TỔ ĐÌNH MINH ĐĂNG QUANG
PHẬT HỌC TỪ ĐIỂN
BUDDHIST DICTIONARY
VIETNAMESE-ENGLISH
THIỆN PHÚC
Thă
Thăm: To pay a visit—To
visit—To call on.
Thăm Dò: To feel—To sound out.
Thăm Hỏi: To inquire—See Thăm.
Thăm Hỏi Ai: To inquire after
someone’s well-being.
Thăm Thẳm: Very deep.
Thăm Viếng: See Thăm.
Thắm: Bright red.
Thăng: Đi lên—To ascend—To
rise—To raise.
Thăng Đường: See Thăng Tọa in
Vietnamese-English Section.
Thăng Giáng: To ascend and to
descend.
Thăng Hà: To die (talk of
king).
Thăng Thiên: Externalists
believe that their founder ascended to heaven (not dying) in the Ascension
Day.
Thăng Thưởng: To promote and to
reward.
Thăng Tọa: Đăng đàn thuyết
pháp—To ascend the platform to expound the sutras—To ascend the seat
(platform), or to go up to the Dharma Hall to preach or to expound the
sutras.
Thăng Trầm: To ascend and
descend—Ups and downs—Vicissitudes—Rise and fall.
Thăng Trật: To be promoted.
Thắng:
1) Chiến
thắng: Jina (skt)—Victorious—To win—To conquer—To defeat.
2) Hãm
thắng xe lại: To stop—To put on the brake.
3) Thắng
đường: To boil sugar—To melt fat.
4) Vượt
thắng: Surpassing—All-pervading.
Thắng Bại: Victory or defeat.
Thắng Cảnh: Fine (beautiful)
scenery.
Thắng Châu: Uttarakuru
(skt)—Bắc Cu Lô Châu—The continent north of Mount Meru.
Thắng Duyên: Auspicious
conditions.
Thắng Giả: Pradhana (skt)—Thắng
Luận Sư—Pre-eminent, predominant.
Thắng Giải: To win a prize.
Thắng Hữu:
1) Làm
bạn với người chiến thắng, ý nói về quy y Phật: Friend of the Jina, or,
having the Jina for friend, or to take refuge in the Triratna.
2) Tên
của một vị Tăng có tài hùng biện tại tu viện Na Lan Đà, vào khoảng năm 630
sau Tây Lịch, tác giả của bộ Đại Chúng Bộ Luật, được dịch sang Hoa ngữ
khoảng năm 700 sau Tây Lịch: The name of an eloquent monk of Nalanda,
around 630 A.D., author of Sarvastivadah-vinaya-sangraha, translated into
Chinese in 700 A.D.
Thắng Kiện: To win one’s case.
Thắng Lâm: The Jeta Grove,
Jetavana—See Kỳ Thọ Cấp Cô Độc Viên.
Thắng Lợi: See Thắng.
Thắng Luận: See Thắng Luận
Tông.
Thắng Luận Tông:
Vaisesika-sastra (skt)—Còn dịch là Tông của Vệ Thế Sư. Thắng Luận là một
trong sáu phái triết học ở Ấn Độ do Âu Lộ Ca Tiên (Uluka), còn có tên là
Ca Na Đà, sáng lập. Người ta đã đặc cho ông và hàng đệ tử nối tiếp ông
danh hiệu luận sư hay luận sư ngoại đạo. Về sau phái nầy họp lại với phái
Nyaya thành phái Nyaya-Vaisesika (trường phái nầy là luận phái duy vật
chuyên phân tích vũ trụ vạn hữu thành không gian)—The Vaisesika-sastra
sect of Indian philosophy, whose foundation is ascribed to Kanada
(Uluka); he and his successors are respectfully styled sastra-writers
(philosophers) or slightingly styled heretical philosophers; the school
when combined with the Nyaya, is also known as Nyaya-Vaisesika
Thắng Mạn Phu Nhân: Malyasri
(skt)—Con gái của vua Ba Tư Nặc, nước Xá Vệ, mẹ là Mạt Lợi Phu Nhân. Tên
tiếng Phạn của bà là Thi Lợi Ma La, nàng vương phi của vua A Du Xà. Về sau
người ta lấy tên nàng mà đặt cho một chúng hội và Kinh Thắng Mạn—Daughter
of Prasenajit, wife of the king of Kosala (Oudh), after whom the
Srimaladevi-simhanada assembly and sutra are named—See Mạt Lợi Phu Nhân,
and Kinh Thắng Man.
Thắng Nghĩa: Không thể giải
thích bằng lời hay đối lại với lời của thế tục mà gọi là thắng nghĩa (diệu
lý sâu xa vượt hơn hẳn lý thời gian thế tục)—Beyond description which
surpasses mere earthly ideas; superlative; inscrutable.
Thắng Nghĩa Căn: Đối lại với
trần căn mà lập ra thắng nghĩa căn. Thực thể của năm căn nhãn, nhĩ, vân
vân (nhờ vào nó mà có tác dụng phát thức thủ cảnh, do tứ đại chủng tạo
thành)—The surpassing organ, i.e. intellectual perception, behind the
ordinary organs of perception, e.g. eyes, ears, etc.
Thắng Nghĩa Đế: Chân đế hay
chân lý cao tuyệt đối lại với tục đế hay chân lý của thế tục—The superior
truth, enlightened truth, as contrast with worldly truth.
Thắng Nghĩa Đế Luận:
Paramartha-sastra (skt)—Tập luận về Thắng Nghĩa Đế của ngài Thế Thân Bồ
Tát—A philosophical work by Vasubandhu.
Thắng Nghĩa Không: Tính siêu
việt hay tính không của Niết Bàn—Nirvana as surpassingly real or
transcendental.
Thắng Nghĩa Pháp: Tên khác của
Niết Bàn—The superlative dharma, or nirvana.
Thắng Nghiệp: Hành nghiệp thắng
diệu—Surpassing karma.
Thắng Pháp: The superlative
dharma.
Thắng Pháp Đế: The superior
truth, enlightened truth, in contrast with worldly truth (Tục pháp).
Thắng Pháp Đế luận:
Paramartha-satya-sastra—A philosophical work by Vasubandhu (Thế Thân Bồ
Tát).
Thắng Pháp Không: Nirvana as
surpassingly real or transcendental.
Thắng Pháp Yếu Luận: Compendium
of Philosophy.
1) Thắng
Pháp Yếu Luận là một trong những bộ luận của Câu Xá Tông, trong đó tất cả
các pháp được chia làm hữu vi và vô vi—Compendium of Philosophy is one of
the chief sastras or commentaries of the Abhidharma-kosa School, which is
classified into two kinds: conditioned and non-conditioned.
a) Hữu
Vi Pháp: The created or unconditioned—See Hữu Vi Pháp.
b) Vô
Vi Pháp: Asamskrta (skt)—See Vô Vi Pháp.
2) Những
pháp nầy đều là hữu vi, tổng cộng có 72, cùng với 3 pháp vô vi tạo thành 5
bộ loại với 75 pháp: These are all created things, 72 in number and with
uncreated things, 3 in number, constitute the five categories and the
seventy-five dharmas—See Bảy Mươi Lăm Pháp Câu Xá Tông.
Thắng Quả: Quả Thắng Diệu hay
Phật quả, đối với Tiểu Thừa là Thanh Văn quả hay Duyên Giác quả; còn đối
với Thập Địa Bồ Tát thì gọi là Thắng quả—The surpassing fruit, i.e. that
of the attainment of Buddhahood, in contrast with Hinayana lower aims; two
of these fruits are transcendent nirvana and complete bodhi.
Thắng Quân: Prasenajit
(skt)—Vua Ba Tư Nặc của xứ Kosala, người hộ trì Phật pháp đắc lực trong
thời Đức Phật còn tại thế—Conquering army, or conqueror of an army; king
of Kosala and patron of sakyamuni—See Prasenajit in
Sanskrit/Pali-Vietnamese Section.
Thắng Sĩ: Kẻ chiến thắng, ý nói
người tinh chuyên giữ giới—Victor, one who keeps the commandments.
Thắng Tâm: Tâm chiến thắng, hay
tâm tinh chuyên hành trì theo giới luật nhà Phật—The victorious mind,
which carries out the Buddhist discipline.
Thắng Thần Châu: Videha or
Purvavideha (skt)—Đông Thắng Thần châu—The continent east of Sumeru
Mountain.
Thắng Thừa: Đức danh của Đại
Thừa (theo Kinh Hoa Nghiêm, vượt qua nhị thừa là Đại Thừa, Đệ Nhất Thừa,
Thắng Thừa, Tối Thắng Thừa)—The victorious vehicle—Mahayana—See Đại Thừa.
Thắng Tử Thọ: Trước kia gọi là
Kỳ Đà Lâm hay Kỳ Hoàn, Thắng Tử Thọ, dịch là Thệ Đa Lâm (Kỳ Thọ Cấp Cô Độc
Viên)—The Jeta Grove, Jetavana.
Thắng Ứng Thân: Còn gọi là Tôn
Đặc Thân, một trong ba thân Phật Pháp thân, Báo thân, và Ứng thân do tông
Thiên Thai lập ra. Báo thân lại chia làm hai Tự Thụ Dụng và Tha Thụ Dụng
thân. Tha Thụ Dụng của báo thân đối với Tự thụ dụng mà gọi là Thắng Ứng
thân (Tha thụ dụng thân vừa là báo thân mà cũng là ứng thân)—A T’ien-T’ai
term for the the superior incarnational Buddha-body, i.e. his
compensation-body under the aspect of saving others.
Thắng Xứ: Place of victory.
Thằng: Sơi dây—String—Cord.
Thằng Sàng: Võng giường dây—A
string-bed.
Thẳng:
1)
Straight.
2) At one
(a) stretch.
3)
Inexorably.
Thẳng Băng: Perfectly straight.
Thẳng Một Mạch: At one stretch.
Thẳng Tắp: See Thẳng Băng.
Thẳng Thắn:
Straightforward—Downright.
Thẳng Tính: Straightforward
character.
Thặng Dư: Excess—Surplus.
Thắp Hương: To burn incense.
Thắp Nhang: See Thắp Hương.
Thắt: To tighten—To tie.
Thắt Chặt: See Thắt.
Thâm:
1) Đen:
Black.
2) Sâu:
Deep—Profound.
Thâm Áo: See Thâm Bí.
Thâm Bí: Sâu sắc, bí ẩn, huyền
diệu, trái với nông cạn—Deep—Profound—Abstrue, in contrast with “shallow.”
Thâm Bí A Xà Lê:
1) Tên
gọi Đức Đại Nhật Như Lai: Name of the Vairocana.
2) Những
vị sư đã được thụ pháp quán đỉnh ở Đức Đại Nhật Như Lai: Bhiksus who have
already received the initiation ceremony from Vairocana (esoterics).
Thâm Canh: Late into the night.
Thâm Diệu: See Thâm Bí.
Thâm Hành: Hành nghiệp thâm mật
từ bậc sơ địa Bồ Tát trở lên—Deep or deepening progress, that above the
initial bodhisattva stage.
Thâm Hành A Xà Lê: A xà lê từ
bậc sơ địa Bồ Tát trở lên—Acarya who has attained stages above the initial
bodhisattva stage.
Thâm Huyền:
1) Màu
đen đậm: Deep black—Dark.
2) Sâu
sắc: Deep—Abstrue.
Thâm Khang: Hố sâu—A deep or
fathomless pit.
Thâm Kinh: Thâm Tạng—Gọi chung
các kinh điển Đại Thừa, thuyết giảng về sự thậm thâm của chánh
pháp—Profound sutras, or texts, those of Mahayana.
Thâm Lý: Nguyên lý thậm
thâm—Profound principle, law or truth.
Thâm Ma Xá Na: Smasana
(skt)—Nơi vứt xác người chết—Place for disposing of the dead.
Thâm Mật: See Thâm Bí.
Thâm Nhập: Nyanti (skt)—Ni Diên
Để—Tên riêng của tham (lòng tham có khả năng đi sâu vào cái cảnh mà nó
muốn, lại có thể đi sâu vào tự tâm nên gọi là thâm nhập)—Deep entering—To
infiltrate—To penetrate into, or the deep sense, i.e. desire,
covetousness, cupidity.
Thâm Nhập Vào Đại Trí Của Ngài Văn Thù Sư
Lợi Bồ Tát: To penetrate the great wisdom of Manjusri
Bodhisattva.
Thâm Nhiễm: Imbued
(a)—Impragnated.
Thâm Niên: Length of
service—Seniority.
Thâm Ố: To hate deeply.
Thâm Pháp: See Thâm Pháp Môn.
Thâm Pháp Môn: Pháp môn sâu
sắc—Profound truth or method.
Thâm Pháp Nhẫn: Pháp nhẫn sâu
sắc (người nghe được pháp nầy thì trụ vững không thối chuyển)—Patience or
perseverance in faith and practice.
Thâm Sâu: Profound.
Thâm Sơn Cùng Cốc: Remote area
(place).
Thâm Tạng: See Thâm Kinh.
Thâm Tâm:
1) Tự đáy
lòng: Bottom of one’s heart.
2) Một
trong tam tâm, cái tâm cầu Phật, cầu Pháp sâu nặng: One of the three
minds, profound mind engrossed in Buddha-truth, or thought, or illusion,
etc.
Thâm Thù: Deep hatred
Thâm Thúy: Deep—Profound.
Thâm Tín: Tin tưởng sâu xa—Deep
faith.
Thâm Tịnh: Thanh tịnh sâu
sắc—Profound pure.
Thâm Trí: Trí thâm sâu—Profound
knowledge or wisdom.
Thấm: To blot—To permeate—To
absorb—To soak up.
Thấm Nhuần: To impregnate.
Thấm Qua: To go through.
Thấm Thoát: Time flies.
Thầm:
1) To
whisper (thì thầm).
2)
Secretly.
Thẩm Duyệt: To examine
carefully.
Thẩm Định: To judge.
Thẩm Kiến: Sự hiểu biết sâu
xa—Profound insight.
Thẩm Quyền: Power.
Thẩm Thấu: Absorption.
Thẩm Vấn: To interrogate—To
examine—To inquire.
Thậm:
1) Sâu:
Deep—Profound—Abstruse.
2) Cực
xa: Extreme—Very.
Thậm Ma Xá Na: Smasana
(skt)—See Thi Đà Lâm.
Thậm Thâm: Sự thậm thâm của
Phật pháp—Profundity of Buddha-truth.
Thậm Tín: Deep faith.
Thân: Kaya or Tanu (skt).
1) Làm
cho dài ra: To draw out—To stretch—To expand.
2) Thân
ái: To love—Beloved.
3) Thân
quyến: Family—Relatives.
4) Thân
thích: Personally related—Intimate.
5) Thân
hình: Kaya, or tanu, or deha (skt)—Physical existence—Body—The self—The
sense or organ of touch.
6) Thân
là một đối tượng của Thiền: Mục đích đầu tiên của thiền tập là để nhận
thức bản chất thật của thân mà không chấp vào nó. Đa phần chúng ta nhận
thân là mình hay mình là thân. Tuy nhiên sau một giai đoạn thiền tập,
chúng ta sẽ không còn chú ý nghĩ rằng mình là một thân, chúng ta sẽ không
còn đồng hóa mình với thân. Lúc đó chúng ta chỉ nhìn thân như một tập hợp
của ngũ uẩn, tan hợp vô thường, chứ không phải là nhứt thể bất định; lúc
đó chúng ta sẽ không còn lầm lẫn cái giả với cái thật nữa: The first goal
of meditation practices is to realize the true nature of the body and to
be non-attached to it. Most people identify themselves with their bodies.
However, after a period of time of meditation practices, we will no longer
care to think of yourself as a body, we will no longer identify with the
body. At that time, we will begin to see the body as it is. It is only a
series of physical and mental process, not a unity; and we no longer
mistake the superficial for the real—See Ngũ Uẩn.
·
Tỉnh thức về hơi thở: Anapanasati (p)—Mindfulness of your
breathing.
·
Tỉnh thức về thân trong những sinh hoạt hằng ngày, như đi,
đứng, nằm, ngồi, nhìn ai, nhìn quang cảnh, cúi xuống, duỗi thân, mặc quần
áo, tăm rữa, ăn uống, nhai, nói chuyện, vân vân. Mục đích là chú ý vào
thái độ của mình chứ không chạy theo những biến chuyển: Mindfulness of
your body in daily life activities, such as mindfulness of your body while
walking, standing, lying, sitting, looking at someone, looking around the
environments, bending, stretching, dressing, washing, eating, drinking,
chewing, talking, etc. The purpose of mindfulness is to pay attention to
your behavior, but not to run after any events.
7) Theo
Kinh Duy Ma Cật, khi Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát vâng mệnh của Đức Phật đi thăm
bệnh cư sĩ Duy Ma Cật, nên mới có cuộc đối đáp về “thân” như sau—According
to the Vimalakirti Sutra, Manjusri Bodhisattva obeyed the Buddha’s command
to call on Upasaka Vimalakirti to enquire after his health, there was a
converssation about the “body” as follows:
·
Văn Thù hỏi cư sĩ Duy Ma Cật: “Phàm Bồ Tát an ủi Bồ Tát có
bệnh như thế nào?”—Manjusri asked Vimalakirti: “What should a Bodhisattva
say when comforting another Bodhisattva who falls ill?”
·
Duy Ma Cật đáp: “Nói thân vô thường, nhưng không bao giờ
nhàm chán thân nầy. Nói thân có khổ, nhưng không bao giờ nói về sự vui ở
Niết Bàn. Nói thân vô ngã mà khuyên dạy dắt dìu chúng sanh. Nói thân không
tịch, chứ không nói là rốt ráo tịch diệt. Nói ăn năn tội trước, chứ không
nói vào nơi quá khứ. Lấy bệnh mình mà thương bệnh người. Phải biết cái khổ
vô số kiếp trước, phải nghĩ đến sự lợi ích cho tất cả chúng sanh, nhớ đến
việc làm phước, tưởng đến sự sống trong sạch, chớ nên sanh tâm buồn rầu,
phải thường khởi lòng tinh tấn, nguyện sẽ làm vị y vương điều trị tất cả
bệnh của chúng sanh. Bồ Tát phải an ủi Bồ Tát có bệnh như thế để cho được
hoan hỷ.”—Vimalakirti replied: “He should speak of the impermanence of the
body but never of the abhorrence and relinquishment of the body. He
should speak of the suffering body but never of the joy in nirvana. He
should speak of egolessness in the body while teaching and guiding all
living beings (in spite of the fact that they are fundamentally
non-existent in the absolute state). He should speak of the voidness of
the body but should never cling to the ultimate nirvana. He should speak
of repentance of past sins but should avoid slipping into the past.
Because of his own illness he should take pity on all those who are sick.
Knowing that he has suffered during countless past aeons he should think
of the welfare of all living beings. He should think of his past practice
of good virtues to uphold (his determination for) right livelihood.
Instead of worrying about troubles (klesa) he should give rise to zeal and
devotion (in his practice of the Dharma). He should act like a king
physician to cure others’ illnesses. Thus a Bodhisattva should comfort
another sick Bodhisattva to make him happy.”
·
Ngài Văn Thù Sư Lợi! Bồ Tát có bệnh đấy phải quán sát được
các pháp như thế. Lại nữa, quán thân vô thường, khổ, không, vô ngã, đó là
huệ. Dù thân có bệnh vẫn ở trong sanh tử làm lợi ích cho chúng sanh không
nhàm mỏi, đó là phương tiện.—Manjusri, a sick Bodhisattva should look into
all things in this way. He should further meditate on his body which is
impermanent, is subject to suffering and is non-existent and egoless; this
is called wisdom. Although his body is sick he remains in (the realm of)
birth and death for the benefit of all (living beings) without complaint;
this is called expedient method (upaya).
·
Lại nữa, ngài Văn Thù Sư Lợi! Quán thân, thân không rời
bệnh, bệnh chẳng rời thân, bệnh nầy, thân nầy, không phải mới, không phải
cũ, đó là huệ. Dù thân có bệnh mà không nhàm chán trọn diệt độ, đó là
phương tiện—Manjusri! He should further meditate on the body which is
inseparable from illness and on illness which is inherent in the body
because sickness and the body are neither new nor old; this is called
wisdom. The body, though ill, is not to be annihilated; this is the
expedient method (for remaining in the world to work for salvation).
Thân Ái: See Thân (2).
Thân An Tâm Lạc: Ease of body
and joy of heart.
Thân Bình Đẳng: Same in
body—Đức Phật nói: “Ta và chư Như Lai đều cũng như nhau về thân thể.”—The
Buddha said: “All Tathagatas and I are the same as regards the body.”
Thân Bịnh: Physical sickness.
Thân Căn: Kayendriya (skt)—Một
trong ngũ căn—The organ of touch, one of the five organs of sense.
Thân Chúng Sanh Thân Phật:
Sentient beings’ bodies-Buddha’s body—Theo Kinh Duy Ma Cật thì ông Duy Ma
Cật đã dùng phương tiện hiện thân có bệnh để thuyết pháp hóa độ chúng
sanh. Do ông (Duy Ma Cật) có bệnh nên các vị Quốc Vương, Đại thần, Cư sĩ,
Bà la môn cả thảy cùng các vị Vương tử với bao nhiêu quan thuộc vô số ngàn
người đều đến thăm bệnh. Ông nhơn dịp thân bệnh mới rộng nói
Pháp—According to the Vimalakirti Sutra, Vimalakirti used expedient means
of appearing illness in his body to expound about sentient beings’ bodies
and the Buddha’s body to save them. Because of his indisposition, kings,
ministers, elders, upasakas, Brahmins, et., as well as princes and other
officials numbering many thousands came to enquire after his health. So
Vimalakirti appeared in his sick body to receive and expound the Dharma to
them, saying:
·
“Nầy các nhân giả! Cái huyễn thân nầy thật là vô thường, nó
không có sức, không mạnh, không bền chắc, là vật mau hư hoại, thật không
thể tin cậy. Nó là cái ổ chứa nhóm những thứ khổ não bệnh hoạn. Các nhân
giả! Người có trí sáng suốt không bao giờ nương cậy nó. Nếu xét cho kỹ thì
cái thân nầy như đống bọt không thể cầm nắm; thân nầy như bóng nổi
không thể còn lâu; thân nầy như ánh nắng dợn giữa đồng, do lòng khát ái
sanh; thân nầy như cây chuối không bền chắc; thân nầy như đồ huyễn thuật,
do nơi điên đảo mà ra; thân nầy như cảnh chiêm bao, do hư vọng mà thấy có;
hân nầy như bóng của hình, do nghiệp duyên hiện; thân nầy như vang của
tiếng, do nhân duyên thành; thân nầy như mây nổi, trong giây phút tiêu
tan; thân nầy như điện chớp sanh diệt rất mau lẹ, niệm niệm không dừng;
thân nầy không chủ, như là đất; thân nầy không có ta, như là lửa; thân nầy
không trường thọ, như là gió; thân nầy không có nhân, như là nước; thân
nầy không thật, bởi tứ đại giả hợp mà thành; thân nầy vốn không, nếu lìa
ngã và ngã sở; thân nầy là vô tri, như cây cỏ, ngói, đá; thân nầy vô tác
(không có làm ra), do gió nghiệp chuyển lay; thân nầy là bất tịnh, chứa
đầy những thứ dơ bẩn; thân nầy là giả dối, dầu có tắm rửa ăn mặc tử tế rốt
cuộc nó cũng tan rã; thân nầy là tai họa, vì đủ các thứ bệnh hoạn khổ não;
thân nầy như giếng khô trên gò, vì nó bị sự già yếu ép ngặt; thân nầy
không chắc chắn, vì thế nào nó cũng phải chết; thân nầy như rắn độc, như
kẻ cướp giặc, như chốn không tụ, vì do ấm, giới, nhập hợp thành—“Virtuous
ones, the human body is impermanent; it is neither strong nor durable; it
will decay and is, therefore, unreliable. It causes anxieties and
sufferings, being subject to all kinds of ailments. Virtuous ones, all
wise men do not rely on this body which is like a mass of foam, which is
intangible. It is like a bubble and does not last for a long time. It is
like a flame and is the product of the thirst of love. It is like a
banana tree, the centre of which is hollow. It is like an illusion being
produced by inverted thoughts. It is like a dream being formed by fasle
views. It is like a shadow and is caused by karma. This body is like an
echo for it results from causes and conditions. It is like a floating
cloud which disperses any moment. It is like lightning for it does not
stay for the time of a thought. It is ownerless for it is like the
earth. It is egoless for it is like fire (that kills itself). It is
transient like the wind. It is not human for it is like water. It is
unreal and depends on the four elements for its existence. It is empty,
being neither ego nor its object. It is without knowledge like grass,
trees and potsherds. It is not the prime mover, but is moved by the wind
(of passions). It is impure and full of filth. It is false, and though
washed, bathed, clothed and fed, it will decay and die in the end. It is
a calamity being subject to all kinds of illnesses and sufferings. It is
like a dry well for it is prusued by death. It is unsettled and will pass
away. It is like a poisonous snake, a deadly enemy, a temporary
assemblage (without underlying reality), being made of the five
aggregates, the twelve entrances (the six organs and their objects) and
the eighteen realms of sense (the six organs, their objects and their
perceptions).
·
Các nhân giả! Hãy nên nhàm chán cái thân nầy, chớ tham tiếc
nó, phải nên ưa muốn thân Phật. Vì sao? Vì thân Phật là Pháp Thân, do vô
lượng công đức trí tuệ sanh; do giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát
tri kiến sanh; do từ bi hỷ xả sanh; do bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh
tấn, thiền định, trí tuệ, và phương tiện sanh; do lục thông, tam minh
sanh; do 37 phẩm trợ đạo sanh; do chỉ quán sanh; do thập lực, tứ vô úy,
thập bát bất cộng sanh; do đoạn trừ tất cả các pháp bất thiện, tu các pháp
thiện sanh; do chân thật sanh; do không buông lung sanh; do vô lượng pháp
thanh tịnh như thế sanh ra thân Như Lai—“Virtuous ones, the (human) body
being so repulsive, you should seek the Buddha body. Why? Because the
Buddha body is called Dharmakaya, the product of boundless merits and
wisdom; the outcome of discipline, meditation, wisdom, liberation and
perfect knowledge of liberation; the result of kindness, compassion, joy
and indifference (to emotions); the consequence of (the six perfections or
paramitas) charity, discipline, patience, zeal, meditation and wisdom, and
the sequel of expedient teaching (upaya); the six supernatural powers; the
three insights; the thirty-seven stages contributory to enlightenment;
serenity and insight; the ten transcendental powers (dasabala); the four
kinds of fearlessness; the eighteen unsurpassed characteristics of the
Buddha; the wiping out of all evils and the performance of all good deeds;
truthfulness, and freedom from looseness and unrestraint. So countless
kinds of purity and cleanness produce the body of the Tathagata.
·
Nầy các nhân giả, muốn được thân Phật, đoạn tất cả bệnh
chúng sanh thì phải phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác—Virtuous
ones, if you want to realize the Buddha body in order to get rid of all
the illnesses of a living being, you should set your minds on the quest of
supreme enlightenment (anuttara-samyak-sambodhi).”
·
Như vậy, trưởng giả Duy Ma Cật vì những người đến thăm bệnh,
mà nói pháp làm cho vô số ngàn người đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng
Chánh giác—Thus the elder Vimalakirti expounded the Dharma to all those
who came to enquire after his health, urging countless visitors to seek
supreme enlightenment.
Thân Danh: Body and fame.
Thân Đăng: Đốt thân mình làm
đèn để cúng dường Phật, như việc làm của Đức Dược Vương Bồ Tát nói trong
Kinh Pháp Hoa—The body as a lamp burnt in offering to a Buddha, i.e. the
Medicine King in the Lotus Sutra.
Thân Đầu La: Sindura (skt)—Trò
ảo thuật của ảo tưởng hiện ra và biến mất trong không trung—The trick of
the illusionist who disappears in the air and repappears.
Thân Điền: Trên thân chính là
chỗ gieo trồng và sanh sản thiện hay ác nghiệp cho kiếp lai sinh—The body
regarded as a field which produces good and evil fruit in the future
existence.
Thân Độ: Chánh Báo—Thân ta hôm
nay chính là kết quả trực tiếp của tiền nghiệp; hoàn cảnh xung quanh chính
là kết quả gián tiếp của tiền nghiệp—Body and environment (the body is the
direct fruit of the previous life; the environment is the indirect fruit
of the previous life).
** For more information,
please see Chánh Báo and Nhị Báo.
Thân Độc: Sindhu, Indus, Sindh
(skt)—Hiền Thủ—Ấn Độ.
Thân Giáo Sư: Thầy bổn
sư—Upadhyaya (skt)—One’s own teacher.
Thân Giới Tâm Huệ: Thân mình
giữ gìn giới hạn, tâm mình giữ cho trong sáng—Controlled in body and wise
in mind.
Thân Hà: Hiranyavati (skt)—Sông
Ni Liên Thiền—Nairanjana River.
Thân Hành: To come in person.
Thân Hành Niệm Tu Tập: Theo
Kinh Thân Hành Niệm trong Trung Bộ Kinh, Tu tập thân hành niệm là khi đi
biết rằng mình đang đi; khi đứng biết rằng mình đang đứng; khi nằm biết
rằng mình đang nằm; khi ngồi biết rằng mình đang ngồi. Thân thể được xử
dụng thế nào thì mình biết thân thể như thế ấy. Sống không phóng dật,
nhiệt tâm, tinh cần, các niệm và các tư duy về thế tục được đoạn trừ. Nhờ
đoạn trừ các pháp ấy mà nội tâm được an trú, an tọa, chuyên nhất và định
tĩnh. Như vậy là tu tập thân hành niệm—According to the Kayagatasati-Sutta
in the Middle Length Discourses of the Buddha, cultivation of mindfulness
of the body means when walking, a person understands that he is walking;
when standing, he understands that he is standing; when sitting, he
understands that he is sitting; when lying, he understands that he is
lying. He understands accordingly however his body is disposed. As he
abides thus diligent, ardent, and resolute, his memories and intentions
based on the household life are abandoned. That is how a person develops
mindfulness of the body.
Thân Hình: Body.
Thân Hình Quý Báu: Precious
body.
Thân Hữu: Người bạn thân—An
intimate friend.
Thân Hữu Lậu: Temporal
(worldly) impure body.
Thân Khí: Thân thể người ta
chứa đựng 12 phần như da, thịt, máu, tóc, vân vân—The body as a utensil,
i.e. containing all the twelve parts, skin, flesh, blood, hair, etc.
Thân Kiến: Satkayadrshti (skt).
·
Ảo tưởng cho rằng thân mình là có thật, một trong ngũ
kiến—The illusion of the body or self, one of the five wrong views.
·
Ý tưởng về một cái ngã, một trong tam kết. Có hai cách mà
người ta có thể đi đến cái quan niệm cho rằng có sự hiện hữu thực sự của
một cái ngã, một là sự tưởng tượng chủ quan, hai là quan niệm khách quan
về thực tính—Thought of an ego, one of the three knots. There are two ways
in which one comes to conceive the real existence of an ego, the one is
subjective imagination and the other the objective conception of reality.
·
Tưởng rằng cái ngã cuả chính mình là lớn nhất và là tái sản
quí báu nhất:Tin rằng cái ta là lớn nhât và vị đại nhất, nên mục hạ vô
nhân. Chỉ có cái ta là quý báu nhứt mà thôi, người khác không đáng kể.
Mình tìm fử để chà đạp hay mưu hai người khác—Believe that our self is our
greatest and most precious possession in a nix in our eyes. We try by all
means to satisfy to our self, irrespective of others’ interest of
rights.
** For more information,
please see Ngã Kiến, Ngũ Kiến Vi Tế, and Tam Kết.
Thân Liên:
1) Hoa
sen trong thân, như tâm hay tám cánh sen trong loài hữu tình—The lotus in
the body, i.e. the heart, or eight-leaved lotus in all beings.
2) Thân
liên cũng tiêu biểu cho Thai Tạng Pháp Giới—It also represents the
Carbhadhatu, which is the matrix of the material world out of which all
beings come.
Thân Mao Thượng Mi Tướng: Lông
trên thân Phật xoắn ngược lên trên, một trong ba mươi hai tướng hảo của
Phật—The hairs on Buddha’s body curled upwards, one of the thirty-two
marks.
Thân Mật: Intimate—Familiar.
Thân Mẫu: Mother.
Thân Mến: Beloved—Dear.
Thân Mệnh: Body and life
(bodily life).
Thân Mình Bất Tịnh, Thân Người Cũng Bất
Tịnh, Chỉ Có Thân Phật Là Thanh Tịnh: Our own bodies being
impure and disgust, the bodies of others are likewise, only the
Buddha-body is forever pure.
Thân Mục: To see with one’s
eyes.
Thân Nầy Là Một Khối Ung Sang Bất Tịnh:
This body is an impure mass of ulcers.
Thân Nầy Là Trung Tâm Bão Của Khổ Đau
Phiền Não: This body is the storm center of sufferings and
afflictions.
Thân Nghiệp: Kaya-sankhara
(p)—Thân nghiệp tiêu biểu cho kết quả của những hành động của thân trong
tiền kiếp. Tuy nhiên, thân nghiệp khó được thành lập hơn ý và khẩu nghiệp,
vì như có lúc nào đó mình muốn dùng thân làm việc ác thì còn có thể bị
luân lý, đạo đức hay cha mẹ, anh em, thầy bạn, luật pháp ngăn cản, nên
không dám làm, hoặc không làm được. Vì thế nên cũng chưa kết thành thân
nghiệp được. Hai nghiệp khác là khẩu và ý nghiệp—The karma operating in
the body (the body as representing the fruit of action in previous
existence. Body karma is difficult to form than thought and speech karma,
for there are times when we wish to use our bodies to commit wickedness
such as killing, stealing, and commiting sexual misconduct, but it is
possible for theories, virtues as well as our parents, siblings, teachers,
friends or the law to impede us. Thus we are not carry out the body’s
wicked karma—The other two karmas are the karma of the mouth and of the
mind).
** For more information,
please see Tam Nghiệp.
Thân Người Khó Được: It is
difficult to be reborn as a human being—Trong các trân bảo, sinh mạng là
hơn, nếu mạng mình còn là còn tất cả. Chỉ mong sao cho thân mạng nầy được
sống còn, thì lo chi không có ngày gầy dựng nên cơ nghiệp. Tuy nhiên, vạn
vật ở trên đời nếu đã có mang cái tướng hữu vi, tất phải có ngày bị hoại
diệt. Đời người cũng thế, hễ có sanh là có tử; tuy nói trăm năm, nhưng mau
như ánh chớp, thoáng qua tựa sương, như hoa hiện trong gương, như trăng
lồng đáy nước, hơi thở mong manh, chứ nào có bền lâu? Phật tử chơn thuần
nên luôn nhớ rằng khi sanh ra đã không mang theo một đồng, nên khi chết
rồi cũng không cầm theo một chữ, suốt đời làm lụng khổ thân tích chứa của
cải, rốt cuộc vô ích cho bản thân mình trước cái sanh lão bệnh tử. Sau khi
chết di, của cải ấy liền trở qua tay người khác một cách phủ phàng. Lúc ấy
không có một chút phước lành nào để cho thần thức nương cậy về kiếp sau,
cho nên phải đọa vào tam đồ ác đạo. Cổ đức có dạy: “Thiên niên thiết mộc
khai hoa dị, nhất thất nhơn thân vạn kiếp nan.” Nghĩa là cây sắt ngàn năm
mà nay nở hoa cũng chưa lấy làm kinh dị, chớ thân người một khi đã mất đi
thì muôn kiếp cũng khó mà tái hồi. Vì thế, Phật tử chơn thuần nên luôn nhớ
những gì Phật dạy: “Thân người khó được, Phật pháp khó gặp. Được thân
người, gặp Phật pháp, mà ta nở để cho thời gian luống qua vô ích, quả là
uổng cho một kiếp người.”—Of all precious jewels, life is the greatest; if
there is life, it is the priceless jewel. Thus, if you are able to
maintain your livelihood, someday you will be able to rebuild your life.
