of men who cannot yet
approach the Dharmakaya (the formless True Body of Buddhahood).
(D) Theo Pháp
Tướng Tông—According to Dharmalaksana School—See (C) (Vì Nhiếp Luận Tông
là tiền thân của Pháp Tướng Tông—For Samparigraha School was a forerunner
of the Dharmalaksana School).
(E)
1) Sắc
thân: The physical body of the Buddha.
2) Pháp
môn thân: His psychological body with its vast variety.
3) Thực
tướng thân: His real body—Dharmakaya.
(F)
(F1) Tam Thân Phật theo tông Thiên Thai. Ba thân Phật được coi như là
Phật quả; đây là lý thuyết đặc trưng của tông Thiên Thai. Mỗi Đức Phật
giác ngộ viên mãn đều được quan niệm là có ba thân—Trikaya. According to
the T’ien-T’ai, the Threefold Body of the Buddha is mentioned as
Buddhahood. Every Buddha of Perfect Enlightenment is supposed to possess
three bodies:
1) Pháp
Thân: Dharmakaya (skt)—See Tam Thân Phật (D) (3).
2) Thọ
Dụng Thân: Sambhogakaya (skt)—See Tam Thân Phật (D) (2) (a) and (b).
3) Ứng
Hóa Thân: Nirmanakaya (skt)—See Tam Thân Phật (D) (1).
(F2) Tam Thân Phật, trong đó Pháp Thân là lãnh vực chuyên môn, Báo Thân
với sự luyện tập để thâu thập được lãnh vực chuyên môn nầy, và Hóa Thân
với sự áp dụng lãnh vực chuyên môn trong cuộc sống hằng ngày: Trikaya
(skt)—Dharmakaya or Dharma body (Law body) is likened to the field of a
specific career; the Sambhogakaya or bliss-body is a person’s training by
which that person acquires the knowledge of that specific career; and the
Nirmanakaya or the body of transformation is likened the application of
this knowledge in daily life to earn a living.
1) Hóa
thân (Ứng thân): Nirmana-kaya (skt)—Ứng thân—Từ ngữ “thân,” theo nghĩa
thường rất dễ bị hiểu lầm vì nó gợi ra ý tưởng về một hiện hữu thể xác.
Tuy nhiên, theo Thiên Thai tông thì Ứng Hóa Thân là thân thể xuất hiện qua
nhiều hình thức hay thân chuyển hóa của chư Phật. Khi muốn cứu độ chúng
sanh, một vị Phật có thể hóa thân vào một thân thể, như trường hợp Phật
Thích Ca Mâu Ni là hóa thân của Phật Tỳ Lô Giá Na—The term “body” in the
ordinary sense is rather misleading because it conveys the idea of a
bodily existence. However, according to the T’ien-T’ai Sect, Nirmanakaya
means body of manifestation, or the body of transformation
(incarnation)—Transformation body or the incarnated body of the Buddha—The
body in its various incarnation. In order to benefit certain sentient
beings, a Buddha can incarnate himself into an appropriate visual body,
such as that of Sakyamuni which is the transformation body of Vairocana
Buddha. It is twofold:
a) Thân
thể chỉ riêng cho các vị Bồ Tát sơ cơ: The body exclusively for
Bodhisattvas of primary stage, that is, a superior body of Transformation.
b) Thân
thể dành cho những chúng sanh dưới hàng Bồ Tát sơ cơ: The body for those
who are prior to the primary stage.
2) Báo
thân: Sambhogakaya (skt)—Báo thân Phật là báo thân của sự thọ hưởng. Đây
là kinh nghiệm về sự cực lạc của giác ngộ, về pháp tâm của Phật và chư tổ,
và về sự tu tập tâm linh được truyền từ thế hệ nầy qua thế hệ khác. Phật A
Di Đà trong cõi Tây Phương Cực Lạc tượng trưng cho báo thân nầy. Báo thân
nầy luôn đang ngự trị trên cõi Tịnh Độ, chỉ hiển hiện trên cõi trời chứ
chẳng bao giờ hiển hiện trong cõi trần, báo thân nầy thường được chư Bồ
tát giác ngộ tháp tùng. Theo tông Thiên Thai, thọ dụng thân là hiện thân
hữu ngã với chứng ngộ chân thật, nghĩa là tự thân đạt được do báo ứng của
một tác nhân lâu dài. Thân nầy có hai loại—Potentiality—The reward body of
bliss or enjoyment—Celestial body or bliss-body of the Buddha,
personification of eternal perfection in its ultimate sense. The
experience of the rapture of enlightenment, of the Dharma-mind of the
Buddha and the patriarchs, and of the spiritual practices which they have
transmitted from generation to generation. Amitabha Buddha in his Western
Paradise symbolizes this "bliss-body." It always resides in the Pure Land
and never manifests itself in the mundane world, but only in the celestial
spheres, acompanied by Enlightened Bodhisattvas. According to the
T’ien-T’ai Sect, the Enjoyment or Reward-body is the person embodied with
real insight, i.e., the body attained as the value of a long causal
action. There are two kinds of Sambhogakaya:
a) Tự Thọ
Dụng: Vô lượng công đức chân thực và viên tịnh thường biến sắc thân của
các Đức Như Lai do ba a tăng kỳ kiếp tu tập vô lượng phước huệ tư lương mà
khởi lên—Sambhogakaya for the Buddha’s own use, or bliss.
b) Tha
Thọ Dụng: Vi diệu tịnh công đức thân của các Đức Như Lai do bình đẳng trí
thị hiện ra, chư Bồ Tát trụ nơi Thập Địa hiện đại thần thông, chuyển chánh
pháp luân, xé rách lưới nghi của chúng sanh khiến họ thọ dụng được pháp
lạc Đại Thừa—Sambhogakaya for the spiritual benefit of others.
3) Pháp
thân: Dharmakaya—Pháp thân Phật vô sắc, bất biến, siêu việt, không thể
nghĩ bàn và đồng nghĩa với “Tánh không.” Đây là kinh nghiệm về tâm thức vũ
trụ, về nhất thể ở bên kia mọi khái niệm. Pháp thân được thừa nhận vô điều
kiện là bản thể của tánh viên dung và toàn hảo tự do phát sinh ra mọi hình
thức hữu sinh hoặc vô sinh và trật tự luân lý. Phật Tỳ Lô Giá Na, tức
Quang Minh Biến Chiếu Phật, là hiện thân hình thái nầy của tâm thức vũ
trụ. Theo tông Thiên Thai, Pháp thân chính là lý niệm, lý tánh hay chân
lý, không có một hiện hữu hữu ngã nào. Nó đồng nhất với “Trung Đạo
Đế.”—Essence—Absolute or spiritual body or Law Body—Dharma body of reality
which is formless, unchanging, transcendental and inconceivable and
synonymous with “Emptiness.” The dharma body includes meditation, wisdom,
and nirvana (Thể, trí, dụng). This is the experience of cosmic
consciousness, of oneness that is beyond every conception. The
unconditioned dharmakaya is the substratum of completeness and perfection
out of which arise all animate and inanimate forms and moral order.
Vairocana Buddha, the “All-Illuminating One” embodies this aspect of
universal consciousness. According to the T’ien-T’ai, Dharmakaya is the
idea or Principle or Truth itself without any personal existence.
Tam Thân Thanh Tịnh: Three
bodies of pure precepts—Three comprehensive precepts—Three kinds of pure
precepts:
1) Không
làm các điều ác: Do not do what is evil.
2) Làm
các hạnh lành: Do what is good.
3) Luôn
làm lợi lạc cho chúng sanh: Be of benefit to all sentient beings.
Tam Thân Thế Tục: Three worldly
intimate relations:
1) Cha:
father.
2) Mẹ:
Mother.
3) Anh
chị em: Brothers and sisters.
Tam Thần Thông: Three
miracles—See Tam Pháp (xxxxxviii).
Tam Thập Chủng Bất Tịnh Bố Thí:
Theo Thương Tọa Thích Hải Quang trong Thơ Gửi Người Học Phật, có ba mươi
loại bất tịnh bố thí, mà người thí chẳng được phước, cũng chẳng được gọi
là “Hảo Tâm Bố Thí Nhân”—According to Venerable Thích Hải Quang in Letters
To Buddhist Followers, there are thirty types of giving that are not pure
that the givers will neither gain merits, nor will they be called “People
who give out of the goodness of their hearts”.
1) Thấy
biết điên đảo mà bố thí: Give while having delusional and chaotic
views—Tức là bố thí theo kiểu thí cô hồn, mong người nhận rồi đi cho
khuất mắt, chứ kỳ thật chẳng có lòng thương xót chi cả. Hoặc là bố thí tùy
hứng, nghĩa là vui thì cho, buồn thì không cho, thậm chí còn đòi lại những
gì đã cho, hoặc chưởi bới, vân vân—This is similar to giving to “ghosts,”
so people will no longer bother them. Otherwise, there is not an ounce of
compassion. This also indicates people who give depending on their moods,
meaning if they are happy they will give, if they are sad they will not
give, or they may ask for it back, or going as far as insulting people
while in the process of giving.
2) Bố thí
vì báo ân: Tức là trước kia đã lỡ mang ơn người đó rồi nên bây giờ bố thí
lại như trừ nợ—Give to return a favor, or to even out a past favor.
3) Bố thí
mà chẳng có lòng thương: Tức là bố thí theo kiểu ném liệng vào mặt
người—Give without having any compassion.
4) Bố thí
vì sắc dục: Give because of form desire—Tức là thấy người đàn bà hay đàn
ông có sắc đẹp nên khởi tâm tà dục, muốn giả bộ bố thí để lấy lòng trước,
để sau nầy có thể thỏa mãn được dục tâm của mình—This is seeing an
individual who is beautiful, and so one pretends to give in hope of
gaining sexual relations with that person or give in hope of winning that
person as a spouse.
5) Hoặc
mưu đồ đe dọa người mà bố thí: Give and then make threats—Tức là bố thí
trước rồi hăm dọa sau với ý đồ gài bẫy để hối lộ, làm cho người nhận phải
sợ mà làm thinh không dám tố cáo những điều sai quấy của mình trước pháp
luật—Make bribes to a person or threaten the person with “blackmail,” so
the individual will not dare go to the authorities.
6) Đem đồ
ăn có độc ra mà bố thí với mục đích giết hại người: Use poisonous foods to
give to someone with the purpose to murder that person.
7) Đem
dao gậy, binh khí, súng ống, bom đạn ra mà bố thí, như viện trợ về quân
sự: Use knives, daggers, weapons, guns, tanks, bombs, bullets, etc, i.e.,
military assistance.
8) Vì
được khen ngợi mà bố thí, tức là bố thí để cầu danh và muốn được tiếng tăm
khen tặng: Give because of praises.
9) Vì ca
hát mà bố thí: Thấy ca sĩ đẹp, hát hay mà bố thí để cầu thân, chớ còn xấu
xa và hát dở thì không thèm cho một xu—Give because someone has a
marvelous voice.
10) Vì xem
tướng mà bố thí: Give by basing on someone’s physical characteristics—Tức
là mình biết tướng, thấy kẻ đó bây giờ tuy còn nghèo, nhưng về sau nầy sẽ
trở thành người giàu sang quyền quý, nên bây giờ làm bộ bố thí, trước để
lấy lòng, hầu cầu lợi lộc cho mình về sau nầy—These are people who have
the unique ability to foretell someone’s future based on their physical
characteristics. Thus, they may see someone as being poor now but that
person’s future is promising, so they give now in order to win that person
over, hoping in the future that individual will remember them.
11) Vì muốn
kết bạn mà bố thí: Give in hope of winning someone’s friendship.
12) Vì học
nghề mà bố thí: Give in hope to learn the tricks of the trade—Thấy người
ấy tuy nghèo nhưng cò nghề hay trong tay, muốn cầu học nghề nên làm bộ bố
thí để lấy thiện cảm—These are people who realize a person’s talents
despite the fact such a person is of “lower status,” so they pretend to
give and befriend such an individual hoping to steal that person’s ideas
to benefit themselves.
13) Bố thí mà
nghi ngờ là có quả báo hay không có quả báo: Give but doubt whether there
will be retributions or not—Tức là bố thí mà trong lòng còn nghi ngờ, do
dự là không biết bố thí như vậy thì sau nầy có được hưởng quả báo tốt đẹp
hay không—These are people who give but are still skeptical whether their
good deeds will bring them benefits in the future. This is a type of
giving in hope of something in return.
14) Trước
mắng chửi cho hả hê rồi sau đó mới chịu bố thí: Give but only after
insulting someone until gaining contentment.
15) Bố thí
rồi mà trong lòng bực bội, ghét tức và hối tiếc: Give but thereafter begin
having regrets, resentments, and angers.
16) Bố thí
rồi mà nói rằng các người thọ lãnh sau nầy sẽ phải làm thân trâu ngựa, súc
vật, tôi tớ để đền trả lại cho mình: Give and then say to the receivers,
“in the future you will become servants, slaves, or various animals such
as buffaloes and horses to repay the debts you owe me.”
17) Bố thí
rồi mà nói rằng sau nầy mình sẽ được thọ phước báo, giàu sang lớn: Give
and then say in the future I will reap great meritorious retributions of
wealth and luxury
18) Già yếu
đau bệnh nên sợ chết mà bố thí: Give out of fear of old age, sickness,
and death—Tức là khi còn trẻ đẹp mạnh khỏe thì không có tâm bố thí, đến
chừng già yếu, bệnh hoạn mới chịu xuất tiền ra bố thí—Meaning when they
are young and healthy, the tought of giving never crosses their minds, but
when they are old, weak, bedridden, afaid they will be condemned to hell
or hungry ghost, only then are they willing to dispense their fortunes to
give, hoping to escape their potential fates.
19) Bố thí mà
muốn được nổi danh khắp mọi nơi rằng ta đây là một người đại thí chủ: Tức
là bố thí chỉ muốn được nổi danh để hân hạnh, khoe của mà thôi chớ không
có tâm từ bi, thương xót ai—Give in hope of being known throughout the
land as a “Great Benefactor.”
20) Hoặc ganh
ghét ngạo nghễ mà bố thí: Give because of jealousy or to ridicule
others—Tức là các người chỉ bố thí có một, chớ ta đây bố thí gấp hai, ba
lần hơn cho biết mặt, kỳ thật không có tâm thanh tịnh thương xót chi cả.
Đây là loại bố thí vì muốn cạnh tranh sự giàu sang thế lực và hơn thua lẫn
nhau mà thôi—This is giving based on ulterior motives, such as ‘you only
gave one, but I gave tens and thousands more’ in order to ridicule
someone. Otherwise, there is not any purity or compassion in this
charitable act. This type of giving is to show off how much power and
wealth one has over another person.
21) Hoặc ham
mộ giàu sang, danh vọng mà bố thí: Give because of fondness for wealth and
notoriety—Tức là thấy gia đình người ta giàu có, danh vọng, quý phái nên
làm bộ bố thí để cầu thân, cầu hôn, như tặng quà cáp, biếu xén, vân
vân—This refers to people who notice a family is wealthy and influential,
so they pretend to give hoping to get to know or marry into the family,
such as buying gifts, doing favors, etc.
22) Vì cầu
hôn nhân mà bố thí: Give in hope of marriage—Tức là thấy người ta có con
gái hay con trai quý tướng, xinh đẹp, nhưng mà nghèo, muốn cưới về làm vợ
làm chồng, nên làm bộ bố thí để lấy lòng—This refers to people who notice
another family as having a boy or a girl who is precious, talented, but
that family is poor; thus, in wishing to marry the child as a husband or
wife, these people pretend to give to the family to win the family over.
23) Mong cầu
được con trai, con gái mà bố thí: Give in hope of having a son or a
daughter—Tức là người tuy giàu có nhưng không có tâm bố thí, đến chừng lớn
tuổi bị hiếm con, hoặc có toàn con trai, nay muốn con gái; hay toàn con
gái, nay muốn con trai, nên mới chịu xuất tiền của ra bố thí, mục đích chỉ
để cầu được con mà thôi, chớ không có thật lòng từ bi thương xót—This
refers to people who despite having wealth are not charitable people. As
they get older but have no children or have all girls, but no boys, or all
boys but no girls, only then are they willing to dispense their money to
give. However, their giving is not genuine or arising from compassion
because their only intention is to pray to have a child.
24) Hoặc muốn
cầu giàu sang mà bố thí: Give in hope of being wealthy—Tức là đã giàu rồi,
lại còn muốn được giàu hơn nữa nên bố thí—This refers to people who are
already wealthy, so they give more in hope of being even richer.
25) Hoặc suy
nghĩ rằng kiếp nầy ta bố thí để kiếp sau được giàu sang mà bố thí: Give in
hope that if I give in this life, in the next life I will be rich—Tức là
bố thí với ý định thủ lợi, có tính toán lời lỗ ở kiếp nầy, kiếp sau—This
is giving for self-benefit, calculating the loss and gain of this life,
the next life, and so forth.
26) Thấy kẻ
nghèo không bố thí, mà cứ chăm chỉ bố thí cho người giàu: Do not give to
the poor, but spend all of one’s focus to give to the rich—Thấy kẻ nghèo
đã không bố thì mà còn khi dễ, và chẳng có lòng thương xót—This refers to
people who show disrespect and have not the slightest compassion for
those less fortunate, yet when they see wealthy and influential people,
they give readily in hope of befriending these people.
27) Vì bị
cưỡng ép, hăm dọa mà bố thí: Give out of threats and coercion—Tức là người
tuy giàu nhưng không chịu bố bố thí, bị kẻ “anh hùng nghĩa hiệp” nửa đêm
phi thân đột nhập vào nhà hăm dọa: “Nếu không chịu bố thí thì ta sẽ giết
chết,” hoặc là bị chúng nắm được chuyện bí mật riêng tư, dọa sẽ đăng báo,
bêu xấu, vân vân, sợ quá nên bất đắc dĩ phải bố thí theo yêu sách của đối
phương—This refers to people who are wealthy yet they refuse to give. Only
when a more ‘powerful’ person makes threats ‘if you do not give, I will
take your life,’ are they willing to give. Or if someone discovers ‘hidden
secrets’ and forces them to give, or face the consequence of getting
reported to the newspapers, magazines, etc. In fear of being exposed,
these people then give as demanded by the opposition.
28) Vì giết
hại mà bố thí: Give for killing and harming—Tức là bố thí cho kẻ ác nhân
đặng lấy lòng mang ơn của nó, rồi sau đó sai nó đi giết hại kẻ thù của
mình—This refers to people who give to wicked and evil beings to win these
people over and then later ask them to kill or harm the enemy.
29) Bố thí
trong lửa: Give while being under fire—Tức là ngoài mặt thì bố thí, chớ
trong lòng thì đầy lửa giận. Ý nói chỉ bị bắt buộc, chớ không có lòng nhân
từ, vừa cho vừa quăng ném vào mặt—On the outside, they appear to be
giving, but in the inside the fire of anger rages on. Thus, this is
referring to people who feel obligated or having no other choice but to
give; otherwise there is not the slightest bit of compassion. Therefore as
they give, they throw the gift in people’s faces, insulting them, etc.
30) Bố thí vì
ái dục: Give in water of desire—Bố thí để lấy lòng người đẹp, hy vọng sau
nầy có dịp thỏa mãn được tâm ái dục, tà dâm của mình—This is giving in
order to win the heart of someone beautiful hoping one day this act will
lead to sexual gratification.
Tam Thập Giới Xả Đọa Tỳ Kheo Ni:
Nissaggiya-pacittiya (skt)—Từ Nissaggiya-pacittiya gốc Nam Phạn, có hai
phần: phần thứ nhất là Nissaggiya có nghĩa là từ bỏ; phần thứ hai
Pacittiya có nghĩa là điều giải trước giáo đoàn. Con người thường có
khuynh hướng sa ngã; vì thế dù đã gia nhập vào cuộc sống tự viện, chư Ni
vẫn thỉnh thoảng vi phạm luật sống trong tự viện, như chấp nhận quá số vật
dụng hằng ngày được Đức Phật quy định cho Ni chúng. Chính vì thế mà Đức
Phật đã đặt ra thanh quy tự viện, nhằm giúp chư Ni tránh phạm phải lỗi
lầm. Theo Luật Nghi Khất Sĩ được Đức Tôn Sư Minh Đăng Quang soạn từ Luật
Tạng cho Tăng Ni hệ phái Khất Sĩ, ba mươi giới mà người phạm tội phải giải
thích trước giáo đoàn và phải bị phạt cấm phòng sáu bữa—The
Nissaggiya-pacittiya has two components: the word Nissaggiya means giving
up; and the word Pacittiya means reconciliation or expiation. A person by
his or her true nature is subject to lapses; therefore, even after joining
the monastic life, the nun sometimes, makes transgression of the monastic
rules, i.e., accepting things of daily use in excess of the number allowed
by the Buddha is not proper for monks and nuns. Thus, the Buddha set forth
rules that help making nuns free from transgressions. According to Rules
for Mendicants composed by Most Honerable Master Minh Đăng Quang, thirty
offences which require explanation and punishment for the offenders is
six-day room retention.
1) Cấm
cất giữ dư chăn áo quá mười ngày: A nun should not wear or keep an extra
robe for more than ten days.
2) Cấm bỏ
chăn áo ở một nơi khác, trong một đêm: a nun should not leave robes and
sleeping material in another place, even for one night (nuns should not be
away, separated from the three robes, even for one night).
3) Khi áo
rách mất, có người cúng dường vải, dù không đúng thời (trai tăng tự tứ)
vị Ni vẫn có thể nhận. Khi nhận là phải may cho nhanh; tuy nhiên, nếu
không đủ vải may, có thể để dành chờ có thêm, nhưng cấm để dành vải quá
một tháng: When robes worn out, and the robe-material is accrued to the
nun, even not at the right time, it may be accepted by that nun if she so
wish. Having accepted it, it should be made up quickly. But if it is not
sufficient for her, that robe-material may be laid aside by that nun for a
month at most.
4) Cấm
hỏi xin áo với nam nữ thí chủ, trừ khi thắt ngặt (khi áo bị mất hay bị hư
hại): A nun should not ask a man or woman householder for a robe, except
at the right time (robe is stolen or destroyed).
5) Cấm
nhận nhiều chăn áo quá bộ, trừ khi thắc ngặc: a nun should not accept more
than an inner and upper robes (if a nun is offered robe-material for many
robes, then at most she should accept enough for an inner and an upper
robe. If she accepts more than that there is an offence of expiation
involving forfeiture).
6) Cấm tự
ý muốn kiểu cắt may, khi có một thí chủ định sắm cho áo: When there is a
householder plans to offer robe-material, or robe-fund, a nun should not
design the robe as he wishes.
7) Cấm tự
ý muốn kiểu cắt may, khi có nhiều thí chủ định sắm cho: When there are two
or more householders plan to offer robe-material or robe-fund, a nun
should not design the robe as he wishes.
8) Cấm
nhận tiền để may áo, và hối thúc Giáo Hội may liền: A nun should not
obtain robe-fund and urge the Order to make the robe immediately.
9) Cấm
nhận tiền bạc vàng, gởi hoặc bảo kẻ khác nhận thế: A nun should not take
gold and silver, nor should she ask another person to take for her.
10) Cấm buôn
bán đồ quý báu: A nun should not engage in various transactions in which
gold and silver is used.
11) Cấm buôn
bán bất luận vật gì: A nun should not engage in any kinds of bartering.
12) Cấm kiếm
bát mới tốt, mặc dầu đúng năm mà cái cũ vẫn còn xài được: A nun should not
get another new bowl in exchange for the old bowl, even though the old
bowl is very old, but is still usable (If a nun should get another new
bowl in exchange for a bowl mended in less than five places, there is an
offence of expiation involving forfeiture. That bowl is to be forfeited by
that nun to the company of nuns, and whatever the last bowl belonging to
that company of nuns, that should be given to this nun with the words:
“Nun, this is a bowl for you; it should be kept until it breaks.” That is
the proper course in this case).
13) Cấm đem
chỉ cho thợ dệt xa lạ dệt áo cho mình khi có người cúng: A nun should not
ask a man or a woman householder who is not a relation to weave her robe
(saying this robe-matrial is being especially woven for me, please make it
long and wide, and make it evenly woven, well woven and well scraped,
etc).
14) Cấm ra
kiểu ni cho thợ dệt, khi thí chủ dệt áo cho mình: A nun should not ask for
yarn, or should not have robe-material woven by weavers.
15) Cấm giận
hờn đòi lại áo khi đã cho người rồi: A nun should not give a robe to
another monk and then take it back because she is angry or displeased of
that nun.
16) Cấm để
dành thuốc, đường, dầu, quá bảy ngày, trừ khi đau bệnh mà có người cúng
dường: A nun should not store medicine, sugar, fresh butter, oil, honey,
etc. for over seven days, except when she is ill.
17) Cấm đã
lãnh áo trước kỳ, mà khi đến lệ lại còn hỏi nữa: A nun should not obtain
the robe before the robe-season, lay it aside, and ask again during the
robe-season.
18) Cấm lén
lấy một món đồ gì của Giáo Hội: A nun should not take any things that
belong to the Order.
19) Cấm mua
sắm đồ cho một người đàn ông: A nun should not do any shopping for a man.
20) Cấm dùng
làm của riêng mình món đồ người ta cúng cho Giáo Hội: a nun should not
take away any thing that is offered to the Order.
21) Cấm dùng
làm của riêng mình món đồ mà một cô khác trao ra để giao cho Giáo Hội: A
nun should not take away anything that another nun offers to the Order.
22) Cấm dùng
đồ của thí chủ cho về việc khác: A nun should not use the donations from
lay Buddhists for personal purposes.
23) Cấm nhơn
danh Giáo Hội mà sắm đồ riêng cho mình: A nun should not gain any personal
gains on behalf of the Order.
24) Cấm có
đến hai cái bát để thay đổi: A nun should not keep an extra bowl.
25) Cấm chứa
nhiều đồ tốt đẹp: A nun should not store beautiful things, such as art
crafts, pictures, etc.
26) Cấm hứa
cho một cô khác vải bó rịt trong cơn đau mà không cho: A nun should not
brak her promise to give cloth for bandage to another nun.
27) Cấm đổi
lấy áo của thí chủ cho, chớ không lấy áo của Giáo Hội phát (vì áo của thí
chủ tốt hơn): A nun should not exchange the robe which is given by the
Order for another one from lay Buddhists.
28) Cấm bất
bình, giận hờn đòi lại áo khi đã cho người rồi: A nun should not give a
robe to another nun and then take it back because he is angry or
displeased of that nun.
29) Cấm may
áo mùa đông đến bốn xấp vải: A nun should not use more than four batches
of cloth for heavy (winter) clothes. It is advisable for a nun to bargain
for a heavy cloth for four bronzes. If she bargains one worth more than
that, she commits the offense of expiation.
30) Cấm may
áo mùa hè trên hai xấp rưỡi vải: A nun should not use more than two and a
half batches for light (summer) clothes. Bargaining for light clothes
should be made for at most two and half bronzes. If she bargains a light
cloth worth more than that, she commits an offense of expiation involving
forteature.
Tam Thập Giới Xả Đọa Tỳ Kheo (Tăng):
Nissaggiya-pacittiya (skt)—Từ Nissaggiya-pacittiya gốc Nam Phạn, có hai
phần: phần thứ nhất là Nissaggiya có nghĩa là từ bỏ; phần thứ hai
Pacittiya có nghĩa là điều giải trước giáo đoàn. Con người thường có
khuynh hướng sa ngã; vì thế dù đã gia nhập vào cuộc sống tự viện, chư Tăng
Ni vẫn thỉnh thoảng vi phạm luật sống trong tự viện, như chấp nhận quá số
vật dụng hằng ngày được Đức Phật quy định cho Tăng Ni. Chính vì thế mà Đức
Phật đã đặt ra thanh quy tự viện, nhằm giúp chư Tăng Ni tránh phạm phải
lỗi lầm. Theo Luật Nghi Khất Sĩ được Đức Tôn Sư Minh Đăng Quang soạn từ
Luật Tạng cho Tăng Ni hệ phái Khất Sĩ, ba mươi giới mà người phạm tội phải
giải thích trước giáo đoàn và phải bị phạt cấm phòng sáu bữa—The
Nissaggiya-pacittiya has two components: the word Nissaggiya means giving
up; and the word Pacittiya means reconciliation or expiation. A man by his
true nature is subject to lapses; therefore, even after joining the
monastic life, the monk sometimes, makes transgression of the monastic
rules, i.e., accepting things of daily use in excess of the number allowed
by the Buddha is not proper for monks and nuns. Thus, the Buddha set forth
rules that help making monks and nuns free from transgressions. According
to Rules for Mendicants composed by Most Honerable Master Minh Đăng Quang,
thirty offences which require explanation and punishment for the offenders
is six-day room retention.
1) Cấm
cất giữ dư chăn áo quá mười ngày: Not to wear or keep an extra robe for
more than ten days.
2) Cấm bỏ
chăn áo ở một nơi khác, trong một đêm: Not to leave robes and sleeping
material in another place, even for one night (monks should not be away,
separated from the three robes, even for one night).
3) Khi áo
rách mất, có người cúng dường vải, dù không đúng thời (trai tăng tự tứ)
vị Tăng vẫn có thể nhận. Khi nhận là phải may cho nhanh; tuy nhiên, nếu
không đủ vải may, có thể để dành chờ có thêm, nhưng cấm để dành vải quá
một tháng: When robes worn out, and the robe-material is accrued to the
monk, even not at the right time, it may be accepted by that monk if he so
wish. Having accepted it, it should be made up quickly. But if it is not
sufficient for him, that robe-material may be laid aside by that monk for
a month at most.
4) Cấm
nhận áo của một Tỳ Kheo Ni lạ, trừ sự đổi áo mới: Not to accept a robe
from the hand of a nun who is not in relation, except in exchange.
5) Cấm
bảo Tỳ Kheo Ni xa lạ, giặt nhuộm hay cất giữ áo cho mình: A monk should
not get a soiled robe washed or dyed or beaten by a nun who is not in
relation.
a) Tuy
nhiên, nếu không ai bảo mà vị Tỳ Kheo Ni ấy tự giặt, hay vị ấy giặt một
cái áo chưa xài thì không phạm tội: However, if she washes it unasked, or
if he makes her wash an unused robe, there is no offence.
b) Nếu
người mà vị Tỳ Kheo sai giặt áo là một người tập sự hay Sa Di Ni, thì
không phạm tội: If it is washed by a female probationer or by a female
novice, there is no offence.
6) Cấm
hỏi xin áo với nam nữ thí chủ, trừ khi thắt ngặt (khi áo mị mất hay bị hư
hại): A monk should not ask a man or woman householder for a robe, except
at the right time (robe is stolen or destroyed).
7) Cấm
nhận nhiều chăn áo quá bộ, trừ khi thắc ngặc: Not to accept more than an
inner and upper robes (if a monk is offered robe-material for many robes,
then at most he should accept enough for an inner and an upper robe. If he
accepts more than that there is an offence of expiation involving
forfeiture).
8) Cấm tự
ý muốn kiểu cắt may, khi có một thí chủ định sắm cho áo: When there is a
householder plans to offer robe-material, or robe-fund, a monk should not
design the robe as he wishes.
9) Cấm tự
ý muốn kiểu cắt may, khi có nhiều thí chủ định sắm cho: When there are two
or more householders plan to offer robe-material or robe-fund, a monk
should not design the robe as he wishes.
10) Cấm nhận
tiền để may áo, và hối thúc Giáo Hội may liền: Not to obtain robe-fund and
urge the Order to make the robe immediately.
11) Cấm dùng
chăn áo bằng tơ, lụa, hàng, mặc dầu có pha lộn vải: A monk should not
cause a rug to be made mixed with silk.
12) Cấm dùng
ngọa cụ màu đen rặt, không có pha lộn màu khác: A monk should not cause a
rug to be made of pure black sheep’s wool.
13) Cấm dùng
ngọa cụ màu trắng rặt, không có pha lộn màu khác: A monk should not cause
a new rug to made of pure white (if a monk should cause a new rug to be
made not taking two portions of pure black sheep’s wool, the third of
white, the fourth of reddish brown colors, there is an offence of
expiation involving forfeiture).
14) Cấm chưa
đúng sáu năm, mà sắm thêm ngọa cụ khác: A monk should not get rid of a rug
if it’s less than six years old (a new rug which a monk has made should
last for six years. If, within six years, whether he has got rid of or has
not got rid of that former rug, but he has a new rug made, except on the
agreement of the Order, there is an offence of expiation involving
forfeiture).
15) Cấm lấy
ngọa cụ mới, che cho cái cũ làm mau hư: Not to take the new rug to wrap
around the old rug in order to disfigure it.
16) Cấm khi
viễn hành có ai cúng vải, mà ôm đi xa quá ba ngàn thước: Sheep’s wool may
accrue to a monk as he is going along a road. It may be accepted by a
monk, if he likes; but having accepted it, it should be conveyed in his
own hands for three yojanas at the utmost. If he carries further than
that, there is an offence of expiation involving forfeiture.
17) Cấm biểu
Tỳ Kheo Ni xa lạ, giặt, nhuộm, hay cất giữ vải cho mình: A monk should not
have sheep’s wool washed or dyed or combed by a nun who is not in
relation.
18) Cấm nhận
tiền bạc vàng, gởi hoặc bảo kẻ khác nhận thế: A monk should not take gold
and silver, nor should he ask another person to take for him.
19) Cấm buôn
bán đồ quý báu: A monk should not engage in various transactions in which
gold and silver is used.
20) Cấm buôn
bán bất luận vật gì: A monk should not engage in any kinds of bartering.
21) Cấm giữ
thêm một cái bát, cất quá mười ngày: A monk should not keep an extra bowl
for more than ten days.
22) Cấm kiếm
bát mới tốt, mặc dầu đúng năm mà cái cũ vẫn còn xài được: A monk should
not get another new bowl in exchange for the old bowl, even though the old
bowl is very old, but is still usable (If a monk sould get another new
bowl in exchange for a bowl mended in less than five places, there is an
offence of expiation involving forfeiture. That bowl is to be forfeited by
that monk to the company of monks, and whatever the last bowl belonging to
that company of monks, that should be given to this monk with the words:
“Monk, this is a bowl for you; it should be kept until it breaks.” That is
the proper course in this case).
23) Cấm đem
chỉ cho thợ dệt xa lạ dệt áo cho mình khi có người cúng: A monk should not
ask a man or a woman householder who is not a relation to weave his robe
(saying this robe-matrial is being especially woven for me, please make it
long and wide, and make it evenly woven, well woven and well scraped,
etc).
24) Cấm ra
kiểu ni cho thợ dệt, khi thí chủ dệt áo cho mình: A monk should not ask
for yarn, or should not have robe-material woven by weavers.
25) Cấm giận
hờn đòi lại áo khi đã cho người rồi: A monk should not give a robe to
another monk and then take it back because he is angry or displeased of
that monk.
26) Cấm để
dành thuốc, đường, dầu, quá bảy ngày, trừ khi đau bệnh mà có người cúng
dường: A monk should not store medicine, sugar, fresh butter, oil, honey,
etc. for over seven days, except when he is ill.
27) Cấm xin
vải choàng tắm mùa mưa trước một tháng, dùng trước 15 ngày: A monk should
not look for robe-material as a cloth for the rain a month before the
monsoon, and put it on fifteen days before the monsoon starts.
28) Cấm đã
lãnh áo trước kỳ, mà khi đến lệ lại còn hỏi nữa: A monk should not obtain
the robe before the robe-season, lay it aside, and ask again during the
robe-season.
29) Sư ẩn cư
khi về Giáo Hội, cấm gởi áo nhà quen quá 6 ngày: Having spent the rains up
to the full moon of the rains, in case a monk who is staying in such
lodgings as those jungle lodgings which are held to be dangerous and
frightening, so desires, he may lay aside one of his three robes inside
the a house; and should there be any reason for that monk to be away,
separated from that robe, that monk can be away and separated from that
robe for at most six nights. Should he be away, separated from that robe
for longer than that, except on the agreement of the Order, there is an
offence of expiation involving forfeiture.
30) Cấm lén
lấy một món đồ gì của Giáo Hội: A monk should not take any things that
belong to the Order.
Tam Thập Nhị Hảo Tướng Của Phật:
Dvatrimsadvaralakshana (skt)—Ba mươi hai tướng tốt của Phật hiện lên do
thiện nghiệp từ nhiều đời trước—Thrity two forms of Sakyamuni Buddha or
thirty-two characteristic physiological marks which attribute a natural
reward for a specific kind of good karma the Buddha creates during many
past lives:
1) Bàn
chân bằng thẳng: Level and full feet.
2) Chỉ
dưới bàn chân có ngàn cái xoáy trôn ốc như hình cả ngàn cây căm bánh xe:
Thousand-spoke wheel-sign on each of his feet.
3) Ngón
tay dài, đầu ngón nhỏ và nhọn: Long slander fingers.
4) Tay
chân đều mềm dịu: Pliant (soft supple) hands and feet.
5) Trong
kẻ tay kẻ chân có da mỏng như lưới giăng: Toes and fingers finely
webbed—Fine webbing lacing his fingers and toes.
6) Gót
chân đầy đặn: Full-sized heels—Well set and even heels.
7) Trên
bàn chân nổi cao đầy đặn: Arched top feet—Arched insteps.
8) Bắp vế
tròn như bắp chuối: Thighs like a royal stag .
9) Khi
đứng hai tay dài quá đầu gối: Hand reaching below the knees—Long graceful
hands which reach below the knees.
10) Nam căn
ẩn kính: Well-retracted male organ.
11) Thân hình
cao lớn và cân phân: Height and stretch or arms equal.
12) Lỗ chân
lông thường ánh ra sắc xanh: Every hair-root dark colored—Imperial blue
hair roots.
13) Lông trên
mình uốn lên trên: Body hair graceful and curly (curls upward).
14) Thân thể
sáng chói như vàng kim: Golden-hued body—Body of the color of true gold.
15) Quanh
mình thường có hào quang chiếu ra một tầm: Ten-foot halo around him—Ten
foot aura encircling him.
16) Da mỏng
và mịn: Solf smooth skin.
17) Lòng bàn
chân, bàn tay, hai vai và trên đỉnh, bảy chổ ấy đều đầy đặn: Two soles,
two palms, two shoulders, and crown well-rounded (distinctive and full).
18) Hai nách
đầy đặn: Below armpits well-filled.
19) Thân thể
oai nghiêm như sư tử: Lion-shaped body—Upper torso like that of a royal
lion.
20) Thân thể
ngay thẳng: Erect and upright body.
21) Hai vai
tròn trịa cân phân: Full and round shoulders like a Banyan tree.
22) Bốn mươi
cái răng: Forty teeth.
23) Răng
trắng, trong, đều và khít nhau: Teeth white even and close.
24) Bốn răng
cửa lớn hơn: Four canine teeth pure white.
25) Gò má nổi
cao như hai mép của sư tử: Lion-jawed.
26) Nước
miếng đủ chất thơm ngon: Saliva improving the taste of all food.
27) Lưỡi rộng
dài, mềm mỏng, khi le ra đến chân tóc: Tongue long and broad (vast).
28) Giọng nói
thanh nhã nghe xa, như giọng nói của Đức Phạm Thiên: Voice deep and
resonant which emits Brahma-pure sounds.
29) Mắt xanh
biết: Eyes deep (violet) blue.
30) Lông nheo
dài: Eye lashes like a royal bull.
31) Có chòm
lông trắng thường chiếu sáng giữa hai chân mày: A white urna or curl
between the eybrows emitting light.
32) Thịt nổi
cao trên đỉnh đầu như buối tóc: An usnisa or fleshy protuberance on the
crown.
Tam Thập Nhị Ứng Thân:
Thirty-two response bodies—Theo Kinh Thủ Lăng Nghiêm, quyển Sáu, Đức Quán
Thế Âm Bồ Tát đã bạch trước Phật về ba mươi hai ứng thân của ngài như sau:
“Bạch Thế Tôn! Bởi tôi cúng dường Đức Quán Thế Âm Như Lai, nhờ Phật dạy
bảo cho tôi tu pháp ‘Như huyễn văn huân văn tu kim cương tam muội’ với
Phật đồng một từ lực, khiến tôi thân thành 32 ứng, vào các quốc độ.” Ba
mươi hai ứng thân diệu tịnh, vào các quốc độ, đều do các pháp tam muội văn
huân, văn tu, sức nhiệm mầu hình như không làm gì, tùy duyên ứng cảm, tự
tại thành tựu—According to The Surangama Sutra, book Six, Avalokitesvara
Bodhisattva vowed in front of the Buddha about his thirty-two response
bodies as follows: “World Honored One, because I served and made
offerings to the Thus Come One, Kuan Yin, I received from that Thus Come
One a transmission of the vajra samadhi of all being like an illusion as
one becomes permeated with hearing and cultivates hearing. Because I
gained a power of compassion identical with that of all Buddhas, the Thus
Come Ones, I became accomplished in thirty-two response-bodies and entered
all lands.” The wonderful purity of thirty-two response-bodies, by which
one enters into all lands and accomplishes self-mastery by means of
samadhi of becoming permeated with hearing and cultivating hearing and by
means of the miraculous strength of effortlessness.
1) Nếu có
Bồ Tát vào tam ma địa, tinh tấn tu vô lậu, mà muốn được thành tựu, tôi sẽ
hiện Phật thân vì họ nói pháp, khiến họ được giải thoát: If there are
Bodhisattvas who enter samadhi and vigorously cultivate the extinction of
outflows, who have superior understanding and manifest perfected
penetration, I will appear in the body of a Buddha and speak Dharma for
them, causing them to attain liberation.
2) Nếu có
hàng hữu học cầu đạo tịch tịnh diệu minh, mà muốn được thành tựu, tôi sẽ
hiện thân độc giác, vì họ nói pháp khiến họ được giải thoát: If there
those who are studying, who are tranquil and have wonderful clarity, who
are superior and miraculous and manifest perfection, I will appear before
them in the body of a solitarily enlightened one and speak Dharma for
them, causing them to attain liberation.
3) Nếu có
hàng hữu học cầu đoạn 12 nhân duyên, các duyên đoạn, thắng tính hiện ra
tròn đầy, tôi sẽ hiện thân Duyên Giác trước những người đó nói pháp, khiến
họ được giải thoát: If there are those who are studying, who have severed
the twelve causal conditions, and, having severed the conditions, reveal a
supreme nature, and who are superior and wonderful and manifest
perfection, I will appear before them in the body of one enlightened to
conditions and speak Dharma for them, causing them to attain liberation.
4) Nếu có
hàng hữu học cầu chứng tính không của tứ đế, tu đạo nhập diệt, thắng tính
hiện ra tròn đầy, tôi sẽ hiện thân Thanh Văn trước những người đó nói
pháp, khiến họ được giải thoát: If there are those who are studying, who
have attained the emptiness of the four truths, and cultivating the Way,
have entered extinction, and have a superior nature and manifest
perfection, I will appear before them in the body of a Sound-Hearer and
speak Dharma for them, causing them to attain liberation.
5) Nếu có
chúng sanh nào tỏ biết lòng dâm dục, không phạm tới bụi nhơ của dâm dục,
thân trở nên thanh tịnh, tôi sẽ hiện thân Phạm Thiên trước những người đó
nói pháp, khiến họ được giải thoát: If there are living beings who wish to
have their minds be clear and awakened, who do not engage in mundane
desires and wish to purify their bodies, I will appear before them in the
body of a Brahma King and speak Dharma for them, causing them to attain
liberation.
6) Nếu có
chúng sanh muốn làm Thiên Chủ thống lĩnh chư Thiên, tôi sẽ hiện thân Đế
Thích trước những người đó nói pháp, khiến họ được thành tựu: If there
are living beings who wish to be the Heavenly Lord, leader of Heavenly
beings, I will appear before them in the body of a Shakra and speak Dharma
for them, enabling them to accomplish their wish.
7) Nếu có
chúng sanh muốn được thân Tự Tại bay đi chơi mười phương, tôi sẽ hiện thân
Trời Tự Tại nói pháp, khiến họ được thành tựu: If living beings wish to
attain physical self-mastery and to roam throughout the ten directions, I
will appear before them in the body of a god from the Heaven of
Self-Mastery and speak Dharma for them, enabling them to accomplish their
wish.
8) Nếu có
chúng sanh muốn được Tự Tại bay đi giữa hư không, tôi sẽ hiện thân Trới
Đại Tự Tại trước những người đó nói pháp, khiến họ được thành tựu: If
there are living beings who wish to attain physical self-mastery and fly
through space, I will appear before them in the body of a god from the
Heaven of Great Self-Mastery and speak Dharma for them, enabling them to
accomplish their wish.
9) Nếu có
chúng sanh muốn thống lĩnh các quỷ thần, cứu họ các cõi nước, tôi sẽ hiện
thân Trời Đại Tướng Quân trước những người đó nói pháp, khiến họ được
thành tựu: If there are living beings who are fond of ruling over ghosts
and spirits in order to rescue and protect their country, I will appear
before them in the body of a great Heavenly General and speak Dharma for
them, enabling them to accomplish their wish.
10) Nếu có
chúng sanh muốn thống lĩnh thế giới, bảo hộ chúng sanh, tội sẽ hiện thân
Tứ Thiên Vương trước những người đó nói pháp, khiến họ được thành tựu: If
there are living beings who like to govern the world in order to protect
living beings, I will appear before them in the body of one of the Four
Heavenly Kings and speak Dharma for them, enabling them to accomplish
their wish.
11) Nếu có
chúng sanh muốn sinh về cung Trời, sai khiến quỷ thần, tôi sẽ hiện thân
Thái Tử của Tứ Thiên Vương trước những người đó nói pháp, khiến họ được
thành tựu: If there are living beings who enjoy being born in the Heavenly
palaces and to command ghosts and spirits, I will appear before them in
the body of a Prince from the kingdoms of the Four Heavenly Kings and
speak Dharma for them, enabling them to accomplish their wish.
12) Nếu có
chúng sanh ưa làm vua cõi người, tôi sẽ hiện thân Nhân Vương trước những
người đó nói pháp, khiến họ được thành tựu: If there are living beings who
would like to be kings of people, I will appear before them in the body
of a human king and speak Dharma for them, enabling them to accomplish
their wish.
13) Nếu có
chúng sanh ưa làm chủ các dòng quí tộc, được mọi người tôn nhường, tôi sẽ
hiện thân Trưởng Giả trước những người đó nói pháp, khiến họ được thành
tựu: If there are living beings who enjoy being heads of households, whom
those of the world venerate and yield to, I will appear before them in
the body of an elder and speak Dharma for them, enabling them to
accomplish their wish.
14) Nếu có
chúng sanh ưa nói chuyện đạo lý, sống đời trong sạch, tôi sẽ hiện thân Cư
Sĩ trước những người đó nói pháp, khiến họ được thành tựu: If there are
living beings who delight in discussing the classics and who keep
themselves lofty and pure, I will appear before them in the body of an
upasaka and speak Dharma for them, enabling them to accomplish their wish.
15) Nếu có
chúng sanh ưa quản trị quốc độ, coi công việc bang ấp, tôi sẽ hiện thân Tể
Quan trước những người đó nói pháp, khiến họ được thành tựu: If there are
living beings who enjoy governing the country and who can handle matters
of state decisively, I will appear before them in the body of an official
and speak Dharma for them, enabling them to accomplish their wish.
16) Nếu có
chúng sanh ưa thuật số, thích triết lý, tôi sẽ hiện thân Bà La Môn trước
những người đó nói pháp, khiến họ được thành tựu: If there are living
beings who like reckoning and incantation and who wish to guard and
protect themselves, I will appear before them in the body of a Brahman and
speak Dharma for them, enabling them to accomplish their wish.
17) Nếu có vị
nam tử nào ưa học pháp xuất gia, giữ gìn giới luật, tôi sẽ hiện thân Tỳ
Kheo trước những người đó nói pháp, khiến họ được thành tựu: If there are
men who want to leave the home-life and uphold the precepts and rules, I
will appear before them in the body of a Bhikshu and speak Dharma for
them, enabling them to accomplish their wish.
18) Nếu có vị
nữ nhân nào ưa học pháp xuất gia, giữ gìn giới cấm, tôi sẽ hiện thân Tỳ
Kheo Ni trước những người đó nói pháp, khiến họ được thành tựu: If there
are women who would like to leave the home-life and hold the pure
precepts, I will appear before them in the body of a Bhikshuni and speak
Dharma for them, enabling them to accomplish their wish.
19) Nếu có vị
thiện nam nào muốn giữ năm giới, tôi sẽ hiện thân cư sĩ trước những người
đó nói pháp, khiến họ được thành tựu: If there are men who want to uphold
the five precepts, I will appear before them in the body of an upasaka
and speak Dharma for them, enabling them to accomplish their wish.
20) Nếu có vị
nữ nhân nào muốn giữ năm giới, tôi sẽ hiện thân nữ cư sĩ trước những người
đó nói pháp, khiến họ được thành tựu: If there are women who wish to base
themselves in the five precepts, I will appear before them in the body of
an upasika and speak Dharma for them, enabling them to accomplish their
wish.
21) Nếu có
người đàn bà nào muốn lập thân cầm quyền trong gia đình, tôi sẽ hiện thân
nữ chủ, phu nhân, mệnh phụ, đại gia trước những người đó nói pháp, khiến
họ được thành tựu: If there are women who govern internal affairs of
household or country, I will appear before them in the body of a queen,
first lady, or noblewoman and speak Dharma for them, enabling them to
accomplish their wish.
22) Nếu có
chúng sanh nào muốn giữ trong sạch, không từng dâm dục, tôi sẽ hiện thân
đồng nam trước những người đó nói pháp, khiến họ được thành tựu: If there
are virgin lads, I will appear before them in the body of a pure youth and
speak Dharma for them, enabling them to accomplish their wish.
23) Nếu có
người con gái nào muốn giữ mãi trinh tiết, tôi sẽ hiện thân đồng nữ trước
những người đó nói pháp, khiến họ được thành tựu: If there are maidens who
want to remain virgins and do not wish to marry, I will appear before them
in the body of a gracious lady and speak Dharma for them, enabling them to
accomplish their wish.
24) Nếu có vị
Trời nào thích ra khỏi cảnh Trời, tôi sẽ hiện thân Trời, vì những vị đó
nói pháp, khiến họ được thành tựu: If there are Heavenly beings who wish
to escape their Heavenly destiny, I will appear before them in the body
of a god and speak Dharma for them, enabling them to accomplish their
wish.
25) Nếu có vị
Rồng nào thích ra khỏi loài đó, tôi sẽ hiện thân Rồng mà nói pháp, khiến
họ được thành tựu: If there are dragons who want to quit their lot of
being dragons, I will appear before them in the body of a dragon and speak
Dharma for them, enabling them to accomplish their wish.
26) Nếu có
loài Dược Xoa nào muốn ra khỏi loài ấy, tôi sẽ hiện thân Dược Xoa mà nói
pháp, khiến họ được thành tựu: If there are Yakshas who want to get out
of their present fate, I will appear before them in the body of a Yaksha
and speak Dharma for them, enabling them to accomplish their wish.
27) Nếu có
loài Càn Thát Bà nào muốn ra khỏi loài ấy, tôi sẽ hiện thân Càn Thát Bà
nói pháp, khiến họ được thành tựu: If there are Gandharvas who wish to be
freed from their destiny, I will appear before them in the body of a
Gandharva and speak Dharma for them, enabling them to accomplish their
wish.
28) Nếu có vị
A Tu La nào muốn ra khỏi loài ấy, tôi sẽ hiện thân A Tu La nói pháp, khiến
họ được thành tựu: If there are Asuras who wish to be liberated from their
destiny, I will appear before them in the body of an Asura and speak
Dharma for them, enabling them to accomplish their wish.
29) Nếu có vị
Khẩn Na La nào muốn ra khỏi loài ấy, tôi sẽ hiện thân Khẩn Na La nói pháp,
khiến họ được thành tựu: If there are Kinnaras who wish to transcend their
fate, I will appear before them in the body of a Kinnara and speak Dharma
for them, enabling them to accomplish their wish.
30) Nếu có vị
Ma Hầu La Già nào muốn ra khỏi loài ấy, tôi sẽ hiện thân Ma Hầu La Già nói
pháp, khiến họ được thành tựu: If there are Mahoragas who wish to be
freed from their destiny, I will appear before them in the body of a
Mahoraga and speak Dharma for them, enabling them to accomplish their
wish.
31) Nếu có
người ưa ở cõi người, tôi sẽ hiện thân người nói pháp, khiến họ được thành
tựu: If there are living beings who like being people and want to continue
to be people, I will appear before them in the body of a person and speak
Dharma for them, enabling them to accomplish their wish.
32) Nếu có
loài không phải người, hoặc hữu hình, hoặc vô hình, hoặc có tưởng, hoặc
không tưởng, muốn thoát khỏi cõi của họ, tôi sẽ hiện giống họ mà nói pháp,
khiến họ được thành tựu: If there are non-humans, whether with form or
without form, whether with thought or without thought, who long to be
freed from their destiny, I will appear before them in a body like theirs
and speak Dharma for them, enabling them to accomplish their wish.
Tam Thập Tam Hình Thức Quán Âm:
33 hình thức của Đức Quán Thế Âm, có khi là chim, là bình, một nhàn liễu,
một viên ngọc, thiên thủ thiên nhãn, vân vân, để đáp lại lời nguyện cầu
của người cầu nguyện—Thirty-three different forms of Kuan-Yin, sometimes a
bird, a vase, a willow wand, a pearl, a “thousand” eyes and hands, etc.
Tam Thập Thất Trợ Đạo Phẩm: See
Thirty Seven Aids to Enlightenment—See Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo.
Tam Thập Tụng Duy Thức:
Vijnaptimatrata-trimsika (skt)—Duy Thức Tông của Ngài Thế Thân là hệ thống
Du Già được cải biến và bản văn chính yếu là Duy Thức Tam Thập Tụng của
Thế Thân, trong đó 24 bài tụng đầu nói về tướng của các pháp, hai bài kế
nói về tánh của các pháp, và bốn bài sau cùng nói về giai đoạn của các
Thánh giả—The Idealistic School of Vasubandhu is a reformed Yogacara
system and its fundamental text is Vasubandhu’s Vijnaptimatrata-trimsika,
a versified text on the theory of mere ideation in thirty stanzas, of
which the first twenty-four are devoted to the special character
(svalaksana) of all dharmas, the next two to the nature (svabhava) of all
dharmas, and the last four to the stages of the noble personages.