However, everything in life, if it has form characteristics, then,
inevitably, one day it will be destroyed. A human life is the same way, if
there is life, there must be death. Even though we say a hundred years, it
passes by in a flash, like lightening streaking across the sky, like a
flower’s blossom, like the image of the moon at the bottom of a lake, like
a short breath, what is really eternal? Sincere Buddhists should always
remember when a person is born, not a single dime is brought along;
therefore, when death arrives, not a word will be taken either. A lifetime
of work, putting the body through pain and torture in order to accumulate
wealth and possessions, in the end everything is worthless and futile in
the midst of birth, old age, sickness, and death. After death, all
possessions are given to others in a most senseless and pitiful manner. At
such time, there are not even a few good merits for the soul to rely and
lean on for the next life. Therefore, such an individual will be condemned
into the three evil paths immediately. Ancient sages taught: “A steel tree
of a thousand years once again blossom, such a thing is still not
bewildering; but once a human body has been lost, ten thousand
reincarnations may not return.” Sincere Buddhists should always remember
what the Buddha taught: “It is difficult to be reborn as a human being, it
is difficult to encounter (meet or learn) the Buddha-dharma; now we have
been reborn as a human being and encountered the Buddha-dharma, if we let
the time passes by in vain we waste our scarce lifespan.”
Thân Nhãn: See Thân Mục in
Vietnamese-English Section.
Thân Nhân: Relatives.
Thân Nhẫn: Patience of the
body—Endurance or forebearing of the body.
Thân Nhẫn Ý Nhẫn: To forebear
in both the body and the mind—Nếu muốn thành tựu quả vị Bồ Tát, chúng ta
phải thực hành thân nhẫn ý nhẫn—If we want to accomplish the
Bodhisattvahood, we should always be forebearing in both the body and the
mind.
Thân Nhập: Một trong lục nhập.
Cũng là một trong thập nhị nhơn duyên—The sense of touch, one of the six
senses. Also one of the links in the chain of causation.
** For more information,
please see Lục Nhập
and Thập Nhị Nhơn
Duyên.
Thân Nhật: Candra (skt).
1) Mặt
Trăng: The moon.
2) Tên
của một vị trưởng lão: Name of an elder.
Thân Nhĩ: To hear with one’s
own ears.
Thân Như Ý Thông:
Rddhividhi-jnana (skt)—See Thân Túc Thông.
Thân Nộ Ba Lâm: Yasti-vana
(skt)—Trượng Lâm—Rừng Thân Nộ Ba nơi mà ngoại đạo đã dùng một trong những
cây trong đó để đo Đức Phật và cuối cùng phải ném bỏ, vì càng đo Đức Phật
càng cao thêm—Groves of staves, said to have grown from the staff (of 16
foot bamboo pole) with which the heretic measured the Buddha and which he
threw away, because the more he measured the higher the Buddha grew.
Another part of the legend is that the forest grew from the bamboo which
heretics left behind in chagrin.
Thân Phận: Condition.
Thân Phụ: Father.
Thân Quang: Ánh sáng phát ra từ
chính thân Phật hay thân các vị Bồ Tát—The glory or halo shining from the
person of a Buddha or Bodhisattva.
Thân Quyến: See Thân (3).
Thân Sắc: Countenance.
Thân Sơ: Close and far.
Thân Tam Khẩu Tứ Ý Tam:
(A)
1) Thân
tam: Kaya-karmas (skt)—Ba giới về thân—The three commandments dealing with
the body:
a. Không
sát sanh: Not to kill or prohibiting taking of life—Chúng ta chẳng những
không phóng sanh cứu mạng, mà ngược lại còn tiếp tục sát sanh hại mạng
nữa, chẳng hạn như đi câu hay săn bắn, vân vân—We do not free trapped
animals; but, in contrast, we continue to kill and murder innocent
creatures, such as fishing, hunting, etc.
b. Không
trộm cắp: Not to steal or prohibiting stealing—Chúng ta chẳng những không
bố thí cúng dường, mà ngược lại còn lại tiếp tục ích kỷ, keo kiết, trộm
cắp nữa—We do not give, donate, or make offerings; but, in contrast, we
continue to be selfish, stingy, and stealing from others.
c. Không
tà dâm: Not to commit adultery or prohibiting commiting adultery—Chúng ta
chẳng những không đoan trang, chánh hạnh, mà ngược lại còn tiếp tục tà dâm
tà hạnh nữa—We do not behave properly and honorably; but, in contrast, we
continue to commit sexual misconduct or sexual promiscuity.
2) Khẩu
tứ: Vac-karmas (skt)—Bốn giới về—The four dealing with the mouth:
a. Không
nói dối: Not to lie—Chúng ta chẳng những không nói lời ngay thẳng chơn
thật, mà ngược lại luôn nói lời dối láo—We do not speak the truth; but, in
contrast, we continue to lie and speak falsely.
b. Không
nói lời đâm thọc: Not to exaggerate—Chúng ta không nói lời hòa giải êm ái,
mà ngược lại luôn nói lưỡi hai chiều hay nói lời xấu ác làm tổn hại đến
người khác—We do not speak soothingly and comfortably; but, in contrast,
we continue to speak wickedly and use a double-tongue to cause other harm
and disadvantages.
c. Không
chửi rũa: Not to abuse—Chúng ta chẳng những không nói lời ôn hòa hiền dịu,
mà ngược lại luôn nói lời hung ác như chữi rũa hay sỉ vả—We do not speak
kind and wholesome words; but, in contrast, we continue to speak wicked
and unwholesome words, i.e., insulting or cursing others.
d. Không
nói lời vô tích sự: Not to have ambiguous talk—Chúng ta không nói lời
chánh lý đúng đắn, mà ngược lại luôn nói lời vô tích sự—We do not speak
words that are in accordance with the dharma; but, in contrast, we
continue to speak ambiguous talks.
3) Ý tam:
Moras-karmas (skt)—Ba giới về ý—The three dealing with the mind:
a. Không
ganh ghét: Not to be covetous—Chúng ta không chịu thiểu dục tri túc, mà
ngược lại còn khởi tâm tham lam và ganh ghét—We do not know how to desire
less and when is enough; but we continue to be greedy and covetous.
b. Không
xấu ác: Not to be malicious—Chúng ta chẳng những không chịu nhu hòa nhẫn
nhục; mà lại còn luôn sanh khởi các niềm sân hận xấu ác—We do not have
peace and tolerance toward others; but, in contrast, we continue to be
malicious and to have hatred.
c. Không
bất tín: Not to be unbelief—Chúng ta chẳng những không tin luật luân hồi
nhân quả; mà ngược lại còn bám víu vào sự ngu tối si mê, không chịu thân
cận các bậc thiện hữu tri thức để học hỏi đạo pháp và tu hành—We do not
believe in the Law of Causes and Effetcs, but in contrast we continue to
attach to our ignorance, and refuse to be near good knowledgeable advisors
in order to learn and cultivate the proper dharma.
Thân Tam Muội: The embodiment
of samaya—The symbol of a Buddha or bodhisattva.
Thân Tâm: Thân tâm là chánh báo
của loài hữu tình—Body and mind, the direct fruit of the previous life.
1) Thân:
Trong ngũ uẩn, sắc uẩn là thân—The body is rups, the first skandha.
2) Tâm:
bao gồm bốn uẩn, thọ, tưởng, hành, thức—Mind embraces other four,
consciousness, perception, action, and knowledge.
Thân Tâm Bất Tương Ứng: Action
non-interrelated with mind.
Thân Tâm Giải Thoát: Getting
free of body and mind.
Thân Tâm Vô Thường:
Impermanence of the body and mind—Có người cho rằng luận thuyết “Thân Tâm
Vô Thường” của đạo Phật phải chăng vô tình gieo vào lòng mọi người quan
niệm chán đời, thối chí. Nếu thân và tâm cũng như sự vật đều vô thường như
vậy thì chẳng nên làm gì cả, vì nếu có làm thành sự nghiệp lớn lao cũng
không đi đến đâu. Mới nghe tưởng chừng như phần nào có lý, ký thật nó
không có lý chút nào. Khi thuyết giảng về thuyết nầy, Đức Phật không muốn
làm nản chí một ai, mà Ngài chỉ muốn cảnh tỉnh đệ tử của Ngài về một chân
lý. Phật tử chơn thuần khi hiểu được lẽ vô thường sẽ giữ bình tĩnh, tâm
không loạn động trước cảnh đổi thay đột ngột. Biết được lẽ vô thường mới
giữ được tâm an, mới cố gắng làm những điều lành và mạnh bạo gạt bỏ những
điều ác, cương quyết làm, dám hy sinh tài sản, dám tận tụy đóng góp vào
việc công ích cho hạnh phúc của mình và của người—Some people wonder why
Buddhism always emphasizes the theory of impermanence? Does it want to
spread in the human mind the seed of disheartenment, and discourage? In
their view, if things are changeable, we do not need to do anything,
because if we attain a great achievement, we cannot keep it. This type of
reasoning, a first, appears partly logical, but in reality, it is not at
all. When the Buddha preached about impermanence, He did not want to
discourage anyone, but warning his disciples about the truth. A true
Buddhist has to work hard for his own well being and also for the
society’s. Although he knows that he is facong the changing reality, he
always keeps himself calm. He must refrain from harming others, in
contrast, strive to perform good deeds for the benefit and happiness of
others.
a) Thân
Vô Thường—The human body is changeable: Vạn sự vạn vật không ngừng thay
đổi, chứ không bao giờ chịu ở yên một chỗ. Cuộc đời nay còn mai mất, biến
chuyển không ngừng nghỉ. Thân con người cũng vậy, nó cũng là vô thường, nó
cũng nằm trong định luật “Thành Trụ Hoại Không.” Thân ta phút trước không
phải là thân ta phút sau. Khoa học đã chứng minh rằng trong thân thể
chúng ta, các tế bào luôn luôn thay đổi và cứ mỗi thời kỳ bảy năm là các
tế bào cũ hoàn toàn đổi mới. Sự thay đổi làm cho chúng ta mau lớn, mau
già và mau chết. Càng muốn sống bao nhiêu chúng ta lại càng sợ chết bấy
nhiêu. Từ tóc xanh đến tóc bạc, đời người như một giấc mơ. Thế nhưng có
nhiều người không chịu nhận biết ra điều nầy, nên họ cứ lao đầu vào cái
thòng lọng tham ái; để rồi khổ vì tham dục, còn khổ hơn nữa vì tham lam ôm
ấp bám víu mãi vào sự vật, đôi khi đến chết mà vẫn chưa chịu buông bỏ.
Đến khi biết sắp trút hơi thở cuối cùng mà vẫn còn luyến tiếc tìm cách nắm
lại một cách tuyệt vọng—All things have changed and will never cease to
change. The himan body is changeable, thus governed by the law of
impermanence. Our body is different from the minute before to that of the
minute after. Biological researches have proved that the cells in our body
are in constant change, and in every seven years all the old cells have
been totally renewed. These changes help us quickly grow up, age and die.
The longer we want to live, the more we fear death. From childhood to
aging, human life is exactly like a dream, but there are many people who
do not realize; therefore, they continue to launch into the noose of
desire; as a result, they suffer from greed and will suffer more if they
become attached to their possessions. Sometimes at time of death they
still don’t want to let go anything. There are some who know that they
will die soon, but they still strive desperately to keep what they cherish
most.
b) Tâm Vô
Thường—Impermanence of the mind: Thân ta vô thường, tâm ta cũng vô thường.
Tâm vô thường còn mau lẹ hơn cả thân. Tâm chúng ta thay đổi từng giây,
từng phút theo với ngoại cảnh, vui đó rồi buồn đó, cười đó rồi khóc đó,
hạnh phúc đó rồi khổ đau đó—Not only our body is changeable, but also our
mind. It changes more rapidly than the body, it changes every second,
every minute according to the environment. We are cheerful a few minutes
before and sad a few minutes later, laughing then crying, happiness then
sorrow.
Thân Thành: Thân như là thành
trì của tâm—The body as the citadel of the mind.
Thân Thích: Relatives.
Thân Thiện: Friendly.
Thân Thiết: Intimate—Familiar.
Thân Thông: See Thân Túc Thông.
Thân Thuộc: Relatives.
Thân Thức: Kaya-vijnana
(skt)—Body consciousness—Tactile consciousness—Thân thức phát triển khi
điều kiện nổi bậc trong đó thân tiếp xúc với đối tượng bên ngoài. Thân căn
nằm khắp các nơi trong cơ thể—Tacticle sensation consciousness—Body
consciousness develops when the dominant condition in which the body
faculty meets an object of touch. The location of the body faculty is
throughout the entire body. Cognition of the objects of touch, one of the
five forms of cognition.
** For more information,
please see Bát Thức.
Thân Tiên Nhãn: The eye that
precedes the body—The ability to regulate our physical actions even before
we are conscious of them.
Thân Tiền Hữu: Antecendent
Existence Body—Tiền có nghĩa là trước, khởi thủy hay đầu tiên. Hữu có
nghĩa là đang có, đang mang, hay đang nhận lấy. Thân Tiền Hữu là cái thân
xác tứ đại hiện tại, thể chất hay phi thể chất, do các nghiệp duyên tiền
kiếp tạo thành mà chúng sanh chúng ta đang mang lấy hiện giờ. Thân tiền
hữu nầy sẽ phải lần lượt trải qua bốn giai đoạn, sanh, lão, bệnh, và tử.
Thân tiền hữu chỉ sống còn được trong một thời gian nào đó, chớ không được
bền vững hay trường cửu. Bởi lẽ hễ có sanh tất có diệt. Không có bất cứ
một loại chúng sanh nào trong tứ sanh có thể vượt qua định luật vô thường
bất di bất dịch nầy, kể cà các bậc Thiên Tiên—Antecedent means before, the
origin, or the beginning, etc. Existence means it is inhabited currently,
and used presently, etc. The antecedent existence body is the present
form body, physical or non-physical, created from various karmasand
predestined affinities that each sentient being accumulated in the past.
In turn, this antecedent existence body will pass through these four
stages of impermanence: birth, old age, sickness, and death. The
antecedent existence body will remain only for a definite period of time,
but it will not be permanent or eternal because there is birth, then there
must be death. There is absolutely no being of the four types of sentient
beings, with an antecedent existence body, can overcome this inevitable
fate of these four unchanging laws of impermanence including the Heavenly
Fairies.
Thân Tín: Trustworthy.
Thân Tọa: Thân như Phật Tòa—The
body as the throne of Buddha.
Thân Tộc: Relatives on the
father’s side.
Thân Trung Ấm: Intermediate
Existence Body—See Thân Trung Hữu.
Thân Trung Hữu: Antara-bhava
(skt)—Intermediate Existence Body.
(A) Nghĩa của
Thân Trung Hữu—The meanings of the Intermediate Existence Body: Giai đoạn
giữa lúc chết và lúc đi đầu thai. Đây là tiến trình chết và tái sanh trong
vòng 49 ngày. Hễ có thân tiền hữu, thì đương nhiên là phải có thân trung
hữu và thân hậu hữu. Trung có nghĩa là ở khoảng giữa, ở giữa của hai
khoảng đời nầy và đời sau. Hữu là hiện có, hay đang mang lấy. Vì cái quả
báo do nghiệp tội của thân tiền hữu đã gây tạo là có chứ không phải là
Không. Chính thế nên mới được gọi là Hữu. Thân Trung Hữu là thân kế sau
của thân tiền hữu. Nói cách khác, tất cả các loại chúng sanh hữu tình sau
khi mạng chung tức là đã bỏ thân tiền hữu rồi. Khi đó thân xác hoàn toàn
bị hư hoại, ngũ ấm chia lìa, tứ đại phân ly, thần thức liền thoát ngay ra
khỏi xác thân tiền hữu, trước khi chưa thọ lấy thân hậu hữu tức là thân
của đời sau, thì thần thức nầy ở vào trong giai đoạn thọ cảm lấy một cảnh
giới khác. Trong lúc nầy, thần thức ở vào trong một giai đoạn chuyển tiếp
ngắn và mang lấy một thân thể khác gọi là thân trung hữu—Bardo stage—The
intermediate stage between death and rebirth. It’s the 49-day-long process
death and rebirth. If there is an antecedent existence body, then,
naturally, there has to be an Intermediate Existence Body and an After
Existence Body. Intermediate means middle, or in between two lives of the
present and future. Existence means present, or currently inhabitating.
Because the karmic retribution are concrete and not emptiness. Thus,
because of the genuineness of karmic consequences, it is called Existence.
The intermediate existence body means the body to be inhabited after the
antecedent body. In other words,once a sentient being’s dstiny ends, he or
she must abandon the antecedent existence body. Once this happens, that
body will decay, the five aggregates will separate, and that person’s
spirit will leave the antecedent existence body. And before inhabiting the
after existence body or the body of the future life, the spirit of this
individual will exist in a period where it will take on a new realm.
During this time, the spirit will enter a transitional period as they
immediately exist as another entity or inhabit a different body called
intermediate existence body—For more information, please Antara-bhava in
Sanskrit/Pali-Vietnamese Section.
(B) Các giai
đoạn thọ báo của Thân Trung Ấm—Various stages of retributions of the
intermediate existence body:
a) Giai
đoạn 49 ngày đầu hay thời kỳ minh định nghiệp báo—The first 49 days or the
period of determination of karmic retributions: Theo Thượng Tọa Thích Hải
Quang trong Thư Gởi Người Học Phật, thân trung hữu do năm ấm vi tế kết
thành, cho nên nó còn có tên là Thân Trung Ấm. Thân trung ấm nầy có nhiều
hình sắc khác nhau, nhưng đại khái có hai loại chánh: loại hình sắc xinh
đẹp, và loại hình sắc xấu xí. Trước khi thân trung ấm thọ cảm lấy thân hậu
ấm sẽ phải trải qua một thời gian dài 49 ngày để minh định nghiệp báo, tức
là cảm thọ lấy các nghiệp nhân, hoặc thiện hoặc ác, mà kẻ ấy đã gây tạo
trong lúc còn mang thân tiền hữu. Kinh Địa Tạng có dạy rằng: “Quỷ vô
thường không hẹn mà đến, thần hồn vơ vẩn mịt mù chưa rõ là tội hay là
phước, trong 49 ngày như ngây như điếc, hoặc ở tại các ty sở để biện luận
về nghiệp quả, khi thẩm định xong, thời cứ y theo nghiệp mà thọ lấy quả
báo.”—According to Venerable Thích Hải Quang in the Philosophical
Conversations with Buddhist Followers, the intermediate existence body is
formed by five infinitesimally small aggregates; therefore, it is also
called the Intermediate Skandha Body. The intermediate skandha body has
many different characteristics, but, in general, there are two types of
form appearances: one is having a beautiful form appearance, the other is
having a dreadful form appearance. Before the intermediate skandha body
assumes the after existence body or the future body, it must pass through
a period of forty-nine days in order to determine each individual’s
karmic retribution, i.e., judgment day. This is to assume responsibilities
for the various karmic activities, whether wholesome or unwholesome, taken
when the individual still had the antecedent existence body or when still
alive. The Ksitigarbha Sutra taught: “The great demon of impermanence
makes no appointments yet it comes, the spirits of the dead are confused
and delirious not knowing whether meritorious or transgression. For
forty-nine days, their existence is like darkness and deafness, not
knowing what will happen, or they may be at various underworld courthouses
to go on trials for their karma. Once decisions are made, they will follow
their karma to reap the karmic retributions.”
b) Giai
đoạn thọ thân hậu hữu—The period of transition beyween life: Thân trung
hữu hay thân trung ấm không liền được đi đầu thai chuyển kiếp sau khi
thoát ra khỏi xác thân tiền hữu, mà bắt buộc phải trải qua 49 ngày để
thẩm định nghiệp quả. Nói cách khác, ngay sau khi thần thức thoát ra khỏi
xác thân tiền hữu và trở thành thân trung hữu, liền bị nghiệp nhân dẫn dắt
tùy theo nghiệp báo mà đi đầu thai chuyển kiếp, tức là thọ lấy thân hậu
hữu tương xứng với tội phước mà thân tiền hữu đã gây ra, để tiếp tục trôi
lăn trong sáu nẻo luân hồi. Chính vì thế mà Kinh Địa Tạng dạy: “Như sau
khi người đã chết, lại có thể trong vòng 49 ngày thân quyến vì người ấy mà
tu tạo nhiều phước lành, thời có thể làm cho người chết đó ra khỏi hẳn
chốn ác đạo, được sanh lên cõi trời hoặc trong cõi người, hưởng lấy sự vui
sướng mà thân quyến hiện tại cũng được rất nhiều lợi lạc.” Như vậy, nếu
thân nhân người quá cố biết rằng lúc đương đời người nầy đã gây tạo nhiều
ác nghiệp, tất phải thọ báo nơi địa ngục. Vì thương xót người quá vãng nên
đứng ra làm các công đức, phước lành như bố thí, phóng sanh, và trì tụng
kinh chú, rồi đem nhữõng công đức ấy mà hồi hướng cho hương linh người quá
cố trong khi người ấy vẫn còn mang thân trung ấm chớ chưa đi đầu thai
chuyển kiếp. Làm được như vậy, hương linh người quá cố sẽ được tội tiêu,
chướng diệt, lìa hẳn chốn ác đạo mà sanh về cõi trời người, thọ lấy những
điều an vui sung sướng—The antecedent existence body or the skandha
existence body is not reborn (reincarnated) into another life, but must
pass through a period of 49 days of determination of karmic retributions
or transition between life. In other words, right after the spirit escapes
from the antecedent existence body and becomes the intermediate existence
body, it is led by that individual’s karmic effect, depending on the
karmic retributions (various merits and transgressions created when that
being still had the antecedent existence body) to get reborn into the next
life in the six realms of existence. Thus, the Ksitigarbha Sutra taught:
“Supposing once a person dies, within the first forty-nine days, for that
person’s benefit, loved ones are willing to cultivate and form many
meritorious and wholesome practices, then it is possible to free
completely that spirit of the dead from the various evil paths to be
reborn in Heaven or in the Human realm to reap the various luxuries and
hapiness. Not only that, but the curently living loved ones will also
benefit greatly. Family and friends know when alive, their loved one who
died recently, had created many unwholesome karmic deeds, and will have to
endure the karmic retributions of hell. Through love and compassion for
their loved one, they follow the Buddha's ’eachings, take the person's
place to practice various virtuous, meritorious, and wholesome deeds such
as make donations, charity work, free trapped animals, chant sutras,
recite Buddha’s name and mantras, etc. Thereafter, use thse merits and
virtues to dedicate and pray for the deceased spirit when that spirit
still exists with the intermediate existence body and has not yet been
reborn or reincarnated to another life. If family and friends are able to
do all these, the deceased’s intermediate skandha body will be able to
eradicate and overcome his or her transgressions to varying degrees. That
person will be able to abandon the evil paths and be reborn to Heaven or
Human realms to enjoy the various happiness and luxuries.
c) Trường
hợp thọ báo đặc biệt của thân trung hữu—Special and unique karmic
retribution conditions of the intermediate existence body: Thường thì thân
trung hữu phải trải qua một thời gian chuyển tiếp là bốn mươi chín ngày,
sau đó mới cảm thọ lấy thân hậu hữu. Tuy nhiên, cũng có những trường hợp
đặc biệt mà thân trung hữu không cần phải trải qua giai đoạn chuyển tiếp
thông thường nầy. Những chúng sanh nầy sau khi đã bỏ thân tiền hữu rồi thì
thần thức hoặc liền được siêu thoát về các cõi trời tương xứng như trời
dục giới, sắc giới và vô sắc giới; hoặc bị đọa thẳng xuống địa ngục, chớ
không phải trải qua giai đoạn 49 ngày thông thường của thân trung ấm—As
usual, the intermediate existence body must go through seven cycles with
seven days in each cycle. Only thereafter, the spirit is able to receive
the future body. However, there are special situations where the
intermediate body does not need to go through that ordinary transitional
period. These sentient beings, after leaving their antecedent bodies,
their spirits will immediately be liberated to the appropriate heavens
accordingly to their merits and spiritual achievements, or be condemned to
hell immediately without having to pass through the ordinary transitional
period of forty-nine days of the intermediate skandha body:
·
Chúng sanh khi còn mang thân tiền hữu đã gây tạo những
nghiệp nhân cực thiện, tức gieo nhân thập thiện bậc thượng thuộc các cõi
trời dục giới, sắc giới và vô sắc giới: When the sentient beings were
alive with antecedent body, they created an extraordinary amount of
wholesome karma, planted the fruit of the ten wholesome deeds to the
highest level with regard to the various Heavens of Desires, Form, and
Formlessness.
·
Chúng sanh khi còn mang thân tiền hữu đã gây tạo những
nghiệp nhân cực ác, như phạm tội tứ trọng hay ngũ nghịch, thập ác, thuộc
đại địa ngục A Tỳ: When the sentient beings were alive with antecedent
body, they created an extraordinary amount of unwholesome karma, the most
evil and wicked deeds, such as guilty of violating the four offenses, five
betrayals, ten evils, belonging to the great Avichi Hell—See Tứ Đọa, and
Ngũ Nghịch.
·
Ngoài ra, còn có một loại chúng sanh ngoại hạng, không cần
phải trải qua giai đoạn thân trung ấm và cũng không bị lệ thuộc vào trong
ba cõi sáu đường, đó là những chúng sanh khi còn mang thân tiền hữu đã y
theo pháp Phật tu hành, như niệm Phật và phát lòng Tín Nguyện cầu sanh Cực
Lạc. Các chúng sanh ấy sau khi bỏ thân tiền hữu rồi thì thần thức liền
siêu thoát ngang qua ba cõi, nương theo nguyện lực nhiếp thọ của chư Phật,
Bồ Tát, trong khoảng sát na, lập tức được hóa sanh ngay về cõi nước Cực
Lạc của Đức Phật A Di Đà, ngự trên tòa sen báu, vĩnh viễn thoát khỏi các
cảnh luân hồi sanh tử: Besides, there is one more type of sentient beings
who are beyond limits; they also do not need to go through the transition
period, do not experience having the intermediate body, nor are they a
part of the three worlds and the six realms of existences. These sentient
beings are those when alive with the antecedent body, followed the Buddha
Dharma to cultivate and practice Buddha Recitation by developing Faith and
Vow to gain rebirth to the Ultimate Bliss World. After abandoning the
antecedent body, their spirits will transcend through the Three Worlds,
relying on the rescuing vow powers of the Bodhisattvas and Buddhas. Within
a split moment, they will transform to gain rebirth to the Ultimate Bliss
Worldof the Amitabha Buddha and attain a place in the jeweled lotus throne
and eternally escape from the conditions of the cycle of rebirths, life,
death, etc.
(C) Đặc điểm
của Thân Trung Ấm—Special characteristics of the Intermediate skandha
body: Thân trung ấm chỉ lưu trụ được bảy ngày. Như không tìm được chỗ thọ
sanhtrong thời hạn ấy thì phải chết đi sống lại, nhưng đại khái không quá
bảy lần tức 49 ngày thì phải thọ sanh lấy thân hậu hữu. Thân trung hữu khi
chết đi, hoặc sanh trở lại y như thân trước, hoặc do nơi nghiệp nhân chiêu
cảm có thể biến đổi thành ra thân trung hữu của loài khác trước khi thọ
thân hậu hữu. Khi thân trung hữu sắp diệt để thọ lấy thân hậu hữu, bấy giờ
tùy theo các hành nghiệp đã gây tạo mà cảm thấy có nhiều tướng trạng khác
nhau. Những kẻ gây nghiệp sát, như lúc sanh tiền chuyên nghề giết heo,
dê, vân vân thì lúc đó tự nhiên thấy toàn là những loài vật ấy. Hoặc mắt
thấy có những kẻ hàng thịt tay còn cầm dao, búa làm thịt, hoặc tai nghe
tiếng thú vật kêu la. Bởi do túc nghiệp chiêu cảm nên thân trung ấm tự
nhiên sanh tâm yêu thích, muốn đến nơi ngắm nhìn. Khi đến nơi rồi liền bị
các cảnh sắc đó làm cho trở ngại không thể nào thoát ly được. Trong chớp
mắt, thân trung hữu liền bị diệt mà thọ lấy thân hậu hữu—Usually, the
intermediate body will remain only for seven days. If it is unable to find
a place to get reborn within that time, then it must die and come back to
life again as an intermediate body. But, in general, this period will not
last more than seven cycles of seve days each before it is able to be
reborn and acquire an after existence body. When the intermediate body
dies, it can return just as it was before or depending on the karmic
reflection, it can transform and change into an intermediate body of
another realm before it acquires an after existence body through
reincarnation. When the intermediate body is nearing extinction and is
about to be reincarnated, at that time, depending on the various karma
created by the individual, each will see and perceive different realities,
i.e., while living those who created many karma of killing various animals
such as slaughtering pigs, goats, etc., then at this time, suddenly all
they will see is those various animals they have killed in the past. They
may see butchers slaughtering animals or the sounds of animals screaming
in agony. Because this is a reflection of the karma they created.
Suddenly, the intermediate body will give rise to the state of joy and
yearning to be near what they are seeing and hearing. Upon reaching their
destination, they will be impeded by their environment and will no longer
be able to free themselves from it. In a split moment, their intermediate
body is dead as they acquire the after existence body.
(D) Thân
Trung Ấm sanh về các đường ác—Intermediate Existence Body born to the evil
paths: Trong Kinh Đại Bảo Tích, Đức Phật dạy: “Những chúng sanh nào tạo
nên ác nghiệp, lúc sắp lâm chung sắp bị đọa vào ác đạo, tự nhiên có lòng
buồn thảm, kinh sợ. Tùy theo nghiệp của mình chiêu cảm mà tự thấy tướng
trạng của các đường ác hiện ra.”—In the Great Heap Sutra, the Buddha
taught: “Those sentient beings who committed evil karma, when they are
about to die, and are going to fall into evil paths. They will feel
extremely sad and terrified. Depending on the reflection of their
individual karma, they will see different images of the various evil paths
appear.”
a) Thân
trung ấm sắp sửa chuyển sanh về cõi A Tu La, thì sẽ thấy những vườn cây
khả ái, xinh đẹp, trong đó có những vòng lửa lẫn lộn chuyển xoay. Nếu thấy
cảnh tượng đó mà đem lòng vui vẻ đi đến xem, tức là bị sanh về nẻo nầy.
Thân trung ấm nào sắp sửa chuyển thân vào nẻo A Tu La, do sức nghiệp chiêu
cảm tự nhiên trước mặt thấy một vùng ánh sáng lờ mờ, liền khởi lòng ưa
thích, đi vào trong đó, liền bị thọ sanh: The intermediate body is about
to be born in th Asura realm will see various beautiful and irresistible
gardens. In these gardens, there are a variety of rings of flames rolling
around everywhere. When seeing these images and they bring joy and elation
to the spirit, this means that spirit will be born in this realm. The
intermediate body about to enter the Asuras, through a recollections of
the spirit karmic power, suddenly will see a large area of dim light,
develop a yearning for it, go into that domain and reborn.
b) Thân
trung ấm sắp sanh vào loài chó heo thường thấy nhiều cô gái đẹp, liền sanh
tâm ưa thích chạy theo. Do nhân duyên đó mà bị thác sanh vào cõi ấy: The
intermediate body is about to be born as a dog or pig will often see amny
beautiful young ladies; the spirit will give rise to attachment and
yearning to chase after them. Consequently, this spirit will be born in
that realm.
c) Thân
trung ấm sắp đọa vào các loài bàng sanh tự nhiên cảm thấy có luồng gió
mãnh liệt cuốn xoay không sao cưỡng lại được. Hoặc thấy vô số quỷ thần đến
gần, hoặc thấy sấm chớp phủ lên đầu ghê rợn, hoặc thấy sương giăng mù mịt,
núi lở, nước cuốn ầm ầm, thần thức sợ hãi, chạy trốn vào trong rừng bụi,
hang đá để ẩn thân, hoặc thấy những hố lớn màu trắng, đỏ, đen, liền nhào
xuống ẩn núp. Ngay khi đó là thần thức đã bị lọt vào trong bào thai, vừa
mở mắt đã thấy mình thọ thân dị loại như chồn, beo, rắn, vân vân: The
intermediate body is about to be born as other types of animals will feel
suddenly there is a gust of wind twisting so forcefully it is impossible
to oppose it. Or it may see infinite demons spreading and coming closer,
or terrifying thunders and lightening overhead, etc. Or it may see fog
covering, mountain splitting, water crashing, and the spirit will be
terrified as it runs away into trees, bushes, and caves, in order to hide
or it may see three large holes with the colors of white, red, and black,
and will jump to hide. At that very moment, the spirit has entered the
womb, when eyes are open, it will realize it has acquired the body of
various animals such as a fox, leopad, snake, etc.
d) Thân
trung ấm sắp sửa đọa vào đường ngạ quỷ, thình lình thấy trước mặt hiện ra
một bãi sa mạc rộng lớn thênh thang, không cây cối, hoặc chỉ thấy toàn là
những hang hố, cây cỏ khô héo. Lúc ấy tự thấy mình bị gió nghiệp thổi đến
nơi đó, trong khi thảng thốt, liền bị thác sanh về đường ngạ quỷ, chịu
nhiều nóng bức, đói khát vô cùng. Thân trung ấm nào thấy ánh sáng màu đỏ
nhạt, khởi niệm ưa thích muốn vào dạo chơi trong đó. Ngay khi đi vào liền
thọ thân loài ngạ quỷ: Those intermediate bodies about to be condemned to
the path of hungry ghost suddenly will see before them appear a vast and
endless desert, without any vegetation or see only holes, dead and dry
weeds, etc. The intermediate body which sees a great area of faded red
light, feels a yearning and a wish to go there to play. The moment of
entry is when the spirit is at at the point of rebirth in the realm of
Hungry Ghosts.
e) Thân
trung ấm sắp sanh về đường địa ngục, bên tai bỗng nhiên nghe có tiếng
những bài ca hát hết sức buồn rầu, bi thảm, đó là những tiếng kêu la rên
siết của tội nhân dưới địa ngục; kế đến lại thấy cảnh giới mù mịt, tối tăm
hiện ra trước mặt, nhà cửa sắc đen hoặc trắng đượm đầy màu tang chế, âm u,
hoặc thấy hang hố sâu thẳm, đường xá lờ mờ. Lúc ấy thấy chính mình bị các
loài quỷ dữ tay cầm binh khí xua đuổi đi vào trong đó, khi vào rồi thì
thân không được tự do, liền bị thác sanh vào trong địa ngục, tùy theo
nghiệp báo, chịu vô lượng thống khổ. Thân trung ấm nào thấy ánh sáng mờ
đục như khói đen, khởi niệm ưa thích muốn vào dạo chơi trong đó. Ngay khi
bước vào liền bị thọ thân địa ngục, chịu vô lượng nỗi thống khổ: The
intermediate body is about to be born in Hell suddenly will begin hearing
sounds of very sad and melancholy songs, these are the sounds of prisoners
aginizing and screaming in hell; next darkness will appear, houses made
out of black and white iron, very melancholy looking, similar to being at
a funeral. It may see deep holes and caves; the roads are unclear. At that
time, it will see itself getting chased by ferocious demons with weapong
in hand forcing it to enter these areas. Once it is in there, it will lose
all freedom and will be reborn in the realm of hell. Depending on each
spirits’ karmic retribution, it must endure infinite pains and sufferings.
The intermediate body which sees a great area of murky light similar to
black smokes, feels a yearning and a wish to go there to play. The moment
of entry is when the spirit is at the point of rebirth in Hell.
·
Thân trung ấm sắp sửa bị đọa vào địa ngục hàn băng, do nơi
sức nghiệp chiêu cảm, thân thể bỗng nhiên sanh ra nóng bức không kham, gặp
hơi lạnh ở nơi hàn ngục xông lên, tự cảm thấy mát mẻ dễ chịu, liền khởi
lòng ưa thích vội bay tìm đến nơi đó để cho được mát mẻ, liền bị thác sanh
vào đó: The intermediate body about to be condemned to glacial hell
through the reflection of the spirit’s karmic power, suddenly will feel
like an intolerable inferno. It then encounters the cold air rising from
the glacial hell and will feel cool and refreshed. Its thoughts give rise
to yearning and immediately will fly in search of that place to be cool.