Tam Thất (Ba Lần Bảy) Nhựt Tư Duy:
Hai mươi mốt ngày suy tư của Đức Phật, khi đi vòng quanh cội Bồ Đề, Ngài
suy nghĩ tìm cách nào đem pháp Đại Thừa cứu độ chúng sanh—The twenty-one
days spent by the Buddha of his enlightenment, in walking around the
bodhi-tree and considering how to carry his Mahayana way of salvation to
the world.
Tam Thế: Ba giai đoạn thời
gian—The three periods or times.
1) Quá
khứ: In the past.
2) Hiện
tại: At present.
3) Tương
lai: In the future.
Tam Thế Bất Khả Đắc: Chư pháp
trong tam thế, quá khứ, hiện tại và vị lại, về thể chất hay tinh thần, mơ
hồ và phù du không thể nắm bắt được—Everything in the past, present or
future, whether mental or material, is intangible, fleeting, and cannot be
held.
Tam Thế Giả Thật: The reality
or unreality of things or events in the past, present and future.
Tam Thế Giác Mẫu: Tên của Bồ
Tát Văn Thù, người bảo vệ trí tuệ của Phật Tỳ Lô Giá Na, là Bồ đề Mẫu của
chư Phật trong quá khứ, hiện tại và vị lai—A name for Manjusri. As a
guardian of the wisdom of Vairocana, he is the bodhi-mother of all Buddhas
past, present and future.
Tam Thế Gian: Tam thế gian
trong Kinh Hoa nghiêm—The three worlds in The Flower Adornment Sutra:
1) Chánh
giác thế gian: Trong đó Phật là Pháp Vương, người ngự trị. Thế gian nầy
cũng bao gồm Phật giới, Bồ Tát giới, và giới của những Hiền Thánh, những
người đã chứng ngộ chân lý tối thượng—The world of proper enlightenment in
which the Buddha is the Dharma King, who is the ruler. This also includes
the realms of Buddhas, Bodhisattvas, and worthy sages (who have already
awakened to the ultimate truth).
2) Quốc
Độ Thế Gian hay Khí thế gian (y báo): Đây là thế giới của sự vật như núi
non, sông ngòi, nhà cửa, vân vân. Chư thiên long trong Bát bộ Thiên long
ngự trị trong thế giới nầy. Còn được diễn tả như cảnh giới mà chúng sanh
dựa vào đó để hiện hữu—The world of utensils which is the world of things,
of utensils, such as mountains, rivers, houses, etc. The gods and dragons
of the eightfold division are the rulers of this world. The world of
countries on which people depend for existence.
3) Chúng
sanh thế gian (chánh báo): Thế giới của chúng sanh hay là thế giới của
chánh báo, nghĩa là thân của chúng ta—The world of living beings coincides
with the world of proper retribution, that is, our body.
Tam Thế Phật: The Three Noble
Buddhas—Chư Phật của quá khứ, hiện tại và vị lai—Buddhas of the three
generations: past, present and future.
Tam Thế Tâm: Tâm trong quá khứ,
hiện tại và vị lai là ngắn ngủi và luôn thay đổi, không thể nắm bắt
được—Past, present or future mind is momentary and always moving and
cannot be laid hold of.
Tam Thế Tâm Bất Khả Đắc: Tâm
tưởng trong quá khứ, hiện tại và vị lai không thể nắm bắt được. Quá khứ đã
qua rồi, hiện tại không tồn tại, còn tương lai thì chưa đến—The mind or
thoughts, past, present, future, cannot be held fast. The past is gone,
the present does not stay, the future has not yet arrived.
Tam Thế Trí: Toàn trí của quá
khứ, hiện tại và vị lai—Perfect understanding of past, present and future.
Tam Thế Trí Chánh Giác: The
Buddha’s mind.
Tam Thế Vô Chướng Ngại Trí Giới:
The wisdom-law or moral law that frees from all impediments, past, present
or future.
Tam Thí: Three forms of giving:
1) Tài
thí: Giving of goods—almsgiving—Charity.
2) Pháp
thí: Giving of the Law or Truth—Giving of dharma.
3) Vô úy
thí: Giving of courage or confidence—Giving of fearlessness.
Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới:
1) Từ
trên 25 thế kỷ về trước, Đức Phật đã dạy về sự rộng lớn vô biên và sự vô
cùng của vũ trụ. Thế giới mà chúng ta đang ở không phải chỉ có một, mà
nhiều như cát sông Hằng. Vũ trụ của ba ngàn đại thiên thế giới (thế giới
chúng ta đang ở là thế giới Ta Bà. Ta Bà tiếng Phạn gọi là Saha, nghĩa là
thọ khổ, kham khổ, vì không gian vô hạn và thế giới kiểu thế giới ta bà
nầy lại có vô lượng thế giới, giăng bủa khắp lục phương, lớn nhỏ khác nhau
tạo thành một tiểu thế giới. Một ngàn tiểu thế giới hiệp thành một tiểu
thiên thế giới, một ngàn tiểu thiên thế giới thành một trung thiên thế
giới, một ngàn trung thiên thế giới thành một đại thiên thế giới. Một ngàn
tiểu thiên thế giới, một ngàn trung thiên thế giới, một ngàn đại thiên thế
giới hiệp thành ba ngàn đại thiên thế giới). Mỗi tam thiên đại thiên thế
giới như thế gồm một ngàn triệu thế giới nhỏ như thế giới của chúng ta
đang ở. Hơn nữa, vũ trụ không phải chỉ có một đại thiên thế giới, mà gồm
vô số đại thiên thế giới—Over twenty-five centuries ago, the Buddha talked
about the immensity and endlessness of the cosmos. The earth on which we
are living is not unique. There are a great number of others, which are as
numerous as the grains of sand in the Ganges River.
Three-thousand-great-thousand world—Three thousand great
chiliocosmos—Universe of the three kinds of thousands of worlds (The
three-fold great thousand world system—Buddha world). Each big celestial
world comprises one thousand million small worlds, each one has the same
size as that of our earth. Furthermore, there are an infinite number of
big celestial worlds in the cosmos.
2) Về
thời gian theo Phật giáo thì mỗi thế giới có bốn trung kiếp, mỗi trung
kiếp có 20 tiểu kiếp, mỗi tiểu kiếp có 16 triệu năm. Như thế, một thế giới
từ lúc được thành lập đến khi bị tiêu diệt trung bình là một ngàn hai trăm
tám chục triệu năm—The Buddhist concept of time reveals that each world
has four middle kalpas or cosmic periods, each middle kalpa has twenty
small kalpas; each small kalpa has 16 million years. Therefore, the
average life of a world is equal to 1,280,000,000 years.
3) Dân Ấn
Độ xưa tin rằng vũ trụ nầy gồm nhiều ngàn thế giới—The ancient Indian
belief “the universe comprises of many groups of thousands of worlds.”
Also called A small Chiliocosm—See Tiểu Thiên Thế Giới.
4) Tông
Thiên Thai đề ra một vũ trụ gồm mười cảnh vực với căn bản ba nghìn thế
giới nầy, tức là thế giới của hữu tình được chia thành mười cõi (Tứ Thánh
Lục Phàm). Tông nầy hoàn toàn quay về lý thuyết duy tâm nhưng diễn tả khác
hơn. Thiên Thai cho rằng trong một sát na tâm hay một khoảnh khắc của tư
tưởng bao gồm cả ba nghìn thế giới (nhất niệm tam thiên). Đây là một lý
thuyết riêng của tông nầy và được gọi là “Bản Cụ Tam Thiên” hay “Lý Cụ Tam
Thiên” hay “Tánh Cụ Tam Thiên,” và có khi được gọi là “Viên Cụ Tam Thiên.”
Nội thể, hoặc cụ hay bản tánh hay viên mãn đều chỉ chung một ý niệm như
nhau, tức là, trong một khoảnh khắc của tư tưởng hay sát na tâm đều có cả
3.000 thế giới. Có người coi ý niệm nầy như là rất gần với ý niệm về tuyệt
đối thể. Nhưng nếu bạn coi tuyệt đối thể như là căn nguyên của tất cả tạo
vật thì nó không đúng hẳn là tuyệt đối thể. Vậy nó có thể được coi như là
một hình thái của lý thuyết duy tâm, nhưng nếu người ta nghĩ rằng tâm thể
ấy biểu hiện thế giới ngoại tại bằng tiến trình phân hai thì lại khác hẳn,
vì nó không có nghĩa rằng, một khắc của tư tưởng tạo ra ba nghìn thế
giới, bởi vì một sự tạo tác là sự khởi đầu của một chuyển động theo chiều
dọc, nghĩa là tạo tác trong thời gian. Nó cũng không có nghĩa rằng ba
nghìn thế giới được thu vào trong một khoảnh khắc của tư tưởng, bởi vì sự
thu giảm là một hiện hữu theo chiều ngang, nghĩa là cọng hữu trong không
gian. Dù chủ thuyết tam thiên đại thiên thế giới được quảng diễn trên căn
bản duy tâm nhưng nó không chỉ là duy tâm vì tất cả các pháp trong vũ trụ
đều ở ngay trong một ý niệm nhưng không giản lược vào tam hay ý: The
T’ien-T’ai School sets forth a world system of ten realms. That is to say,
the world of living beings is divided into ten realms, of which the higher
four are saintly and the lower six are ordinary. Here the T’ien-T’ai
School at once comes back to the ideation theory but expresses it somewhat
differently. It is set forth that a conscious-instant or a moment of
thought has 3,000 worlds immanent in it. This is a theory special to this
school and is called “Three Thousand Originally Immanent,” or “Three
Thousand Immanent in Principle,” or “Three Thousand Immanent in Nature” or
sometimes “Three Thousand Perfectly Immanent.” The immanency, either
original, theoretical, natural or perfect, conveys one and the same idea;
namely, that the one moment of thought is itself 3,000 worlds. Some
consider this to be the nearest approach to the idea of the Absolute, but
if you consider the Absolute to be the source of all creation it is not
exactly the Absolute. Or, it may be considered to be a form of ideation
theory, but if one thinks that ideation manifests the outer world by the
process of dichotomy it is quite different, for it does not mean that one
instant of thought produces the 3,000 worlds, because a production is the
beginning of a lengthwise motion, i.e., timely production. Nor does it
mean that the 3,000 worlds are included in one instant of thought because
an inclusion is a crosswise existence, i.e., existence in space. Although
here the 3,000-world doctrine is expounded on the basis of ideation, it is
not mere ideation, for all the dharmas of the universe are immanent in one
thought-instant but are not reduce to thought or ideation—See Lục Phàm Tứ
Thánh.
Tam Thiên Sứ: Three messengers
or lictors.
1) Lão:
Già—Old age.
2) Bệnh:
Sickness.
3) Tử:
Chết: Death.
Tam Thiền Thiên: The third
region, equal to a middling chiliocosmos (Trung thiên giới).
Tam Thiện Căn: Theo Kinh Trường
Bộ, Phúng Tụng Kinh, có ba thiện căn—According to The Long Discourses of
the Buddha, there are three good (wholesome) roots:
(A) Đối với
chư Tăng Ni—For Monks and Nuns:
1) Vô
tham, vô sân, vô si: The wholesome roots of non-greed, non-hatred, and
non-delusion—No selfish desire, no ire, no stupidity.
2) Bố
thí, từ bi, trí huệ: The wholesome roots of almsgiving, kindness, and
wisdom.
3) Thân
lành, khẩu lành, ý lành: The wholesome roots of good deeds, good words,
good thoughts.
(B) Đối với
Phật tử tại gia—For Ordinary People:
1) Bố thí
thiện căn: The wholesome root of almsgiving.
2) Bi Mẫn
thiện căn: The wholesome root of mercy.
3) Trí
huệ thiện căn: The wholesome root of wisdom.
(C) Tam
thiện căn dùng để phát triển giới hạnh—Three good roots for all moral
development:
1) Vô
tham thiện căn: The wholesome root of no lust or selfish desire.
2) Vô sân
thiện căn: The wholesome root of no ire or no hatred.
3) Vô si
thiện căn: The wholesome root of no stupidity.
Tam Thiện Đạo: Ba đường hay
trạng thái đi lên—Three good upward directions or states of existence:
1) Thiên
đạo: Do nghiệp lành bậc trên mà bước tới—The highest class of goodness
rewarded with the deva life.
2) Nhơn
đạo: Do nghiệp lành bậc giữa mà bước tới—The middle class of goddness with
a return to human life.
3)
A-tu-la đạo: Do nghiệp lành bậc dưới mà bước—The inferior class of
goodness with the asura state.
Tam Thiện Giới: Theo Trường Bộ,
Kinh Phúng Tụng, có ba loại thiện giới—According to The Long Discourses of
the Buddha, Sangiti Sutra, there are three kinds of wholesome element.
1) Ly dục
giới: The wholesome element of renunciation.
2) Vô sân
giới: The wholesome element of non-enmity.
3) Vô hại
giới: The wholesome element of non-cruelty.
Tam Thiện Hạnh: Theo Kinh
Trường Bộ, Phúng Tụng Kinh, có ba thiện hạnh—According to the Long
Discourses of the Buddha, there are three kinds of right conduct.
1) Thân
thiện hạnh: Right conduct in body.
2) Khẩu
thiện hạnh: Right conduct in speech.
3) Ý
thiện hạnh: Right conduct in thought.
Tam Thiện Nghiệp: Three good
deeds—The foundation of all development:
1) Không
tham: No lust—No selfish desire.
2) Không
sân: No anger.
3) Không
si: No stupidity—No ignorance—Unwillingness to learn.
Tam Thiện Nghiệp Môn Dục Giới:
Theo A Tỳ Đạt Ma Luận, có ba cửa thiện nghiệp thuộc về dục giới—According
to the Abhidharma, there are three doors of wholesome kamma pertaining to
the sense-sphere:
1) Thân
Nghiệp thuộc nơi Cửa Thân—Bodily action pertaining to the door of the
body.
i) Không Sát Sanh: Not to Kill.
ii)
Không Trộm Cắp: Not to Steal.
iii) Không
Tà Dâm: Nọ to Commit Sexual Misconduct.
2) Khẩu
Nghiệp thuộc nơi Cửa Khẩu—Verbal action pertaining to the door of speech.
i)
Không Nói Dối: Not to have False Speech.
ii)
Không Nói lời Đâm Thọc: Not to Slander.
iii) Không
Nói Thô Lỗ: Not to speak harsh speech.
iv) Không
Nói Nhảm Nhí: Not to speak frivolous talk.
3) Ý
Nghiệp thuộc nơi Cửa Ý—Mental action pertaining to the door of the mind.
i)
Không Tham Ái: Not to have Covetousness.
ii)
Không Sân Hận: Not to have Ill-will.
iii) Không
Tà Kiến: Not to have wrong views.
Tam Thiện Tầm: Theo Trường Bộ,
Kinh Phúng Tụng, có ba loại suy nghĩ thiện lành—According to The Long
Discourses of the Buddha, Sangiti Sutra, there are three kinds of
wholesome investigation.
1) Ly dục
tầm: The wholesome investigation of renunciation.
2) Vô sân
tầm: The wholesome investigation of non-enmity.
3) Vô hại
tầm: The wholesome investigation of non-cruelty.
Tam Thiện Tưởng: Theo Trường
Bộ, Kinh Phúng Tụng, có ba loại thiện tưởng—According to The Long
Discourses of the Buddha, Sangiti Sutra, there are three kinds of
wholesome perception.
1) Ly dục
tưởng: The wholesome perception of renunciation.
2) Vô sân
tưởng: The wholesome perception of non-enmity.
3) Vô hại
tưởng: The wholesome perception of non-cruelty.
Tam Thọ: The three states of
Vedana (sensation):
(A)
1) Khổ:
Painful—Suffering.
2) Lạc:
Pleasurable—Happy—Joyful.
3) Xả:
Freedom from both suffering and joyfull.
(B) Theo Tương Ưng Bộ
Kinh, Phẩm Tầm
Cầu, có ba loại
Khổ—According to The Connected
Discourses of the Buddha,
Chapter Esanavaggo
(Searches), there are three
feelings:
1) Khổ
Thọ: Suffering—Painful—Painful feeling.
2) Lạc
Thọ: Happy—Pleasurable—Joyful—Pleasant feeling.
3) Phi
Khổ Phi Lạc Thọ: Trung tính—Vô khổ vô lạc—The state of experiencing
neither pain nor pleasure—Neither painful-nor-pleasant feeling.
Tam Thọ Nghiệp: Nghiệp quả khởi
lên theo dòng đau khổ và vui sướng hay dửng dưng—The karma or results
arising from the pursuit of courses that produce pain, pleasure, or
freedom from both.
Tam Thời:
(A) Ba thời
trong ngày là bình minh, giữa trưa và hoàng hôn—The three divisions of the
day (dawn or morning, daylight, noon and sunset or evening).
(B) Buddhism:
Những năm sau khi Phật nhập diệt, Phật pháp được chia làm ba giai đoạn—The
years after the Buddha’s death, Buddha’s Teachings were divided into
three periods:
1) Chánh
Pháp: Giai đoạn Chánh pháp 1.000 năm, trong thời gian đó Phật giáo được
xiển dương—Right Dharma—Correct or a period of orthodoxy and vigour—1000
years pure or orthodox doctrine, during which time, Buddhism flourished.
2) Tượng
Pháp: Giai đoạn tượng pháp 1.000 năm—Imitative Dharma—Semblance or the
period of scholasticism—An intermediate period of 1000 years of
resemblance to purity.
3) Mạt
Pháp: Thời gian 10.000 năm pháp tàn và pháp lụn—Latter Dharma—End or the
period of decline and termination—10.000 years of decay (during which
Buddhism degenerates).
Tam Thời Chuyển Pháp: Ba thời
thuyết pháp của Phật—The three periods and characteristics of Buddha’s
teaching:
(A)
1) Hữu:
Reality—Khi Phật thuyết về thực tánh của ngũ uẩn và những yếu tố của nó,
nhưng phủ nhận “thực ngã” như là một tâm thức thường hằng. Đây là thời kỳ
Phật thuyết về Tứ A Hàm các các kinh điển Tiểu thừa khác—When the Buddha
taught the reality of the skandhas and elements, but denied the common
belief in real personality (thực ngã) as a permanent soul. This period is
represented by the four Agamas (A Hàm) and other Hinayana Sutras.
2) Không:
Sunya—Khi Phật phủ nhận về ý tưởng “thực pháp” và cho rằng chư pháp không
thực. Trong giai đoạn nầy Phật thuyết Kinh Bát Nhã—When the Budha negated
the idea of the reality of things (Thực pháp) and advocate that all was
unreal. This period is represented by Prajna Sutras (Bát Nhã).
3) Trung:
Madhyama—Khi nầy Phật thuyết rằng tâm thức là thật trong khi chư pháp
huyễn giả. Giai đoạn nầy Phật thuyết kinh Diệu Pháp Liên Hoa—When the
Buddha taught, “the mind or spirit is real, while things are unreal.” This
perios represented by the Wonder Lotus Sutras.
(B) Tam thời
Chuyển Pháp theo Tam Luận Tông—Three Dharma-cakra according to the San-Lun
Tsung: Tam Luận Tông chia Thánh giáo của Đức Phật ra làm ba thời—The
San-Lun School divided the Buddha’s sacred teaching into three wheels of
the law (dharma-cakra):
1) Căn
bản Pháp Luân là Hoa Nghiêm: The root wheel is the Avatamsaka (Wreath).
2) Chi
mạt Pháp Luân là các kinh điển Tiểu và Đại Thừa: The branch wheel is all
Hinayana and Mahayana texts.
3) Nhiếp
mạt quy bản Pháp Luân là thời Pháp Hoa: The wheel that contracts all the
branches so as to bring them back to the root, i.e., the Lotus.
Tam Thời Giáo Thiên Thai: Theo
tông Thiên Thai, giáo pháp của Đức Phật được chia ra làm ba thời kỳ (thí,
khai, và phế)—According to the T’ien-T’ai sect, the Buddha’s teaching can
be divided into three periods (bestowing, opening, and abrogating)—See Thí
Khai Phế.
Tam Thời Nghiệp: The three
stages of karma:
1) Nghiệp
quá khứ tích tụ quả hiện tại: Past karma is the cause for some results
(effects) reaped in the present life.
2) Nghiệp
hiện tại tích tụ quả hiện tại: Present karma is the cause for some results
(effects) reaped in the present life (present deeds and their consequences
in this life).
3) Nghiệp
hiện tại tích tụ quả vị lai: Present karma (deed) is the cause for some
or all results reaped in the next or future lives. Present deeds and their
next life consequences (present deeds and consequences after next life).
Tam Thời Niên Hạn: The three
periods of the Buddha’s doctrine—See Tam Thời, Chánh Tượng Mạt, Chánh
Pháp, Tượng Pháp, and Mạt Pháp.
Tam Thời Pháp: Giáo pháp của
Đức Phật được chia ra làm ba thời kỳ—The Teachings of the Buddha are
divided into three periods (of Dharma).
1) Chánh
Pháp: Chánh Pháp là giai đoạn 500 năm đầu, từ khi Đức Phật nhập diệt—The
period of correct Dharma is the first 500 years from the time of the
Buddha’s parinirvana—See Chánh Pháp.
2) Tượng
Pháp: Tượng Pháp là giai đoạn 1.000 năm sau thời Chánh Pháp—The period of
semblance Dharma is the second period of 1,000 years after the first
period—See Tượng Pháp.
3) Mạt
Pháp: Mạt Pháp là giai khoảng ba ngàn năm sau thời Tượng Pháp, nhưng chúng
ta có thể nói Mạt Pháp là thời gian giáo pháp suy đồi kéo dài vô hạn—The
period of the end of Dharma, about three thousand years after the end of
the period of the semblance Dharma, but we can say this period is
countless years of its decline and end—See Mạt Pháp.
Tam Thời Tọa Thiền: The trice a
day meditation:
1) Nhứt
thời: The first period at 10 AM.
2) Nhị
thời: The second period at 4 PM.
3) Tam
thời: The third period at 8 PM.
Tam Thú: Trong Kinh Niết Bàn,
Phật đã thuyết về tam thú, thỏ, ngựa, và voi vượt dòng sanh tử. Phật muốn
nói Thanh Văn như thỏ, vượt dòng bằng cách lội trên mặt; Duyên giác như
ngựa, vượt dòng bằng cách lội sâu trong nước; Bồ Tát như voi, vượt dòng
bằng cách đi bộ ngang qua—In Nirvana Sutra, the Buddha preached about the
three animals (hare, horse and elephant) crossing a stream. He meant, “the
Sravaka is like the hare who crosses by swimming on the surface; the
pratyaka-buddha is like the horse who crosses deeper than the hare; the
bodhisattva is like the elephant who walks acrosses on the bottom.
Tam Thừa: Triyana (skt)—The
Triyana—Three Yanas—Theo Kinh Pháp Hoa, có ba cỗ xe đưa chúng sanh vượt
thoát Ta Bà để qua bờ giác ngộ là Thanh Văn Thừa, Duyên Giác Thừa, và Bồ
Tát Thừa. Chữ “Thừa” ở đây tiêu biểu cho phương tiện chuyên chở và đưa
chúng sanh đến giác ngộ. Đây chỉ là những phương tiện mà Phật đặt ra để
tùy căn cơ mà giáo hóa chúng sanh—According to the Lotus Sutra, there are
three Vehicles, or conveyances, or three divisions of Buddha’s Teachings,
which carry living beings across samsara or mortality (births-and-deaths).
They are Hearer-Yana, Pratyeka-Buddha-Yana, and Bodhisattva-Yana. The word
“Vehicle” symbolizes carrying and transporting sentient beings to
enlightenment. Three Yanas are only expedient means that Buddha had taught
based on the capacity of his disciples or hearers:
(A)
1) Thanh
văn Thừa (Tiểu thừa-Hinayana): Sravakayana (skt)—Nghe pháp rồi tu và tự
mình giác ngộ. Thanh văn thông hiểu, thực hành, và dựa vào một cách đứng
đắn pháp Tứ Diệu Đế mà tu hành để trở thành một vị A La Hán (Phật ví Thanh
Văn Thừa như cổ xe dê hay dương xa). Có người gọi Thanh Văn Thừa là Tiểu
Thừa hay cỗ xe nhỏ vì hàng Thanh Văn chỉ tu hành tự ngộ, chứ không giúp
người khác giác ngộ—The Sravakayana or Theravada. Sravaka (hearer or
obedient disciple), that of enlightened for self (the objective is
personal salvation)—Sravaka who understands, practices, and relies on the
Four Noble Truths (philosophies) to become an Arhat. Some people call
Hearer-Yana a “Lesser Vehicle” because Hearers cultivate to enlighten
themselves, not to help others enlighten.
2) Duyên
Giác Thừa: Pratyekabuddhayana (skt)—Bích Chi Phật thừa (Trung
thừa-Madhyamayana)—Duyên Giác là vị thông hiểu, thực hành và dựa vào một
cách đúng đắn thuyết quán Thập Nhị Nhân Duyên để tu hành thành Bích Chi
Phật (Phật ví Duyên Giác Thừa như cổ xe nai hay lộc xa). Có người gọi
Duyên Giác Thừa là Tiểu Thừa vì hàng Duyên Giác chỉ tự tu tự ngộ chớ không
giúp người giác ngộ—Pratyeka-buddha, that of enlightened for self (the
objective is personal salvation)—Pratyekabuddha who rightly understands,
practices and relies on the theory of dependent origination (the
twelvefold chain of cause and effect) to become a Pratyekabuddha. Some
people call Pratyeka-Buddha a “Lesser Vehicle” because Pratyeka-buddhas
cultivate to enlighten themselves, not to help others enlighten.
3) Bồ Tát
Thừa: Bodhisattvayana or Mahayana (skt)—(Đại Thừa—Mahayana)—Một vị Bồ Tát,
sau vô lượng kiếp hy sinh cứu độ chúng sanh mới tiến vào đại giác và quả
vị Phật. Một vị Bồ Tát vào đời hành đạo theo Lục Ba La Mật (Phật ví Bồ Tát
Thừa như cổ xe trâu hay ngưu xa). Bồ Tát Thừa còn được gọi là Đại Thừa hay
cỗ xe lớn vì Bồ Tát tu hành trước tiên là tự ngộ, rồi sau đó giúp tha nhân
gíc ngộ. Dù gì đi nữa, thật là quan trọng cho Phật tử thuần thành tu tập
Đại Thừa, nhưng không khi dễ những vị tu tập theo Tiểu Thừa vì mục tiêu
tối hậu của người con Phật là giác ngộ và giải thoát, chứ không phải là
phân biệt Tiểu hay Đại Thừa—A Bodhisattva, leading after countless ages of
self-sacrifice in saving others and progressive enlightenment to ultimate
Buddhahood. A Bodhisattva relies on the six paramitas (the six
accomplishments). Bodhisattva-Yana is also called Mahayana, which means
“Greater Vehicle” because Bodhisattvas cultivate first to enlighten self,
and then enlighten others. Despite this, it is important for sincere
Buddhists who practice Mahayana Buddhism not to look down on those who
practice Hinayana Buddhism since the ultimate goal of every Buddhist is to
reach enlightenment, not to distinguish between Hinayana and Mahayana.
(C) Three
principle schools of Buddhism:
1) Tiểu
Thừa: Hinayana.
2) Trung
Thừa: Madhyamayana.
3) Đại
Thừa: Mahayana.
(D) Ba Thừa
chính trong Phật giáo Tây Tạng, hay truyền thống Mật tông—Three main
vehicles of Tibetan Buddhism, or Tantric tradition:
1) Tiểu
Thừa: Hinayana.
2) Đại
thừa: Mahayana.
3) Kim
Cang thừa: Vajrayana.
Tam Thức: Theo kinh Lăng Già,
có ba loại thức—According to the Lankavatara Sutra, there are three states
of mind or consciousness—Three kinds of perception:
(A)
1) Chân
Thức: Như Lai tạng, tự tính thanh tịnh không uế nhiễm, hay thức A Lại Da,
hay thức thứ tám—The original or fundamental unsullied consciousness of
mind—The Tathagata-garbha—The eighth or alaya.
2) Hiện
Thức: Tạng Thức hay chân tâm cùng với vô minh hòa hợp mà sinh ra pháp
nhiễm, tịnh, xấu tốt—Manifested mind or consciousness diversified in
contact with or producing phenomena, good or evil.
3) Phân
Biệt Sự Thức: Chuyển Thức, do thức với cảnh tướng bên ngoài làm duyên hiện
lên mà phát sinh từ ngũ quan (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân)—Discrimination or
consciousness discrimnating and evolving the objects of the five senses.
(B)
1) Ý
thức: Mana consciousness.
2) Tâm
thức: Alaya consciousness.
3) Vô cấu
thức: Amala.
Tam Thượng Đạo: The three
upward paths:
1) Thanh
văn: Sravakas.
2) Duyên
Giác: Pratyeka-buddhas.
3) Bồ
Tát: Bodhisattvas.
Tam Tiệm: The three progressive
developments of Buddha’s teaching:
1) Lộc
Uyển: Initial stage in the Lumbini Deer Park.
2) Phương
Đẳng: The period of the eight succeeding years.
3) Bát
Nhã: The last Prajna or Wisdom period.
Tam Tiểu Tai: Three minor
calamities:
1) Đao
binh tai: Calamities of wars (swords).
2) Tật
dịch tai: Calamities of pestilence.
3) Cơ cẩn
tai: Nạn đói—Calamities of famines.
Tam Tinh Tấn Tu Hành Tiệm Thứ:
Three gradual stages of cultivation—See Tam Vị Tiệm Thứ.
Tam Tính: See Tam Tánh.
Tam Tịnh Nhục: Three kinds of
clean flesh (pure meat) to a monk—Về việc tiêu thụ thịt như thực phẩm,
chính các Phật tử cũng chia thành hai phái. Một phái cho rằng ăn thịt
không kém phần tội lỗi như hành động của người giết. Họ cho rằng nếu thịt
không được dùng làm thực phẩm thì không có nguyên nhân phải giết chóc súc
vật, cho nên tiêu thụ thịt chịu trách nhiệm trực tiếp về việc giết, vì vậy
ăn thịt là sai. Nhóm khác cho rằng việc ăn thịt được Đức Phật cho phép. Họ
cho rằng giới luật hay kỹ luật cho phép các thầy tu ăn thịt trong ba
trường hợp gọi là “Tam Tịnh Nhục.” Dù nói thế nào đi nữa, ăn thịt vẫn là
ăn thịt. Người tu, nhất là chư Tăng Ni, phải tỏ tấm lòng từ bi đối với
chúng sanh muôn loài. Chư Tăng Ni phải cố gắng hết mình chẳng những không
giết, mà còn không là nguyên nhân của sự giết qua hình thức cúng dường cái
gọi là tịnh nhục. Phật tử nên luôn nhớ rằng, vào thời Phật còn tại thế, có
lần Đức Phật cho phép chư Tăng Ni dùng tịnh nhục, vì ngay lúc đó đã xãy ra
một cơn hạn hán lớn, rau cải không trồng trọt được. Còn bây giờ, chúng ta
đâu có thiếu rau cải? Nên cẩn trọng!—With regard to the consumption of
meat as food, Buddhists themselves are divided into groups. One group
regards eating meat as being no less wicked than the act of slaughter. It
holds that, if meat was not used as food, there would be no cause for the
destruction of animals, hence consumption of meat is directly responsible
for their slaughter and is therefore wrong. Another group regards the
consumption of meat is allowed by the Buddha. They claim that the Vinaya
or diciplinary rule allows monks to eat meat under three conditions,
called “three kinds of clean flesh.” No matter what you say, eating flesh
still means eating flesh. Buddhists, especially, monks and nuns should
show their loving-kindness and compassion to all sentient beings. Monks
and nuns should try their best to prevent killing, and not to be the cause
of killing through the form of offering of a so-called ‘clean flesh.’
Buddhists should always remember that at the time of the Buddha, there was
one occasion that the Buddha allowed monks and nuns to use clean flesh
because there was a great drought and there were no vegatables could be
grown. Nowadays, Are we lacking of vegetables? Be careful!:
1) Không
thấy giết: Has not seen the animal killed .
2) Không
nghe giết: Has not heard the animal killed.
3) Không
nghi ngờ con vật bị giết để cúng dường cho mình: Has not doubt about the
animal killed to offer to the monk’s meal.
Tam Tộc: Three immediate
families:
1) Họ
cha: Father’s family name.
2) Họ mẹ:
Mother’s family name.
3) Họ
chồng hoặc họ vợ: Husband’s or wife’s family name.
Tam Tôn: The three honoured
ones:
(A) Tam Bảo: Triratna.
1) Phật:
Buddha.
2) Pháp:
Dharma.
3) Tăng:
Sangha.
(B) Tam Tôn Phật Tịnh Độ: Three Buddha in the Pure Land—The
three Amitabha honoured ones:
1) Di Đà:
A Di Đà Trung Tôn, bậc toàn bi toàn trí—Amitabha Buddha, in the center,
whose mercy and wisdom are perfect.
2) Quán
Âm: Quán Âm tả biên, hiện thân của lòng đại bi—Avalokitesvara bodhisattva,
on the left, who is the embodiment of mercy.
3) Thế
Chí: Thế Chí hữu biên, hiện thân của trí tuệ—Mahasthamaprapta, on the
right, the embodiment of wisdom.
** Ba vị nầy được gọi là Tam Tôn trong thế giới Cực Lạc. Đại Thế Chí
hơi giống với Mục Kiền Liên—They are called the three holy ones of the
western region. He has doubtfully identified with Maudgalyayana.
(C)
1) Thích
Ca Mâu Ni: Sakyamuni.
2) Văn
Thù: Manjusri.
3) Phổ
Hiền: Samantabhadra.
Tam Tôn Lai Nghênh: Phật A Di
Đà, Bồ tát Quán Âm và Bồ Tát Phổ Hiền là ba vị tiếp nhận những ai tin và
niệm trì hồng danh Phật vào cõi Tây Phương Cực Lạc—Amitabha,
Avalokitesvara and Mahasthamaprapta receive into the Western Paradise the
believers who call on Amitabha.
Tam Tôn Phật: See Tam Tôn (B)
Tam Trí: Three kinds of wisdom:
(A) Theo Trí
Độ Luận—According to the Maha-Prajna-Paramita Sastra:
1) Nhứt
thiết trí: Trí của hàng Thanh Văn và Duyên Giác, cho rằng chư pháp là
không thật—Sravaka (thanh văn) and Pratyeka-buddha (Duyên giác) knowledge
that all the dharma or laws are void and unreal.
2) Đạo
chủng trí: Trí của hàng Bồ Tát với sự biện biệt chánh đáng (lìa bỏ nhị
kiến hữu vô)—Bodhisattva-knowledge of all things in their proper
discrimination.
3) Nhứt
thiết chủng trí: Phật trí—Buddha-knowledge, or perfect knowledge of all
things in their every aspect and relationship, past, present and future.
(B)
1) Thế
gian trí: Phàm trí chấp trước hết thảy hữu vô của chư pháp—Earthly or
ordinary wisdom—Normal worldly knowledge or ideas.
2) Xuất
thế gian trí: Trí của bậc Thanh Văn và Duyên Giác, hãy còn hư vọng phân
biệt tự tướng—Supra-mundane or spiritual wisdom—The wisdom of Sravaka or
Pratyetka-buddha.
3) Xuất
thế gian thượng thượng trí: Trí của chư Phật và chư Bồ Tát, quán sát hết
thảy chư pháp bất sanh bất diệt, lìa bỏ nhị kiến hữu vô—Supreme wisdom of
bodhisattvas and Buddhas.
Tam Trú: Three abidings—See Tam
Pháp (xxxxxvii).
Tam Tu: Tividhasikkha (p)—Tam
Vô Lậu Học—Ba mặt thực hành của Phật giáo không thể thiếu trên đường tu
tập—Triple (three) Training, the three inseparable aspects for any
cultivators—The three Universal Characteristics (Existence is universally
characterized by impermanence, suffering and not-self)—Three ways of
discipline of Sravaka:
(A)
1) Vô
thường tu (Practice on the impermanence): Thanh văn tuy biết sự thường trụ
của pháp thân, song chỉ quán tưởng lẽ vô thường của vạn pháp—No
realization of the eternal, seeing everything as everchanging and
transient.
2) Phi
lạc tu (practice on suffering): Tuy biết Niết Bàn tịch diệt là vui sướng,
song chỉ quán tưởng lẽ khổ của chư pháp—Joyless, through only
contemplating misery and not realizing the ultimate nirvana-joy.
3) Vô ngã
tu (practice on non-self): Tuy biết chơn ngã là tự tại, nhưng chỉ quán
tưởng lẽ không của ngũ uẩn mà thôi—Non-ego discipline, seeing only the
perishing self and not realizing the immortal self.
(B) Tam Tu
theo truyền thống Phật giáo Nguyên Thủy—Three ways to Enlightenment
according to the Theravadan Buddhism:
1) Giới:
huấn luyện đạo đức, từ bỏ những hoạt động nghiệp không trong sạch—Sila
(skt)—Training in Moral discipline by avoiding karmically unwholesome
activities—Keeping the precepts—Cultivating ethical conduct.
2) Định:
Huấn luyện tâm linh, thực hiện sự tập trung—Samadhi (skt)—Training the
mind in Concentration—Practicing concentration of the mind—Mental
discipline.
3) Huệ:
Huấn luyện trí năng, để phát triển sự hiểu biết về chân lý—Prajna
(skt)—Training in Wisdom, the development of prajna through insight into
the truth of Buddhism—Always acting wisely—Wisdom.
Tam Tu Tịnh Giới: Three
cultivations of pure precepts:
1) Tránh
làm các điều ác: Avoid doing any evil doings.
2) Làm
các điều lành: Do what is good (perform all good deeds).
3) Cứu độ
chúng sanh: Save sentient beings.
Tam Tụ Tịnh Giới: Ba tụ giới
của chư Bồ Tát. Ba tụ tịnh giới nầy hàng Thanh Văn Duyên Giác Tiểu Thừa
không có, mà chỉ có nơi các bậc Bồ Tát Đại Thừa. Ba tụ tịnh giới nầy nhiếp
hết thảy Tứ Hoằng Thệ Nguyện—Three collections of pure precepts, or three
accumulations of pure precepts of the Bodhisattvas. Those cultivating
Hinayana’s Sravaka Way do not have these three accumulations of purity
precepts. Only Mahayana Bodhisattvas practice them. These three
accumulations of pure precepts encompass the “Four Propagation Vows.” (see
Tứ Hoằng Thệ Nguyện):
1) Nhiếp
luật nghi giới: Tránh làm việc ác bằng cách trì giới hay thâu nhiếp hết
tất cả các giới chẳng hạn như 5 giới, 8 giới, 10 giới Sa Di, 250 giới Tỳ
Kheo, 348 giới Tỳ Kheo Ni, 10 giới trọng và 48 giới khinh của Bồ Tát, giữ
kỹ không cho sai phạm một giới nào—The pure precepts which include all
rules and observances, or to avoid evil by keeping the discipline. Which
means to gather all precepts such as five precepts, eight precepts, ten
precepts of Sramanera, 250 precepts of Bhiksus, 348 precepts of Bhiksunis,
10 major and 48 minor precepts of Bodhisattvas, and maintain them purely
without violating a single precept.
2) Nhiếp
thiện pháp giới: Là bậc Bồ Tát phải học hết tất cả pháp lành của Phật dạy
trong các kinh điển, để biết rõ đường lối và phương cách “độ tận chúng
sanh,” không được bỏ sót bất cứ pháp môn nào cả. Đây gọi là pháp môn vô
lượng thệ nguyện học—The pure precepts which include all wholesome
dharmas. Accumulating wholesome precepts means Bodhisattvas who must learn
all the wholesome dharmas that the Buddha taught in various sutras, so
they will know all the clear paths and means necessary to “lead and guide
sentient beings” to liberation and enlightenment. Thus, no matter how
insignificant a dharma teaching may seem, they are not to abandon any
dharma door. This vow is made by all Mahayana practicing Buddhists that
“Innumerable Dharma Door, I vow to master.”
3) Nhiếp
chúng sanh giới hay nhiêu ích hữu tình giới: Nghĩa là phải phát lòng từ bi
làm lợi ích và cứu độ tất cả chúng sanh. Đây gọi là “Chúng sanh vô biên
thệ nguyện độ.”—The pure precepts which include all living beings. This
means to develop the compassionate nature to want to benefit and aid all
sentient beings, and this is the vow “Infinite sentient beings, I vow to
take across.”
** For more information, please see Đại
Thừa
Giới and Mười Giới Trọng và Bốn Mươi
Tám Giới Khinh trong Kinh Phạm Võng.
Tam Tư: All action and speech
have three mental conditions:
1) Trầm
tư: Reflection.
2) Thẩm
lự: Judgment.
3) Quyết
định: Decision.
Tam Từ Bi: Tam chủng từ bi—The
three reasons of a bodhisattva’s pity:
1) Vô
lượng định từ: Từ bi vì thương chúng sanh như con đỏ—All beings are like
helples infants.
2) Thông
triệt nhân quả từ: Thông hiểu luật nhơn quả của nhà Phật nên thương xót
chúng sanh—Buddha’s knowledge of all laws and consequences make him feel
pity for all beings.
3) Bổn
tánh từ: Vì Phật tánh tự tâm chứ không phải vì những lý do bên ngoài mà
thương xót chúng sanh—Buddha’s own nature (without external cause) to make
him feel pity for all living beings.
Tam Tự: Three selfs:
(A)
The three characters—A
term for A Di Đà (Amitabha).
(B)
1) Tự
chế: Self-control.
2) Tự
tịnh: Self-purification.
3) Tự độ:
Self-development in the religious life and in wisdom.
(C)
1) Tự
thể: Substance.
2) Tự
tánh: Form.
3) Tự
dụng: Function.
Tam Tự Điều: Three
self-moderations
1) Tự trì
(giới): Self-discipline or keeping of precepts with:
a. Chánh
ngữ: Right speech.
b. Chánh
nghiệp: Right action.
c. Chánh
mạng: Right livelihood.
2) Tự
tịnh: Self-purification or practice of meditation with:
a. Chánh
niệm: Right mindfulness.
b. Chánh
định: Right meditation or samadhi.
3) Tự
chế: Self-control or wisdom with:
a. Chánh
kiến: Right view.
b. Chánh
tư duy: Right thinking.
c. Chánh
tinh tấn: Right effort.
**For more information,
please see Bát
Chánh Đạo in
Vietnamese-English Section.
Tam Tự Tính Tướng:
Svabhavalakshana-traya (skt)—Theo Kinh Lăng Già, có ba hình thức của trí
còn được gọi là tam tự tính tướng—According to The Lankavatara Sutra,
there are three forms of knowledge known as Svanhavalakshana-traya.
1) Vọng
Kế Tính (Biến Kế Sở Chấp): Parikalpita (skt)—Tự tính thứ nhất được gọi là
Biến Kế Sở Chấp, là sự phân biệt sai lầm của sự phán đoán, và xuất phát từ
sự hiểu đúng bản chất của các sự vật, bên trong cũng như bên ngoài và hiểu
đúng mối liên hệ giữa các sự vật như là những cá thể độc lập hay thuộc
cùng một loại—The first of the three Svabhavas is known as the Parikalpita
or wrong discrimination of judgment, and proceeds from rightly
comprehending the nature of objects, internal as well as external, and
also relationship existing between objects as independent individuals or
as belonging to a genus.
2) Y Tha
Khởi Tính: Paratantra (skt)—Tự tính thứ hai là Y Tha Khởi Tính, nguyên
nghĩa là phụ thuộc vào cái khác, là cái trí dựa vào một sự kiện nào đó,
tuy những sự kiện nầy không liên hệ đến bản chất thực sự của hiện hữu. Đặc
trưng của cái trí nầy là nó hoàn toàn không phải là một sáng tạo chủ quan
được sinh ra từ cái “không” suông, mà nó được cấu trúc của một thực tính
khách quan nào đó mà nó phụ thuộc để làm chất liệu. Do đó, nó có nghĩa là
“sinh khởi dựa vào một chỗ tựa hay một căn bản.” (sở y). Và chính do bởi
cái trí nầy mà tất cả các loại sự vật, bên ngoài và bên trong, được nhận
biết và tính đặc thù và phổ quát được phân biệt. Y tha khởi tính do đó
tương đương với cái mà ngày nay ta gọi là trí hay biết tương đối hay
“tương đối tính;” trong khi Y Tha Khởi là sự tạo ra sự tưởng tượng hay tâm
của người ta. Trong bóng tối, một người dẫm lên một vật gì đó, vì tưởng
rằng đấy là con rắn nên anh ta sợ hãi. Đây là Y Tha Khởi, một phán đoán
sai lầm hay một cấu trúc tưởng tượng được kèm theo bằng một sự kích thích
không xác đáng. Khi nhìn kỹ lại thấy rằng vật ấy là sợi dây thừng. Đây là
Y Tha Khởi, cái trí tương đối. Anh ta không biết sợi dây thừng thực sự là
gì và tưởng nó là một thực tính, đặc thù và tối hậu. Trong khi khó mà phân
biệt một cách tinh tế sự khác biệt giữa Biến Kế Sở Chấp và Y Tha Khởi từ
những định nghĩa ngắn trên, thì Y Tha Khởi hình như ít ra cũng có một mức
độ sự thật nào đó về mặt tự chính các đối tượng, nhưng Biến Kế Sở Chấp
không chỉ bao gồm một sai lầm tri thức mà còn gồm một số chức năng cảm
nhận được vận hành theo với sự phán đoán lầm lạc. Khi một đối tượng được
nhận thức như là một đối tượng hiện hữu, bên trong hay bên ngoài, thì cái
hình thức nhận biết gọi là Y Tha Khởi xãy ra. Nhận đối tượng nầy là thực,
cái tâm nhận xét kỹ hơn về nó cả về mặt trí thức cả về mặt cảm nhận, và
đây là hình thức hiểu biết gọi là Biến Kế Sở Chấp. Sau cùng, có thể chúng
ta càng làm cho rối ren thêm khi áp dụng những cách suy nghĩ ngày nay của
chúng ta vào những cách suy nghĩ thời xưa khi những cách suy nghĩ này chỉ
đơn thuần được vận hành do những đòi hỏi có tính cách tôn giáo chứ không
do những đòi hỏi vô tư có tính triết lý—The second is the Paratantra,
literally, “depending on another,” is a knowledge based on some fact,
which is not, however, in correspondence with the real nature of
existence. The characteristic feature of this knowledge is that it is not
altogether a subjective creation produced out of pure nothingness, but it
is a construction of some objective reality on which it depends for
material. Therefore, its definition is “that which arises depending upon a
support or basis.” And it is due to this knowledge that all kinds of
objects, external and internal, are recognized, and in these individuality
and generality are distinguished. The Paratantra is thus equivalent to
what we nowadays call relative knowledge or relativity; while the
Parikalpita is the fabricationof one’s own imagination or mind. In the
dark a man steps on something, and imagining it to be a snake is
frightened. This is Parikalpita, a wrong judgment or an imaginative
construction, attended an unwarranted excitement. He now bends down and
examines it closely and finds it to be a piece of rope. This is
Paratantra, relative knowledge. He does not know what the rope really is
and thinks it to be a reality, individual or ultimate. While it may be
difficult to distinguish sharply between the Parikalpita and the
Paratantra from these brief statements or definitions, the latter seems to
have at least a certain degree of truth as regards objects themselves, but
the former implies not only an intellectual mistake but some affective
functions set in motion along with the wrong judgment. When an object is
perceived as an object existing externally or internally and determinable
under the categories of particularity and generality, the Paratantra form
of cognition takes place. Accepting this as real, the mind elaborates on
it further both intellectually and affectively, and this is the
Parikalpita form of knowledge. It may be after all more confusing to apply
our modern ways of thinking to the older ones especially when these were
actuated purely by religious requirements and not at all by any
disinterested philosophical ones.
3) Viên
Thành Thực Trí: Parinishpanna (skt)—Viên thành thực trí tức là cái biết
toàn hảo và tương đương với Chánh Trí (samyagjnana) và Như Như (Tathata)
của năm pháp. Đấy là cái trí có được khi ta đạt tới trạng thái tự chứng
bằng cách vượt qua Danh, Tướng, và tất cả các hình thức phân biệt hay
phán đoán (vikalpa). Đấy cũng là Như Như, Như Lai Tạng Tâm, đấy là một cái
gì không thể bị hủy hoại. Sợi dây thừng giờ đây được nhận biết theo thể
diện chân thực của nó. Nó không phải là một sự vật được cấu thành do các
nguyên nhân và điều kiện hay nhân duyên và giờ đây đang nằm trước mặt
chúng ta như là một cái gì ở bên ngoài. Từ quan điểm của nhà Duy Thức
Tuyệt Đối theo như Lăng Già chủ trương, sợi dây thừng là phản ánh của
chính cái tâm của chúng ta, tách ra khỏi cái tâm thì nó không có khách
quan tính, về mặt nầy thì nó là phi hiện hữu. Nhưng cái tâm vốn do từ đó
mà thế giới phát sinh, là một đối tượng của Viên Thành Thực hay trí toàn
đắc—The third form of knowledge is the Parinishpanna, perfected knowledge,
and corresponds to the Right Knowledge (Samyagjnana) and Suchness
(Tathata) of the five Dharmas. It is the knowledge that is available when
we reach the state of self-realization by going beyond Names and
Appearances and all forms of Discrimination or judgment. It is suchness
itself, it is the Tathagata-garbha-hridaya, it is something
indestructible. The rope is now perceived in its true perspective. It is
not an object constructed out of causes and conditions and now lying
before us as something external. From the absolutist’s point of view which
is assumed by the Lankavatara, the rope is a reflection of our own mind,
it has no objectivity apart from the latter, it is in this respect
non-existent. But the mind out of which the whole world evolves is the
object of the Parinishpanna, perfectly-attained knowledge.
Tam Tướng: Theo Kinh Pháp Hoa,
có ba tướng—According to the Lotus Sutra, there are three forms or
positions:
1) Giải
thoát tướng: Tin không có tướng sanh tử—Nirvana.
2) Ly
tướng: Tin sinh tử Niết bàn là không có—No Birth and death, nor nirvana.
3) Diệt
tướng (Phi hữu phi vô—Trung đạo): Chẳng phải có, chẳng phải không—The
middle way.
Tam Tướng Hữu Vi:
Ti-sankhatalakkhanas (p)—The three properties of matter.
1) Sanh:
Production or birth.
2) Trụ:
Duration or existence.
3) Diệt:
Annihilation.
Tam Tướng Pháp: The three
universal characteristics.
Tam Tướng Phân Biệt: Ba tướng
phân biệt là thiện lành, xấu ác và trung tính—The differentiation of the
three conditions of good, evil, and neutral.
Tam Tướng Vi Tế: Theo Khởi Tín
Luận, có ba tướng vi tế—According to the Awakening of Faith, there are
three subtle marks:
1) Nghiệp
tướng: The mark of karma.
2) Chuyển
tướng: The mark of Turning.
3) Hiện
tướng: The mark of manifestation.
Tam Tưởng: Three thoughts:
(A)
1) Oán
tưởng: Tưởng đến việc thương xót kẻ thù—Thoughts of love to enemies.
2) Thân
tưởng: Tưởng đến tình thương gia tộc và bằng hữu—Thoughts of love to
family and friends.
3) Trung
nhân tưởng: Tưởng đến việc thương xót người không phải thù mà cũng không
phải bạn—Thoughts of love to those who are neither enemies nor friends.
Tam Uế: Three stains—Tự tánh
chúng uế nhiễm như dầu, lọ, bùn, mà chúng còn vấy bẩn các vật khác, nên
gọi là cấu uế—They are so called because they are themselves dirty like
oil, black, and mud, and because they dirty other things.
1) Tham:
Greed.
2) Sân:
Hatred.
3) Si:
Delusion.
** See Tam Độc.
Tam Vị:
(A) Ba hương
vị—The three flavors or pleasant savours:
1) Sống
tịnh hạnh: The monastic life.
2) Trùng
tụng kinh điển: Reading the scriptures.
3) Thiền
định: Meditation.
(B) Ba phần
vun bồi tâm thức trong Phật giáo—The mental cultivation of Buddhism is
generally divided into three parts:
1) Gia
Hạnh Vị—Effort Stage: Đây là giai đoạn nỗ lực. Con đường đầu tiên mà hành
giả phải đi là ‘gia hạnh vị,’ trong đó hành giả tu chỉ và quán—This is the
stage of giving out efforts. The first path one treads is the ‘effort’
stage in which there is the practice of calmness and insight (see Ngũ Đình
Tâm Quán).
2) Kiến
Đạo Vị—View-path stage: Đây là giai đoạn thấy đạo—This is the stage of
seeing the path.
3) Tu Tập
Vị—Practice-path stage: Đây là giai đoạn tu tập hay thực hành. Trước tiên
hành giả phải dự bị sẵn sàng để tiến bước trên con đường tu tập—This is
the stage of practices. The adjustment of one’s self so as to proceed the
path.
Tam Vị Tiệm Thứ: Three Gradual
Stages—Theo Kinh Thủ Lăng Nghiêm, quyển Tám, Đức Phật đã nhắc ngài A Nan
về ba vị tiệm thứ như sau: “Nay ông muốn tu chứng pháp tam ma đề của Phật,
cũng phải do cái bản nhân điên đảo loạn tưởng ấy mà lập ra ba tiệm thứ,
mới có thể diệt trừ được. Ví dụ muốn đựng nước cam lộ trong một đồ sạch,
phải lấy nước nóng, tro, và nước thơm súc rửa, trừ bỏ các căn độc. Thế nào
gọi là ba tiệm thứ? Một là tu tập để trừ trợ nhân; hai là thật tu hành để
bỏ cho hết chánh tính; ba là tinh tấn lên, trái với hiện
nghiệp.”—According to the Surangama Sutra, book Eight, the Buddha reminded
Ananda about the three gradual stages as follows: “Ananda! As you
cultivate towards certification to the samadhi of the Buddha, you will go
through three gradual stages in order to get rid of the basic cause of
these random thoughts. They work in just the way that poisonous honey is
removed from a pure vessel that is washed with hot water mixed with the
ashes of incense. Afterwards it can be used to store sweet dew. What are
the three gradual stages? The first is to correct one’s habits by getting
rid of the aiding causes; the second is to truly cultivate to cut out the
very essence of karmic offenses; the third is to increase one’s vigor to
prevent the manifestation of karma.
1) Thế
nào là trợ nhân?—What are aiding causes?
a) Ông A
Nan! Cả 12 loại sinh trong thế giới không thể tự toàn, phải nương vào bốn
cách ăn mà sống còn. Đó là ăn bằng cách chia xé, ăn bằng ngửi hơi, ăn bằng
suy nghĩ, ăn bằng thức. Vậy nên Phật nói tất cả chúng sanh đều nương nơi
sự ăn mà sống còn. Ông A Nan! Tất cả chúng sanh ăn món ngon lành được
sống, ăn món độc bị chết. Cho nên chúng sanh cầu tam ma địa phải dứt năm
món tân thái trong đời—Ananda! The twelve categories of livign beings in
this world are not complete in themselves, but depend on four kinds of
eating ; that is, eating by portions, eating by contact, eating by
thought, and eating by consciousness. Therefore, the Buddha said that all
living beings must eat to live. Ananda! All living beings can live if they
eat what is sweet, and they will die if they take poison. Beings who seek
samadhi should refrain from eating five pungent plants of this world.
b) Phật
dạy tại sao phải đoạn năm món tân thái—The Buddha explained in depth the
ill-effects of eating pungent plants.
·
Năm món tân thái ấy, nấu chín mà ăn, hay phát tính dâm. Ăn
sống thêm giận dữ. Những người ăn các món ấy, dù có thể giảng 12 bộ kinh,
mười phương Thiên Tiên cũng chê hơi hôi, đều tránh xa: If these five are
eaten cooked, they increase one’s sexual desire; if they are eaten raw,
they increase one’s anger. Therefore, even if people in this world who eat
pungent plants can expound the twelve divisions of the sutra canon, the
gods and immortals of the ten directions will stay far away from them
because they smell so bad.
·
Tuy nhiên, lúc người đó ăn các món ấy, các loài quỷ đói
thường đến liếm mép. Thường ở chung với quỷ, nên phúc đức ngày một tiêu
mòn, hằng không lợi ích gì: However, after they eat these things, the
hungry ghosts will hover around and kiss their lips. Being always in the
presence of ghosts, their blessings and virtue dissolve as the day go by,
and they experience no lasting benefit.
·
Người ăn món đó mà tu tam ma địa, các vị Bồ Tát, Thiên Tiên
mười phương thiện thần chẳng đến thủ hộ. Đại lực ma vương tìm được phương
tiện, hiện làm thân Phật mà đến thuyết pháp. Chê bỏ cấm giới, khen làm
việc dâm, giận dữ, ngu si. Sau khi chết, tự làm quyến thuộc cho ma vương,
hưởng hết phúc của ma, bị đọa vào ngục vô gián: People who eat pungent
plants and also cultivate samadhi will not be protected by the
Bodhisattvas, gods, immortals, , or good spirits of the ten directions;
therefore, the tremendously powerful demon kings, able to do as they
please, will appear in the body of a Buddha and speak Dharma for them,
denouncing the prohibitive precepts and praising lust, rage, and
delusion. When their lives end, these people will join the retinue of
demon kings. When they use up their blessings as demons, they will fall
into the Unintermittent Hell.
·
Ông A Nan! Người tu Bồ Đề, phải hoàn toàn dứt năm món tân
thái. Đây gọi là đệ nhất tinh tấn tu hành tiệm thứ: Ananda! Those who
cultivate for Bodhi should never eat the five pungent plants. This is the
first of the gradual stages of cultivation.
2) Chính
tính—Proper nature:
a) Thế
nào là chính tính? What is the essence of karmic offenses?
·
A Nan! Chúng sanh vào tam ma địa, trước phải giữ giới luật
tinh nghiêm và thanh tịnh, phải hoàn toàn dứt tâm dâm, chẳng ăn thịt uống
rượu, ăn đồ nấu chín và sạch, chớ ăn món còn hơi sống. Ông A Nan! Người tu
hành mà chẳng đoạn dâm và sát sinh, không thể ra khỏi ba cõi: Ananda!
Beings who want to enter samadhi must first firmly uphold the pure
precepts. They must sever thoughts of lust, not partake of wine or meat,
and eat cooked rather than raw foods. Ananda! If cultivators do not sever
lust and killing, it will be impossible for them to transcend the triple
realm.
·
A Nan! Nên coi sự dâm dục như rắn độc, như giặc thù mình.
Trước hết, phải giữ giới Thanh Văn, bốn khí, tám khí, giữ gìn thân không
động. Sau lại tu luật nghi thanh tịnh của Bồ Tát, giữ gìn tâm chẳng khởi:
Ananda! You should look upon lustful desire as upon a poisonous snake or a
resentful bandit. First hold to the sound-hearer’s four or eight
parajikas in order to control your physical activity; then cultivate the
Bodhisattva’s pure regulations in order to control your mental activity
b) Cấm
giới được thành tựu, thì đối với thế gian, hoàn toàn không còn nghiệp
sinh nhau, giết nhau, không làm việc trộm cướp thì không bị mắc nợ cùng
nhau, không phải trả nợ trước ở thế gian: When the prohibitive precepts
are successfully upheld, one will not create karma that leads to trading
places in rebirth and to killing one another in this world. If one does
not steal, one will not be indebted, and one will not have to pay back
past debts in this world.
c) Người
thanh tịnh đó tu tam ma địa, ngay ở xác thân cha mẹ sinh, chẳng dùng phép
Thiên nhãn, tự nhiên xem thấy mười phương thế giới, thấy Phật, nghe pháp
của Phật, phụng trì ý chỉ của Phật, được đại thần thông, dạo đi mười
phương, túc mệnh, thanh tịnh, không bị gian hiểm. Đó là đệ nhị tinh tiến
tu hành tiệm thứ: If people who are pure in this way cultivate samadhi,
they will naturally be able to contemplate the extent of the worlds of the
ten directions with the physical body given them by their parents; without
need of the heavenly eye, they will see the Buddhas speaking Dharma and
receive in person the sagely instruction. Obtaining spiritual
penetrations, they will roam through the ten directions, gain clarity
regarding past lives, and will not encounter difficulties and dangers.
This is the second of the gradual stages of cultivation.
3) Trái
với hiện nghiệp—They should counter the manifestations of their karma:
a) Thế
nào là hiện nghiệp?—What is the manifestation of karma? Ông A Nan! Người
giữ cấm giới thanh tịnh đó, lòng không tham dâm, đối với lục trần bề
ngoài, chẳng hay lưu dật. Nếu chẳng lưu dật, trở về chỗ bản nguyên. Đã
chẳng duyên theo trần, căn không phối ngẫu. Ngược dòng trở về chân tính,
sáu căn thọ dụng không hiện hành—Ananda! Such people as these , who are
pure and who uphold the prohibitive precepts, do not have thoughts of
greed and lust, and so they do not become dissipated in the pursuit of
the six external defiling sense-objects. Because they do not pursuit them,
they turn around to their own source. Without the conditions of the
defiling objects, there is nothing for the sense-organs to match
themselves with, and so they reverse their flow, become one unit, and no
longer function in six ways.
b) Mười
phương quốc độ trong sạch, sáng suốt, ví như trăng sáng chiếu qua ngọc lưu
ly. Thân tâm khoan khoái, diệu viên bình đẳng, được rất an lành. Tất cả
các đức ‘mật, viên, tịnh, diệu’ của Như Lai đều hiện trong lòng người tu.
Người đó liền được vô sanh pháp nhẫn. Từ đó lần lượt tiến tu, tùy theo
hạnh mà an lập Thánh vị. Đây gọi là đệ tam tinh tiến tu hành tiệm thứ—All
the lands of the ten directions are as brilliantly clear and pure as
moonlight reflected in crystal. Their bodies and minds are blissful as
they experience the equality of wonderful perfection, and they attain
great peace. The secret perfection and pure wonder of all the Thus Come
Ones appear before them. These people then obtain patience with the
non-production of dharmas. They thereupon gradually cultivate according to
their practices, until they reside securely in the sagely positions. This
is the third of the gradual stages of cultivation.
Tam Viên Dung: Three kinds of
unity or identity:
1) Sự lý
viên dung: Phenomena with substance (waves and water).
2) Sự sự
viên dung: Phenomena with phenomena (wave with wave).
3) Lý lý
viên dung: Substance with substance (water with water).
Tam Vô Lậu Căn: Three roots for
the passionless life and final escape from transmigration (No evil deeds,
no evil words, no evil thoughts).
Tam Vô Lậu Học: Ba phần học của
hàng vô lậu, hay của hạng người đã dứt được luân hồi sanh tử—Threefold
training, or three studies or endeavors of the non-outflow, or the those
who have passionless life and escape from transmigration:
1) Giới
hay trì giới: Trong Phật giáo, không có phép gọi là tu hành nào mà không
phải trì giới, không có pháp nào mà không có giới. Giới như những chiếc
lồng nhốt những tên trộm tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, sát, đạo, dâm,
vọng—Precepts or training in moral discipline. In Buddhism, there is no
so-called cultivation without discipline, and also there is no Dharma
without discipline. Precepts are considered as cages to capture the
thieves of greed, anger, stupidity, pride, doubt, wrong views, killing,
stealing, lust, and lying.
2) Định:
Phép luyện cho tâm được định tĩnh. Tương tự như “giới,” trong Phật giáo,
không có phép gọi là tu hành nào mà không tu luyện cho tâm định
tĩnh—Samadhi, meditation, trance, or training the mind. In the same manner
as in (1), in Buddhism, there is no so-called cultivation without
concentration, or training the mind.
3) Huệ:
Tu tập trí tuệ là kết quả của giới và định. Nếu bạn muốn đọan trừ tam độc
tham lam, sân hận và si mê, bạn không có con đường nào khác hơn là phải tu
giới và định hầu đạt được trí tuệ ba la mật. Với trí huệ ba la mật, bạn có
thể tiêu diệt những tên trộm nầy và chấm dứt khổ đau phiền não—The
resulting wisdom, or training in wisdom. If you want to get rid of greed,
anger, and ignorance, you have no choice but cultivating discipline and
samadhi so that you can obtain wisdom paramita. With wisdom paramita, you
can destroy these thieves and terminate all afflictions.
Tam Vô Sai Biệt: The three that
are without essential difference (the three that are of the same
nature)—See Tam Vô Sai Biệt Vô Tánh (B):
1) Tâm:
The nature of mind is the same in Buddhas, men, and all the living beings.
2) Phật:
The nature and enlightenment of all Buddhas is the same.
3) Chúng
sanh: The nature and enlightenment of all living beings is the same.
Tam Vô Sai Biệt (Vô Tánh):
(A) Tam vô
sai biệt vô tánh—The three things without a nature or separate existence
of their own:
1) Tướng
vô tánh: Hình tướng không thật—Form, appearance or seeming is unreal.
2) Sinh
vô tánh: Mọi vật đều từ sự kết hợp bởi vật chất mà thành (chứ không có tự
tánh)—Everything derived from constituent materials.
3) Thắng
nghĩa vô tánh: Khái niệm về chân như cũng không có thật—The concept or
bhutatathata (chân như) is unreal.
(B) Tâm, Phật
và chúng sanh, tam vô sai biệt—Mind, Buddha and Living beings are the same
in nature:
1) Tâm:
Bản tâm của chư Phật và chúng sanh đều như nhau—The nature of mind is the
same in Buddhas.
2) Phật:
Bản tánh và sự giác ngộ của chư đều như nhau—The nature and enlightenment
of all Buddhas is the same.
3) Chúng
sanh: Bản tánh và sự giác ngộ của tất cả chúng sanh đều như nhau—The
nature and enlightenment of all the living beings is the same.
Tam Vô Sở Cầu: Tổ Bồ Đề Đạt Ma
, vị tổ thứ 28 dòng Thiền Ấn Độ và cũng là vị sơ tổ của dòng Thiền Trung
Hoa đã dạy về tam vô sở cầu nhân sau cuộc nói chuyện với vua Hán Vũ Đế về
tu hành tịnh hạnh vô cầu—Bodhidharma, the 28th Patriarch from India and
also the 1st Patriarch in China taught about three Non-seeking practices
or three doors of liberation:
1) Không:
Emptiness.
2) Vô
tướng: Signlessness.
3) Vô
nguyện: Wishlessness.
Thật vậy, chư pháp hữu vi
như ảo như mộng, sanh diệt, diệt sanh. Có cái gì thường hằng cho chúng ta
theo đuổi ? Hơn nữa, thế giới hiện tượng chỉ là tương đối, trong tai họa
đôi khi có phước báo, trong phước báo có khi là tai họa. Thế nên người tu
Phật nên luôn giữ tâm mình bình thản và không khuấy động trong mọi tình
huống, lên xuống hay họa phước. Giả dụ như một vị Tăng tu tập hẩm hiu nơi
sơn lâm cùng cốc, ít người thăm viếng hoàn cảnh sống thật là khổ sở cô
độc, nhưng cuộc tu giải thoát thật là tinh chuyên. Thế rồi ít lâu sau đó
có vài người tới thăm cúng dường vì nghe tiếng phạm hạnh của người, túp
lều năm xưa chẳng bao lâu biến thành một ngôi chùa đồ xộ, Tăng chúng đông
đảo, chừng đó phước thịnh duyên hảo, nhưng thử hỏi có mấy vị còn có đủ thì
giờ để tinh chuyên tu hành như thuở hàn vi ? Lúc ấy cuộc tu chẳng những rõ
ràng đi xuống, mà lắm lúc còn gây tội tạo nghiệp vì những lôi cuốn bên
ngoài. Thế nên người tu Phật nên luôn ghi tâm pháp “Tam vô sở cầu
nầy.”—Trully speaking, worldly phenomena are dharmas are illusory and
dream-like, born and destroyed, destroyed and born. So what is there which
is true ever-lasting and worth seeking ? Furthermore, worldly phenomena
are all relative, in calamities are found blessings, in blessings there is
misfortune. Therefore, Buddhist cultivators should always keep their minds
calm and undisturbed in all situations, rising or falling, unfortunate or
blessed. For example, when a monk cultivates alone in a deserted hut with
few visitors. Although his living conditions are miserable and lonely, his
cultivation is diligent. After a while, virtuous people learn of his
situation and come to offer and seek for his guidance, his used-to-be hut
now become a huge magnificient temple, filled with monks and nuns. By
then, his blessings may be great, his cultivation has not only onviously
declined, sometimes external events may attract him to causing more bad
karma. Therefore, Buddhist cultivators should always keep in mind these
three Non-seeking practices.
Tam Vô Vi Pháp: Asamskritas
(skt)—Theo Câu Xá tông trong A Tỳ Đàm Luận, có ba pháp vô vi—According to
the Kosa School in the Abhidharma, there are three non-created dharmas.
1) Hư
Không: Akasa (skt)—Pháp không chướng ngại và thâm nhập qua tất cả mọi
chướng ngại một cách tự do không biến chuyển: Space is that which gives no
hindrance and itself penetrates through any hindrance freely and manifests
no change.
2) Trạch
Diệt: Pratisamkhya-nirodha (skt)—Sự tịch diệt đạt được bằng năng lực trí
tuệ như Niết Bàn: Extinction attained by an intellectual power such as
Nirvana.
3) Phi
Trạch Diệt: Apratisamkhya-nirodha (skt)—Sự tịch diệt xãy ra mà không cần
có những nỗ lực hay sự tịch diệt được tạo ra do khuyết duyên: An
annihilation taking place without premeditated efforts or an extinction
caused by the absence of a productive cause.
** For more information,
please see Bảy
Mươi Lăm Pháp Câu
Xá Tông.
Tam Xa: Triyana—The three
vehivles across samsara to Nirvana:
1) Xe Dê:
Goat carts, representing Sravakas.
2) Xe
Nai: Deer carts, representing Pratyeka-buddhas—See Lộc Xa.
3) Xe
Trâu: Bullock carts, representing Bodhisattvas.
** See Tam Thừa.
Tam Xiển Đề: See Tam Chủng Xiển
Đề.
Tam Xứ Truyền Tâm: Ba nơi mà
theo kể lại là những nơi Phật đã tâm truyền tâm cho Ngài Ca Diếp—The three
places where Sakyamuni is said to have transmitted his mind or thought
direct and without speech to Kasyapa:
1) Linh
Thứu Sơn: At the Vulture Peak, by a smile when plucking a flower.
2) Đa Tử
Tháp: When the Buddha shared his seat with Kasyapa.
3) Đưa
chân ra khỏi cổ quan: Finally the Buddha put his foot out of his coffin.
Tam Y: Ba loại áo cà sa—Three
kinds of monks’ garments:
1) Tăng
Già Lê Y: Samghati (skt)—Chúng tụ thời y (áo mặc khi hội họp với các chúng
để cử hành các nghi thức lễ lạc trang nghiêm như thọ giới, thuyết giới hay
truyền giới). Đây là loại y từ chín đến hai mươi lăm mảnh—The assembly
cassock of from nine to twenty-five pieces.
2) Uất Đa
La Tăng Y: Uttarasanga (skt)—Thượng Y hay áo mặc trên áo an đà hội, y bảy
mảnh—Outer garment, the seven-piece cassock.
3) An Đà
Hội Y: Antarvasas (skt)—Trung trước y, áo lót mặc bên trong, tức là áo lót
mặc sát người, y năm mảnh—An inner garment; the five-piece cassock.
Tám: Eight.
Tám Cách Mà Quan Niệm Vô Sinh Được Thiết
Lập: Anutpattikadharma (skt)—See Bát Bất Sinh Pháp.
Tám Cách Phát Tâm Bồ Đề: Trong
Kinh Hoa Nghiêm Đức Thế Tôn và chư Bồ Tát đã thuyết giảng rộng rãi về công
đức của Bồ Đề tâm: “Cửa yếu vào đạo trước phải phát tâm. Việc yếu tu hành,
trước nên lập nguyện.” Nếu không phát tâm rộng lớn, không lập nguyện bền
chắc, thì dù trải qua vô lượng kiếp, vẫn y nhiên ở trong nẻo luân hồi; dù
có tu hành cũng khó tinh tấn và chỉ luống công khổ nhọc. Do đó nên biết
muốn học Phật đạo, quyết phải phát Bồ Đề Tâm không thể trì hưởn. Do đó khi
xưa Đại Sư Tỉnh Am bên Trung Quốc đã soạn ra bài phát nguyện “Phát Bồ Đề
Tâm Văn” để khuyến khích tứ chúng. Trong ấy, ngài đã theo các tâm nguyện
mà trình bày sự phát tâm thành tám cách, Tà, Chánh, Chân, Ngụy, Đại, Tiểu,
Thiên, Viên. Trong tám cách nầy, Tà, Ngụy, Thiên, Tiểu nên bỏ; Chân,
Chánh, Viên, Đại nên theo. Được như thế mới gọi là phát Bồ Đề Tâm đúng
cách—The Buddha and Bodhisattvas broadly explained the virtue of Bodhi
Mind in The Avatamsaka Sutra: “The principal door to the Way is
development of the Bodhi Mind. The principal criterion of practice is the
making of vows.” If we do not develop the broad and lofty Bodhi Mind and
do not make firm and strong vows, we will remain as we are now, in the
wasteland of Birth and Death for countless eons to come. Even if we were
to cultivate during that period, we would find it difficult to persevere
and would only waste our efforts. Therefore, we should realize that in
following Buddhism, we should definitely develop the Bodhi Mind without
delay. That is why Great Master Hsing An composed the essay titled
“Developing the Bodhi Mind” to encourage the fourfold assembly to follow
when practicing Buddhism. In it, the Master described eight approaches to
developing the Bodhi Mind, depending on sentient beings’ vows: “erroneous,
correct, true, false, great, small, imperfect, perfect.” Among the eight
ways of developing the Bodhi Mind, we should not follow the “erroneous,
false, imperfect, and small” ways. We should instead follow the “true,
correct, perfect, and great” ways. Such cultivation is called developing
the Bodhi Mind in a proper way.
1) Tà: Có
những người tu không tham cứu tự tâm, chỉ biết theo bên ngoài, hoặc cầu
danh lợi, đắm cảnh vui hiện tại, hay mong quả phước trong tương lai mà
phát lòng Bồ Đề. Trong đời sống, đây là hạng người chỉ một bề hành theo
“Sự Tướng” mà không chịu xoay vào “Chân Tâm.” Phát tâm như thế gọi là TÀ.
Trên đây là lối phát tâm của đa phần các người tu, tại gia và xuất gia,
trong thời mạt pháp nầy. Những người như thế có nhan nhãn ở khắp mọi nơi,
số đông như các sông Hằng—ERRONEOUS—Some individuals cultivate witohut
meditating on the Self-Nature. They just chase after externals or seek
fame and profit, clinging to the fortunate circumstances of the present
time, or they seek the fruits of future merits and blessings. In life
there are cultivators who cultivate only according to the “Practice form
characteristics,” refusing to reflect internally to “Examine the True
Nature.” Such development of the Bodhi Mind is called "“Erroneous," or
“False.” The above is truly the way the majority of cultivators, lay and
clergy, develop their minds in the present day Dharma Ending Age. They are
everywhere similar to the abundance of sands of the Ganges.
2) Chánh:
Như chẳng cầu danh lợi, không tham cảnh vui cùng mong quả phước, chỉ vì
thoát vòng sanh tử, lợi mình lợi sanh mà cầu đạo Bồ Đề. Đây là hạng người
trên không cầu lợi dưỡng, dưới chẳng thích hư danh, vui hiện thế không
màng, phước vị lai chẳng tưởng. Họ chỉ vì sự sanh tử mà cầu quả Bồ Đề.
Phát tâm như thế gọi là CHÁNH—CORRECT. Đây là lối phát tâm của bậc tu hành
chân chánh, chỉ cầu mong giải thoát. Lối phát tâm và cách tu hành nầy đời
nay khó thể nào thấy được, họa hoằn lắm trong muôn ngàn người tu mới có
được một hay hai vị mà thôi—Not seeking fame, profit, happiness, merit or
blessings, but seeking only Buddhahood, to escape Birth and Death for the
benefit of oneself and others. These are cultivators who, above do not
pray for luxury, below do not yearn for fame, not allured by the pleasures
of the present, do not think of the merits in the future. In contrast,
they are only concerned with the matter of life and death, praying to
attain the Bodhi Enlightenment fruit. Such development of the Bodhi Mind
is called “Correct,” or “Proper.” The above is the way of developing the
mind according to true cultivators praying for enlightenment and
liberation. With this way of developing the mind and cultivation, it is
difficult to find nowadays. In hundreds and thousands of cultivators, it
would be fortunate to find just one or two such cultivators.
3) Chân:
Mỗi niệm trên vì cầu Phật đạo, dưới vì độ chúng sanh, nhìn đường Bồ Đề dài
xa mà không khiếp, thấy loài hữu tình khó độ nhưng chẳng sờn. Tâm bền vững
như lên núi quyết đến đỉnh, như leo tháp quyết đến chót. Những bậc nầy,
niệm niệm trên cầu Phật dạo, tâm tâm dưới độ chúng sanh. Nghe thành Phật
dù lâu xa chẳng sợ, chẳng lui. Phát tâm như thế gọi là CHÂN—TRUE—Aiming
with each thought to seek Buddhahood “above” and save sentient beings
“below,” without fearing the long, arduous Bodhi path or being discouraged
by sentient beings who are difficult to save, with a mind as firm as the
resolve to ascend a mountain to its peak. These cultivators who, thought
after thought, above pray for Buddhahood; mind after mind, below rescue
sentient beings; hearing to become Buddha will take forever, do not become
fearful and wish to regress. Such development of the Bodhi Mind is called
“true.”
4) Ngụy:
Có tội lỗi không sám hối chừa cải, ngoài dường trong sạch, trong thật nhớp
nhơ, trước tinh tấn sau lười biếng. Dù có tâm tốt nhưng còn xen lẫn lợi
danh, có pháp lành song bị tội lỗi làm ô nhiễm. Phát tâm mà còn những
điều nầy, gọi là NGỤY. Đây là lối phát tâm của hầu hết người tu hành trong
thời mạt pháp nầy—FALSE—Not repenting or renouncing our transgressions,
appearing pure on the outside while remaining filthy on the inside,
formerly full of vigor but now lazy and lax, having good intentions
intermingled with the desire for fame and profit, practicing good deeds
tainted by defilements. Such development of the Bodhi Mind is called
“false.” This is the way the majority of cultivators develop the mind in
the Dharma Ending Age.
5) Đại:
Cõi chúng sanh hết, nguyện mới hết; đạo Bồ Đề thành, nguyện mới thành.
Phát tâm như vậy gọi là ĐẠI. Đây là lối phát tâm của hàng Đại Thừa Pháp
Thân Đại Sĩ Bồ Tát, hay bậc Thánh Tăng Bồ Tát, đã đắc được vô sanh pháp
nhẫn, chuyển pháp luân bất thối trong mười phương pháp giới—GREAT—Only
when the realm of sentient beings has ceased to exist, would one’s vows
come to an end; only when Buddhahood has been realized, would one’s vows
be achieved. Such development of the Bodhi Mind is called “great.” Above
is the way of developing the mind of those in the rank of Mahayana Great
Strength Dharma Body Maha-Bodhisattvas, or Bodhisattva Saintly Masters,
who have already attained the “Non-Birth Dharma Tolerance” and have
turned the non-retrogressing Dharma Wheel in the ten directions of
infinite universes.
6) Tiểu:
Xem tam giới như tù ngục, sanh tử như oan gia, chỉ mong mình mau giải
thoát, chẳng muốn độ người. Phát tâm theo quan niệm nầy gọi là TIỂU. Đây
là cách phát tâm của bậc Thánh nhân trong hàng nhị thừa Thanh Văn và Duyên
Giác. Lối phát tâm nầy tuy là được giải thoát ra ngoài tam giới, chứng
được Niết Bàn, nhưng vẫn bị Phật quở là đi ra ngoài con đường hạnh nguyện
độ sanh của Bồ Tát và Phật—SMALL—Viewing the Triple World as a prison and
Birth and death as enemies, hoping only for swift self-salvation and being
reluctant to help others. Such development of the Bodhi Mind is called
“small.” The above is the way of developing the mind for those cultivators
who practice Hinayana Buddhism or Lesser Vehicle, Sravaka-Yana and
Pratyeka-Buddha-Yana. With this method of developing mind, even though
liberation from the cycle of reborths will be attained, escape from the
three worlds, and attain Nirvana. However, the Buddha criticized them as
traveling outside the path of conducts and vows of rescuing sentient
beings of the Bodhisattvas and Buddhas of Mahayana or Greater Veicle.
7) Thiên:
Thấy chúng sanh và Phật đạo ở ngoài tự tánh, rồi nguyện độ nguyện thành,
đường công hạnh chẳng quên, sự thấy hiểu không dứt. Phát tâm như thế gọi
là THIÊN. Đây là cách phát tâm sai lầm của những vị tu hành mà quả vị
chứng đắc vẫn còn nằm trong ba cõi sanh tử, chớ chưa giải thoát được, họ
chỉ tu hành để đạt được cảnh giới cao hơn như lên cõi sắc giới hay vô sắc
giới, vì các vị ấy chưa thông đạt lý “ngoài tâm không pháp, ngoài pháp
không tâm.”—IMPERFECTED—Viewing sentient beings and Buddhahood as outside
the Self-Nature while vowing to save sentient beings and achieve
Buddhahood; engaging in cultivation while the mind is always
discriminating. Such development of the Bodhi Mind is called “imperfected”
or “biased.” The above way of developing the mind is false, belonging to
those who cultivated achievements still leave them trapped in the three
worlds of the cycle of rebirths, and they will not find true liberation
and enlightenment. These people only cultivate to ascend to higher Heavens
of Form and Formlessness because they have not penetrated fully the theory
of “outside the mind there is no dharma, outside the dharma there is no
mind.”
8) Viên:
Biết chúng sanh và Phật đạo đều là tự tánh, nên nguyện độ nguyện thành, tu
công đức không thấy mình có tu, độ chúng sanh không thấy có chúng sanh
được độ. Các bậc nầy dùng tâm rỗng như hư không mà phát nguyện lớn như hư
không, tu hành rộng như hư không, chứng đắc như hư không, cũng chẳng thấy
có tướng “không.” Phát tâm như thế gọi là VIÊN. Đây là lối phát tâm của
các hàng Đăng Địa Bồ Tát, Đẳng Giác Bồ Tát, và Nhứt Sanh Bổ Xứ Bồ Tát. Sau
cùng các vị nầy chứng được quả vị Phật với đầy đủ thập hiệu (see Thập Địa
and Thập Hiệu)—PERFECT—Knowing that sentient beings and Buddhahood are the
Self-Nature while vowing to save sentient beings and achieve Buddhahood;
cultivating virtues without seeing oneself cultivating, saving sentient
beings without seeing anyone being saved. These people use that mind of
emptiness similar to space to make vows as great as space, to cultivate
conducts as vast as space, and finally to attain and achieve similar to
space, yet do not see the characteristics of “emptiness.” Such development
of the Bodhi Mind is called “perfect.” The above is the way of developing
the mind of those in the rank of those at the Ten Grounds
Maha-Bodhisattvas, those who complete Enlightenment Maha-Bodhisattva, and
One-Birth Maha-Bodhisattva. And finally, they attain the Ultimate
Enlightenment of Buddhahood with ten designations.
** For more information,
please see Bồ Đề
Tâm, Mười Nhân
Duyên Khiến Chúng
Sanh Phát Tâm Bồ
Đề, and Mười Lý Do
Phát Tâm Bồ Đề.
Tám Đặc Điểm Chính Của Ngộ:
Theo Thiền Sư D.T. Suzuki trong Thiền Luận, Tập II, Thiền sư Đại Huệ vào
thế kỷ thứ 11 đã nêu ra tám đặc điểm chính của ‘Ngộ’—According to Zen
master D.T. Suzuki in the Essays in Zen Buddhism, Zen master Ta-Hui in the
eleventh century mentioned eight chief characteristics of ‘satori.’ In
Zen.
1) Bội
Lý—Irrationality: Chứng ngộ không phải là một kết luận mà người ta đạt
được bằng suy luận; nó coi thường mọi xác định của trí năng. Những ai đã
từng kinh nghiệm điều nầy đều không thể giải thích nó một cách mạch lạc và
hợp lý. Một khi người ta cố tình giải thích nó bằng ngôn từ hay cử chỉ,
thì nội dung của nó đã bị thương tổn ít nhiều. Vì thế, kẻ sơ cơ không thể
vói tới nó bằng những cái hiển hiện bên ngoài, mà những ai đã kinh nghiệm
qua một lần chứng ngộ thì thấy rõ ngay những gì thực sự không phải là nó.
Kinh nghiệm chứng ngộ do đó luôn luôn mang đặc tính ‘bội lý,’ khó giải,
khó truyền. Theo Thiền sư Đại Huệ thì Thiền như là một đống lửa cháy lớn;
khi đến gần nhất định sém mặt. Lại nữa, nó như một lưỡi kiếm sắp rút ra
khỏi vỏ; một khi rút ra thì nhất định có kẻ mất mạng. Nhưng nếu không rút
ra khỏi vỏ, không đến gần lửa thì chẳng hơn gì một cục đá hay một khúc gỗ.
Muốn đến nơi thì phải có một cá tính quả quyết và một tinh thần sung mãn.
Ở đây chẳng có gợi lên một chút suy luận lạnh lùng hay phân biệt thuần túy
siêu hình, nhận thức; mà là một ý chí vô vọng quyết vượt qua chướng ngại
hiểm nghèo, một ý chí được thúc đẩy bởi một năng lực vô lý hay vô thức nào
đó, ở đằng sau nó. Vì vậy, sự thành tựu nầy cũng xem thường luôn cả trí
năng hay tâm tưởng: Satori is not a conclusion to be reached by reasoning,
and defies all intellectual determination. Those who have experienced it
are always at a loss to explain it coherently or logically. When it is
explained at all, either in words or gestures, its content more or less
undergoes a mutilation. The uninitiated are thus unable to grasp it by
what is outwardly visible, while those who have had the experience discern
what is genuine from what is not. The satori experience is thus always
characterized by irrationality, inexplicability, and incommunicability.
Listen to Ta-Hui once more: “This matter or Zen is like a great mass of
fire; when you approach it your face is sure to be scorched. It is again
like a sword about to be drawn; when it is once out of the scrabbard,
someone is sure to lose his life. But if you neither fling away the
scabbard nor approach the fire, you are no better than a piece of rock or
of wood. Coming to this pass, one has to be quite a resolute character
full of spirit. There is nothing here suggestive of cool reasoning and
quiet metaphysical or epistemological analysis, but of a certain desperate
will to break through an insurmountable barrier, of the will impelled by
some irrational or unconscious power behind it. Therefore, the outcome
also defies intellection or conceptualization.
2) Tuệ
Giác—Intuitive insight: Theo Những Kinh Nghiệm Tôn Giáo, James có nêu ra
đặc tính trí năng ở những kinh nghiệm thần bí, và điều nầy cũng áp dụng
cho kinh nghiệm của Thiền, được gọi là ngộ. Một tên khác của ‘ngộ’ là
‘Kiến Tánh,’ có vẻ như muốn nói rằng có sự ‘thấy’ hay ‘cảm thấy’ ở chứng
ngộ. Khỏi cần phải ghi nhận rằng cái thấy nầy khác hẳn với cái mà ta
thường gọi là tri kiến hay nhận thức. Chúng ta được biết rằng Huệ Khả đã
có nói về sự chứng ngộ của mình, được Tổ Bồ Đề Đạt Ma ấn khả như sau:
“Theo sự chứng ngộ của tôi, nó không phải là một cái không hư toàn diện;
nó là tri kiến thích ứng nhất; chỉ có điều là không thể diễn thành lời.”
Về phương diện nầy, Thần Hội nói rõ hơn: “Đặc tính duy nhất của Tri là căn
nguyên của mọi lẽ huyền diệu.” Không có đặc tính trí năng nầy, sự chứng
ngộ mất hết cái gay gắt của nó, bởi vì đây quả thực là đạo lý của chính sự
chứng ngộ. Nên biết rằng cái tri kiến được chứa đựng ở chứng ngộ vừa có
quan hệ với cái phổ biến vừa liên quan đến khía cạnh cá biệt của hiện hữu.
Khi một ngón tay đưa lên, từ cái nhìn của ngộ, cử chỉ nầy không phải chỉ
là hành vi đưa lên mà thôi. Có thể gọi đó là tượng trưng, nhưng sự chứng
ngộ không trỏ vào những gì ở bên ngoài chính cái đó, vì chính cái đó là
cứu cánh. Chứng ngộ là tri kiến về một sự vật cá biệt, và đồng thời, về
thực tại đằng sau sự vật đó, nếu có thể nói là đằng sau: That there is a
quality in mystic experience has been pointed out by James in his
Varieties of Religious Experience, and this applies also to the Zen
experience known as satori. Another name for satori is ‘to see the essence
or nature,’ which apparently proves that there is ‘seeing’ or ‘perceiving’
in satori. That this seeing is of quite a different quality from what is
ordinarily designated as knowledge need not be specifically noticed.
Hui-K’o is reported to have made this statement concerning his satori
which was confirmed by Bodhidharma himself: “As to my satori, it is not a
total annihilation; it is knowledge of the most adequate kind; only it
cannot be expressed in words.” In this respect, Shen-Hui was more
explicit, for he says that “The one character of knowledge is the source
of all mysteries.” Without this noetic quality satori will lose all its
pungency, for it is really the reason of satori itself. It is noteworthy
that the knowledge contained in satori is concerned with something
universal and at the same time with the individual aspect of existence.
When a finger is lifted, the lifting means, from the viewpoint od satori,
far more than the act of lifting. Some may call it symbolic, but satori
does not point to anything beyond itself, being final as it is. Satori is
the knowledge of an individual object and also that of Reality which is,
if we may say so, at the back of it.
3) Tự
Tri—Authoritativeness: Cái tri kiến do ngộ mà có là rốt ráo, không có
thành kết nào của những chứng cứ luận lý có thể bác bỏ nổi. Chỉ thẳng và
chỉ riêng, thế là đủ. Ở đây khả năng của luận lý chỉ là để giải thích điều
đó, để thông diễn điều đó bằng cách đối chiếu với những thứ tri kiến khác
đang tràn ngập trong tâm trí chúng ta. Như thế ngộ là một hình thái của
tri giác, một thứ tri giác nội tại, phát hiện trong phần sâu thẳm nhất của
ý thức. Đó là ý nghĩa của đặc tính tự tri; tức là sự thực tối hậu. Cho
nên người ta thường bảo rằng Thiền giống như uống nước, nóng hay lạnh tự
người uống biết lấy. Tri giác của Thiền là giới hạn cuối cùng của kinh
nghiệm; những kẻ ngoại cuộc không có kinh nghiệm ấy không thể phủ nhận
được: The knowledge realized by satori is final, that no amount of logical
argument can refute it. Being direct and personal it is sufficient unto
itself. All that logic can do here is to explain it, to interpret it in
connection with other kinds of knowledge with which our minds are filled.
Satori is thus a form of perception, an inner perception, which takes
place in the most interior part of consciousness. Hence the sense of
authoritativeness, which means finality. So, it is generally said that Zen
is like drinking water, for it is by one’s self that one knows whether it
is warm or cold. The Zen perception being the last term of experience, it
cannot be denied by outsiders who have no such experience.
4) Khẳng
Nhận—Affirmation: Những gì thuộc tự tri và tối hậu thì không bao giờ có
thể là phủ định. Bởi vì, phủ định chẳng có giá trị gì đối với đời sống
của chúng ta, nó chẳng đưa chúng ta đến đâu hết, nó không phải là một thế
lực đẩy đi và cũng chẳng kéo dừng lại. Mặc dù kinh nghiệm chứng ngộ đôi
khi được diễn tả bằng những từ ngữ phủ định; chính ra, nó là một thái độ
khẳng định nhận hướng đến mọi vật đang hiện hữu; nó chấp nhận mọi vật đang
đến, bất chấp những giá trị đạo đức của chúng. Các nhà Phật học gọi đó là
“Nhẫn,” nghĩa là chấp nhận mọi vật trong khía cạnh tuyệt đối và siêu việt
của chúng, nơi đó, chẳng có dấu vết của nhị biên gì cả. Người ta có thể
bảo đây là chủ trương phiếm thần. Nhưng từ ngữ nầy có một ý nghĩa triết
học quá rõ và không thích hợp ở đây chút nào. Giải thích kiểu đó, kinh
nghiệm của Thiền bị đặt vào những ngộ nhận và ‘ô nhiễm’ không cùng. Trong
bức thơ gửi cho Đạo Tổng, Đại Huệ viết: “Thánh xưa nói rằng Đạo chẳng nhờ
tu, mà chỉ đừng làm ô nhiễm.” Dù nói tâm hay nói tánh đều là ô nhiễm, nói
huyền hay nói diệu đều là ô nhiễm; tọa Thiền tập định là ô nhiễm; trước ý
tư duy là ô nhiễm; mà nay viết nó ra bằng bút giấy cũng là sự ô nhiễm đặc
biệt. Vậy thì, chúng ta phải làm gì để dẫn dắt chính mình và ứng hợp mình
với nó? Cái bửu kiếm của kim cương treo đó đang hăm chặt dứt cái đầu nầy.
Đừng bận tâm đến những thị phi của nhân gian. Tất cả Thiền là thế đó: và
ngay đây hãy tự ứng dụng đi. Thiền là Chân như, là một khẳng nhận bao la
vạn hữu: What is authoritativeness and final can never be negative. For
negation has no value for our life, it leads us nowhere; it is not a power
that urges, nor does it give one a place to rest. Though the satori
experience is sometimes expressed in negative terms, it is essentially an
affirmative attitude towards all things that exist; it accept them as they
come along regardless of their moral values. Buddhists call this patience
(kshanti), or more properly ‘acceptance,’ that is, acceptance of things in
their supra-relative or transcendental aspect where no dualism of whatever
sort avails. Some may say that this is pantheistic. The term, however, has
a definite philosophic meaning and we would not see it used in this
cennection. When so interpreted the Zen experience exposes itself to
endless misunderstandings and '‘defilements.'’Ta-Hui says in his letter to
Miao-Tsung: “An ancient sage says that the Tao itself does not require
special disciplining, only let it not be defiled. We would say to talk
about mind or nature is defiling; to talk about the unfathomable or the
mysterious is defiling; to direct one’s attention to it, to think about
it, is defiling; to be writing about it thus on paper with a brush is
especially defiling. What then shall we have to do in order to get
ourselves oriented, and properly apply ourselves to it? The precious vajra
sword is right here and its purpose is to cut off the head. Do not be
concerned with human questions of right and wrong. All is Zen just as it
is, and right here you are to apply yourself. Zen is Suchness, a grand
affirmation.
5) Siêu
Việt—Sense of the Beyond: Thuật ngữ có thể sai biệt trong các tôn giáo
khác nhau, nhưng trong chứng ngộ luôn luôn có điều mà chúng ta có thể gọi
là một cảm quan siêu việt. Cái vỏ cá biệt bao phủ chặt cứng nhân cách sẽ
vỡ tung trong giây phút chứng ngộ. Điều thiết yếu là không phải mình được
hợp nhất với một thực thể lớn hơn mình hay được thu hút vào trong đó,
nhưng cá thể vốn được duy trì chắc cứng và tách biệt hoàn toàn với những
hiện hữu cá biệt khác, bây giờ thoát ra ngoài những gì buộc siết nó, và
hòa tan vào cái không thể mô tả, cái khác hẳn với tập quán thường nhật của
mình. Cảm giác theo sau đó là cảm giác về một sự cởi mở trọn vẹn hay một
sự an nghỉ hoàn toàn, cái cảm giác khi người ta đã rốt ráo đạt đến mục
tiêu. “Trở về quê nhà và lặng lẽ nghỉ ngơi” là một thành ngữ thường được
các Thiền gia dẫn dụng. Câu chuyện đứa con hoang trong Kinh Pháp Hoa và
trong Kinh Kim Cang Tam Muội cũng trỏ vào cái cảm giác mà người ta có ở
giây phút của kinh nghiệm chứng ngộ. Nếu người ta chú trọng về mặt tâm lý
chứng ngộ, thì chúng ta chỉ có thể nói được một điều duy nhất: đó là một
siêu việt; gọi nó là siêu việt tuyệt đối. Ngay chữ siêu việt cũng đã nói
quá đáng rồi. Khi một Thiền sư bảo “Trên đầu không một chiếc nón, dưới
chân không một tất đất, thì đây có lẽ là một thành ngữ chính xác:
Terminology may differ in different religions, and in satori there is
always what we may call a sense of the Beyond; the experience indeed is
my own but I feel it to be rooted elsewhere. The individual shell in which
my personality is so solidly encased explodes at the moment of ‘satori’.
Not necessarily that I get unified with a being greater than myself or
absorbed in it, but that my individuality, which I found rigidly held
together and definitely kept separate from other individual existences,
becomes loosened somehow from its tightening grip and melts away into
something indescribable, something which is of quite a different order
from what I am accustomed to. The feeling that follows is that of a
complete release or a complete rest, the feeling that one has arrived
finally at the destination. ‘Coming home and quietly resting’ is the
expression generally used by Zen followers. The story of the prodigal son
in the Saddharma-pundarika in the Vajra-samadhi points to the same feeling
one has at the moment of a satori experience. As far as the psychology of
satori is considered, a sense of the Beyond is all we can say about it; to
call this the Beyond, the Absolute, or a Person is to go further than the
experience itself and to plunge into a theology or metaphysics. Even the
‘Beyond’ is saying a little too much. When a Zen master says: “There is
not a fragment of a tile above my head, there is not an inch of earth
beneath my feet, the expression seems to be an appropriate once. I have
called it elsewhere the Unconscious, though this has a psychological
taint.
6) Vô
Ngã—Impersonal Tone: Có lẽ khía cạnh đáng chú ý nhất của kinh nghiệm Thiền
là ở chỗ nó không có dấu vết nhân ngã. Trong sự chứng ngộ của Phật giáo,
không hề có chút dính dáng với những quan hệ và xúc cảm cá nhân bằng những
từ ngữ thông diễn dựa trên một hệ thống hữu hạn của tư tưởng; thực tình,
chẳng liên quan gì với chính kinh nghiệm. Dù ở đâu đi nữa, thì sự chứng
ngộ hoàn toàn mang tính cách vô ngã, hay đúng hơn, trí năng tối thượng.
Không những sựï chứng ngộ chỉ là một biến cố bình thường, nhạt nhẽo, mà
cái cơ duyên kích phát như cũng vô vị và thiếu hẳn cảm giác siêu nhiên. Sự
chứng ngộ được kinh nghiệm ngay trong mọi biến cố bình sinh. Nó không xuất
hiện như một hiện tượng phi thường mà người ta thấy ghi chép trong các tác
phẩm thần bí của Thiên Chúa giáo. Khi sự bùng vỡ của tâm trí bạn đã đến
lúc chín mùi, người ta nắm tay bạn, vổ vai bạn, mang cho một chén trà, gây
một chú ý tầm thường nhất, hay đọc một đoạn kinh, một bài thơ, bạn chứng
ngộ tức khắc. Ở đây chẳng có tiếng gọi của Thánh linh, chẳng có sự sung
mãn của Thánh sủng, chẳng có ánh sáng vinh danh nào hết. Và ở đây chẳng
chút sắc màu lộng lẫy; tất cả đều xám xịt, không một chút ấn tượng, không
một chút quyến rũ: Perhaps the most remarkable aspect of the Zen
experience is that it has no personal note in it as is observable in
Christian mystic experiences. There is no reference whatever in Buddhist
satori to such personal feelings. We may say that all the terms are
interpretations based on a definite system of thought and really have
nothing to do with the experience itself. In anywhere satori has remained
thoroughly impersonal, or rather highly intellectual. Not only satori
itself is such a prosaic and non-glorious event, but the occasion that
inspires it also seems to be unromantic and altogether lacking in
super-sensuality. Satori is experienced in connection with any ordinary
occurrence in one’s daily life. It does not appear to be an extraordinary
phenomenon as is recorded in Christian books of mysticism. Sometimes takes
hold of you, or slaps you, or brings you a cup of tea, or makes some most
commonplace remark, or recites some passage from a sutra or from a book of
poetry, and when your mind is ripe for its outburst, you come at once to
satori. There is no voice of the Holy Ghost, no plentitude of Divine
Grace, no glorification of any sort. Here is nothing painted in high
colors, all is grey and extremely unobstrusive and unattractive.
7) Cảm
Giác Siêu Thoát: Feeling of exaltation—See Cảm Giác Siêu Thoát.
8) Đốn
Ngộ Nhất Thời: A momentariness (momentary experience)—See Đốn Ngộ Nhất
Thời.
Tám Điều Bất Tịnh Cho Kẻ Xuất Gia:
Eight things which are unclean to a monk or a nun:
(A) Eight impure things:
1) Mua
đất cho mình thay vì cho Tam bảo: To buy land for self, not for the
monastery.
2) Tà
kiến tu hành: Wrong views in cultivating.
3) Tích
trử tài vật: Storing up wealth.
4) Nuôi
người làm hay nô lệ: Keep servants or slaves.
5) Nuôi
thú với mục đích sát sinh: Keep animals for slaughter.
6) Tích
trử vàng bạc ngọc ngà: Treasuring up gold, silver and ivory.
7) Dùng
đồ trang sức: Utilize ornaments.
8) Dùng
vật dụng cá nhân khác hơn tám món cần thiết (bát sự tùy thân): Utensils
for private use except for the eight appurtenances of a monk (three
garments: tam y, bowl: bát, stool: ghế đẩu, filter: đồ lọc nước, needle
and thread: kim và chỉ, chopper: dao).
(C) Eight
things that monks or nuns are not allowed to possessed:
1) Vàng:
Gold.
2) Bạc:
Silver.
3) Tiền:
Money.
4) Đầy tớ
nam: Manservant.
5) Đầy tớ
nữ: Maidservant.
6) Gia
súc: Domestic animals.
7) Thương
nghiệp: Business.
8) Chà
lúa: Grain seeds.
Tám Điều Cốt Yếu Của Người Tu Tịnh Độ:
Eight crucial elements for Pureland cultivators—Theo Tế Tỉnh Đại Sư, Tổ
thứ 12 của Liên Tông Thập Tam Tổ, có tám điều cốt yếu mà người Phật tử tu
Tịnh Độ cần phải nên ghi nhớ nằm lòng—According to Great Master Ch’i-Sun,
the twelfth of the thirteen Patriarchs of Pureland Buddhism, there are
eight crucial elements all Pureland cultivators must often reflect and
remember:
1) Vì sự
sanh tử mà phát lòng Bồ Đề. Đây là đường lối chung của tất cả những người
học đạo: Because of life and death, developing Bodhi Mind. This should be
the common path of all Buddhists.
2) Dùng
tín nguyện sâu mà trì danh niệm Phật. Đây là chánh tông của pháp môn Tịnh
Độ: Use “deep faith and vow” to practice Buddha Recitation. This is the
essence of the Pureland Dharma Door.
3) Lấy sự
nhiếp tâm chuyên chú mà niệm Phật để làm phương tiện dụng công: Use “focus
and concentration” to recite Buddha as a means to gain rebirth.
4) Lấy sự
chiết phục phiền não hiện hành làm việc quan yếu để tu tâm: Use the matter
of “taming the images and workings of afflictions” as a crucial step in
cultivating the mind.
5) Lấy sự
giữ chắc bốn trọng giới (không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm,
không vọng ngữ) làm căn bản vào đạo: Use the matter of “maintaining the
four grave precepts” (no killing, no stealing, no sexual misconduct, and
no lying) as the fundamental foundations of the cultivated path.
6) Dùng
các thứ khổ hạnh làm trợ duyên để tu hành, đừng quá tham cầu các thứ ngũ
dục: Use the “Ascetic practices” as supports for the cultivated path,
meaning do not become too greedy for the pleasures of the five desires.
7) Lấy sự
nhất tâm bất loạn làm chỗ quy túc của pháp môn Tịnh Độ: Use the “one mind
without distractions” as the ultimate goal of the Pureland Buddhism.
8) Lấy
các điềm lành để làm chứng nghiệm cho sự vãng sanh: Use “wholesome
spiritual achievement” as proofs and validations for gaining rebirth.
Tám Giáo Năm Thời: Eight
Teachings and Five Periods—See Thiên Thai Ngũ Thời Bát Giáo.
Tám Loại Tâm Hành: Eight kinds
of rootless functional consciousness—See Hai Mươi Bốn Tâm Đẹp Cõi Dục Giới
(C).
Tám Loại Tâm Quả: Eight kinds
of wholesome resultant rootless consciousness—See Hai Mươi Bốn Tâm Đẹp Cõi
Dục Giới (B).
Tám Loại Tâm Thiện: Eight kinds
of wholesome consciousness—See Hai Mươi Bốn Tâm Đẹp Cõi Dục Giới (A).
Tám Lý Do Một Vị Bồ Tát Không Nên Ăn Thịt
Được Nêu Ra Trong Kinh Lăng Già: Theo Thiền Sư D.T. Suzuki
trong Nghiên Cứu Kinh Lăng Già, có tám lý do không nên ăn thịt được nêu ra
trong Kinh Lăng Già—According to Zen Master Suzuki in Studies in The
Lankavatara Sutra, there are eight reasons for not eating animal food as
recounted in The Lankavatara Sutra:
1) Tất cả
chúng sanh hữu tình đều luôn luôn trải qua những vòng luân hồi và có thể
có liên hệ với nhau trong mọi hình thức. Một số chúng sanh đó rất có thể
giờ đang sống dưới hình thức những con vật thấp kém. Trong khi hiện tại
chúng đang khác với chúng ta, tất cả chúng đều cùng một loại với ta. Giết
và ăn thịt chúng tức là giết hại chúng ta vậy. Con người không thể cảm
nhận điều nầy nếu họ quá nhẫn tâm. Khi hiểu được sự kiện nầy thì ngay cả
các loài La Sát cũng không nở ăn thịt chúng sanh. Một vị Bồ Tát xem chúng
sanh như con một của mình, không thể mê đắm trong việc ăn thịt: All
sentient beings are constantly going through a cycle of transmigration and
stand to one another in every possible form of relationship. Some of these
are living at present even as the lower animals. While they so differ from
us now, they all are of the same kind as ourselves. To take their lives
and eat their flesh is like eating our own. Human feelings cannot stand
this unless one is quite callous. When this fact is realized even the
Rakshasas may cease from eating meat. The Bodhisattva who regards all
beings as if they were his only child cannot indulge in flesh-eating.
2) Cốt
tủy của Bồ Tát đạo là lòng đại bi, vì nếu không có lòng đại bi thì Bồ Tát
không còn là Bồ Tát nữa. Do đó kẻ nào xem người khác như là chính mình và
có ý tưởng thương xót là làm lợi ích cho kẻ khác cũng như cho chính mình,
thì kẻ ấy không ăn thịt. Vị Bồ Tát vì chơn lý nên hy sinh thân thể, đời
sống, và tài sản của mình; vị ấy không ham muốn gì cả; vị ấy đầy lòng từ
bi đối với tất cả chúng sanh hữu tình và sẵn sàng tích lũy thiện hạnh,
thanh tịnh và tự tại đối với sự phân biệt sai lầm, thì làm sao vị ấy có
thể có sự ham ăn thịt được? Làm sao vị ấy có thể mắc phải những thói quen
ác hại của các loài ăn thịt được?: The essence of Bodhisattvaship is a
great compassionate heart, for without this the Bodhisattva looses his
being. Therefore, he who regards others as if they were himself, and whose
pitying thought is to benefit others as well as himself, ought not to eat
meat. He is willing for the sake of the truth to sacrifice himself, his
body, his life, his property; he has no greed for anything; and full of
compassion towards all sentient beings and ready to store up good merit,
pure and free from wrong discrimination, how can he have any longing for
meat? How can he be affected by the evil habits of the carnivorous races?