Once reaching this place, it is reborn.
·
Thân trung ấm sắp sửa bị đọa vào viêm nhiệt địa ngục, do sức
nghiệp chiêu cảm, bổng nhiên thân thể cảm thấy lạnh lẽo vô cùng, khó thể
kham nổi. Gặp hơi nóng ở hỏa ngục xông lên, tự nhiên cảm thấy ấm áp dễ
chịu, liền khởi lòng ưa thích, vội vã tìm bay xuống nơi đó để sưởi ấm,
ngay khi ấy là lúc thọ sanh: Intermediate body is about to be condemned to
the inferno hell, through the reflection of the spirit’s karmic power,
suddenly will feel an extreme and intolerable cold. It then encounters the
hot air rising from the inferno hell and will feel warm and comfortable.
Its thoughts give rise to yearming and immediately will fly in search for
that warmth. Once reaching this place, it is reborn.
·
Thân trung ấm sắp sửa bị đọa vào địa ngục xú uế (hôi thúi),
do nơi sức nghiệp chiêu cảm, bỗng cảm nhận được một mùi thơm ngào ngạt đến
mức không kham. Bấy giờ trong tâm liền khởi niệm muốn tìm một mùi hôi thúi
nào đó để lấn át mùi thơm kia. Gặp hơi thúi từ ngục phẩn uế xông lên, liền
sanh tâm niệm ưa thích, liền bay đến nơi. Do nhân duyên đó, liền bị thác
sanh trong ngục phẩn uế: The intermediate body about to be condemned to
the odorous hell (foul smelling hell), through the reflection of the
spirit’s karmic power, suddenly will sense and intolerable and strong
fragrance (perfume wishes to fine that it vecomes nauseous. At that time,
its mind wishes to find other foul smelling odor to neutralize that good
scent. It then encoulters the foul odor rising from odorour . As a result,
it is reborn in the odorous hell.
Thân Tu Tâm Chẳng Tu: Body
cultivates but the mind does not—Thân tu tâm chẳng tu nghĩa là có một số
người muốn có hình tướng tu hành bằng cách cạo tóc nhuộm áo để trở thành
Tăng hay Ni, nhưng tâm không tìm cầu giác ngộ, mà chỉ cầu danh, cầu lợi,
cầu tài, vân vân như thường tình thế tục. Tu hành theo kiểu nầy là hoàn
toàn trái ngược với những lời giáo huấn của Đức Phật, và tốt hơn hết là
nên tiếp tục sống đời cư sĩ tại gia—Body cultivates but mind does not
meaning, there are people who have the appearance of true cultivators by
becoming a monk or nun, but their minds are not determined to find
enlightenment but instead they yearn for fame, notoriety, wealth, etc just
like everyone in the secular life. Thus, cultivating in this way is
entirely contradictory to the Buddha’s teachings and one is better off
remaining in the secular life and be a genuine lay Buddhist.
Thân Túc Thông: Thân như ý
thông—The power to transfer onself to various regions at will, also to
change the body at will—The power to transfer the body through space at
will.
Thân Tứ Đại: The physical
body—The physical body possessed the four elements of air, water, dirt,
and fire.
Thân Tướng: Bodily form (the
body).
Thân Vân:
1) Vô số
thân Phật lơ lững như mây trên đầu chúng sanh: The numberless bodies of
Buddhas, hovering like clouds over men.
2) Phật
biến hóa vô số hình thức để cứu độ chúng sanh như mây tỏa khắp trên đầu
chúng sanh: The numberless forms which the Buddhas take to protect and
save men, resembling clouds.
3) Chư
Thánh chúng nhiều vô số như mây: The numberless saints compared to clouds.
Thân Xa: Thân như một cỗ xe,
trên đó chuyên chở tiền nghiệp đi vào con đường luân hồi sanh tử—The body
as a vehicle, which with previous karma carries one into the path of
transmigration.
Thân Yêu: Dear.
Thần:
1) Bình
Minh: Dawn—Morning.
2) Nhân
Thần: Human spirit.
3) Thiên
Thần: A spirit—A deva—god—Divinity—Deity—The celestial
spirit—Divine—Spiritual—Supernatural—Inscrutable spiritual powers.
Thần Ám: Tâm hôn ám không có
niềm tin—The darkened mind without faith.
Thần Biến:
1) Những
hiện tượng thần kỳ làm thay đổi những chuyện tự nhiên (thần là bên trong,
biến là bên ngoài): Miracles or supernatural influences causing the
changes in natural events.
2) Sự
biến hóa kỳ diệu, như lực biến hóa của Phật, có thể tự biến hóa mình và
biến hóa nơi người khác: Miraculous transformations, e.g. the transforming
powers of a Buddha, both in regard to himself and others.
3) Những
tác động kỳ diệu của Phật, như rắn độc không hại được, rồng lửa không đốt
cháy được, vân vân: The Buddha’s miraculous acts, e.g. unharmed by
poisonous snakes, unburnt by dragon fire, etc.
** For more information,
please see Thần
Thông, Ngũ Thần
Thông, and Lục Thông.
Thần Biến Nguyệt: See Thần Túc
Nguyệt.
Thần Bổn: Original spirit.
Thần Căn: The vital spirit as
the basis of body life.
Thần Chí: Spirit and will.
Thần Chú: Rddhi-mantra
(skt)—Dharani—Đà La Ni hay những lời chú thần bí—Dharani, or magic or
divine incantations.
Thần Cốt: Spiritual bones.
Thần Cúng: Những phẩm vật tế
thần—Offerings placed before the gods or spirits.
Thần Diệu:
Mysterious—Mystic—Miraculous—Occult—Marvellous—Recondite.
Thần Dược: Marvellous cure.
Thần Đạo:
1) Tên
gọi chung ba đạo: Thiên Đạo, A Tu La Đạo, và Quỷ Đạo—The spirit world of
devas, asuras and pretas.
2) Tâm Lý
Học coi “Thần Đạo” như là linh hồn hay thần thức của chúng hữu tình:
Psychology, or doctrine concerning the soul.
3) Thần
Đạo hay quốc đạo của Nhật Bản: Shintoism, the way of the Gods, a Japanese
national religion.
4) Đạo
Thần Diệu hay Đạo Phật: The Teaching of Buddha.
Thần Giao Cách Cảm: Telepathy.
Thần Học: Theology.
Thần Hộ Mạng: Externalists
believe that each one of them has a so-called Guardian Angel to protect
them.
Thần Hội Hà Trạch:
Shen-Hui-He-Ze (670-762)—Thần Hội Hà Trạch, họ Cao, sanh năm 670 sau Tây
Lịch, xuất gia năm 14 tuổi. Ông là một trong những đệ tử nổi bật của Lục
Tổ Huệ Năng. Ông mạnh mẽ ủng hộ cho vị trí của Lục Tổ trong lịch sử Thiền
Tông Trung Hoa. Thần Hội dẫn đầu Thiền Phái truyền lại bởi Lục Tổ Huệ Năng
ở phương Nam, và mạnh mẽ tấn công phái Thần Tú phương Bắc. Ông đưa ra hai
lý do để tấn công phái Thần Tú—Shen-Hui-He-Ze, surname was Kao. He was
born in 670 A.D., and left home at the age of 14. He was one of the
eminent disciples of the Sixth Patriarch. He strongly supported and
promoted Hui-Neng’s place in Chinese Zen history. Shen-Hui led the
Southern school, and strongly attacked what became widely known as the
Northern school, the school associated with Shen-Xiu. Shen-Hui put
forward two reasons for his attack on the Northern school:
1) Lý do
thứ nhất, ông tấn công về sự không chính thống của phái Thần Tú và mạnh mẽ
cho rằng Huệ Năng mới là người truyền thừa y bát chính thống từ Ngũ Tổ
Hoằng Nhẫn. Dĩ nhiên cuộc tranh luận tự nói lên rằng ông chính là Thất Tổ
của dòng Bồ Đề Đạt Ma—The first reason, he attacked the legitimacy as the
Dharma heir of Hung-Jen and proposed that the honour belonged to Hui-Neng.
Of course the argument was self-serving, since Shen-Hui could claim to be
the true Seventh Patriarch of the Bodhidharma line.
2) Lý do
thứ nhì mà ông tấn công phái Thần Tú, ông cho rằng thiền phái của Thần Tú
là “tiệm môn,” rất xa lạ với thiền phái “đốn ngộ” mà Lục Tổ Huệ Năng đã
truyền lại—The second reason, for attacking Shen-Xiu was his Dharma gate
was gradual, which was fundamentally at odds with what Shen-Hui regarded
as the genuine Zen of his teacher, Hui-Neng.
·
Năm mười bốn tuổi, khi đang là Sa Di ở chùa Ngọc Tuyền, sư
tìm đến yết kiến Lục Tổ Huệ Năng. Tổ hỏi: “Tri thức từ phương xa nhọc nhằn
tìm đến, có đem được bổn (gốc) theo chăng? Nếu có gốc phải biết chủ, thử
nói xem?” Sư thưa: “Lấy không trụ làm gốc, thấy tức là chủ.” Tổ bảo: “Sa
Di đâu nên dùng lời đó.” Sư thưa: “Hòa Thượng ngồi thiền là thấy hay chẳng
thấy?” Tổ cầm gậy đánh sư ba gậy, hỏi: “Ta đánh ngươi đau hay chẳng đau?”
Sư thưa: “Cũng đau cũng chẳng đau.” Tổ nói: “Ta cũng thấy cũng chẳng
thấy.” Trong khi bị đánh, Thần Hội nghĩ: “Vị Thầy nầy thật vĩ đại. Thật
khó mà gặp được một người như vậy dù trong nhiều kiếp. Đã gặp rồi không
thể bỏ lỡ dịp may ngàn đời—Zen master He-Ze-Shen-Hui of the Western
Capital came from Xiang-Yang, when he was a novice monk at the age of
fourteen. At his first meeting with the Sixth Patriarch. The Sixth
Patriarch asked Shen-Hui: “You have come on an arduous journey from afar.
Did you bring what is fundamental? If you have what is fundamental then
can you see the host. Let’s see what you have to say.” Shen-Hui said: “I
take no abode as the fundamental. What is seen is the host.” The Sixth
Patriarch said: “This novice is talking nonesense!” He then took his staff
and struck Shen-Hui. As he was being beaten, Shen-Hui thought: “This
Master is such a great and wise sage. It is difficult to meet such a
person even after many kalpas of time. Having met him today how can I
lament my life?”
·
Một hôm Tổ bảo đại chúng: “Ta có một vật không đầu không
đuôi, không tên không họ, không lưng không mặt, các ngươi biết chăng?” Sư
bước ra thưa: “Ấy là bản nguyên của chư Phật, là Phật tánh ngươi là không
tên không họ, nguơi lại kêu là bản nguyên, Phật tánh. Ngươi lại đi lấy
tranh che đầu, cũng chỉ thành tông đồ của hàng tri giải.” Sư lễ bái lui
ra—Once, the Sixth Patriarch addressed the congregation, saying: “I have
something which has no head or tail. It is nameless and can’t be
described. It has no back and no front. Do any of you know what it is?”
Shen-Hui came forward and said: “It is the source of all things. It is the
Buddha-nature of Shen-Hui.” The Sixth Patriarch said: “I said that it has
no name and no description. How can you say it is the source of the
Buddha-nature?” Shen-Hui bowed and retreated.
·
Năm 760, Sư thị tịch trong lúc đang ngồi thiền. Tháp của sư
được đặt tại Long Môn—In 760, he passed away while sitting in meditation.
His burial stupa was located at Dragon Gate.
Thần Hồn: Spirit—Soul.
Thần Linh: Divinity.
Thần Lực: Abhijna (skt)—Abhinna
(p)—Supernatural power(s)—Spiritual power(s)—Awesome spiritual
power(s)—See Thần Thông.
Thần Lực Của Chư Phật: The
Buddhas’ spiritual powers.
Thần Minh: The intelligent or
spiritual nature—The spirits of heaven and earth, the gods.
Thần Ngã: Purusa or Atman
(skt).
1) Cái
thực ngã mà ngoại đạo chấp rằng khi thân chết thì thần ngã xuất ra: The
soul, the spiritual ego, or permanent person, which by non-Budhists was
said to migrate on the death of the body.
2) Thần
Thức cũng là cái tâm thức tối thượng sản sanh mọi hình thức của sự hiện
hữu: Purusa is also the Supreme Soul or Spirit, which produces all forms
of existence.
Thần Nhân: Gods (spirits) and
men.
Thần Nữ: A devi, a female
spirit, a sorceress.
Thần Phận Tâm Kinh: Lúc khuyến
thỉnh thần kỳ hay trừ tà ma khi đọc kinh—Divinely distributed Sutra, when
publicly recited to get rid of evil spirits—See Bát Nhã Tâm Kinh.
Thần Phật: Deity and Buddhas.
Thần Phục: To give in—To
yield—To submit.
Thần Quang: Ánh sáng của chư
thiên—Deva light—The light of the gods.
Thần Sắc: Appearance—Aspect.
Thần Tài: The goddess of
fortune.
Thần Tán Thiền Sư: Zen master
Shen-Tsan—Thần Tán Thiền Sư là một trong những đệ tử nổi bậc của Thiền Sư
Bách Trượng. Ngài xuất gia lúc tuổi còn nhỏ. Sau khi ngộ đạo với Tổ Bách
Trượng , ngài còn vị bổn sư chưa thấu đạo (nhưng rất kiêu ngạo và không
muốn nghe lời khuyên của đệ tử, vì nghĩ rằng đệ tử làm sao hơn thầy được).
Vì thế ngài trở về quê tìm cách cảnh tỉnh bổn sư. Một hôm bổn sư đang ngồi
xem kinh bên khung cửa, vì trời lạnh nên ông lấy giấy dán kín cửa lại.
Thần Tán đi ngang thấy một con ong cứ bay đập vào tờ giấy để tìm lối ra,
nhưng chui ra không được. Thần Tán đứng ngoài cửa sổ ngâm một bài kệ:
“Không môn bất
khẳng xuất
Đầu song dã thái
si
Bách niên táng
cố chỉ
Hà nhật xuất đầu
thì?”
(Cửa không chẳng
chịu ra
Lại mê muội vùi
đầu vào song cửa
Trăm năm vùi đầu
vào tờ giấy cũ ấy
Cũng không có
ngày nào ra được?)
Zen master Shen-Tsan was
one of the outstanding of Zen master Bai-Zhang. He left home to become a
monk at the young age. After attaining enlightenment, he bid farewell to
Master Bai-Zhang and returned to his home town hoping to help his former
teacher (who was too proud to take advice from his student, as he thought
disciples would never surpass their teacher) get awakened. One day, his
old teacher was reading the sutra by the window. Because it was too cold
outside, he sealed the window with paper. This incidentally entrapped a
bee inside the room. When Shen-Tsan passed by the abbot’s room and notice
the bee banging itself against the taped window, trying to find its way
out, he composed the following verses:
“The gateless
gate is there,
Why don’t you
get out,
how stupid of
you!
Even though you
poke your nose into
The old paper
for hundreds of years,
When can you
expect to set free?”
Thần Thánh: Sacred—Deities and
saints.
Thần Thiệt: Lips and tongue.
Thần Thoại: Myth
Thần Thông: Abhijna
(skt)—Abhinna (p)—Sức mạnh kỳ diệu bao gồm sự hiểu biết, kỹ xảo, thông
minh, trí nhớ, vân vân. Thần thông là những thứ mà sự tưởng tượng của xã
hội văn minh trần tục hiện nay cho là phi thường, hay những thứ mà sự
tưởng tượng trong các tôn giáo phương tây cho là siêu nhiên; thần lực đạt
được bằng trí tuệ sáng suốt, được thấy qua Kinh A Di Đà, và không thể nghĩ
bàn—Miracle powers include knowing, skillful, clever, understanding,
conversant with, remembrance, recollection. Miracles mean ubiquitous
supernatural power, psychic power, high powers, supernormal knowledges, or
superknowledge. Miraculous Powers are what the Western religious
imagination would regard as miraculous or supernatural, attainable only
through penetrating insight, as seen in the two Amitabha Sutras as
inconceivable—Supernatural science or faculty of a Buddha:
1) Thiên
nhãn thông: Dibba-cakkhu—Khả năng thấy không ngăn ngại, thấy chúng sanh
biến mất rồi xuất hiện, ti tiện và cao quý, đẹp xấu, tùy theo nghiệp lực
của họ—Seeing to any distance—Ability to see without hindrances. Ability
to see beings vanishing and reappearing, low and noble ones, beautiful and
ugly ones, seeing beings are reappearing according to their deeds (karma).
2) Thiên
nhĩ thông: Dibba-sota—Khả năng nghe được âm thanh của trời và người, xa
hay gần—Hearing to any distance—Ability to hear sound both heavenly and
human, far and near.
3) Tha
tâm thông: Ceto-pariya-nana—Khả năng xuyên suốt tâm trí của người khác.
Người nầy nhìn biết tâm tham, tâm sân, tâm mê mờ, cũng như tâm đắm nhiễm,
tâm phát triển, tâm tập trung tâm giải thoát của người khác, hay ngược
lại—Penetrating men’s thoughts—Ability to know the minds of other beings,
by penetrating them with one’s own mind. This person knows the greedy
mind, hate mind and deluded mind, shrunken and distracted mind, developed
mind and free mind of others or vice sersa.
4) Thần
túc thông: Iddhi-vidha—Khả năng đi xuyên qua tường vách, núi non, cũng như
đi trên không, trên nước mà không chìm như đi trên đất—Magical
powers—Taking any form at will—Ability to pass through walls and
mountains, just as if through the air—Ability to walk on the water without
sinking, just as if on the earth.
5) Lậu
tận thông: Asavakhaya—Khả năng hủy diệt phiền não ngay trong đời nầy kiếp
nầy bằng trí tuệ—Ability to extinct all cankers (afflictions) in this very
life, extinction of cankers through wisdom.
6) Túc
mạng thông: Pubbe-nivasanus-sati (skt)—Khả năng nhớ lại tiền kiếp, có thể
từ một đến năm hay một trăm, một ngàn đời—Knowing their state and
antecedents—Ability to remember former existences, may be from one to five
or even to hundred or thousand births
Thần Thông Kim Cang: See Hỏa Tụ
Phật Đảnh.
Thần Thông Lực: The resulting
supernatural powers.
Thần Thông Nguyệt: See Thần Túc
Nguyệt
Thần Thông Thừa: Tên gọi Chân
Ngôn giáo, tức thừa giáo dựa vào sức gia trì thần biến của Như Lai—The
supernatural or magic vehicle, i.e. the esoteric sect or Shingon.
Thần Thuật: Magic.
Thần Thức:
·
Linh Hồn—Soul—The intelligent
spirit—Consciousness—Incomprehensible or divine wisdom.
·
Về những vấn đề tâm lý học, Phật giáo không chấp nhận sự
hiện hữu của một linh hồn được cho là chân thật và bất tử. Vô ngã áp dụng
cho tất cả vạn hữu (sarva dharma), hữu cơ hay vô cơ: With regard to the
psychological question, Buddhism does not admit the existenceof a soul
that is real and immortal. Anatma or non-self refers to all things
(sarva-dharma), organic and inorganic.
·
Theo Nhân Sinh, cũng không có linh hồn, không có cái ngã
chơn thật nào là bất tử: In the case of human beings, there will
accordingly to be no soul, no real self that is immortal.
·
Còn trong trường hợp chỉ chung cho vạn hữu, cũng không có
bản thể, không có bản chất nào mà không biến dịch. Bởi vì không có một
cách ngã chân thực theo không gian, nghĩa làkhông có thực thể, nên không
bao giờ có thường hằng—While in the case of things in general, there
will be no noumenon, no essence which is unchangeable. Because there is no
real self spatially, i.e., no substance, there will be no permanent, i.e.,
no duration. Therefore, no bliss, is to be found in the world.
Thần Tích: Story of a god.
Thần Tiên:
(A) Nghĩa của
Thần Tiên—The meanings of Deities and immortals—Thần và Tiên—Spirit-rsis
who roam the air—Spirit genii—Deities and immortals.
(B) Năm loại
Thần Tiên—Five kinds of Deities and immortals:
1) Thiên
Tiên: Deva.
2) Thần
Tiên: Spirit.
3) Nhân
Tiên: Human immortals.
4) Địa
Tiên: Earth or cave immortals.
5) Quỷ
Tiên: Preta immortals.
Thần Tiên Ngoại Đạo: Extenalist
deities and immortals.
Thần Tính: Divinity—Deity.
Thần Tình:
Marvellous—Miraculous.
Thần Tọa: Chỗ ngồi của chư
Thiên—Deva or spirit throne.
Thần Tốc: Lightning speed.
Thần Trí: Cái trí thông hiểu
tất cả sự việc, từ vật chất đến phi vật chất—Spirit and
intelligence—Spiritual wisdom—Divine wisdom which comprehends all things,
material and immaterial.
Thần Triêu: Một trong ba thời
trong ngày, buổi sáng—The morning period, the first of the three divisions
of the day—See Tam Thời (A).
Thần Tú: Shen-Hsiu
(606-706)—Một trong những đệ tử nổi tiếng cũa Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn, vị kia là
Lục Tổ Huệ Năng. Sau khi ngũ tổ thị tịch, hai trường phái được hai vị
thành lập, dòng thiền phương bắc và dòng thiền phương nam. Thần Tú đã
truyền bá thiền về phương bắc và được biết đến như Tiệm Giáo; dù được
Hoàng Triều nức lòng bảo trợ vẫn không tồn tại được bao lâu, chẳng bao lâu
sau thì dòng thiền phương bắc tàn rụi, và được thay thế bởi dòng thiền của
Lục tổ Huệ Năng được biết với tên dòng Thiền Trung Hoa. Chính dòng thiền
của Lục Tổ Huệ Năng đã nẩy sanh ra các dòng Lâm Tế, Thiên Thai, vân
vân—One of the most famous disciples of the Fifth Patriarch Hung-Jen, the
other being Hui-Neng. After Hung-Jen passed away, the rival schools
founded by the two men, the North and the South. Shen-Hsiu spread Zen
Buddhism in northern China. His lineage called the Northern School and
became known as the Gradual Teaching; although patronized by the reigning
Emperor, did not last very long, soon later it died out and was replaced
by the Hui-Neng School which became known as the Chinese Ch’an School, or
Suden School of Hui Neng, which sprang the present Lin-Chi, Soto, and
T’ien-T’ai schools of Zen—Shen-Hsiu is the author of this Poem:
**Thân thị Bồ đề thọ,
Tâm như minh cảnh đài
Thời thời thường phất
thức,
Vật xử nhạ trần ai.
(Thân là cây Bồ Đề,
Tâm như đài gương
sáng
Luôn luôn siêng lau
chùi
Chớ để dính bụi
bặm).
**The body is like the
bodhi tree,
The mind is like a
mirror bright,
Take heed to keep it
always clean,
And let no dust
accumulate on it.
Thần Túc: Rddhipada (skt)—Magic
powers.
Thần Túc nguyệt:
Thần Biến Nguyệt—Thần Thông Nguyệt—Tam trường trai nguyệt trong tháng
giêng, tháng năm, và tháng chín, vì trong những tháng nầy chư Thiên đi
khắp thế giới để kiểm soát—The first, fifth, and ninth months, when the
devas go on circuit throughout the earth.
Thần Túc Thông:
Rddhipada or Rddhi-Saksatkriya (skt)—Thần Cảnh Trí Thông—Như Ý Thông—Thần
thông xuất hiện bất cứ đâu, bay hay đi theo ý mình không ngăn
ngại—Deva-foot ubiquity—Supernatural power to appear at will in any place,
to fly or go without hindrances, to have absolute freedom.
** For more information,
please see Thần Thông.
Thần Vực: Cảnh giới chứng ngộ
chân thật, không thể nghĩ bàn—The realm of spirit, of reality, surpassing
thought, supra-natural.
Thẩn Khí Lâu: See Quỷ Thành.
Thẩn Thơ: To stroll.
Thẩn Thờ: To look haggard.
Thận:
1) Quả
thận: Kidney.
2) Thận
trọng: Attentive—Careful—Cautious—Heedful.
Thận Na Phất Đát La: Jinaputra
(skt)—Vị Luận Sư đã viết bộ Du Già Sư Địa Thích Luận, ngài Huyền Trang đã
dịch sang Hoa ngữ vào khoảng năm 654 sau Tây Lịch—Author of the
Yogacaryabhumi-sastra-karika, translated by Hsuan-Tsang around 654 A.D.
Thận Ngôn: Careful in speech.
Thận Trọng:
Discreet—Careful—Cautious—Prudent.
THẤP
Thấp:
1) Nơi
thấp: Low.
2) Ướt:
Wet—Humid—Moist.
3) Thấp
sanh hay loài sanh ra bởi sự ẩm thấp như sâu bọ và cá, vân vân: The class
of beings produced by moisture, such as fish and worm, etc—See Tứ Sanh.
Thấp Cao: Low and high.
Thấp Hèn: Base—Low.
Thấp Kém: low.
Thấp Sanh: Nhờ vào khí ẩm thấp
mà sanh ra, một trong tứ sanh—Form of moisture or water-born, born in damp
or wet place, as worms and fishes, one of the four forms of birth.
**For more information,
please see Tứ Sanh.
Thấp
Thoáng: appear and disappear—To
appear vaguely.
Thấp Thỏm: Restless—Anxious.
THẬP
Thập:
1) Mười:
Dasa (skt)—Ten.
2) Thâu
thập: To collect—To gather—To pick up—Gathered up.
Thập Ác :
I. Thập bất hối giới: Mười ác nghiệp—Ten Evil Actions—The ten rules
which produce regrets:
(A)
Thân—Body:
1) Sát
sanh: Killing.
2) Trộm
cắp: Stealing.
3) Tà
dâm: Fornicate or sexual misconduct (commit sexual intercourse with
prostitutes).
4) Uống
rượu: To drink wine.
(B) Khẩu—Speech:
5) Nói
dối: lying.
6) Nói
lỗi của người Phật tử: To tell a fellow-Buddhist’ sins..
7) Tự cho
mình hay giỏi và chê người dở: To praise onself and discredit others.
8) Hèn
mọn: Be mean.
9) Sân
hận: Be angry.
10) Hủy báng
Tam Bảo: To defame the Triratna (Buddha, Dharma, Sangha/Fraternity).
II. Thập Ác Nghiệp: Ten evil actions—Tất cả nghiệp được kiểm soát bởi
ba thứ thân, khẩu, ý. Có ba nghiệp nơi thân, bốn nghiệp nơi miệng, và ba
nghiệp nơi ý—All karmas are controlled by the threefold deed (body,
speech, and mind). Three deeds of the body, four deeds of the mouth, and
three deeds of the mind:
(A) Thân
Nghiệp—Action of Body: Kaya Karma (skt)
1) Sát
sanh: Killing—Sát sanh gồm giết sanh mạng cả người lẫn thú—Taking the life
of any beings, including human or animal.
1) Tà
dâm: Sexual misconduct—Những ham muốn nhục dục bằng hành động hay tư
tưởng—All forms of sex-indulgence, by action or thoughts wants.
(B) Khẩu
Nghiệp—Action of Mouth: Vac Karma (skt)—Khẩu nghiệp rất ư là mãnh liệt.
Chúng ta nên biết rằng lời ác còn quá hơn lửa dữ bởi vì lửa dữ chỉ đốt
thiêu tất cả tài sản và của báu ở thế gian, trái lại lửa giận ác khẩu
chẳng những đốt mất cả Thất Thánh Tài (see Thất Thánh Tài) và tất cả công
đức xuất thế, mà còn thêm chiêu cảm ác báo về sau nầy—The evil karma of
speech is the mightiest. We must know that evil speech is even more
dangerous than fire because fire can only destroy all material possessions
and treasures of this world, but the firece fire of evil speech not only
burns all the Seven Treasures of Enlightened beings and all virtues of
liberation, but it will also reflect on the evil karma vipaka in the
future.
2) Nói
dối: Lying.
3) Nói
lời mắng chửi hay nói lời thô ác: Insulting or coarsing abusuve language.
4) Nói
chuyện vô ích hay nói lời trau chuốt: Gossiping and frivolous chattering.
5) Nói
lưỡi hai chiều: To slander or Speak with a double-tongue. To speak ill of
one friend to another.
(C) Ý
Nghiệp—Action of Mind: Moras Karma (skt)
6) Tham:
Libho (skt)—Greed or covetousness.
7) Sân:
Dosa (skt)—Hatred or loss of temper profanity.
8) Si:
Moha (skt)—Ignorance.
Thập Ác Nghiệp: Ten wrongs.
1) Sát
sanh: Killing.
2) Trộm
Cắp: Stealing.
3) Tà
dâm: Committing adultery.
4) Vọng
ngữ: Telling lies or using obscene and lewd words or speech.
5) Nói
lưỡi hai chiều: Speaking two-faced speech.
6) Nói
lời phỉ báng: Abusive slandering.
7) Nói
lời vô ích: Useless gossiping or chattering.
8) Tham:
Greed.
9) Sân:
Anger.
10) Tà Kiến:
Devoting to wrong views.
** For more information,
please see Thập Ác.
Thập Ân: Mười ân Phật—Ten kinds
of the Buddha’s grace:
1) Ân Cứu
độ chúng sanh: Grace of Initial resolve to universalize (salvation).
2) Ân hy
sinh trong tiền kiếp: Grace of self-sacrifice in previous lives.
3) Ân vị
tha đến muôn loài: Grace of complete altruism.
4) Ân
giáng trần cứu thế: Grace of descending into all the six states of
existence for their salvation.
5) Ân cứu
khổ và viễn ly sanh tử: Grace of relief of the living from distress and
mortality.
6) Ân Đại
bi: Grace of profound pity.
7) Ân soi
rạng Chân lý cho nhân loại: Grace of revelation of himself in human and
glorified form.
8) Ân tùy
thuận hóa chúng, trước tiên là giáo pháp Tiểu Thừa rồi sau là giáo pháp
Đại Thừa: Grace of teaching in accordance with the capacity of his
hearers, first Hinayan, then Mahayana doctrine.
9) Ân soi
rạng Niết bàn cho chúng đệ tử: Grace of revealing his nirvana to stimulate
his disciples.
10) Ân Đại bi
thương xót chúng sanh mà nhập niết bàn ở tuổi 80 thay vì 100 và để lại Tam
Tạng kinh điển phổ cứu cứu chúng sanh: Pitying thought for all creatures,
in that dying at 80 instead of 100 he left twenty years of his own
happiness to his disciples; and also the tripitaka for universal
salvation.
Thập Ba La Mật: Mười Ba La Mật
được các Bồ Tát tu hành giác ngộ—Ten perfections—Ten paramitas cultivated
by a bodhisattva who is aspirant for full enlightenment:
(A) Đại Thừa
Thập Ba La Mật—Mahayana Ten Parimitas:
1) Bố thí
Ba la mật: Dana-paramita (skt)—Giving-paramita or generosity or charity
(tài thí, pháp thí, vô úy thí).
2) Trì
giới Ba la mật: Sila-paramita (skt)—Holding Precepts Paramita or morality
or discipline (tự mình giữ giới, khuyên người giữ giới và phát tâm vô
thượng).
3) Nhẫn
nhục Ba la mật: Kshanti-paramita (skt)—Patience paramita or forebearance.
4) Tinh
Tấn Ba La Mật: Virya-paramita (skt)—Effort—Vigor paramita or enegy or
exertion (bất thối và nói viết pháp tối thắng khiến người nghe được về cõi
Chánh giác).
5) Thiền
Định Ba La mật: Dhyana-paramita (skt)—Meditation paramita or contemplation
(luôn giữ chánh định, giáo hóa chúng sanh, nhập chơn pháp giới).
6) Bát
nhã hay Trí Huệ Ba La Mật: Prajna-paramita (skt)—Wisdom paramita or
prajna wisdom (hiểu rõ chơn lý).
7) Nguyện
Ba la mật: Pranidana-paramita (skt)—Vow paramita or vow for Bodhicitta
(Nguyện tu từ bi và hóa độ chúng sanh đồng đắc quả vị Phật).
8) Lực Ba
la mật: Bala-paramita (skt)—(dùng sức trí huệ khiến cho chúng sanh đắc
nhập pháp Đại thừa)—Power paramita or strength or manifestations of the
ten powers.
9) Phương
tiện Ba la mật: Upaya-paramita (skt)—(hiểu rõ cách giúp ích cho chúng sanh
đáo bỉ ngạn)—Expedient paramita or right methods or means.
10) Trí Ba la
mật: Jnana-paramita (skt)—Hiểu rõ các pháp, giữ vững trung đạo—Knowledge
paramita or knowledge of the true definition of all dharmas.
(B) Tiểu
Thừa Thập Ba La Mật—Hinayana Ten Paramitas:
1) Bố
Thí: Dana (p)—Generosity.
2) Trì
Giới: Sila (p)—Keeping precepts—Morality.
3) Xuất
Gia: Nekkhamma (p)—Renunciation.
4) Trí
Tuệ: Panna (p)—Wisdom.
5) Tinh
Tấn: Viriya (p)—Vigor—Energy.
6) Nhẫn
Nhục: Khanti (p)—Patience.
7) Chân
Thật: Sacca (p)—Truthfulness.
8) Quyết
Định: Aditthana (p)—Strong determination.
9) Tâm
Từ: Metta (p)—Loving-kindness.
10) Tâm Xả:
Upekkha (p)—Equanimity.
Thập Bát Bất Cộng Pháp: Mười
tám món công đức của Phật, chẳng chung cùng với hai thừa Thanh Văn và
Duyên Giác nên gọi là Bất Cộng—The eighteen distinctive characteristics or
unique qualities of Buddhas, so called because they are not similar to
those of Sravakas and Pratyeka-buddhas. There are two definitions:
(A) Tiểu Thừa
Thập Bát Bất Cộng Pháp: Mười tám Bất Cộng Pháp của Tiểu Thừa—The eighteen
characteristics defined by the Hinayana:
1) (10)
Thập Lực: ten kinds of power.
2) (4) Tứ
Vô Úy: Four Fearlessnesses.
3) (3) Ba
Niệm Trụ: Three kinds of mindfulness.
4) (1)
Phật Đại Bi: Đại bi của Phật—The Buddha’s great pity.
(B) Đại Thừa
Thập Bát Bất Cộng: Mười tám điều không lỗi theo Đại Trí Độ Luận—The
eighteen distinctive characteristics defined by the Mahayana or eighteen
kinds of perfection, according to the Sastra on the Prajna-Paramita-Sutra:
1) Thân
Vô Thất: Thân Không Lỗi—Perfection of body—Impacability of action.
2) Khẩu
Vô Thất: Miệng Không Lỗi—Perfection of speech—Impacability of
speech.
3) Niệm
Vô Thất: Ý Không Lỗi—Perfection of memory—Impacability of mind.
4) Vô Dị
Tưởng (đối với hết thảy chúng sanh đều bình đẳng không có tư tưởng khác):
Không có tư tưởng phân biệt—Impartiality or universality—Having no
discriminatory thoughts.
5) Vô Bất
Tri Dĩ Xả (xả bỏ mọi pháp không chấp trước): Chẳng phải không biết chuyện
xả bỏ—Entire self-abnegation—Unfailing discernment and relinquishment.
6) Vô Bất
Định Tâm: Không bao giờ có tâm tán loạn—Ever in samadhi or unfailing
concentration.
7) Dục Vô
Diệt: Ý muốn cứu độ chúng sanh không hề nhàm chán và không cùng tận—Never
diminishing will to save—Endless volition, or desire of saving beings.
8) Tinh
Tấn Vô Diệt: Tinh Tấn Không Suy Giảm—Endless zeal or vigor.
9) Niệm
Vô Diệt: Niệm Không Giảm hay tỉnh thức không cùng tận—Endless thought or
endless mindfulness.
10) Huệ Vô
Diệt: Tuệ Không Giảm—Endless wisdom.
11) Giải
Thoát Vô Diệt: Giải Thoát Không Giảm hay giải thoát không cùng tận—Endless
salvation or liberation.
12) Giải
Thoát Tri Kiến Vô Diệt: Giải Thoát Tri Kiến Không Giảm hay không cùng
tận—Endless insight into salvation or endless liberated knowledge and
vision.
13) Nhất
Thiết Thân Nghiệp Tùy Trí Huệ Hành: Mọi Thân Nghiệp Đều Làm Theo Trí
Tuệ—Deeds are accordant with wisdom—All actions are in accordance with
knowledge and wisdom.
14) Nhất
Thiết Khẩu Nghiệp Tùy Trí Huệ Hành: Mọi Khẩu Nghiệp Đều Làm Theo Trí
Tuệ—All speech is accordant with wisdom or knowledge and wisdom.
15) Nhất
Thiết Ý Nghiệp Tùy Trí Huệ: Mọi Ý Nghiệp Đều Làm Theo Trí Tuệ—Mind is
accordant with wisdom or all thoughts are in accordance with knowledge and
wisdom.
16) Trí Huệ
Tri Quá Khứ Thế Vô Ngại: Trí Tuệ Biết Đời Quá Khứ Không Bị Ngăn
Ngại—Omniscience in regard to the past or unobstructed insight into the
past.
17) Trí Huệ
Tri Vị Lai Vô Ngại: Trí Tuệ Biết Đời Vị Lai Không Bị Ngăn Ngại—Omniscience
in regard to the future of unobstructed insight into the future.
18) Trí Huệ
Tri Hiện Tại Thế Vô Ngại: Trí Tuệ Biết Đời Hiện Tại Không Bị Ngăn
Ngại—Omniscience in regard to the present or unobstructed insight into the
present.
Thập Bát Chủng Không: Eighteen
kinds of Emptiness—See Mười Tám Hình Thức Của Không.
Thập Bát Chủng Tâm Vô Nhân:
Eighteen Rootless Consciousnesses—See Mười Tám Loại tâm Vô Nhân.
Thập Bát Cụ Pháp: Eighteen
unique qualities of Buddhas—See Thập Bát Bất Cộng.
Thập Bát Giới: Astadasa
dhatavah (skt).
(I)
Eighteen spheres (six senses, their six objects, and corresponding kinds
of consciousness:
(A) Lục Căn:
Six senses—See Lục Căn in Vietnamese-English Section.
(B) Lục Cảnh:
Six objects corresponding to the six senses—See Lục Cảnh in
Vietnamese-English Section.
(C)
Lục Thức: Six sense-data or six consciousness—For more
information, please see Lục Thức in Vietnamese-English Section and Loka
(E) in Sanskrit/Pali-Vietnamese Section.
(II) Eighteen
realms—Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, quyển Ba, Đức Phật đã giải thích cho
ông A Nan vì sao bản tính của Thập Bát Giới là Như Lai Tạng diệu chân như
tính—In the Surangama Sutra, book Three, the Buddha explained to Ananda
the reasons why he said that the eighteen realms were basically the
wonderful nature of true suchness, the treasury of the Thus Come One:
1-2-3) Nhãn
Sắc Thức Giới: Cakshu-rupa-vijnana-dhatu (skt)—The realm of eye, form, and
consciousness:
a) Ông A
Nan! Ông đã rõ, con mắt và sắc làm duyên, sinh ra nhãn thức. Cái thức đó
nhân sinh mắt, lấy mắt làm giới, hay nhân sinh sắc, lấy sắc làm giới?:
Ananda! As you understand it, the eyes and form create the conditions that
produce the eye-consciousness. Is the consciousness produced because of
the eyes, such that the eyes are its realm? Or is it produced because of
form, such that form is its realm?
·
Ông A Nan! Nếu nhân mắt sinh, không có sắc và không, không
thể phân biệt; dù có thức dùng để làm gì?: Ananda! If it were produced
because of the eyes, then in the absence of emptiness and form it would
not be able to make distinctions; and, so even if you had a consciousness,
what use would it be?
·
Cái thấy của ông, nếu phi các màu xanh, vàng, đỏ, trắng,
không thể chỉ bày ra, vậy từ đâu lập ra giới hạn: Moreover, Ananda, your
seeing is neither green, yellow, red, nor white. There is virtually
nothing in which it is represented. Therefore, what is the realm
established from?
·
Nếu nhân sắc sinh, khi nhìn hư không, không có sắc, đáng lẽ
thức diệt, sao lại biết hư không?: Suppose it were produced because of
form. In emptiness, when there was no form, your consciousness would be
extinguished. Then, why is it that the consciousness knows the nature of
emptiness?
·
Nếu khi sắc tướng thay đổi, ông cũng biết nó thay đổi, mà
thức của ông không thay đổi, thì đâu lập được giới?: Suppose a form
changes. You are also conscious of the changing appearance; but your
eye-consciousness does not change, where is the boundary established?
·
Nếu theo sắc thay đổi, thức là cái thay đổi, không thể có
giới hạn: If the eye-consciousness were to change when form changed, then
there would be no appearance of a realm.
·
Nếu không thay đổi, nhãn thức là cái thường hằng, vậy đã từ
sắc sinh ra, lẽ không biết được hư không là gì?: If it were not to change,
it would be constant, and given that it was produced from form, it should
have no conscious knowledge of where there was empty.
·
Nếu gồm cả hai thứ mắt, sắc cùng sinh, nói hợp, chặng giữa
lại phải ly; nói ly, hai bên phải hợp, thể tính tạp loạn, làm sao thành
giới?: Suppose the eye-consciousness arose both from the eyes and from
form. If they were united, there would still be a point of separation. If
they were separated, there would still be a point of contact. Hence, the
substance and nature would be chaotic and disorderly; how could a realm be
set up?
b) Vậy
ông nên biết, mắt và sắc làm duyên sinh nhãn, và thức giới, ba chỗ đều
không thực có. Ba giới mắt, sắc và nhãn thức vốn chẳng phải tính nhân
duyên hay tính tự nhiên: Therefore, you should know that as to the eyes
and form being the conditions that produce the realm of eye-consciousness,
none of the three places exists. Thus, the eyes, form, and the form
realm, these three, do not have their origin in causes and conditions, nor
do their natures arise spontaneously.
4-5-6)Nhĩ Thanh Thức Giới: Srota-sabda-vijnana-dhatu (skt)—The realm of
ear, sound, and consciousness:
a) Ông A
Nan! Ông đã rõ, tai và tiếng làm duyên, sinh ra nhĩ thức. Cái thức đó nhân
tai sinh, lấy làm giới, hay nhân tiếng sinh lấy tiếng làm giới?: Ananda!
As you understand it, the ear and sound create the conditions that
produce the ear-consciousness. Is this consciousness produced because of
the ear such that the ear is its realm, or is it produced because of
sound, such that sound is its realm?
·
Ông A Nan! Nếu nhân tai sinh, hai tướng động tĩnh đã không
hiện tiền, cái căn không thành tri giác. Tri giác không thành, cái thức
hóa ra hình tướng gì? Nếu cái tai không có động tĩnh, không thành cái
nghe, làm sao hình cái tai xen với sắc, chạm với trần, mà gọi được là thức
giới. Cái nhĩ thức giới lại từ đâu mà lập ra được?: Ananda! Suppose the
ear-consciousness were produced because of the ear. The organ of hearing
would have no awareness in the absence of both movement and stillness.
Thus, nothing would be known by it. Since the organ would lack awareness,
what would characterize the consciousness? You may hold that the ears
hear, but when there is no movement and stillness, hearing cannot occur.
How, then, could the ears, which are but physical forms, unite with
external objects to be called the realm of consciousness? Once again,
therefore, how would the realm of consciousness be established?
·
Nếu nhân tiếng sinh, thức nhân tiếng mà có, không quan hệ gì
đến cái nghe, như thế chính cái tướng của tiếng sẽ mất. Thức do tiếng
sinh, dù cho tiếng nhân nghe mà có tướng, thì cái nghe phải nghe được
thức: Suppose it was produced from sound. If the consciousness existed
because of sound, then it would have no connection with hearing. Without
hearing, then the characteristic of sound would have no location. Suppose
consciousness existed because of sound. Given that sound exists because of
hearing, which causes the characteristic of sound to manifest, then you
should also hear the hearing-consciousness.
·
Nếu không nghe được, thức giống như tiếng. Thức đã bị nghe,
thì cái gì biết nghe cái thức? Còn nếu không biết, hóa ra như cỏ cây.
Không lẽ tiếng và nghe xen lộn thành trung giới. Giới đã không có địa vị ở
giữa, thì tướng trong và ngoài từ đâu mà thành lập được?: If the
hearing-consciousness is not heard, there is no realm. If it is heard,
then it is the same as sound. If the consciousness itself is heard, who is
it that perceives and hears the consciousness? If there is no perceiver,
then in the end you would be like grass or wood. Nor is it likely that
the sound and hearing mix together to form a realm in between. Since a
realm in between could not be established, how could the internal and
external characteristics be delineated?
b) Vậy
ông nên biết, tai và tiếng làm duyên sinh nhĩ thức giới, ba chỗ đều không
thực có. Ba giới tai, tiếng, và nhĩ thức vốn chẳng phải tính nhân duyên
hay tính tự nhiên: Therefore, you should know that as to the ear and sound
creating the conditions which produce the realm of the ear-consciousness,
none of the three places exists. Thus, the ear, sound, and
sound-consciousness, these three, do not have their origin in causes and
conditions, nor do their natures arise spontaneously.
7-8-9) Tỷ Hương Thức Giới: Ghrana-gandha-vijnana-dhatu (skt)—The realm
of nose, smell, and consciousness:
a) Ông A
Nan! Ông đã rõ, mũi và mùi làm duyên sinh ra tỷ thức. Cái thức đó nhân mũi
sinh, lấy mũi làm giới; hay nhân mùi sinh, lấy mùi làm giới?: Moreover,
Ananda, as you understand it, the nose and smell create the conditions
that produce the nose-consciousness. Is this consciousness produced
because of the nose, such that the nose is its realm? Or, is it produced
because of smell, such that smell are its realm?
·
Ông A Nan! Nếu nhân mũi sinh, ý ông lấy gì làm tỷ căn? Cái
mũi bằng thịt hay cái tính ngửi biết?: Suppose, Ananda, that the
nose-consciousness were produced because of the nose, then in your mind,
what do you take to be the nose? Do you hold that it takes the form of two
fleshy claws, or do you hold it is an inherent ability of the nature which
perceives smells as a result of movement?
·
Nếu lấy cái mũi bằng thịt, thịt tức là thân căn, thân biết
gọi là xúc. Thân không phải là mũi. Xúc là trần của thân. Vậy không có cái
gì đáng gọi là mũi, sao lập được giới?: Suppose you hold that it is fleshy
claws which form an integral part of your body. Since the body’s
perception is touch, the sense organ of smelling would be named ‘body’
instead of ‘nose,’ and the objects of smelling would be objects of touch.
Since it would not even have the name ‘nose,’ how could a realm be
established for it?
·
Nếu lấy tính ngửi biết làm tỷ căn, ý ông muốn lấy cái gì làm
biết ngửi? Nếu lấy chất thịt làm biết ngửi, thì cái mà thịt biết được là
xúc chứ không phải tỷ căn. Nếu lấy hư không làm biết ngửi, thì hư không tự
có biết, còn chất thịt lẽ ra không có biết. Như vậy đáng lẽ hư không mới
thực là ông. Thân ông không phải có biết, thì ông A Nan biết nương vào
đâu: Suppose you held that the nose was the perceiver of smells. Then, in
your mind, what is it that perceives? Suppose it were the flesh that
perceived. Basically, what the flesh perceives is objects of touch, which
have nothing to do with the nose. Suppose it were emptiness that
perceived. Then emptiness would itself be the perceiver, and the flesh
would have no awareness. Thus, empty space would be you, and since your
body would be without perception, Ananda would not exist.
·
Nếu lấy mùi làm biết ngửi, cái biết thuộc về mũi, nào có
quan hệ gì đến ông?: If it is the smell that perceives, perception itself
would lie with the smell. What would that have to do with you?
·
Nếu các mùi thơm thúi sinh ở mũi của ông, không phải ở cây
y-lan hay chiên đàn mà ra, vậy khi không có hai thứ đó, ông thử ngửi mũi
ông xem thơm hay thúi? Mùi thúi không phải thơm, mùi thơm không phải thúi.
Nếu ngửi được cả hai mùi thơm thúi, thì một mình ông lẽ ra phải có hai
mũi, và đứng trước tôi hỏi đạo, phải có hai A Nan, vậy ai là ông?: If it
is certain that vapors of fragrance and stench are produced from your
nose, then the two flowing vapors of fragrance and stench would not arise
from the wood of Airavana or Chandana. Given that the smell does not come
from these two things, when you smell your own nose, is it fragrant, or
does it stink? What stinks does not give off fragrance; what is fragrance
does not stink. Suppose you say you can smell both the fragrance and the
stench; then you, one person, would have tow noses, and I would now be
addressing questions to two Anandas. Which one is you?
·
Nếu mũi có một, thơm thúi không phải hai, thúi là thơm, thơm
thành thúi, hai tính không có, vậy theo đâu mà lập giới?: Suppose there is
one nose; then fragrance and stench would not be two. Since stench would
be fragrance and fragrance would become stench, there would not be two
natures, thus what would make up the realm?
·
Nếu nhân mùi sinh, cái tỷ thức nhân mùi mà có. Như con mắt
thấy được, không nhìn con được mắt. Vậy tỷ thức nhân mùi mà có, lẽ ra
không biết được mùi. Nếu biết được, không phải do mùi sinh. Còn nếu không
biết, không phải là thức. Nếu mùi không có cái biết mùi thì không thành
được giới hạn cái thức. Nếu không biết mùi, thì không phải do mùi mà lập
ra giới. Không có tỷ thức là chặng giữa, thì nội căn, ngoại trần không thể
thành lập, và các tính ngửi biết chỉ là hư vọng: If the nose-consciousness
were produced because of smells, it follows that it is in existence just
because of smells. Just as the eyes can see but are unable to see
themselves, so, too, if it exists because of smells, it would not be aware
of smells. If it is aware of smells, then it is not produced from smells.
If it had no awareness, the realm of smelling would not come into being.
If the consciousness were not aware of smells, then the realm would not
be established from smells. Since there is no intermediate realm of
consciousness, there is no basis for establishing anything internal or
external, either. Therefore, the nature of smelling is ultimately empty
and false.
b) Vậy
ông nên biết, mũi và mùi làm duyên sinh tỷ thức giới, ba chỗ đều không
thực có. Ba giới mũi, mùi và tỷ thức vốn chẳng phải tính nhân duyên hay
tính tự nhiên: Therefore, you should know that, as to the nose and smells
being the conditions which produce the realm of the nose-consciousness,
none of the three places exists. Thus, the nose, smells, and the realm of
smelling, these three, do not have their origin in causes and conditions,
nor do their natures arise spontaneously.
10-11-12) Thiệt Vị Thức Giới: Jihva-rasa-vijnana-dhatu (skt)—The realm
of tongue, flavors, and consciousness:
a) Ông A
Nan! Ông đã rõ, lưỡi và vị làm duyên sinh ra thiệt thức. Cái thức đó nhân
lưỡi sinh, lấy lưỡi làm giới; hay nhân vị sinh, lấy vị làm giới?:
Moreover, Ananda, as you understand it, the tongue and flavors create the
conditions that produce the tongue-consciousness. Is the consciousness
produced because of the tongue, such that the tongue is its realm, or is
it produced because of the flavors, such that the flavors are its realm?
·
Ông A Nan! Nếu nhân lưỡi sinh, thì các vị trong thế gian
ngọt như mía, chua như me, đắng như huỳnh liên, mặn như muối, cay như gừng
và quế, mấy thứ đó đều không có vị. Ông thử tự nếm lưỡi ông, xem ngọt hay
đắng? Nếu đắng thì cái chi đến nếm lưỡi. Lưỡi đã không tự nếm, thì lấy cái
chi mà biết vị? Nếu không đắng, lưỡi không sinh ra được vị, sao lập thành
giới?: Suppose, Ananda, that it were produced because of the tongue. Then
all the sugar, black plums, Huang-lien, salt, wild ginger, and cassia in
the world would be entirely without flavor. Also, when you taste your own
tongue, is it sweet or bitter? Suppose the nature of your tongue were
bitter. Then, what would it be that tasted the tongue? Since the tongue
cannot taste itself, who would have the sense of taste? If the nature of
the tongue were not bitter, there would be no flavor engendered by it.
Thus, how could a realm be established?
·
Nếu nhân vị sinh, thì thiệt thức tự mình đã là vị, giống như
lưỡi, không thể tự nếm vị mình được, sao biết là vị hay không phải vị? Lại
tất cả các vị không phải do một vật sinh ra. Các vị đã do nhiều vật sinh
ra, lẽ ra thức có nhiều thể: If it were produced because of flavor, the
consciousness itself would be a flavor. The case would be the same as with
the tongue-organ being unable to taste itself. How could the consciousness
know whether it had flavor or not? Moreover, flavors do not all come from
one thing. Since flavors are produced from many things, the consciousness
would have many substances.
·
Nếu thức thể là một, và thể do vị sinh ra, thì đáng lẽ những
vị mặn, nhạt, chua, cay hòa hợp cùng nhau sinh ra các tướng sai khác, đồng
là một vị, không có phân biệt. Đãõ không có phân biệt, không gọi là thức,
sao còn gọi là Thiệt-Vị-Thức Giới? Chẳng lẽ hư không sinh ra tâm thức của
ông? Còn nói lưỡi và vị hòa hợp nhau mà sinh, thì cái chặng giữa căn trần
đã không có tự tính, làm sao sinh được giới?: Suppose that the
consciousness were of a single substance and that the substance was
definitely produced from flavor. Then, when salt, bland, sweet, and
pungent were combined, their various differences would change into a
single flavor and there would be no distinctions among them. If there were
no distinctions, it could not be called consciousness. So, how could it
further be called the realm of tongue, flavor, and consciousness? Nor can
it be that empty space produces your conscious awareness. The tongue and
flavors could not combine without each losing its basic nature. How could
a realm be produced?
b) Vậy
ông nên biết, lưỡi và vị làm duyên sinh thiệt thức giới, ba chỗ đều không
thực có. Ba giới lưỡi, vị và thiệt thức vốn chẳng phải tính nhân duyên hay
tính tự nhiên: Therefore, you should know that, as to the tongue and
flavors being the conditions and that produce the realm of
tongu-consciousness, none of the three places exists. Thus, the tongue,
flavors, and the realm of the tongue, these three, do not have their
origin in causes and conditions, nor do their natures arise spontaneously.
13-14-15) Thân Xúc Thức Giới: Kaya-sparshtavya-vijnana-dhatu (skt)—The
realm of body-consciousness, objects of touch:
a) Ông A
Nan! Ông đã rõ, thân và xúc làm duyên sinh ra thân thức. Cái thức đó nhân
thân sinh, lấy thân làm giới hạn, hay nhân xúc sinh, lấy xúc làm giới?:
Moreover, Ananda, as you understand it, the body and objects of touch
create the conditions that produce the body-consciousness. Is the
consciousness produced because of the body, such that the body is its
realm, or is it produced because of objects of touch, such that objects of
touch are its realm?
·
Nếu nhân thân sinh, tất không có hai cái duyên giác quán hợp
ly, thân còn biết gì nữa?: Suppose, Ananda, that it were produced because
of the body. When there was no awareness of the two conditions of contact
with and separation from objects of touch, what would the body be
conscious of?
·
Nếu nhân xúc sinh, chắc không có thân ông, ai không có thân
mà biết hợp, biết ly được?: Suppose it were produced because of objects of
touch. Then you would not need your body. Without a body, what could
perceive contact with and separation from objects of touch?
b) Ông A
Nan! Vật không thể biết xúc, thân mới biết có xúc. Xúc biết thân, thân
biết xúc. Đã là xúc thì không phải là thân. Đã là thân, tức không phải là
xúc. Hai tướng thân và xúc vốn không có xứ sở. Hợp với thân thì thành ra
tự thể tính của thân. Ly với thân thành ra những tướng hư không. Nội căn
và ngoại trần đã không thành, cái giữa là thức làm sao lập được? Giữa đã
không lập được, tính trong ngoài là không, vậy từ đâu mà lập được cái giới
sinh ra thức của ông?: Ananda! Things do not perceive objects of touch. It
is the body that perceives objects of touch. What the body knows is
objects of touch, and what is aware of objects of touch is the body. What
is objects of touch is not the body, and what is the body is not the
objects of touch. The two characteristics of body and objects of touch are
basically without a location. If it united with the body, it would be the
body’s own substance and nature. If it were apart from the body, it would
have the same appearance as empty space. Since the inside and the outside
don’t stand up, how can one set up a middle? The middle cannot be set up
either. The inside and the outside are by nature empty. From what realm,
then, is your consciousness born?
c) Vậy
ông nên biết, thân và xúc làm duyên sinh thân thức giới, ba chỗ đều không
thực có. Ba giới thân, xúc, và thân thức vốn chẳng phải tính nhân duyên
hay tính tự nhiên: Therefore, you should know that, as to the body and
objects of touch being conditions that produce the realm of
body-consciousness, none of the three places exists. Thus, the body,
objects of touch, and the realm of the body, thse three, do not have their
origin in causes and conditions, nor do their natures arise spontaneously.
16-17-18) Ý-Pháp-Thức Giới: Mano-dharma-vijnana-dhatu (skt)—The realm of
mind, dharmas, and consciousness:
a) Ông A
Nan! Ông đã rõ, ý và pháp làm duyên sinh ra ý thức. Cái thức đó nhân ý
sinh, lấy làm giới, hay nhân pháp sinh, lấy làm giới?: Moreover, Ananda,
as you understand it, the mind and dharmas create the conditions that
produce the mind-consciousness. Is this consciousness produced because of
the mind, such that the mind is its realm, or is it produced because of
dharmas, such that dharmas are its realm?
·
Ông A Nan! Nếu nhân ý sinh, trong ý ông chắc có suy nghĩ mới
phát minh ý ông. Nếu không có sự vật ở ngoài, ý không sinh ra được. Lìa
các pháp duyên, ý không có hình tướng. Vậy thức dùng để làm gì? Thức tâm
của ông giống hay khác các tư tưởng và các sự rõ biết. Nếu đồng với ý, sao
gọi là do ý sinh. Nếu khác với ý, đáng lẽ không biết gì. Nếu thế, sao nói
là do ý sinh. Nếu có biết, sao lại chia ra thức và ý? Nguyên đồng và khác
còn không lập được, sao lập được giới?: Supose, Ananda, that it were
produced because of the mind. In your mind there certainly must be
thoughts; these give expression to your mind. If there are no dharmas
before you, the mind does not give rise to anything. Apart from
conditions, it has no shape; thus, what use would the consciousness be?
Moreover, Ananda, is your conscious awareness the same as your mind-organ,
with its capacity to understand and make distinctions, or is it different?
If it were the same as the mind, it would be the mind; how could it be
something else that arises? If it were different from the mind, it should
thereby be devoid of consciousness. If there were no consciousness, how
would it arise from the mind? If there were consciousness, how would it
differ from the mind? Since it is by nature neither the same nor
different, how can a realm be established?
·
Nếu từ pháp trần sinh, các pháp trong thế gian, không rời
năm trần. Ông hãy xem các sắc pháp, thanh pháp, hương pháp, vị pháp và xúc
pháp, các tướng trạng đều phân minh, để đối với năm căn, các thứ đó đều
không phải về phần trần cảnh của ý căn: Suppose it were produced because
of dharmas. None of the dharmas of the world exists apart from the five
defiling objects. Consider the dharmas of form, the dharmas of sound, the
dharmas of smell, the dharmas of taste, and the dharmas of touch, each has
a clearly distinguishable appearance and is matched with one of the five
organs. They are not what the mind takes in.
·
Nếu thức của ngươi nhất định từ pháp trần ra, thì ngươi hãy
xem xét hình tướng của mỗi pháp như thế nào? Suppose your consciousness
were indeed produced through a reliance on dharmas. Take a close look at
them now. What does each and every dharma look like?
·
Nếu lìa sắc, không, thông, nghẽn, ly, hợp, và sanh diệt,
ngoài các tướng nầy chẳng có sở đắc: Underlying the characteristics of
form and emptiness, movement and stillness, penetration and obstruction,
unity and separation, and production and extinction there is nothing at
all.
·
Sanh thì các pháp sắc không cùng sanh, diệt thì các pháp sắc
không cùng diệt, vậy cái nhân sanh ra đã không, làm sao có thức? Thức đã
chẳng có, giới từ đâu lập?: When there is production, then form,
emptiness, and all dharmas are produced. When there is extinction, then
form, emptiness, and all dharmas are extinguished. Since what is causal
does not exist, if those causes produce the consciousness, what appearance
does the consciousness assume? If there is nothing discernable about the
consciousness, how can a realm be established for it?
·
Vì thế ông nên biết ý căn, pháp trần làm duyên với nhau sanh
ra ý thứ giới, ba chỗ đều không, tức ý căn, pháp trần, ý thức giới vốn
chẳng phải tánh nhân duyên, cũng chẳng phải tánh tự nhiên: Therefore, you
should know that, as to the mind and dharmas being the conditions that
produce the realm of the mind-consciousness, none of the three places
exists. Thus, the mind, dharmas, and the realm of the mind, these three,
do not have their origin in causes and conditions, nor do their natures
arise spontaneously.
Thập Bát Pháp Giới: See Thập
Bát Giới.
Thập Bát Tuệ Quán: Theo Thanh
Tịnh Đạo, có mười tám pháp tuệ quán—According to The Path of Purification,
there are eighteen Principal Insights of the abandoning by substitution of
opposites.
1) Đoạn
thường tưởng bằng quán vô thường: The abandoning of the perception of
permanence, through the means of the contemplation of impermanence.
2) Đoạn
lạc tưởng bằng quán khổ: The abandoning of the perception of pleasure,
through the means of the contemplation of pain.
3) Đoạn
ngã tưởng bằng quán vô ngã: The abandoning of the perception of self,
through the means of the contemplation of not self.
4) Đoạn
khoái cảm bằng quán ly dục: The abandoning of delight, through the means
of the contemplation of dispassion (revulsion).
5) Đoạn
tham bằng quán ly tham: The abandoning of greed, through the means of the
contemplation of fading away.
6) Đoạn
sinh bằng quán diệt: The abandoning of originating, through the means of
the contemplation of cessation.
7) Đoạn
chấp thủ bằng quán từ bỏ: The abandoning of grasping, through the means of
the contemplation of relinquishment.
8) Đoạn
cái tưởng nguyên vẹn bằng quán hoại: The abandoning of the perception of
compactness, through the means of the contemplation of destruction.
9) Đoạn
tích lũy bằng quán diệt: The abandoning of accumulation, through the means
of contemplation of fall.
10) Đoạn
tưởng bền bỉ bằng quán biến đổi: The abandoning of the perception of
lastingness, through the means of the contemplation of change.
11) Đoạn
tướng bằng quán vô tướng: The abandoning of the sign, through the means of
the contemplation of the signless.
12) Đoạn dục
bằng quán vô dục: The abandoning of desire, through the means of the
contemplation of the desireless.
13) Đoạn tà
giải bằng quán không: The abandoning of misinterpreting, through the means
of the contemplation of voidness.
14) Đoạn tà
giải do chấp thủ vào một cái lõi kiên cố bằng quán đi sâu vào tăng thượng
tuệ: The abandoning of misinterpreting due to grasping at a core, through
the means of insight into states that is higher understanding.
15) Đoạn tà
giải do mê mờ bằng chánh tri kiến: The abandoning of misinterpreting due
to confusion, through the means of correct knowledge and vision.
16) Đoạn tà
giải do y cứ các hành bằng quán nguy hiểm trong các hành: The abandoning
of misinterpreting due to reliance on formations, through the means of the
contemplation of danger in them.
17) Đoạn phi
tư duy bằng quán tư duy: The abandoning of non-reflexion, through the
means of the contemplation of reflexion.
18) Đoạn tà
giải do trói buộc bằng quán quay đi: The abandoning of misinterpreting due
to bondage, through the means of the contemplation of turning away.
Thập Bát Vấn: Theo Thiền Sư
D.T. Suzuki trong Thiền Luận Tập II, Thập Bát Vấn của Phần Dương Thiện
Chiểu là đường lối thực hành của giáo lý Thiền cho đến khoảng thế kỷ thứ
mười. Phần Dương Thiện Chiểu sống vào khoảng cuối thế kỷ thứ mười, là môn
nhân của Thủ Sơn Tĩnh Niệm. Sự xếp loại trong Thập Bát Vấn tuy không có
tính cách khoa học nhưng các câu hỏi rất là sáng sủa vì chúng phác họa
cách thức học tập của Thiền thời bấy giờ—According to Zen Master D.T.
Suzuki in the essays in Zen Buddhism, Book II, The Eighteen Kinds of
Question, compiled by Shan-Chao of Fen-Yang, the way Zen teaching was
practiced until about the tenth century. Fen-Yang-Shan-Chao lived at the
end of the tenth century and was a disciple of Sheng-Nien of Shou-Shan.
The classification in the work is unscientific but the “Questions” are
illuminating in many ways as they illustrate how Zen was studied in those
days.
1) Thỉnh
Ích: Câu hỏi xin chỉ dạy. Thông thường là câu hỏi của đệ tử hỏi thầy, muốn
hiểu rõ những vấn đề như Phật Đà, Tổ Bồ Đề Đạt Ma sang Tàu làm gì, yếu chỉ
của Phật pháp, Pháp thân, vân vân: The question asking for instruction.
This is what is generally asked by a novice of the master, wishing to be
enlightened on such subjects as Buddha, the signification of Bodhidharma’s
visit to China, the essence of the Buddhist teaching, the Dharmakaya,
etc.
2) Trình
Giải: Người hỏi cầu xin thầy ấn chứng bằng cách bày tỏ điều kiện tinh thần
của riêng mình. Một Thầy Tăng hỏi Triệu Châu: “Thầy nói gì với một người
không mang cái gì hết?” Y đang phân tích tâm trạng của riêng mình. Triệu
Châu đáp: “Thì cứ mang theo.”—The question in which the questioner asks
for the master’s judgment by describing his own mental condition. When a
monk said to Chao-Chou, “What do you say to one who has nothing to carry
about?” He was analyzing his own state of mind. To this Chao-Chou replied,
“Carry it along.”
3) Sát
Biện: Người hỏi muốn biết rõ lập trường của Bổn Sư. Một nhà sư đến kiếm
Đồng Phong cư ngụ tại một thảo am trên núi, hỏi: “Nếu có con cọp bỗng
nhiên hiện ra ở đây, thầy sẽ làm gì?” Am chủ liền rống lên như một con
cọp; nhà sư kia có vẻ hoảng sợ; thấy thế am chủ cả cười ha hả: The
question whereby the questioner attempts to see where the master stands. A
monk came to Tung-Fêng who lived in a mountain hut and asked him, “If a
tiger should suddenly appear here, what would you do?” The hut-keeper
roared like a tiger; the monk behaved as if terrified; whereupon the
keeper laughed heartily.
4) Đầu
Cơ: Trong câu hỏi nầy, người hỏi cho thấy y vẫn còn có chỗ nghi ngờ về sự
thành đạt của mình và y diễn tả ước muốn được xác chứng của mình. Một nhà
sư hỏi Thiên Hoàng Đạo Ngộ: “Tôi phải làm gì khi bóng mờ của nghi tình
chưa dứt?” Đạo Ngộ đáp: “Giữ lấy một cái cũng còn cách xa chỗ trúng.”—The
question in which the questioner shows that he still has a doubt as to his
attainment and expresses his desire for confirmation. A monk asked Tao-Wu
of T’ien-Huang, “What shall I do when there is still a shadow of doubt?”
Tao-Wu replied, “Even oneness when held on to is wide of the mark.”
5) Thiên
Tích: Câu hỏi mà người hỏi nóng lòng muốn thấy ra thái độ của thầy. Một
nhà sư hỏi Triệu Châu: “Vạn pháp quy nhất; nhất quy về đâu?” Triệu Châu
nói: “Khi ở Thanh Châu, tôi có may được một chiếc áo nặng bảy cân.”—The
question whereby the questioner is anxious to find out the master’s
attitude. A monk asked Chao-Chou, “All things are reducible to the One;
but where is the One reducible?” Chao-Chou replied, “When I was in the
district of Ch’ing I had a robe made that weighed seven pounds.”
6) Tâm
Hành: Người hỏi vì không biết tiếp tục học Thiền như thế nào. Một nhà sư
hỏi Hưng Hóa: “Kẻ học nầy không phân biệt nổi đen với trắng, xin sư soi
sáng cho.” Câu hỏi vừa xong thì sư cho một tát bên thân: The question
asked by one who is at a loss as to how to go on with his study of Zen. A
monk asked Hsing-Hua: “I am unable to distinguish black from white. Pray
enlighten me somehow.” The question was hardly out when the master gave
him a good slashing.
7) Thám
Bạt: Câu hỏi được hỏi với ý định thăm dò sở đắc của thầy. Loại câu hỏi nầy
chắc chắn đã thịnh hành khi các Thiền viện được dựng lên khắp nơi và các
nhà sư bái phỏng từ thầy nầy sang thầy khác. Một nhà sư hỏi Phong Huyệt:
“Kẻ ấy không hiểu mà chưa từng có chút nghi, thế là làm sao?” Sư đáp: “Khi
con linh qui trèo lên đất bằng, nó không thể không để lại dấu vết nơi đất
bùn.”—The question asked with the intention to probe into the attainment
of the master. This kind of question must have been in vogue when Zen
monasteries were every where established and the monks travelled from one
master to another. A monk asked Fêng-Hsueh, “How is it that one who
understand not, never cherishes a doubt?” Fêng-Hsueh replied: “When a
tortoise walks on the ground, he can not help leaving traces in the mud.”
8) Bất
Hội: Hỏi vì không hiểu; ở đây có vẻ không khác với loại câu “Tâm Hành.”
Một nhà sư hỏi Huyền Sa: “Tôi là một người mới nhập tòng lâm; mong sư chỉ
thị tôi cần phải học tập như thế nào.” Huyền Sa đáp: “Nhà ngươi có nghe
dòng suối rì rào kia chăng?” Vị sư đáp: “Bẩm, có!” Huyền Sa nói: “Vậy theo
lối đó mà vào.”—The question of ignorance. This does not seem to differ
from the sixth question. A monk asked Hsuan-Sha: “I am a new comer in the
monastery; please tell me how to go on with my study.” Hsuan Sha replied:
“Do you hear the murmuring stream?” The monk said: “Yes, master.”
Hsuan-Sha said: “If so, here is the entrance.”
9) Kình
Đảm: Người hỏi có quan điểm nào đó về Thiền và muốn biết nhận xét của thầy
ra sao: “Tôi chẳng làm gì được với thế trí biện thông; xin sư cho một
thoại đầu của Thiền.” Khi nhà sư hỏi như vậy, ông thầy liền giáng cho một
đòn rất nặng: The question proposed by one who has his own view of Zen and
wishes to see how the master takes it. A monk asked his master: “As to
worldly knowledge and logical cleverness, I have nothing to do with them;
please let me have a Zen theme.” The master gave him a hearty blow.
10) Trí:
Trong câu hỏi nầy có đặc ra lời nói của một bậc lão túc. Một nhà sư hỏi
Vân Môn: “Trừng mắt lên mà cũng không thấy bờ mé thì làm sao?” Vân Môn
bảo: “Xem kìa?”—The question in which an ancient master’s saying is
referred to. A monk said to Yun-Mên: “What would one do when no boundaries
are seen, however wide the eyes are open?” Said Yun-Mên: “Look!”
11) Cố: Câu
hỏi có chứa đựng những lời nói trong kinh. Một nhà sư hỏi Thủ Sơn: Theo
kinh nói hết thảy chúng sanh đều có Phật tính; vậy sao chúng sanh không
biết?” Thủ Sơn đáp: “Biết chứ.”—The question containing words from the
sutras. A monk asked Shou-Shan: “According to the sutra, all beings are
endowed with the Buddha-nature; how is it then that they know it not?”
Shou-Shan replied: “They know.”