3) Thói
quen ăn thịt tàn nhẫn nầy làm thay đổi toàn bộ dáng vẻ đặc trưng của một
vị Bồ Tát, khiến da của vị ấy phát ra một mùi hôi thối khó chịu và độc
hại. Những con vật khá nhạy bén để cảm thấy sự đến gần của một người như
vậy, một người mà tự thân giống như loài La Sát, và chúng sẽ sợ hãi mà
tránh xa. Do đó, ai bước vào con đường từ bi phải nên tránh việc ăn thịt:
This cruel habit of eating meat causes an entire transformation in the
features of a Bodhisattva, whose skin emits an offensive and poisonous
odour. The animals are keen enough to sense the approach of such a person,
a person who is like a Rakshasa himself, and would be frightened and run
away from him. He who walks in compassion, therefore, ought not to eat
meat.
4) Nhiệm
vụ của một vị Bồ Tát là tạo ra thiện tâm và cái nhìn thân ái về giáo lý
nhà Phật giữa các chúng sanh thân thiết của ngài. Nếu họ thấy ngài ăn thịt
và gây kinh hãi cho thú vật, thì tâm của họ tự nhiên sẽ tránh xa vị ấy và
cũng tránh xa giáo lý mà vị ấy đang thuyết giảng. Kế đó họ sẽ mất niềm tin
về Phật giáo: The mission of a Bodhisattva is to create among his
fellow-beings a kindly heart and friendly regard for Buddhist teaching. If
they see him eating meat and causing terror among animals, their hearts
will naturally turn away from him and from the teaching he professes. They
will then loose faith in Buddhism.
5) Nếu vị
Bồ Tát mà ăn thịt thì vị ấy sẽ không thể nào đạt được cứu cánh mình muốn,
vì vị ấy sẽ bị chư Thiên, những vị ái mộ và bảo hộ, ghét bỏ. Miệng của vị
ấy sẽ có mùi hôi, vị ấy có thể ngủ không yên; khi thức dậy, vị ấy không
cảm thấy sảng khoái; những giấc mộng của vị ấy sẽ đầy dẫy những điều bất
tường; khi vị ấy ở một nơi vắng vẻ riêng biệt một mình trong rừng, vị ấy
sẽ bị ác quỷ ám ảnh; vị ấy sẽ bị rối ren loạn động; khi có một chút kích
thích là vị ấy hoảng sợ; vị ấy sẽ luôn bệnh hoạn, không có khẩu vị riêng,
cũng như không có sự tương đồng giữa việc ăn uống và tiêu hóa; quá trình
tu tập tâm linh của vị ấy luôn bị gián đoạn. Do đó ai muốn làm lợi mình
và lợi người trong sự tu tập tâm linh, đừng nên nghĩ đến việc ăn thịt thú
vật: If a Bodhisattva eats meat, he cannot attain the end he wishes; for
he will be alienated by the Devas, the heavenly beings who are his
spiritual sympathizers and protectors. His mouth will smell bad; he may
not sleep soundly; when he awakes he is not refreshed; his dreams are
filled with inauspicious omens; when he is in a deserted place, all alone
in the woods, he will be haunted by evil spirits; he will be nervous,
excitable at least provocations; he will be sickly, have no proper taste,
digestion, nor assimilation; the course of his spiritual discipline will
be constantly interrupted. Therefore, he who is intent on benefitting
himself and others in their spiritual progress, ought not to think of
partaking of animal flesh.
6) Thịt
của thú vật dơ bẩn, chẳng sạch sẽ chút nào để làm nguồn dinh dưỡng cho một
vị Bồ Tát. Nó đã hư hoại, thối rữa và dơ bẩn. Nó đầy cả ô uế và khi bị đốt
nó phát ra mùi làm tổn hại bất cứ ai có sở thích tinh tế về các thứ thuộc
về tâm linh: Animal food is filthy, not at all clean as a nourishing
agency for the Bodhisattva. It readily decays, putrefies, and taints. It
is filled with pollutions, and the odour of it when burned is enough to
injure anybody with refined taste for things spiritual.
7) Về mặt
tâm linh, người ăn thịt chia xẻ sự ô uế nầy. Khi xưa khi vua Sư Tử Tô Đà
Bà vốn thích ăn thịt, khi ông bắt đầu ăn thịt người làm cho thần dân của
ông chán ghét. Ông bị đuổi ra khỏi vương quốc của chính ông. Thích Đề Hoàn
Nhân, một vị Trời, có lần biến thành một con diều hâu và đuổi theo một con
bồ câu, do bởi ông có một quá khứ dơ bẩn là đã từng là một kẻ ăn thịt. Sự
ăn thịt không những làm ô uế cuộc sống cá nhân, mà nó còn làm ô uế cuộc
sống của con cháu sau nầy nữa: The eater of meat shares in this
pollution, spiritualy. Once King Sinhasaudasa who was fond of eating meat
began to eat human flesh, and this alienated the affections of his people.
He was thrown out of his own kingdom. Sakrendra, a celestial being, once
turned himself into a hawk and chased a dove because of his past taint as
a meat-eater. Meat-eating not only thus pollutes the life of the
individual concerned, but also his descendants.
8) Đồ ăn
thích hợp của một vị Bồ Tát mà tất cả hàng Thánh Hiền đi theo chân lý
trước đây đều công nhận là gạo, lúa mì, lúa mạch, tất cả các thứ đậu, bơ
lọc, dầu, mật, và đường được làm theo nhiều cách. Ở chỗ nào không có sự ăn
thịt, sẽ không có người đồ tể sát hại đời sống của chúng sanh và sẽ không
có ai phạm những hành động nhẫn tâm trong thế giới nầy: The proper food of
a Bodhisattva, as was adopted by all the previous saintly followers of
truth, is rice, barley, wheat, all kinds of beans, clarified butter, oil,
honey, molasses and sugar prepared in various ways. Where no meat is
eaten, there will be no butchers taking the lives of living creatures, and
no unsympathetic deeds will be committed in the world.
Tám Món Cần Dùng Của Phật: The
eight requisites (Attha Parikkhara):
1) Y Tăng
già lê: The double robe.
2) Y vai
trái: The upper robe.
3) Y nội:
Under robe.
4) Bình
bát: Bowl.
5) Dao:
Knife.
6) Kim
may: Needle.
7) Dây
nịt: Belt.
8) Đồ lọc
nước: Strainer or filter.
Tám Muôn Tế Hạnh: Eighty
thousand minute conducts—Tám muôn tế hạnh là 80.000 cái hạnh vi tế của
người xuất gia. Tám muôn tế hạnh phát xuất từ 250 giới cụ túc của chúng Tỳ
Kheo mà thành như sau—Eighty thousand minute conducts are the extremely
small conducts of a religious figure. The eighty thousand tiny conducts
originate from the 250 Bhiksu Precepts as follows:
1) Lấy ba
ngàn oai nghi nhơn cho Thân Tam và Khẩu Tứ (See Thân Tam Khẩu Tứ Ý Tam)
thành 21.000 tế hạnh—Taking three thousand demeanors to multiply with the
three commandments dealing with the body plus the four commandments
dealing with speech to make 21,000 tiny conducts.
2) Lấy
21.000 tế hạnh nhơn cho Ý Tam và Mạt Na Thức (see Thân Tam Khẩu Tứ Ý Tam,
và Mạt Na Thức) thành ra 84.000—Taking 21,000 tiny conducts to multiply
with three commandments dealing with the mind plus one dealing with the
Manas to make 84,000 tiny conducts.
** For more information please see Ba Ngàn Oai Nghi, Thân Tam Khẩu Tứ Ý
Tam, and Mạt Na Thức.
Tám Mươi Bốn Ngàn Pháp Môn:
Eighty-four thousand dharma-doors.
Tám Mươi Bốn Ngàn Tướng Hảo Của Phật:
Eighty-four thousand signs of perfection of a Buddha.
Tám Nghĩa Của Duy Tâm: Học
thuyết Duy Tâm trải suốt trong Kinh Lăng Già. Hiểu được nó là thể nghiệm
được chân lý tối hậu và không hiểu nó là tiếp tục luân hồi sanh tử. Kinh
Lăng Già đặt nhiều sự nhấn mạnh vào tầm quan trọng của học thuyết nầy, quả
thực, quá nhiều đến nỗi nó làm cho mọi sự đều xoay quanh sự cứu độ thế
giới, chứ không nói đến những gì thuộc về cá nhân. Đức Phật dạy về tám ý
nghĩa của Duy Tâm như sau—The doctrine of “Mind-Only” runs through the
Lankavatara Sutra as if it were wrap and weft (sợi ngang) of the sutra. To
understand it is to realize the ultimate truth, and not to understand it
is to transmigrate through many cycles of births and deaths. The sutra lay
much emphasis on the importance of the doctrine, so much, indeed, that it
makes everything hinge on this one point of the salvation of the world,
not to say anything of the individual. The Buddha taught about the eight
meanings of “Mind-only” as follows:
1) Nghĩa
thứ nhất—The first meaning:
a) Duy
Tâm dẫn đến sự thể chứng tối hậu. Đức Phật dạy Mahamati: “Này Mahamati,
ngôn ngữ không phải là chân lý tối hậu. Tại sao? Vì chân lý tối hậu là
điều mà người ta ưa thích; nhờ vào ngôn thuyết mà người ta có thể nhập vào
chân lý, nhưng từ ngữ tự chúng không phải là chân lý. Chân lý là sự tự
chứng được kinh nghiệm một cách nội tại bởi người trí bằng trí tuệ tối
thượng của họ, chứ không thuộc phạm vi của ngôn từ, phân biệt hay trí
thức; và do đó, phân biệt không mở được cái chân lý tối hậu: The
“Mind-only” leads to the realization of the ultimate truth. Oh Mahamati,
language is not the ultimate truth; what is attainable by language is not
the ultimate truth. Why? Because the ultimate truth is what is enjoyed by
the wise; by means of speech one can enter into the truth, but words
themselves are not the truth. It is the self-realization inwardly
experienced by the wise through their supreme wisdom, and does not belong
to the domain of words, discrimination, or intelligence; and, therefore,
discrimination does not reveal the ultimate truth itself.
b) Này
Mahamati, ngôn ngữ phải chịu sự sinh và diệt, không ổn cố, ảnh hưởng lẫn
nhau, được tạo ra theo luật nhân quả, nhưng chân lý tối hậu không phải là
những gì ảnh hưởng lẫn nhau hay được tạo ra theo luật nhân quả, cũng
không phải phát sinh từ những điều kiện như thế, vì nó vượt lên trên mọi
khía cạnh của tính tương đối, và văn tự không thể tạo ra được chân lý, vì
chân lý tối hậu là phù hợp với cái kiến giải cho rằng thế giới sở kiến
chính là cái tâm của chúng ta, và vì không có những sự vật bên ngoài như
thế xuất hiện trong những khía cạnh đa dạng của đặc thù nên chân lý tối
hậu không bị ảnh hưởng của phân biệt: Moreover, oh Mahamati, language is
subject to birth and destruction, is unsteady, mutually conditioned, and
produced according to the law of causation; and what is mutually
conditioning to the law of causation, and produced according to the law of
causation is not the ultimate truth, nor does it come out of such
conditions, for it is above aspects of relativity, and words are incapable
of producing it, and again as the ultimate truth is in conformity with the
view that the visible world is no more than our mind, and as there are no
such external objects appearing in their multifarious aspects of
individuation, the ultimate truth is not subject to discrimination.
c) Này
Mahamati, khi một người nhìn thấy trú xứ của thực tính mà ở đấy tất cả các
sự vật hiện hữu thì người ấy thể nhập cái chân lý rằng những gì xuất hiện
ra trước người ấy không khác gì hơn chính cái tâm: Oh, Mahamati, when a
man sees into the abode of reality where all things are, he enters upon
the truth that what appears to him is not other than mind itself.
2) Ý
nghĩa thứ hai—The second meaning: Duy tâm được thủ nhiếp bằng ý tưởng
thuần túy. Cái trí tuyệt đối hay trí Bát Nhã không thuộc về hai thừa. Thực
ra nó không dính dáng gì đến các sự vật đặc thù; hàng Thanh Văn bị ràng
buộc vào cái ý niệm “hữu;” trí tuyệt đối thanh tịnh trong bản thể thuộc
Như Lai, bậc đã thể nhập Duy Tâm: The Mind-only is grasped by pure
thought. Absolute intelligence or prajna does not belong to the two
Vehicles. It has, indeed, nothing to do with particular objects; the
Sravakas are attached to the notion of being; absolute intelligence, pure
in essence, belonging to the Tathagata who has entered upon the
“Mind-Only.”
3) Ý
nghĩa thứ ba—The third meaning:
a) Chư Bồ
Tát không nhập Niết Bàn do vì chư vị thông hiểu cái chân lý của Duy Tâm.
Tất cả những hành động khác nhau trong ba cõi (tam giới—traidhatuka) như
thăng lên từng địa trong sự tu tập của vị Bồ Tát và tinh tấn vững vàng
của vị ấy đều chỉ là những biểu hiện của Tâm: Bodhisattvas do not enter
into Nirvana because of their understanding of the truth of the
“Mind-Only.” All the various doings in the triple world such as the
grading of stages in the discipline of Bodhisattva and his steady
promotion are nothing but the manifestations of Mind.
b) Người
ngu không hiểu điều nầy, do đó mà chư Phật nói đến tất cả những thứ ấy.
Lại nữa, hàng Thanh Văn và Bích Chi, khi đạt đến địa thứ tám, trở nên quá
mê đắm về hạnh phúc của sự tịch tịnh của tâm hay tận diệt định đến nỗi họ
không thể hiểu được rằng cái sở kiến không là gì khác hơn cái tâm. Họ
đang còn trong lãnh vực của đặc thù, cái tuệ kiến thâm nhập thực tính của
họ chưa thanh tịnh: This is not understood by the ignorant, therefore all
these things are taught by the Buddhas. And again, the Sravakas and the
Pratyekabuddhas, when they reach the eighth stage, become so intoxicated
with the bliss of mental tranquility (nirodha-samapatti) that they fail to
realize that the visible is nothing but the Mind. They are still in the
realm of individuation, their insight into reality is not yet pure
(vivikta).
c) Mặt
khác, chư Bồ Tát ý thức về các bổn nguyện của mình, những bổn nguyện phát
sinh từ trái tim từ ái bao trùm hết thảy của mình; chư vị không nhập Niết
Bàn; chư vị biết rằng thế giới sở kiến chỉ là sự biểu hiện của chính cái
Tâm; chư vị thoát khỏi những ý niệm như tâm, ý, và ý thức, thế giới bên
ngoài, ngã thể, và những dấu hiệu phân biệt: The Bodhisattvas, on the
other hand, are alive to their original vows flowing out of their
all-embracing loving hearts; they do not enter into Nirvana; they know
that the visible world is nothing but the manifestation of Mind itself;
they are free from such ideas as mind (citta), will (manas), consciousness
(manovijnana), external world, self-substance, and distinguising marks.
4) Ý
nghĩa thứ tư—The fourth meaning: Duy Tâm và cái quan niệm nhị biên về hữu
và phi hữu phát sinh từ phân biệt sai lầm thì đối lập với nhau, và không
thể dung hòa cho đến khi cái quan niệm nhị biên ấy bị hút vào trong Duy
Tâm. Giáo lý của Duy Tâm, nói theo tri thức luận, là trỏ vào sự sai lạc
của một thế giới quan được đặt căn bản trên phân biệt để đưa chúng ta quay
vào trong cách nhận thức đúng đắn cái thực tính đúng như thực tính: “Vì
người ngu và kẻ thiếu trí không hiểu giáo lý của Duy Tâm, nên họ bị ràng
buộc vào các sự vật bên ngoài; họ đi từ hình thức phân biệt nầy sang hình
thức phân biệt khác, như cái nhìn nhị biên tính về hữu và phi hữu, đồng và
dị, vừa đồng vừa dị, thường và vô thường, ngã thể, tập khí, nhân duyên,
vân vân. Sau khi phân biệt những ý niệm nầy, họ tiếp tục chấp vào chúng
như là thực một cách khách quan và không thay đổi, giống như những con vật
kia, bị cơn khát trong mùa hè lôi cuốn mà chạy ào vào những con suối tưởng
tượng. Nghĩ rằng các thành tố chủ yếu hay những thành tố đầu tiên hiện hữu
thực sự là do bởi phân biệt sai lầm chứ không có gì khác nữa. Khi chân lý
Duy Tâm được hiểu thì không có sự vật bên ngoài nào được nhìn thấy, tất cả
các sự vật ấy đều do bởi phân biệt về những gì mà người ta nhìn thấy trong
cái tâm của chính mình—The Mind-Only and the dualistic conception of being
and non-being, which is the outcome of wrong discrimination (vikalpa),
stand opposite to each other, and are irreconcilable until the latter is
absorbed into the former. Its teaching, intellectually speaking, is to
show the fallacy of a world-conception based on discrimination, or rather
upon wrong discrimination, in order to get us back into the right way of
comprehending reality as it is. “As the ignorant and unenlightened do not
comprehend the teaching of the Mind-Only, they are attached to a variety
of external objects; they go from one form of discrimination to another,
such as the duality of being and non-being, oneness and otherness,
bothness and non-bothness, permanence and impermanence, self-substance,
habit-energy, causation, etc. After discriminating these notions, they go
on clinging to them as objctively real and unchangeable, like those
animals who, driven by thirst in the summer-time, run wildly after
imaginary spring. To think that primary elements really exist is due to
wrong discrimination and nothing else. When the truth of the Mind-Only is
understood, there are no external objects to be seen; they are all due to
the discrimination of what one sees in one’s own mind.
5) Ý
nghĩa thứ năm—The fifth meaning: Không hiểu Duy Tâm đưa người ta đến chỗ
luân hồi mãi mãi. Vì các triết gia ngoại đạo không thể vượt khỏi nhị biên
nên họ làm tổn hại không những cho chính mình, mà cả cho những người ngu
nữa. Cứ liên tục quanh quẩn trong lục đạo, từ sự hiện hữu nầy đến sự hiệu
hữu khác, mà không hiểu rằng những gì được nhìn thấy chỉ là cái tâm của
chính họ và chấp vào cái ý niệm rằng các sự vật bên ngoài là có ngã thể,
họ không thể thoát khỏi phân biệt sai lầm—Not to understand the Mind-Only
leads one to eternal transmigrations. As the philosophers fail to go
beyond dualism, they hurt not only themselves but also the ignorant. Going
around continually from one path of existence to another, not
understanding what is seen is no more than their own mind, and adhering to
the notion that things externals are endowed with self-substance, they are
unable to free themselves from wrong discrimination.
6) Ý
nghĩa thứ sáu—The sixth meaning: Sự sinh khởi của A Lại Da Thức là do bởi
chúng ta tưởng những biểu hiện của tâm là một thế giới của những thực tính
khách quan. Ký thật, A Lại Da thức là chủ thể (nhân) và khách thể (duyên)
của chính nó; và nó chấp vào một thế giới của những biểu hiện tâm thức của
chính nó, một hệ thống tâm thức phát sinh mà gây ảnh hưởng lẫn nhau. Giống
như sóng biển bị gió quấy động; tức là, một thế giới được làm thành khả
kiến bởi chính cái tâm mà trong đó những cơn sóng tâm thức đến và đi. Đây
là một thí dụ hay đối với những người theo Phật Giáo Đại Thừa—The rising
of the Alaya is due to our taking the manifestations of the mind for a
world of objective realities. The Alayavijnana is its own subject (cause)
and object (support); and it clings to a world of its own mental
presentations, a system of mentality that evolves mutually conditioning.
It is like the waves of the ocean, stirred by the wind; that is, a world
made visible by Mind itself where the mental waves come and go. This
ocean-and-waves simile is a favorite one with Mahayana Buddhists.
7) Ý
nghĩa thứ bảy—The seventh meaning: Như thế chúng ta thấy rằng không có gì
trên thế giới là không phải của tâm, do đấy mà có học thuyết Duy Tâm. Và
điều nầy áp dụng với sự nhấn mạnh đặc biệt vào tất cả mọi tranh cãi có
tính cách luận lý là những thứ mà theo Kinh Lăng Già, chỉ là những chế tạo
có tính cách chủ quan suông mà thôi: thân thể, tài sản và nhà cửa, những
thứ nầy không gì khác hơn là những cái bóng của tâm, người ngu không hiểu
điều ấy. Họ khẳng định hay kiến lập, hay bác bỏ, bài báng, và sở dĩ như
thế là do bởi cái Tâm mà thôi, ngoài cái Tâm này thì không thể có cái gì
nữa. Ngay cả các cấp độ tâm linh của quả vị Bồ Tát cũng chỉ là những phản
ảnh của Tâm: “Các trú xứ của Phật và các cõi Phật đều thuộc Tâm mà thôi,
trong đó không có những cái bóng nào; tức là không có những gì do chư Phật
quá khứ, hiện tại và vị lai thuyết giảng—Thus we see that there is nothing
in the world that is not of the mind, hence the Mind-Only doctrine. And
this applies with especial emphasis to all logical controversies, which,
according to the Lankavatara Sutra, are more subjective fabrications. The
body, property, and abode, these are no more than the shadows of Mind
(citta), the ignorant do not understand it. They make assertions
(samaropa) or refutations (apavada), and this elaboration is due to
Mind-Only, apart from which nothing is obtainable. Even the spiritual
stages of Bodhisattvahood are merely the reflections of mind. The
Buddha-abodes and the Buddha-stages are of Mind only in which there are
no shadows; that is what is taught by the Buddhas past, present, and
future.
8) Ý
nghĩa thứ tám—The eighth meaning: Khi tất cả các hình tướng đặc thù bị
chối bỏ sẽ xãy ra một sự đột chuyển trong tâm ta, và chúng ta thấy cái
chân lý rằng: “Ngay từ lúc khởi đầu, không có cái gì ngoài tâm và từ đó
chúng ta được giải thoát khỏi những trói buộc của sự phân biệt sai lầm:
When all forms of individuation are negated, there takes place a
revulsion (paravritti) in our minds, and we see that the truth that there
is nothing but Mind from the very beginning and thereby we are emancipated
from the fetters of wrong discrimination.
Tám (Hạng) Người Đáng Cung Kính:
Eight persons worthy of offerings—Theo Kinh Phúng Tụng trong Trường Bộ
Kinh, có tám loại người đáng được cung kính—According to the Sangiti Sutta
in the Long Discourses of the Buddha, there are eight persons worthy of
offerings:
1) Hạng
đã thành tựu Dự Lưu quả: The Stream-Winner .
2) Hạng
đang thành tựu Dự Lưu quả: One who has practiced to gain the fruit of
Stream-Entry.
3) Hạng
đã thành tựu Nhất Lai quả: The Once-Returner.
4) Hạng
đang thành tựu Nhất Lai quả: One who has practiced to gain the fruit of
Once-returner.
5) Hạng
đã thành tựu Bất Lai quả: The Non-Returner.
6) Hạng
đang thành tựu Bất Lai quả: One who has practiced to gain the fruit of
Non-Returner.
7) Hạng
đã thành tựu A-La-Hán quả: The Arahant.
8) Hạng
đang thành tựu A-La-Hán quả: One who has worked to gain the fruit of
Arahantship.
** For more information,
please see Tứ
Thánh Quả.
Tám Pháp Đưa Đến Sự Đoạn Tận:
Theo Kinh Potaliya trong Trung Bộ Kinh, có tám pháp đưa đến sự đoạn
tận—According to the Potaliya Sutta in the Middle Length Discourses of the
Buddha, there are eight things in the Noble One’s Discipline that lead to
the cutting off of affairs:
1) “Y cứ
không sát sanh, sát sanh cần phải từ bỏ”: Do duyên gì, lời nói như vậy
được nói lên? Ở đây, nầy gia chủ, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau: “Do
nhơn những kiết sử nào ta có thể sát sanh, ta đoạn tận, thành tựu sự từ bỏ
các kiết sử ấy. Nếu ta sát sanh, không những ta tự trách mắng ta vì duyên
sát sanh, mà các bậc có trí, sau khi tìm hiểu, cũng sẽ khiển trách ta vì
duyên sát sanh, và sau khi thân hoại mạng chung, ác thú sẽ chờ đợi ta, vì
duyên sát sanh. Thật là một kiết sử, thật là một triền cái, chính sự sát
sanh nầy. Những lậu hoặc, phiền lao nhiệt não nào có thể khởi lên, do
duyên sát sanh, đối với vị đã từ bỏ sát sanh, những lậu hoặc, phiền lao
nhiệt não như vậy không còn nữa.” Y cứ không sát sanh, sát sanh cần phải
từ bỏ,” do duyên như vậy, lời nói như vậy được nói lên: “With the support
of the non-killing of living beings, the killing of living beings is to be
abandoned.” So it was said. And with reference to what was this said? Here
a noble disciple considers thus: ‘I am practicing the way to abandoning
and cutting off of those fetters because of which I might kill living
beings. If I were to kill living beings, I would blame myself for doing
so; the wise, having investigated, would censure me for doing so; and on
the dissolution of the body, after death, because of killing living beings
an unhappy destination would be expected. But this killing of living
beings is itself a fetter and a hindrance. And while taints, vexation, and
fever might arise through the killing of living beings, there are no
taints, vexation, and fever in one who abstains from killing living
beings.’ So it is with reference to this that it was said: “With the
support of the non-killing of living beings, the killing of living beings
is to be abandoned."
2) “Y cứ
không lấy của không cho, lấy của không cho cần phải từ bỏ.”—“With the
support of taking only what is given, the taking of what is not given is
to be abandoned.” (the rest remains the same as in 1).
3) “Y cứ
nói lời chân thật, nói láo cần phải từ bỏ.”—“With the support of truthful
speech, false speech is to be abandoned.” (the rest remains the same as in
1).
4) “Y cứ
không nói hai lưỡi, nói hai lưỡi cần phải từ bỏ.”—“With the support
unmalicious speech, malicious speech is to be abandoned.” (the rest
remains the same as in 1).
5) “Y cứ
không tham dục, tham dục cần phải từ bỏ.”—“With the support of refraining
from rapacious greed, rapacious greed is to be abandoned.” (the rest
remains the same as in 1).
6) “Y cứ
không hủy báng sân hận, hủy báng sân hận cần phải từ bỏ.”—“With the
support of refraining from spiteful scolding, spiteful scolding is to be
abandoned.” (the rest remains the same as in 1).
7) “Y cứ
không phẫn não, phẫn não cần phải từ bỏ.”—“With the support of refraining
from angry despair, angry despair is to be abandoned.” (the rest remains
the same as in 1).
8) “Y cứ
không quá mạn, quá mạn cần phải từ bỏ.”—“With the support of
non-arrogance, arrogance is to be abandoned.” (the rest remains the same
as in 1).
Tám Pháp Thế Gian: Attha
loka-dharma (skt)—The eight worldly conditions which are inseparable from
life—See Bát Phong.
Tám Phẩm Chất Của Người Nữ Có Thể Giúp Đưa
Người Ấy Lên Các Cảnh Trời: Trong một vài dịp giảng cho bà
Visakha, Đức Phật đã đề cập đến tám phẩm chất có thể giúp người nữ sanh
lên các cảnh trời—On various occasions, the Buddha mentioned to Visakha
the eight qualities that make a woman seek birth in happy states; or she
will be born again where lovely devas dwell.
1) Tích
cực hoạt động, luôn luôn dịu dàng chìu chuộng chồng: Always active, and
alert to cherish her husband.
2) Dầu
chồng không mang lại tất cả hạnh phúc: Even though he is not the man who
brings her every joy.
3) Không
khi nào dùng lời bất cẩn, nghịch ý, thiếu lễ độ, làm chồng nổi lên sân
giận: She offers slight, nor will a good wife, move to wrath her husband
by some spiteful word.
4) Tôn
trọng tất cả những người được chồng kính nể: She reveres all whom her
husband honour.
5) Vì
nàng là người sáng suốt khôn ngoan, khéo léo, lanh lẹ, thức khuya dậy sớm:
For she is wise, deft, nimble, up bedtimes.
6) Tận
tâm chăm sóc sức khỏe của chồng trong khi chồng làm việc cực nhọc: She
mind his wealth amid his folk at work.
7) Nhã
nhặn hiền hòa: Sweetly orders all.
8) Muốn
những điều chồng muốn và cố làm cho được: Who complies with her husband’s
wish and will.
** For more information,
please see Visakha
in
Sanskrit/Pali-Vietnamese Section.
Tám Phẩm Chất Của Người Nữ Có Thể Tạo An
Vui Hạnh Phúc Trong Đời Hiện Tại Và Cảnh Giới Tương Lai: Trong
Gradual Sayings, Đức Phật đã giảng cho Visakha nghe về tám phẩm chất khiến
cho người nữ được sanh Thiên—In Gradual Sayings, the Buddha commented to
Visakha the eight qualities in a woman that tend to wealth and happiness
in this world and in the next world:
1) Nầy
Visakha, đó là hạnh phúc của người phụ nữ có khả năng làm việc: Herein,
Visakha, a woman is capable at her work.
2) Có khả
năng điều khiển người làm: A woman is capable to manage the servants.
3) Có lối
đối xử dịu dàng và chìu chuộng chồng: In her ways she is lovely to her
husband.
4) Giữ
gìn của cải trong nhà: She guards his wealth.
5) Nầy
Visakha, đó là hạnh phúc của người phụ nữ đã thành công trong niềm tin:
Herein, Visakha, a woman is accomplished in trustful confidence.
6) Thành
công trong giới luật: Accomplished in virtue
7) Thành
công trong lòng quảng đại: Accomplished in charity.
8) Thành
công trong trí tuệ: Accomplished in wisdom.
** For more information,
please see Visakha
in
Sanskrit/Pali-Vietnamese Section.
Tám Tánh Chất Của Biển: The
eight powers of the ocean—See Hải Đức.
Tám Tánh Của Pháp Thân Như Lai:
Eight nature of Dharmakaya—Theo Thiền sư D.T. Suzuki trong Nghiên Cứu Kinh
Lăng Già, ý niệm về Pháp thân không phải không có trong Kinh Lăng Già; tuy
nhiên, ý niệm ấy không được dùng theo ý nghĩa pháp thân của học thuyết Tam
Thân. Lăng Già nói đến Pháp Thân Như Lai, đến Pháp Thân bất khả tư nghì,
và đến Pháp thân như là Ý sinh thân. Pháp thân ấy có tám đặc tính như
sau—According to Zen Master D.T. Suzuki in the “Studies In The Lankavatara
Sutra,” the idea of Dharmakaya is not wanting in the Lankavatara Sutra,
and that it is used not in the same of the Dharmakaya of the Triple Body
dogma. The Lankavatara Sutra speaks of the Tathagata’s Dharmakaya of the
Inconceivable Dharmakaya, and of Dharmakaya as will-body. That
Tathagata’s Dharmakaya has eight special natures as follows:
1) Ở chỗ
nào mà sự đạt Như Lai thân trong các cõi trời được nói đến như là kết quả
của sự hiểu biết những chân lý tâm linh tối thượng thuộc Phật giáo Đại
Thừa, thì tại đấy Pháp thân được dùng kèm với Như Lai như là một cái gì
vượt khỏi bản chất của năm pháp, có được những thứ phát xuất từ Trí tuệ
tối thượng (prajna), và chính nó an trụ trong cảnh giới của những tướng
trạng huyễn ảo (mayavishaya). Ở đây, chúng ta có thể xem tất cả từ Pháp
thân, Như Lai thân, và Như Lai đồng nghĩa với nhau: Where the attainment
of the Tathagatakaya In the heavens is spoken of as the result of the
understanding of the highest spiritual truths belonging to Mahayana
Buddhism, Dharmakaya is used in apposition with Tathagata as something
that transcends the nature of the five Dharmas, being furnished with
things issuing from the highest knowledge, and itself abiding in the realm
of magical appearances. Here we may consider all these terms synonymous,
Dharmakaya, Tathagatakaya, and Tathagata.
2) Như
Lai thân cũng được nói đến khi vị Bồ Tát đạt đến một hình thức thiền định
nào đó mà nhờ đấy vị ấy thấy mình phù hợp với sự như như của các sự vật và
những biến hóa của như như. Như Lai thân được thể chứng khi những hoạt
động tâm linh của vị ấy vận hành một cách có điều kiện ngưng dứt và bấy
giờ xãy ra một sự chuyển biến từ gốc trong tâm thức của vị ấy, thân không
khác gì Pháp thân: Tathagatakaya is referred to also when the Bodhisattva
attains to a certain form of meditation whereby he finds himself in accord
with the suchness of things and its transformations. The Tathagatakaya is
realized when all his mental activities conditionally working are
extinguished and there takes place a radical revolution in his
consciousness. The kaya is no less than the Dharmakaya.
3) Khi vị
Bồ Tát được mô tả như là được đăng quang giống như vị đại vương bởi tất cả
chư Phật, vị ấy đã vượt khỏi Bồ Tát địa sau cùng thì bảo rằng vị ấy cuối
cùng đã thể chứng Pháp thân. Cái thân nầy được định tính là “Tự Tại”
(vasavartin) và được đồng nghĩa với Như Lai trong Phật giáo, tự tại được
dùng trong nghĩa quyền năng tối thượng mà ý muốn là hành động vì không có
gì ngăn chặn trong thể cách điều ngự của quyền năng ấy. Pháp thân ở đây có
thể đồng nhất với Báo Thân, chi phần thứ hai của Tam thân. Ở đây vị Bồ Tát
đang ngồi trên điện Liên Hoa được trang hoàng bằng đủ loại ngọc, được vây
quanh bởi các Bồ Tát có phẩm chất tương tự và bởi tất cả chư Phật duỗi tay
đón nhận. Hẳn không cần phải nói rằng vị Bồ Tát ở đây được miêu tả đã hiểu
cái chân lý Đại Thừa rằng không có tự tánh trong các sự vật ở bên ngoài
hay bên trong, và rằng vị ấy đang an trú trong sự thể chứng viên mãn được
hiển lộ cho tâm thức của ngài ở chỗ thâm sâu nhứt: When the Bodhisattva is
described as being anointed likfe a great sovereign by all the Buddhas as
he goes beyond the final stage of Bodhisattvaship, mention is made of
Dharmakaya which he will finally realize. This kaya is characterized as
“vasavartin” and made synonymous with Tathagata. In Buddhism “vasavartin”
is used in the sense of supreme sovereignty whose will is deed since there
is nothing standing in the way of its ruleship. The Dharmakaya may here be
identified with Sambhogakaya, the second member of the Trikaya. Here the
Bodhisattva is sitting in the Lotus Palace decorated with gems of all
sorts, surrounded by Bodhisattvas of similar qualifications and also by
all the Buddhas whose hands are extended to receive the Bodhisattva here.
It goes without saying that the Bodhisattva here described has
comprehended the Mahayana truth that there is no self-substance in objects
external or internal, and that he is abiding in the full realization of
the truth most inwardly revealed to his consciousness.
4) Ta còn
thấy Pháp thân nối kết với những sản phẩm tinh thần đạt được trong một
cảnh giới của cái tâm hoàn toàn thanh tịnh. Thuật ngữ nầy giờ đây đi kèm
với “acintya,” bất khả tư nghì, cũng như với “vasavartin,” tự tại tính:
Dharmakaya is found again in connection with the moral provisions
obtainable in a realm of pure spirituality. The term is now coupled with
“acintya,” inconceivable, as well as with “vasavartita.”
5) Ở chỗ
nào mà tất cả chư Phật được nói đến như là cùng một tính chất hay bình
đẳng tính (samata) theo bốn cách thì sự bình đẳng của Thân (kayasamata)
được xem là một trong bốn cách ấy. Hết thảy chư Phật vốn là chư Như Lai,
bậc Giác Ngộ, và A La Hán, đều chia xẻ tính chất bình đẳng về mặt Pháp
thân và về sắc thân (rupakaya) của chư vị với ba mươi hai tướng hảo và tám
mươi vẻ đẹp, trừ khi chư vị khoác lấy những hình tướng khác nhau trong
những thế giới khác nhau để giữ cho hết thảy chúng sanh khéo tu tập. Ngoài
cái Pháp thân được bàn đến một cách rõ ràng, chúng ta thấy có Báo Thân
được long trọng hóa bằng tất cả những đặc trưng có tính cách vật lý của
một con người thượng đẳng, và cả Hóa Thân, cái thân biến hóa, đáp ứng với
những yêu cầu của các chúng sanh đang ở riêng trong cảnh giới của họ:
Where all the Buddhas are spoken of as the same character in four ways,
the sameness of the body is regarded as one of them. All the Buddhas who
are Tathagatas, the Enlightened Ones, and the Arhats, shared the nature of
sameness as regards the Dharmakaya and their material body with the
thirty-two marks and the eighty minor ones, except when they assume
diiferent forms in different worlds to keep all beings in good discipline.
Besides the Dharmakaya expressly referred to, we have also Sambhogakaya
solemnized with all the physical features of a superior man; and also the
Nirmanakaya, the Body of Transformation, in response to the needs of
sentient beings who are inhabiting each in his own realm of existence.
6) Bất
sinh (anutpada) được bảo là một tên khác nữa của Pháp Thân do ý sinh của
Như Lai (Như Lai Ý Thành Pháp Thân). Manomaya có nghĩa là được tạo thành
do ý muốn, và như đã được giải thích, một vị Bồ Tát có thể mang nhiều hình
tướng khác nhau tùy theo ý muốn của ngài, thật dễ dàng như người ta dùng ý
nghĩ vượt qua hay vượt lên trên mọi thứ trở ngại vật lý. Thế thì có phải
cái Pháp Thân do ý sanh không nhằm chỉ cái Pháp Thân trong chính nó mà chỉ
là cái Pháp thân trong liên hệ của nó với một thế giới đa phức ở đấy nó có
thể mang những hình tướng mà nó muốn tùy theo hoàn cảnh hay không? Trong
trường hợp Pháp thân được định tính như thế thì nó không khác gì Hóa Thân.
Cho nên chúng ta còn đọc thấy rằng những danh xưng khác của Như Lai là rất
nhiều trong thế giới nầy, thế nhưng các chúng sanh không thể nhận ra được,
ngay cả khi họ nghe được cái danh xưng ấy: No-birth is said to be another
name for the Tathagata’s Manomaya-dharmakaya. Manomaya is “will-made” and
as is explained elsewhere a Bodhisattva is able to assume a variety of
forms according to his wishes just as easily as one can in thought pass
through or over all kinds of physical obstructions. Does then the
"Dharmakaya will-made" mean, not the Dharmakaya in itself, but the
Dharmakaya in its relation to a world of multitudinousness where it may
take any forms it likes according to condition? In this case the
Dharmakaya thus qualified is no other than the Nirmanakaya. So we read
further that the Tathagata’s other names are a legion in this world only
that sentient beings fail to recognize them even when they hear them.
7) Pháp
thân của Như Lai sánh với tính chất bất diệt của cát sông Hằng là thứ bao
giờ cũng vẫn giữ nguyên như thế khi chúng bị bỏ vào lửa. Xa hơn nữa, Kinh
Lăng Già bản dịch thời nhà Đường còn cho rằng Pháp thân không có thân thể
nào cả, vì lý do ấy nên nó không bao giờ bị hủy diệt. Trong Lăng Già bản
Phạn, Pháp thân là xá lợi (sirira hay sariravat), chứ không phải là
Dharmakaya, nhưng theo văn bản thì “Sarira” đồng nghĩa với “Dharmakaya.”
Trong Phật giáo, xá lợi là một cái gì rắn chắc và không thể bị hủy hoại
được sau khi một thi thể bị đốt cháy, và người ta nghĩ rằng chỉ có các
Thánh nhân mới để lại xá lợi mà thôi. Quan niệm nầy có lẽ phát sinh từ sự
suy diễn rằng Pháp thân vẫn sống mãi và tạo thành bản chất tinh linh của
Phật tính: The Tathagata’s Dharmakaya is compared to the indestructibility
of the sands of the Ganges which remain ever the same when they are put in
fire. Further down, the T’ang translation speaks of the Dharmakaya having
no body whatever, and for that reason it is never subject to destruction.
In the Sanskrit text the corresponding term is “sarira” or “sariravat,”
and not Dharmakaya, but from the context we can judge that “sarira” is
here used synonymously with Dahrmakaya. In Buddhism “sarira” is something
solid and indestructible that is left behind when the dead body is
consumed in fire, and it was thought that only holy men leave such
indestructible substance behind. This conception is probably after an
analogy of Dharmakaya forever living and constituting the spiritual
substance of Buddhahood.
8) Cát
sông Hằng, Phật tính của Đức Phật (Buddhasyabuddhatah) thay vì Pháp thân
được làm chủ thể so sánh với cát là những thứ thoát khỏi mọi sai lầm vốn
có trong các sự vật tương đối. Chắc chắn rằng Pháp tính cũng có nghĩa là
Pháp thân của Như Lai, chỉ khác nhau về cách được gán cho mà thôi: The
sands of the Ganges, the Buddha’s Buddhahood instead of Dharmakaya is made
the subject of comparison to the sands which are free from all possible
faults inherent in things relative. There is no doubt that the Buddhata
too means the Dharmakaya of the Tathagata, only differently designated.
Tám Tâm Dục Giới Được Xếp Loại Theo Hỷ Xả
Và Trí Và Nhắc Bảo: Eightfold Consciousness being classified
according to joy, equanimity, knowledge, and prompting.
(A) Bốn tâm
câu hữu với hỷ—Four consciousnesses which are accompanied by joy:
1) Khi
câu hữu với hỷ, tâm ấy hoặc tương ưng với trí, không cần được nhắc bảo.
Thí dụ như khi một người sung sướng vì gặp được một tặng phẩm tuyệt hảo để
làm quà, hay vì gặp được một người nhận, vân vân, hay một nguyên nhân nào
tương tự làm phát sinh hỷ, và đặt chánh kiến lên hàng đầu, như nghĩ rằng
bố thí có công đức lớn, người ấy không do dự, không cần nhắc bảo khi làm
những công đức bố thí, vân vân thì tâm ấy là câu hữu với hỷ, tương ưng với
trí, và không cần nhắc nhở: When accompanied by joy, it is either
associated with knowledge and unprompted. When a man is happy on
encountering an excellent gift to be given, or recipient, etc., or some
such cause for joy, and by placing right view foremost that occurs in the
way beginning ‘there is merit in giving,’ he unhesitatingly and unurged by
others performs such merit as giving, etc., then his consciousness is
accompanied by joy, associated with knowledge, and unprompted.
2) Khi
câu hữu với hỷ, tâm ấy hoặc tương ưng với trí cần được nhắc bảo. Khi một
người sung sướng hài lòng như trên (1), và cũng đặt chánh kiến lên hàng
đầu, nhưng lại làm với sự do dự vì tâm không rộng rãi, hoặc cần được người
khác nhắc bảo, thì tâm ấy thuộc loại câu hữu với hỷ, tương ưng với, nhưng
cần được nhắc bảo: When accompanied by joy, it is either associated with
knowledge and prompted. When a man is happy and content in the way
aforesaid in (1), and, while placing right view foremost, yet he does it
hesitantly through lack of free generosity, etc., or urged on by others,
then, his consciousness is accompanied by joy, associated with knowledge,
but prompted.
3) Khi
câu hữu với hỷ, không tương ưng với trí, không cần nhắc bảo. Như trường
hợp những em bé có thói quen tự nhiên do bắt chước người lớn, khi gặp một
vị sư thì cúng dường, đó là tâm câu hữu với hỷ, không tương ưng với trí và
không cần sự nhắc bảo: When accompanied by joy, it is dissociated from
knowledge and unprompted. In case of young children who have a natural
habit due to seeing the behaviour of relatives and are joyful on seeing
monks and at once give them whatever they have in their hands or pay
homage, this is the consciousness which is accompanied by joy, dissociated
from knowledge, but unprompted.
4) Khi
câu hữu với hỷ, không tương ưng với trí, cần nhắc bảo. Khi một người thấy
người khác cúng dường, cũng muốn hoan hỷ cúng dường, nhưng vì lòng tham
tiếc nên không chịu cúng mà phải đợi nhắc nhở: When accompanied by joy, it
is dissociated from knowledge and prompted. When a man sees other people
offer, he is happy and wants to offer too; however, his stinginess
prevents him from offering. He needs prompting from other people.
(B) Bốn tâm
câu hữu với xả. Khi không có hỷ như trong những trường hợp từ (5) đến
(8), thì những tâm nầy gọi là tâm câu hữu với xả: Four consciousnesses
which are accompanied by equanimity. When the consciousnesses are devoid
of joy, such as the cases from (5) to (8), they are accompanied by
equanimity.
5) Khi
câu hữu với xả, tương ưng với trí, không cần nhắc bảo: When accompanied by
equanimity, it is either associated with knowledge and unprompted.
6) Khi
câu hữu với xả, tương ưng với trí, cần nhắc bảo: When accompanied by
equanimity, it is either associated with knowledge and prompted.
7) Khi
câu hữu với xả, không tương ưng với trí, không cần nhắc bảo: When
accompanied by equanimity, it is dissociated from knowledge and
unprompted.
8) Khi
câu hữu với xả, không tương ưng với trí, cần nhắc bảo: When accompanied by
equanimity, it is dissociated from knowledge and prompted.
Tám Tâm Siêu Thế: Theo A Tỳ Đạt
Ma Luận, có tám loại tâm siêu thế—According to the Abhidharma, there are
eight kinds of supermundane mind.
(A) Bốn Tâm
Thiện Siệu Thế—Four kinds of Supermundane Wholesome Mind:
1) Nhập
Lưu Đạo Thiện Tâm: Sotapatti-maggacittam (p)—Path consciousness of
stream-entry.
a) Tâm
Thiện Nhập Lưu Sơ Thiền, đồng phát sanh với Tầm, Sát, Phỉ, Lạc và Nhất
Điểm: Path consciousness of stream-entry together with initial
application, sustained application, zest, happiness and one-pointedness.
b) Tâm
Thiện Nhập Lưu Nhị Thiền, đồng phát sanh với Sát, Phỉ, Lạc và Nhất Điểm:
Path consciousness of stream-entry together with sustained application,
zest, happiness and one-pointedness.
c) Tâm
Thiện Nhập Lưu Tam Thiền, đồng phát sanh với Phỉ, Lạc và Nhất Điểm: Path
consciousness of stream-entry together with zest, happiness and
one-pointedness.
d) Tâm
Thiện Nhập Lưu Tứ Thiền, đồng phát sanh với Lạc và Nhất Điểm: Path
consciousness of stream-entry together with happiness and one-pointedness.
e) Tâm
Thiện Nhập Lưu Ngũ Thiền, đồng phát sanh với Nhất Điểm: Path consciousness
of stream-entry together with one-pointedness.
2) Nhứt
Lai Đạo Thiện Tâm: Sakadagami-maggacittam (p)—Path consciousness of
once-returning.
a) Tâm
Thiện Nhứt Lai Đạo Sơ Thiền: First Jhana wholesome mind of
once-returning…See second part of (1) (a).
b) Tâm
hiện Nhứt Lai Đạo Nhị Thiền: Second Jhana wholesome mind of
once-returning…See second part of (1) (b).
c) Tâm
Thiện Nhứt Lai Đạo Tam Thiền: Third Jhana wholesome mind of
once-returning…See second part of (1) (c).
d) Tâm
Thiện Nhứt Lai Đạo Tứ Thiền: Fourth Jhana wholesome mind of
once-returning…See second part of (1) (d).
e) Tâm
Thiện Nhứt Lai Đạo Ngũ Thiền: Fifth Jhana wholesome mind of
once-returning…See second part of (1) (e).
3) Bất
Lai Đạo Thiện Tâm: Anagami-maggacittam (p)—Path consciousness of
non-returning.
a) Tâm
Thiện Bất Lai Đạo Sơ Thiền: First Jhana wholesome mind of
non-returning…See second part of (1) (a).
b) Tâm
Thiện Bất Lai Đạo Nhị Thiền: Second Jhana wholesome mind of
non-returning...See second part of (1) (b).
c) Tâm
Thiện Bất Lai Đạo Tam Thiền: Third Jhana wholesome mind of
non-returning…See second part of (1) (c).
d) Tâm
Thiện Bất Lai Đạo Tứ Thiền: Fourth Jhana wholesome mind of
non-returning…See second part of (1) (d).
e) Tâm
Thiện Bất Lai Đạo Ngũ Thiền: Fifth Jhana wholesome mind of
non-returning…See second part of (1) (e).
4) Vô
sanh Đạo Thiện Tâm: Arahatta-maggacittam (p)—Path consciousness of
Arahantship.
a) Tâm
Thiện Vô Sanh Đạo Sơ Thiền: First Jhana wholesome mind of Arahantship…See
Second part of (1) (a).
b) Tâm
Thiện Vô Sanh Đạo Nhị Thiền: Second Jhana wholesome mind of
Arahantship…See second part of (1) (b).
c) Tâm
Thiện Vô Sanh Đạo Tam Thiền: Third Jhana wholesome mind of Arahantship…See
second part of (1) (c).
d) Tâm
Thiện Vô Sanh Đạo Tứ Thiền: Fourth Jhana wholesome mind of Arahantship…See
second part of (1) (d).
e) Tâm
Thiện Vô Sanh Đạo Ngũ Thiền: Fifth Jhana wholesome mind of Arahantship…See
second part of (1) (e).
(B) Bốn Tâm
Quả Siêu Thế—Four kinds of
Supermundane
Resultant Mind:
5) Nhập
Lưu Quả Tâm: Sotapatti-phalacittam (p)—Fruition consciousness of
stream-entry.
a) Tâm
Quả Nhập Lưu Đạo Sơ Thiền, đồng phát sanh cùng Tầm, Sát, Phỉ, Lạc và Nhất
Điểm: First Jhana fruition consciousness of stream-entry together with
initial application, sustained application, zest, happiness and
one-pointedness.
b) Tâm
Quả Nhập Lưu Đạo Nhị Thiền, đồng phát sanh cùng Sát, Phỉ, Lạc và Nhất
Điểm: Second Jhana fruition consciousness of stream-entry together with
sustained application, zest, happiness, and one-pointedness.
c) Tâm
Quả Nhập Lưu Đạo Tam Thiền, đồng phát sanh cùng Phỉ, Lạc và Nhất Điểm:
Third Jhana fruition consciousness of stream-entry together with zest,
happiness and one-pointedness.
d) Tâm
Quả Nhập Lưu Đạo Tứ Thiền, đồng phát sanh cùng Lạc và Nhất Điểm: Fourth
Jhana fruition consciousness of stream-entry together with happiness and
one-pointedness.
e) Tâm
Quả Nhập Lưu Đạo Ngũ Thiền, đồng phát sanh cùng Nhất Điểm: Fifth Jhana
fruition consciousness of stream-entry together with one-pointedness.
6) Nhứt
Lai Quả Tâm: Sakadagami-phalacittam (p)—Fruition consciousness of
once-returning.
a) Tâm
Quả Nhứt Lai Đạo Sơ Thiền: First Jhana fruition consciousness of
once-returning…See second part of (5) (a).
b) Tâm
Quả Nhứt Lai Đạo Nhị Thiền: Second Jhana fruition consciousness of
once-returning…See second part of (5) (b).
c) Tâm
Quả Nhứt Lai Đạo Tam Thiền: Third Jhana fruition consciousness of
once-returning…See second part of (5) (c).
d) Tâm
Quả Nhứt Lai Đạo Tứ Thiền: Fourth Jhana fruition consciousness of
once-returning…See second part of (5) (d).
e) Tâm
Quả Nhứt Lai Đạo Ngũ Thiền: Fifth Jhana fruition consciousness of
once-returning...See second part of (5) (e).
7) Bất
Lai Quả Tâm: Anagami-phalacittam (p)—Fruition consciousness of
non-returning.
a) Tâm
Quả Bất Lai Đạo Sơ Thiền: First Jhana fruition consciousness of
non-returning…See second part of (5) (a).
b) Tâm
Quả Bất Lai Đạo Nhị Thiền: Second Jhana fruition consciousness of
non-returning…See second part of (5) (b).
c) Tâm
Quả Bất Lai Đạo Tam Thiền: Third Jhana fruition consciousness of
non-returning…See second part of (5) (c).
d) Tâm
Quả Bất Lai Đạo Tứ Thiền: Fourth Jhana fruition consciousness of
non-returning…See second part of (5) (d).
e) Tâm
Quả Bất Lai Đạo Ngũ Thiền: Fifth Jhana fruition consciousness of
non-returning…See second part of (5) (e).
8) Vô
Sanh Quả Tâm: Arahatta-phalacittam (p)—Fruition consciousness of
Arahantship.
a) Tâm Vô
Sanh Đạo Sơ Thiền: First Jhana fruition consciousness of Arahantship…See
second part of (5) (a).
b) Tâm Vô
Sanh Đạo Nhị Thiền: Second Jhana fruition consciousness of Arahantship…See
second part of (5) (b).
c) Tâm Vô
Sanh Đạo Tam Thiền: Third Jhana fruition consciousness of Arahantship…See
second part of (5) (c).
d) Tâm Vô
Sanh Đạo Tứ Thiền: Fourth Jhana fruition consciousness of Arahantship…See
second part of (5) (d).
e) Tâm Vô
Sanh Đạo Ngũ Thiền: Fifth Jhana fruition consciousness of Arahantship…See
second part of (5) (e).
Tám Thời Kỳ Trong Cuộc Đời Đức Phật:
Bát Tướng Thành Đạo—Eight aspects (periods) of Buddha’s life:
1) Đâu
Suất lai nghinh tướng: Xuống từ cung trời Đâu Suất—Descend into and abode
in the Tusita heaven—Descending from the Tushita Heaven Palace.
2) Tại
đây thuyết pháp cho chư thiên: Abode there visibly preaching to the devas.
3) Nhập
thai nơi Hoàng Hậu Ma Da: Entry into his mother’s womb (Queen Maha Maya).
4) Phong
Tỳ Ni viên giáng sanh tướng: Giáng sanh tại vườn Lâm Tì Ni—Birth from his
mother’s side in Limbini.
5) Du
thành xuất gia tướng: Xuất gia tu hành năm 19 (or 25) tuổi—Leaving home at
19 (or 25) as a hermit—Leaving the home life.
6) Bồ đề
thọ hạ hàng ma Thành đạo tướng: Thành đạo sau 6 năm khổ hạnh—After six
years suffering, subduing mara and attaining enlightenment—Subduing mara
and accomplishing the Way.
7) Lộc Dã
Uyển chuyển Pháp luân tướng: Chuyển Pháp Luân và Thuyết pháp—Rolling the
Law-wheel or preaching—Turning the Dharma wheel.
8) Nhập
diệt năm 80 tuổi: Entering nirvana (Parinirvana) at the age of 80.