12) Tá: Câu
hỏi gồm có những đối chiếu với một sự thực đã biết. Một nhà sư hỏi Phong
Huyệt: “Biển cả có châu làm sao nhặt được?” Phong Huyệt đáp: “Lúc Võng
tượng đến chói chan ánh sáng; chỗ Li lâu đi sóng vỗ trùm trời. Càng cố giữ
nó càng tan, càng cố thấy nó càng tối.”—The question containing references
to a known fact. A monk asked Fêng-Hsueh: “The ocean is said to contain
the precious gem; how can a man lay hands on it?” Fêng-Hsueh replied:
“When Wang-Hsiang comes, its brightness is dazzling; when li-lou goes, the
waves roll as high as the sky. The more one tries to take hold of, the
farther it vanishes; the more one attempts to see it, the darker it
grows.”
13) Thật: Câu
hỏi bắt đầu bằng một lối nhận xét trực tiếp. Một nhà sư hỏi Tam Thánh: “Kẻ
học nầy chỉ thấy Hòa Thượng là Tăng, đâu là Phật? Đâu là Pháp?” Tam Thánh
đáp: “Đây là Phật, đây là Pháp, biết chăng?”—The question starts from an
immediate fact of observation. A monk as San-Shêng: “I see that you belong
to the Brotherhood, what is the Buddha? What is the Dharma?” San-Shêng
replied: “This is the Buddha, this is the Dharma, do you know?”
14) Giả: Câu
hỏi chứa đựng một trường hợp giả thiết. Một nhà sư hỏi Kính Sơn: “Đức Phật
nầy ngồi trong Điện; cái nào là Đức Phật kia?” Kính Sơn đáp: “Đức Phật này
ngồi trong Điện.”—The question containing a hypothetical case. A monk
asked Ching-Shan: “This Buddha sits in the Hall; what is the other
Buddha?” Ching Shan replied: “This Buddha sits in the Hall.”
15) Thẩm: Câu
hỏi bộc bạch một nghi tình thực thụ. Một vị sư hỏi Tổ sư: “Hết thảy các
pháp bản lai đều là hữu; như vậy cái gì là Vô?” Tổ sư đáp: “Câu hỏi của
ngươi rất phân minh; hỏi ta làm gì?”—The question embodying a real doubt.
A monk asked his master: “All things are such as they are from he
beginning; what is that which is beyond existence?’ The master replied
with id solution: “Your statement is quite plain; what is the use of
asking me?”
16) Trưng:
Câu hỏi có ý định bức bách. Một vị sư hỏi Mục Châu: “Tổ sư từ Ấn sang đây
để làm gì?” Mục Châu cắt nghĩa: “Hãy nói, để làm gì?” Vị sư không đáp. Mục
Châu bèn đánh cho: The question with an aggressive intent. A monk asked
Mu-Chou: “The Patriarch came from India and what did he design to do
here?” Mu-Chou retorted: “You tell; what did he design?” The monk gave no
reply, so Mu-Chou struck him.
17) Minh: Câu
hỏi được nêu lên một cách đầy đủ và chính xác. Một triết gia ngoại đạo hỏi
Phật: “Tôi không hỏi hữu ngôn hay vô ngôn.” Đức Phật ngồi im lặng. Triết
gia nầy nói: “Đức Thế Tôn quả đại từ, đại bi. Ngài khơi sáng những mây mờ
mê hoặc cho tôi, chỉ cho tôi lối vào Chánh đạo.”—The question plainly and
straightforwardly stated. A non-Buddhist philosopher asked the Buddha:
“Words or no-words, I ask neither.” The Buddha remained silent. The
philosopher said: “The Blessed One is indeed full of mercy and compassion.
He has cleared off clouds of confusion for my sake, showing me how to
enter upon the path.”
18) Mặc: Câu
hỏi không diễn thành lời. Một triết gia ngoại đạo đến kiếm Phật và đứng
trước ngài mà không nói một tiếng. Phật liền bảo: “Quá nhiều rồi ông ơi!”
Triết gia này tán thán Phật, nói: “Do lòng từ bi của Đức Thế Tôn mà nay
tôi được vào Đạo.”—The question not expressed in words. A non-Buddhist
philosopher came to the Buddha and stood before him without uttering a
word. The Buddha then said, “Abundantly indeed, O philosopher!” The
philosopher praised the Buddha saying, “It is all owing to the Blessed
One’s mercy that I now enter upon the path.”
Thập Bất Cầu Hạnh: Mười hạnh
không cầu để phá mười chướng ngại lớn, cũng như mọi trở ngại và cản trở
khác—Ten non-seeking practices which help eliminate the ten major
obstacles as well as all other obstructions and impediments—See Ten
Non-seeking practices.
Thập Bất Hối Giới: Ten rules
which produce regrets—See Mười Giới Bất Hối.
Thập Bất Thiện Nghiệp:
Akusala-kammapatha (p)—Ten unwholesome courses of action—See Mười Bất
Thiện Nghiệp Đạo.
Thập Bất Trung Đạo: Mười điều
phản bác Trung Đạo—Ten negations in five pairs:
1) Bất
Sanh Bất Tử: Không sanh không chết—Neither birth nor death.
2) Bất
Tuyệt Bất Hằng: Không đoạn không hằng—Neither end nor permanence.
3) Bất
Đồng Bất Dị: Không giống không khác—Neither identity nor difference.
4) Bất
Khứ Bất Lai: Không đến không đi—Neither coming nor going.
5) Bất
Nhân Bất Quả: Không nhân không quả—Neither cause nor effect.
Thập Biến Xứ: Ten objects for
the attainment of absorption—See Mười Biến Xứ.
Thập Bình Đẳng Tâm: Ten kinds
of equanimity of great enlightening beings—See Mười Tâm Bình Đẳng Của Chư
Đại Bồ Tát.
Thập Bồ Tát Hạnh: See Mười Hạnh
Bồ Tát and Thập Hạnh Bồ Tát.
Thập Cảnh: Ten stages or
objects in meditation:
1) Phiền
não: Life’s distress and delusion.
2) Bịnh
hoạn: Dhukha—Sickness—Its cause and cure.
3) Nghiệp
tướng: Age-long karmic influences.
4) Ma
quân: Mara affairs—How to overthrow their rule.
5) Thiền
định: The condition of meditation and concentration (Dhyana and Samadhi).
6) Chư
kiến: Various views and doubts that arise.
7) Mạn:
Pride in progress and the delusion that one has attained nirvana.
8) Nhị
thừa Thanh Văn: Sravakas—Temptation to be content with the lower nirvana.
9) Nhị
Thừa Duyên Giác: Pratyeka-buddhas.
10) Bồ Tát:
Bodhisattvahood.
Thập Cẩm: Miscellaneous.
Thập Công Đức: Mười công
đức---The ten merits (powers) commended by the Buddha to his bhiksus:
1) Tinh
tấn: Zealous progress.
2) Tri
túc: Contentment with few desires.
3) Kiên
trì (bất thối): Courage.
4) Học tu
và chia xẻ: To learn and to teach.
5) Vô úy:
Fearlessness.
6) Trì
giới: Perfect observance of the commandments and fratenity’s regulations.
7) Toàn
định: Perfect meditation.
8) Thông
hiểu hoàn toàn: Perfect understanding of the dharma.
9) Toàn
huệ: Perfect wisdom.
10) Toàn
giác: Perfect liberation.
Thập Cúng Dường: Theo Kinh Pháp
Hoa, có mười thứ lễ vật cúng dường—According to The Lotus Flower Sutra,
there are ten kinds of offerings:
1) From
(1) to (6)—See Lục Cúng Cụ.
7) Tràng
Phan Bảo Cái: Pennants and Banners.
8) Quần
Áo: Clothes.
9) Đàn
dành cho lễ hội: Musical instruments for ceremonies.
10) Hợp
Chưởng: Anjali (skt)—Salutation with joined palms—See Anjali in
Sanskrit/Pali-Vietnamese Section.
Thập Chi: Mười nhánh ác—The ten
branches of evils:
(A) Thân Tam:
See Thất Chi (A) in Vietnamese-English Section.
(B) Khẩu Tứ:
See Thất Chi (B) in Vietnamese-English Section.
(C) Ý Tam:
Three sins of the mind:
1) Tham:
Greed.
2) Sân:
Anger.
3) Si:
Ignorance.
Thập Chú: Ten Small Mantras:
1) Như Ý
Bảo Luân Vương Đà La Ni: As-You-Will Jewel King Dharani.
2) Tiêu
Tai Cát Tường Thần Chú: Disaster Eradicating Auspicious Spirit Mantra.
3) Công
Đức Bảo Sơn Thần Chú: Meritorious Virtue Jewelled Mountain Spirit Mantra.
4) Phật
Mẫu Chuẩn Đề Thần Chú: Jwun Ti Spirit Mantra.
5) Thánh
Vô Lượng Thọ Quyết Định Quang Minh Đà La Ni: The Resolute Light King
Dharani of Holy Limitless Life.
6) Dược
Sư Quán Đảnh Chân Ngôn: Medicine Master’s True Words for Anointing the
Crown.
7) Quán
Âm Linh Cảm Chân Ngôn: Kuan Shi Yin’s Efficacious Response True Words.
8) Thất
Phật Diệt Tội Chân Ngôn: The True Words of Seven Buddhas for Eradicating
Offences.
9) Vãng
Sanh Tịnh Độ Thần Chú: Spirit Mantra For Rebirth in the Pure Land.
10) Thiện
Thiên Nữ Chú: Good Goddess Mantra.
Thập Chủng Bất Thiện Nghiệp:
Ten kinds of unwholesome karma—See Thân Tam Khẩu Tứ Ý Tam.
Thập Chủng Đà La Ni: Mười thứ
Đà-La-Ni của chư Bồ Tát được Phật dạy trong Kinh Hoa Nghiêm (Phẩm 38—Ly
Thế Gian)—Ten kinds of mental command of Enlightening Beings mentioned by
the Buddha in The Flower Adornment Sutra (Chapter 38—Detachment from the
World).
1) Văn
trì Đà La Ni, vì trì tất cả các pháp chẳng quên mất: Mental command of
retaining what they hear, as they retain all teachings without forgetting.
3) Tư
duy Đà-La-Ni, vì biết rõ tánh của tất cả các pháp: Mental comand of
reflection, as they comprehend the nature of all things.
4) Pháp
quang minh Đà-La-Ni, vì chiếu bất tư nghì Phật pháp: Mental command of
light of the teachings, as they alumine the inconceivable attributes of
Buddhahood.
5) Tam
muội Đà-La-Ni, vì ở khắp chỗ hiện tại tất cả Phật nghe chánh pháp tâm
chẳng loạn: Mental command of concentration, as their mind are not
distracted as they hear the teachings of all Buddhas of the present.
6) Viên
Âm Đà La Ni, vì hiểu rõ bất tư nghì âm thanh ngữ ngôn: Mental command of
universal sound, as they understand inconceivable numbers of uterances.
7) Tam
Thế Đà La Ni, vì diễn nói tam thế những Phật pháp bất tư nghì: Mental
command of all times, as they expound the inconceivable Buddha teachings
of all times.
8) Chủng
Chủng Biện Tài Đà La Ni, vì diễn nói vô biên những Phật pháp: Mental
command of various intellectual powers, as they expound boundless Buddha
teachings.
9) Xuất
Sanh Vô Ngại Nhĩ Đà La Ni, vì đều có thể nghe được pháp bất khả thuyết của
chư Phật đã nói: Mental command of producing unobstructed ears, as they
hear all the teachings of untold Buddhas.
10) Nhứt
thiết Phật pháp Đà La Ni, vì an trụ nơi lực vô úy của Như Lai: Mental
command of all qualities of Buddhahood, as they are firmly established in
the powers and fearlessnesses of the enlightened.
Thập Chủng Phật Âm: Ten types
of Buddha’s voice—See Âm Thanh Của Đức Như Lai, and Tứ Chủng Phật Âm.
Thập Chủng Quyết Định Giải: Ten
kinds of certain understanding—See Mười Thứ Quyết Định Giải.
Thập Chủng Trì Danh: Trì danh
là pháp tu Tịnh Độ phổ thông nhứt hiện nay. Theo Hòa Thượng Thích Thiền
Tâm, có mười cách trì danh khác nhau—Oral recitation is the most common
Pure Land method at the present time. According to Most Venerable Thích
Thiền Tâm, there are ten variants in oral recitation:
1) Phản
Văn Trì Danh: Phương pháp nầy, miệng vừa niệm, tai vừa nghe vào trong,
kiểm soát từng chữ từng câu cho rành rẽ rõ ràng, hết câu nầy đến câu khác.
Nghe có hai cách, hoặc dùng tai nghe, hoặc dùng tâm nghe. Tuy nghe vào
trong nhưng không trụ nơi đâu, lần lần quên hết trong ngoài, cho đến quên
cả thân tâm cảnh giới, thời gian không gian, chỉ còn một câu Phật hiệu.
Cách thức phản văn khiến cho hành giả dễ gạn trừ vọng tưởng, mau được nhứt
tâm. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Chân Giáo thể phương nầy Thanh tịnh do nghe
tiếng. Muốn chứng vào tam muội, nên như thế mà tu hành” chính là ý trên
đây—Reflecting the name recitation. With this technique, the ear catches
the sound as the mouth recites, examining each individual word and each
individual phrase, to make sure they are clear and distinct, phrase after
phrase. There are two ways of hearing, with the ears or with the mind.
Although the ears ‘hear deep inside,’ the sounds do not reside anywhere.
The practitioner gradually forgets everything inside and out, even body,
mind, realm, time and space, with only the Buddha’s name remaining. This
technique of ‘reflecting the name,’ makes it easy for the cultivator to
filter out deluded thoughts and Surangama Sutra expresses this very idea
when it states, in the words of the Bodhisattva Manjusri: “This common
method of concentrating the mind on its sense of hearing, turning it
inward, is most feasible and wise.”
2) Sổ
Châu Trì Danh: Đây là cách thức miệng vừa niệm, tay vừa lần chuỗi. Ban đầu
ý niệm còn ràng buộc nơi tràng hạt, sau lần buông bỏ đi đến cảnh nhứt tâm.
Phương pháp sổ châu khiến cho niệm lực mạnh mẽ, ví như người yếu chân đi
núi, nhờ nương cây gậy mà tiến bước lên cao mãi. Niệm cách mấy lần lại cần
phải ghi số mỗi thời hoặc mỗi ngày là bao nhiêu câu. Ghi số có điểm lợi là
bắt buộc người tu phải giữ định số, trừ được bệnh biếng trễ; nhưng cần chú
ý đừng quá tham mau tham nhiều mà niệm không được rành rẽ rõ ràng. Người
xưa tuy niệm nhiều nhưng cũng ở trong sự rành rõ, do nhờ hai điểm là thuần
thục và định tâm. Ngẫu Ích Đại Sư, vị tổ thứ chín của Liên Tông, từng khai
thị: “Muốn đi đến cảnh giới ‘nhứt tâm bất loạn,’ không có cách chi kỳ diệu
khác. Trước tiên hành giả cần phải lần chuỗi ghi số, niệm niệm rành rẽ rõ
ràng, mỗi ngày hoặc ba muôn, năm muôn, cho đến mười muôn câu, giữ khóa
trình quyết định chẳng thiếu, thề một đời không thay đổi. Niệm như thế lâu
ngày lần lần thuần thục, không niệm vẫn tự niệm, chừng ấy ghi sổ hay không
ghi sổ cũng được. Và niệm như thế kèm thêm tín nguyện tha thiết, mà không
được vãng sanh, thì chư Phật ba đời đều mang lỗi nói dối. Khi đã vãng
sanh, tất cả pháp môn đều được hiện tiền. Nếu như ban sơ vì cầu cao tự ỷ,
muốn tỏ ra không chấp tướng, muốn học theo lối viên dung tự tại, đó là tín
nguyện chẳng bền sâu, hành trì không hết sức; dù có giảng suốt mười hai
phần giáo, giải ngộ một ngàn bảy trăm công án, cũng là việc ở bên bờ sanh
tử mà thôi.” Lời khuyên dạy nầy thật là cây kim chỉ nam cho người niệm
Phật—Counting Rosary Beads Recitation. In this method, as the mouth
recites, the hand fingers the rosary. At first, thoughts are tied to the
rosary beads, but later on they gradually move away from the beads,
leading to the state of one-pointedness of mind. This technique increases
the power of recitation in the same way that a cane enables a mountain
climber with weak legs to ascend higher and higher. With this technique,
we should write down the number of recitations per session or per day.
This has the advantage of forcing us to keep an exact count, eliminating
the affliction of laziness. However, we should take care not to be too
ambitious, attempting to achieve too much too soon, or our recitation will
not be clear and distinct. The ancients, while reciting the Buddha’s name
over and over, did so in a clear, distinct manner thanks to two factors:
correct understanding, and correct concentration of mind. Elder Master
Ou-I, the Ninth Patriarch of Pure Land once taught: “There is no better or
loftier way to reach the state of one-pointedness of mind. At first the
practitioner should finger the rosary, keeping an exact count, while
reciting the Buddha’ name over and over in a clear, distinct manner,
30,000, 50,000 up to 100,000 times each day, maintaining that number
without fail, determined to remain constant throughout his life. Such
recitation will, in time, become second nature, not reciting being
reciting. At that time, recording or not recording no longer matters. If
such recitation, accompanied by earnest Faith and Vows, did not lead to
rebirth in the Pure Land, the Buddhas of the Three Periods (past, present
and future) would all be guilty of false speech. Once we are reborn in the
Pure Land, all Dharma methods will appear before eyes. If at the outset we
seek too high a goal, are over-confident and eager to show that we are not
attached to forms and marks, preferring to study according to the free and
perfect method, we reveal a lack of stability and depth in our Faith and
Vows as well as perfunctoriness (làm lấy lệ) in our practice. Even if we
were to lecture exhaustively on the Twelve Divisions of the Dharma and
become enlightened to the 1,700 Zen koans, these would merely be
activities on the fringes of life and death.” This advice is indeed a
hand-guide for the Pure Land practitioners.
3) Tùy
Tức Trì Danh: Niệm Phật thầm hay niệm se sẽ tiếng, nương theo hơi thở, mỗi
hơi thở ra vào đều một câu Phật hiệu; đó là ý nghĩa của tùy tức trì danh.
Bởi mạng sống con người liên quan với hơi thở, nếu biết nương theo đây mà
niệm, thì khi sống hằng không rời Phật, lúc lâm chung tấc hơi vừa tắt,
liền về cảnh giới Liên Bang. Nhưng nên chú ý là phương thức nầy khi tập đã
thuần thục, cần niệm ra tiếng, chớ không nên chỉ niệm thầm. Như thế niệm
lực mới mạnh, ý nguyện cầu vãng sanh dễ được phát khởi. Bằng không, ý niệm
vãng sanh sẽ khó tha thiết và sợ e lại lạc vào công dụng Ngũ Đình Tâm Quán
của Tiểu Thừa—Breath-by-Breath Recitation. This technique consists of
reciting silently or softly, with each breath, inhaling or exhaling,
accompanied by one recitation of th Buddha’s name. Since life is linked to
breath, if we take advantage of breath while practicing Buddha Recitation,
we will not be apart from Amitabha Buddha in life and at the time of
death, when breath has stopped, we will be immediately reborn in the Pure
Land. The practitioner should remember, however, that once he has mastered
this technique, he should recite aloud as well as silently. In this way,
the power of recitation will be strengthened and the will to be reborn in
the Pure Land more easily developed. Otherwise, his resolve will not be
earnest and he might stray into the practice of the “Five Meditations to
calm the mind” of the Theravada tradition.
4) Truy
Đảnh Trì Danh: Khi dùng cách nầy, nên niệm nho nhỏ tiếng, mỗi chữ mỗi câu
đều kế tiếp nhau liên tỏa chặt chẽ, thành hình thế chữ sau đuổi theo chữ
trước, câu nầy gối đầu câu kia nên gọi là “Truy Đảnh.” Áp dụng phương thức
như thế, nhờ sự kín đáo bền chặt, trung gian không xen hở, nên tạp niệm
không có chỗ xen vào. Dùng đến pháp nầy thì tình ý khẩn trương, tâm miệng
dũng tiến, oai lực của chánh niệm bao trùm tất cả, khiến cho nghiệp tưởng
vô minh tạm thời chìm lắng, ánh mầu tam muội bộc phát chiếu xa. Từ xưa
người tu tịnh nghiệp trong lúc tình tưởng mênh mang rối loạn, thường dùng
cách thức nầy—Continuously Linked Recitation. With this technique, the
practitioner recites softly, each word following the one immediately
before, each phrase closely following the previous phrase. During this
practice, through discretion and patience, there are no empty time frames
and therfore ‘sundry thoughts’ cannot intrude. The cultivator’s feelings
and thoughts are intense, his mind and mouth move boldly forward reciting
the Buddha’s name, the power of right thought embraces everything,
temporarily subduing ignorance and delusive thought. Thus, the light of
transcendental samadhi breaks through and shines forth. From early times,
Pure Land pratitioners would avail themselves of this method when their
emotions and thoughts wandered or were in a state of confusion.
5) Giác
Chiếu Trì Danh: Niệm Phật theo giác chiếu là một mặt niệm Phật, một mặt
hồi quang soi trở lại chân tánh của mình. Do niệm như thế, hành giả sẽ đi
vào cảnh giới hư linh siêu tuyệt, chỉ còn cảm giác thân tâm của mình cùng
chân tâm Phật ngưng đọng thành một khối, sáng tròn rực rỡ, đầy rộng mênh
mang. Khi đó phòng nhà vật dụng thảy đều ẩn mất, cho đến thân giả tứ đại
của ta cũng không biết rơi lạc vào chỗ nào. Niệm theo đây thì báo thân
chưa mãn đã chứng tịch quang, Phật hiệu vừa tuyên liền vào tam muội. Đem
thân phàm phu mà dự vào cảnh thánh, thật không chi mau lẹ hơn phương pháp
trên đây. Song chỉ tiếc, nếu chẳng phải bậc thượng thượng căn tất không
thể lãnh hội thực hành, nên phần độ cơ của cách thức nầy vẫn còn sơ
hẹp—Enlightened, Illuminating Recitation. With this technique, the
practitioner on the one hand recites the Buddha’s name and on the other
hand, returns the light and illumines his True Nature. He thus enters into
the realm of ultimate transcendental emptiness; what remains is only the
consciousness that his body-mind and the True Mind of the Buddha have
become one, all-illuminating and all-encompassing. At that time,
meditation rooms, cushions, gongs and all else have disappeared. Even the
illusory, composite body is nowhere to be found. With this practice, even
while our present retribution body is not yet dead, silent illumination is
attained. Uttering the Buddha’s name, the practitioner immediately
achieves the state of samadhi. There is no swifter method for common
mortals to enter the realm of the saints. Unfortunately, we cannot
understand or practice this method unless we are of the highest capacity.
Therefore, its scope is rather modest and limited.
6) Lễ Bái
Trì Danh: Phương thức nầy là vừa lạy vừa niệm Phật. Hoặc niệm một câu, lạy
một lạy, hoặc một mặt niệm, một mặt lạy, không luận câu Phật nhiều hay ít.
Cách lễ Phật lại phải hết sức nhẹ nhàng chậm rãi, lễ niệm song hành, thân
miệng hợp nhất. Nếu thêm vào đó ý thành khẩn tha thiết, thì thành ra ba
nghiệp đều tập trung, ngoài câu Phật hiệu, không còn một tơ hào vọng niệm.
Phương pháp nầy có sở năng phá trừ hôn trầm, công đức và hiệu lực rất to
lớn, vì hành giả vận dụng cả ba nghiệp để trì niệm. Cư sĩ Vương Nhật Hưu
khi xưa từng áp dụng cách trên đây, mỗi ngày đêm ông lễ niệm trung bình là
một ngàn lạy. Nhưng dường như đây là lối niệm đặc biệt của hạng người tâm
lực tinh tấn, thiếu khả năng tất khó vững bền, bởi lạy lâu thân thể mõi
mệt dễ sanh chán nãn. Cho nên thông thường, cách thức nầy chỉ hợp kiêm
dụng, khó bề chuyên dụng—Bowing to the Buddha Recitation. This technique
consists of making bows as we recite the Buddha’s name. Either we recite
once before each bow or we bow as we recite, regardless of the number of
recitations. The bowing should be supple yet deliberate, complimenting
recitation, bowing and reciting perfectly synchronized. If we add a
sincere and earnest mind, body, speech and mind are gathered together.
Except for the words Amitabha Buddha, there is not the slightest deluded
thought. This method has the ability to destroy the karma of drowsiness.
Its benefits are very great, because the practitioner engages in
recitation with his body, speech and mind. A lay practitioner of old used
to follow this method, and each day and night, he would bow and recite and
average of one thousand times. However, this practice is the particular
domain of those with strong mind-power. Lacking this quality, it is
difficult to persevere, because with extended bowing, the body easily
grows weary, leading to discouragement. Therefore, this method is normally
used in conjunction with other methods and is not practiced in
exclusively.
7) Ký
Thập Trì Danh: Đây là cách niệm ký số, cứ lấy mỗi mười câu làm một đơn vị.
Người hơi ngắn có thể niệm thành hai lượt, mỗi lượt năm câu; hoặc chia ra
ba lượt, hai lượt ba câu, một lượt bốn câu. Sau khi niệm đủ mười câu, đều
lần qua một hạt chuỗi. Niệm theo lối nầy, tâm đã niệm Phật, lại còn phải
ghi nhớ số. Như thế dù không chuyên cũng bắt buộc phải chuyên, nếu không
chuyên thì số mục liền sai lạc. Cho nên pháp nầy đại để là một phương tiện
cưỡng bức cho hành giả chuyên tâm, rất có công hiệu với những kẻ có nhiều
tạp niệm. Ấn Quang Đại Sư thường khuyên các liên hữu áp dụng cách thức
trên đây—Decimal Recording Recitation. This is the inscription technique
of Buddha Recitation, taking each ten utterances of the Buddha’s name as a
unit. Individuals with short breath spans can divide the ten utterances
into two subunits (five utterances each) or three smaller subunits (two
three utterance units and one four-utterance unit). One rosary bead is
fingered after each group of ten utterances is completed. With this
practice, the mind must not only recite, it must also remember the number
of utterances. In this way, if we are not diligent we must become so;
otherwise, it will be impossible to avoid mistakes. This technique, in
general, is an excellent expedient forcing the cultivator to concentrate
his mind and is very effective with those subject to many errant thoughts.
Elder Master Yin Kuang used to recommend it to Pure Land practitioners.
8) Liên
Hoa Trì Danh: Lấy bốn sắc hoa sen xanh, vàng, đỏ, trắng, vừa niệm vừa
tưởng, luân lưu chuyển tiếp, là danh nghĩa của lối niệm trên đây. Hành giả
khi niệm câu Phật hiệu thứ nhứt, tưởng trước mặt mình hiện ra một đóa sen
xanh to lớn, phóng ánh sáng xanh. Câu thứ hai, tưởng đóa sen vàng. Cho đến
câu thứ ba, thứ tư, là hoa sen đỏ, trắng, màu nào phóng quang ánh sáng ấy.
Kế tiếp lại tưởng hoa sen màu xanh, cứ như thế mà luân lưu mãi. Đồng thời
khi hoa hiện, lại tưởng có hương sen thanh nhẹ phảng phất xung quanh. Bởi
có nhiều hành giả trong Liên Hoa Tông dùng mọi pháp thức vẫn khó ngăn được
tạp niệm, nên cổ nhân mới phát minh ra lối niệm nầy. Đây là cách dùng hình
sắc thay đổi để buộc tâm tưởng cho chuyên nhứt, và hình sắc nầy lại lấy
tướng hoa sen nơi ao thất bảo ở cõi Cực Lạc “Một câu Di Đà, một đóa bảo
liên,” bởi hoa sen Tịnh Độ hiện thành không rời hoa sen công đức của tâm
niệm Phật. Và khi mạng chung, thần thức của hành giả sẽ nương theo hoa sen
báu ấy mà sanh về Cực Lạc. Chư liên hữu nếu thấy có duyên với phương thức
trên đây, nên áp dụng để mau đi vào niệm Phật diệu liên hoa tam muội—Lotus
Blossom Recitation. As he recites, the practitioner contemplates the four
colours of the lotus blossom (blue, yelow, rd, and white), one colour
after another without interruption. With his first utterance of the
Buddha’s name, he visualizes a huge, blue lotus blossom before his eyes,
emitting a blue light. With the second utterance, he visualizes a yellow
lotus blossom, emitting a yellow light. The third and fourth utterances
are accompanied, respectively, by visualization of red and white lotus
flowers, each colour emitting its own light. He then repeats the
visualization in the same sequence. As the flowers appear, he imagines a
vague, lingering touch of pure, soft lotus fragrance. Ancient masters
devised this method because many practitioners in the T’ien-T’ai School,
despite using all available techniques, found it difficult to stem their
errant thoughts. This method uses various forms and colours to focus mind
and thought. These forms and colours take the marks of lotus blossoms in
the Seven-Jewel Pond of the Pure Land (one utterance of the Buddha’s name,
one jewelled lotus blossom), because the lotus blossom appearing in the
Pure Land are inseparable from the lotus blossoms created by virtues of
reciting mind. At the time of death, the mind-consciousness of the
practitioner relies on these jewelled lotus blossoms to achieve rebirth in
the Western Pure Land. Should the Pure Land cultivator discover that he
has an affinity with this technique, he should apply it and quickly enter
the Wonderful Lotus Blossom Buddha Recitation Samadhi.
9) Quang
Trung Trì Danh: Vì có hành giả khi nhắm mắt niệm Phật, thường bất chợt
thấy những hình tướng ô uế, hoặc màu sắc đen tối xao động nổi lên, nên cổ
đức mới truyền dạy cho cách thức nầy. Đây là phương pháp vừa niệm Phật,
vừa tưởng mình đang ngồi giữa vùng ánh sáng trong suốt to rộng. Khi tâm đã
an định trong vùng quang minh ấy, hành giả cảm thấy thần trí sáng suốt mát
mẽ, không những tạp tưởng trừ dứt, mà các tướng uế sắc cũng tiêu tan. Rồi
chánh niệm do đó được bền lâu, và tam muội cũng do đó lần lần thành tựu.
Đây tuy là phương tiện đặc biệt chuyên trừ tướng uế ác nhưng dù không có
nghiệp bệnh ấy, nếu muốn tinh thần thơ thới để đi sâu vào niệm Phật tam
muội, hành giả cũng nên áp dụng cách thức nầy—Recitation Amidst Light.
This method was specially designed for certain practitioners who, as soon
as they close their eyes to recite, suddenly see filthy forms and marks
(ugly grimacing faces, for example), or dark forms and colours swirling
around. With this technique, the practitioner, while reciting the Buddha’s
name, visualizes himself seated in the middle of an immense, brilliant
zone of light. Within that zone of light, when his mind has quieted down,
the practitioner feels bright and refreshed. At that time, not only have
deluded thoughts been annihilated, filthy, evil forms have also
disappeared. After that, right thought is reinforced and samadhi is, in
time, achieved. Although this is a special expedient to destroy evil
deluded marks, even the practitioner who is not in this predicament can
apply this method to clear his mind and enter deeply into the Buddha
Recitation Samadhi.
10) Quán Phật
Trì Danh: Pháp quán tưởng trong Quán Kinh rất trọng yếu, công đức cực kỳ
to rộng, nhưng chưa phải là phương tiện phổ thông cho chúng sanh thời mạt
pháp hành trì. Nhưng vì không muốn bỏ công đức đặc biệt của quán pháp, nên
cổ nhân đã thể dụng trong mười sáu phép quán, lựa cách thức dễ tu tập
nhứt, lấy trì danh làm chánh, quán Phật làm phụ, gọi là Quán Phật Trì
Danh. Hành giả mỗi ngày sau khi niệm Phật, lại để riêng một thời tịnh tâm
quán tưởng sắc tướng quang minh của Phật A Di Đà. Cách quán Phật nầy rút
lựa phép quán thứ mười ba trong Quán Kinh, tưởng Đức A Di Đà thân cao một
trượng sáu, sắc vàng ròng, đứng bên bờ ao thất bảo. Nếu chưa quán tưởng
được ao thất bảo, hành giả có thể tưởng Đức Phật đứng trong vùng ánh sáng
giữa hư không trước mắt mình, tay trái đưa ngang ngực bắt ấn kiết tường,
tay mặt buông sẻ xuống theo thể tiếp dẫn. Muốn quán Phật cho thành tựu,
trước tiên nên quán đại khái toàn thân, kế chỉ chuyên tâm quán tưởng lông
trắng giữa đôi mày. Tướng bạch hào nầy rỗng không trong suốt như bạch
ngọc, có tám cạnh, xoay về bên hữu cao thành năm vòng. Bạch hào là tướng
căn bản trong ba mươi hai tướng hảo, khi tướng ấy quán thành, do sự cơ
cảm, các tướng kia đều lần lượt hiện rõ. Tuy nhiên, muốn được phần chắc
chắn hành giả cũng nên duyệt xem trong kinh, để ghi nhớ rõ 32 tướng tốt
của Phật trước khi dụng công. Phương pháp trên đây sở dĩ để trì danh vào
phần chánh, vì nếu quán tưởng không thành vẫn còn phần trì danh để bảo đảm
cho sự vãng sanh. Nhưng thật ra, trì danh cũng giúp quán tưởng, quán tưởng
lại phụ lực cho trì danh; hai phần nầy hổ tương đưa hành giả đến chỗ song
song thành tựu. Pháp thức nầy tuy có phần khó hơn các lối khác, song nếu
thành tựu thì công đức to rộng vô biên, nên xin đưa ra sau cùng để làm
duyên khuyến tấn—Contemplation of the Buddha Recitation. The methods of
contemplation taught in the Meditation Sutra are very important and lead
to immense virtue, but they are not a popular expedient for sentient
beings in the Dharma-Ending Age. Nevertheless, since the ancient masters
did not wish to see the special benefits of the meditation method go
unused, they selected the easiest of the Sixteen Contemplations
(Contemplation of Amitabha Buddha) and combined it with Oral Recitation to
form the Contemplation of the Buddha-Oral Recitation technique. Recitation
is predominant, with contemplation of the Buddha occupying a subsidiary
position. Each day, after reciting the Buddha’s name, the practitioner
reserves a special period of time for concentrating his mind and
contemplating the Embellishments and Light of Amitabha Buddha. This method
derived from Contemplation Number Thirteen in the Meditation Sutra, in
which Amitabha Buddha is visualized as some sixteen feet tall and of
golden hue, standing at the edge of the Seven-Jewel Pond. If the
practitioner cannot yet visualize the Seven-Jewel Pond, he can picture
Amitabha Buddha standing before his eyes in a zone of light, in open
space, the left hand held at chest level and forming the auspicious
mudra, the right arm extending downward in the position of welcoming and
guiding. To be successful in this meditation, it is necessary, at the
outset, to visualize the body of Amitabha Buddha in general, then
concentrate on the urna (white mark between the eyebrows). This mark is
empty and transparent, like a white gem with eight facets. The urna is the
basic mark among the thirty-two auspicious marks of the Buddhas. When this
visualization is successful, thanks to the affinity thus created between
Amitabha Buddha and the practitioner, other marks will appear clearly, one
after another. However, to ensure success, the practitioner should read
through the Meditation Sutra, memorizing the thirty-two auspicious marks
of Amitabha Buddha before commencing his practice. With this method,
Buddha Recitation should be primary, because if the practitioner does not
succeed at visualization, he can still fall back on recitation to ensure
rebirth in the Pure Land. In fact, recitation aids visualization and
visualization complements recitation, so that these two aspects work in
parallel, leading the practitioner toward the desired goal. Although this
technique is somewhat more difficult than the others, if it can be
accomplished successfully, immeasurable benefits are achieved. It is
therefore described here at the very end, to foster diligent practice.
Thập Chướng: Mười chướng ngại
mà bất cứ Bồ Tát nào cũng đều phải vượt qua—Ten hindrances that any
Bodhisattva must overcome before achieving enlightenment:
1) Dị
sanh tánh chướng: Chướng ngại vì tưởng rằng những cái không thật là
thật—The common illusions of the unenlightened, taking the seeming for
real.
2) Tà
hạnh chướng: Common unenlightened conduct.
3) Ám độn
chướng: Ignorant and dull ideas.
4) Vi tế
hiện hành phiền não chướng: The illusions that things are real and have
independent existence.
5) Hạ
thừa Niết bàn chướng: The lower ideals in Hinayana of nirvana.
6) Thô
tướng hiện hành chướng: The ordinary idea of pure and impure.
7) Tế
tướng hiện hành chướng: The idea of reincarnation.
8) Vô
tướng gia hành chướng: The continuation of activity even in the formless
world.
9) Lợi
tha Bất dục hành chướng: No desire to act for the salvation of others.
10) Chư pháp
vị đắc tự tại chướng: Non-attainment of complete mastery.
Thập Diễn Thuyết Môn: Ten kinds
of exposition of the inumerable facets of the Teaching of the Buddhas—See
Mười Môn Diễn Thuyết Vô Lượng Của Chư Phật.
Thập Diệu: The ten wonders or
incomprehensibles:
1) Cảnh
diệu: The universe, sphere, or whole, embracing mind, Buddha, and all
things as a unity.
2) Trí
diệu: A Buddha’s all embracing knowledge arising such universe.
3) Hạnh
diệu: Buddha’s deeds, expressive of his wisdom.
4) Vị
diệu: His attainment of all the various Buddha stages (thập trụ và thập
địa).
5) Tam
pháp diệu (Giới, Định, Huệ): His three laws (Truth, Wisdom and Vision).
6) Cảm
ứng diệu: His response to appeal (his spiritual response or relation to
humanity. To him, all beings are his children).
7) Thần
thông diệu: His supernatural powers.
8) Thuyết
pháp diệu: His preaching.
9) Quyến
thuộc diệu: His supernatural retinue.
10) Lợi ích
diệu: The blessing derived through universal elevation into Buddhahood.
Thập Đại: See Kasina in
Sanskrit/Pali-Vietnamese Section.
Thập Đại Đệ Tử: Mười đệ tử lớn
của Phật—Ten great major disciples of the Buddha—See Ten chief disciples
of Sakyamuni:
1) Xá Lợi
Phất: Sariputra (skt)—Foremost in wisdom—Trí tuệ.
2) Mục
Kiền Liên: Maudgalyayana (skt)—Foremost in spiritual or supernatural
powers—Thần thông.
3) Ma Ha
Ca Diếp: Mahakasyapa (skt)—Foremost in samadhi and disciplines—Chief of
the order—Khổ hạnh—Đầu đà.
4) A Na
Luật: Aniruddha (skt)—Deva vision.
5) Tu Bồ
Đề: Subhuti (skt)—Foremost among Arhats in understanding and explaining
the void of immaterial—Giải không.
6) Phú
Lâu Na: Purna (skt)—Expounding the law—Thuyết pháp.
7) Ca
Chiên Diên: Katyayana (skt)—Fundamental principles—Luận nghĩa.
8) Ưu Ba
Ly: Upali (skt)—Foremost in observing the precepts and maintaining the
rules for the order—Trì luật.
9) La Hầu
La: Rahula (skt)—Foremost in inconspicuous practice or Esoteric—Mật hạnh.
10) A Nan Đà:
Ananda (skt)—Foremost in wide-erudition and was famed in his excellent
hearing and memory—Remembering—Đa văn. Ông là người đã trùng tụng lại kinh
điển trong lần kiết tập đầu tiên 4 tháng sau ngày Phật nhập diệt—He was
the one who recited the sutra-tripitaka at the first council four months
after the death of the Buddha.
Thập Đại Hạnh Của Bồ Tát Phổ Hiền:
Ten vows of Samantabhadra Bodhisattva:
1) Nhứt
giả lễ kỉnh chư Phật: First, worship and respect all Buddhas.
2) Nhị
giả xưng tán Như Lai: Second, praise the Thus Come Ones.
3) Tam
giả quảng tu cúng dường: Third, make abundant offerings.
4) Tứ giả
sám hối nghiệp chướng: Fourth, repent misdeeds and hindrances.
5) Ngũ
giả tùy hỷ công đức: Fifth, rejoyce at others’ merits and virtues.
6) Lục
giả thỉnh chuyển Pháp Luân: Sixth, request the Buddha to turn the Dharma
Wheel.
7) Thất
giả thỉnh Phật trụ thế: Seventh, request the Buddha to remain in the
world.
8) Bát
giả thường tùy học Phật: Eighth, follow the teachings of the Buddha at all
times.
9) Cửu
giả hằng thuận chúng sanh: Ninth, accommodate and benefit all sentient
beings.
10) Thập giả
phổ giai hồi hướng: Tenth, transfer merits and virtues universally.
Thập Đạo: The ten good ways for
deliverance form mortality—See Thập Thiện.
Thập Đạo Binh Ma: Theo Kinh
Nipata, có Mười Đạo Binh Ma—According to the Nipata Sutta, there are ten
armies of mara.
1) Nhục
dục: Kama (p)—Sensual desires.
2) Nản
chí: Arati (p)—Discouragement.
3) Đói và
khát: Khuppipasa (p)—Hunger and thirst.
4) Ái
dục: Tanha (p)—Attachment.
5) Dã
dượi hôn trầm: Thinamiddha (p)—Sloth and torpor.
6) Sợ
sệt: Bhaya (p)—Fear.
7) Hoài
nghi: Vicikiccha (p)—Doubt.
8) Dèm
pha và cố chấp: Makkha-thambha (p)—Detraction and stubborness.
9) Thâu
đoạt bất chánh, tiếng tốt, danh vọng, lời khen tặng và lợi lộc:
Labha-siloka-sakkara-micchayasa (p)—Gain, praise, honour, and ill-gotten
fame.
10) Tự phụ và
khinh miệt: Attukkamsanaparavambhana (p)—Self-praise and contempt for
others.
Thập Đắc: See Thập (2).
Thập Địa: Dasabhumi (skt).
(A) Thập Địa
Bồ Tát (Tam Thừa): The “ten stages” of the development of a bodhisattva
into a Buddha:
1) Càn
Huệ Địa: Dry or unfertilized stage of wisdom—Unfertilized by
Buddha-truth—Worldly wisdom.
2) Tánh
địa: The embryo-stage of the nature of Buddha-truth.
3) Nhập
nhơn địa (Nhẫn địa): Bát Nhân Địa—The stage of patient endurances.
4) Kiến
địa: The stage of freedom from wrong views.
5) Bạc
địa: The stage of freedom from the first six of nine delusions in
practice.
6) Ly dục
địa: The stage of freedom from the remaining worldly desires.
7) Dĩ
biện địa: The stage of complete discrimination in regard to wrong views
and thoughts—The stage of an arhat.
8) Bích
Chi Phật địa: Pratyekabuddhahood.
9) Bồ Tát
địa: Bodhisattvahood.
10) Phật địa:
Buddhahood.
(B) Thập
Địa Bồ Tát: The ten stages of Bodhisattvabhumi—Mười địa vị Đại Thừa Bồ Tát
trong Kinh Hoa Nghiêm. Thập Địa Bồ Tát hay mười giai đoạn của Bồ Tát
nguyên lai được tìm thấy trong Thập Địa Kinh của tông Hoa Nghiêm, chẳng
qua chỉ dùng như những danh xưng cho những phàm phu chưa có sự chứng
nghiệm trong Vô Học Đạo. Mười giai đoạn của Đại Thừa Giáo nầy được coi như
là được xiển dương để phân biệt địa vị của Bồ Tát với địa vị của Tiểu Thừa
Thanh Văn và Duyên Giác—According to the Flower Adornment Sutra
(Avatamsaka Sutra), there are ten stages or characteristics of a Buddha.
The ten stages of a Mahayana Bodhisattva development. The Ten Stages of
the Bodhisattva, originally found in the Dasa-bhumi Sutra of the
Avatamsaka School, are simply name sakes for ordinary people who have no
experience in the Path of No Learning (asaiksa-marga). These Mahayanistic
Stages are said to have been profounded in order to distinguish the
position of the Bodhisattva from those of the Hinayanistic sravaka and
pratyeka-buddha:
1) Hoan
Hỷ địa: Paramudita (skt)—Land of joy, or ground of happiness or delight.
·
Giai đoạn Bồ Tát cảm thấy niềm vui tràn ngập vì đang vượt
thắng những khó khăn trong quá khứ, phần chứng chơn lý và bây giờ đang
tiến vào trạng thái của Phật và sự giác ngộ. Trong giai đoạn nầy Bồ Tát
đạt được bản tánh Thánh Hiền lần đầu và đạt đến tịnh lạc khi đã đoạn trừ
mê hoặc ở kiến đạo, và đã hoàn toàn chứng đắc hai thứ tánh không: nhân và
pháp không. Đây là giai đoạn mà vị Bồ Tát cảm thấy hoan hỷ khi Ngài dẹp bỏ
được lý tưởng hẹp hòi của Niết Bàn cá nhân đi đến lý tưởng cao đẹp hơn để
giúp cho tất cả chúng sanh giải thoát mọi vô minh đau khổ—The first stage
of Joy (or utmost joy) at having overcome the former difficulties,
realizing a partial aspect of the truth, and now entering on the path to
Buddhahood and enlightenment. In this stage, the Bodhisattva attains the
holy nature for the first time and reaches the highest pleasure, having
been removed from all errors of Life-View (darsana-marga) and having fully
realized the twofold sunyata: pudgala and dharma. In this stage, a
Bodhisatva feels delight because he is able to pass from the narrow ideal
of personal Nirvana to the higher ideal of emancipation all sentient
beings from the suffering of ignorance.
·
Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, quyển Tám, Đức Phật bảo ngài A
Nan: “Ông A Nan! Người thiện nam đó, đối với đại Bồ Đề khôn khéo được
thông đạt, về giác phần thân với Như Lai, cùng tột cảnh giới Phật. Đó gọi
là Hoan Hỷ Địa.”—In the Surangama Sutra, book Eight, the Buddha told
Ananda: “Ananda, these good men have successfully penetrated through to
great Bodhi. Their enlightenment is entirely like the Thus Come One’s.
They have fathomed the state of Buddhahood. This is called the ground of
happiness.”
2) Ly Cấu
địa: Vimala (skt)—Land of purity, or ground of leaving filth—Land of
freedom from defilement.
·
Ly cấu theo nghĩa tiêu cực là ‘không bị ô uế,’ nhưng theo
nghĩa tích cực là ‘tâm thanh tịnh.’ Đây là giai đoạn mà vị Bồ Tát thanh
tịnh, hoàn thiện đạo đức của mình, và tự giải thoát khỏi mọi khuyết điểm
bằng cách thực hành thiền định. Giai đoạn ly cấu là giai đoạn mà vị Bồ Tát
lìa bỏ mọi phiền não (dục vọng và uế trược) của dục giới. Trong giai đoạn
nầy vị Bồ Tát đạt đến giới đức viên mãn và hoàn toàn vô nhiễm đối với giới
hạnh—Negatively speaking, Vimala means ‘freedom from defilement;’
positively speaking, Vimala means ‘purity of heart.’ This is the stage of
purity, perfect of discipline, and freedom from all possible defilement
through practices of dhyana and samadhi. The stage of purity in which a
bodhisattva overcomes all passions and impurity. In this stage, the
Bodhisattva reaches the perfection of discipline (sila) and becomes
utterly taintless with regard to morality.
·
Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, quyển Tám, Đức Phật bảo ngài A
Nan: “Tính khác nhập vào đồng. Đồng tính cũng diệt, đó gọi là ly cấu
địa.”—In the Surangama Sutra, book Eight, the Buddha told Anana: “The
differences enter into identity; the identity is destroyed. This is called
the ground of leaving filth.”
3) Phát
Quang địa: Prabhakari (skt)—Land of radiance, or ground of emitting light.
·
Giai đoạn Bồ Tát hiểu thấu triệt tính cách vô thường của tất
cả sự vật. Ngài thấy rõ tính chất tạm bợ của cuộc đời và phát triển đức
tính kiên nhẫn bằng cách chịu đựng những khó khăn và tích cực giúp đở sinh
linh. Trong giai đoạn nầy, sau khi đã đạt được nội quán thâm sâu, vị Bồ
Tát phát ra ánh sáng trí tuệ, đạt được nhẫn nhục viên mãn và thoát khỏi
những mê vọng của tu đạo—The stage of further enlightenment where
bodhisatva’s insight penetrates into the impermanence of all things, or
where he gains insight into impermanence (anitya) of existence and
develops the virtue of patience (kshanti) in bearing difficulties and in
actively helping all sentient beings. In this stage of the emission of
light, after having attained the deepest introspective insight, the
Bodhisattva radiates the light of wisdom, gets the pefection of
forbearance (ksanti) and becomes free from the errors of Life-Culture
(bhavana-marga).
·
Theo kinh Thủ Lăng Nghiêm, quyển Tám, Đức Phật bảo ngài A
Nan: “Trong sạch cùng tột, sáng phát sinh ra thì gọi là phát quang
địa.”—According to the Surangama Sutra, book Eight, the Buddha told
Ananda: “At the point of ultimate purity, brightness comes forth. This is
called the ground of emitting light.”
4) Diễm
Huệ địa: Archishmati (skt)—The blazing land, or the ground of blazing
wisdom.
·
Trong giai đoạn nầy, Bồ Tát thực hành sự an nhiên tự tại và
đốt bỏ những thứ ô nhiễm và vô minh. Đây là giai đoạn mà vị Bồ Tát đạt
được sự viên mãn của tinh tấn, nhân đó ngày càng tăng năng lực quán hạnh,
thiêu đốt những dục lạc trần thế cũng như những tư tưởng sai lạc còn nằm
trong đầu, trau dồi trí năng cũng như hoàn thiện ba mươi bảy phẩm trợ đạo
để đạt tới giác ngộ—Archismati is the stage in which the Bodhisattva
practices passionlessness and detachment and burns the twin coverings of
defilement and ignorance. This is the stage of glowing or flaming wisdom
where Bodhisattva attains the perfection of bravery or effort (virya),
thereby increasing the power of insight more and more. He is able to burn
away earthly desires as well as remaining false conceptions, develops
wisdom and perfects the thirty-seven requisites of enlightenment.
·
Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, quyển Tám, Đức Phật bảo ngài A
Nan: “Sáng cùng tột rồi được giác phần viên mãn thì gọi là diễm huệ
địa.”—In the Surangama Sutra, book Eight, the Buddha told Ananda: “When
the brightness becomes ultimate, enlightenment is full. This is called the
ground of blazing wisdom.”
5) Cực
Nan Thắng địa: Sudurjaya (skt)—The land extremely difficult to conquer, or
the ground of invincibility.
·
Giai đoạn Bồ tát vượt thắng mọi khó khăn và phiền não cuối
cùng. Trong giai đoạn nầy, Bồ Tát phát huy tinh thần bình đẳng đồng nhất
và đắm mình vào thiền định, đạt được sự viên mãn của thiền định nhằm đạt
được nhận thức trực giác về chân lý, hiểu được tứ đế, từ bỏ mọi hoài nghi
và do dự, biết phân biệt đúng sai, trong khi vẫn tiếp tục hoàn thiện ba
mươi bảy phẩm trợ đạo (trong giai đoạn nầy Bồ Tát thuận nhẫn tu đạo, các
loại vô minh, nghi kiến của tam giới, hết thảy đều thấy là không)—The
stage of mastery of utmost or final difficulties, or illusions of
darkness, or ignorance. In this stage, the Bodhisattva develops the
spirit of sameness and absorbs himself in meditation, gets the perfection
of meditative concentration, in order to achieve an intuitive grasp of the
truth, to understand the four noble truths, to clear away doubt and
uncertainty, to know what is proper and what is not. During this stage
Bodhisattva continues to work on the perfection of the thierty-seven
requisites of enlightenment.
·
Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, quyển Tám, Đức Phật bảo ngài A
Nan: “Tất cả đồng và khác không thể đến, đó gọi là cực nan thắng địa.”—In
the Surangama Sutra, book Eight, the Buddha told Ananda: “No identity or
difference can be attained. This is called the ground of invincibility.”
6) Hiện
Tiền địa: Abhimukhi (skt)—Land in view of wisdom, or the ground of
manifestation.
·
Giai đoạn Bồ Tát đạt được sự viên mãn của trí huệ, hiểu ra
các pháp đều không có dấu phân biệt, không có nguồn gốc, không có tồn tại
với không tồn tại. Bồ Tát hiểu được quá trình thập nhị nhơn duyên. Nhờ
hiểu được tính hư không và hoàn thiện trí năng. Trong giai đoạn nầy, Bồ
Tát trực diện với thực tại, và ý thức được sự đồng nhất của tất cả các
hiện tượng. Nhờ đó mà trí huệ tối thượng ló dạng và vị Bồ Tát có thể tịch
diệt mãi mãi, Bồ Tát giữ mãi bình đẳng tính đối với tịnh và bất tịnh,
nhưng vì cảm thông với chúng sanh, Bồ Tát vẫn trở lại thế gian—In this
stage, the bodhisattva attains the perfection of wisdom or insight
(prajna), recognizes that all dharmas are free from characteristics
origins, and without distinction between existence and nonexistence. In
this stage, the Bodhisattva stands face to face with Reality. He realizes
the sameness of all phenomena. Thus, the sign of supreme wisdom begins to
appear; owing to the perfection of the virtue of wisdom and comprehension
of nothingness, Bodhisattva can enter nirvana; however, also retains
equanimity as to purity and impurity, so he still vow to come back to the
world to save beings. This is the stage of the open way of wisdom above
definitions of impurity and purity.
·
Theo Kinh Thủ Lăng Nghiêm, quyển Tám, Đức Phật bảo ngài A
nan: “Vô vi chân như, tính tịnh sáng suốt lộ ra, đó gọi là hiện tiền
địa.”—According to the Surangama Sutra, book Eight, the Buddha told
Ananda: “With unconditioned true suchness, the nature is spotless, and
brightness is revealed. This is called the ground of manifestation.”
7) Viễn
Hành địa: Duramgama (skt)—The far-reaching land, or the ground of
traveling far.
·
Bồ tát đã bỏ xa tình trạng ngã chấp của nhị thừa, có đầy đủ
nhận thức về mình cũng như đạt được kiến thức về các phương tiện thiện xảo
khiến Bồ Tát có lòng đại bi và khả năng dẫn dắt tha nhân tiến về nẻo bồ
đề. Sau khi đã vượt qua giai đoạn nầy, Bồ Tát vượt lên trên hàng Nhị Thừa,
và sẽ không bao giờ rơi trở lại vào ác đạo. Trong giai đoạn nầy, Bồ Tát đã
lãnh hội được kiến thức có thể giúp Ngài giải thoát, đã chứng đắc Niết Bàn
nhưng vẫn chưa tiến vào, vì còn bận rộn dấn thân vào việc giúp cho những
chúng sanh đều được giải thoát—The stage of proceeding afar, or far-going,
which is the position farthest removed the selfish state of the two
Vehicles. He is getting above ideas of self, gaining knowledge and
skillful means which enable him to exercise great mercy to all beings by
helping them proceed the way to enlightenment. After passing through this
stage, the Bodhisattva rises above the states of the Two Vehicles, and
it’s impossible to fall back to lower levels. In this stage, the
Bodhisattva acquires the knowledge that enable him to adopt skillful means
for his work of salvation. He has won Nirvana, but without entering it,
for he is busily engaged for the emancipation of other sentient beings.
·
Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, quyển Tám, Đức Phật bảo ngài A
Nan: “Cùng tột đến chân như gọi là viễn hành địa.”—In the Surangama Sutra,
book Eight, the Budha told Ananda: “Coming to the farthest limits of true
suchness is called the ground of traveling far.”
8) Bất
Động địa: Acala (skt)—The immovable land.
·
Bất Động Địa hay giai đoạn không chuyển động. Khi vị Bồ Tát
đạt đến đây, Ngài trải qua ‘vô sanh pháp nhẫn’
(anutpattika-dharma-ksanti), tức là chấp nhận sự bất sanh của tất cả các
hiện tượng. Nơi đây Ngài tri nhận sự tiến hóa và thoái hóa của vũ trụ.
Trong giai doạn nầy, vị ấy đoạn trừ phân biệt, hiểu thấu suốt bản chất của
hiện hữu, hiểu tại sao hiện hữu giống như huyễn ảo, vân vân, hiểu phân
biệt xuất phát từ sự mong mỏi vốn có của chúng ta để được thấy từ sự hiện
hữu phân chia chủ khách như thế nào, hiểu tâm và những gì thuộc về tâm bị
khuấy động lên như thế nào; thế rồi vị ấy sẽ thực hiện hiện tất cả những
gì gắn liền với đời sống của một Phật tử tốt, để từ đó giúp đưa đến con
đường chân lý những ai chưa đến được. Đây là Niết Bàn vốn không phải là sự
đoạn diệt của một vị Bồ Tát—The immovable land (the stage of
immovability), or the ground of immovability. When the Bodhisattva reaches
here, he experiences the anutpattika-dharma-ksanti or the acquiescence in
the unoriginatedness of all phenomena. He knows in detail the evolution
and involution of the universe. In this stage, he gets rid of
discrimination and has a thorough understanding of the nature of
existence, realizing why it is like maya, etc., how discrimination starts
from our inmate longing to see existence divided into subject and object,
and how the mind and what belongs to it are stirred up; he would then
practice all that pertains to the life of a good Buddhist, leading to the
path of truth all those who have not yet come to it. This is the
Bodhisattvas’ nirvana which is not extinction.
·
Trong giai đoạn nầy vị Bồ Tát thành tựu nguyện viên mãn và
trụ trong vô tướng, mà du hành tự tại tùy cơ. Từ đây không có gì làm rối
được sự thanh tịnh của Bồ tát. Trong giai đoạn nầy, Bồ Tát trụ vững vàng
trong Trung Đạo, và đạt được khả năng truyền thụ những giá trị của mình
cho người khác và từ chối tích trữ thêm nghiệp—In this stage, the
Bodhisattva completes the perfection of vow (pranidhana) and abiding in
the view of “No Characteristic” (alaksana), wanders freely according to
any opportunity. In this stage, the Bodhisattva dwells firmly in the truth
of the Middle Way; he reaches the stage of attainment of calm
unperturbedness where he no longer be disturbed by anything. He gains the
ability to transfer his merit to other beings and renounce the
accumulation of further karmic treasures.
·
Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, quyển Tám, Đức Phật bảo ngài A
Nan: “Một tâm chân như gọi là bất động địa.”—In the Surangama Sutra, book
Eight, the Buddha told Ananda: “The single mind of true suchness is called
the ground of immovability.”
9) Thiện
Huệ địa: Sadhumati (skt)—The land of good thoughts, or the ground of good
wisdom.
·
Trong giai đoạn nầy, Bồ Tát chứng ngộ tri thức bao quát mà
trí huệ thông thường của nhân loại khó có thể hiểu được. Bồ Tát có thể
biết được những dục vọng và tư tưởng của người khác, và có thể giáo dục họ
tùy theo khả năng của mỗi người. Lúc nầy trí năng của Bồ Tát đạt tới toàn
thiện, Bồ Tát nắm được mười sức mạnh (dashabala), sáu thần thông
(Abhijna), bốn xác định (four certainties), tám giải thoát (eight
liberations) và các Dharani. Lúc nầy Bồ Tát thông biết về các pháp và
giảng dạy học thuyết không ngăn ngại, Bồ Tát cũng biết khi nào, tại đâu và
làm thế nào cứu vớt chúng sanh. Trong giai đoạn nầy, Bồ Tát giảng pháp
khắp nơi, đồng thời phán xét những người đáng cứu độ và những người không
cứu độ được—In this stage, the Bodhisattva acquires comprehensive
knowledge, unfathomable by ordinary human intelligence. He knows the
desires and thoughts og men and is able to teach them according to their
capacities. This is the stage of wisdom of the bodhisattva is complete
(all-penetrating wisdom). In this stage he possesses the finest
discriminatory wisdom, six supernatural powers, four certainties, eight
liberations, all dharanis. He knows the nature of all dharmas and expound
them without problems (without restriction). He also knows when, where and
how to save other sentient beings. In this stage, the Bodhisattva preaches
everywhere discriminating between those who are to be saved and those who
are not.
·
Theo kinh Thủ Lăng Nghiêm, quyển Tám, Đức Phật bảo ngài A
Nan: “Phát khởi ra dụng của chân như mà tùy duyên ứng hóa thì gọi là thiện
huệ địa. Ông A Nan! Đây các vị Bồ tát, từ địa vị nầy trở đi, công tu tập
xong, công đức viên mãn, nên cũng gọi địa nầy là tu tập địa.”—According to
the Surangama Sutra, book Eight, the Buddha told Ananda: “Bringing forth
the function of true suchness is called the ground of good wisdom. Ananda!
All Bodhisattvas at this point and beyond have reached the effortless way
in their cultivation. Their merit and virtue are perfected, and so all
the previous positions are also called the level of cultivation.”
10) Pháp Vân
địa: Dharmamegha (skt)—Land of dharma clouds, or the ground of the Dharma
cloud.
·
Bồ Tát đã thực hiện mọi hiểu biết và phẩm chất vô hạn. Trong
giai đoạn nầy, Bồ Tát thực hành hạnh nguyện cứu độ đồng đều hết thảy chúng
sanh, giống như mưa rơi trên vạn hữu không phân biệt. Pháp thân Bồ tát
đầy đủ. Phật quả vị của Bồ tát được chư Phật thọ ký. Trong giai đoạn nầy,
Bồ Tát chứng ngộ được sự minh tưởng một cách viên mãn, biết được sự huyền
bí của sự sinh tồn, và được tôn sùng là một bậc hoàn mỹ. Kỳ thật, đây là
địa vị của Đức Phật biểu hiện nơi một Bồ Tát (đến đây Bồ Tát đã thành
Phật). Trong giai đoạn nầy vị Bồ Tát có thể giảng pháp cho tất cả thế giới
một cách bình đẳng như những đám mây tuôn xuống những cơn mưa lớn trong
mùa đại hạn vậy—The stage of attaining to the fertilizing powers of the
Law-cloud (the Cloud of Teaching). Bodhisattva has realized all
understanding and immeasurable virtue. The dharmakaya of the bodhisattva
is fully developed. In this stage, the Bodhisattva benefits all sentient
beings with the Law just as a cloud sends down rain impartially on all
things. His Buddhahood is confirmed by all Buddhas. In this he acquires
perfection of contemplation, knows the mystery of existence, and is
consecrated as perfect. In fact, this is the stage of the Buddha who is
represented by such a Bodhisattva (he attains Buddhahood). In this stage,
the Bodhisattva is able to preach the Dharma to all the world equally,
just as the rainclouds pour down heavy rains during drought.
·
Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, quyển Tám, Đức Phật bảo ngài A
Nan: “Tiếng nói của đức từ bao dung, che chở như mây nhiệm mầu bao trùm bể
Niết Bàn nên gọi là pháp vân địa.”—The with a wonderful cloud of
compassionate protection one covers the sea of Nirvana. This is called the
ground of the Dharma cloud.”
(C) Thập
Địa Thanh Văn: Mười địa vị của Thanh Văn Thừa—The ten stages for a
hearer—Ten Sravaka stages:
1) Thọ
Tam Quy địa: Trong giai đoạn nầy, hành giả bắt đầu bằng cách thọ tam quy
ngũ giới—The stage of initiation as a disciple by taking (receiving) the
three refuges in the Buddha, Dharma and Sangha and observing the basic
five commandments.
2) Tín
địa: Giai đoạn tin tưởng hay cội rễ tin tưởng—The stage of belief or
faith-root.
3) Tín
pháp địa: Giai đoạn tín thọ Tứ Thánh Đế—The stage of belief in the four
noble truths.
4) Nội
phàm phu địa: Giai đoạn tu tập ngũ đình tâm quán—The stage of an ordinary
disciple who observe the five basic contemplations.
5) Học
tín giải địa: Giai đoạn Văn Tư Tu—The stage of those who pursue the three
studies (Listening, Reflecting, Cultivating).
6) Nhập
Nhơn địa (Nhẫn địa): Giai đoạn thấy được chân lý—The stage of seeing the
true way.
7) Tu Đà
Hườn (Dự Lưu) địa: Giai đoạn Dự lưu hay Nhập lưu và chắc chắn được đạo quả
Niết bàn—Srota-apanna—The stage of a definite stream-winner and assure
Nirvana.
8) Tư Đà
Hàm (Nhất Lai) địa: Sakrdagamin—Giai đoạn Nhứt Lai (chỉ còn tái sanh một
lần nữa mà thôi)—The stage of only one more rebirth.
9) A Na
Hàm (Bất Lai) địa: Giai đoạn Bất Lai (không còn tái sanh nữa)—The stage of
no-return (no rebirth).
10) A La Hán
địa: A La Hán quả—Arhatship—The stage of an arhat.
(D) Thập
Địa (Duyên Giác): Mười địa vị Duyên Giác Thừa—The ten stages of the
pratyekabuddha:
1) Khổ
Hạnh cụ túc địa: Giai đoạn tu hành khổ hạnh—The stage of perfect
asceticism.
2) Tự
giác thậm thâm thập nhị nhơn duyên địa: Giai đoạn tu tập và thông hiểu
mười hai nhơn duyên—The stage of mastery of the twelve links of causation.
3) Giác
Liễu Tứ Thánh đế địa: Giai đoạn tu tập Tứ Thánh đế—The stage of the four
noble truths.
4) Thậm
thâm Lợi trí địa: Giai đoạn trí huệ phát triển thâm hậu—The stage of
deeper knowledge.
5) Bát
Thánh Đạo địa: Giai đoạn tu tâp Bát Thánh đạo—The stage of the eightfold
noble path.
6) Giác
Liễu Pháp Giới (Tam Pháp Giới) địa: Giai đoạn liễu pháp trong tam giới—The
stage of the three realms.
7) Chứng
tịch Diệt địa: Giai đoạn Niết bàn—The stage of the nirvana.
8) Lục
Thông địa: Giai đoạn đạt được lục thông—The stage of the six supernatural
powers.
9) Triệt
Hòa Mật địa: Giai đoạn đi đến trực giác—The stage of arrival at the
intuitive state.
10) Tập Khí
Tiệm Bạc địa: Giai đoạn chế ngự những ảnh hưởng còn lại của thói quen
trong quá khứ—The stage of mastery of the remaining influences of former
habits.
Thập Định: See Thập Tam Muội.
Thập Độ Ba La Mật: The ten
paramitas or ten virtues of perfection—Theo các nhà triết gia Du Già thì
bốn thứ Ba La Mật sau cùng đều được xem là sự nhấn mạnh của Trí Tuệ Ba La
Mật—According to the Yogacara philosophers all the last four paramitas are
regarded as the amplification of the sixth paramita:
1) Thí Ba
La Mật: Bố thí—Dana-paramita (skt)—Charity (Almsgiving).
2) Giới
Ba La Mật: Trì giới—Morality—Holding precepts (Discipline)—Moral conduct.
3) Nhẫn
Ba La Mật: Nhẫn nhục—Ksanti (skt)—Patience (Forebearance).
4) Tinh
Tấn Ba La Mật: Tinh Tấn—Virya- paramita (skt)—Energy—Zealous
progress—Vigor (Zeal).
5) Thiền
Định Ba La Mật: Dhyana samadhi—paramita (skt)—Meditation
(Concentration)—Contemplation--Abstraction.
6) Trí
huệ Ba La Mật: Prajna Wisdom.
*** From (1) to (6),
please see Lục Độ Ba La
Mật.
7) Phương
tiện Ba La Mật: Upaya (skt)—Expedients—Adaptability (Skill-in-means)—Use
of expedient or proper means.
8) Nguyện
Ba La Mật: Pranidhana (skt)—Vows for bodhi and helpfulness.
9) Lực Ba
La Mật: Bala-paramita (skt)—Force of purpose—Strength (Power).
10) Trí tuệ
Ba La Mật: Prajna paramita (skt)—Knowledge—Real wisdom.
** For more
information, please see Lục Độ
Ba La Mật.
Thập Giải Thoát Môn: Ten doors
of liberation—See Mười Cửa Giải Thoát Của Chư Đại Bồ Tát.
Thập Giới:
(I) Thập
Giới: Mười Cảnh Giới hay mười bậc chúng sanh—The ten realms, or states of
existence:
1) Địa
ngục: The realm of Hell.
2) Ngạ
quỷ: The realm of Hungry ghosts.
3) Súc
sanh: The realm of Animals.
4)
A-tu-la: The realm of Asuras.
5) Nhơn:
The realm of Human beings.
6) Thiên:
The realm of Gods (Devas).
7) Thanh
văn: The realm of Hearers (Sravakas).
8) Duyên
Giác: The realm of those who practice the twelve links (Pratyeka-buddha).
9) Bồ
Tát: The realm of Bodhisattvas.
10) Phật: The
realm of Buddhas.
(II) Thập Giới: Mười giới của Sa Di hay Sa Di
Ni—Ten basic prohibitions binding on
novice monks and nuns:
(A) Mười giới
Sa Di—The ten commandments (precepts) observed by a novice (laity):
1) Không
sát sanh: Chẳng giết mạng sống—Not to kill living beings (abstinance from
taking life).
2) Không
trộm cắp: Chẳng lấy của không cho—Not to steal, or not to take what is not
been given (abstinance from taking what is not given).
3) Không
dâm dục: Abstinance from unchasity.
a) Không
tà dâm (tại gia): Not to commit adultery.
b) Không
có hành vi dâm dục (xuất gia): Not to commit misconduct in sexual matters
(monks and nuns).
4) Không
nói dối: Chẳng nói láo—Not to lie—Abstinance from lying.
5) Không
uống rượu: Not to drink liquor, beer or wine—Abstinance from taking
fermented liquor.
6) Không
ăn trái thời: Not to eat food out of regulated hours—Abstinance from
taking food in unprescribed time.
7) Không
dùng những chất kích thích như hành tỏi hoặc dầu thơm: Not to use garlands
or perfumes.
8)
a) Không
nằm giường cao nệm rộng: Not to sleep on high or broad beds.
b) Không
mang đồ trang sức, cũng như không thoa nước hoa: Not to wear adornments
and perfumes.
9) Không
ca hát, đờn địch, nhảy múa: Not to take part in singing, dancing or
playing musical instrument.
10) Không
tích trử vàng bạc ngọc ngà: Not to possess or store gold, silver or
ivory.
(B)
Sáu Giới Tập Sự theo Phật Giáo buổi ban sơ—Six rules for a
probationer of early Buddhism: See 1 to 6 in (A).
(C)
The six ways of rebirth (gati) and the four holy ways of rebirth
(hells, hungry ghosts, animals, asuras, men, devas, Sravakas or hearers,
Pratyeka-Buddhas, Bodhisattvas, and Buddhas)—See Lục Đạo Tứ Thánh.
Thập Giới Chúng Sanh Năng Thành Phật:
The teaching of Lotus Sutra of universalism, that all become Buddha.
Thập Giới Hạnh: Ten virtues—Ten
commandments—Ten Precepts—See Thập Giới.
Thập Giới Phạm Võng Kinh: Kinh
Phạm Võng định nghĩa thập giới như sau—The Sutra of Brahma Net has another
definition for ten commandments as follow:
1) Từ 1
đến 5—From 1 to 5: See Ngũ Giới.
11) Không nói
tội của chư Tăng Ni trong giáo đoàn: Not to speak the sins of those in
orders.
12) Không
khen mình chê người: Not to vaunt (praise) self and depreciate others.
13) Không xan
tham: Not to be avaricious.
14) Không sân
giận: Not to be angry.
15) Không hủy
báng Tam Bảo: Not to slander the Triratna.
Thập Hải: Ten oceans—See Mười
Thứ Hải Của Chư Đại Bồ Tát.
Thập Hành: See Thập Hạnh.
Thập Hành Ấm Ma: Theo Kinh Thủ
Lăng Nghiêm, Đức Phật đã nhắc nhở ông A Nan về mười hành ấm ma—According
to the Surangama Sutra, the Buddha remined Ananda about the ten states of
formation skandha.
1) Hai
thứ vô nhân: Two theories on the absence of cause—See Nhị Chủng Vô Nhân
Luận.
2) Bốn
thứ biến thường—Four theories regarding pervasive permanence—See Tứ Chủng
Biến Thường.
3) Bốn
thứ điên đảo: Four upside-down theories—See Tứ Chủng Điên Đảo.