Tám Tướng: Theo Lạt Ma Geshe
Kelsang Gyatso trong Phật Giáo Truyền Thống Đại Thừa, có tám tầng lớp tâm
phát sinh trong giấc ngủ; mỗi tầng lớp có một dấu hiệu riêng—According to
Lama Geshe Kelsang Gyatso in Buddhism in Mahayana Tradition, there are
eight levels of mind development during the sleep process. Each level has
a different sign.
(A) Bốn tướng
đầu tiên được nhận biết bởi những tầng mức tương đối còn thô thiển của cái
tâm vi tế. Trong thân có tứ đại là đất, nước, lửa, và gió. Mỗi đại có một
luồng khí lực đi kèm. Bốn tướng trạng đầu tiên nầy được gọi là bốn dấu
hiệu từ thô đến tế của giấc ngủ—The first four appearances are perceived
by relatively gross levels of the subtle mind. Within the body are four
elements: earth, water, fire and air. Accompanying each element is its
energy wind. The first four signs from gross to subtle which are called
the four appearances of sleeping.
1) Dấu
hiệu đầu tiên là tướng giống như ảo tượng—The first level’s sign is the
mirage-like appearance:
a) Tướng
ảo phát sinh khi luồng khí lực của địa đại tan vào bên trong. Nhưng vì
hiện tại ta chưa thể xử dụng ký ức hay chánh niệm trong khi ngủ, nên ta
không thể nhận ra tướng nầy rõ ràng lắm. Nếu nghiên cứu kỹ bản chất những
tướng nầy, thì có thể ta sẽ nhận ra chúng được—The mirage-like appearance
develops when the energy wind of the earth element dissolves inwardly. But
since at present we cannot use our recollection or mindfulness during
sleep, we cannot recognize these signs or appearances precisely. But if we
carefully study the nature of these signs, it becomes possible to
recognize them.
b) Khi
phát sinh cái tâm nhận ra được tướng ảo tượng, thì tâm này là một tâm
tương đối còn thô. Trong cái tâm vi tế của giấc ngủ, có một số tâm tương
đối thô, một số tương đối vi tế hơn những tâm khác—When we develop the
mind which perceives the mirage-like appearance, this is a relatively
gross mind. Within the subtle mind of sleep, some minds are relatively
more gross and some more subtle than others.
2) Tướng
thứ hai giống như làn khói—The second appearance is the smoke-like
appearance:
a) Tướng
nầy xuất hiện khi luồng khí lực tương ứng với thủy đại tan vào bên trong.
Khi tâm lý hay khí lực thuộc thủy đại tan ra, thì ta liền thấy tướng làn
khói xuất hiện—This appearance is perceived when the energy wind related
to the water element dissolves inwardly. When the psychic or energy wind
of the water element dissolves, we perceive the smoke-like appearance
instantly.
b) Trong
giấc ngủ, cái tâm nhận ra tướng làn khói là vi tế hơn tâm trước đấy, nhưng
nó vẫn còn là một tâm còn tương đối thô phù—Within the mind of sleep, the
mind which perceives the smoke-like appearance is subtler than the
previous mind but is still a relatively gross mind.
3) Tướng
thứ ba là một hiện tượng giống như những con đom đóm—The third sign is the
fireflies appearance: Tướng nầy sinh khởi khi khí lực tương ứng với hỏa
đại tan vào trong tâm—This appearance arises when the energy wind which is
related to our fire element dissolves inwardly.
4) Tướng
thứ tư là hiện tượng giống như ngọn đèn thắp bằng dầu bơ—The fourth sign
is the burning butter lamp-like appearance: Tướng nầy được nhận ra liền
khi luồng khí lực của phong đại trong chúng ta tan rã—It is perceived
instantly when the energy wind of our air element dissolves.
(B) Bốn tướng
trạng trong tiến trình chết, còn gọi là bốn tướng “không.” Nếu trong giấc
ngủ ta có những tầng lớp tâm từ thô đến tế thì cũng vậy, khi ta chết, có
những tầng lớp tâm từ thô đến tế, rồi vô cùng vi tế phát sanh—Four
appearances during the death process, also called the four “empties.” Just
as we have more gross and more subtle levels of mind during sleep,
likewise when we die we develop gross, subtle and very subtle levels of
mind:
5) Cái
không đầu tiên là tâm có tướng màu trắng—The first empty is the mind of
white appearance:
a) Lúc ấy
mọi sự được tâm nhận thức là hoàn toàn trống rỗng nhưng trắng và sáng—At
this time everything is perceived as totally empty but white and bright.
b) Vào
thời điểm nầy tâm vi tế của giấc ngủ phát triển, và tâm ta càng lúc càng
trở nên vi tế hơn trước—At this point the subtle mind of sleep develops
and our mind becomes subtler and subtler.
6) Cái
không kế tiếp là tâm màu đỏ tăng trưởng—The next emptiness is the mind of
red increase:
a) Cái
tâm nhận ra màu đỏ này vi tế hơn những tầng tâm thức trước đấy—The mind
which perceives the red appearance is subtler than the previous levels of
mind.
b) Tâm
nầy thấy mọi sự hoàn toàn trống rỗng, nhưng có tướng màu đỏ xuất hiện—This
mind perceives everything totally empty, but there is a red-coloured
appearance.
7) Tướng
kế tiếp là cái tâm màu đen của định cận hành (gần chứng đắc định an
chỉ)—The next emptiness is the mind of black near-attainment: Mọi sự xuất
hiện nhưng có một màu đen kịt. Trong giai đoạn nầy, ta trải qua giấc ngủ
sâu xa nhất của mình—Everything appears entirely empty but dark or black.
During this stage we experience our deepest sleep.
8) Cái
không thứ tư xuất hiện tâm với ánh sáng trong suốt—The fourth empty arises
the mind of clear light:
a) Hiện
tượng màu đen biến mất, và khi ấy ta thấy một ánh sáng trong suốt như màu
bình minh—The dark appearance disappears and we perceive a clear light
like the colour of dawn.
b) Đây
gọi là ánh sáng trong suốt của giấc ngủ. Không có tâm nào vi tế hơn tâm
của ánh sáng trong suốt ấy. Vào giây phút cuối cùng trước khi chết tâm ta
nhận thấy ánh sáng trong suốt. Khi một người có thiện nghiệp đặc biệt để
được tái sanh làm người, thì dòng tương tục của cái tâm vi tế ấy sẽ nhập
vào sự giao hợp của tinh cha trứng mẹ. Từ đó trở đi tâm trở nên càng ngày
càng thô hơn—This is called the clear light of sleep. There is no
consciousness more subtle than the mind of clear light. At the last
instant before death our mind perceives the clear light. If a person has
the special good karma to be reborn as a human being, the continuum of
that very subtle mind later enters into the union of the father’s and
mother’s sperm and egg. From that time on the mind becomes grosser and
grosser.
Tám Yếu Tố Tập Trung Tư Tưởng:
Những tập luyện của nhà Du Già thật ra cũng giống như các nhà thuộc học
phái Du Già Luận của Phật Giáo. “Yogacara” có nghĩa là “thực hành sự tập
trung tư tưởng” và có nhiều điểm chung với triết lý Du Già. Du Già Luận là
Duy Tâm Luận của Phật Giáo do Ngài Vô Trước đề xướng và được em ngài là
Thế Thân hệ thống hóa thành học thuyết Duy Thức và Ngài Huyền Trang đưa
vào Trung Quốc thành Pháp Tướng tông. Theo Nghĩa Tịnh, nhà chiêm bái nổi
tiếng của Trung Hoa về Ấn Độ, học thuyết nầy là một trong hai trường phái
Đại Thừa ở Ấn Độ (Trung Luận và Du Già Luận). Theo Du Già, có tám yếu tố
tập trung tư tưởng—The practices of the Yogin are actually similar to
those of the Yogacara School of Buddhism. “Yogacara” means “the practice
of self-concentration” and has several things in common with the Yoga
philosophy. The Yogacara School is Buddhist idealism taught by Asanga,
sytematized by his brother Vasubandhu as the Theory of Mere Ideation
(Vijnaptimatrata), and introduced to China by Hsuan-Tsang as the
Dharmalaksana (Fa-Hsiang) School. According to I-Ching, a famous traveler
in India, it was one of the only two Mahayana School in India (Madhyamika
and Yogacara). According to the Yogacara Bhumi Sastra, there are eight
factors of Yoga abstraction or concentration.
1) Chế
Giới: Yama (skt)—Restraint.
2) Nội
Chế: Niyama (skt)—Minor restraint.
3) Tọa
Pháp: Asana (skt)—Sitting.
4) Sổ Tức
(quán hơi thở): Pranayama (skt)—Restraint of breaths.
5) Chế
Cảm: Pratyahara (skt)—Withdrawal of senses.
6) Tổng
Trì: Dharana (skt)—Retention of mind.
7) Tĩnh
Lự: Dhyana (skt)—Concentration of mind.
8) Đẳng
Trì (tập trung tư tưởng): Samadhi (skt)—Concentration of thought.
Tàm:
1) Con
tằm: Silkworm.
2) Tự
thẹn: Tự mình suy xét và hổ thẹn cho lỗi lầm của chính mình (một trong
những tâm sở)—Ashamed or Shame for self, i.e. for one’s own faults.
Tàm Quí: Shame for self and
shame for others.
Những lời Phật dạy về “Tàm
Quí” trong Kinh Pháp Cú—The Buddha’s teachings on “Shame for self and
shame for others’” in the Dharmapada Sutra:
1) Sống
không biết xấu hổ, sống lỗ mãng trơ trẻn như quạ diều, sống chê bai kẻ
khác, sống đại đởm khoa trương, sống ngạo mạn tà ác, sống như thế ấy chẳng
khó khăn gì—Life is easy for the shameless one who is impudent as a crow,
back-biting, arrogant and evil (Dharmapada 244).
2) Sống
biết hổ thẹn, thường cầu thanh tịnh, sống không đam mê dục lạc, sống khiêm
tốn, sống trong sạch, sống dồi dào kiến thức, sống như thế mới thật khó
làm—But life is hard for a modest, for one who seeks purity, one who is
detached, humble, clean and clear thinking (Dharmapada 245).
3) Không
đáng hổ lại hổ, việc đáng hổ lại không, cứ ôm tà kiến ấy, địa ngục khó
lánh xa—Those who embrace the wrong views, are ashamed of what is not
shameful, and are not ashamed of what is shameful, will not be able to
avoid the hell (Dharmapada 316).
Tạm: Chốc
lát—Temporary—Briefly—Meanwhile—Suddenly.
Tạm Biệt: Temporary separation.
Tạm Bợ: Ephemeral—Not
permanent—For the time being—Temporary—See Vô Thường.
Tạm Dùng: To use temporary.
Tạm Đình Chỉ: To stop for the
time being.
Tạm Hạ: Nghỉ ngắn hạn hay nghỉ
phép—A brief relief or leave of absence.
Tạm Ngừng: To pause.
Tạm Thời:
Temporary—Provisional.
Tạm Trú: To reside for a short
time only.
Tan: To break up—To dissolve—To
melt.
Tan Hoang: Completely
destroyed.
Tan hợp: Dispersion and
reunion.
Tan Nát: Broken to pieces.
Tan Rã: Decaying.
Tán:
1) Tán
Thán: Stotra (skt)—Kệ tán thán công đức Phật—Hymn—Praise.
2) Giải
Tán—Scatter—Disperse—Dismiss.
3) Tán
Loạn: Iprakirna (skt)—Tán loạn không dừng lại chỗ nào (rãi rác khắp
nơi)—Scattering—Dispensing—Dismissing—Broken—Powder.
4) Tán
Tỉnh—To flatter—To coax.
5) Tán
trợ: To assist.
6) Khuếch
Tán—To diffuse.
Tán Bái: Bài kệ bằng tiếng Phạn
tán thán công đức Phật—A hymn (in Sanskrit or Pali) in praise of Buddha.
Tán Chi: Pancika (skt)—See Tán
Chi Ca.
Tán Chi Ca: Pancika (skt)—Một
trong tám vị tướng của Tỳ Sa Môn Thiên Vương—One of the eight generals of
Vaisravana—See Tỳ Sa Môn Thiên Vương.
Tán Chúng: Chúng hội tán kinh
được hướng dẫn bởi một vị “tán đầu”—The assembly of praise-singers, led by
the precentor.
Tán Chuyện: See Tán dóc.
Tán Cúng: Rãi tiền giấy để cúng
(đây là nghi thức địa phương Trung Quốc, chứ không có trong Phật giáo)—To
scatter paper money, etc., as offerings.
Tán Dóc: To chat—To gossip.
Tán Dương: To praise.
Tán Dương Chi Tịnh Thủy: Praise
for purifying the water:
*Dương chi tịnh thủy,
Biến sái tam thiên,
Tánh không bát đức lợi
nhơn thiên,
Pháp giới quảng tăng
diên…
Diệt tội tiêu khiên,
Hỏa diệm hóa hồng liên.
-Nam Mô Thanh Lương Địa Bồ
Tát (3lần).
*Using the pilow branch,
the pure water
is sprinkle,
Everywhere in three
thousand worlds,
Its nature is empty, yet
its eight virtues
benefit human and gods,
Its nature is empty,
So there blessings and
life span will be
increased greatly.
Eradicating offenses and
getting rid of
faults,
Its turns their flames
into red lotuses.
-Homage to the
Bodhisattvas,
Mahasattvas of the Clear
Cool Ground (3 lần).
Tán Đà Na: Sandanika (skt)—Tên
một loài hoa—Name of a flower.
Tán Đầu: A precentor—See Tán
Chúng.
Tán Địa: Từ đối lại với “định
địa,” chỉ chung cõi dục giới từ lục dục thiên, tứ châu, đến địa ngục đều
là tán địa (định địa bao gồm hai cõi sắc giới và vô sắc giới)—The stage of
distraction, i.e. the world of desire, in contrast with the stage of
meditation.
Tán Đồng: To approve.
Tán Đức: See Thán Đức.
Tán Hoa: Rắc hoa cúng dường chư
Phật (vừa đi vừa rắc hoa khi hành lễ)—To scatter flowers in honour of a
Buddha.
Tán Lễ: Tán thán và lễ bái—To
praise and worship.
Tán Linh: See Thán Linh.
Tán Loạn: Viksepa (skt)—Tên của
tâm sở, còn gọi là Tán Động hay Tâm Loạn, tức tán tâm hay cái tâm của phàm
phu trôi nổi theo lục trần, không ngừng
nghỉ—Scattered—Dispersed—Unsettled—Disturbed—Restless—To flee in
confusion.
Tán Lư Hương: Praising Incense.
Lò hương vừa nhen nhúm
Pháp giới đã được xông
Chư Phật trong hải hội đều
xa hay
Theo chỗ kết mây lành
Lòng thành mới ân cần
Chư Phật hiện toàn thân.
Nam Mô Hương Vân Cái Bồ
Tát Ma Ha Tát (3 lần).
The censer’s incense is
now lit.
Perfuming the Dharma
realm.
The ocean wise host of
Bodhisattvas inhales it from afar.
Auspicious are the clouds
that gather as we now request with hearts sincere and earnest that all
Buddhas manifest.
Homage to the Enlightened
Being, Cloud Canopy of Fragrance, Bodhisattva, Mahasattva (3 times).
Tán Nghi Tam Muội: Tam muội
giúp hành giả thoát khỏi mọi nghi hoặc—A samadhi free from all doubt.
Tán Nghiệp: Thiện nghiệp do tán
tâm sở hành hoạt—The good karma acquired in a life of activity.
Tán Nghiệp Niệm Phật: Niệm Phật
chung chung theo thói quen hằng ngày—To repeat the name of Buddha
generally and habitually.
Tán Nhật: Ngày cuối cùng của
cuộc họp chúng—A dispersing day, the last day of an assembly.
Tán Ninh: Sa môn Tán Ninh, họ
Cao, đời Tống vào thế kỷ thứ mười, ông là tác giả của nhiều tác phẩm, như
bộ Tống Cao Tăng Truyện—Tsan-Ning, surname Kao, a learned Sung monk of the
tenth century, author of many works, e.g. the Biographies of Noted Monks.
Tán Phật: Tán thán công đức
Phật—To speak praises to the Buddha—Praise giving—To praise Buddha.
Tán Phật A Di Đà: To Praise To
Amitabha Buddha:
*A Di Đà Phật thân kim
sắc,
Tướng hảo quang minh vô
đẳng luân,
Bạch hào uyển chuyển ngũ
Tu Di,
Cám mục trừng thanh tứ
đại hải,
Quang trung hóa Phật vô
số ức,
Tứ thập bát nguyện độ
chúng sanh,
Cửu phẩm hàm linh đăng
bỉ ngạn.
-Nam Mô Tây Phương Cực Lạc
Thế Giới
Đại từ Đại bi A Di Đà
Phật.
-Nam Mô A Di Đà Phật (108
lần)
-Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm
Bồ Tát (3 lần)
-Nam Mô Đại Thế Chí Bồ Tát
(3 lần)
-Nam Mô Địa Tạng Vương Bồ
Tát (3 lần)
Nam Mô Thanh Tịnh Đại Hải
chúng Bố Tát (3 lần).
*Amitabha’s Body is the
color of Gold,
The splendor of his
hallmarks has no peer,
The light of his brow
shines”round a hundred worlds,
Wide as the seas are his
eyes pure and
Clear, shining in his
brillance by transformation
Are countless
Bodhisattvas and infinite Buddhas,
His forty eight vows
will be our liberation,
In nine Lotus-stages we
reach the farthest shore.
-Homage to the Buddha of
Western Pure
Land, King and
Compassionate Amitabha.
-Namo in the Land of
Ultimate Bliss Amitabha Buddha.
-Namo Kuan Shi Yin Great
Compassion Bodhisattva.
-Namo Great Strength and
Bodhisattva.
-Namo Earth Treasury King
Great Vow Bodhisattva.
-Namo Great Pure sea-Like
Assembly of Bodhisattva.
Tán Sinh Trai: Bố thí để cầu
xin khỏi bệnh hoạn—Almsgiving in petition for restoration from illness.
Tán Tâm: Viksipta-citta
(skt)—Tâm tán loạn hay tâm phóng dật, tâm đuổi theo lục trần không ngừng
nghỉ, đối lại với định tâm—The scattered, inattentive mind. A distracted
or unsettled mind. Mind only good at intervals, in contrast with the
settled mind.
Tán Tâm Định Tâm: Scattered
mind and settled mind.
Tán Thác La: Samsara (skt)—Luân
hồi sanh tử—Transmigration—See Samsara in Sanskrit/Pali-Vietnamese
Section.
Tán Thán: Tán thán Phật—To
praise—To overpraise—To eulogize—To chant—To extol—To praise Buddha.
Tán Thán Chư Phật: To praise
the Thus Come Ones—Đây là hạnh nguyện thứ hai trong Phổ Hiền Thập hạnh
Nguyện. Tán thán chư Phật là trọn dùng sức thậm thâm thắng giải tri kiến
hiện tiền, dùng lưỡi vi diệu phát ra vô tận âm khen ngợi các công đức của
các Đức Như Lai, ca ngợi đời đời không dứt—This is the second of the ten
conducts and vows of Universal Worthy Bodhisattva. To praise all Buddhas
means our body, mouth and mind must bring forth a tongue of subtle and
wonderful eloquence prasing and glorifying all the Thus Come Ones’ sea of
merits and virtues forever.
Tán Thán Môn: Pháp môn tu tập
của Tịnh Độ Tông—The method of cultivation of the Pure Land Sect—See Tịnh
Độ, and Pure Land.
Tán Thán Phật: To eulogize
Sakyamuni Buddha—To praise Buddha.
Tán Thành: To agree—To
assent—To consent—To approve—To accord.
Tán Thiện: Từ đối lại với “định
thiện,” chỉ thiện nghiệp do tâm tán loạn cần cù tu tập chứ không phải do
thiền định (đây là lối phê phán của Mật giáo. Mật giáo cho rằng tất cả mọi
pháp môn của Hiển giáo đều là “tán thiện,” duy chỉ Mật giáo mới đúng là
Tam Ma Địa Môn, vì ngay sơ tâm tu Mật giáo cũng đã tu tập theo quán hành
sinh Phật bất nhị, nghĩa là chúng sanh và chư Phật không hai)—Goodness
cultivated during normal life, in contrast with the goodness achieved by
meditation (định thiện).
Tán Tiền: Rãi tiền để cúng (đây
là nghi thức của Trung Quốc chứ không có trong đạo Phật)—To scatter paper
money as offerings.
Tán Tỉnh: To Flirt—To coax.
Tán Tịnh Độ: The Pure Land
Praise:
Liên Trì Hải Hội, Di Đà
Như Lai, Quán Âm Thế Chí Thánh chúng. Tiếp dẫn Liên Đài. Đại thệ hoằng
khai. Phổ nguyện ly trần cấu.
Nguyện sanh Tây Phương
Tịnh Độ trung.
Cửu phẩm Liên Hoa vi Phụ
mẫu.
Hoa khai kiến Phật ngộ vô
sanh.
Bất thối Bồ Tát vi bạn lữ.
In the Lotus Pool Assembly
as vast as the sea, may Amitabha, the Thus Come One, Avalokitesvara,
Mahasthamaprapta, and the entire multitude of sages. Lead beings to ascend
the Lotus diases, and based on great vows, expansively teach them.
So that all will vow to
leave defilement.
We vow they will be born
in the Western Pure Land,
With the nine grades of
Lotus Flowers as parents.
When the Flowers open,
they will see the Buddha and become enlightened to the unproduced,
And irreversible
Bodhisattvas will be their companions.
Tán Trí: Scattered
mind—Unattentive mind.
Tán Trợ: To approve and to
help.
Tán Tụng: Tán thán và tụng
niệm—To praise—To praise and intone—To sing praises.
Tán Văn: Eulogy.
Tàn: faded.
Tàn Ác: Cruel.
Tàn Bạo: See Tàn Ác.
Tàn Hại: To cause damage—To
injure.
Tàn Hủy: To destroy.
Tàn Khốc: Fiercely cruel.
Tàn Mạt: To be very poor.
Tàn Phá: To devastate—To
ravage.
Tàn Phế: Disabled—Crippled.
Tàn Rụi: To be perishable.
Tàn Tạ: Faded away.
Tàn Úa: Faded.
Tản: To scatter—To disperse.
Tang:
1) Dâu
tằm: Mulberry.
2) Tang
chế: Mourning.
3) Tang
già: Tăng già—Sangha.
Tang Chế: Funeral rites.
Tang Chứng:
Proof—Evidence—Exhibit—An object or document used as evidence in a law
case.
Tang Lễ: Funeral services.
Tang Điền Thương Hải: Field of
mulberry trees in the blue sea (talk about quick changes as well as all
ups and downs in life).
Tang Môn: Sramana (skt)—See Sa
Môn.
Tang Phục: Mourning clothes.
Tang Thương:
Miserable—Wretched.
Tang Vật: See Tang chứng.
Táng: Chôn cất—To inter—To
bury.
Táng Mạng: To lose one’s life.
Táng Tống: See Tống Táng.
Tàng:
1) Phướn:
Banner—Streamer—Flag.
2) Tàng
trử: To conceal—To hide—To store—Treasury—Thesaurus.
Tàng Chủ: Vị Tăng chăm sóc thư
viện của chùa—Librarian—See Tạng Chủ.
Tàng Điện: Nơi tàng trữ kinh
điển—A library of the scriptures.
Tàng Kinh: See Tạng Kinh.
Tàng Kinh Các: Tripitaka
library—Storage Hall—Sutra Library.
Tàng Kinh Điện: See Tàng Kinh
Các in Vietnamese-English Section.
Tàng Phan: Cây phướn có ngọn
dài—A flag—A banner.
Tàng Thức Tứ Tướng: Four forms
of initiation, continuation, change and cessation of the Alaya-vijnana.
Tàng Trần: Nơi tàng trữ những
bụi bặm hay ô nhiễm, như nhục thân (hóa thân) của Đức Phật—The store of
dust, i.e. the earthly body of Buddha, his Nirmanakaya.
Tàng Trữ: To store.
Tàng Tướng: Biểu tượng hay hình
tướng bên ngoài, như y áo của chư Tăng Ni—A sign—A symbol, i.e. the monk’s
robe.
Tảng: Nền tảng—Foundation—Base.
Tảng Lờ: To pretend.
Tạng:
(A) Nghĩa
của “Tạng”—The meanings of Storehouse:
1) Tàng
trữ: Treasury—Storehouse.
2) Tạng
kinh điển: Canon (tripitaka).
(B) Phân
loại kinh điển—Categories of Canon:
1) Nhị
Tạng: Twofold canon—See Nhị Tạng Kinh.
2) Tam
Tạng: Threefold canon—See Tam Tạng.
3) Tứ
Tạng: Fourfold canon—See Tứ Tạng.
4) Ngũ
Tạng: Fivefold canon—See Ngũ Tạng (B) and (C).
Tạng Chủ: Tạng Ty—Vị sư chịu
trách nhiệm về việc tàng trử kinh điển (ở các chùa lớn, kinh điển được
chia làm hai bộ và đặt một ở cánh đông, một ở cánh tây; người coi kinh
tạng bên cánh đông gọi là Đông tạng chủ, người coi kinh điển bên cánh tây
gọi là Tây tạng chủ)—The monk in charge of storing sutras (in some big
monasteries, scriptures are stored in the east and west wings).
Tạng Giáo: Tạng giáo, một trong
Thiên Thai Tứ Giáo (Tạng, Thông, Biệt, Viên). Đây là một tông phái theo
Tiểu Thừa của hai chúng Thanh Văn và Duyên Giác, coi giáo pháp Bồ Tát là
chuyện bên lề không quan trọng, mà chỉ lo tu cho bản thân mình. Tạng giáo
lại được chia làm bốn phần—The Pitaka, i.e. Tripitaka School, one of the
four divisions of the T’ien-T’ai. It is the Hinayana school of the Sravaka
and Pratyeka-buddha types, based on the Tripitaka and its four dogmas,
with the Bodhisattva doctrine as an unimportant side issue. It is also
divided into four others:
1) Hữu:
The reality of things.
2) Không:
The unreality of things.
3) Diệc
Hữu Diệc Không: Both the reality and the unreality of things.
4) Phi
Hữu Phi Không: Neither the reality nor the unreality of things.
** For more information,
please see Thiên
Thai Ngũ Thời Bát
Giáo and Thiên Thai
Tông in
Vietnamese-English Section.
Tạng Kinh: Kinh điển ghi lại
những lời dạy của Phật, có nhiều con số ghi lại khác nhau về kinh điển—An
interpretation of pitaka—A collection of writings. The canon, of which
there are catalogues varying in number of contents.
1) Vua
Lương Vũ Đế cho tổng tập kinh điển Phật giáo tại vườn Hoa Lâm, gồm 5.400
quyển: By Liang-Wu-Ti of 5,400 chuan or books.
2) Theo
Khai Nguyên Thích Giáo Lục, gồm 5.048 quyển: The K’ai-Yuan catalogue
contained 5,048 chuan or books.
3) Bản cổ
nhất của Triều Tiên còn ghi lại là 6.467 quyển: The oldest existing canon
is believed to be the Korean with 6,467 chuan or books.
4) Bản
đời nhà Tống gồm 5.714 quyển: The Sung canon has 5,714 chuan or books.
5) Bản
đời nhà Nam Tống gồm 5.665 quyển: The South Sung has 5,665 chuan or books.
6) Bản
đời nhà Nguyên Mông gồm 5.397 quyển: The Yuan canon has 5,397 chuan or
books.
7) Bản
đời nhà Minh gồm 6.771 quyển: The Ming has 6,771 chuan or books.
8) Bản
đời nhà Thanh gồm 8.460 quyển. Nhà Thanh đã cho in lại tạng kinh đời nhà
Minh với khổ lớn hơn nhiều và có phần bổ túc. Bộ nầy mới đây được in lại
tại Thượng Hải và Đông Kinh: The Ts’ing has 8,460 chuan or books. The
Ts’ing dynasty reprinted the Ming canon with supplement; and a new and
much enlarged edition has recently been published in Sanghai and Tokyo.
9) Bản
của Nhật Bản dựa vào đời Nam Tống, gồm 5.665 quyển: The Japanese canon,
based on those of the South Sung, has 5,665 chuan or books.
Tạng Lý: Nghĩa lý chân thực của
Như Lai Tạng—The Tathagatagarbha, or universal storehouse whence all truth
comes.
Tạng Thông: Tạng giáo và Thông
giáo của tông Thiên Thai—The Tsang and T’ung schools as classified by
T’ien-T’ai.
** For more information,
please see Thiên Thai Ngũ Thời Bát
Giáo.
Tạng Thức: A lại da thức là
thức hàm chứa tất cả các chủng tử thiện ác, cũng là thức thứ tám trong tám
thức—The Alaya-vijnana, the storehouse of all knowledge, the eighth of the
eight vijnanas.
Tanh: Evil (bad)—Smelling (as
smell of fish).
Tanh Hôi: See Tanh in
Vietnamese-English Section.
Tánh: Svabhava, or Prakrti, or
Pradhana (skt).
1) Thể
tánh: The nature.
2) Nghĩa
của nhân: Causative.
3) Chủng
tử dựa vào gốc bản: Fundamental nature behind the manifestation or
expression.
4) Không
sửa đổi: Unchanged.
5) Tánh
biệt: Independent or self-dependent.
6) Phật
tánh trong mỗi chúng sanh: The Buddha-nature immanent in all beings—The
Buddha heart or mind.
Tánh Ác: Tánh ác sẳn
có—Wrongness—Bad essence—Naturally evil—Evil by nature.
** For more information,
please see Tánh Thiện.
Tánh Chủng Tánh: Chủng tánh
nguyên thủy, đối lại với “Tập Chủng Tánh.”—Nature-seed nature, i.e.
original or primary nature, in contrast with “Active or Functioning
Nature.”
Tánh Cố Hữu: Inherent nature.
Tánh Cụ: Thể Cụ—Lý Cụ—Giáo điển
của tông Thiên Thai cho rằng tánh có đầy đủ cả thiện lẫn ác—The T’ien-T’ai
doctrine that the Buddha-nature includes both good and evil.
Tánh Dục: Tham dục trở thành
bản tánh thứ nhì—Desires that have become second nature; desires of the
nature—Inclinations.
Tánh Đắc: Sanh Đắc—Sự hiểu biết
cảm nhận không do nỗ lực tu tập hay kinh nghiệm học vấn, mà do ở bản tánh
sẳn có đầy đủ—Natural attainment (not acquired by effort).
Tánh Địa: Đệ nhị địa trong thập
địa Thông Giáo, trong đó phiền não gây ra bởi kiến tư (thấy biết và suy
nghĩ) đều bị chế ngự, và tâm đạt được bước đầu (hãy còn mù mờ) về tánh phi
vật chất của vạn hữu—Spiritual nature, the second of the ten stages as
defined by the Intermediate School, in which the illusion produced by
seeing and thinking is subdued and the mind obtains a glimmer of the
immateriality of things.
Tánh Độ: Pháp Tánh Độ—Giới của
pháp tánh hay chân như—The sphere of the dharma-nature (bhutatathata).
Tánh Đức: Tánh thiện ác sẳn có,
đối lại với thiện tánh do tu tập mà có—Natural capacity for good or evil,
in contrast with power of goodness attained by practice.
Tánh Giá:
1) Tánh
Tội: Những tội gây ra ngược với luân lý tự nhiên như giết người cướp của:
Natural sins, i.e. sins against natural law, such as murder and stealing.
2) Giá
Tội: Những tội gây ra vì vi phạm luật tôn giáo, như nhà sư uống rượu, chặt
cây, vân vân—Sins against conventional or religious law, e.g. for a monk
to drink wine, cut down trees, etc.
Tánh Giá Tội: See Tánh Giá.
Tánh Giác: Buddhi or Buddhita
(skt).
·
Tánh biết: Awareness—The nature of awareness—The intuitive
nature.
·
Giác tánh chân như: Inherent intelligence or knowledge of
the bhutatathata.
Tánh Giới: Luật về đạo lý tự
nhiên như không giết người cướp của, không đòi hỏi phải là giới của nhà
Phật—The natural moral law (not to kill, not to steal, etc.) not requiring
the law of Buddha.
Tánh Hải: Lý tánh của chân như
sâu rộng như biển cả, bao trùm tất cả, đó là cảnh giới của pháp thân Như
Lai—Essence-ocean—The ocean of the bhutatathata, the all containing,
immaterial nature of the Dharmakaya.
Tánh Hạnh: Behavior—Conduct.
Tánh Hỏa: Tánh hỏa là một trong
ngũ đại, đối lại với sự hỏa—Fire as one of the five elements, in contrast
with phenomenal fire (sự hỏa).
Tánh Hoành Tu Túng: A division
of Triratna in its three aspects into the categories of cause and effect,
or effect and cause; a differentiated teaching, not that of the perfect
teaching.
Tánh Khí: Temperament.
Tánh Khởi: Pháp tính chân như
tự mình khởi lên mà khởi tác ra chư pháp, đối lại với duyên khởi là các
pháp do cả chân thực và hư vọng hòa hợp lại mà khởi lên—Arising from the
primal nature or bhutatathata, in contrast with arising from secondary
causes (Duyên khởi).
Tánh Không: Emptiness—The
nature void—The immateriality of the nature of all things.
Tánh Không Giáo: Một trong ba
phái Nam Sơn (Tiểu Thừa), xem tánh của vạn hữu là không thật, nhưng lại
cho rằng vạn hữu là những vật thể tạm thời hiện hữu—One of the three
Nan-Shan sects which regarded the nature of things as unreal or
immaterial, but held that the things were temporally entities.
Tánh Không Quán: Quán nhân
duyên sanh theo thuyết tánh không (một trong ba phép quán của Nam Sơn Tiểu
Thừa Giáo)—The meditation on the unreality or immateriality, of the nature
of things.
Tánh Lãnh Đạm:
Indifference—Not-described essence.
Tánh Lịch Thiệp: Well
(good)-mannered and courteous.
Tánh Mệnh:
1) Tánh
và mệnh: Nature and life.
2) Cuộc
sống của chúng hữu tình: The life of conscious beings.
Tánh Ngã: Cái ta rộng lớn của
tâm tánh, lìa khỏi vọng ngã của hạng phàm phu tất sẽ trở về cái tánh ngã
của Như Lai—The Buddha-nature ego, which is apperceived when the illusory
ego is banished.
Tánh Nhu Hòa Hiền Hậu: Gentle
and peaceful nature (disposition).
Tánh Niệm Xứ:
Citta-smrtyupasthana (skt)—Bổn lai tánh cũng là Phật tánh. Đây là một
trong tứ niệm xứ—The original nature is the same as the Buddha-nature.
This is one of the four objects of thought—See Tứ Niệm Xứ in
Vietnamese-English Section.
Tánh Phận: Tự tính khác biệt
của các pháp—The different nature of anything—The various natures of
various things.
Tánh Phật: The Dharmakaya
(skt)—See Tánh (6).
Tánh Sắc: Chân Sắc—Diệu sắc
trong Như Lai Tạng (Thiên Thai tông gọi là sắc của tánh Cụ)—Transcendent
rupa or form within or of the Tathagata-garbha.
Tánh Tâm: Chân tâm tròn sáng
hay tâm Phật. Thiền Tông dùng “Tính Tâm” và “Tâm Tính” không khác nhau về
nghĩa—The perfectly clear and unsullied mind (the Buddha mind or heart).
The Ch’an (Zen) school uses the terms “Tính Tâm” and “Tâm Tính”
indifferently.
Tánh Thiện: Thiện tánh sẳn có
chứ không do nỗ lực tu tập, đối lại với tánh ác sẳn có—Naturally good, or
good essence, or rightness—Good by nature (rather than by effort), in
contrast with evil by nature.
Tánh Thông Giác Ngộ: Thiền Sư
Tánh Thông Giác Ngộ—Zen Master Tánh Thông Giác Ngộ—Thiền sư Việt Nam, quê
ở Gia Định. Ngài là một trong những đệ tử xuất sắc nhất của Hòa Thượng Đạo
Dụng Đức Quảng. Ngài là Pháp tử đời thứ 39 dòng Thiền Lâm Tế. Hầu hết đời
ngài, ngài chấn hưng và hoằng hóa Phật giáo tại miền Trung và miền Đông
Nam phần. Ngài thị tịch năm 1842, thọ 87 tuổi—A Vietnamese Zen Master from
Gia Định. He was one of the most outstanding disicples of Most Venerable
Đạo Dụng Đức Quảng. He was the Dharma heir of the thirty-ninth generation
of the Linn Chih Zen Sect. He spent most of his life to revive and expand
Buddhism in Central and East of South Vietnam. He passed away in 1842, at
the age of 87.
Tánh Thứ: Natural and
conventional sins (sins against natural law and sins against conventional
or religious law)—See Tánh Giá (1).
Tánh Thức: Khả năng nhận biết
tự nhiên qua các căn—Natural powers of perception, or the knowledge
acquired through the sense organs—Mental knowledge.
Tánh Tình Chân Thật: To be
honest by nature.
Tánh Tình Nóng Nảy Khí Khái, Dễ Rước Họa
Vào Thân Trong Cuộc Sống Hằng Ngày: Those who have a temper and
too much pride, easily encounter a great deal of trouble and anguish in
daily life.
Tánh Tình Rộng Rãi Ưa Bố Thí:
To be generous (liberal and broadminded)—To prefer to practice charity.
Tánh Tịnh: The pure, original
freedom or innocence.
Tánh Tội: Những tội giết người
cướp của được xem như là những điều ác tự nhiên (tánh tội), không đợi phải
có Phật cấm chế (mà tự tánh của mình đã xem là ác, phạm vào tất bị tội
báo)—Sins that are such according to natural law, apart from Buddha’s
teaching, i.e. murder, stealing, etc.
Tánh Tông: See Pháp Tánh Tông.
Tánh Tức Thị Tâm, Tâm Tức Thị Phật:
Tánh là tâm, tâm là Phật. Tâm và tánh là một khi “ngộ,” nhưng khi “mê” thì
tâm tánh không đồng. Phật tánh vĩnh hằng nhưng tâm luôn thay đổi. Tánh như
nước, tâm như băng; mê khiến nước đóng băng, khi ngộ thì băng tan chảy trở
lại thành nước—The nature is the mind, and mind is Buddha—Mind and nature
are the same when awake and understanding, but differ when the illusion.
Buddha-nature is eternal, but mind is not eternal; the nature is like
water, the mind is like ice; illusion turns nature to mental ice form,
awakening melts it back to its proper nature.
Tánh Tướng: Tánh tướng của vạn
hữu—The nature of anything and its phenomenal expression—Nature and marks.
1) Tánh:
Tự thể của chư pháp, không thay đổi—Nature, noumenon or essence which is
unchangeable.
a) Tánh
là pháp vô vi: Nature stands for Non-functional (vô vi).
b) Tánh
là tự thể hay nguyên lý: Nature is noumenal.
c) Tánh
và tướng như tâm và cảnh: Nature and marks are like mind and external
scenes.
2) Tướng:
Tướng mạo thể hiện ra ngoài, có thể phân biệt được, thay
đổi—Marks—Characteristics or forms which are changeable.
a) Tướng
là pháp hữu vi: Marks are Functional (hữu vi) or phenomenal.
b) Tướng
đối lại với tánh, cùng thế ấy hiện tượng hay trạng thái đối lại với tự thể
hay nguyên lý: Marks are contrasted with nature, in the same way that
phenomena are contrasted with noumenon.
c) Chân
tướng của vạn hữu giống hư không, thường hiện hữu mà hư không; hư không
mà hiện hữu: The true mark of all phenomena is like space, always
existing but really empty; although empty, really existing.
d) Chân
tướng của tam giới là vô sanh, vô tử, vô hữu, vô phi hữu, không giống cái
nầy, cũng không giống cái kia: The true mark of the Triple World is
No-Birth, No-Death, not existent, not non-existent, not like this, not
like that.
e) Chân
tướng còn được gọi là “tự tánh,” “pháp thân,” “Vô vi,” “Chân như,” hay
“Pháp Giới”: True mark is also called “Self-Nature,” “Dharma body,” the
“Unconditioned,” “True Thusness,” or “Dharma Realm”
Tánh Tướng Dụng: Tướng dụng của
nội tánh—Inner nature form and function.
Tánh Tướng Học: Môn triết lý
thuyết minh về tánh và tướng của Đại Thừa—The philosophy of the nature of
things (of the noumenal and phenomenal).
Tánh Tướng Hữu Vi: Functional
nature of things.
Tánh Tướng Nhị Tông: Hai
tông—Two schools:
1) Pháp
Tánh Tông: Tông phái cho rằng vạn hữu đều khởi đầu từ chân như—Sects which
hold that all things proceed from the bhutatathata.
2) Pháp
Tướng Tông: Duy Thức Tông—Dahrmalaksana school.
Tánh Tướng Vô Vi:
Non-functional nature of things.
Tánh Vô Tướng: Unreal in
phenomena—The doctrine that phenomena have no reality in themselves.
Tạnh: To stop.
Tạnh Ráo: To become clear
(fine, bright and free of clouds).
Tao Đà: Suka (skt)—Con két—A
parrot.
Tao Động: Confused—Troubled.
Tao Khang: Wife in time of
need.
Tao Ngộ: To meet accidentally.
Tao Nhã: Elegant—Refined.
Tao Phùng: See Tao Ngộ.
Táo: Tắm—To bathe—To wash—To
clean.
Táo Bạo: Daring.
Táo Bình: Táo Quán—Bình nước—A
water-pot.
Táo Bình Thiên Tử: Tác Bình
Thiên Tử—Suddhavasa-deva (skt)—Vị thiên tử hiện ra dẫn Thái Tử Sĩ Đạt Đa
xuất gia—One who appeared to Sakyamuni when a prince, leading him to leave
home.
Tào:
1) Khe
nước hay con kênh: A channel or canal.
2) Vận
chuyển bằng “tào hà” hay bằng kênh lớn: To transport, especially by the
grand canal.
Tào Cự Tra: Tsaukuta (skt)—Tên
một vương quốc cổ nằm về phía tây bắc Ấn Độ, gần Ghuznee—An ancient
kingdom in north-west India, near Ghuznee.
Tào Động: Đây là một trong
những phái Thiền có tầm cở ở Việt Nam. Những phái khác là Tỳ Ni Đa Lưu
Chi, Vô Ngôn Thông, Lâm Tế, Thảo Đường, vân vân. Có nhiều thuyết nói về
nguồn gốc của phái Tào Động. Một thuyết cho rằng nó xuất phát từ chữ đầu
trong tên của hai Thiền sư Trung Quốc là Tào Sơn Bổn Tịch và Động Sơn
Lương Giới. Một thuyết khác cho rằng đây là trường phái Thiền được Lục Tổ
Huệ Năng khai sáng tại Tào Khê—One of several dominant Zen sects in
Vietnam. Other Zen sects include Vinitaruci, Wu-Yun-T’ung, Linn-Chih, and
Shao-T’ang, etc. There are several theories as to the origin of the name
Ts’ao-Tung. One is that it stems from the first character in the names of
two masters in China, Ts’ao-Shan Pên-Chi, and Tung-Shan Liang-Chieh.
Another theory is that Ts’ao refers to the Sixth Patriarch and the Ch’an
school was founded by Hui-Neng, the sixth patriarch.
Tào Động Tông: See Tào Động.
Tào Khang: Cám và rơm rạ (những
cặn bã sau khi chà lúa đã lấy gạo trắng), ý nói những vị Tăng kiêu mạn hay
giáo pháp hạ liệt—Dregs and chaff, said of proud monk, or of inferior
teaching.
Tào Khê: Biệt hiệu của Lục Tổ
Huệ Năng. Tào Khê là tên một con suối nằm về hướng đông nam phủ Thiều
Châu, tỉnh Quảng Đông (thời nhà Lương có vị sư nước Thiên Trúc từ Tây
Phương tới bơi thuyền của Tào Khê, ngửi thấy mùi hương lạ bèn nói: “Trên
thượng nguồn ắt có thắng cảnh. Đoạn đi tìm, rồi mở núi dựng bia nói rằng,
một trăm bảy mươi năm sau sẽ xuất hiện môt vị Vô Thượng Pháp Sư thuyết
pháp ở đây. Nay chính là chùa Nam Hoa của Lục Tổ Huệ Năng)—Ts’ao-Ch’i, a
stream south-east of Shao-Chou, Kuang-T’ung province, which gave its name
to Hui-Nêng.
Tào Lao: Idle talk.
Tào Sơn: Tào Sơn hay núi Tào,
biệt hiệu của Bản Tịch Thiền Sư, nhị tổ Tào Động, và cũng là học trò của
Động Sơn Lương Giới thuộc tông Tào Động—Ts’ao-Shan in Kiang-Su, where the
Ts’ao-Tung sect, a branch of Ch’an school, was founded by Tung-Shan;
Ts’ao-Shan was the name of the second patriarch of this sect.
Tảo:
1) Quét:
To clean—To sweep.
2) Sớm
hay sáng sớm: Early, or early morning.
Tảo Đế Lê: Tên của một loài
quỷ—Name of a demon.
Tảo Địa: Quét nhà có năm công
đức (Trong Tỳ Nại Da Tạp Sự, Phật nói với các vị Tỳ Kheo rằng, phàm làm
người quét nhà có năm điều lợi hơn cả—To sweep the floor, or ground, an
act to which the Buddha is said to have attributed five kinds of merit.
They are:
1) Tâm
mình trong sạch: To purify our own mind.
2) Làm
cho tâm người được trong sạch: To help purifying other people’s minds.
3) Làm
cho chư Thiên hoan hỷ: To cause all the Devas to have joy.
4) Vun
trồng chính nghiệp: To plant good karma.
5) Sau
khi mệnh chung được sanh lên cõi Trời: After death will be reborn as a
Deva.
Tảo Hôn: To marry early.
Tảo Mộ: To clean a tomb—To
sweep a grave.
Tảo Tần: The names of two
vegetables in North China (talk about a good housewife).
Tảo Tham: Buổi tham vấn vào
sáng sớm—The early morning assembly.
Tảo Thanh: To mop up—To get rid
of.
Tảo Thành: Early succeed.
Tảo Trừ: See Tảo Thanh.
Tạo: To create—To make—To
build.
Tạo Hoa: Làm hoa, đặc biệt là
hoa bằng giấy—To make flowers, especially paper flowers.
Tạo Hóa: Ngoại đạo tin rằng có
một vị trời quyền năng tối thượng có thể tự ý tạo nên vạn vật—Externalists
believe that there exists an almighty god who makes (creates) and
transforms all being at his will.
Tạo Lập: To establish—To
form—To create.
Tạo Nghiệp: Transgressions.
Tạo Nghiệp Hữu Vi: To involve
(create or engage) in mundane endeavors
Tạo Phản: To rebel.
Tạo Tác: To perform—To make.
Tạo Thành: See Tạo Lập.
Tạo Thiên Lập Địa: The creation
of the world.
Tạo Thư Thiên: Brahma-deva
(skt)—Tiếng Bà La Hạ Mạ Thiên, là nguồn tạo ra bảng mẫu tự Tất Đàm 12
âm—The deva-creator of writing Brahma.
Tạo Tượng: Tạc tượng—Người đầu
tiên tạc tượng Phật là vua Ưu Điền của xứ Kausambi, người cùng thời với
Đức Phật, đã tạc tượng Phật cao 5 bộ Anh bằng gỗ đàn hương ngay sau khi
Phật nhập diệt—To make an image; the first one made of the Buddha is
attributed to Udayana, king of Kausambi, a contemporary of Sakyamuni, who
is said to have made an image of the Buddha after his nirvana, in
sandalwood, 5 feet high.
Tạo Vật: See Tạo Hóa.
Tạo Ý: To form an idea.
Táp:
1) Gió
táp hay gió thổi vu vu: Gust wind.
2) Táp
vật gì: To snatch—To snap (dog).
3) Thình
lình: Suddenly.
Táp Mạt Kiến: Samakan
(skt)—Theo Eitel trong Trung Anh Phật Học Từ Điển, Táp Mạt Kiến là vùng
Samarkand bây giờ—According to Eitel in The Dictionary of Chinese-English
Buddhist Terms, this is now called Samarkand.
Tạp:
1) Hổn
tạp: Mixed—Variegated—Heterogeneous—Hybrid—Confused—Disordered.
2) Phức
tạp: Complex.
Tạp A Hàm: Samyuktagama—See
Agama in Sanskrit/Pali-Vietnamese Section.
Tạp Chí: Magazine.
Tạp Chủng: Cross-breed—Hybrid.
Tạp Dịch: Odd job.
Tạp Duyên: Sundry conditions.
Tạp Hàm: Samyuktagama (skt)—See
Tạp A Hàm in Vietnamese-English Section and Samyuktagama in
Sanskrit/Pali-Vietnamese Section.
Tạp Hạnh: Sundry practices,
combining practices, or mixed cultivation—Tạp hạnh có nghĩa là người thấy
ai tu pháp môn gì cũng bắt chước theo cả, thay đổi liền liền. Nay tu Tịnh
Độ, mai tu Thiền, mốt tụng kinh. Nay tụng kinh nầy, mai tụng kinh khác,
vân vân—Combining practices also referred to as “Mixed Cultivation.” This
refers to cultivators who mimic others’ practices depending on who is
practicing what at the time. Thus, they are constantly mixing and
changing their practices by practicing Pureland one day, Zen the next, and
then another day chanting one Sutra, only to switch to a different Sutra
the next day, etc.
Tạp Hoa Nghiêm Kinh: Tên của
Kinh Hoa Nghiêm (muôn hạnh vì như hoa và được lấy để làm trang nghiêm quả
Phật)—A name for the Hua-Yen sutra.
Tạp Loạn: Scatteredness.
Tạp Nghiệp: Nghiệp nhân cảm các
loại khổ quả của các loại chúng sanh như địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, a tu
la, nhân, thiên (các loài thai sanh, noãn sanh, thấp sanh, hóa sanh trong
thế giới Ta Bà)—A world of varied karma.
Tạp Nhạp: Mixed.
Tạp Nhiễm: Tất cả các pháp hữu
lậu là những tạp nhân của luân hồi sanh tử—All kinds of moral infection,
the various causes of transmigration.
**For more information,
please see Tam Tính.
Tạp Niệm: Sundry thoughts.
Tạp Niệm Rối Ren: Sundry
thoughts are confused.
Tạp Sinh Thế Giới: Thế giới Ta
Bà là thế giới tạp cư của 5 chủng loại cùng ở như địa ngục, ngạ quỷ, súc
sanh, a tu la, nhân, và thiên—A world of various beings, i.e. that of the
five destinies, hells, hungry ghosts, animals, asuras or demons, men, and
devas.
Tạp Tạng: Samyuktapitaka
(skt)—Tất cả những kinh điển linh tinh, ban đầu người ta nói nó thu nhiếp
hết thảy giáo hành của chư vị Bồ Tát, nhưng kỳ thật nó chứa đựng những tác
phẩm của người Thiên Trúc và Trung Hoa, được kết tập lại vào thời nhà Minh
có sự bổ túc của Bắc và Nam Tạng Trung Hoa (Tạp tạng không phải là ngôn
thuyết của một người, có khi là Đức Phật giảng thuyết, có khi đệ tử của
ngài giảng thuyết, có khi tán tụng chư thiên)—The miscellaneous canon, at
first said to relate to Bodhisattvas, but it contains miscellaneous works
of Indian and Chinese authors, collection made under the Ming dynasty and
supplements of the northern Chinese canon with their case marks from the
southern canon.
Tạp Thực: Ăn tạp—Eating a
hodge-podge (heterogeneous mixture) of foods.
Tạp Trụ Giới: Nơi cư ngụ của
ngũ thú—The world of mixed dwellers, i.e. the five species.
Tát:
1) Tát
tai: To smack—To slap (someone’s face).
2) Tát
nước: To bail water out.
Tát Bà: Sarva (skt)—Tất
cả—All—Whole—Entire—Universal—Complete.
Tát Bà Ca Ma: Sarvakama
(skt)—Thành Tựu Nhất Thiết Nguyện—Hết thảy các nguyện—All kinds of
desires—Fulfilling all wishes.
Tát Bà Đa Bộ: Sarvastivada
(skt)—Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ với chủ thuyết cho rằng vạn hữu đều có
thật—Name of a school with the doctrine that al things are real.
Tát Bà Hạt Lạt Tha Tất Đạt Đa:
See Tát Bà Tất Đa.
Tát Bà Ngật Lệ Xa: Sarvaklesa
(skt)—Hết thảy dục vọng phiền não—All the passions or afflictions.
Tát Bà Nhã: Sarvajna (skt)—Tát
Vân Nhã—Tát Vân Nhiên—Tát Phạt Nhã—Tát Bà Nhã Nang—Tát Bà Nhã Na—Tát Bà
Nhã Đa—Tát Phạ Cát Nang—Tát Phạt Nhã—Nhất Thiết Trí hay trí tuệ của quả vị
rốt ráo viên mãn của Phật Thích Ca Mâu Ni—Having complete
knowledge—Omniscience—The perfect knowledge attained by Sakyamuni on
attaining Buddhahood.
Tát Bà Tất Đa: Sarvarthasiddha
or sarvasiddhartha (skt)—Tát Bà Tất Đạt Đa—Tát Bà Hạt Lạt Tha Tất Đà.
1) Tên
gọi tắt của Thái Tử Thích Ca lúc thơ ấu: Personal birthname of Sakyamuni.
2) Nhất
thiết thành tựu: Thành tựu tất cả những gì mình mong muốn—Every object or
desire attained
Tát Bầu Sát Địa: Sarpausadhi
(skt).
1) Dược
Xà: Người ta nói Dược Xà là tiền thân của Đức Phật khi ngài còn là một vị
trời Đế Thích, đã bố thí thân mình cho những người đang bị
đói—Serpent-medicine, said to have been provided by the Buddha when he was
Indra, as a python, in giving his flesh to feed the starving.
2) Tự
viện được xây lên ở một nơi nổi tiếng tại Udyana: A monastery in Udyana
built on a reputed spot.
Tát Ca Da Kiến: Satkaya-darsana
(skt)—Tát Ca Da Đạt Lợi Sắc Trí—Hữu Thân Kiến—Thân kiến trong ngũ kiến,
chấp trước vào cái thân ngũ uẩn giả hợp, cho cái ta là có thật mà khởi lên
kiến, hoặc về ta hoặc của ta (ngã và ngã sở)—The view of the reality of
personality.