4) Bốn
thứ hữu biên: Four theories regarding finiteness—See Tứ Chủng Hữu Biên.
5) Bốn
thứ kiểu loạn: Four kinds of sophistry—Lại các thiện nam, trong tam ma
địa, chính tâm yên lặng kiên cố. Ma chẳng tìm được chỗ tiện, cùng tột căn
bản của các loài sanh. Xem cái trạng thái u thanh, thường nhiễu động bản
nguyên. Trong tri kiến, khởi so đo chấp trước. Người đó bị đọa vào bốn thứ
điên đảo, bất tử kiểu loạn, biến kế hư luận—Further, in his practice of
samadhi, the good person’s mind is firm, unmoving, and proper and can no
longer be disturbed by demons. He can thoroughly investigate the origin of
all categories of beings and contemplate the source of the subtle,
fleeting, and constant fluctuation. But if he begins to speculate on what
he knows and sees, he could fall into error with four distorted, false
theories, which are total speculation based on the sophistry of
immortality.
a) Một là
người đó xem cái bản nguyên biến hóa; thấy cái chỗ thay đổi gọi là “biến,”
thấy cái chỗ nối nhau gọi là “hằng,” thấy cái chỗ bị thấy gọi là “sinh;”
chẳng thấy chỗ bị thấy gọi là “diệt;” chỗ tương tục không đoạn gọi là
“tăng;” chỗ tương tục gián đoạn gọi là “giảm;” mỗi cái có chỗ sinh gọi là
“có;” mỗi cái có chỗ diệt gọi là “không.” Lấy lý xem xét dụng tâm thấy
riêng. Có người đến cầu pháp hỏi nghĩa, đáp: “Tôi nay cũng sinh, cũng
diệt, cũng có, cũng không, cũng tăng, cũng giảm.” Các thời đều nói lộn
xộn, khiến cho người nghe quên mất chương cú—First, this person
contemplates the source of transformations. Seeing the movement and flow,
he says there is change. Seeing the continuity, he says there is
constancy. Where he can perceive something, he says there is production.
Where he cannot perceive anything, he says there is destruction. He says
that the unbroken continuity of causes is increasing and that the pause
within the continuity are decreasing. He says that the arising of all
things is existence and that the perishing of all things is nonexistence.
The light of reason shows that his application of mind has led to
inconsistent views. If someone comes to seek the Dharma, asking about its
meaning, he replies, “I am both alive and dead, both existent and
nonexistent, both increasing and decreasing.” He always speaks in a
confusing way, causing that person to forget what he was going to say.
b) Hai là
người đó xem xét tâm kỹ càng, cái chỗ xoay vần không có. Nhân không mà có
chứng được. Có người đến hỏi, chỉ đáp một chữ, không ngoài chữ “không,”
không nói gì cả—Second, this person attentively contemplates his mind and
finds that everything is nonexistent. He has a realization based on
nonexistence. When anyone comes to ask him questions, he replies with only
one word. He only says “no,” Aside from saying “non,” he does not speak.
c) Ba là
người đó xem xét kỹ càng cái tâm của mình, cái gì cũng có chỗ, nhân “có”
mà chứng được. Có người đến hỏi chỉ đáp một chữ “phải.” Ngoài chữ “phải”
ra không nói gì cả—Third, this person attentively contemplates his mind
and finds that everything is existent. He has a realization based on
existence. When anyone comes to ask him questions, he replies with only
one word. He only says “yes.” Aside from saying “yes,” he does not speak.
d) Bốn là
người đó đều thấy hữu, vô, vì cái cảnh phân hai, tâm cũng kiểu loạn. Có
người đến hỏi lại đáp “cũng có” tức là “cũng không,” trong “cũng không”
chẳng phải “cũng có.” Vì so đo chấp trước kiểu loạn hư vô, nên đọa lạc
ngoại đạo và mê lầm tính Bồ Đề—Fourth, this person perceives both
existence and nonexistence. Experiencing this branching, his mind becomes
confused. When anyone comes to ask questions, he tells them, “Existence is
also nonexistence. But within nonexistence there is no existence.” It is
all sophistry and does not stand up under scrutiny. Because of these
speculations, which are empty sophistries, he will fall into externalism
and become confused about the Bodhi nature.
6) Mười
sáu thứ hữu tướng: The sixteen ways in which forms can exist after
death—Lại có thiện nam, trong tam ma địa, chính tâm yên lặng kiên cố. Ma
chẳng tìm được chỗ tiện, cùng tột căn bản của các loài sanh. Xem cái trạng
thái u thanh, thường nhiễu động bản nguyên. Chỗ lưu vô tận, khởi so đo
chấp trước. Người đó bị đọa vào điên đảo hữu tướng sau khi chết. Hoặc tự
kiên cố thân, nói sắc là ngã, hoặc thấy ngã viên mãn, trùm khắp quốc độ.
Nói ngã có sắc. Hoặc kia tiền cảnh duyên theo ngã ứng dụng. Nói sắc thuộc
ngã. Hoặc ngã nương ở trong cái hành tướng tương tục, nói ngã ở sắc. Đều
so đo chấp trước rằng sau khi chết có tướng. Như vậy xoay vần có mưới sáu
tướng. Từ ấy hoặc chấp rằng rốt ráo phiền não, rốt ráo Bồ Đề, hai tính
cách đều đi đôi, chẳng có xúc ngại nhau. Vì so đo chấp trước sau khi chết
rồi có tướng, đọa lạc ngoại đạo, mê lầm tính Bồ Đề—Further, in his
practice of samadhi, the good person’s mind is firm, unmoving and proper
and can no longer be disturbed be demons. He can thoroughly investigate
the origin of all categories of beings and contemplate the source of the
subtle, fleeting and constant fluctuation. But if he begins to speculate
the endless flow, he could fall into error with the confused ideas that
forms exist after death. He may strongly identify with his body and say
that form is himself; or he may see himself as perfectly encompassing all
worlds and say that he contains form; or he may perceive all external
conditions as contingent upon himself and say that form belongs to him; or
he may decide that he relies on the continuity of the formations skandha
and say that he is within form. In all these speculations, he says that
forms exist after death. Expanding the idea, he comes up with sixteen
cases of the existence of forms.
7) Tám
thứ vô tướng: Eight ideas about nonexistence of forms—Lại các thiện nam,
trong tam ma địa, chính tâm yên lặng kiên cố. Ma chẳng tìm được chỗ tiện.
Cùng tột căn bản của các loài sinh. Xem cái trạng thái u thanh, thường
nhiễu động bản nguyên. Trong chỗ diệt trừ sắc, thụ, tưởng, khởi so đo chấp
trước, sau khi chết đọa vào vô tướng điên đảo. Thấy sắc diệt, hình không
sở nhân. Xem tưởng diệt, tâm không chỗ buộc. Biết cái thụ diệt, không còn
nối liền. Tính ấm tiêu tan, dù có sinh lý, mà không thụ tưởng, đồng như
cây cỏ. Cái chất ấy hiện tiền, còn không thể được, huống là khi chết mà
lại còn các tướng? Nhân đó so đo, sau khi chết, tướng không có, như vậy
xoay vần, có tám vô tướng. Từ đó cho rằng: niết bàn, nhân quả, tất cả đều
không, chỉ có danh từ, hoàn toàn đoạn diệt. Vì so đo chấp trước sau khi
chết, đọa lạc ngoại đạo, mê lầm tính Bồ Đề—Further, in his practice of
samadhi, the good person’s mind is firm, unmoving and proper, and can no
longer be disturbed by demons. He can thoroughly investigate the origin
of all categories of being and contemplate the source of the subtle,
fleeting and constant fluctuation. But if he begins to speculate on the
skandhas of form, feeling, and thinking, which have already ended, he
could fall into error with the confused idea that forms do not exist after
death. Seeing that his form is gone, his physical shape seems to lack a
cause. As he contemplates the absence of thought, there is nothing to
which his mind can become attached. Knowing that his feelings are gone, he
has no further involvements. Those skandhas have vanished. Although there
is still some coming into being, there is no feeling or thought, and he
concludes that he is like grass or wood. Since those qualities do not
exist at present, how can there be any existence of fors after death?
Because of his examinations and comparisons, he decides that after death
there is no existence. Expanding the idea, he comes up with eight cases of
the nonexistence of forms. From that, he may speculate that Nirvana and
cause and effect are all empty, that they are mere names and ultimately do
not exist. Because of those speculations that forms do not exist after
death, he will fall into externalism and become confused about the Bodhi
nature.
8) Tám
phủ định: Eight kinds of negation—Lại các thiện nam, trong tam ma địa,
chính tâm yên lặng kiên cố. Ma chẳng tìm được chỗ tiện. Cùng tột căn bản
của các loài sinh. Xem cái trạng thái u thanh, thường nhiễu động bản
nguyên. Đối trong hành ấm còn, , và thụ tường diệt, chấp cả có và không,
tự thể phá nhau. Sau khi chết ngưới ấy đọa vào luận Cu-Phi, khởi điên đảo.
Trong sắc, thụ, tưởng, thấy có và chẳng phải có. Trong cái hành ấm thiên
lưu, xem không và chẳng không. Như vậy xoay vần cùng tột ngũ ấm, 18 giới.
Tám cái tướng cu-phi, hễ theo được một cái đều nói: “chết rồi có tướng
không tướng.” Lại chấp rằng các hành tính chất hay dời đổi, tâm phát ra
thông ngộ, có không đều không, hư thật lầm lỗi. Vì so đo chấp trước chết
rồi đều không, hậu lai mời mịt, không thể nói được, đọa lạc ngoại đạo, mê
lầm tính Bồ Đề—Further, in his practice of samadhi, the good person’s mind
is firm, unmoving and proper and can no longer be disturbed by demons. He
can thoroughly investigate the origin of all categories of beings and
contemplate the source of the subtle, fleeting and constant fluctuation.
In this state where the skandha of formation remains, but the skandhas of
feeling and thinking are gone, if he begins to speculate that there are
both existence and nonexistence, thus contradicting himself, he could fall
into error with confused theories that deny both existence and
nonexistence after death. Regarding form, feeling and thinking, he sees
that existence is not really existence. Within the flow of the formations
skandha, he sees that that nonexistence is not really nonexistence.
Considering back and forth in this way, he thoroughly investigates the
realms of these skandhas and derives an eightfold negation of forms. No
matter which skandha is mentioned, he says that after death, it neither
exists nor does not exist. Further, because he speculates that all
formations are changing in nature, an “insight” flashes through his mind,
leading him to deny both existence and nonexistence. He cannot determine
what is unreal and what is real. Because of these speculations that deny
both existence and nonexistence after death, the future is murky to him
and he cannot say anything about it. Therefore, he will fall into
externalism and become confused about the Bodhi nature.
9) Bảy
chỗ đoạn diệt: Seven theories on the cessation of existence—Lại các thiện
nam, trong tam ma địa, chính tâm yên lặng kiên cố. Ma chẳng tìm được chỗ
tiện. Cùng tột căn bản của các loài sinh. Xem cái trạng thái u thanh,
thường nhiễu động bản nguyên. Đối về sau không có, khởi so đo chấp trước.
Người đó bị đọa vào luận bảy thứ đoạn diệt. Hoặc chấp cái thân mất, hoặc
cái dục diệt tận, hoặc cái khổ mất, hoặc cực lạc mất, hoặc cực xả mất. Như
vậy xoay vần cùng tột bảy chỗ hiện tiền tiêu diệt, mất rồi không còn nữa.
Vì so đo chấp trước chết rồi đoạn diệt, nên đọa lạc ngoại đạo, mê lầm tính
Bồ Đề—Further, in his practice of samadhi, the good person’s mind is
firm, unmoving and proper and can no longer be distrubed by demons. He
can thoroughly investigate the origin of all categories of beings and
contemplate the source of the subtle, fleeting, and constant fluctuation.
But if he begins to speculate that there ie no existence after death, he
could fall into error with seven theories of the cessation of existence.
He may speculate that the body will cease to exist; or that when desire
has ended, there is cessation of existence; or that after suffering has
ended, there is cessation of existence; or that when bliss reaches an
ultimate point, there is cessation of existence; or that when renunciation
reaches an ultimate point, there is cessation of existence. Considering
back and forth in this way, he exhaustively investigates the limits of the
seven states and sees that they have already ceased to be and will not
exist again. Because of these speculations that existence ceases after
death, he will fall into externalism and become confused about the Bodhi
nature.
10) Năm Niết
Bàn: Five kinds of immediate Nirvana—See Ngũ Niết Bàn.
·
Thập Hạnh: Ten
necessary activities or practices of a Bodhisattva—See Thập Hạnh Bố Tát.
Thập Hạnh Bồ Tát: Trong Kinh
Thủ Lăng Nghiêm, quyển Tám, Đức Phật đã nhắc nhở ngài A Nan về mười hạnh
cần thiết của Bồ Tát—In the Surangama Sutra, the Buddha reminded Ananda
about the ten necessary activities, or practices of a Bodhisattva:
1) Hoan
hỷ hạnh: The conduct of happiness
·
Hạnh hoan hỷ tùy thuận mười phương—The practice of joyful
service, or giving joy.
·
Đức Phật nói với A Nan: “Ông A Nan! Người thiện nam đó thành
Phật tử rồi, đầy đủ diệu đức của vô lượng Như Lai. Tùy thuận mười phương
chúng sanh để ban bố đức mầu. Đó gọi là hoan hỷ hạnh—The Buddha told
Ananda: “Ananda! After these good men have become sons of the Buddha, they
are replete with the limitlessly many wonderful virtues of the Thus Come
Ones, and they comply and accord with beings throughout the ten
directions. This is called the conduct of happiness.”
2) Nhiêu
ích hạnh: The conduct of benefitting.
·
Hạnh làm lợi ích cho tha nhân, hay thường làm việc lợi ích
cho tất cả chúng sanh—The practice of beneficial service, or beneficial
practice.
·
Đức Phật bảo ngài A Nan: “Khôn khéo có thể lợi ích tất cả
chúng sanh gọi là nhiêu ích hạnh.”—The Buddha told Ananda: “Being well
able to accommodate all living beings is called the conduct of
benefitting.”
3) Vô sân
hận hạnh: The conduct of non-opposition.
·
Nết hạnh không giận hờn; tự giác ngộ cho mình, giác ngộ cho
người, chẳng trái nghịch—The practice of never resenting, or
non-opposition.
·
Đức Phật bảo ngài A Nan: “Tự giác, giác tha được khỏi chống
trái, gọi là vô sân hận hành.”—The Buddha told Ananda: “Enlightening
oneself and enlightening others without putting forth any resistence is
called the conduct of non-opposition.”
4) Vô tận
hạnh: The conduct of endlessness.
·
Làm việc lợi tha vô tận (tùy cơ loại của chúng sanh mà hiện
cái thân mình để cứu độ chúng sanh mãi mãi)—The practice of
indomitability, or without limit in helping others.
·
Đức Phật bảo ngài A Nan: “Xuất sinh chủng nầy, loại khác,
cho đến mãi mãi trong tương lai. Bình đẳng với ba đời, thông đạt mười
phương, gọi là vô tận hạnh.”—The Buddha told Ananda: “To undergo birth in
various forms continuously to the bounds of the future, equally throughout
the three periods of time and pervading the ten directions is called the
conduct of endlessness.”
5) Ly si
loạn hạnh: The conduct of freedom from deluded confusion.
·
Lìa khỏi tánh ngu si, rối loạn—The practice of nonconfusion.
·
Đức Phật bảo A Nan: “Tất cả hợp đồng các pháp môn, được
không sai lầm gọi là ly si loạn hạnh.”—The Buddha told Ananda: “When
everything is equally in accord, one never makes mistakes among the
various dharma doors. This is called the conduct of freedom from deluded
confusion.”
6) Thiện
hiện hạnh: The conduct of wholesome manifestation.
·
Nết hạnh khéo hiện, nhờ rời khỏi tánh ngu si mê loạn mà có
thể hiện ra các tướng ở trong đồng loại để cứu độ họ—The practice of good
manifestation, or appearing in any form at will to save sentient beings.
·
Đức Phật bảo ngài A Nan: “Trong chỗ ‘đồng’ đó, hiện ra các
‘dị.’ Mỗi mỗi tướng dị, đều thấy đồng. Đó gọi là thiện hiện hành.”—The
Buddha told Ananda: “Then within what is identical, myriad differences
appear; the characteristics of every difference are seen, one and all, in
identity. This is called the conduct of wholesome manifestation.”
7) Vô
trước hạnh: The conduct of non-attachment.
·
Nết hạnh không chấp trước, nghĩa là ở trong cõi trần mà
chẳng bị nhiễm trước—The practice of nonattachment, or unimpeded practice.
·
Đức Phật bảo ngài A Nan: “Như vậy cho đến mười phương hư
không đầy vi trần, trong mỗi vi trần hiện mười phương thế giới. Hiện vi
trần, hiện thế giới, mà chẳng lưu ngại nhau. Đây gọi là vô trước
hạnh.”—The Buddha told Ananda: “This continues until it includes all the
dust motes that fill up empty space throughout the ten directions. In each
and every mote of dust there appear the worlds of the ten directions. And
yet the appearance of worlds do not interfere with one another. This is
called the conduct of non-attachment.”
8) Tôn
trọng hạnh: The conduct of veneration.
·
Còn gọi là “Nan Đắc Hạnh.” Nết hạnh tôn trọng Bát Nhã—The
practice of exalting the paramitas amongst all beings, or the practice of
that which is difficult to attain.
·
Đức Phật bảo ngài A Nan: “Các thứ biến hiện đều là đệ nhất
ba la mật đa, đó gọi là tôn trọng hành.”—The Buddha told Ananda:
“Everything that appears before one is the foremost paramita. This is
called the conduct of veneration.”
9) Thiện
pháp hạnh: The conduct of wholesome Dharma.
·
Nết hạnh phép lành, đức viên dung để làm thành quy tắc của
chư Phật mười phương—The practice of good teaching, or perfecting the
Buddha-law by complete virtue.
·
Đức Phật bảo ngài A Nan: “Như vậy viên dung, có thể thành
tựu quy tắc của các Đức Phật mười phương, đó gọi là thiện pháp hành.”—The
Buddha told Ananda: “With such perfect fusion, one can model oneself after
all the Buddhas of the ten directions. This is called the conduct of
wholesome dharma.”
10) Chơn thật
hạnh: The conduct of true actuality.
·
Nết hạnh chơn thật của vạn hữu đều hiện ra trong giai đoạn
nầy—The practice of truth, or manifest in all things the pure, final and
true reality.
·
Đức Phật bảo ngài A Nan: “Mỗi mỗi đều thanh tịnh, không mê
lậu. Nhất chân vô vi, tính bản nhiên. Đó gọi là chân thật hạnh.”—The
Buddha told Ananda: “To then be pure and without outflows in each and
every way is the primary truth, which is unconditioned, the essence of the
nature. This is called the conduct of true actuality.”
Thập Hạnh Nguyện Phổ Hiền: Ten
vows of conduct of Samantabhadra Bodhisattva—See Phổ Hiền Hạnh Nguyện, and
Kinh Hoa Nghiêm Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện in Appendix A.
Thập Hạnh Phổ Hiền:
Samantabhadra’s Ten Practices—See Phổ Hiền Hạnh Nguyện.
Thập Hệ Phược: Ten bonds—See
Mười Điều Ràng Buộc.
Thập Hiệu: Mười danh hiệu của
Phật—The ten titles of a Buddha:
1) Như
Lai: Tathagata (skt)—Thus Come One—Như Lai là bậc đã hoàn toàn phản bổn
hoàn nguyên. Bậc ấy dù có xuất hiện nơi đời, nhưng đã hoàn toàn thoát khỏi
mọi hệ lụy và trói buộc của trần tục—One who is completely original in
nature. He appeared in this world, yet he was not really here since he was
completely free from all bondage and attachments.
2) Ứng
Cúng: A-La-hán—Arhat (skt)—Người xứng đáng nhận sự cúng dường của chúng
sanh và chư thiên—One Worthy of Offerings—One who can take offerings from
all sentient beings, including heavenly beings.
3) Chánh
Biến Tri: Samyak-Sambuddha (skt)—Người hiểu biết thông suốt vạn pháp—One
of Proper and Pervasive Knowledge—One who has deep and complete
understanding of all dharmas; all knowing.
4) Minh
Hạnh Túc: Vidya-carana-Sampanna (skt)—Người có đủ đầy trí đức—One Complete
in Clarity and Conduct—One who possesses all wisdom and virtue—The Buddha
was praised as not only perfect in knowledge, but also perfect in conduct
(or not only perfect in conduct, but also perfect in wisdom).
5) Thiện
Thệ: Sugata (skt)—Người luôn hướng thiện, không bao giờ thối chuyển—One
who is always on the path toward goodness; never regreesing toward evil.
6) Thế
Gian Giải: Lokavit (skt)—Đấng có hiểu biết toàn diện về cả lý thuyết lẫn
thực hành cho chúng sanh trong tam giới (dục, sắc, và vô sắc giới)—Well
Gone One who understands the World—One who has total understanding of
theory and practice for all beings in the three worlds (desire, form, and
formless).
7) Vô
Thượng Sĩ Điều Ngự Trượng Phu: Anuttara Purusa-Damya-Sarathi (skt)—Người
đứng trên cả mọi loài trong ba cõi—Unsurpassed Knight—Taming and Subduing
Hero—One who stands the highest among all beings in the Three Worlds.
8) Thiên
Nhơn Sư: Sasta-deva-Manusyanam (skt)—Thầy dạy khắp trời người, dẫn dạy
chúng sanh điều quấy lẽ phải. Bậc có thể dạy cho chúng sanh chánh kiến
chánh tri thức để từ đó họ có thể có được trí tuệ hóa giải vô minh mà đạt
thành giác ngộ—Teacher of Gods and Humans—One who is the master of all
humans and heavenly beings, teaching them what is right and what is wrong.
One who is able to give all sentient beings the proper view and knowledge
so they may gain wisdom to see through ignorance, to attain enlightenment.
9) Phật:
Buddha-lokanatha—Bhagavan (skt)—Vị đã đạt được giác ngộ tối
thượng—Buddha—One who has attained the Ultimate or Supreme
Enlightenment—The Awakened One.
10) Thế Tôn:
Lokanatha (skt)—Đấng được chúng sanh trong các cõi kính trọng—World
Honored One—One who has the most respect by all realms of existence.
Thập (Bất) Hối Giới: The ten
rules which produce (no) regrets:
1)
(Không) sát sanh: (Not) to kill.
2)
(Không) trộm cắp: (Not) to steal.
3)
(Không) gian dâm: (Not) to fornicate.
4)
(Không) nói dối: (Not) to lie.
5)
(Không) nói lỗi người: (Not) to tell of a fellow-Buddhist’s sins.
6)
(Không) uống, cũng không buôn bán rượu: (Not) to drink nor deal in wine.
7)
(Không) ca ngợi mình và làm mất uy tín người: (Not) to praise oneself and
discredit others.
8)
(Không) hèn hạ thô lỗ: (Not) to be mean nor rude.
9)
(Không) sân hận: (Not) be angry.
10) (Không)
hủy báng Tam Bảo: (Not) to defame the Triratna.
Thập Hồi Hướng: Trong Kinh Thủ
Lăng Nghiêm, quyển Tám, Đức Phật đã nhắc nhở ngài A Nan về thập hồi hướng
như sau—In the Surangama Sutra, book Eight, the Buddha reminded Ananda
about the ten transferences as follows:
1) Cứu hộ
nhất thiết chúng sanh, ly chúng sanh hồi hướng: Transference apart from
appearances—Người thiện nam đó, đã mãn túc thần thông, thành Phật sự rồi,
thuần khiến tinh chân, xa lìa các lưu hoạn. Nên độ chúng sanh, diệt trừ
tướng độ, xoay tâm vô vi đến đường Niết Bàn. Đó gọi là cứu hộ nhất thiết
chúng sanh, ly chúng sanh tướng hồi hướng—When these good persons replete
with spiritual penetrations, have done the Buddhas’ work, are totally
pure and absolutely true, and remain distant from obstacles and
calamities, then they take living beings across while casting aside the
appearance of taking them across. They transform the unconditioned mind
and go toward the path of nirvana. This is called the transference of
saving and protecting living beings, while apart from the appearance of
living beings.
2) Bất
hoại hồi hướng: Transference of indestructibility—Bỏ cái đáng bỏ, xa lìa
cái đáng xa lìa, gọi là bất hoại hồi hướng—To destroy what should be
destroyed and to remain what should be behind is called the transference
of indestructibility.
3) Đẳng
nhất thiết Phật hồi hướng: Transference of sameness with all Buddhas—Bản
giác trạm nhiên, giác trí đã đồng ngang với chư Phật—Fundamental
enlightenment is profound indeed, an enlightenment equal to the Buddhas’s
enlightenment.
4) Trí
nhất thiết xứ hồi hướng: Transference of reaching all places—Tinh chân
phát minh, địa vị đồng với địa vị của chư Phật—When absolute truth is
discovered, one’s level is the same as the level of all Buddhas.
5) Vô tận
công đức tạng hồi hướng: Transference of the treasury of inexhaustible
merit and virtue—Thế giới và Như Lai xen vào nhau được không chướng
ngại—Worlds and Thus Come Ones include one another without any
obstruction.
6) Tùy
thuận bình đẳng thiện căn hồi hướng: Transference of the identity of all
good roots—Đối với đồng Phật địa, trong địa vị đều sinh nhân thanh tịnh.
Nương theo nhân ấy phát huy để lấy đạo Niết Bàn—Since they are identical
with the Buddha-ground, they create causes which are pure at each and
every level. Brilliance emanates from them as they rely on these causes,
and they go straight down the path to Nirvana.
7) Tùy
thuận đẳng quán nhất thiết chúng sanh hồi hướng: Transference of
contemplating all living beings equally—Chân căn đã thành, mười phương
chúng sanh đều là bản tánh của ta. Tính viên mãn thành tựu, chẳng sót mất
chúng sanh—When the true roots are set down, then all living beings in the
ten directions are my own nature. Not a single being is lost, as this
nature is successfully perfected.
8) Chân
như tướng hồi hướng: Transference of the appearance of True Suchness—Tức
tất cả pháp xa lìa hết thảy tướng. Tức và ly, hai cái đều không mắc—All
dharmas are themselves apart from all appearances, and yet there is no
attachment either to their existence or to separation from them.
9) Vô
phược giải thoát hồi hướng: Transference of liberation—Được chân như mười
phương không ngăn ngại—That which is thus is truly obtained, and thee is
no obstruction throughout the ten directions.
10) Pháp giới
vô lượng hồi hướng: Transference of limitlessness of the Dhama Realm—Tính
đức đã thành tựu hoàn toàn, pháp giới không còn hạn lượng—When the virtue
of the nature is perfectly accomplished, the boundaries of the dharma
realm are destroyed.
** For more information,
please see Ten kinds of Dedications expounded by the Buddhas of past,
present and future (The Flower Adornment Sutra—Chapter 25—Kinh Hoa
Nghiêm—Phẩm 25—Thập Hồi Hướng).
Thập Huyền Diệu Lý: See Thập
Huyền Môn.
Thập Huyền Duyên Khởi: Theo
tông Hoa Nghiêm, có mười pháp môn huyền diệu nương nhau tạo thành sự biểu
lộ của thế giới lý tưởng và duyên khởi—According to The Avatamsaka School,
there are ten theories that independently cause the manifestation of the
ideal world:
(A) Lý tắc
“Một trong tất cả, tất cả trong một” hay “Tương nhập tương dung.” (một là
tất cả, tất cả là một)—The principle of “One-in-all and all-in-one.
1) Vì mọi
loài cũng như mọi vật đều được hiện khởi do nội thức, nên căn nguyên là
một: Because all beings as well as all things are manifested from
ideation, the source is one.
2) Vì mọi
loài cũng như mọi vật đều không có bản tính quyết định hay vận hành tự
tại, nên vô ngã là chân lý tối thượng: Because all beings as well as all
things have no determinate nature, all move freely, selflessness being the
ultimate truth.
3) Vì lý
duyên khởi chỉ cho sự tương y tương quan, nên tất cả đều cộng đồng liên
hệ: Because the causation theory means interdependence or interrelation,
all are co-related.
4) Vì tất
cả đều có chung pháp tánh hay Phật tánh, nên tất cả đều có khả năng chứng
đắc như nhau: Because the Dharma-nature (dharmata) or the Buddha-nature
(Buddha-svabhava) is possessed in common by all, they have similar
liability.
(B) Linh
Tinh—Miscellaneous.
5) Vì thế
giới hiện tượng được cho là mộng huyễn, nên thế giới nhất chân có thể bàng
bạc khắp mọi nơi không bị ước thúc: Because the phenomenal world is said
to be as a dream or illusion, the world of One-Truth can be molded in any
way without restraint.
6) Vì thế
giới hiện tượng được coi là bóng mờ hay ảo ảnh, nên thế giới nhất chân
bàng bạc khắp nơi: Because the phenomenal world is said to be as shadow or
image, the world of One-Truth can be molded in any way.
7) Vì
trong sự giác ngộ của Phật, những căn nhân của hiện khởi được coi như vô
hạn, những cảm quả là vạn trạng vô biên, nhưng chúng không chướng ngại
nhau mà lại còn cộng tác để hình thành một toàn thể nhịp nhàng: Since the
Enlightenment of the Buddha, the causes of production are known to be
boundless, the effects are manifold or limitless, but they do not hinder
each other; rather they cooperate to form a harmonious whole.
8) Vì sự
giác ngộ của Phật là tối thượng và tuyệt đối, nên sự chuyển hóa của thế
giới là theo ý chí của Ngài: Because the Buddha’s Enlightenment is
ultimate and absolute, the transformation of the world is at his will.
9) Vì tác
dụng thiền định thâm áo của Phật, sự chuyển hóa của thế giới là tùy theo ý
của Ngài: Because of the function of the Buddha’s profound meditation the
transformation of the world is at his will.
10) Vì năng
lực siêu nhiên khởi lên từ sự giải thoát, sự chuyển hóa thế giới là tự
tại: Because of the supernatural power originating from deliverance, the
transformation of the world is free.
Thập Huyền Môn: Để thuyết minh
khả tính của thế giới “Sự Sự Vô Ngại Pháp Giới,” tông Hoa Nghiêm đã đề ra
mười Huyền Môn—In order to elucidate the possibility of the realm of Fact
and fact world perfectly harmonized,” the Hua-Yen School set forth the
“Ten Profound Theories.”
1) Đồng
Thời Cụ Túc Tương Ưng Môn: Nói về sự cộng đồng liên hệ, trong đó vạn vật
cộng đồng hiện hữu và đồng thời hiện khởi. Tất cả đều cộng đồng hiện hữu,
không những chỉ quan hệ không gian mà cả trong quan hệ thời gian; không có
sự phân biệt giữa quá khứ, hiện tại và vị lai, mỗi thời bao hàm các thời
phần khác. Mặc dù chúng có vẻ sai biệt trong thời gian, nhưng tất cả đều
được hợp nhất thành một thực thể, theo quan điểm viên dung—The theory of
co-relation, in which all things have co-existence and simultaneous rise.
All are co-existent not only in relation to space, but also in relation to
time. There is no distinction of past, present and future, each of them
being inclusive of the other. Distinct as they are and separated as they
seem to be in time, all beings are united to make over entity from the
universal point of view.
2) Quảng
Hiệp Tự Tại Vô Ngại Môn: Nói về tự do toàn vẹn, trong đó mọi loài, thông
minh hay ngu độn, đều tương giao với nhau không chướng ngại. Năng lực của
tất cả nội hàm cũng như ngoại trương đều vô hạn như nhau. Một nghiệp, dù
nhỏ bao nhiêu cũng bao hàm tất cả mọi nghiệp. Một và tất cả đều tương giao
một cách tự do và bất tuyệt—The theory of perfect freedom in which all
beings “broad and narrow” commune with each other without any obstacle.
The power of all beings as to intension and extension is equally
limitless. One action, however small, includes all actions. One and all
are commutable freely and uninterruptedly.
3) Nhất
Đa Tương Dung Bất Đồng Môn: Nói về sự hỗ tương nhiếp nhập của những sự thể
bất đồng. Tất cả những hiện hữu bất đồng đều có những điểm tương đồng.
Nhiều ở trong một, một ở trong nhiều và tất cả ở trong nhất thể—The theory
of mutual penetration of dissimilar things. All dissimilar existences have
something in common. Many in one, one in many, and all in unity.
4) Chư
Pháp Tương Tức Tự Tại Môn: Nói về tự do, nghĩa là vượt ngoài những sai
biệt kỳ cùng, trong đó tất cả các pháp đều hỗ tương đồng nhất. Đây là sự
đồng nhất phổ biến của vạn hữu. Thực ra, hỗ tương đồng nhất là tự tiêu
hủy. Khi đồng nhất ta với kẻ khác, ta có thể hòa hợp với kẻ khác. Tự tiêu
hủy và tự đồng hóa với cái khác tạo thành một đồng nhất hóa tổng hợp. Đây
là lý thuyết hay thực hành đặc biệt của Đại Thừa, áp dụng cho bất cứ lý
thuyết hay thực hành nào. Hai lý thuyết đối nghịch hay những sự kiện khó
dung hợp thường được kết lại thành một. Thông thường do phương pháp này mà
người ta đi đến một giải pháp êm đẹp cho một vấn đề. Do kết quả của sự hỗ
tương nhiếp nhập và hỗ tương hòa hợp, chúng ta có khái niệm “Một trong tất
cả, tất cả trong một. Một ở đàng sau tất cả, tất cả ở đàng sau một. Lớn và
nhỏ, cao hay thấp, cũng vận chuyển nhịp nhàng với nhau. Ngay cả những đóng
góp khiêm nhường nhứt vào công cuộc hòa điệu, cũng không ai có thể tách
khỏi hay biệt lập một mình được—The theory of freedom, i.e., freedom from
ultimate disctinctions, in which all elements are mutually identified. It
is a universal identification of all beings. Mutual identification is, in
fact, self-negation. Identifying oneself with another, one can synthesize
with another. Negating oneself and identifying oneself with another
constitute synthetical identification. This is a peculiar theory or
practice of Mahayana. It is applied to any theory and practice. Two
opposed theories or incompatible facts are often identified. Often a
happy solution of a question is arrived at by the use of this method. As
the result of mutual penetration and mutual identification. We have the
concept “One in All, All in One. One behind All, All behind One.” The
great and small, the high or low, moving harmoniously together. Even the
humblest partaking of the work in peace, no one stands separately or
independently alone. It is the world of perfect harmony.
5) Ẩn Mật
Hiển Liễu Câu Thành Môn: Nói về thuyết tựu thành, nhờ đó mà cái ẩn mật và
cái biểu hiện cùng tạo thành một toàn thể bằng hỗ tương chi trì. Nếu cái
nầy ở trong thì cái kia ở ngoài hay ngược lại. Cả hai hỗ trợ lẫn nhau tạo
thành một nhất thể—The theory of complementarity by which the hidden and
the manifested will make the whole by mutual supply. If one is inside, the
other will be outside, or vice versa. Both complementing each other will
complete one entity.
6) Vi Tế
Tương Dung An Lập Môn: Nói về sự thành lập bằng hỗ tương nhiếp nhập của
những vật chất vi tiểu và ẩn áo. Nói một cách tổng quát, một sự thể càng
vi tiểu và ẩn áo, người ta càng khó mà nhận ra nó. Những sự thể vi tế hay
ẩn áo vượt ngoài lãnh hội của một người cũng phải thể hiện lý thuyết về
“một trong nhiều và nhiều trong một.”—The theory of construction by mutual
penetration of minute and abstruse matters. Generally speaking, the more
minute or abstruse a thing is, the more difficult it is to be conceived..
Things minute or abstruse beyond a man’s comprehension must also be
realizing the theory of one-in-many and many-in-one.
7) Nhân
Đà La Võng Cảnh Giới Môn: Nói về sự phản chiếu nội tại, như trong lãnh vực
được bao quanh bằng lưới của trời Đế Thích (mỗi mắt lưới là một viên ngọc
thạch lấp lánh), ở đó những hạt ngọc phản chiếu rực rỡ lẫn nhau. Cũng vậy,
những sự kiện thực tế của thế giới đều chen lẫn và chiếu rọi lẫn nhau—The
theory of inter-reflection, as in the region surrounded by the Indra net
(a net decorated with a bright stone on each knot of the mesh), where the
jewels reflect brilliance upon each other, according to which the real
facts of the world are mutually permeating and reflecting.