** For more information,
please see Ngũ Kiến Thô Thiển and Ngũ
Kiến Vi Tế.
Tát Đa Kỳ Lê: Tên của một loài
quỷ vương, được diễn dịch như là một loại trời có nhiều sức mạnh—Name of a
demon king, interpreted as a deva of great strength or power.
Tát Đá Dã: Satya (skt)—Tát Để
Dã—Chân Đế hay nghĩa chân thật—True—Genuine—Virtuous
Tát Đà Ba Luân: Sadapralapa
(skt).
1) Tên
của một vị Bồ Tát mà người ta nói rằng đã khóc suốt trong thời gian tìm
cầu chơn lý—Ever chattering or bewailing, name of a Bodhisattva, some say
who wept while searching for truth.
2) Thường
Đề Phật: Tên của vị Phật cuối cùng trong Hiền Kiếp—Ever-wailing Buddha,
name of the final Buddha of the present kalpa.
Tát Đát Đa Bát Đát La: Bạch Tản
Cái Đà La Ni (đà la ni với lọng trắng), ví với tánh trong sạch không nhơ
và che chở hết thảy chúng hữu tình của Như Lai Tạng—A dharani interpreted
as a large white canopy indicating the purity of the Tathagata-garbha.
Tát Đạt Lạt Ma: Saddharma
(skt)—Chánh Pháp—The good, true, beautiful, or excellent law—The right or
correct law, or method.
**For more information,
please see Chánh Pháp.
Tát Đạt Ma Phân Đà Lợi:
Saddharma-pundarika (skt)—Kinh Pháp Hoa—The Lotus Sutra.
** For more information,
please see Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
Tát Đỏa: Sattva (skt)—Tát Đa
Bà—Tát Hòa Tát—Tát Bà Tát Đỏa—Tát Đát Phạ Sách Đỏa—Hữu tình chúng
sanh—Being—Existence—Essence—Nature—Life—Sense—Substance—Consciousness—Any
living sentient being—Sentient—Possessing sentience, or consciousness—All
the living.
Tát Đồ La Bà: Sarjarasa
(skt)—Nhựa của cây Ta La, dùng làm dầu thơm hoặc nhang thơm—Resin of the
Sal-tree, resin used as scent or incense.
Tát La: Salva (skt).
1) Tên
của xứ Salva: A country named Salva.
2) Bộ tộc
cư ngụ tại Bharatavarsha: A tribe inhabiting Bharatavarsha.
Tát La Tát Phạt Để: Sarasvati
(skt)—Tát La Sa Phược Để—Tát La Toan Để—Vị Nữ Âm Thiên—The goddess of
speech and learning.
Tát Lợi Sát Bả: Sarsapa
(skt)—Hạt cải—Mustard-seed.
Tát Phược Đạt: Sarvada (skt).
1) Toàn
Thí Toàn Xả—The all-giving, or all-abandoning.
2) Tên
của Đức Phật trong một tiền kiếp: A name of the Buddha in a former
incarnation.
Tát Tha Nê Thấp Phạt La:
Sthanvisvara (skt)—Một vương quốc cổ miền Trung Ấn. Bãi chiến trường của
hai bộ tộc Pandus and Kurus. Bây giờ là Thanesar—A ancient kingdom and
city in Central India. The scene of the battle between the Pandus and the
Kurus. The modern Thanesar.
Tạt: To lash—To dash (water).
Tạt Vào:
1) To
drift in (water).
2) To
stop by someone’s house on the way.
Tay: Hand.
Tay Chỉ Trăng: See Finger
pointing at the moon.
Tay Không: Penniless—Empty
hands.
Tay Làm Hàm Nhai: To live from
hand to mouth.
Tay Nắm Tay: Hand in hand.
Tày Trời: Very important
(serious).
TĂ
Tắc:
1) Do đó:
Rồi thì—Therefore—Then.
2) Lấp
lại: To block—To stop up.
3) Quy
tắc: Pattern—Rule.
Tắc Kiện Đà La: Skandha (skt).
1) Cái
vai: The shoulder.
2) Uẩn:
See Skandha in Sanskrit/Pali-Vietnamese Section, and Ngũ Uẩn in
Vietnamse-English Section.
Tắc Lưỡi: To click one’s
tongue.
Tắc Nghẽn: Obstructed—Blocked.
Tắc Trách: Irresponsible—To do
something as a matter of form.
Tặc:
1) Tên
trộm hay tên cướp—A thief—Pirate.
2) Ăn
trộm hay ăn cướp: To steal—To rob.
Tặc Khấu: Bandit.
Tặc Trụ:
1) Người
tự thọ cụ túc giới cho mình như một vị sư: An unordained person who passes
himself off as a monk.
2) Vị
Tăng bị Giáo Hội của mình khai trừ bèn tự đổi pháp danh hay nhờ giáo hội
khác đổi pháp danh, rồi tự mình trụ trì tại một tự viện: A monk who
himself changes his Buddha name (or changed by other orders) after being
expelled or purged from the order for his sins, then continues to stay in
the monastery.
Tặc Tử: Bad child.
Tăm Dạng: Sight—Trace—Sign.
Tắm Phật: Lễ Mộc Dục trong ngày
kỷ niệm Phật Đản Sanh—To wash a Buddha’s statue in the ceremony of
Buddha’s Birthday.
Tằn Tiện: Thrifty—Economical.
Tẳn Mẳn: Detail.
Tăng: Samgha (skt).
1) Lụa
dầy: Silk pongee.
2) Mũi
tên: An arrow—A dart.
3) Tăng
thêm: To increase—To add—To raise—To augment.
4) Vị
Tăng: A Buddhist Monk or monks in general.
5) Tăng
Già: Chúng gồm ba hay bốn vị Tỳ Kheo họp lại với nhau, dưới sự chủ trì của
một vị Tăng cao hạ, để cùng nhau phát lồ sám hối, tìm ra giải pháp thỏa
đáng, hay thọ giới—An assembly of monks. The corporate assembly of at
least three or four monks under a chairman, empowered to hear a
confession, grant absolution, and ordain. The church or monastic order,
the third member of the Triratna
Tăng Ái: To hate and to love.
Tăng Bách Giới Chúng Học: See
Bách Giới Chúng Học Tăng.
Tăng Bảo: Sangha (skt)—Ngôi báu
Tăng, ngôi thứ ba trong Tam Bảo (những vị Tăng sĩ đã phát chân vô lậu trí
và trở thành phước điền cho đời kính trọng và quy theo)—The third member
of the Triratna.
Tăng Bảo Quả: Bậc lậu tận A La
Hán—The perfect arhat who has not to be reborn.
Tăng Bi: Sự tăng trưởng lòng từ
bi cứu độ chúng sanh của vị Bồ Tát, dù trí huệ giác ngộ của vị ấy khiến
ngài đủ khả năng nhập niết bàn, nhưng với bi nguyện ngài vẫn tiếp tục luân
chuyển để cứu độ chúng sanh—Augmented pity of a Bodhisattva, who remains
to save, though his advanced knowledge would justify his withdrawal to
nirvana.
Tăng Ca Xá: Sankasya (skt)—See
Tăng Già Xá.
Tăng Cái: Tấm lụa thêu dùng như
lọng che—A large embroidered canopy of silk.
Tăng Cang: A royal-recognized
monk—Dưới triều nhà Nguyễn, các vua chúa đã cử ra một vị Tăng Cang để lãnh
đạo Tăng chúng, trong một ngôi quan tự—During the reign of Nguyễn, all the
Nguyễn Lords and Kings assigned a royal-recognized monk who supervised the
assembly of monks in a national temple.
Tăng Chúng: Tăng đoàn—Buddhist
clergy—The body or assembly of monks.
Tăng Diệt Kiếp: Samvartathahi
(skt)—Hoàn toàn hoại diệt. Một đại kiếp được tính bằng 80 tiểu kiếp với
1.347.000.000 ( một tỷ ba trăm bốn mươi bảy triệu) năm—Total destruction
gradually reaching the void. A great kalpa is calculated as eighty small
kalpas and to last 1,347,000,000 years.
** For more information,
please see Đại Kiếp.
Tăng Đạo Tổn Sanh: Sự tiến bộ
của một vị Bồ Tát, được nói trong Kinh Pháp Hoa, càng tăng trí tuệ giác
ngộ và càng giảm dần sinh tử luân hồi—A Bodhisattva’s progress in the
doctrine (Lotus Sutra) with concurrence reduction in reincarnation.
Tăng Đoàn: The Order.
Tăng Đoàn Thánh Thiện: The Holy
Order.
Tăng Đồ: See Tăng Chúng.
Tăng Đường: Sangha Hall—Monks’
Hall.
Tăng Già: Sangha or Samgha (skt
& p)—Một hội đồng gồm ít nhất là bốn vị Tăng, hay một cộng đồng Tăng Ni
sống hòa hiệp với nhau trong tinh thần lục hòa. Đây là một trong Tam
Bảo—The corporate assembly of at least three monks under a chair a senior
monk, empowered to hear confession, or a community of monks and nuns who
live in harmony in the six sentiments of concord. This is one of the three
treasures (Buddha, Dharma, Sangha)—See Lục Hòa Kính.
Tăng Già Bà La: Sanghapala
(skt)—Tăng Già Bà Thi Sa—Một vị Tăng người Phù Nam, người đã dịch mười hay
mười một bộ kinh khoảng những năm 502 đến 520 sau Tây Lịch—A monk of
Champa, who translated ten or eleven works around 506-520 A.D.
Tăng Già Bạt Đà La:
Sanghabhadra (skt)—Sư Chúng Hiền, một danh Tăng của tông Tát Bà Đa, là tác
giả của những bộ luận nổi tiếng của Phật giáo (Thuận Chính Lý Luận và Hiển
Tông Luận)—A learned priest of Cashmere, a follower of the Sarvastivadah
school, the author of many philosophical works.
Tăng Già Bạt Ma: Sanghavarman
(skt)—Sư Chúng Khải, một nhà sư Ấn Độ đến Nam Kinh khoảng năm 423 sau Tây
Lịch, đến năm 433 thì dịch được năm bộ kinh; về sau đi hoằng hóa về phía
Tây của Trung Quốc—An Indian monk who arrived in Nanking in around 433
A.D., translated five works in 434 A.D., went westward in 442.
Tăng Già Bổ La: simhapura
(skt)—Theo Eitel trong Trung Anh Phật Học Từ Điển thì Tăng Già Bổ La là
tên của một tỉnh xưa tại vùng Cashmere, có lẽ bây giờ là Simla—According
to Eitel in The Dictionary of Chinese-English Buddhist Terms, Simhapura,
an ancient province and city of Cashmere, probably the modern Simla.
Tăng Già Chỉ: Sanghati
(skt)—See Cà Sa.
Tăng Già Đà: Sanghata (skt).
1) Chúng:
An assemblage.
2) Cơn
lốc cuối cùng của hoại kiếp: The final hurricane in the kalpa of
destruction.
Tăng Già La: Simhala (skt).
1) Tích
Lan: Ceylon.
2) Tiền
thân của Đức Phật khi còn là một thương chủ, cùng 500 thương nhân đi lạc
vào nước La Sát, sau đó tiêu diệt nước La Sát mà thành lập nước Tăng Già
La: Name of the Buddha in a previous incarnation when, as a travelling
merchant, he, along with 500 others, was driven on to the island; there
the raksasis bewitched them; later the Buddha and his companions escaped,
and ultimately destroyed the witches and founded his kingdom there.
Tăng Già Lam: Sangharama
(skt)—See Tăng Già Lam Ma.
Tăng Già Lam Ma: Sangharama
(skt)—Tự viên và chúng viên hay nhà Tăng cho chúng ở—A monastery with its
garden or grove.
Tăng Già Lê: Sanghati (skt)—See
Cà Sa.
Tăng Già Nan Đề: Sanghanandi
(skt)—Thái tử của xứ Sravasti, xuất gia sống trong hang động, được ngài La
Hầu La Đa biết đến, sau nầy ông trở thành vị tổ thứ 17 tại Ấn Độ—A prince
of Sravasti, lived in cave, was discovered by Rahulata, became the
seventeenth patriarch.
** For more information,
please see Hai Mươi
Tám Tổ Ấn Độ.
Tăng Già Thí: Sankasya
(skt)—Tăng Ca Xá—Một vương quốc cổ tọa lạc về phía bắc Ấn Độ. Bây giờ là
Samkassam, một làng khoảng 45 dậm về phía tây bắc của Kanauj—An ancient
kingdom and city in Northern India (Kapitha). The modern Samkassam, now a
village 45 miles northwest of Kanauj.
Tăng Giảm: To increase and to
decrease.
Tăng Giới: Mười giới trọng của
chư Tăng Ni—The ten prohibition—The complete commandments for monks.
Tăng Giới Học: Còn gọi là Tăng
Thượng Giới Học, là một trong tam học, nói về sức mạnh của giới học—One of
the three studies, advanced or increasing study of the moral law; the
study of the higher moral law—See Tam Học.
Tăng Ha: Simha (skt).
1) Sư
tử—A lion.
2) See
Tăng Già.
Tăng Ích: Một trong bốn đàn
pháp của tông Chân Ngôn. Cầu nguyện chư Tôn bảo hộ để được tăng thêm phúc
đức—One of the four kinds of altar-worship of the Shingon Sect. Praying
to ask Buddhas and Bodhisattvas to help you increasing and improving
merits and blessings—See Tứ Chủng Đàn Pháp.
Tăng Kha Giả: Sankasya
(skt)—Tăng Ca Xá—Tăng Kha Luật Đa Nhĩ—Samskrtam (skt).
1) Hợp
lại: Composite, or compounded.
2) Pháp
hữu vi do nhân tạo ra được biểu thị bởi sanh, trụ, dị, diệt: Active,
phenomenal, causally produced, characterized by birth, existence, change,
and death.
Tăng Khả: Tên của ngài Huệ Khả,
nhị tổ của Thiền phái Trung Hoa—Name of Hui-K’o, second patriarch of the
Chinese Intuitive School.
** For more information,
please see Huệ Khả.
Tăng Khư: Sankhya (skt)—Tăng Xí
Da.
1) Số:
Number—Reckon—Calculate.
2) Một
trong năm bộ luận nổi tiếng của Ấn Độ Giáo của ngài Ca Tỳ La. Bộ luận lấy
25 căn làm tông: One of the great divisions of Hindu philosophy ascribed
to the sage Kapila, and so called as “reckoning up” or “enumerating”
twenty-five Tattvas or true principles, its objects being to effect the
final liberation of the twenty-fifth from the fetters of the phenomenal
creation by conveying the correct knowledge of the twenty-four other
Tattvas, and rightly discriminating the soul from them.
Tăng Kiếp: Tăng kiếp là kiếp mà
trong đó đời người tăng dần từ 10 tuổi lên đến 84.000 tuổi, và chiều cao
của thân người tăng từ một bộ Anh lên đến 8,400 bộ Anh—The increasing
kalpas, or the kalpa of increment during which human life increases by one
year every century from an initial life of ten years, till it reaches
84,000 years, and the body from one foot to 8,400 feet in heigth—See Giảm
kiếp.
Tăng Kỳ: Sanghika (skt).
1) Liên
hệ đến Tăng Già: Relating to a Sangha.
2) Toàn
bộ đất và nhà cửa của một tự viện: A complete set of land and buildings
for a monastery.
3) Tên
tắt của A Tăng Kỳ có nghĩa là vô số vô lượng, không thể đếm được: An
abbreviation for Asamkhya, means innumerable.
Tăng Kỳ Bộ: Sanghikah (skt)—Tên
tắt của Ma Ha Tăng Kỳ Bộ hay Đại Chúng Bộ (một trong 20 bộ phái Tiểu Thừa.
Sau khi Đức Phật nhập diệt, trong lần kết tập kinh điển đầu tiên; phái
trong hang gọi là Thượng Tọa Bộ, phái ngoài hang gọi là Đại Chúng Bộ)—The
Mahasanghikah school.
Tăng Kỳ Chi: Sankaksika or
Uttarasanghati (skt)—Kiệt Chi—Tăng Ca—Tăng Kiệt Chi—Tăng Cước Kỳ—Tăng Cước
Kỳ Ca—Áo che vai hay áo che nách (mảnh vải hình chữ nhật), mặc bên trong
lớp áo cà sa hay mặc trực tiếp vào thân (áo lót trong). Mặc giống như áo
cà sa, choàng lên vai trái bọc qua bên dưới nách phải (dưới nách phải vòng
vắt lên vai trái)—Described as a kind of toga passed over the left
shoulder and under the right armpit.
Tăng Kỳ Luật: Sanghika-vinaya
(skt)—Tên gọi tắt của Ma Ha Tăng Kỳ Luật, luật của Đại Chúng Bộ dành cho
chư Tăng Ni—An abbreviation for Mahasanghika-vinaya, the rules for monks
and nuns.
Tăng Kỳ Vật: Đồ vật của Tăng
chúng (gồm tất cả đồ vật của Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, hay thập phương tín
thí)—Monastic possessions, or things.
Tăng Kỵ: Hatred and jealousy.
Tăng Lạp: Age in the
order—Precept age—Sacerdotal age—See An Cư Kiết Hạ.
Tăng Lữ: Tăng đồ hay bạn
Tăng—Monastic companions, or company—Clergy.
Tăng Na: Sannaha-sannaddha
(skt)—Lấy áo giáp để ví với những đại nguyện hay tứ hoằng thệ nguyện của
chư Phật và chư Bồ Tát—Girding on armour, interpreted as a Buddha’s or
Bodhisattva’s great vows, or the four great vows of Buddhas or
Bodhisattvas.
** For more information,
please see Tứ Hoằng Thệ Nguyện.
Tăng Na Tăng Niết: See Tăng Na.
Tăng Nghi: Uy nghi hình dáng
của chư Tăng Ni, như cắt tóc, cạo râu, mặc áo cà sa là những uy nghi cần
thiết đầu tiên cho chư Tăng Ni (phải giữ đúng uy nghi cho mọi người tôn
kính)—The monastic custom, i.e. shaving head and beard, wearing the robe,
etc.
Tăng Ngũ: Thứ vị trong Tăng
đoàn—The monastic ranks.
Tăng Nhã: Sanjna or Samjna
(skt)—Tưởng Uẩn là uẩn thứ ba trong ngũ uẩn—The third of the five
skandhas, i.e. thought, ideation, consciousness.
** For more information,
please see Ngũ Uẩn.
Tăng Nhất A Hàm Kinh:
Ekottara-agama (skt)—Bộ thứ nhất trong bốn bộ Kinh A Hàm, Tăng Nhất A Hàm
là bộ kinh mà mỗi phần được tăng lên một—One of the four Agamas, the agama
in which the sections each increase by one, e.g. the Anguttara Nikaya of
the Hinayana; a branch of classifying subjects numerically—See A Hàm Kinh.
Tăng Ni: Monks and nuns.
Tăng Ni Mà Sanh Lòng Sân Hận Trước Chúng
Sẽ Làm Mất Mỹ Cảm Chẳng Những Với Ngoại Đạo, Mà Còn Với Những Người Mới Tu
Nữa: When monks and nuns get angry in front of the public, they
create great loss of respect and good will not only to the externalists,
but also to other novice cultivators.
Tăng Phòng: Vihara or
Sangharama (skt)—Tăng Phương—Tăng phòng hay Ni phòng trong tự viện—A
monastery or nunery.
Tăng Quan: Tăng Chính—Tăng
Thống, tên một chức vị đầu tiên được triều đình Trung Quốc bổ nhiệm vào
thế kỷ thứ tư sau Tây Lịch, về sau dùng để gọi những vị có chức vị cao
nhất trong Tăng đoàn—Director of monks, an official first appointed by
Chinese government in the fourth century A.D.; later the term is used to
call a monk who has the most seniority in the Order.
Tăng Sa Già Lam: See Hỗ Sa Già
Lam.
Tăng Sĩ: Nhà Sư hay Tăng sĩ
Phật giáo là những vị đã phát nguyện Đại Thừa đi theo con đường của Phật,
không lập gia đình, sống đời đơn giản của người đi tìm cầu Chân Lý, hoặc
là một phần tử của cộng đồng tự viện hoặc là người du phương tu
đạo—Monks—Men who had taken the Mahayana vows to tread the Buddha’s Path
and who, unmarried, lived the simple life of truth-seekers either as
members of a monastic community or as itinerant followers of the Way.
Tăng Tàn: Sanghavasesa
(skt)—Sanghadisesa (p)—Tăng Già Bà Thi Sa—Tăng Sơ Tàn hay Tăng Tàn (tội
này xếp dưới trọng tội Ba La Di)—Tội của một vị Tăng cần phải được bộc
bạch hay phát lồ sám hối trước hội đồng để giải quyết. Nếu không phát lồ
sám hối sẽ bị coi như trọng tội Ba La Di và bị loại khỏi giáo đoàn. Mười
ba tội Tăng Tàn đa phần là phạm phải những tư tưởng hay lời nói dâm ô tham
lam—A sin of an ordained person requiring open confession before the
assembly for absolution or riddance. Failing confession means dismissal
from the order. Thirteen of these sins are of sexual thoughts, or their
verbal expression, also greed, even for the sake of the order.
Tăng Tắc Ca La: Samskara
(skt)—Hành uẩn, tức là uẩn thứ tư trong ngũ uẩn—Impressions resulting from
action, the fourth skandha.
** For more information,
please see Ngũ Uẩn.
Tăng Thêm: See Tăng (2).
Tăng Thứ: Ngôi thứ trong giới
Tăng Ni, quy định theo số tuổi hạ lạp nhiều hay ít—In order of monastic
age, according to years of ordination.
**For more information,
please see Biệt Thỉnh
Tăng Thượng: Thế lực lớn
mạnh—Additional—Increase—Superior—Strengthened.
Tăng Thượng Duyên: Các khởi tha
pháp mang lại cho sức mạnh lớn, thí dụ như nhãn căn có thể nãy sanh ra
nhãn thức—The cause, condition, or organ of advance to a higher stage,
e.g. the eye is able to produce sight.
Tăng Thượng Mạn: Abhimana
(skt)—High opinion of one’s self—Self-conceit—Haughtiness.
1) Một vị
Tăng nghĩ rằng mình đã chứng đắc, hoặc một vị Tăng cao ngạo, tự cho mình
là hay giỏi, không chịu tu trì Phật pháp—One of the seven arrogances.
pride (of superior knowledge), haughtiness, self-conceit, high opinion of
one’s self. A monk who thinks to have attained more than is the fact—A
Supremely (lofty—haughty) arrogant monk who has high opinion of one’s self
(self-conceit—self pride—haughtiness) and refuses to hear the Buddha’s
Teachings.
2) Trong
Pháp Hội Pháp Hoa, trong khi Đức Phật đang giảng Kinh Pháp Hoa, thì năm
ngàn vị Tỳ Kheo Tiểu Thừa, tưởng rằng mình đã chứng đắc, nên bỏ ra về, từ
chối không nghe Phật giảng kinh: When the Buddha preached about the Lotus
Sutra, there were 5,000 disciples who, in their Hinayana superiority,
thought they had gained all wisdom and refused to hear the Lotus sutra.
Tăng Thượng Quả: Adhipatiphala
(skt)—Một trong ngũ quả, quả tập hợp tạo bởi nghiệp nhân—One of the five
kinds of fruit, aggregate effect produced by the karma hetu—See Ngũ Quả.
Tăng Thượng Tâm: Tâm tăng
trưởng cường thịnh hay thế lực của định tâm, hay tâm siêu việt—Advancing
or improving mind, superior mind.
Tăng Thượng Tâm Học: Một trong
tam học, còn gọi là định học hay thiền định là cái học làm tăng trưởng cái
tâm—One of the three studies, the study of increased powers of mind
through meditation.
Tăng Tiến: To progress—To
advance.
Tăng Trật: To be promoted.
Tăng Trí: Một vị Bồ Tát có khả
năng cắt đứt phiền não và phát triển đầy đủ tăng trí để nhập niết bàn—A
Bodhisattva who is able to cut off all illusion and develop an advanced
knowledge that justifies his withdrawal to nirvana.
Tăng Trưởng: To increase (both
broad and long)—To promote.
1) Tăng:
Làm tăng chiều ngang—To increase in breadth.
2)
Trưởng: Làm tăng chiều cao hay chiều dài—To increase in height or length.
Tăng Trưởng Mục Thiên: Tăng
trưởng Thiên và Quảng mục Thiên Vương—Virudhaka and Siva—See Tăng Trưởng
Thiên, and Quảng Mục Thiên in Vietnamese-English Section.
Tăng Trưởng Thiên: Virudhaka
(skt)—Tên của vị Nam Thiên Vương—The Maharaja of the southern quarter—See
Tứ Thiên Vương.
Tăng Tục: Tăng Ni và tín đồ tại
gia—Buddhist clergy (monks) and laity.
Tăng Tự Tứ Nhật: Ngày rằm tháng
bảy. Kết thúc mùa an cư kiết hạ là ngày “Tự Tứ Tác Pháp” hay là tự mình
nêu ra các lỗi lầm mà mình mắc phải, rồi tự sám hối trước mọi người (nhờ
đó mà được thanh tịnh)—The 15th of the 7th month; the last day of the
summer retreat, on which the monks confessed their sins.
Tăng Tức: Lấy công năng tu trì
làm tăng khả năng cầu đảo tiêu tai cát tường—Increasing power of prayer
for cessation of calamity.
Tăng Viện: Buddhist monastery.
Tăng Xán: Seng-Ts’an (?-606)—Vị
Tổ thứ ba của Thiền Tông Trung Hoa—The Third Patriarch of the Chinese Zen
Sect—Theo Truyền Đăng Lục, thì lúc Tăng Xán tìm đến Tổ Huệ Khả, ngài đã là
một cư sĩ tuổi đã ngoài bốn mươi tuổi. Ngài đến đảnh lễ Thiền sư Huệ Khả,
thưa: “Đệ tử mắc chứng phong dạng, thỉnh Hòa Thượng từ bi sám hối tội
dùm!” Tổ Huệ Khả nói: “Đưa cái tội ra đây ta sám cho.” Hồi lâu cư sĩ thưa:
“Đệ tử kiếm tội mãi chẳng thấy đâu cả.” Tổ nói: “Thế là ta đã sám xong tội
của ngươi rồi đó. Từ nay, ngươi khá y nơi Phật Pháp Tăng mà an trụ.” Cư sĩ
thưa: “Nay tôi thấy Hòa Thượng thì biết đó là Tăng, nhưng chưa rõ thế nào
là Phật và Pháp.” Tổ nói: “Là Tâm là Phật, là Tâm là Pháp, Pháp và Phật
chẳng hai, Tăng bảo cũng y như vậy.” Cư sĩ thưa: “Nay tôi mới biết tội
tánh chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở giữa; cũng như tâm, Phật là
vậy, Pháp là vậy, chẳng phải hai vậy.” Cư sĩ được Tổ Huệ Khả thế phát, sau
đó biệt dạng mất trong đời, ít ai rõ được hành tung. Một phần do nạn ngược
đãi Phật giáo dưới thời Bắc Châu, do vua Lương Võ Đế chủ xướng. Đến năm
thứ 12 đời Khai Hoàng nhà Tùy, Tăng Xán tìm được bậc pháp khí để truyền
ngôi Tổ vị, đó là Đạo Tín. Sau đó Tăng Xán đi đâu không ai biết; tuy
nhiên, người ta nói ngài thị tịch khoảng năm 606 sau Tây Lịch—According to
The Transmission of the Lamp Records, when Seng-Ts’an came to see Hui-K’o
he as a lay man of forty years old. He came and bowed before Hui-K’o and
asked: “I am suffering from feng-yang, please cleanse me of my sins.” The
Patriarch said: “Bring your sins here and I will cleanse you of them.” He
was silent for a while but finally said: “As I seek my sins, I find them
unattainable.” The Patriarch said: “I have then finished cleansing you
altogether. From now on, you should take refuge and abide in the Buddha,
Dharma, and Sangha.” Seng-Ts’an said: “As I stand before you, O master, I
know that you belong to the Sangha, but please tell me what are the Buddha
and the Dharma?” The Patriarch replied: “Mind is the Buddha, Mind is the
Dharma; and the Buddha and the Dharma are not two. The same is to be said
of the Sangha (Brotherhood). This satisfied the disciple, who now said:
“Today for the first time I realize that sins are neither within nor
without nor in the middle; just as Mind is, so is the Buddha, so is the
Dharma; they are not two.” He was then ordained by Hui-K’o as a Buddhist
monk, and after this he fled from the world altogether, and nothing much
of his life is known. This was partly due to the persecution of Buddhism
carried on by the Emperor of the Chou dynasty. It was in the twelfth year
of K’ai-Huang, of the Sui dynasty (592 A.D.), that he found a disciple
worthy to be his successor. His name was Tao-Hsin. His whereabout was
unknown; however, people said that he passed away around 606 A.D.—For more
information, please see Tín Minh Tâm.
Tắng: Ghét—Hate—Dislike—See Oán
Tắng Hội Khổ.
Tắng Ái: Ghét và thương—Hate
and love.
Tằng Tịu: To have a love
affair.
Tằng Tổ: Great-grandparents.
Tằng Tổ Mẫu: Great-grandmother.
Tằng Tổ Phụ: Great-grandfather.
Tằng Tôn: Great-grandson.
Tằng Tôn Nữ:
Great-granddaughter.
Tặng:
1) Hiến
tặng: To offer—To donate—To give.
2) Tặng
vật: A present—A souvenir.
3) Tước
hiệu sau khi qua đời: Posthumous honours—A title patent.
Tặng Biệt Dạ: Nghi lễ đêm trước
lễ an táng—The night of ceremony before a funeral.
Tặng Ngũ Trọng: Tông Tịnh Độ có
năm nghi thức để tiếp dẫn người quá vãng—A service of the Pure Land sect,
consisting of five esoteric rituals, for admitting the deseased into the
lineage of the Buddha to ensure his welfare in the next life.
Tặng Phẩm: Gift—Present.
Tặng Phong: To confer titles.
Tặng Thưởng: To reward—To
recompense.
Tắt:
1) Tắt
đèn: To extinguish—To turn off (by someone).
2) Chết:
To go out—To die out (down) by itself.
Tắt Hơi: To pass away—To die.
TÂ
Tấc Dạ: Heart—Feelings.
Tấc Đất: An inch of land.
Tâm: Hrdaya or Citta
(skt)—Mind.
(I) Nghĩa
của Tâm—The meanings of Citta:
(A) Tâm là
gốc của muôn pháp. Trong Tâm Địa Quán Kinh, Đức Phật dạy: “Trong Phật
pháp, lấy tâm làm chủ. Tất cả các pháp đều do tâm sanh.” Tâm tạo ra chư
Phật, tâm tạo thiên đường, tâm tạo địa ngục. Tâm là động lực chính làm cho
ta sung sướng hay đau khổ, vui hay buồn, trầm luân hay giải thoát—The mind
is the root of all dharmas. In Contemplation of the Mind Sutra, the Buddha
taught: “All my tenets are based on the mind that is the source of all
dharmas." The mind has brought about the Buddhas, the Heaven, or the Hell.
It is the main driving force that makes us happy or sorrowful, cheerful or
sad, liberated or doomed.
(B) Có một số
từ ngữ Sanskrit và Ba Li chỉ tâm như Mana, Citta, Vijnana, Vinnana. Tâm là
một tên khác của A Lại Da Thức (vì nó tích tập hạt giống của chư pháp hoặc
huân tập các hạt giống từ chủng tử chủng pháp mà nó huân tập). Không giống
như xác thân vật chất, cái tâm là phi vật chất. Chúng ta nhận thức được
những tư tưởng và cảm nghĩ của chúng ta cùng nhiều điều khác bằng trực
giác, và chúng ta kết luận sự hiện hữu của chúng bằng phép loại suy: There
are several Sanskrit and Pali terms for mind such as Mana, Citta, Vijnana,
and Vinnana. “Mind” is another name for Alaya-vijnana. Unlike the material
body, immaterial mind is invisible. We are aware of our thoughts and
feelings and so forth by direct sensation, and we infer their existence in
others by analogy.
(C) Định
nghĩa về “Tâm” đổi khác tùy theo dân tộc và văn hóa. Nếu hỏi một người
Việt Nam bình thường rằng tâm ở chỗ nào, người ấy sẽ chỉ vào trái tim hay
lồng ngực; tuy nhiên, để trả lời cho cùng câu hỏi nầy, người Tây phương sẽ
chỉ vào cái đầu của họ. Theo Phật giáo, tâm hay yếu tố tinh thần được định
nghĩa là sự sáng suốt và hiểu biết. Nó không có hình tướng, không ai nhìn
thấy nó; tuy nhiên, tâm tạo tác mọi hành động khiến chúng ta đau khổ và
lăn trôi trong luân hồi sanh tử. Tất cả mọi hoạt động vật chất, lời nói
hay tinh thần đều tùy thuộc tâm ta. Phận sự của tâm là nhận biết được đối
tượng. Nó phân biệt giữa hình thức, phẩm chất, vân vân. Cách duy nhất để
đạt được Phật tánh là huấn luyện và chuyển hóa tâm cho đến khi chúng ta
hoàn toàn thoát khỏi những nhiễm trược. Trong Anh ngữ, “mind” có nghĩa là
trái tim, tinh thần, hay linh hồn. Mind với chữ “m” thường có nghĩa là chỗ
ở của lý trí, “Mind” với chữ “M” viết hoa có nghĩa là chân lý tuyệt đối.
Theo kinh nghiệm nhà thiền, thì tâm là toàn bộ tỉnh thức, nói cách khác
lắng nghe khi nghe là tỉnh thức—Heart—Soul—Mind—The definition of Mind
varies with different people in different cultures. If you ask an ordinary
Vietnamese where his mind is and chances are he will point to his heart or
chest; however, when you ask the same question of a Westerner and he will
indicate his head. According to the Buddha, mind (or heart as the seat of
thought or intelligence or mental factors) is defined as clarity and
knowing. It is formless which no one can see it; however, it is our mind
which has created the actions which cause us to experience suffering and
to be born in cyclic existence or samsara. All our physical, verbal and
mental actions depend on our mind. The function of the mind is to
perceive, to apprehend and to know its objects. It discerns and
discriminates between forms, qualities, aspects and so forth. The only way
to reach Buddhahood is by training in the control and transformation of
our mind until we are completely free from all obscurations and
defilements. In English “mind” means “heart,” “spirit,” “psyche,” or
“soul.” Mind with a small “m” means the seat of the intellect. Mind with a
capital “M” stands for absolute reality. From the standpoint of Zen
experience, “mind” means total awareness. In other words, just listening
when hearing.
(D) Theo Hòa
Thượng Dhammananda trong Những Hạt Ngọc Trí Tuệ Phật Giáo, tâm có thể được
định nghĩa đơn giản là sự nhận thức về một đối tượng bởi không có một tác
nhân hay linh hồn chỉ huy mọi hoạt động. Tâm bao gồm trạng thái tính
thoáng qua luôn luôn trỗi lên rồi mất đi nhanh như tia chớp. “Vì sinh ra
để thành nguồn của nó và chết đi để trở thành lối vào của nó, nó bền vững
tràn trề như con sông nhận nước từ các suối nguồn bồi thêm vào dòng chảy
của nó.” Mỗi thức nhất thời của dòng đời không ngừng thay đổi, khi chết đi
thì truyền lại cho thức kế thừa toàn bộ năng lượng của nó, tất cả những
cảm tưởng đã ghi không bao giờ phai nhạt. Cho nên mỗi thức mới gồm có tiềm
lực của thức cũ và những điều mới. Tất cả nhữõng cảm nghĩ không phai nhạt
được ghi vào cái tâm không ngừng thay đổi, và tất cả được truyền thừa từ
đời nầy sang đời kia bất chấp sự phân hủy vật chất tạm thời nơi thân. Vì
thế cho nên sự nhớ lại những lần sanh hay những biến cố trong quá khứ trở
thành một khả năng có thể xãy ra. Tâm là con dao hai lưỡi, có thể xử dụng
cho cả thiện lẫn ác. Một tư tưởng nổi lên từ một cái tâm vô hình có thể
cứu hay phá hoại cả thế giới. Một tư tưởng như vậy có thể làm tăng trưởng
hay giảm đi dân cư của một nước. Tâm tạo Thiên đàng và địa ngục cho chính
mình—According to Most Venerable Dhammananda in The Gems of Buddhist
Wisdom, mind may be defined as simply the awareness of an object since
there is no agent or a soul that directs all activities. It consists of
fleeting mental states which constantly arise and perish with lightning
rapidity. “With birth for its source and death for its mouth, it
persistently flows on like a river receiving from the tributary streams of
sense constant accretions to its flood.” Each momentary consciousness of
this everchanging lifestream, on passing away, transmits its whole energy,
all the indelibly recorded impressions, to its successor. Every fresh
consciousness therefore consists of the potentialities of its
predecessors and something more. As all impressions are indelibly recorded
in this everchanging palimpsest-like mind, and as all potentialities are
transmitted from life to life, irrespective of temporary physical
disintegrations, reminiscence of pst births or past incidents become a
possibility. Mind is like a double-edged weapon that can equally be used
either for good or evil. One single thought that arises in this invisible
mind can even save or destroy the world. One such thought can either
populate or depopulate a whole country. It is mind that creats one’s
paradise and one’s hell.
(E) Citta
còn được định nghĩa như là toàn bộ hệ thống thức, bổn nguyên thanh tịnh,
hay tâm. Citta thường được dịch là “ý tưởng.” Trong Kinh Lăng Già cũng như
trong các kinh điển Đại Thừa khác, citta được dịch đúng hơn là “tâm.” Khi
nó được định nghĩa là “sự chất chứa” hay “nhà kho” trong đó các chủng tử
nghiệp được cất chứa, thì citta không chỉ riêng nghĩa ý tưởng mà nó còn có
ý nghĩa có tính cách hữu thể học nữa: Citta is defined as the whole system
of vijnanas, originally pure, or mind. Citta is generally translated as
“thought.” In the Lankavatara Sutra as well as in other Mahayana sutras,
citta may better be rendered “mind.” When it is defined as “accumulation”
or as “store-house” where karma seeds are deposited, it is not mere
thought, it has an ontological signification also.
(F) Trong
Kinh Pháp Cú, Đức Phật dạy: “Tâm dẫn đầu các hành vi, tâm là chủ, tâm tạo
tác tất cả.”—In The Dhammapada Sutta, the Buddha taught: “Mind fore-runs
deeds; mind is chief, and mind-made are they.”
(G) Trong
Phật giáo không có sự phân biệt giữa tâm và thức. Cả hai đều được dùng như
đồng nghĩa: In Buddhism, there is no distinction between mind and
consciousness. Both are used as synonymous terms.
(H) Theo Đại
Sư Ấn Quang: “Tâm bao hàm hết khắp cả thập pháp giới, đó là Phật pháp
giới, Bồ Tát pháp giới, Duyên Giác pháp giới, Thanh Văn pháp giới, Thiên
pháp giới, Nhân pháp giới, A Tu La pháp giới, Súc Sanh pháp giới, Ngạ Quỷ
pháp giới, và Địa Ngục pháp giới. Một tâm mà hay sanh tất cả. Phật cũng do
tâm sanh, mà địa ngục cũng do tâm tạo.”—According to Great Master
Ying-Kuang: “The mind encompasses al the ten directions of dharma realms,
including Buddha dharma realm, Bodhisatva dharma realm, Pratyeka-Buddha
dharma realm, Sravaka dharma realm, Heaven dharma realm, Human dharma
realm, Asura dharma realm, Animal dharma realm, Hungry Ghost dharma realm,
and Hell dharma realm. One mind can give rise to everything. Buddhas arise
from within the cultivator’s mind, Hells also arise from the cultivator’s
mind.”
(II) Phân
loại Tâm—Categories of Citta:
(A) Nhị Tâm:
Two kinds of mind—See Nhị Tâm.
(B) Tam Tâm:
Three minds or hearts—See Tam Tâm.
(C) Tứ Tâm:
Four kinds of mind—See Tứ Tâm, and Tứ Vô Lượng Tâm.
(D) Ngũ Tâm:
Five kinds of mind—See Ngũ Tâm, Năm Tâm Hoang Vu, and Ngũ Tâm Phiền Trược.
(E) Lục Tâm:
Six kinds of mind—There are various definitions, of which the following
are six instances:
1) Nhục
Đoàn Tâm: Quả tim bằng thịt của chúng sanh—The physical heart of sentient
or non-sentient living beings.
2) Tập
Khởi Tâm: Thức thứ tám hay Alaya thức, nguồn sinh khởi hoạt động của các
pháp—The Alaya-vijnana—Totality of mind and the source of all mental
activities.
3) Tư
Lượng Tâm: Ý thức (thức thứ bảy)—Manas—The thinking and calculating mind.
4) Duyên
Lự Tâm: Lự tri tâm—Liễu biệt tâm—The discriminating mind.
5) Kiên
Thực Tâm: Tâm chân như hay tâm chân thực chẳng sinh chẳng diệt—The
bhutatathata mind or the permanent mind.
6) Tích
Tụ Tinh Yếu Tâm: Tâm tích tụ hết thảy mọi yếu nghĩa trong kinh—The mind
essence of the sutras.
** For more information,
please see Lục
Tâm.
(F) Thất
Tâm: Seven kinds of mind—See Thất Tâm Giới.
(G) Bát Tâm:
Eight minds—See Bát Tâm, and Tám Tâm Siêu Thế.
(H) Thập Tâm:
Ten minds—See Thập Tâm Thương Xót, and Thập Tâm Niệm.
(III)
Kiểm soát Tâm—Control your mind:
(A) Tâm trí
con người ảnh hưởng sâu đậm trên cơ thể—Man’s mind influences his body
profoundly.
1) Nếu để
tâm ta hoạt động tội lỗi và nuôi dưỡng tư tưởng bất thiện, tâm có thể gây
ra những thảm họa. Tâm có thể giết chúng sanh, nhưng tâm có thể chữa khỏi
thân bệnh—If allowed to function viciously and entertain unwholesome
thoughts, mind can cause disaster, it can even kill a being, but it can
cure a sick body.
2) Khi
tâm trí được tập trung về những tư tưởng lành mạnh với cố gắng và hiểu
biết chính đáng, hiệu quả mà nó có thể sinh ra rất rộng lớn. Tâm trí với
tư tưởng trong sáng và lành mạnh thực sự đưa đến một cuộc sống khỏe mạnh
thoải mái—When the mind is concentrated on right thoughts with right
effort and understanding the effect it can produce is immense. A mind with
pure and wholesome thoughts really does lead to healthy relaxed living.
3) Chính
vì thế mà Đức Phật dạy: “Không có kẻ thù nào làm hại chúng ta bằng tư
tưởng tham dục, đố kỵ, ganh ghét, vân vân. Một người không biết điều chỉnh
tâm mình cho thích hợp với hoàn cảnh thì chẳng khác gì thây ma trong quan
tài. Hãy nhìn vào nội tâm và cố gắng tìm thấy lạc thú trong lòng và bạn sẽ
thấy một suối nguồn vô tận lạc thú trong nội tâm sẵn sàng cho bạn vui
hưởng—Thus, the Buddha taught: “No enemy can harm one so much as one’s own
thoughts of craving, thoughts of hate, thoughts of jealousy, and so on. A
man who does not know how to adjust his mind according to circumstances
would be like a corpse in a coffin. Turn your mind to yourself, and try to
find pleasure within yourself, and you will always find therein an
infinite source of pleasure ready for your enjoyment.
4) Chỉ
khi tâm trí được kềm chế và giữ đúng trên con đường chính đáng của sự tiến
bộ nhịp nhàng thứ tự thì nó sẽ trở nên hữu ích cho sở hữu chủ và cho xã
hội. Tâm phóng túng bừa bãi sẽ là mối nguy cơ. Tất cả sự tàn phá gieo rắc
trên thế giới nầy đều do sự tạo thành loài người mà tâm trí không được
huấn luyện, kềm chế, cân nhắc và thăng bằng—It is only when the mind is
controlled and is kept to the right road of orderly progress that it
becomes useful for its possessor and for society. A disorderly mind is a
liability both to its owner and to others. All the havoc in the world is
created by men who have not learned the way of mind control, balance and
poise.
5) Bình
tĩnh không phải là yếu đuối. Một thái độ bình tĩnh luôn thấy trong con
người có văn hóa. Chẳng khó khăn gì cho một người giữ được bình tĩnh trước
những điều thuận lợi, nhưng giữ được bình tĩnh khi gặp việc bất ổn thì
thực là khó khăn vô cùng. Bằng sự bình tĩnh và tự chủ, con người xây được
sức mạnh nghị lực—Calmness is not weakness. A calm attitude at all times
shows a man of culture. It is not too difficult for a man to be calm when
things are favourable, but to be calm when things are going wrong is
difficult indeed. Calmness and control build up a person’s strength and
character.
(B) Tâm bị
ảnh hưởng bởi sự bất an, khiêu khích, nóng giận, cảm xúc, và lo lắng—The
mind is influenced by bad mood, provoke, emotion, and worry:
1) Không
nên đi đến một quyết định vội vàng nào đối với bất cứ vấn đề gì khi bạn
đang ở trong một tâm trạng bất an hay bị khiêu khích, ngay cả lúc bạn
thoải mái ảnh hưởng bởi cảm xúc, vì quyết định trong lúc cảm xúc bạn có
thể phải hối tiếc về sau nầy—You should not come to any hasty decision
regarding any matter when you are in a bad mood or when provoked by
someone, not even when you are in good mood influenced by emotion, because
such decision or conclusion reached during such a period would be a matter
you could one day regret.
2) Nóng
giận là kẻ thù tệ hại nhất của chính bạn. Tâm là người bạn tốt nhất, mà
cũng là kẻ thù tệ hại nhất. Bạn phải cố gắng tiêu diệt những đam mê của
tham, sân, si tiềm ẩn trong tâm bằng cách tu tập giới định huệ—Angry is
the most dangerous enemy. Mind is your best friend and worst woe. You must
try to kill the passions of lust, hatred and ignorance that are latent in
your mind by means of morality, concentration and wisdom.
3) Bí
quyết của đời sống hạnh phúc và thành công là phải làm những gì cần làm
ngay từ bây giờ, và đừng lo lắng về quá khứ cũng như tương lai. Chúng ta
không thể trở lại tái tạo được quá khứ và cũng không thể tiên liệu mọi thứ
có thể xãy ra cho tương lai. Chỉ có khoảng thời gian mà chúng ta có thể
phần nào kiểm soát được, đó là hiện tại—The secret of happy, successful
living lies in doing what needs to be done now, and not worrying about the
past and the future. We cannot go back into the past and reshape it, nor
can we anticipate everything that may happen in the future. There is one
moment of time over which we have some conscious control and that is the
present.
(C) Trau dồi
lòng từ ái và sự lấy ơn trả ơn nơi tâm—Cultivate your mind with
loving-kindness and returning good for evil:
1) Hãy
trau dồi tâm bằng lòng từ ái—Let’s cultivate our minds with
loving-kindness: Nếu có thể an ủi người khác bằng những lời lẽ dịu dàng để
làm cho họ an lòng và hạnh phúc thì tại sao chúng ta không làm? Nếu chúng
ta có thể giúp đở người khác bằng của cải thì dù việc bác ái nầy nhỏ nhoi
đến thế nào đi nữa nó cũng không thể nghĩ bàn được—If we can console
others with kinds words that can make them feel peaceful and happy, why
don’t we do that? If we can help others with worldly possessions,
however, scanty that charity may be, it is inconceivable.
2) Trau
dồi tâm bằng cách lấy ân trả oán—Cultivate the mind by returning good for
evil: Trong Những Hạt Ngọc Trí Tuệ Phật Giáo, Hòa Thượng Dhammananda đã
khẳng định: “Nếu bạn không muốn có kẻ thù, trước tiên bạn phải giết kẻ thù
lớn nhất chính nơi bạn, đó là sự nóng giận của bạn. Hơn nữa, nếu bạn hàm
hồ hành động có nghĩa là bạn đã làm đúng những ước vọng của kẻ thù bạn, vô
tình bạn đã sa vào bẫy của họ. Bạn không nên nghĩ rằng bạn chỉ học hỏi
được từ những người tán dương, giúp đỡ và thân cận gần gũi bạn. Có nhiều
điều bạn có thể học hỏi được từ kẻ thù; bạn không nên nghĩ rằng họ hoàn
toàn sai vì họ là kẻ thù của bạn. Kẻ thù của bạn đôi khi có nhiều đức tính
tốt mà bạn không ngờ được. Bạn không thể nào loại bỏ kẻ thù bằng cách lấy
oán báo oán. Nếu làm như vậy bạn sẽ tạo thêm kẻ thù mà thôi. Phương pháp
tốt nhất và đúng nhất để chống lại kẻ thù là mang lòng thương yêu đến họ.
Bạn có thể nghĩ rằng điều đó không thể làm được hay vô lý. Nhưng phương
pháp đó đã được người trí đánh giá rất cao. Khi bạn bắt đầu biết một người
nào đó rất giận dữ với bạn, trước nhất bạn hãy cố gắng tìm hiểu nguyên
nhân chính của sự thù hằn đó; nếu là lỗi của bạn thì bạn nên thừa nhận và
không ngần ngại xin lỗi người đó. Nếu là do sự hiểu lầm giữa hai người thì
bạn nên giải bày tâm sự và cố gắng làm sáng tỏ cho người đó. Nếu vì ganh
ghét hay cảm nghĩ xúc động nào đó, hãy đem lòng từ ái đến cho người ấy để
bạn có thể ảnh hưởng người đó bằng năng lượng tinh thần—In The Gems of
Buddhism Wisdom, Most Venerable Dhammanada confirmed: “If you want to get
rid of your enemies you should first kill your anger which is the greatest
enemy within you. Furthermore, if you act inconsiderately, you are
fulfilling the wishes of your enemies by unknowingly entering into their
trap. You should not think that you can only learn something from those
who praise and help you and associate with you very close. There are many
things you can learn from your enemies also; you should not think they are
entirely wrong just because they happen to be your enemies. You cannot
imagine that sometimes your enemies also possess certain good qualities.
You will not be able to get rid of your enemies by returning evil for
evil. If you do that then you will only be inviting more enemies. The best
and most correct method of overcoming your enemies is by radiating your
kindness towards them. You may think that this is impossible or something
nonsensical. But this method is very highly appreciated by all wise
people. When you come to know that there is someone who is very angry with
you, you should first try to find out the main cause of that enmity; if it
is due to your mistake you should admit it and should not hesitate to
apologize to him. If it is due to certain misunderstandings between both
of you, you must have a heart to heart talk with him and try to enlighten
him. If it is due to jealousy or some other emotional feeling you must try
to radiate your loving-kindness towards him so that you will be able to
influence him through your mental energy.
(D) Trau dồi
độ lượng và khiêm tốn nơi tâm—Cultivate your mind with tolerance,
humility, and patience:
1) Hãy
trau dồi độ lượng, vì độ lượng giúp bạn tránh những phán xét vội vàng,
thông cảm với những khó khăn của người khác, tránh phê bình ngụy biện để
nhận thức rằng cả đến người tài ba nhất cũng không thể không sai lầm;
nhược điểm mà bạn tìm thấy nơi người cũng có thể là nhược điểm của chính
bạn—Cultivate tolerance, for tolerance helps you to avoid hasty judgments,
to sympathize with other people’s troubles, to avoid captious criticism,
to realize that even the finest human being is not infallible; the
weakness you find in other people can be found in yourself too.
2) Khiêm
nhường không phải là nhu nhược, mà khiêm nhường là cái thước đo của người
trí để hiểu biết sự khác biệt giữa cái hiện tại và cái sẽ đến. Chính Đức
Phật đã bắt đầu sứ mệnh hoằng pháp của Ngài bằng đức khiêm cung là loại bỏ
tất cả niềm kiêu hãnh của một vị hoàng tử. Ngài đã đạt Thánh quả nhưng
chẳng bao giờ Ngài mất cái hồn nhiên, và chẳng bao giờ Ngài biểu lộ tánh
kẻ cả hơn người. Những lời bình luận và ngụ ngôn của Ngài chẳng bao giờ
hoa mỹ hay phô trương. Ngài vẫn luôn có thì giờ để tiếp xúc với những
người hèn kém nhất—Humility is not weakness, humility is the wise man’s
measuring-rod for learning the difference between what is and what is yet
to be. The Buddha himself started his ministry by discarding all his
princely pride in an act of humility. He attained sainthood during his
life, but never lost his naturalness, never assumed superior airs. His
dissertations and parables were never pompous. He had time for the most
humble men.
3) Kiên
nhẫn với tất cả mọi chuyện. Nóng giận đưa đến rừng rậm không lối thoát.
Trong khi nóng giận chẳng những chúng ta làm bực bội và làm người khác khó
chịu vô cùng, mà chúng ta còn làm tổn thương chính mình, làm yếu đi thể
chất và rối loạn tâm. Một lời nói cộc cằn giống như một mũi tên từ cây
cung bắn ra không bao giờ có thể lấy lại được dù cho bạn có xin lỗi cả
ngàn lần—Be patient with all. Anger leads one through a pathless jungle.
While it irritates and annoys others, it also hurts oneself, weakens the
physical body and disturbs the mind. A harsh word, like an arrow
discharged from a bow, can never be taken back even if you would offer a
thousand apologies for it.
(IV)
Tâm là đối tượng của Thiền Quán—Minds or mental states as objects of
meditation practices—Theo Tỳ Kheo Piyananda trong Những Hạt Ngọc Trí Tuệ
Phật Giáo, bạn không thể chạy trốn khỏi tâm. Với thiền bạn có thể huấn
luyện cho tâm bình tĩnh và thoát khỏi những xáo trộn bên trong hay bên
ngoài. Áp dụng tập trung tỉnh thức với những hỗn loạn bên trong và mâu
thuẫn tinh thần, quan sát hay chú tâm đến tất cả những trạng thái thay đổi
của tâm. Khi tâm được phát triển đúng cách, nó sẽ mang lại niềm vui và
hạnh phúc nhất. Nếu tâm bị xao lãng nó sẽ mang lại cho bạn trở ngại và khó
khăn không thể kể xiết. Tâm kỹ luật rất mạnh mẽ và hữu hiệu. Người trí
huấn luyện tâm họ như người ta huấn luyện ngựa vậy. Vì thế bạn nên quan
sát tâm mình—According to Bikkhu Piyananda in The Gems of Buddhism Wisdom,
you cannot run away from your mind. By meditation, you can train the mind
to keep calm and be free from disturbances either from within or outside.
Apply concentrated awareness to the internal confusions and mental
conflicts, and observe or pay attention to all the changing states of your
mind. When the mind is properly developed, it brings happiness and bliss.
If the mind is neglected, it runs you into endless troubles and
difficulties. The disciplined mind is strong and effective, while the
wavering mind is weak and ineffective. The wise train their minds as
thoroughly as a horse-trainer train their horses. Therefore, you should
watch you mind:
(A) Khi bạn
ngồi một mình bạn nên quan sát những thay đổi nơi tâm. Chỉ nên quan sát mà
không chống cự lại hay trốn chạy hay kiểm soát những thay đổi ấy: When you
sit alone, you should observe the changing conditions of the mind. The
task is only a matter of observing the changing states, not fighting with
the mind, or avoid it, or try to control it.
1) Khi
tâm đang ở trạng thái tham dục, nên tỉnh thức biết mình đang có tâm tham
dục: When the mind is in a state of lust, be aware that we are having a
mind of lust.
2) Khi
tâm đang ở trạng thái sân hận hay không sân hận, nên tỉnh thức biết mình
đang có tâm sân hận hay tâm không sân hận: When the mind is in a state of
hatred or when it is free from hatred, be aware that we are having a mind
of hatred or free from hatred.
3) Khi
tâm tập trung hay tâm mông lung, bạn nên tỉnh thức biết mình đang có tâm
tập trung hay tâm mông lung: When you have the concentrated mind or the
scattered mind, you should be aware that we are having a concentrated or a
scattered mind.
4) Bạn
nên luôn nhớ nhiệm vụ của mình là quan sát những hoàn cảnh thay đổi mà
không đồng hóa với chúng: You should always remember that your job is to
observe all these changing conditions without identifying yourself with
them.
5) Nhiệm
vụ của bạn là không chú tâm vào hoàn cảnh bên ngoài mà chú tâm vào chính
bạn. Quả là khó khăn, nhưng có thể làm được: Your job is to turn your
attention away from the outside world and focus in yourself. This is very
difficult, but it can be done.
(B) Quan sát
tâm bạn trong đời sống hằng ngày—Watching your mind in daily life—Quan sát
tâm trong tất cả mọi hoàn cảnh—To observe your mind in all kinds of
situations:
1) Quan
sát sự làm việc của tâm nhưng không đồng nhất hay bào chữa cho tư tưởng
của bạn: To observe the working of your mind without identifying with or
finding justification for your thoughts.
2) Không
xây bức màn thành kiến: Without erecting the screen of prejudice.
3) Không
mong chờ tưởng thưởng hay thỏa mãn: Without expecting reward or
satisfaction.
4) Quan
sát thấy những cảm giác ham muốn, sân hận, ganh ghét, và nhiều trạng thái
bất thiện khác phát sanh và làm đảo lộn sự quân bình của tâm, từ đó tiếp
tục hành thiền để loại bỏ chúng: To observe the senses of desire, hatred,
jealousy and other unwholesome states that arise and upset the balance of
the mind. Continue meditation practices to check and eliminate these
harmful elements.
(V) Những lời
Phật dạy về Tâm trong Kinh Pháp Cú—The Buddha’s teachings of the Mind in
the Dharmapada Sutra:
1) Trong
các pháp, tâm dẫn đầu, tâm là chủ, tâm tạo tác tất cả. Nếu đem tâm ô nhiễm
nói năng hoặc hành động, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn
theo chân con vật kéo xe—Of all dharmas, mind is the forerunner, mind is
chief. We are what we think, we have become what we thought (what we are
today came from our thoughts of yesterday). If we speak or act with a
deluded mind or evil thoughts, suffering or pain follows us, as the wheel
follows the hoof of the draught-ox (Dharmapada 1).
2) Trong
các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác tất cả. Nếu đem tâm thanh
tịnh tạo nghiệp nói năng hoặc hành động, sự vui sẽ theo nghiệp kéo đến như
bóng với hình—Of all dharmas, mind is the forerunner, mind is chief. We
are what we think, we have become what we thought. If we speak or act with
a pure mind or thought, happiness and joy follows us, as our own shadow
that never leaves (Dharmapada 2).
3) Nhà
lợp không kín ắt bị mưa dột thế nào, kẻ tâm không tu tất bị tham dục lọt
vào cũng thế—As rain penetrates and leaks into an ill-thatched hut, so
does passion enter an untrained mind (uncultivated mind)—Dharmapada 13.
4) Nhà
khéo lợp kín ắt không bị mưa dột, kẻ tâm khéo tu tất không bị tham dục lọt
vào—As rain does not penetrate a well-thatched hut, so does passion not
enter a cultivated mind (Dharmapada 14).
5) Tâm kẻ
phàm phu thường xao động biến hóa rất khó chế phục gìn giữ, nhưng kẻ trí
lại chế phục tâm mình làm cho chánh trực một cách dễ dàng, như thợ khéo
uốn nắn mũi tên—The wavering and restless, or unsteady mind, difficult to
guard, difficult to hold back; a wise man steadies his trembling mind and
thought, as a fletcher makes straight his arrow (Dharmapada 33).
6) Như
con cá bị quăng lên bờ sợ sệt và vùng vẫy thế nào, thì cũng như thế, các
người hãy đem tâm lo sợ, phấn đấu để mau thoát khỏi cảnh giới ác ma—As a
fish drawn from its watery abode and thrown upon the dry land, our thought
quivers all over in its effort to escape the realm of Mara (Dharmapada
34).
7) Tâm
phàm phu cứ xoay vần theo ngũ dục, xao động không dễ nắm bắt; chỉ những
người nào đã điều phục được tâm mình mới được yên vui—It is good to
control the mind, which is difficult to hold in and flighty, rushing
wherever it wishes; a controlled mind brings happiness (Dharmapada 35).
8) Tâm
phàm phu cứ xoay vần theo ngũ dục, biến hóa u-ẩn khó thấy, nhưng người trí
lại thường phòng hộ tâm mình, và được yên vui nhờ tâm phòng hộ ấy—The mind
is hard to perceive, extremely subtle, flits whenever it wishes. Let the
wise person guard it; a guarded mind is conducive to hapiness (Dharmapada
36).
9) Tâm
phàm phu cứ lén lút đi một mình, đi rất xa, vô hình vô dạng như ẩn náu
hang sâu, nếu người nào điều phục được tâm, thì giải thoát khỏi vòng ma
trói buộc—Traveling far, wandering alone, bodiless, lying in a cave, is
the mind. Those who subdue it are freed from the bonds of Mara (Dharmapada
37).
10) Người tâm
không an định, không hiểu biết chánh pháp, không tín tâm kiên cố, thì
không thể thành tựu được trí tuệ cao—He whose mind is not steady, he who
does not know the True Law, he whose confidence wavers, the wisdom of such
a person will never be perfect (Dharmapada 38).
11) Người tâm
đã thanh tịnh, không còn các điều hoặc loạn, vượt trên những nghiệp thiện
ác thông thường, là người giác ngộ, chẳng sợ hãi—He whose mind is free
from lust of desires, he who is not affected by hatred, he who has
renounced both good and evil, for such a vigilant one there is no fear
(Dharmapada 39).
12) Cái hại
của kẻ thù gây ra cho kẻ thù hay oan gia đối với oan gia, không bằng cái
hại của tâm niệm hướng về hành vi tà ác gây ra cho mình—Whatever harm an
enemy may do to an enemy, or a hater to a hater, an ill-directed mind can
do one far greater harm (Dharmapada 42).
10) Chẳng
phải cha mẹ hay bà con nào khác làm, nhưng chính tâm niệm hướng về hành vi
chánh thiện làm cho mình cao thượng hơn—What neither mother, nor father,
nor any other relative can do, a well-directed mind can do one far greater
good (Dharmapada 43).
13) Những vị
A-la-hán đã bỏ hết lòng sân hận, tâm như cõi đất bằng, lại chí thành kiên
cố như nhân đà yết la, như ao báu không bùn, nên chẳng còn bị luân hồi
xoay chuyển—Like the earth, Arhats who are balanced and well-disciplined,
resent not. He is like a pool without mud; no new births are in store for
him (Dharmapada 95).
14) Những vị
A-la-hán ý nghiệp thường vắng lặng, ngữ nghiệp hành nghiệp thường vắng
lặng, lại có chánh trí giải thoát, nên được an ổn luôn—Those Arhats whose
mind is calm, whose speech and deed are calm. They have also obtained
right knowing, they have thus become quiet men (Dharmapada 96).
15) Trong
những thời quá khứ, ta cũng từng thả tâm theo dục lạc, tham ái và nhàn du,
nhưng nay đã điều phục được tâm ta như con voi đã bị điều phục dưới tay
người quản tượng tài giỏi—In the past times, this mind went wandering
wherever it liked, as it wished and as it pleased. But now I shall
completely hold it under control as a rider with his hook a rutting
elephant (Dharmapada 326).
16) Hãy vui
vẻ siêng năng, gìn giữ tự tâm để tự cứu mình ra khỏi nguy nan, như voi
gắng sức để vượt khỏi chốn sa lầy—Take delight in heedfulness, check your
mind and be on your guard. Pull yourself out of the evil path, just like
the elelphant draws itself out of the mud (Dharmapada 327).
Tâm Ái Lập: Mind of perfect
receptivity.
Tâm An Lạc: Calm and joyful
mind.
Tâm An Bịnh Giải: Once the mind
is tranquil, disease will be chased out.
Tâm Ấn:
1) Tâm
Ấn: Tâm được Phật ấn chứng về chân lý. Từ ngữ chỉ ấn chứng bằng trực giác,
chứ không qua ngôn ngữ hay văn tự (tâm ấn là cách truyền đạo đặc biệt của
Thiền Tông. Phái nầy chẳng nương theo văn tự trong kinh điển, chăng dùng
lời nói. Hễ sư phụ thấy trình độ của đệ tử có thể thọ lãnh giáo pháp, bèn
dùng tâm mà ấn tâm, tức là đem cái tâm Phật nơi mình mà in thẳng vào tâm
của đệ tử)—Mental impression—Intuitive certainty—The mind is the Buddha
mind in all, which can seal or assure the truth. The term indicates the
intuitive method of the Ch’an (Zen) school, which was independent of the
spoken or written word.
2) Phật
Tâm Ấn: Dấu in vào tâm hay dấu hiệu truyền tâm từ tâm của một vị thiền sư
qua tâm của một đệ tử—Mind-seal of the Buddha, a sign of the true
transmission from a Zen master to his disciple.
Tâm Ba: Mind waves (mental
activities).
Tâm Băng: Trong tâm có điều gì
khó khăn ứ đọng không giải quyết được đóng băng—The mind (heart) congealed
as ice (unable to solve a difficulty).
Tâm Bất An: Cittasukha
(skt)—Uneasiness of mind.
Tâm Bất Điên Đảo: The heart is
without inversion.
Tâm Bất Sanh Bất Diệt: Immortal
mind—See Tâm Tính.
Tâm Bất Tại:
Unmindful—Inattentive.
Tâm Bất Thiện:
(I) Tâm
bất thiện tạo ra những tư tưởng bất thiện (hận, thù, tổn hại và tà kiến,
vân vân), cũng như những hành động gây ra khổ đau loạn động. Tâm bất thiện
sẽ hủy diệt sự an lạc và thanh tịnh bên trong—Unwholesome mind—Negative
mind—Negative or unwholesome mind creates negative or unwholesome thoughts
(anger, hatred, harmful thoughts, wrong views, etc), speech (lying, harsh
speech, double-tongued, etc), as well as deeds which are the causes of
our sufferings, confusion and misery. Unwholesome or negative mind will
destroy our inner peace and tranquility.
(II) Theo A Tỳ Đạt Ma Luận (Vi Diệu Pháp), tâm bất thiện bắt nguồn từ
các căn hoặc “Tham,”ø hoặc “Sân.”—According to the Abhidharma, unwholesome
consciousnesses rooted in either “Greed,” or in “Delusion.”
(A) Tâm Bất
Thiện bắt nguồn từ căn “Tham”—Unwholesome consciousnesses rooted in greed
(accompanied by greed):
1) Tâm
không bị xúi dục, đồng phát sanh cùng thọ hỷ, và liên hợp với tà kiến (tà
kiến hoặc làm tăng trưởng sự chấp trước, hoặc tự nó là sự chấp trước), tỷ
như một cậu bé bỗng dưng (không có sự xúi dục) ăn cắp trái táo từ quày
trái cây một cách vui vẻ (đồng phát sanh với thọ hỷ), cho rằng việc ăn cắp
nầy không có gì là xấu cả (liên hợp với tà kiến): Consciousness that
accompanied by joy, associated with wrong view (the view that may be
either reinforce the attachment from which the consciousness springs by
providing it with a rational justification, or the view itself may be an
object of attachment in its own right), unprompted (the absence of
prompting), i.e. with joy, holding the view that there is no evil in
stealing, a boy spontaneously steals an apple from a fruit stall.
2) Tâm bị
xúi dục, đồng phát sanh cùng thọ hỷ, và liên hợp với tà kiến, tỷ như một
cậu bé do sự xúi dục của bạn, vui vẻ ăn cắp một trái táo, cho rằng việc ấy
không có gì là xấu cả: Consciousness that accompanied by joy, associated
from wrong view, prompted (the presence of prompting), i.e. with joy,
holding the view that there is no evil in stealing, a boy steals an apple
through the prompting of a friend.
3) Tâm
không bị xúi dục, đồng phát sanh cùng thọ hỷ, và không liên hợp với tà
kiến, tỷ như cậu bé vì vui mà ăn cắp một trái táo từ quày trái cây, dù
biết rằng làm như vậy là xấu (không liên hợp với tà kiến) và không do ai
xúi dục: Consciousness that accompanied by joy, dissociated from wrong
view, unprompted, i.e. with joy, a boy steals an apple (without any
prompting) from a fruit stall, knowing that stealing is an evil deed (does
not hold any wrong view).
4) Tâm bị
xúi dục, đồng phát sanh cùng thọ hỷ, và không liên hệ với tà kiến, tỳ như
có bạn xúi dục, một cậu bé vui vẻ ăn cắp một trái táo, dù biết rằng ăn cắp
là xấu (không liên hợp với tà kiến): Consciousness that acompanied by joy,
dissociated from wrong view, prompted, i.e. with joy and prompting from a
friend, a boy steals an apple from a fruit stall, knowing that stealing is
an evil deed (does not hold any wrong view).
5) Tâm
không bị xúi dục, đồng phát sanh cùng thọ xả, và liên hợp với tà kiến, tỷ
như một cậu bé bỗng dưng ăn cắp một trái táo một cách thản nhiên, không
vui không buồn (thọ xả), không ai xúi dục, cho rằng việc ăn cắp nầy không
có gì là xấu cả (liên hợp với tà kiến): Consciousness that accompanied by
equanimity, associated with wrong view, unprompted, i.e. with neutral
feeling (not joy nor sorrow), a boy steals an apple, without any
prompting, holding the view that there is no evil in stealing (does hold
wrong view).
6) Tâm bị
xúi dục, đồng phát sanh cùng thọ xả, và liên hợp với tà kiến, tỷ như một
cậu bé do sự xúi dục mà thản nhiên ăn cắp một trái táo, thấy rằng việc ăn
cắp nầy không có gì là xấu cả (liên hợp với tà kiến): Consciousness that
accompanied by equanimity, associated with wrong view, prompted, i.e. with
neutral feeling, prompting from a friend, a boy steals an apple from a
fruit stall, holding the view that there is no evil in stealing.
7) Tâm
không bị xúi dục, đồng phát sanh cùng thọ xả, và không liên hợp với tà
kiến, tỷ như một cậu bé bỗng dưng ăn cắp một trái táo, không ai xúi dục,
dù biết rằng ăn cắp là xấu (không liên hợp với tà kiến): Consciousness
that accompanied by equanimity, dissociated from wrong view, unprompted,
i.e. with neutral feeling, without any prompting, a boy steals an apple
even though he knows that stealing is an evil deed (dissassociated with
wrong view).
8) Tâm bị
xúi dục, đồng phát sanh cùng thọ xả, không liên hợp với tà kiến, tỷ như
một cậu bé, do sự xúi dục của bạn, bỗng dưng ăn cắp một trái táo, dù biết
rằng ăn cắp là xấu (không liên hợp với tà kiến): Consciousness that
accompanied by equanimity, dissociated from wrong view, prompted, i.e.
with neutral feeling and prompting from a friend, a boy steals an apple,
even though he knows that stealing is an evil deed (dissassociated from
wrong view).
(B) Tâm bắt
nguồn từ căn “Sân”—Consciousnesses rooted in “hatred” (accompanied by
hatred):
1) Tâm
không bị xúi dục, đồng phát sanh cùng thọ Ưu, và có liên hợp với tà kiến,
tỷ như do bởi một cơn sân hận nhứt thời (không mưu tính trước) mà một
người có thể sát hại một người khác: Consciousness that accompanied by
displeasure, associated with aversion, unprompted, i.e. with hatred a man
murders another in a spontaneous fit of rage.
2) Tâm bị
xúi dục, đồng phát sanh cùng thọ Ưu, và có liên hợp với tà kiến, tỷ như do
bởi sân hận mà một người mưu tính và sát hại người khác: Consciousness
that accompanied by displeasure, associated with aversion, prompted, i.e.
with hatred one man murders another after premeditation.
(C) Tâm bắt
nguồn từ “Si”—Consciousnesses rooted in “Delusion” (accompanied by
delusion):
1) Tâm
đồng phát sanh cùng thọ xả, và liên hợp với hoài nghi, tỷ như do bởi si mê
mà một người hoài nghi về sự giác ngộ của Đức Phật cũng như công năng giải
thoát của giáo pháp của Ngài: Consciousness that accompanied by
equanimity, associated with doubt, i.e. due to delusion, a man doubts the
enlightenment of the Buddha or the efficacy of the Dharm as a way to
deliverance.
2) Tâm
đồng phát sanh cùng thọ xả, và liên hợp với phóng dật, tỷ như vì si mê mà
một người có tâm phóng dật không thể nào chú tâm được vào một đề mục:
Consciousness that accompanied by equanimity, associated with
restlessness, i.e. due to delusion, a person is so distracted in mind that
he canot focus his mind on any object.
Tâm Bất Tịnh: Impure mind—Tâm
tạp loạn, xấu ác, tính toán của chúng sanh—The chaotic, evil, calculating,
vicious mind of sentient beings.
Tâm Bất Tư Nghì: Mind of
Inexpressible.
Tâm Bất Tương Ưng: Hành hoạt
của tâm không tương ưng với Phật pháp—The functioning of the mind not
corresponding with the laws.
Tâm Bất Tương Ưng Hành Pháp:
Cittaviprayuktasamskarah (skt)—Non-mental.
Tâm Bi: Tâm bi là tâm thiện với
những tư tưởng tư tưởng thiện lành, mong cho người khác thoát khỏi khổ đau
phiền não. Tâm bi chẳng những mang lại hạnh phúc và an tịnh cho người khác
mà còn mang lại cho mình nữa. Tâm bi giúp ta loại bỏ những tư tưởng bất
thiện như giận hờn, ganh ghét và đố kỵ—Compassionate mind—Mind of pity—A
compassionate mind is a mind with wholesome thoughts which always wishes
others to be released from their sufferings and afflictions. A
compassionate mind does not only bring forth happiness and tranquility for
others, but also to ourselves. The compassionate mind also helps us dispel
our negative thoughts such as anger, envy and jealousy, etc.
Tâm Biến Nhất Thiết Xứ:
Cittam-hi-sarvam (skt)—Tất cả đều là tâm, tâm tỏa tràn khắp mọi nơi, trong
mọi thân thể. Phàm phu nhận thức cái đa phức, nhưng không có cái gì có
thể được nêu định trong Duy Tâm—All is mind, mind pervades in all places,
in all the bodies. The ignorance perceive multiplicity, but there is
nothing predicable in Mind-Only.
Tâm Bình:
1) Tâm an
bình: A peaceful mind.
2) Công
bình: Justice.
Tâm Bình Đẳng: Mind of
equanimity or equality.
Tâm Bịnh: mental (spiritual)
sickness.
Tâm Bố Thí: Heart of
almsgiving.
Tâm Bồ Đề: Tâm Bồ đề hay tâm vị
tha là tâm luôn mong đạt được giác ngộ cho mình, đồng thời cũng đạt được
giác ngộ cho người. Tâm Bồ đề là cửa ngỏ giác ngộ và đạt thành quả vị
Phật. Đây là trí huệ bẩm sinh, hay giác tâm bổn hữu, hay là sự khao khát
giác ngộ—Bodhi Mind—The altruistic mind of enlightenment—A mind which
wishes to achieve attainment of enlightenment for self , spontaneously
achieve enlightenment for all other sentient beings. Bodhi mind is the
gateway to Enlightenment and attainment of Buddha. An intrinsic wisdom or
the inherently enlightened heart-mind, or the aspiration toward perfect
enlightenment.
Tâm Can: Heart and liver.
Tâm Cảnh: Tâm Kính—Tấm kiếng
tâm, cần phải được giữ gìn cho sạch sẽ để thấu suốt được chân lý vạn
pháp—The heart-mirror, or mirror of the mind, which must be kept clean if
it is to reflect the Truth.
Tâm Căn: Manas—Mắt của tâm hay
Mạt Na thức, một trong 25 đế trong vũ trụ—The eye of the mind—Mental
vision—The mind organ, one of the twenty-five tattva or postulates of a
universe.
Tâm Cấu: Phiền não—The
impurities of the mind—Passions and delusions.
Tâm Cầu Chân Sư: Mind of
seeking a true master.
Tâm Cầu Sư Cung Kính Cúng Dường:
The mind of exclusively seeking respect and offerings.
Tâm Chân: Tâm chúng sanh tánh
thường rỗng lặng như chân như—Our mind is by nature that of the
bhutatathata.
Tâm Chân Như: Mind as the
absolute—The Bhutatathata as the totality of things.
Tâm Chân Như Môn: The mind as
bhutatathata (chân như).
Tâm Châu: Tâm tính chúng sanh
vốn là Phật tính thanh tịnh, nên được ví với ngọc minh châu—The mind stuff
of all the living, being of the pure Buddha-nature, is likened to a
translucent gem.
Tâm Chí: Will.
Tâm Chỉ: Ceto-samatha (p &
skt)—Niệm yên lặng hay tâm yên lặng—Tranquility of thoughts—Mental
quiescence.
Tâm Chú: Tâm Tự Chú—Một trong
ba loại chú (Đại chú, Tiểu chú và Nhất tự chú)—One of the three classes of
spells.
Tâm Chúng Sanh (mê mờ) Diệt, Phật Pháp
Sanh: When deluded thoughts expelled in sentient beings’ mind,
the Buddha-dharma arises.
Tâm Chúng Sanh (mê mờ) Sanh, Phật Pháp
Diệt: Khi những tư tưởng mê mờ khởi lên trong tâm chúng sanh
thì Phật pháp liền bị đẩy ra ngoài—When deluded thoughts arise in sentient
beings’ mind, the Buddha-dharma expelled.
Tâm Chuyên Nhất Cầu Giác Ngộ:
The mind is exclusively devoted to enlightenment.
Tâm Chứng: To realize—The inner
witness, or assurance—Tâm và Phật ấn chứng lẫn nhau—Mind and Buddha
witnessing together.
Tâm Có Tâm Không: Mind of
existence and non-existence.
Tâm Cơ: Lực vận chuyển của
tâm—The mind the motor—The motive power of the mind.
Tâm Cực: Cực điểm hay nghĩa lý
tinh túy mà tâm có thể đạt đến được—The pole or extreme of the mind, the
mental reach—The Buddha.
Tâm Dong Ruổi Lang Thang: A
wandering mind—Mental wandering.
Tâm Dục Giới: Kamavacara-citta
(p).
(I) Nghĩa
của Tâm Dục Giới—The meanings of Sense-Sphere Consciousness—Sense-sphere
consciousness—Theo A Tỳ Đạt Ma Luận (Vi Diệu Pháp), tâm dục giới là cái gì
thường lui tới hay thường xuyên hiện hữu trong Dục Giới, hoặc cái gì thuộc
về giác quan và đối tượng của giác quan, những tâm nầy cũng có thể phát
sanh trong các cảnh giới khác. Tâm Dục Giới bao gồm bốn cảnh khổ (địa
ngục, ngạ quỷ, súc sanh, a tu la), cảnh người và sáu cõi trời dục
giới—According to the Abhidharma, the sense-sphere consciousness includes
all those cittas that have their proper domain in the sensuous plane of
existence, though they may arise in other planes as well. The sense-sphere
consciousness is the sensuous plane of existence, which comprises of the
four woeful realms (hells, hungry ghosts, animals, asuras), the human
realm, and the six sensuous heavens.
(II) Phân
loại Tâm Dục Giới—Categories of Sense-Sphere Consciousness:
(A) Tâm Dục
Giới bắt nguồn từ Căn Tham—Sense-Sphere Consciousness accompanied by
greed—See Tâm Bất Thiện (II) (A).
(B) Tâm Dục
Giới bắt nguồn từ Căn Sân: Sense-Sphere Consciousness rooted in hatred
(associated with aversion)—See Tâm Bất Thiện (II) (B).
(C) Tâm Dục
Giới bắt nguồn từ Căn Si: Sense-Sphere Consciousness rooted in
delusion—See Tâm Bất Thiện (II) (C).
Tâm Duyên: Khởi tâm bấu víu vào
ngoại cảnh—Mental cognition of the environment—To lay hold of external
things by means of the mind.
Tâm Dược: Môn thuốc trị
tâm—Medicine for the mind or heart.
Tâm Dứt Vọng Là Tâm Bồ Đề: When
peverted mind is expelled, it’s precisely Bodhi mind.
Tâm Đại Thắng: Mind of Mastery.
Tâm Đảm:
1) Tâm và
mật: Heart and bile.
2) Nghị
lực: Energy—Will.
3) Can
đảm: Courageous—Brave.
Tâm Đắm Trước: Citta-vipallasa
(p)—Tâm đồi trụy—Perversion of mind.
Tâm Đăng: Đèn tâm hay sự sáng
suốt bên trong hay sự thông minh—The lamp of the mind—Inner ligh or
intelligence—For more information, please see Tâm Hồn and Tâm Linh.
Tâm Đầu Ý Hợp: To have the same
feelings and ideas.
Tâm Địa: Tâm là gốc của vạn
pháp, có thể sản sanh ra hết thảy vạn pháp—The Mind from which all things
spring—The mental ground or condition—See Tâm Ý.
Tâm Điềm Tỉnh: To be still and
peaceful.
Tâm Điềm Tỉnh An Vui, Không Tham Lợi
Dưỡng, Cũng Không Ham Được Cung Kính Tôn Trọng: To be still and
peaceful, without seeking gain, support or respect.
Tâm Điểm: Center.
Tâm Điên Đảo: The mind is
upside-down.
Tâm Điên Đảo Theo Trần Cảnh Bên Ngoài:
Mind is moving erratically (không bình thường) following the external
evironments.
Tâm Điền: Ruộng tâm nơi khởi
lên mọi thứ thiện ác—The field of the mind or heart, in which spring up
good and evil.
Tâm Đình: The pavilion of the
mind (the body).
Tâm Định: Mind of
concentration.
Tâm Giác Ngộ Của Chư Phật Và Chư Bồ Tát:
The mind of enlightenment or enlightened beings such as Bodhisattvas and
Buddhas.
Tâm Giải Thoát: A mind or heart
delivered from all desires.
Tâm Giao: Intimate relations
Tâm Hải: Cittodadhi (skt)—Biển
tâm—Mind-ocean—Tâm như biển cả hay đại dương, hiện tượng ngoại cảnh là gió
và tám thức là sóng. Sóng của biển tâm không ngừng bị những cơn gió đối
tượng khuấy động—Mind as a sea or ocean (external phenomena being the
wind, and the eight consciousnesses or forms of cognition being the
waves). The waves of the mind-ocean are uninterruptedly stirred by the
wind of objectivity.
Tâm Hành: Citta-sankhara
(p)—Citta-samskara (skt).
1) Tâm
hành là sự cấu tạo của tâm: Citta-samskara means mental formation.
2) Sự
sáng tạo của tâm: Creation of the mind.
3) Dụng
của tâm: Mental functions.
4) Tâm
hành là tâm thay đổi từng giây từng phút: Mind and action—The activities
of the mind (heart).
5) Hành
hoạt nhằm kiểm soát tâm: Working on the mind for its control.
Tâm Hành Bất Ly: Tâm và hành
không thể tách rời nhau. Tâm tưởng và hành động phải đồng thuận với nhau,
đặc biệt là trong quan hệ với việc tu niệm theo Phật A Di Đà—Mind and act
not separated or thought and deed in accord, especially in relation to
Amitabha.
Tâm Hành Đạo: Phật dạy những vị
mới tiến tu rằng: “Một tu sĩ, nhứt là vị mới tiến tu, đừng hành đạo như
kiểu trâu kéo cối xay, tuy thân hành đạo mà tâm chẳng hành. Nếu tâm đã
hành thì cần nói chi đến thân?”—“A monk, especially a novice, who
practices the way should not like a buffalo pulling a rotating grain mill;
he should practice with all his mind. If the way of the mind is
cultivated, where id the need to cultivate the body?”
Tâm Hiện Tiền: Mind of the open
way (Beyon normal conditions).
Tâm Hoa: Tâm vốn ngây thơ trong
trắng như một cánh hoa—Heart-flower—The heart in its original innocence
resembling a flower.
Tâm Hoài Luyến Mộ: Tâm mong mỏi
làm Phật—Heart-yearning for the Buddha.
Tâm Hoan Hỷ: The mind of joy.
Tâm Hoang Mang: Citta-vaikalya
(skt)—Bewilderment of mind.
Tâm Hồn: Ngoại đạo tin có cái
gọi là “linh hồn.” Phật tử tin mọi chúng sanh lăn trôi trong sáu đường
chỉ vì tâm thức của họ—Externalists believe that there exists a so called
Soul. Buddhists believe that all living beings bring with them their
consciousness in the six paths.
Tâm Huệ: Tâm và trí huệ—Mind of
wisdom—Mind of glowing wisdom—Mind or heart wisdom.
Tâm Huệ Quang: Mind of
wisdom-radiance.
Tâm Huyết:
1) Heart
and blood.
2)
Fervour—Zeal.
Tâm Hương: Hương thơm của tâm
hay là sự nhiệt tình tận tụy với đạo pháp—The incense of the mind or
heart—Sincere devotion.
Tâm Hưởng: Thân—The pavilion of
the mind, such as the body.
Tâm Hỷ: Mind of Joy.
Tâm Hỷ Xả: “Forgive and forget”
mind.
Tâm Khảm: The bottom of one’s
heart.
Tâm Khí: Mind as receptacle of
all phenomena.
Tâm Không:
1) Tâm
rộng lớn như hư không chứa đựng chư pháp: Mind-space, or mind
spaciousness—Mind holding all things like space.
2) Tâm
trống rỗng: Kenosis (skt)—The empty mind.
Tâm Không Hình Tướng:
Cittanirabhasa (p)—The mind that has no form.
Tâm Không Nhiễm Trược: The mind
is not polluted.
Tâm Kiên: Steady and firm will.
Tâm Kiêu Mạn: Citta-samunnati
(skt)—Haughtiness of mind.
Tâm Kinh: Hrdaya or
Maha-Prajnaparamita-Hridaya Sutra (skt)—Heart-Sutra—Bát Nhã Tâm Kinh—The
Prajanparamita Hridaya Sutra—One of the smallest and with the Diamond
Sutra, contained in the Vast Prajnaparamita.
Tâm Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa:
The Heart of the Prajna-Paramita-Sutra—See Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm
Kinh.
Tâm Kính: The mind mirror—The
heart mirror—Gương Tâm cần được giữ sạch để phản chiếu chân lý—The mirror
of the mind, which must be kept clean if it is to reflect the Truth.
Tâm Liên: The lotus of the mind
or heart—The original purity of the mind—Hiển giáo ví tâm tánh nguyên thủy
thanh sạch, trong khi Mật giáo ví tâm như một cánh sen búp tám cánh—The
exoteric school interprets it by original purity (holds that the nature
of the mind is originally pure). While the esoteric school by the physical
heart, which resembles a closed lotus with eight petals.
Tâm Linh: Tâm Đăng—The mind
spirit, or genius—Intelligence—See Tâm Hồn.
Tâm Lộ: Đường của tâm hay đường
đi đến Phật quả—The mind-road (the road to Buddhahood).
Tâm Lực: Mind power—Tâm lực là
sức mạnh bởi tâm niệm của chúng ta. Bởi tâm niệm có nhiều mối nặng nhẹ
khác nhau nên khi lâm chung thần thức của chúng ta theo mối nào nặng nhứt
mà đi—Mind power or will power is the strength of the mind. Because our
mind thoughts have many strengths and weaknesses which keep pulling us;
therefore, when we die our consciousness will go with the stronger force.
Tâm Lực Nghiệp Lực: Mind power
and Karmic power—Theo ngài Tế Tỉnh Đại Sư, Tổ thứ 12 trong Liên Tông Thập
Tam Tổ của Trung Quốc, có hai thứ lực là tâm lực và nghiệp lực. Dù nghiệp
lực có lớn, nhưng tâm lực lại càng lớn hơn. Bởi vì nghiệp kia nguyên lai
không có tự tánh, nghĩa là nghiệp không có sẳn, mà chỉ hoàn toàn nương vào
nơi tâm. Vì thế khi tâm chú trọng thì làm cho nghiệp mạnh thêm. Tâm có thể
tạo nghiệp thì cũng chính tâm có thể diệt nghiệp—According to Great Master
Chi-Sun, the Twelfth Patriarch of the Thirteen Patriarchs of Chinese
Pureland Buddhism, there are two kinds of karma, mind power and karmic
power. Even though karmic power is great, the mind power is even greater.
Because karma does not have an inherent nature. It means that karma is not
a pre-existing phenomenon, but it relies entirely on the mind to arise.
Therefore, if the mind gives it importance, then the karma will become
stronger. The mind can give rise to karma, it can also destroy it—See Tâm
Lực, Nghiệp Lực, and Tín Hạnh Nguyện.
Tâm Lượng: Tâm phàm phu khởi
vọng tưởng đo lường ngoại cảnh—Mind-measure—The ordinary man’s calculating
mind—Capacity of mind.
Tâm Lượng Chân Chính Như Lai:
Tâm lượng chân chính của Như Lai xa lìa mọi năng duyên, sở duyên mà trụ
nơi vô tâm—The bhutatathata mind which rests in no place.
Tâm Lý: Psycho.
Tâm Lý Học: Psychology.
Tâm Lý Quần Chúng: Mob
psychology
Tâm Ma: See Tâm Tặc.
Tâm Ma Tặc: Tên ma tặc cướp mất
tâm mình chẳng hạn như dục vọng—The mara-robbers of the mind, such as the
passions.
Tâm Mã: Tâm loạn động như con
ngựa, cần thắng bằng cương roi—The mind like a horse, that needs breaking
in or stimulating with a whip.
Tâm Mãn Ý Túc:
Content—Satisfied.
Tâm Mê Mờ: Nếu tâm chúng ta mê
mờ thì không cần biết bên ngoài chúng ta thành công như thế nào, những
khó khăn và đau khổ sẽ vẫn tiếp tục—A deluded mind—If our mind remains
deluded no matter how much outer success or development we may achieve,
our problems and unhappiness will continue.
Tâm Mê Mờ Tán Loạn: Delusive
and scattering mind.
Tâm Mệnh: Mind life (the life,
ogevity, or eternity of the dharmakaya or spiritual body of mind).
Tâm Minh: Tâm tự nhiên trong
sáng như mặt nguyệt—Mind as the moon—The natural mind or heart pure and
bright as the full moon.
Tâm Minh Luân: The mind’s or
heart’s moon—Sự xoay vần của Tâm Minh Luân tiêu biểu cho mức độ giác ngộ
từ bậc sơ cơ đến Thánh—The mind’s or heart’s moon revolutions (the moon’s
varying stages, typifying the grades of enlightenment from beginner to
saint.
Tâm Minh Quang: Illuminated
mind.
Tâm Mục: Tâm và mắt, những
nguyên nhân chính gây nên những xúc cảm—Mind and eye, the chief causes of
the emotions.
Tâm Não:
1) Heart
and brain.
2) Mind.
Tâm Ngoại Vô Biệt Pháp. Tâm, Phật, Chúng
Sanh Thị Tam Vô Sai Biệt (Ngoại Trừ Tâm Ra, Không Còn Thứ Gì Khác. Tâm,
Phật, Chúng Sanh Không Sai Khác): Outside the mind, there is no
other thing. Mind, Buddha, and all the living, these three are not
different (the Mind, the Buddha and sentient beings are not three
different things).
Tâm Ngôn: Vacalo-manasa
(p)—Vacika-citta (skt)—Tâm ngôn hay còn được hiểu là tiếng nói thầm
lặng—Talkative or chattering mind. Also understood as silent voices
(tunhibhuto-vaca).
Tâm Nguyên: Suối nguồn của tâm
hay nguồn tâm. Tâm là suối nguồn (căn bản) của vạn pháp—The fountain of
the mind—The thought-welling fountain.
Tâm Nguyện: The will of the
mind—Resolve—Vow.
Tâm Nhãn: Mắt của tâm—The eye
of the mind or mental vision.
Tâm Nhất Cảnh Tính: Tâm gắn
chặt vào một điều kiện nhứt định—One of the seven dhyana (Định), the mind
fixed in one condition.
Tâm Như: Citto-tathata
(skt)—Tâm như hay cái biết không khái niệm—The thusness of mind, or a
nonconceptual awareness (nirvikalpaka-buddhi).
Tâm Niệm: Concept—Idea—Thought.
Những lời Phật dạy về “Tâm
Niệm” trong Kinh Pháp Cú—The Buddha’s teachings on “Thought” in the
Dharmapada Sutra:
1) Cái
hại của kẻ thù gây ra cho kẻ thù hay oan gia đối với oan gia, không bằng
cái hại của tâm niệm hướng về hành vi tà ác gây ra cho mình—Whatever harm
an enemy may do to an enemy, or a hater to a hater, an ill-directed mind
can do one far greater harm (Dharmapada 42).
2) Chẳng
phải cha mẹ hay bà con nào khác làm, nhưng chính tâm niệm hướng về hành vi
chánh thiện làm cho mình cao thượng hơn—What neither mother, nor father,
nor any other relative can do, a well-directed mind can do one far greater
good (Dharmapada 43).
Tâm Niệm Bất Không Quá: Luôn
tưởng nghĩ đến Phật chứ không để cho thời gian luống qua vô ích—Pondering
on Buddha and not passing the time in vain.
Tâm Niệm Còn Vướng Mắc, Là Còn Nghiệp Luân
Hồi; Tình Tưởng Vừa Sanh Ra, Muôn Kiếp Bị Ràng Buộc: A mind
which is still grasping is (precisely the karma of birth and death) a mind
of births and deaths; as soon as feelings and thoughts arise, we are
chained for hundreds of thousands of eons.
Tâm Niệm Quyết Liệt: The
overpowering strength of mind and thought.
Tâm Pháp: Cittam (skt)—Mental
dharmas—Ideas—Mind—Chư pháp được chia làm hai loại—All things are divided
into two classes:
1) Sắc
Pháp: Sắc pháp là những gì có chất ngại—Physical dharma which has
substance and resistance.
2) Tâm
Pháp: Những gì không có chất ngại mà duyên khởi nên các pháp gọi là Tâm
Pháp—Mental dharma which is devoid of substance or resistance, or the root
of all phenomena.
** For
more information, please see Duyên Khởi
Chư Pháp and Căn Bản Vi Tâm Pháp.
Tâm Pháp Thân: Tâm là pháp thân
hay Như Lai tại triền—The mind is dharmakaya or tathagata in bonds.
Tâm Phân Biệt: A conceptual
mind—A conceptual thought perceives its objects indirectly and unclearly
through a generic image.
Tâm Phân Biệt Tướng:
Cittavikalpalakshana (skt)—Tâm phân biệt những tướng trạng khác nhau và
chính tâm tâm ấy lại chấp thủ những tướng trạng ấy—The mind is
discriminating various forms and the mind itself gets attached to a
variety signs of existence.
Tâm Phật:
1) Tâm
của Phật hay Tâm tức Phật: The mind of the Buddha—The Buddha within the
heart, or from mind is Buddhahood.
2) Phật
hiện ra trong tâm: The Buddha revealed in or to the mind—The mind is
Buddha.
3) Theo
Pháp Bảo Đàn Kinh, Lục Tổ nói: “Nếu niệm trước không khởi, đó là tâm. Niệm
sau không dứt đó là Phật. Vì thế ngài khuyên không sợ niệm khởi, chỉ sợ
giác ngộ chậm mà thôi.”—According to the Dharma Jewel Platform Sutra, the
Sixth Patriarch said: “If the preceding thought does not arise, it is
mind. If the following thought does not end, it is Buddha. Thus, he
advised one should not be afraid of rising thoughts, but only of the delay
in being aware of them.”
Tâm, Phật, Cập Chúng Sanh Thị Tam Vô Sai
Biệt: Ngoài tâm ra không có gì nữa; tâm, Phật và chúng sanh
không sai khác. Đây là một giáo thuyết quan trọng trong Kinh Hoa Nghiêm.
Tông Thiên Thai gọi đây là Tam Pháp Diệu—Outside the mind there is no
other thing; mind, Buddha, and all the living, these three are not
different. There is no differentiating among these three because all is
mind. All are of the same order. This is an important doctrine of the
Hua-Yen sutra. The T’ien-T’ai called “The Mystery of the Three Things.”
Tâm Phúc:
1) Heart
and stomach.
2)
Confident.
Tâm Phược: Vọng tưởng như dây
buộc tâm, lấy huyễn làm thực—The mind in bondage, which takes the seeming
for the real.
Tâm Quán: Meditation—Nhất Tâm
Tam Quán—Phép quán tâm niệm của tông Thiên Thai—Contemplation of the mind
and its thoughts of the T’ien-T’ai Sect—See Tâm Thừa.
Tâm Quang: Ánh hào quang từ tâm
từ bi của Đức Phật, đặc biệt là của Phật A Di Đà—The light from the
(Buddha’s) mind, especially the merciful heart of Amitabha.
Tâm Quỷ: A perverse mind, whose
karma will be that of a wandering ghost.
Tâm Rối Loạn: Citta-vikara
(skt)—Disturbed mind.
Tâm Sắc Giới: Rupavacaram (p)
(I)
Fine-material-sphere consciousness. Theo A Tỳ Đạt Ma Luận (Vi Diệu Pháp),
tâm sắc giới tương ứng với Thiền Sắc Giới, cảnh giới mà những người chứng
đắc các tầng thiền sắc giới sẽ tái sanh vào—According to Abhidharma, the
fine-material-sphere consciousness corresponds to the fine-material plane
of existence (rupabhumi), or the plane of consciousness pertaining to the
state of meditative absorption called the rupajjhanas.
(II) Phân
loại Tâm Sắc Giới—Categories of Fine-Material-Sphere Wholesome
Consciousness:
(A) Năm Tâm
Thiện Sắc Giới: Five kinds of Fine-Material-Sphere Consciousness—See Mười
Lăm Tâm Thiện Thuộc Sắc Giới (A).
(B) Năm Tâm
Quả Thuộc Sắc Giới: Five kinds of Fine-Material Sphere Resultant
Consciousness—See Mười Lăm Tâm Thiện Thuộc Sắc Giới (B).
(C) Năm Tâm
Hành Thuộc Sắc Giới: Five kinds of Fine-Material Sphere Functional
Consciousness—See Mười Lăm Tâm Thiện Thuộc Sắc Giới (C).
Tâm Siêu Thế: Lokuttara-citta
(p).
(I)
Supermundane consciousness—Theo A Tỳ Đạt Ma Luận, tâm siêu thế có thể giúp
ta vượt ra khỏi thế gian danh sắc để đạt thẳng đến cảnh giới Niết
Bàn—According to the Abhidharma, supermundane consciousness transcend the
world of conditioned things is the unconditioned element, Nirvana, and the
types of consciousness that directly accomplish the realization of
Nirvana.
(II) Phân
loại Tâm Siêu Thế—Categories of Supramundane Consciousness:
(A) Bốn Tâm
Thiện Siêu Thế: Four kinds of Supramundane Wholesome Consciousness—See Tám
Tâm Siêu Thế (A).
(B) Bốn Tâm
Quả Siêu Thế: Four kinds of Supramundane Resultant Consciousness—See Tám
Tâm Siêu Thế (B).
Tâm Sinh Diệt Môn: Theo Khởi
Tín Luận thì tâm có hai cổng—According to the Awakening of Faith, there
are two gates of mind:
1) Chân
Như Môn: The gate of Bhuthatathata.
2) Sinh
Diệt Môn: The gate of creation and destruction, or beginning and end.
Tâm Sở: Cetasikas (p)—Mental
factors—Mental actions—Tâm pháp sở hữu của tâm vương hay những điều kiện
tinh thần, những đóng góp của tâm, đặc biệt là những phẩm chất luân lý,
tình cảm, thương yêu, hận thù, vân vân—Mental conditions or emotions—The
attributes of the mind, especially the moral qualities, emotions, love,
hate, etc.
Tâm Sở Hữu Pháp:
Citasamprayuktasamskarah (skt)—Mental qualities.
Tâm Sở Pháp: See Tâm Sở.
Tâm Sở Phổ Thông: Theo Tỳ Kheo
Bồ Đề trong Vi Diệu Pháp, có bảy tâm sở phổ thông—According to The
Abhidharma composed by Bhikkhu Bodhi, there are seven universal
consciousness.
1) Tâm Sở
Xúc: Phasso (p)—Contact—See Xúc.
2) Tâm Sở
Thọ: Vedana (p)—Feeling—See Thọ.
3) Tâm Sở
Tưởng: Sanna (p)—Perception—See Tưởng.
4) Tâm Sở
Tác Ý (Hành): Cetana (p)—Volition—See Hành.
5) Tâm Sở
Nhất Điểm: Ekaggata (p)—One-pointedness—See Nhất Điểm.
6) Tâm Sở
Mạng Căn: Jivitindriyam (p)—Mental life faculty—See Mạng Căn.
7) Tâm Sở
Chú Ý: Manasikaro (p)—Attention—See Chú Ý.
Tâm Sở Tác Ý: Tâm tập trung vào
một đối tượng trong các đối tượng. Với tâm sở tác ý, chúng ta có thể tập
trung tư tưởng vào một vật trong một nhóm vật, hay một người trong một
nhóm người, từ đó chúng ta có thể thực tập nhứt tâm—Mental factor
attention—A mind which focuses on one particular object from among various
objects. With the mental factor attention, we are able to focus on one
thing among a goup of things or one person among a group of people, so we
can practice one-minded concentration.
Tâm Sở Tầm: Tâm quán sát bề
ngoài sự vật, chứ không quán sát kỹ—The mental factor Investigation—A mind
which examines objects superficially, without making a precise
examination.
Tâm Sở Tư: Tâm quán sát sự vật
cẩn thận và rõ ràng, chẳng hạn như đọc kỷ một quyển sách, lý luận kỷ càng,
quán sát kỹ càng, vân vân là nhiệm vụ phân tích của tâm—The mental factor
Analysis—A mind which investigates its objects carefully and precisely.
Reading a book precisely, reasoning things precisely, contemplating or
meditating precisely, etc are the functions of the mental factor analysis.
Tâm Số:
1) Trí:
Knowledge.
2) Vài
phẩm chất của tâm: Several qualities of mind, or mental content or
conditions.
3) Mật
tông coi Phật Tỳ Lô Giá Na là tâm vương như tâm và ý chí; và tâm số là
những phẩm chất hay điều kiện tinh thần, được nhân cách hóa như đoàn tùy
tùng của Ngài—Several qualities of mind. The esoterics make Vairocana the
Mind or Will, and the moral qualities, or mental attributes, are
personified as his retinue—See Tâm sở.
Tâm Sư: Tâm là thầy, chứ không
phải như ngoại đạo chế ngự tâm—The mind as master, not like the heretics
mastering or subduing the mind.
Tâm Tác: Ý nghiệp của tâm hay ý
nghiệp của ba tác nhân thân, khẩu, ý—The karmic activity of the mind—The
karmaic activities of the three agents of body, mouth and mind.
Tâm Tánh: Như Lai tạng tâm—Tự
tánh thanh tịnh tâm—Mentality—Immutable mind-corpus—Mind-nature—The
self-existing fundamental pure mind.
Tâm Tặc: Tên đạo tặc cướp mất
tâm mình như dục vọng—The mara-robbers of the mind, such as the passion.
Tâm Tâm: Citta-caitta—Tâm và
tâm sở—Every mind—Mind and mental conditions (Tâm và tâm sở).
Tâm Tâm Số: Tâm và tâm sở—The
mind and its conditions or emotions.
Tâm Thanh Tịnh: Citta-visuddhi
(p & skt)—Purification of mind—Purity of mind—Serenity of mind—See Thập
Trụ (7).
Tâm Thanh Tịnh-Phật Độ Thanh Tịnh:
Pure Minds-Pure Lands—Theo Kinh Duy Ma Cật, Đức Phật nhắc Bồ Tát Bảo Tích
về Tịnh Tâm Tịnh Độ như sau: “Bảo Tích! Bồ Tát tùy chỗ trực tâm mà hay
phát hạnh; tùy chỗ phát hạnh mà được thâm tâm; tùy chỗ thâm tâm mà ý được
điều phục; tùy chỗ ý được điều phục mà làm được như lời nói; tùy chỗ làm
được như lời nói mà hay hồi hướng; tùy chỗ hồi hướng mà có phương tiện;
tùy chỗ có phương tiện mà thành tựu chúng sanh, tùy chỗ thành tựu chúng
sanh mà cõi Phật được thanh tịnh; tùy chỗ cõi Phật thanh tịnh mà nói Pháp
thanh tịnh; tùy chỗ nói Pháp thanh tịnh mà trí huệ được thanh tịnh; tùy
chỗ trí huệ thanh tịnh mà tâm thanh tịnh; tùy chỗ tâm thanh tịnh mà tất cả
công đức đều thanh tịnh. Cho nên, nầy Bảo Bảo Tích! Bồ Tát muốn được cõi
Phật thanh tịnh, nên làm cho tâm thanh tịnh; tùy chỗ Tâm thanh tịnh mà cõi
Phật được thanh tịnh.”—According to the Vimalakirti Sutra, the Buddha
reminded Ratna-rasi Bodhisattva: “Ratna-rasi! Because of his
straightforward mind, a Bodhisattva can act straightforwardly; because of
his straightforward deeds he realizes the profound mind; because of his
profound mind his thoughts are kept under control; because of his
controlled thoughts his acts accord with the Dharma (he has heard);
because of his deeds in accord with the Dharma he can dedicate his merits
to the benefit of others; because of this dedication he can make use of
expedient methods (upaya); because of his expedient methods he can bring
living beings to perfection; because he can bring them to perfection his
Buddha land is pure; because of his pure Buddha land his preaching of the
Dharma is pure; because of his pure preaching his wisdom is pure; because
of his pure wisdom his mind is pure, and because of his pure mind all his
merits are pure. Therefore, Ratna-rasi, if a Bodhisattva wants to win the
pure land he should purify his mind, and because of his pure mind the
Buddha land is pure.”
Tâm Thành: The citadel of the
mind (guardian over action—the body)—See also Tâm Hưởng.
Tâm Thân Bất Tương Ứng: The
functioning of the body not corresponding to the will of the mind.
Tâm Thần: Tâm—Mind—The spirit
of the mind—Mental intelligence.
Tâm Thập Thiện: Mind of ten
good qualities.
Tâm Thú: Hướng đi của tâm—The
bent or direction of the mind, or moral nature.
Tâm Thuộc Về Dục Giới: See
Twelve kinds of Unwholesome Minds.
Tâm Thủy: Tâm trong sạch như
mặt nước hiện lên các hình ảnh hoặc muôn vàn hiện tượng—The mind as a
reflecting water-surface—The mind as water, clear and turbid.
Tâm Thừa: Tâm Quán—Phật giáo
lấy tâm quán làm chủ yếu—Insight—The mind vehicle. In Buddhism,
meditation is the principal practice.
Tâm Thức: Tâm và thức. Theo
Tiểu Thừa Câu Xá Luận thì tâm và thức giống nhau, nhưng trong Đại Thừa thì
lại khác nhau—Mind and consciousness—Internal perception—The mind and
cognition—Mind and its contents. According to the Kosa Sastra, the two are
considered as identical in the Abhidharma-Kosa, but different in Mahayana.
Tâm Thường Vi Vô Ký:
Cittam-avyakritam-nityam (skt)—Tâm thường vô ký pháp, nghĩa là tâm mãi mãi
tịch lặng hay trung tính, hay không bị phân chia—The mind remains
eternally quiescent, or neutral, or undivided.
Tâm Tích: Dấu chân của tâm qua
hành động—Footprints or indications of mind (the mind revealed by deeds).
Tâm Tích Tụ Nghiệp: Nghiệp được
chất chứa bởi tâm—Karma is accumulated by mind.
Tâm Tính: The
Tathagata-garbha—Mind-nature—Theo Khởi Tín Luận, đây là tâm bất biến hay
Như Lai Tạng Tâm hay Tính Thanh Tịnh Tâm—According to the Awakening of
Faith, this is the self-existing fundamental pure mind (Immutable mind
corpus, or mind-nature).
Tâm Tính Tam Thiên: Một niệm
tâm tính có đủ tam thiên đại thiên thế giới hay cả vũ trụ trong một
niệm—The universe in a thought—The mind as a microcosm.
Tâm Tình: Heart.
Tâm Tình Rối Loạn Không Ngăn Được (phàm
phu): For ordinary people, mind and feelings are confused and
caanot be stilled.
Tâm Tỉnh Thức, Thân Hành Thiện Nghiệp; Tâm
Cuồng Vọng, Thân Hành Tà Đạo: If your mind is awakened, you
perform good deeds; if your mind is perverted, you follow evil ways.
Tâm Tịnh Là Cõi Tịnh Độ Ngay Trong
Những Giây Phút Nầy: When our
mind is pure, we are in the Pure Land in this very moment.
Tâm Tông: Thiền Tông—The
intuitive sect—The Ch’an (Zen) school.
Tâm Trạng: State of mind.
Tâm Trần: Phiền não—Mind dust
or dirt.
Tâm Trí: Tâm và trí (tâm là
thế, trí là dụng)—Knowledge and mind or the wisdom of the mind (mind being
the organ, knowing the function).
Tâm Trí Rối Loạn: Tangled
thoughts.
Tâm Trí Rối Loạn Phân Vân:
Disturbed (rendered), perflexed and undecided mind.
Tâm Truyền Tâm: Mind-To-Mind
Transmission.
1) Tâm
Truyền Tâm là một lối biệt truyền ngoài giáo điển theo truyền
thống—Mind-To-Mind-Transmission means a special transmission outside the
teaching of textual tradition.
2) Từ ngữ
“Tâm Truyền Tâm” là thuật ngữ của nhà Thiền ám chỉ việc một thiền sư trao
truyền y pháp cho đệ tử làm người kế vị Pháp của dòng Thiền. Khái niệm
“Truyền từ Tâm Tinh Thần sang Tâm Tinh Thần” trở thành khái niệm trung tâm
của Thiền Tông, nghĩa là sự hiểu biết được giữ gìn và truyền thụ bên trong
chứ không phải là sự hiểu biết qua sách vở, mà là sự hiểu biết trực giác
và trực tiếp về hiện thực thật. Hiện thực nầy có được nhờ ở sự thể nghiệm
của cá nhân—The phrase “Transmitting Mind Through Mind” is a Ch’an
expression for the authentic transmission of Buddha-Dharma from master to
students and dharma successors within the lineages of transmission of the
Ch’an tradition. The notion of “Transmission from heart-mind to
heart-mind” became a central notion of Zen. That is to say what preserved
in the lineage of the tradition and “transmitted” is not book knowledge in
the form of “teachings” from sutras, but rather an immediate insight into
the true nature of reality, one’s own immediate experience.
Tâm Tụ: Cittakalapa (skt)—Hệ
thống tâm thức—Mentation system—Toàn bộ hệ thống tâm thức được phát sinh
và ảnh hưởng lẫn nhau như một bó tre—The whole mental system is evolved
mutually conditioning like a bundle of bamboo-sticks.
Tâm Tùy Hỷ: Joyful mind.
Tâm Tư: Idea—Thought.
Tâm Tứ Thời Cầu Chủng Trí Phật:
The mind of seeking the Buddha’s wisdom at all times.
Tâm Từ: Mind of kindness.
Tâm Từ Ái: Tâm từ có sức mạnh
đem lại hạnh phúc thế tục cho chúng ta trong kiếp nầy. Không có tâm từ,
con người trên thế giới nầy sẽ đương đầu với vô vàn vấn đề như hận, thù,
ganh ghét, đố kỵ, kiêu ngạo, vân vân. Phật tử nên phát triển tâm từ, nên
ấp ủ yêu thương chúng sanh hơn chính mình. Thương yêu nên được ban phát
một cách vô điều kiện, bất vụ lợi và bình đẳng giữa thân sơ, bạn
thù—Loving-kindness—Love—Love has the power of bestowing temporal
happiness upon us in this lifetime. Without love, people in this world
will encounter a lot of problems (anger, hatred, jealousy, envy,
arrogance, etc). A Buddhist should develop love for all sentient beings
and to cherish others more than oneself. Love should be given equally to
everyone including relatives or strangers, friends or foes, given without
any conditions, without self-interests or attachment .
1) Tâm từ
ái đem lại công đức mãnh liệt: Loving kindness or love will help us gain
strong meritoious power.
2) Tâm từ
ái sẽ tạo được lòng kính trọng nơi tha nhân: When we offer loving kindness
to other people, we will gain their love and respect at the same time.
3) Tâm từ
ái giúp ta vượt qua chấp thủ và chướng ngại: Loving kindness helps us
overcome all kinds of graspings of wealth, and other hindrances.
4) Tâm từ
ái giúp ta cảm thấy dễ chịu: Loving kindness help us experience more
physical confort.
Tâm Tự Cao Tự Đại: Mind of big
ego—Một số Phật tử lúc mới tu thì khiêm cung từ tốn, nhưng sau khi tu được
một thời gian, làm được một vài phước đức, thì sanh tâm tự kiêu tự đắc,
khinh thường mọi người, làm những điều càn dở, kết cuộc phải sa vào ác
đạo—Some Buddhists are very humble and gentle; however, after some time of
cultivation and achieving some worldly merits, then develop a big ego and
look down on everyone, give rise to thoughtless action, and eventually
fall into the evil paths.
Tâm Tự Hào: feeling deep
inside.
Tâm Tự Tại: The mind which has
got rid of all hindances.
Tâm Tự Tại Giả: Bậc có tâm tự
tại giải thoát. Bậc A La Hán đã giải thoát được hết thảy chướng ngại,
thiền định tự tại giải thoát—He whose mind is free, or sovereign, an arhat
who has got rid of all hindrances to abstraction.
Tâm Tự Tính: Cittasvabhava
(skt)—Tự tính của tâm—The self-nature of mind, mind as it is, mind in
itself.
Tâm Tướng:
1) Hành
Tướng Tâm: Hành tướng của tâm—Manifestation of mind in action—Actions
corresponding with mind.
2) Nhục
Đoàn Tâm: Trái tim bằng thịt của chúng sanh—Heart-shape (physical heart).
Tâm Tướng Ứng Hành: Mọi pháp
tâm sở đối với tâm vương tương ứng cùng khởi—Actions corresponding with
mind—Mind productive of all actions.
Tâm Tưởng: Tư tưởng hay tâm và
tưởng—Thought—Mind and thought—Thoughts of the mind—To imagine.
Tâm Tưởng Thô Thiển Và Phù Phiếm:
Mind and thoughts are coarse and frivolous.
Tâm Vi Cảnh Sở Hệ:
Cittam-vishayasambandham (skt)—Tâm bị trói buộc bởi trần cảnh bên
ngoài—The mind is bound up by an external world.
Tâm Viên: Tâm người loạn động
như con vượn—The mind as intractable as a monkey (as a restless monkey).
Tâm Viên Ý Mã: Tâm (nhảy nhót
loạn động) như con vượn, ý (chạy lung tung) như con ngựa—The mind is like
a monkey, the thought is like a horse.
Tâm Vô Ký: Neutral
(indifferent) mind—Tâm vô ký là tâm không thiện không ác. Tâm vô ký có thể
dễ dàng được chuyển hóa thành hoặc tích cực hoặc tiêu cực—A neutral mind
is neither wholesome nor unwholesome. Neutral mind can be easily
transformed into positive or negative one.
Tâm Vô Nhân: Ahetukacittani
(p)—Rootless consciousness.
Tâm Vô Phân Biệt: Với tâm vô
phân biệt chúng ta không suy nghĩ, tưởng tượng hay nhận biết đối tượng, mà
nhận biết đối tượng bằng trực giác một cách trực tiếp. Nhận biết bằng năm
thức là vô phân biệt—Non-conceptual mind—With a Non-conceptual mind, we
don’t have to think or to imagine to perceive an object—Non-conceptual
thought is a process which perceives or apprehends its objects directly or
intuitively. Perceiving by the five sense consciousnesses is
non-conceptual, while mental consciousness can be either conceptual or
non-conceptual.
Tâm Vô Sắc Giới:
Arupa-vacara-citta (p).
(I) The
immaterial-sphere consciousness—Theo A Tỳ Đạt Ma Luận (Vi Diệu Pháp), tâm
thuộc vô sắc giới là cái gì thuộc về Thiền Vô Sắc Giới, hoặc cái gì thường
lui tới hay hiện hữu trong cảnh vô sắc giới. Khi một người hành thiền
chứng đắc những trạng thái vượt trên cõi Sắc Giới, người ấy sẽ tách rời
danh sắc ra khỏi sắc, cũng như ta có thể giữ một khối sắc ở giữa không
trung: According to the Abhidharma, the immaterial sphere is the plane of
consciousness corresponds to the immaterial plane of existence
(arupabhumi), or the plane of consciousness pertaining to the immaterial
meditative absorptions (arupajjhanas—Thiền Vô Sắc Giới). Any consciousness
which mostly moves about in this realm is understood to belong to the
immaterial sphere. When one meditates to attain formless meditative states
beyond the rupajjhanas, one must discard all objects connected with
material form and focus upon some non-material object, such as the
infinity of space.
(III)
Phân Loại Tâm Vô Sắc Giới—Categories of Immaterial-Sphere
Consciousness:
(A) Bốn Tâm
Thiện Vô Sắc Giới: Four kinds of Immaterial-Sphere Wholesome
Consciousness—See Mười Hai Tâm Thiện Thuộc Vô Sắc Giới (A).
(B) Bốn Tâm
Quả Vô Sắc Giới: Four kinds of Immaterial-Sphere Resultant
Consciousness—See Mười Hai Tâm Thiện Thuộc Vô Sắc Giới (B).
(C) Bốn Tâm
Hành Thuộc Vô Sắc Giới: Four kinds of Immaterial-Sphere Functional
Consciousness—See Mười Hai Tâm Thiện Thuộc Vô Sắc Giới (C).
Tâm Vô Sinh: Mind of No
Rebirth.
Tâm Vô Sở Trụ:
1) Tâm
như vượn chuyền cây, hãy để cho nó đi nơi nào nó muốn; tuy nhiên, Kinh Kim
Cang đề nghị: “Hãy tu tập tâm và sự tỉnh thức sao cho nó không trụ lại nơi
nào cả.”—The mind is like a monkey, let it moves wherever it will;
however, the Diamond Sutra suggests: “Cultivate the mind and the awareness
so that your mind abides nowhere.”
2) Tâm
không trụ vào đâu. Hãy để cho quá khứ đi vào quá khứ—The mind without
resting place—A mind which does not abide anywhere—A mind which let
“bygone be bygone.”
3) Tâm vô
sở trụ là tâm chẳng chấp vào không gian hay thời gian. Cái tâm quá khứ tự
nó sẽ dứt, tức gọi là vô quá khứ sự, với hiện tại và vị lai lại cũng như
vậy (tâm hiện tại rồi sẽ tự dứt, tức gọi là vô hiện tại sự; tâm vị lai rồi
cũng sẽ tự dứt, tức gọi là vô vị lai sự), nhận biết chư pháp không thật
nên không chấp trước. Tâm đó gọi là tâm vô sở trụ hay tâm giải thoát, tâm
Phật, tâm Bồ Đề; tâm không vướng mắc vào ý tưởng sanh diệt (vô sinh tâm),
đầu đuôi—The mind without resting place, detached from time and space, the
past being past may be considered as a non-past or non-existent, so with
present and future, thus realizing their unreality. The result is
detachment, or the liberated mind, which is the Buddha-mind, the
bodhi-mind, the mind free from ideas or creation and extinction, of
beginning and end, recognizing that all forms and natures are of the Void,
or Absolute.
Tâm Vô Thượng Bồ Đề: Mind of
supreme enlightenment—Supreme enlightened mind.
Tâm Vô Tướng: Cittanirabhasa
(skt)—Tâm không có hình tướng—The mind that has no form.
Tâm Vương: Tác dụng của tâm—The
mind, the will the directive or controlling mind—The functioning mind as a
whole.
Tâm Vương Tâm Sở: Tâm vương là
tác dụng của tâm (hiểu biết chư pháp), còn tâm sở là phẩm chất hay điều
kiện của những tác dụng ấy (tham, sân, si, etc)—The functioning mind and
its qualities or conditions.
Tâm Vương Như Lai: Phật Tỳ Lô
Giá Na được xem như Tâm Vương Như Lai, và những phẩm chất của tâm ấy được
nhân cách hóa như đoàn tùy tùng của Ngài—Vairocana as the ultimate mind,
the attributes being personified as his retinue
Tâm Xả: Tâm xả là tâm không
luyến ái, bao gồm xả bỏ vật chất như những của cải, thân, sắc, âm thanh,
vị và tiếp xúc, vân vân; và xả bỏ tinh thần như tâm thiên vị, tà kiến hay
ngã chấp, vân vân—Equanimity—Mind of detachment—Mind of
renunciation—Detachment or renunciation includes physical (wealth, body,
form, sound, smell, taste, touch, etc) and mental (biased minds, wrong
views, self-grasping, ego-grasping, etc).
Tâm Xót Thương (từ bi):
Benevolent mind.
Tâm Xúc Cảm: Citta-critti
(skt)—Emotional mind.
Tâm Ý: Tác nhân thứ ba trong ba
tác nhân thân, khẩu và ý—The third of the three agents body, mouth and
mind—See Tâm Địa.
Tâm Ý Thức: Cittam-manas ca
vijnana (skt)—Tâm, Ý và Thức—Mind, thought, and perception
(discernment)—Trong Kinh Lăng Già, “Tâm ý Thức” có nghĩa là toàn bộ máy
móc của tâm thức. Khi “Citta” được kèm theo với “Mana” và “Vijnana,” thì
nó tương ứng với cái tâm thức thực nghiệm, tức là “Citta” trong khía cạnh
tương đối của nó cùng với sự phân biệt sai lầm—In the Lankavatara Sutra,
these three terms “Citta” “Mana” and “Vijnana” are found in combination
meaning the whole machinery of mentation. When “Citta” is going along with
“Mana” and “Vijnana,” it corresponds to the empirical consciousness, .e.,
Citta in its relative aspect and therefore together with false
discrimination.
Tâm Yên Cảnh Lặng, Vọng Khởi Ma Sanh:
When the mind is still, all realms are calm; when delusions arise, demons
are born.
Tâm Yếu: Cốt tủy tinh yếu hay
những gì nòng cốt của pháp môn—The very core., or essence.
Tấm Lòng: Heart.
Tấm Thân: Body.
Tầm:
1) Đơn vị
đo lường chiều dài, tương đương với 8 bộ của Trung Hoa: Fathom, a unit
used to measure the length, equivalent to 8 Chinese feet.
2) Khảo
sát: To investigate.
3) Tiếp
tục: To continue.
4) Tìm
kiếm: To seek.
5) Theo
Phật giáo—According to Buddhism:
a) Trăn
trở—Cân nhắc—Ngẫm nghĩ: Vitakkeiti (p)—Vitark (skt)—To ponder—To reflect.
b) Sự
ngẫm nghĩ: Vitakka (p)—Vitarka (skt)—Initial
Application—Pondering—Reflection—Trong kinh điển Phật Giáo, danh từ “tầm”
được dùng lỏng lẻo với nghĩa “suy nghĩ,” nhưng trong A Tỳ Đạt Ma Luận thì
danh từ “tầm” được dùng như một thuật ngữ có nghĩa đặc biệt. Đó là cái gì
hướng những trạng thái cùng phát sanh đồng thời về một đối tượng. Như
người cận thần được vua yêu chuộng hướng dẫn một dân làng đi vào cung
điện, cùng thế ấy, “tầm” hướng dẫn tâm đến đề mục—In the Buddhist sutras,
the words “vitakka” is often used in the loose sense of “thought,” but in
the Abhidharma it is used in a precise technical sense to mean the mental
factor that mounts or directs the mind onto the object. Just as a king’s
favourite might conduct a villager to the palace, even so “vitakka”
directs the mind onto the object.
c) Tầm
hướng dẫn tâm đi vào đề mục: “Vitakka” or initial application directs the
mind onto the object.
d) Tầm
không thiện, mà cũng không bất thiện: “Vitakka” is neither wholesome nor
unwholesome.
e) Khi
liên hợp với thiện thì “tầm” là thiện: When “vitakka” associates with
wholesome deeds, vitakka becomes wholesome.
f) Khi
liên hợp với bất thiện, thì “tầm” trở nên bất thiện: When “vitakka”
associates with unwholesome deeds, it becomes unwholesome.
g) Trong
thực tập thiền “tầm” tạm thời khắc phục trạng thái hôn trầm và thụy miên:
In the practice for attaining jhana, vitakka has the special task of
inhibiting the hindrance of sloth and torpor.
Tầm Cầu: To search (look) for.
Tầm Kiến Thức: Range of
knowledge.
Tầm Mắt: Range of vision.
Tầm Nã: To seek (track down)
for arrest.
Tầm Thanh: To contemplate
(seek) the sound.
Tầm Thanh Cứu Khổ: To
contemplate the sound to save suffering beings.
Tầm Thước: To be of middle
height.
Tầm Thường: Simple—Normal.
Tầm Thường Niệm Phật: Niệm Phật
bình thường (hằng ngày), đối lại với niệm Phật trong những trường hợp đặc
biệt (cầu an cầu siêu)—Normal or ordinary worship of Buddha, in contrast
with special occasions.
Tầm Tứ: Vitarka and Vicara
(skt)—Hai loại tâm sở hay hai điều kiện của thiền định về sự phát hiện và
nguyên tắc phân tích—Two conditions in dhyana discovery and analysis of
principles.
1) Tầm:
Vitarka (skt)—Tỳ Đát Ca—Tâm sở hay pháp có khuynh hướng tăng trưởng—A
dharma which tends to increase.
2) Tứ:
Vicara (skt)—Tỳ Giá La—Tâm sở hay pháp có khuynh hướng giảm thiểu, hữu hạn
và rõ ràng trong dòng tâm thức—One which tends to diminish, definiteness
and clearness in the stream of consciousness.
** For more information,
please see Trung
Gián Định.
Tầm Vóc: Stature—Height of a
person.
Tầm Xa: Long range.
Tẩm: Ngủ hay nghỉ ngơi—To sleep
or to rest.
Tẩm Đường: Nhà ngủ—Dormitory.
Tẩm Thất: Nơi nghỉ ngơi—A
retiring room—Resting place.
Tân:
1) Bến
phà: Ferry—Ford—A place of crossing a stream.
2) Củi:
Firewood.
3) Giải
trí: To entertain.
4) Khách:
Guest.
5) Lương
bổng: Wages.
6) Mới,
phản nghĩa lại với cũ: New, opposite of old.
7) Nhiên
liệu: Fuel.
8) Quả
cau: The areca or betel-nut.
Tân Ba La Quật: Vaibhara
(skt)—Hang Tân Ba La, một loại chùa xây bằng đá đẻo, gần thành Vương Xá,
bây giờ là Baibhargiri. Nơi mà Đức Phật rất thích về tỉnh tọa—The Vaibhara
cavern. A “rock-cut” temple on a mountain near Radjagrha, now called
Baibhargiri. Sakyamuni Buddha used to resort there for meditation.
Tân Bát La: Pippala (skt)—See
Tân Phát Lợi Lực Xoa in Vietnamese-English Section.
Tân Cựu: New and old.
Tân Cựu Lưỡng Dịch: Sách dịch
từ kinh Phật ra có hai loại, một là cựu dịch từ trước ngài Huyền Trang; từ
ngài Huyền Trang trở về sau gọi là “tân dịch.”—Old and new methods of or
terms in translation, the old before, the new with Hsuan-Tsang.
Tân Cựu Lưỡng Y: Theo Kinh Niết
Bàn thì có hai phương cách chữa lành bệnh của chúng sanh, cựu y là phương
cách xưa, dùng để ví với Tiểu Thừa giáo; tân y là phương thuốc mới dùng để
ví với Đại Thừa giáo—According to Nirvana sutra, there are old and new
methods of healing, e.g. Hinayana and Mahayana.
Tân Đầu:
1) Ấn Độ:
Tín Độ—The Indus—Sindh.
2) Tên
một địa ngục: Name of a purgatory.
Tân Đầu Ba La Hương: Sindhupara
or Sindhuvara (skt)—Hương thơm từ một loại cây mọc hai bên bờ sông Ấn
Hà—Incense or perfume, from a fragrant plant said to grow on the banks of
the Indus.
Tân Đầu Lô Phả La Đọa:
Pindola-Bharadvja (skt)—Tân Đầu—Tân Đầu Lư—Đệ nhứt tôn giả trong 16 vị La
Hán, mãi mãi an trụ trên núi, hiện tướng tóc bạc mày dài—Name of the first
of the sixteen arhats, who became the old man of the mountains, white hair
and beard, bushy eye-brows, one of the genii.
Tân Đê: Tên viết tắt của ngài
Cấp Cô Độc—An abbreviation for Anathapindika—See Cấp Cô Độc in
Vietnamese-English Section, and Anathapindada in Sanskrit/Pali-Vietnamese
Section.
Tân Gia Ba: Singapore.
Tân Già La: Pingala (skt)—Tên
một Hiền giả người Ấn Độ, Tàu dịch là Thanh Mục, người đã giải thích bộ
Trung Luận Quán của Ngài Long Thọ Bồ Tát—An Indian sage who interpreted
the Madhyamika-Sastra (of Nagarjuna Bodhisattva).
** For more information,
please see Trung
Luận in
Vietnmaese-English Section.
Tân Giai Nhân:
Bride—Newly-married woman.
Tân Giới: Hạng Sa Di mới thọ
giới—One who has newly been admitted; a novice; a Sramanera.
Tân Hôn: Wedding party.
Tân Hưng Long: Tên của ngôi
chùa Tịnh Độ tọa lạc trong quận 10, thành phố Sài Gòn, Nam Việt Nam. Chùa
được xây từ năm 1936—Name of a Pure Land Buddhist Pagoda, located in the
Tenth district, Saigon City, South Vietnam. The pagoda was built in 1936.
Tân Khách: Guest.
Tân Kỷ Lục: New record.
Tân Lang:
1) Cây
cau: Puga (skt)—Betel-nut tree.
2) Chú
rể: Bridegroom—Newly-married man.
Tân Lập: Recently
established—Newly made.
Tân Lương: Tôn giáo được ví với
cái cầu hay cái bè đưa người qua bến sông sanh tử—A bridge or ferry across
a stream, i.e. religion.
Tân Nhạc: Modern music.
Tân Niên: New year.
Tân Nương: See Tân Giai Nhân.
Tân Phát Lợi Lực Xoa:
Pippala-vrksa (skt)—Còn gọi là Bồ Đề Cổ hay Bồ Đề Thụ, tức là cây Bồ Đề mà
dưới gốc nầy Đức Phật đã giác ngộ—The bodhi-druma, or the bodhi-tree under
which Sakyamuni obtained insight.
Tân Phát Ý: Ý nguyện mới phát
tâm cầu Bồ Đề giác ngộ, hay mới phát tâm cầu giữ giới (điều nầy không hạn
hẹp với người xuất gia, mà cho cả những người tại gia)—One who has newly
resolved on becoming a Buddhist, or on any new line of conduct.
Tân Tạo: See Tân Lập.
Tân Tận Hỏa Diệt: Hết củi lửa
tắt, một từ để chỉ niết bàn, khi hết dục vọng phiền não là niết bàn—Fuel
consumed fire extinguished, a term for nirvana, especially the Buddha’s
death or nirvana.
Tân Thời: Modern—Up-to-date.
Tân Tiến: Advanced—Progressive.
Tân Tống:
1) Tiển
đưa đến bè hay phà (xưa nói về người sống, nay mang ý nghĩa là tiển người
chết đến bờ giải thoát): To escort to the ferry, either the living to
deliverance or more generally the dead.
2) Tiển
khách: To bid goodbye to a guest.
Tân Tra La: Pindara, or Pindala
(skt)—Tân Đà La—Một trong những địa ngục mà thân thể không bị khổ não đau
đớn (theo Kinh Phổ Siêu, Phật đã bảo ngài Xá Lợi Phất là vua A Đồ Thế đã
vào địa ngục có tên Tân Sá La, vừa vào lại ra ngay, nên thân thể chưa bị
khổ não đau đớn)—One of the painless purgatories.
Tân Tuế: Năm mới của người xuất
gia, bắt đầu từ ngày đầu tiên sau ngày mãn an cư kiết hạ, tức ngày 16
tháng bảy âm lịch—The new year of the monks, beginning on the day after
summer retreat, the 16th of the seventh month, lunar calendar.
Tân Văn: Newspapers.
Tân Xuân: Beginning of spring.
Tấn:
1) Tinh
tấn: Effort—Zeal.
2) Trục
xuất: To expel.
Tấn Trị: Hình phạt trục xuất
khỏi giáo đoàn—The punishment of expulsion, which is of three orders.
1) Tấn
Xuất: Bị trục xuất khỏi tự viện, nhưng có thể trở về nếu biết phát lồ sám
hối: Expulsion from a particular monastery or nunnery, to which there may
be a return on repentance.
2) Mặc
Tấn: Cấm không được giao tiếp với tự viện—Prohibition of any relation with
the monastery.
3) Diệt
Tấn: Xóa tên trong giáo đoàn—Entire expulsion and deletion from the order.
Tần:
1) Luôn
luôn: Repeated.
2) Triều
đại nhà Tần bên Trung Quốc, khoảng 255-205 trước Tây Lịch: The Ch’in state
and dynasty (China), 255-205 B.C.
Tần Bà: Vimba or Bimba
(skt)—Cây Tần Bà có trái màu đỏ—A tree with red fruit; fruit of the
Bimba-tree.
Tần Bà La:
1) Quả
Tần Bà La: Vimba or Bimba (skt)—See Tần Bà.
2) Tỳ Ba
Ha: Vimbara (skt)—Từ chỉ số lượng tương đương với 10 triệu—a measurement
unit, equivalent to 10 millions.
3) Vua
của hương thơm: A king of fragrance, or incense.
Tần Bà Sa La: See Bimbisara in
Sanskrit/Pali-Vietnamese Section.
Tần Già: Kalavinka (skt)—See Ca
Lăng Tần Già.
Tần Già Bình: Chiếc bình có
hình dáng giống như chim Ca Lăng Tần Già, mà trong Kinh Lăng Nghiêm Đức
Phật đã dùng nó để ví với vô không khứ lai, và vô thức sinh diệt—The
kalavinka pitcher, an illustration in the Surangama Sutra of emptiness or
non-existence.
Tần Già Đà: Vigata or Vigama
(skt)—Tỳ Kíp Ma—Thuốc Tần Già Đà hay Tỳ Kíp Ma, có nghĩa là trừ khử vì nó
có thể trừ khử mọi bệnh tật—Gone away—Disappearance—A medicine which
causes diseases to disappear.
Tần Lai Quả: Sakrdagamin
(skt)—Tư Đà Hàm hay Nhất Lai Quả, quả vị thứ nhì trong tứ Thánh Quả—Once
more to be reborn, the second in the four fruits.
** For more information,
please see Tứ Thánh Quả.
Tần Na Dạ Ca: Vinayaka
(skt)—Tên của một loài quỷ thần—Name of a demon or spirit.
Tần Quảng Vương: Vị vua thứ
nhất trong thập ngục vương—Ch’in-Kuang, the first of the ten kings of
Hades.
Tận: Hết—All used
up—End—Finish—Complete—Nothing left—Entirely—Utmost.
Tận Mệnh: To sacrafice one’s
life.
Tận Thập Phương: Hết thảy mười
phương pháp giới hay khắp nơi trong vũ trụ—The entire ten directions—The
universe—Everywhere.
Tận Thất Nhựt: Kết thúc tuần
trai thất thứ nhất cho người quá vãng—At the end of seven days—Seven days
being completed.
** For more information,
please see Hộ Niệm,
and Trai Thất in
Vietnamese-English Section.
Tận Tình: With all one’s heart.
Tận Tịnh Hư Dung: Học thuyết
của Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa, nói rõ tất cả đều không hay thực tướng của
chư pháp đều là không—The identity of the absolute and the empirical, a
doctrine of the Prajnaparamita.
Tận Trung: Loyal.
Tận Tụy: Hard-working—Diligent.
Tận Vị Lai Tế: Vĩnh cửu (quá
khứ, hiện tại và vị lai đều không bị giới hạn)—To the end of all time,
eternal.
Tâng Bốc: To flatter.
Tấp: To drift on the shore.
Tập:
1) Dư khí
của phiền não gọi là “Tập Khí” hay là “Tập”: The accumulation of illusion,
the remainder or remaining influence of illusion.
2) Kết
tập: Samudaya (skt)—Accumulated—Assembled—Heaped—To collect—To collect
together—To aggregate.
3) Thực
tập: To practise.
Tập Chúng: Họp chúng lại—To
assemble all, or everybody.
Tập Chủng Tánh: Active or
functioning nature.
Tập Diệt: Thực tập điều tốt và
loại bỏ điều xấu—To practice the good and destroy the evil.
Tập Đế: samudaya (skt)—Chân đế
thứ hai trong Tứ Diệu Đế, sự thật về nguyên nhân gây ra đau khổ là do nơi
dục vọng và nghiệp quả của nó—The second of the four dogmas, the truth of
the cause of suffering, that the cause of suffering lies in passions and
their resultant karma.
Tập Hợp: To gather—To
assemble—To collect.
Tập Hội: Hội họp—To assemble—An
asembly.
Tập Hội Sở: Nơi hội họp—A place
of assembly.
Tập Khí: Vasana (p & skt).
1) Thói
quen cũ: Old habit—Habit energy—Former habit.
2) Sự
tích lũy ý nghĩ, tình cảm, việc làm và những dục vọng trong quá khứ: The
accumulation of the past thoughts, affections, deeds, and passions.
3) Những
ấn tượng của bất cứ hành động và kinh nghiệm quá khứ được ghi lại trong
tâm chúng ta một cách vô ý thức: The impression of any past action or
experience remaining unconsciously in the mind.
4) Những
tri giác quá khứ mà trong hiện tại chúng ta hồi tưởng lại: The present
consciousness of past perceptions.
5) Kiến
thức quá khứ được lưu trữ trong ký ức: Past knowledge derived from memory.
6) Những
chất chồng của nghiệp, thiện và bất thiện từ những thói quen hay thực tập
trong tiền kiếp. Sự khởi dậy của tư tưởng, dục vọng, hay ảo tưởng sau khi
chúng đã được chế ngự—Good or evil karma from habits or practice in a
former existence—The force of habit—The uprising or recurrence of
thoughts, passions or delusions after the passion or delusion has itself
been overcome, the remainder or remaining influence of illusion.
Tập Khởi: Tiếng Phạn là Chất
Đa, dịch là tâm, tên của A Lại Da Thức. Tất cả các pháp hiện hành huân tập
hạt giống ở thức nầy gọi là Tập, từ thức nầy nảy sinh ra tất cả các pháp
hiện hành gọi là Khởi—A term for citta, the mind, and for alayavijnana, as
giving rise to the mass of things.
Tập Luyện: To exercise—To
train—To practice.
Tập Nhân Tập Quả: Sự tương tục
của nhân và quả (niệm trước là nhân, niệm sau là quả)—The continuity of
cause and effect, as the cause so the effect.
Tập Nhiễm: To contract (develop
or acquire) a habit.
Tập Phước: Tên của một ngôi
chùa cổ tọa lạc trong quận Bình Thạnh, thành phố Sài Gòn, Nam Việt Nam.
Chùa được xây vào cuối thế kỷ thứ 18, được vua Gia Long ban tặng bản “Sắc
Tứ Tập Phước Tự.” Trong Chánh điện, hai bên bàn thờ Phật, có tượng của 18
vị La Hán, được tạc bằng gỗ mít. Kiến trúc của chùa hiện nay là mô hình
được xây lại vào năm 1967—Name of an ancient pagoda, located in Bình Thạnh
district, Saigon City, South Vietnam. The pagoda was built in the late
eighteenth century. It was offered a “Royal Recognized Tập Phước Pagoda”
board by King Gia Long. In the Main Hall stands an old set of eighteen
Arhats statues made of jacktree wood and worshipped on each side of the
Buddha Shrine. The present structure of the pagoda results from the
reconstruction in 1967. There is a great bell of 1.3 meters height, 0.65
meter in diameter, on which the Buddha’s teaching was carved.
Tập Quán: Acarika
(skt)—Habit—Custom.
Tập Rèn: To drill—To practise.
Tập Sự: On
probation—Probationary.
Tập Tục: Habit and custom.
Tập Tục Truyền Thống:
Traditional custom.
Tập Trung:
Concentration.
Tập Trung Tư Tưởng: Mental
concentration.
Tập Trung Vào Một Đối Tượng:
Single-pointedness.
Tất:
1) Hoàn
tất: Complete—End—Final.
2) Tất
yếu: Certainly—Necessary.
3)
Must.
Tất Bát La: Pippala (skt).
1) Tên
cây Bồ Đề: One of the name of the Ficus religiosa.
2) Tên
Ngài Ma Ha Ca Diếp: Name of Maha-Kasyapa—See Ma Ha Ca Diếp.
Tất Cả Chúng Sanh Đều Có Phật Tánh:
All sentient (living) beings or creatures have Buddha-nature.
Tất Cả Chư Pháp Hữu Vi Như Mộng Như Huyễn:
All conditioned dharmas are like dreams and illusions.
Tất Cả Phiền Não Đều Không, Chúng Chỉ Khởi
Lên Khi Sự Chấp Ngã Của Ta Khởi Lên: All afflictions are empty;
they only arise when the our attachment to the self arises.
Tất Cả Vạn Vật: All of nature.
Tất Cánh: Atyanta (skt).
1) Căn
bản: Fundamental.
2) Cuối
cùng: Finally—At last—Final—Ultimate.
3) Dưới
đáy: At bottom.
Tất Cánh Giác: Còn gọi là vô
thượng Bồ Đề hay vô thượng giác, chỉ có Đức Phật mới chứng được, không ai
có thể đạt được—The ultimate enlightenment, or bodhi, that of a Buddha.
Tất Cánh Không: Chư pháp (hữu
vi và vô vi) cuối cùng đều là không—Fundamentally unreal, or void.
Tất Cánh Trí: Trí huệ tối
thượng—Ultimate or final wisdom, or knowledge of the ultimate.
Tất Cánh Vô: Rốt cuộc là không
có—Never, fundamentally not, or none.
Tất Cánh Y: Chỉ Đức Phật là nơi
nương tựa cuối cùng của chúng sanh—A final trust, ultimate reliance, i.e.
Buddha.
Tất Đạt Đa: Siddhartha
(skt)—Người đã hoàn thành mục tiêu đại nguyện của mình. Tục danh của Đức
Phật trước khi Ngài xuất gia—He who has accomplished his aim. The secular
name of the historical Buddha before His renunciation of the world—See
Siddhartha in Sanskrit/Pali-Vietnamese Section.
Tất Định:
1) Chắc
chắn: Certainly—Assuredly.
2) A Bệ
Bạt Trí: Avaivartika (skt)—Bất Thối Chuyển—Chẳng thối chuyển đạo lớn, nhất
định sẽ nhập vị Niết Bàn—Never receding, or turning back, always
progressing, and certainly reaching Nirvana.
Tất Hữu: Total
existence—Totally have.
Tất Lạc Xoa: Vilaksa or Vrksa
(skt)—Còn dịch là Tất Lợi Xoa hay Tất Thích Xoa, tên của một loài cây
a-du-ca, người ta nói Đức Phật đản sanh ngay tại gốc cây nầy—A tree; here
it is described as the tree, i.e. the Jonesia asoka, a tree under which
the Buddha is said to have been born.
Tất Lặc Chi Để Ca:
Pratyeka-buddha (skt)—See Pratyeka-buddha in Sanskrit/Pali-Vietnamese
Section.
Tất Lăng Già Bà Ta:
Pilindavatsa (skt)—Còn dịch là Tất Lan Đà Phiệt Sà, tên một vị Tỳ Kheo vốn
500 đời là Bà La Môn, thái độ kiêu mạn, luôn miệng chưỡi Thần sông Hằng.
Về sau quy-y đầu Phật, Phật bắt phải phát lồ sám hối cho sự hung hăng kiêu
mạn thời trước—One who for 500 generations had been a brahman, cursed the
god of the Ganges, became a disciple, but still has to do penance for his
ill-temper.
Tất Lật Ca: Prkka or Sprkka
(skt)—Còn gọi là Tất Lực Ca, một loại cây thơm, có tên khoa học là
Trigonella corniculata—A fragrant plant, said to be Trigonella
corniculata.
Tất Lật Thác Diệc Na:
Prthagjana (skt).
1) Phàm
Phu: Độc Sanh—Dị Sanh—Ordinary people—Common people.
2) Sanh
ra làm phàm phu: To be born an ordinary man.
Tất Lợi Đa: Preta (skt)—Ngạ
quỷ—Hungry ghosts—See Ngạ Quỷ in Vietnamese-English Section and Preta in
Sanskrit/Pali-Vietnamese Section.
Tất Lực Ca: Prkka or Sprkka
(skt)—See Tất Lật Ca.
Tất Nhiên:
Naturally—Certainly—Of course.
Tất Tâm: With all one’s
heart—Heartily.
Tất Thắng: Certain victory.
Tất Trí: Chắc chắn
đến—Certainly arrive at—Certainly will.
Tất Tưởi: To be in a hurry.
Tất Xá Già: Pisaca (skt)—Còn
gọi là Tỳ Xa Giá, hay Tỳ Xá Xà, tên một loại quỷ ăn thịt tươi—Demons that
eats flesh, maglinant sprites or demons.
Tất Yếu: Essential—Necessary.
Tật: See Tật Bệnh.
Tật Bịnh:
1) Bệnh
hoạn: Ill—Sick—Sickness—An attack of illness.
2) Giận
hờn: Angry.
3) Vội
vàng: Haste.
Tật Đố: Irsya (skt)—Ganh ghét
với tài sản của người khác—Jealousy, or envy of other’s possessions.
Tật Họa:
1) Vẽ
tháo: Hasty writing.
2) Viết
tháo: To write speedily, or at once.
3) Viết
vội: A hurried note.
Tật Khổ: Unhappy—Unfortunate.
Tật Nguyền: Disabled.
Tấu: To report (to the king).
Tẩu:
1) Cái
đầm: A marsh—A reserve.
2) Đi: To
walk—To go.
Tẩu Đạt Lê Xá Thố: Sudarsana
(skt)—Vòng thứ tư quanh núi Tu Di—The fourth circle around Mount Meru.
Tẩu Hải: Đi bằng đường biển—To
travel by sea.
Tẩu Tẩu Bà: See Stupa in
Sanskrit/Pali-Vietnamese Section.
Tậu: To purchase.
Tây:
1) Hướng
Tây: Pascima (skt)—West.
2) Tây
Bộ của Ấn Độ: Kashmir or western region of India.
3) Tây
Phương Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà: The western heavens of Amitabha—See
Tây Phương Cực Lạc.
Tây An: Tên của một ngôi chùa
tọa lạc trong thị xã Châu Đốc, nằm về phía tây trung tâm thị xã chừng 3
dậm. Chùa được giới thiệu trong Đại Nam Nhất Thống Chí như sau: “Chùa tọa
lạc trong thôn Vĩnh Tế, huyện Tây Xuyên, và được quan Tổng Đốc Tuy Tĩnh Tử
Doãn Uẩn xây vào năm Thiệu Trị thứ 7 (1847). Chùa đứng trên núi, mặt trước
trông ra tỉnh thành, phía sau dựa vào vách núi. Cảnh chùa tỉnh mịch, nhiều
cây cổ thụ âm u. Trong chánh điện chùa có nhiều tượng Phật và tượng Bồ
Tát, bằng gỗ quý và được chạm trỗ công phu. Kể từ đời Phật Thầy Đoàn Minh
Huyên đến nay đã trải qua 7 đời truyền thừa. Đây là một ngôi chùa có giá
trị về mặt lịch sử và kiến trúc, và cũng là một trong những ngôi chùa nổi
tiếng nhất của miền Nam Việt Nam—Name of a temple, located in Châu Đốc
town, about 3 miles west of the center of Châu Đốc town. It is introduced
in ‘Đại Nam Nhất Thống Chí’ as follows: “The temple situated in Vĩnh Tế
hamlet, Tây Xuyên district, and constructed in the seventh year of the
King Thiệu Trị (1854) by the late Commander, Head of the province, general
Tuy Tĩnh Tử Doãn Uẩn. The temple stands on the mountain, its facade faces
the province citadel, and its back leans on the side of the mountain. The
temple is very quiet and desert with secular trees and plants full of
darkness. In the main hall stand lots of statues of Buddhas and
Bodhisattvas, made of precious wood and carved very elaborately. From the
first Patriarch, Ch’an Master Đoàn Minh Huyên, the temple has been headed
by seven Patriarchs up to now. The temple is historically and
architecturally valuable and one of the most famous temples in Southern
Vietnam.
Tây An Cổ Tự: Tsi-An Ancient
Temple—See Tây An.
Tây Ban: See Tây Tự.
Tây Chủ: The Lord of the West,
Amitabha Buddha—See A Di Đà in Vietnamese-English Section and Amita in
Sanskrit/Pali-Vietnamese Section.
Tây Hà: Hsi-He—Tây Hà là tên
hiệu của Đạo Xước, một vị Tăng nổi tiếng đời Đường—Name of T’ao-Ch’o, a
famous monk during the T’ang dynasty.
Tây Hành:
1) Đi về
phía Tây: Going west.
2) Những
ai thực hành theo giáo pháp của Đức Phật A Di Đà, sẽ được vãng sanh Tây
Phương Cực Lạc: Practices of the Amitabha cult, leading to salvation in
the Western Paradise.
Tây Mạn Đà La: Tây Mạn Đà La
chỉ Kim Cang Giới, trong khi Đông Mạn Đà La chỉ Thai Tạng Giới—The
“western” mandala is of Vajradhatu, as the “eastern” is of the
Garbhadhatu.
Tây Minh: Tây Minh là tên hiệu
của hai vị cao Tăng đời Đường, một là Đạo Tuyên, người đã sáng lập ra tông
Nam Sơn, và người thứ hai là Viên Triệt. Cả hai đều xuất thân từ Tây Minh
Tự được vua Đường Cao Tông (650-684) xây tại kinh đô Trường An—Hsi-Ming,
name of T’ao-Hsuan during the T’ang dynasty, who founded the Southern Hill
school, and also Yuan-Ts’ê, both of whom were from the monastery of
Western Enlightenment, established by King T’ang Kao-Tsung (650-684) at
Ch’ang-An, the capital.
Tây Ngưu Hóa Châu: Godaniya or
Apara-godaniya (skt)—Tây Lục địa, nơi mà trâu bò được dùng làm tiền tệ.
Lục địa tọa lạc về phía Tây của núi Tu Di—The western continent of the
world, or “western-cattle-giving,” where cattle are the medium of
exchange. This continent is situated in the west of Mount Sumeru.
Tây Phương: Phía Tây, đặc biệt
nói về Tây Phương Tịnh Độ của Đức Phật A Di Đà—The west, especially
Amitabha’s Western Pure Land—See Tây Phương Cực Lạc.
Tây Phương Cực Lạc: Tây phương
Cực lạc vượt ngoài tam giới luân hồi. Đây là một trong những đất chính của
Phật được trường phái Đại Thừa thừa nhận. Đức Phật A Di Đà lập ra Tây
Phương Cực Lạc nhờ chính ngay công đức tu tập của Ngài. Trường phái Tịnh
độ tin rằng việc trì niệm hồng danh của Ngài cho phép tín đồ vãng sanh về
Tịnh Độ sống đời an lạc cho đến khi nhập Niết bàn (Đức Phật Thích Ca nói:
“Ở về phương Tây có một cõi nước thanh tịnh gọi là An Lạc hay Cực
Lạc/Sukhavati hay thế giới Tây Phương Cực Lạc. Vị Giáo Chủ của cõi nước
nầy hiệu là A Di Đà/Amitabha Buddha. A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Thọ và
Vô Lượng Quang. Đức Phật A Di Đà trong vô lượng kiếp về trước, đã phát 48
lời đại nguyện, trong đó những lời nguyện thứ 18, 19, và 20 chuyên vì
nhiếp thọ và tiếp dẫn nhứt thiết chúng sanh. Do các lời nguyện cao quý
nầy, Đức Phật A Di Đà sáng tạo cõi Tịnh, chúng sanh chỉ cần phát tâm chánh
niệm, quán Phật niệm Phật, tới lúc lâm mạng chung thời, Đức Phật và Thánh
chúng sẽ đến tiếp dẫn vãng sanh Cực Lạc. Khi đến cõi Tịnh, chúng sanh ở
trong cung điện lầu cát, hoa viên tốt đẹp nhiệm mầu, tiếng chim, tiếng gió
thảy đều hòa nhã. Chư Phật chư Bồ Tát theo thời theo chỗ mà tuyên dạy diệu
pháp. Các chúng sanh được thanh tịnh diệu lạc, thân tâm đều không thọ khổ,
chuyên chí nghe đạo hằng không thối chuyển. Các hiện tượng ở cõi Tịnh tốt
đẹp như thế, mọi phương diện cố nhiên đều do tịnh thức của chư Phật và chư
Bồ Tát sở hiện, về phương diện khác cũng nhờ tâm thức thanh tịnh của chúng
sanh vãng sanh cõi ấy tham gia đồng thể biến hiện mà có. Không thể dùng
chút ít căn lành, phước đức nhơn duyên mà đặng sanh vào nước kia. Như vậy
cõi Tịnh không phải ai cũng vãng sanh được, cũng không thể bỗng nhiên niệm
vài tiếng “namo” không chí thành mà có thể vãng sanh được. Thân Như Lai
không thể thân cận với những ai có căn lành cạn cợt—(See Tứ Thập Bát
Nguyện 18, 19, 20)—Sukhavati means the Western Land of Amitabha Buddha,
the highest joy, name of the Pure Land of Amitabha Buddha in the west—The
Western Paradise which is outside the triple realm and beyond samsara and
retrogression. The Western Paradise is one of the most important of the
Buddha-fields to appear in the Mahayana. Amitabha Buddha created the Pure
Land by his karmic merit. The Pure Land sect believes that through
faithful devotion to Amitabha and through recitation of his name, one an
be reborn there and lead a blissful life until entering Nirvana.
Tây Phương Tam Thánh: The three
Pure Land sages—See Tam Thánh (B).
Tây Phương Tịnh Độ: Sukhavati
(skt)—Tây Phương Cực Lạc Thế Giới hay Tây Phương Cực Lạc Tịnh Độ, nơi đó
Đức Phật A Di Đà là Tiếp Dẫn Đạo Sư—The Western Paradise to which Amitabha
is the guide and welcomer—See Tây Phương Cực Lạc.
Tây Quang: Ánh sáng (hào quang)
của Tây Phương Cực Lạc—The light of the western paradise.
Tây Sơn Trụ Bộ: Avarasaila or
Aparasaila (skt)—Tây Sơn Bộ—A La Thuyết Bộ—Tông thứ nhì của Đại Chúng Bộ,
một trong hai mươi tông phái Tiểu Thừa. Một tự viện mang tên của tông phái
nầy ở Tây Sơn, người ta nói nó đã được xây dựng từ năm 600 trước Tây Lịch,
và bị bỏ phế vào khoảng năm 600 sau Tây Lịch. Trong thế kỷ thứ hai sau khi
Đức Phật nhập diệt, Đại Chúng Bộ được tách ra thành Nhất Thuyết Bộ
(Ekavyaharika) và Thuyết Xuất Thế Bộ (Lokotarravada), Kê Dẫn Bộ (Kukkutika
or Gokulika), Đa Văn Bộ (Bahusrtiya), Thuyết Giả Bộ (Prajnaptivada), và
một thời gian ngắn sau thì xuất hiện phái Tây Sơn Trụ Bộ (Aparasaila),
Đông Sơn Trụ Bộ (Uttarasaila) và Chế Đa Sơn Bộ (Caityaka). Tất cả những
trường phái trên đây đều mở đường cho sự phát triển của Phật giáo Đại
Thừa. Các phái Tây Sơn và Đông Sơn Trụ Bộ đều lấy tên của các ngọn đồi ở
cạnh trung tâm hoạt động của họ. Họ còn được gọi là Andhaka trong Biên
Niên Sử Tích Lan vì được nhiều người trong vùng núi Andhra theo. Trong số
các bộ phái tách ra từ Đại Chúng Bộ thì Chế Đa Sơn Bộ, Tây Sơn Trụ Bộ và
Đông Sơn Trụ Bộ là nổi bật nhất và có ảnh hưởng lớn tại miền Nam Ấn Độ—The
second subdivision of Mahasanghika school, one of the twenty Hinayana
sects. A monastery of this name was in Dhana-kataka, said to have been
built 600 B.C., deserted 600 A.D. During the second century after the
Buddha’s death, the Mahasanghika sect was split up into Ekavyaharika,
Lokottaravada, Kukkutika, Bahusrutiya and Prajnaptivada, and shortly
afterwards appeared the Saila and the Caityaka schools. All of these
sub-cults helped pave the way for the growth of Mahayanism. The Sailas
derived their name from the hills located round the principal centers of
their activities. They were also called the Andhakas in the Ceylonese
Chronicles on account of their great popularity in the Andhra country. The
Pali commentary, however, mentions that both the Cetiyavadin (Caityavadin)
and the Andhala schools were merely names, remote, provincial, standing
for certain doctrines. Among the sections into which the Mahasanghikas
were divided, the Caityakas and the Saila schools were the most prominent
and had great influence in the South of India.
Tây Tạng: Tibet.
Tây Tạng Lạt Ma Giáo: Tibetan
Lamaism.
Tây Tạng Phật Giáo: Tibetan
Buddhism.
Tây Thiên: Thiên Trúc—Ấn
Độ—Western Heavens—India.
Tây Thiên Tự: Tên của một ngôi
chùa cổ ở Huế, Trung Việt. Năm 1902, sư Tâm Tịnh, đệ tử của Hòa Thượng
Diệu Giác, đến ấp Thuận Hòa, làng Dương Xuân Thượng, phía sau Đàn Nam Giao
dựng một thảo am, gọi là Thiếu Lâm trượng thất. Nơi đây sư tham cứu và tu
trì theo Thiền tông kết hợp với Tịnh Độ. Đó là tiền thân của chùa Tây
Thiên. Năm 1904, đổi Am Thiếu Lâm thành Thiếu Lâm Tự. Năm 1911, sư đổi tên
chùa thành Tây Thiên. Hiện nay chùa Tây Thiên là một trong những chùa có
nhiều sinh hoạt tu tập trong tín đồ. Theo định kỳ có nhiều vị Tăng cao hạ
tu tập tại đây—Name of an ancient temple in Huế, Central Vietnam. In 1902,
Venerable Tâm Tịnh, a disciple of Diệu Giác, came to Thuận Hóa hamlet,
Dương Xuân Thượng village, behind Nam Giao ritual place to build a
thatched temple, called Shao-Lin house. Right here he cultivated a
combination of Zen and Buddha-Recitation. This was preformation of Tây
Thiên (Hsi-T’ien) temple. In 1904, he changed its name to Shaolin temple.
In 1911, he changed the name of the temple to Tây Thiên. At present, Tây
Thiên temple is one of the temples which has a lot of religious activities
for congregation. Periodically, many senior monks stay there.
Tây Thiên Giáo Chủ: Phật A Di
Đà, vị giáo chủ của Tây Phương Cực Lạc—Amitabha Buddha, the Lord of the
cult, or sovereign teacher, of the Western paradise.
Tây Tịnh: Nhà xí thường tọa lạc
về hướng Tây của tự viện—The western cleanser, the privy, situated on the
west of a monastery.
Tây Tự: Tây Ban—Nhóm Tăng
chuyên về giảng giải giáo pháp, bên phía Tây của phương trượng; trong khi
nhóm bên Đông thì chuyên về hành trì. Đây là một lối bắt chước theo văn võ
quan của triều đình—The western group, i.e. teaching monks stood on the
west of the abbot, while those engaged in practical affairs stood on the
east. This was an imitation of the Court practice in regard to civil and
military officials.
Tây Vực Cầu Pháp Cao Tăng Truyện:
Đại Đường Tây Vực Cầu Pháp Cao Tăng Truyện, 2 quyển do Sư Nghĩa Tịnh soạn
vào đời Đường; tổng số gồm 56 nhà sư nổi tiếng, trong đó có bốn người nước
ngoài—Biographies of famous pilgrims, composed by I-Ching, fifty six in
number, among them 4 were not Chinese.
Tây Vực Ký: Tây Vực Truyện—Đại
Đường Tây Vực Ký—Ký sự ghi lại về các nước ở Tây Vực, do Huyền Trang đời
Đường biên soạn thành 12 quyển vào khoảng những năm 646-648 sau Tây
Lịch—The Great T’ang Chronicles of the Western World, or Records of
Western countries, by the T’ang dynasty pilgrim Hsuan-Tsang, in 12 books
A.D. 646-648.
Tây Vực Truyện: See Tây Vực Ký.
Tẩy: To cleanse—To wash—To rub
out.
Tẩy Chay: To boycott.
Tẩy Tịnh: Phép rửa tay sau khi
đi đại tiểu tiện xong—Cleansing, especially after stool.
Tẩy Trừ: Pativinodeti
(p)—Pariksina (skt)—To dismiss—To dispel—To get rid of—To eradicate—To
remove.
Tẩy Trừ Tập Khí:
Pariksina-vasana (skt)—To dispel the old habits or the pervasions of
passions.
Tẩy Uế: To clean—To disinfect.
Tăng Già: A monastery.
Tăng Thượng Mạn: Vaunting
asertion of possessing the Truth.
Tăng Trưởng Kiến Thức:
Expansion of knowledge.
Tắt Rụi: To become extinct
---o0o---
Mục Lục Tự điển Phật Học
Việt-Anh
|
A
|
Ba |
Be |
Bi |
Bo |
Bu
| Ca
| Ch
| Co |
Cu
|
D
|
Đa
| Đe |
Đi |
Đo |
Đu
|
| E
|
G
|
Ha |
He |
Hi |
Ho |
Hy
|
I
| K
| La |
Le |
Li |
Lo |
Lu |
Ly
|
|
Ma
| Me |
Mi |
Mo |
Mu, My
|Na
| Ne |
Ng |
Nh
| Ni
| No
| Nu
|
| O
| Pha |
Phe
| Phi |
Pho |
Phu
| Q
| R
| S
| Ta |
Te |Tha
| Thă, Thâ |
| The |
Thi |
Tho |
Thu |
Ti |
To |
Tr |
Tu |
Ty
| U
| V
| X
| Y|
---o0o---
Mục Lục |
Việt-Anh | Anh -Việt |
Phạn/Pali-Việt
| Phụ Lục
---o0o---
Trình bày: Nhị
Tường
Cập nhật: 1-4-2006