8) Thác
Sự Hiển Pháp Sinh Giải Môn: Nói về sự thuyết minh chân lý bằng những điển
hình thật sự. Chân lý được biểu lộ trong sự vật và sự vật là nguồn gốc của
giác ngộ—The theory of elucidating the truth by factual illustrations.
Truth is manifested in fact and fact is the source of enlightening.
9) Thập
Thế Cách Pháp Dị Thành Môn: Nói về “sự thành tựu từ đa thù của 10 thời
gian tạo thành một thực thể.” Quá khứ, hiện tại, và vị lai, mỗi thời đều
chứa đựng ba thời, như thế tạo thành chín thời, chúng hợp chung lại thành
một thời duy nhất, chín và một là mười thời. Mười thời, tất cả đều khác
biệt, nhưng nhiếp nhập lẫn nhau, hoàn thành cái lý tắc một-trong-tất-cả.
Tất cả những lý thuyết khác, chính yếu liên hệ với sự hỗ tương nhiếp nhập
nầy trong bình diện “hàng ngang,” nhưng lý thuyết nầy lại liên hệ với mọi
“quan hệ hàng dọc” hay thời gian, nghĩa là mọi loài bị phân tách dọc theo
chín thời, mỗi thời tự đầy đủ để cuối cùng tất cả đều tương quan tương
liên trong một thời độc nhất; một thời độc nhất được hình thành bằng chín
thời kia—The theory of “variously completing ten time-periods creating one
entity.” Each of past, present and future contains three periods thus
making up nine periods which altogether form one period, nine and one, ten
periods in all. The ten periods, all distinct yet mutually penetrating,
will complete the one-in-all principle. All other theories are concerned
chiefly with the mutual penetration in “horizontal plane,” but this theory
is concerned with the “vertical connection,” or time, meaning that all
beings separated along the nine periods, each complete in itself, are,
after all, interconnected in one period, the one period formed by the
nine.
10) Duy Tâm
Hồi Chuyển Thiện Thành Môn: Nói về sự thành tựu của những thiện đức mà nhờ
đó, chủ và tớ cùng hoạt động một cách nhịp nhàng và xán lạn. Nếu cái nầy
là chủ thì tất cả những cái khác sẽ hoạt động như là thần tử của nó, nghĩa
là theo lý tắc “nhứt tức nhất thiết, và nhất thiết tức nhứt.” Chúng tạo
thành một toàn thể viên toàn trên thực tế, cái nầy cái kia xen lẫn
nhau—The theory of completion of virtues by which the chief and the
retinue work together harmoniously and brightly. If one is the chief, all
others will work as his retinue, i.e., according to the one-in-all and
all-in-one principle, they really form one complete whole, penetrating one
another.
Thập Khoái: The ten
inexpressible joys of the Pure Land.
Thập Kiếp: Mười kiếp đã qua từ
khi Phật A Di Đà thệ nguyện 48 lời nguyền—The ten kalpas that have expired
since Amitabha made his forty-eight vows, or to complete his bodhi.
Thập Kiếp Di Đà: See Thập kiếp.
Thập Kiết Sử: See Samyojana in
Sanskrit/Pali-Vietnamese Section, and Kiết Sử, Ngũ Hạ Phần Kết, Ngũ Thượng
Phần Kết in Vietnamese-English Section.
Thập Kim Cang Tâm: Mười tâm Kim
Cang phát triển bởi Bồ Tát—Ten characteristics of the “Diamond heart” as
developed by a Bodhisattva:
1) Giác
liễu pháp tánh: Complete insight into all truth.
2) Hóa độ
chúng sanh: Saving of all creatures.
3) Trang
nghiêm thế giới: The glorifying of all Buddha-worlds.
4) Thiện
căn hồi hướng: Transference of his good deeds.
5) Phụng
sự đại sư: Services of all Buddhas.
6) Thật
chứng chư pháp: Realization of the truth of all Buddha-laws.
7) Quảng
hành nhẫn nhục: Manifestation of all patience and endurance.
8) Trường
thời tu hành: Unflagging devotion to his vocation.
9) Tự
hạnh mãn túc: perfection of his work.
10) Linh tha
nguyện mãn: Aiding to all fulfill their vows and accomplish their
spiritual ends.
Thập La Sát Nữ: Mười La sát Nữ
được nói đến trong Kinh Liên Hoa—The ten raksasi or demonesses mentioned
in the Lotus Sutra:
1)
Lam-bà: Lamba—Who is associated with Sakyamuni.
2)
Tỳ-lam-bà: Vilamba—Who is associated with Amitabha.
3) Khúc
Xỉ: Kutadanti—Who is associated with Bhaisajya (Dược Sư Phật).
4) Hoa
Xỉ: Puspadanti—Who is associated with Prabhutaratna (Đa Bảo Như Lai).
5) Hắc
Xỉ: Makutadanti—Who is associated with Vairocana (Đại Nhựt Như Lai).
6) Đa
Phát: Kesini—Who is associated with Samantabhadra (Phổ Hiền).
7)
Vô-Yểm-túc: Acala—Who is associated with Manjusri (Văn Thù).
8)
Trì-Anh-Lạc: Maladhari—Who is associated with Maitreya (Di Lặc).
9)
Cao-đế: Kunti—Who is associated with Avalokitesvara (Quán Âm).
10) Đoạn nhứt
thiết chúng sanh tinh khí: Sarvasattvaujohari—Who is associated with
Ksitigarbha (Earth Store Địa Tạng).
Thập Lạc: See Thập Khoái.
Thập Loại Giới: Mười loại
giới—Ten kinds of precepts—Theo lời Phật dạy trong Kinh Hoa Nghiêm, có
mười loại giới dành cho chư đại Bồ Tát nhằm giúp họ đạt được giới quảng
đại Ba-La-Mật vô thượng của chư Như Lai According to the Buddha in The
Flower Adornment Sutra (Chapter 38—Detachment From The World), great
Enlightening Beings have ten kinds of precepts which help them attain the
unexcelled great transcendent discipline of the Buddhas.
1) Giới
chẳng bỏ Bồ Đề tâm: Not giving up the determination for enlightenment.
2) Giới
xa lìa bực nhị thừa: Leaving behind the stages of individual salvation.
3) Giới
quán sát lợi ích tất cả chúng sanh: Observing and benefiting all sentient
beings.
4) Giới
khiến tất cả chúng sanh an trụ nơi Phật pháp: Inducing all sentient beings
to live by the teachings of Buddha.
5) Giới
tu tất cả sở học của Bồ Tát: Cultivating all the sciences of enlightening
beings.
6) Giới
vô sở đắc nơi tất cả pháp: Not being acquisitive in respect to anything.
7) Giới
đem tất cả thiện căn hồi hướng Bồ Đề: Dedicating all roots of goodness to
enlightenment.
8) Giới
chẳng tham trước tất cả thân Như Lai: Not being attached to any of the
incarnations of Buddhas.
9) Giới tư duy tất cả các pháp và xa lìa nhiễm trước: Reflecting on
all things and getting rid of grasping and clinging.
10) Giới chư căn luật nghi (điều tiết lục căn): Regulating all their
faculties.
Thập Loại Ngạ Quỷ Tái Sanh Làm Súc Sanh Để
Trả Tiếp Nghiệp Trước: Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, quyển Tám,
Đức Phật đã dạy ông A Nan về mười loại ngạ quỷ được tái sanh làm súc sanh
khi trả hết nghiệp đời trước như sau: “Ông A Nan! Quỷ nghiệp đã hết rồi,
tình và tưởng đều không, mới nơi thế gian cùng với người mắc nợ trước, oan
nối gặp nhau, thân làm súc sanh để trả nợ trước.”—In the Surangama Sutra,
book Eight, the Buddha taught Ananda about ten kinds of ghosts that will
be reborn as an animal to continue to pay their debts as follows: “Ananda!
When his karma as a ghost is ended, the problem of emotion as opposed to
discursive thought is resolved. At that point he must pay back in kind
what he borrowed from others to resolve those grievances. He is born into
the body of an animal to repay his debts from past lives.”
1) Quái
quỷ: The strange Ghost.
a) Nếu
tham ái là nguyên nhân của hành động sai trái, sau khi trả hết tội, sẽ
biến thành hình của bất cứ loài nào mà chúng gặp trong khi đọa ở địa ngục:
If the craving be the cause of their misdeeds, they will, after paying for
their sins, take the form of whatever they meet on living the Hells.
b) Loài
quái quỷ, khi đã hết báo, vật mà chúng nương bị tiêu hoại, sinh ở thế
gian, phần nhiều làm loài chim cưu: The retribution of the strange ghost
of material objects is finished when the object is destroyed and it is
reborn in the world, usually as a species of owl (after expiating their
misdeeds in their realms, are mostly reborn as owls).
2) Quỷ
Phong Bạt: The drought ghost.
a) Nguyên
nhân tạo ra ác nghiệp là dâm dục: The cause of their misdeeds is lust.
b) Loại
quỷ phong bạt, báo hết, gió tiêu, sinh ở thế gian, phần nhiều làm loại
chim báo điềm xấu như chim cú, chim quạ: The retribution of the drought
ghost of the wind is finished when the wind subsides, and it is reborn in
the world, usually as a species of weird creature which gives inauspicious
prognostications (after expiating their misdeeds in their realms, are
mostly reborn as unlucky creatures who foretell misfortunes and
calamities).
3) Mỵ
quỷ—Mei Ghost (animal ghost).
a) Lừa
dối là nguyên nhân tạo ra ác nghiệp: The cause of their misdeeds is
deceitfulness.
b) Loại
mỵ quỷ, báo hết, lúc chết, sinh ở thế gian, phần nhiều làm loài chồn: The
retribution of the Mei ghost of an animal is finished when the animal
dies, and it is reborn in the world, usually as a species of fox (after
expiating their misdeeds in their realms, are mostly reborn as foxes).
4) Cổ Độc
Quỷ—Noxious (ku) ghost:
a) Sân
hận là nguyên nhân tạo ra ác nghiệp nầy: Hate is the cause of their
misdeeds.
b) Loài
cổ độc quỷ, báo hết, trùng chết, sinh ở thế gian, làm loại độc hại như rắn
rết: The retribution of the Ku ghost in the form of worms is finished when
the Ku is exhausted, and it is reborn in the world, usually as a species
of venomous creature (after expiating their misdeeds in their realms, are
mostly reborn as venomous creatures).
5) Lệ
quỷ—Cruel ghost:
a) Nguyên
nhân tạo ra ác nghiệp nầy là sự báo thù: The cause of their misdeeds is
revengefulness.
b) Loài
lệ quỷ, báo hết, suy mất, sinh ở thế gian, làm loài giun sán: The
retribution of a pestilence ghost found in degeneration is finished when
the degeneration is complete, and it is reborn in the world, usually as a
species of tapeworm (after expiating their misdeeds in their realms, are
mostly reborn as tapeworms).
6) Ngạ
quỷ—Hungry (starved) ghost:
a) Nguyên
nhân tạo ra ác nghiệp nầy là kiêu ngạo: The cause of their misdeeds is
arrogance.
b) Loại
ngạ quỷ, báo hết, khí tiêu, sinh ở thế gian, làm loài để người ta ăn thịt,
như gà, vịt, lợn: The retribution of the ghost which takes shape in gases
is finished when the gases are gone, and it is then reborn in the world,
usually as a species of eating animal (after expiating their misdeeds in
their realms, are mostly reborn as creatures good for food).
7) Yểm
quỷ—Nightmarish ghost:
a) Nguyên
nhân tạo ra ác nghiệp nầy là sự gian lận hay gian trá: The cause of their
misdeeds is fraud.
b) Loại
yểm quỷ, báo hết, u tiêu, sinh ở thế gian, làm loài để nguời ta mặc, như
con tằm, con cừu: The retribution of the ghost of prolonged darkness is
finished when the darkness ends, and it is then reborn in the world,
usually as a species of animal used for clothing or service (after
expiating their misdeeds in their realms, are mostly reborn as creatures
who provide material for clothing).
8) Quỷ
Vọng Lượng—Naiads:
a) Nguyên
nhân tạo ra ác nghiệp nầy là tà kiến: The cause of their misdeeds is wrong
views.
b) Loại
quỷ vọng lượng, báo hết, tinh tiêu, sinh ở thế gian, làm loài biết thời
tiết thứ tự, như chim yến: The retribution of the ghost which unites with
energy is finished when the union dissolves, and it is then reborn in the
world, usually as a species of migratory creature (after expiating their
misdeeds in their realms, are mostly reborn as creatures through whom the
future can be foretold).
9) Quỷ
Dịch sử—Servant Ghost:
a) Nguyên
nhân tạo ra ác nghiệp nầy là sự bất công: The cause of their misdeeds is
unfairness.
b) Loài
quỷ dịch sử, báo hết, minh diệt, sinh ở thế gian, làm loài báo điềm tốt
như chim phụng: The retribution of the ghost of brightness and intellect
is finished when the brightness disappears, and it is then reborn in the
world, usually as a species of auspicious creature (after expiating their
misdeeds in their realms, are mostly reborn as auspicious creatures).
10) Quỷ
Truyền tống—Messenger ghost:
a) Nguyên
nhân tạo ra ác nghiệp nầy là sự tranh cãi: The cause of their misdeeds is
disputation.
b) Loại
quỷ truyền tống, báo hết, người chết, sinh ở thế gian, làm loài tùng phục
người như mèo, chó: The retribution of the ghost that relies on a person
is finished when the person dies, and it is then reborn in the world,
usually as a species of domestic animal (after repaying their former
debts, are reborn as domestic animals).
Thập Loại Nhân Thú: Mười loại
súc sanh trả hết nghiệp báo, được tái sanh làm người—Ten kinds of animals
that will be reborn as a human—Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, quyển Tám, Đức
Phật đã nhắc A Nan về mười loại thú được tái sanh làm người như sau: “Ông
A Nan! Loài súc sanh trả nợ trước, nếu bắt trả quá phần, thì chúng sinh bị
trả trở lại làm người để đòi nợ thừa. Như người kia có sức và phúc đức,
thì chẳng bỏ thân người, chỉ trả lại nợ cũ. Nếu vô phúc, phải trở lại làm
súc sanh để trả nợ kia. Ông A Nan! Ông nên biết, nếu dùng tiền, hoặc dùng
sức của loài vật, chúng trả đủ thì thôi. Nếu giết hay ăn thịt chúng, qua
bao kiếp giết nhau, ăn nhau, luân hồi như bánh xe xoay vần không dứt. Trừ
pháp sa ma tha và Phật xuất thế, không thể nào dứt hết. Các loại ấy đều do
trả hết nợ, lại sinh trong nhân đạo, đều bởi vô thủy nghiệp điên đảo sinh
nhau, giết nhau, chẳng gặp Phật, nghe chánh pháp, trong cảnh trần lao cứ
luân chuyển mãi. Thật đáng thương!” In the Surangama Sutra, book Eight,
the Buddha reminded Ananda about the ten kinds of animals that will be
reborn as a human as follows: “Ananda! If while repaying his past debts by
undergoing rebirth as an animal, such a living being pays back more than
he owed, he will then be reborn as a human to rectify the excess. If he is
a person with strength, blessings, and virtue, then once he is in the
human realm, he will not have to lose his human rebirth after what is owed
him is restored. But if he lacks blessings, then he will return to the
animal realm to continue repaying his debts. Ananda! You should know that
once the debt is paid, whether with money, material goods, or manual
labor, the process of repayment naturally comes to an end. But if in the
process he took the lives of other beings or ate their flesh, then he
continues in the same way, passing through kalpas as many as motes of fine
dust, taking turns devouring and being slaughtered in a cycle that sends
him up and down endlessly. There is no way to put a stop to it, except
through samatha or through a Buddha’s coming to the world. Ananda! These
are all beings that have finished paying back former debts and are born
again in the human realm. They are involved in a beginningless scheme of
karma and being upside down in which their lives are spent killing one
another and being killed by one another. They do not get to meet the Thus
Come One or hear the proper dharma. They just abide in the wearisome dust,
passing through a repetitive cycle. Such people can truly be called
pitiful.”
1) Loài
chim cưu, khi trả nợ xong, sinh làm người, là loại tham nhũng và ngu si
cứng đầu: You should know that when owls and their kind have paid back
their debts, they regain their original form and are born as people, but
among those who are corrupt and obstinate.
2) Loài
báo trước điềm xấu, khi trả nợ xong, sinh làm người, là loài bất bình
thường và quỷ quyệt: When creatures that are inauspicious have paid back
their debts, they regain their original form and are born as people, but
among those who are abnormal.
3) Loài
chồn, là loại tầm thường: When foxes have paid back their debts, they
regain their original forms and are born as people, but among those who
are simpletons.
4) Loài
độc, là loại bạo ngược: When creatures of the venomous category have paid
back their debts, they regain their original form and are born as people,
but among those who are hateful.
5) Loài
giun sán, là loại đê tiện: When tapeworms and their like have paid back
their debts, they regain their original form and are born as people, but
among those who are lowly.
6) Loài
để người ta ăn thịt, là loại nhu nhược: When the eddible types of
creatures have paid back their debts, they regain their original form and
are reborn as people, but among those who are weak.
7) Loài
để cho người ta làm đồ mặc, là loại lao động: When creatures that are used
for clothing or service have paid back their debts, they regain their
original form and are reborn as people, but among those who do hard labor.
8) Loài
biết thời tiết, là loại có văn học: When creatures that migrate have paid
back their debts, they regain their original form and are reborn as people
among those who are literate.
9) Loài
báo trước điềm tốt, là loại thông minh: When auspicious creatures have
paid back their debts, they regain their original form and are reborn as
people among those who are intelligent.
10) Loài phục
tùng người, là loại thông thạo:
Thập Lục Đại Lực: Mười sáu đại
lực của Bồ tát—The sixteen great powers obtainable by a bodhisattva:
1) Chí
lực: Will.
2) Ý lực:
Mind.
3) Hạnh
lực: Action.
4) Tàm
lực: Sức thẹn thùa khi làm quấy—Shame when doing evil.
5) Cường
lực: Energy.
6) Trì
lực: Sự bền chí tu trì—Firmness.
7) Huệ
lực: Wisdom.
8) Đức
lực: Công đức—Virtue.
9) Biện
lực: Sức hùng biện chánh pháp—Reasoning.
10) Sắc lực:
Personal appearance.
11) Thân lực:
Physical powers.
12) Tài lực:
Wealth.
13) Tâm lực:
Spiritual powers.
14) Thần túc
lực: Magic.
15) Hoằng
pháp lực: Power of spreading the Truth.
16) Hàng ma
lực: power of subduing demons.
Thập Lục Quán: Theo K.K. Tanaka
trong Tịnh Độ Nguyên Thủy Trung Hoa, có 16 phép quán trong Tịnh Độ tông
(đây là 16 cách quán tưởng đến cõi Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà hầu có
vãng sanh về đó. Theo truyền thuyết, đây là 16 phép mà Đức Phật Thích Ca
đã truyền dạy theo lời cầu thỉnh của bà Hoàng thái hậu Vi Đề Hy)—According
to K.K. Tanaka in The Dawn of Chinese Pure Land Doctrine, there are
sixteen kinds of contemplation in the Pure Land.
1) Quán
tưởng thấy mặt trời sắp lặn: Visualization of the setting sun.
2) Quán
tưởng Thấy nước lắng trong: Visualization of pure water.
3) Quán
tưởng thấy đất nơi cõi Cực Lạc: Visualization of the ground in the Pure
Land.
4) Quán
tưởng thấy cây báu: Visualization of precious trees.
5) Quán
tưởng thấy bát công đức thủy, hay nước tám công đức: Visualization of
eight waters of merit and virtue—See Bát Công Đức Thủy.
6) Tổng
quán tưởng thấy các cảnh, thấy cây báu, thấy ao báu nơi thế giới Cực Lạc:
Unified visualization of the precious trees, lakes, etc., in the Pure
Land.
7) Quán
tưởng thấy tòa hoa của Đức Phật A Di Đà: Visualization of the lotus throne
of Amitabha Buddha.
8) Quán
tưởng thấy hình Phật A Di Đà và chư Bồ Tát Quán Âm ngồi bên tả tòa, và Bồ
Tát Đại Thế Chí đang ngồi bên hữu tòa: Visualization of the images of the
Buddha Amitabha on the throne, Bodhisattvas Avalokitesvara on the left,
and Bodhisattva Mahasthamaprapta on the right side of the throne.
9) Quán
tưởng thấy tỏ rõ chơn thân mà Đức Phật A Di Đà đã thị hiện nơi cõi Cực
Lạc: Visualization of the Reward body of Amitabha Buddha, i.e. the form in
which he appears in the Pure Land.
10) Quán
tưởng thấy rõ sắc thân của Bồ Tát Quán Thế Âm: Visualization of
Avalokitesvara Bodhisattva.
11) Quán
tưởng thấy rõ sắc thân của Bồ Tát Đại Thế Chí: Visualization of
Mahasthamaprapta Bodhisattva.
12) Quán
tưởng thấy rõ ba vị A Di Đà, Quán Thế Âm, và Đại Thế Chí đầy khắp cả hư
không: Visualization of the reward bodies of Amitabha Buddha,
Avalokitesvara Bodhisattva, and Mahasthamaprapta Bodhisattva are every
where in the space.
13) Quán
tưởng tạp, khi thì quán tưởng Đức A Di Đà, khi thì quán tưởng Đức Quán Thế
Âm, khi thì quán tưởng Đức Đại Thế Chí: A mixing or intermingling
visualization among Amitabha Buddha, Avalokitesvara Bodhisattva, and
Mahasthamaprapta Bodhisattva.
14) Quán
tưởng Thượng Bối Sanh, bao gồm thượng phẩm thượng sanh, thượng phẩm trung
sanh, và thượng phẩm hạ sanh: Visualization of the rebirth of the three
highest grades in the Pure Land, including the highest, the middle, and
the lowest of the three highest classes.
15) Quán
tưởng Trung Bối Sanh, bao gồm trung phẩm thượng sanh, trung phẩm trung
sanh, và trung phẩm hạ sanh: Visualization of the rebirth of the middle
grades in the Pure Land, including the highest, the middle, and the lowest
of the three middle classes.
16) Quán
tưởng Hạ Bối Sanh, bao gồm hạ phẩm thượng sanh, hạ phẩm trung sanh, và hạ
phẩm hạ sanh: Visualization of the rebirth of the lowest grades, including
the highest, the middle, and the lowest in the three lowest classes in the
Pure Land.
Thập Lục Tâm: The sixteen
hearts or minds:
1) Khổ
pháp nhẫn: Patience with Dharmas of Suffering.
2) Khổ
pháp trí: Wisdom concerning Dharmas of Suffering.
3) Khổ
loại nhẫn: Patience with Kinds of Suffering.
4) Khổ
loại trí: Wisdom concerning Kinds of Suffering.
5) Tập
Pháp nhẫn: Patience with Dharmas of Accumulation.
6) Tập
Pháp trí: Wisdom concerning Dharmas of Accumulation.
7) Tập
loại nhẫn: Patience with Kinds of Accumulation.
8) Tập
loại trí: Wisdom concerning kinds of Accumulation.
9) Diệt
Pháp nhẫn: Patience with Dharmas of Extinction.
10) Diệt Pháp
trí: Wisdom concerning Dharmas of Extinction.
11) Diệt loại
nhẫn: Patience with Kinds of Extinction.
12) Diệt loại
trí: Wisdom concerning Kinds of Extinction.
13) Đạo Pháp
nhẫn: Patience with Dharmas of the Way.
14) Đạo Pháp
trí: Wisdom concerning Dharmas of the Way.
15) Đạo loại
nhẫn: Patience with Kinds of the way.
16) Đạo loại
trí: Wisdom concerning Kinds of the way.
** Mười lăm tâm đầu tiên
dành cho những
người đang trong
tiến trình tới quả vị thứ
nhất: “dự lưu.” Tâm thứ 16 dành cho người đã chứng quả “vị
lưu.”—The first fifteen minds are for those who are in the process towards
the first fruit of “enter the stream.” The sixteenth mind is for those who
are certified to the first fruit of “stream-enter”.
Thập Lực Bồ Tát:
Dasa-bodhisattva-balni (skt)—Mười năng lực của vị Bồ Tát theo Kinh Hoa
Nghiêm—The ten powers of the Bodhisattva according to the Avatamsaka
Sutra:
1) Thâm
Tâm Lực: Asayabala (skt)—Có tâm dứt khoát tránh xa thế tục—Having a mind
strongly turned away from worldliness.
2) Tăng
Sinh Thâm Tâm Lực: Adhyasaya-bala (skt)—Có một niềm tin vào Phật giáo càng
lúc càng mạnh—Having a belief growing ever stronger in Buddhism.
3) Phương
Tiện Lực: Prayoga-bala (skt)—Năng lực tự tu trong tất cả mọi tu tập Bồ Tát
đạo—The power of disciplining himself in all the exercises of
Bodhisattvahood.
4) Trí
Lực: Prajna-bala (skt)—Năng lực trực giác để hiểu tâm thức của mọi chúng
sanh—The intuitive power to understand the mentalities of all beings.
5) Nguyện
Lực: Pranidhana-bala (skt)—Năng lực làm cho mọi lời nguyện được thành
tựu—The power of making every prayer fulfilled.
6) Hành
Lực: Carya-bala (skt)—Năng lực vận hành cho đến khi tận cùng thời gian—The
power of working till the end of time.
7) Thừa
Lực: Yana-bala (skt)—Năng lực tạo ra mọi thừa mà không bao giờ bỏ Đại
Thừa—The power of creating all kinds of conveyance or yana without ever
giving up the Mahayana.
8) Thần
Biến Lực: Vikurvana-bala (skt)—Năng lực tạo thành một thế giới thuần khiết
thanh tịnh trong mỗi lổ lông của da—The power of making a world of
immaculate purity in every pore of the skin.
9) Bồ Đề
Lực: Bodhi-bala (skt)—Năng lực thức tỉnh cho mọi chúng sanh giác ngộ—The
power of awakening every being in enlightenment.
10) Chuyển
Pháp Luân Lực: Dharmacakrapravartana-bala (skt)—Năng lực của sự tuyên
thuyết; một phần câu mà kêu gọi đồng bộ những cái tâm của mọi chúng
sanh—The power of uttering one phrase which appeals uniformly to the
hearts of all beings.
Thập Lực Như Lai:
Dasa-tathagata-balani (skt)—Mười đại lực của Phật—Như Lai Cụ Túc Thập
Lực—The ten great powers of a Buddha:
1) Tri
thị xứ phi xứ trí lực: Khả năng biết sự lý là đúng hay chẳng đúng—Complete
knowledge of what is right or wrong in every condition—The power of
knowing from awakening to what is and what is not the case—Knowing right
and wrong—The power to distinguish right from wrong.
2) Tri
tam thế nghiệp báo Trí lực: Tri Thượng Hạ Trí Lực—Complete knowledge of
what is the karma of every being past, present and future—The power of
knowing karmic retributions throughout the three periods of time—Knowing
what karmic effects follow from which causes.
3) Tri
chư Thiên giải thoát Tam muội: Complete knowledge of all stages of dhyana
liberation and samadhi—The power of knowing all dhyanas, liberations and
samadhis—Knowing the various balanced states (four dhyanas, eight states
of liberation, three samadhi, etc).
4) Tri
chúng sanh tâm tánh Trí lực: Complete knowledge of the powers and
faculties of all beings—The power of knowing all faculties whether
superior or inferior—Knowing the superior or inferior makings og others.
5) Tri
chủng chủng giải trí lực: Biết được sự hiểu biết của chúng sanh—Complete
knowledge of the desires or moral direction of every being—The power of
knowing the various realms—Knowing the desires of others.
6) Tri
chủng chủng giới trí lực: Biết hết các cảnh giới—Complete knowledge of
actual condition of every individual—The power of knowing the various
understanding—Knowing the states of others.
7) Tri
nhứt thiết sở đạo trí lực: Biết hết phần hành hữu lậu của lục đạo—Complete
knowledge of the direction and consequence of all laws—The power of
knowing where all paths lead—Knowing the destinations of others, either
nirvana or hell.
8) Tri
thiên nhãn vô ngại trí lực: Thấy biết tất cả sự việc của chúng
sanh—Complete knowledge of all causes of mortality and of good and evil in
their reality—The power of knowing through the heavenly eye without
obstruction—Knowing the past.
9) Tri
túc mạng vô lậu trí lực: Biết các đời trước rất xa của chúng sanh—Complete
knowledge of remote lives of all beings, the end of all beings and
nirvana—The power of knowing previous lives without outflows—Buddha-power
to know life and death, or all previous transmigrations.
10) Tri vĩnh
đoạn tập khí trí lực: Biết đoạn hẳn các tập khí—Complete knowledge of the
destruction of all illusion of every kind—The power of knowing from having
cut off all habits forever—Knowing how to end excesses.
Thập Ma: Theo Kinh Hoa Nghiêm,
Phẩm 38, có mười thứ ma của chư Đại Bồ Tát. Chư Bồ Tát nên mau dùng phương
tiện xa rời mười thứ ma nầy—According to the Flower Adornment Sutra,
Chapter 38, there are ten kinds of demons of great enlightening beings.
Enlightening beings should apply appropriate means to quickly escape these
demons.
** See Ten ways of getting rid of demons’ actions—See Mười điều rời bỏ
ma nghiệp của chư Bồ Tát.
1) Ngũ
uẩn ma, vì sanh các chấp thủ: The demon of the clusters of mental and
material elements, giving rise to attachments.
2) Phiền
não ma, vì hằng tạp nhiễm: The demon of afflictions, perpetually confusing
and defiling.
3) Nghiệp
ma, vì hay chướng ngại: The demon of actions, able to obstruct and
inhibit.
4) Tâm
ma, vì khởi ngã mạn cống cao: The demon of mind, which gives rise to
pride.
5) Tử ma,
vì bỏ chỗ sanh: The demon of death, which abandons life.
6) Thiên
ma, vì tự kiêu căng phóng túng: The demon of heaven, being self-indulgent.
7) Thiện
căn ma, vì hằng chấp thủ: The demon of roots of goodness, because of
perpetual clinging.
8) Ma tam
muội, vì từ lâu say đắm: The demon of concentration, because of long
indulgence in the experience.
9) Thiện
tri thức ma, vì khởi tâm chấp trước: The demon of spiritual teachers,
because of giving rise to feelings of attachment.
10) Bồ Đề
pháp trí ma, vì chẳng chịu xả lìa: The demon of phenomenon of
enlightenment, because of not wanting to relinquish it.
Thập Ma Nghiệp:
Ten kinds of demons’ actions—See Mười Thứ Ma Nghiệp Của Chư Đại Bồ Tát.
Thập Minh:
Ten kinds of insight—See Mười Thứ Minh Của Chư Đại Bồ Tát.
Thập Môn: Mười cửa nối kết giữa
thế giới vật chất và hiện tượng—The ten doors or connection between
noumena or substance and phenomena (theory and practice):
1) Lý
luôn đi với sự: Substance (Lý) is always present with the phenomena (Sự).
2) Sự
luôn đi với lý: The phenomena is always present with substance.
3) Sự tùy
thuộc vào lý mà tồn tại: The phenomena depend on the substance for its
existence.
4) Sự phô
bày lý: The phenomena can reveal the substance.
5) Sự
biến mất trong lý: The phenomena (from is unreal) can disappear in the
substance.
6) Sự có
thể che dấu lý: The phenomena can conceal the substance.
7) Chân
lý chính là sự: The true substance is the phenomena.
8) Sự
chính là lý: The phenomena is the substance.
9) Chân
như không phải là sự: True reality is not the phenomena.
10) Sự không
phải là lý: The phenomena is not the whole substance.
Thập Mục Ngưu Đồ: See Thập Ngưu
Đồ.
Thập Não Loạn: Mười phiền não
hay nhiễu loạn trong cuộc sống tu hành—The ten disturbers of the religious
life:
1) Hào
thế: Thế lực—Domineering spirit.
2) Tà
nhơn pháp: Ngoại đạo pháp—Heretical ways.
3) Hung
hý: Đùa giỡn hung ác—Dangerous amusements.
4) Chiên
đà la: Chuyên nghề làm thịt—A butcher’s or other low occupations.
5) Nhị
thừa: Asceticism or selfish Hinayana salvation.
6) Bất
nam: The condition of an eunuch.
7) Dục
tưởng: Tư tưởng dâm dục—Lust.
8) Nguy
hại: Một mình xông vô nhà người—Endangering the character by improper
intimacy.
9) Cơ
hiềm: Chê bai việc làm của người—Contempt.
10) Súc
dưỡng: Nuôi súc vật—Breeding animals for slaughter.
Thập Ngũ Quán Niệm:
Theo Kinh Duy Ma Cật, ngài Duy Ma Cật đã nói về mười lăm pháp quán niệm về
không trụ vô vi—According to the Vimalakirti Sutra, Honorable lay man
Vimalakirti explained about fifteen modes of contemplation on “staying in
the supramundane state” or “non-active state” of a Bodhisattva:
1)
Tu học môn Không; không lấy không làm chỗ tu chứng: Studying and
practicing the immaterial or emptiness without abiding in voidness.
2)
Tu học môn vô tướng, vô tác, không lấy vô tướng, vô tác làm chỗ tu
chứng: Studying and practicing formlessness (nonappearance) and inaction
(non pursuit) without abiding in them.
3)
Tu học pháp Vô Sanh không lấy Vô Sanh làm chỗ tu chứng:
Contemplating the reality of noncreation but does not take noncreation as
an object of attainment.
4)
Quán Vô Thường mà không nhàm việc lành (lợi hành): Looking into the
impermanence without discarding the performance of good deeds (a
Bodhisattva meditates on the truth of Impermanence but does not abandon
his work to serve and save sentient beings).
5)
Quán Thế Gian Khổ mà không ghét sanh tử: Looking into suffering in
the world without hating birth and death, i.e. samsara (a Bodhisattva
contemplates on suffering but does not reject the world of births and
deaths).
6)
Quán Vô Ngã mà dạy dỗ người không nhàm mỏi: Looking into the
absence of the ego while continuing to teach all living beings
indefatigably.
7)
Quán Tịch Diệt mà không tịch diệt hẳn;: Looking into nirvana with
no intention of dwelling in it permanently (a Bodhisattva contemplates on
extinction but does not embrace extinction).
8)
Quán xa lìa (buông bỏ) mà thân tâm tu các pháp lành: Looking into
the relinquishment (of nirvana) while one’s body and mind are set on the
practice of all good deeds (a Bodhisattva meditates on detachment but goes
on realizing good things in the world).
9)
Quán Không Chỗ Về (không quy túc) mà vẫn về theo pháp lành: Looking
into the non-existing destinations of all things while the mind is set on
practicing excellent actions as true destinations (a Bodhisattva meditates
on the homeless nature of all dharmas but continues to orient himself
toward the good).
10)
Quán Vô Sanh mà dùng pháp sanh (nương theo hữu sanh) để gánh vác
tất cả: Looking into the unborn, i.e. the uncreate while abiding in the
illusion of life to shoulder responsibility to save others (a Bodhisattva
contemplates on the reality of neither-creation-nor-destruction but still
undertakes the responsibility in the world of creations and destructions).
11)
Quán Vô Lậu mà không đoạn các lậu: Looking into passionlessness
without cutting off the passion-stream in order to stay in the world to
liberate others.
12)
Quán không chỗ làm (vô hành) mà dùng việc làm (hành động) để giáo
hóa chúng sanh: Looking into the state of non-action while carrying out
the Dharma to teach and convert living beings (a Bodhisattva contemplates
on nonaction but continues always his acts of service and education).
13)
Quán Không Vô mà không bỏ đại bi: Looking into nothingness
(emptiness) without forgetting (abandoning) about great compassion.
14)
Quán Chánh Pháp Vị (chỗ chứng) mà không theo Tiểu thừa: Looking
into the right position (of nirvana) without following the Hinayana habit
of staying in it (a Bodhisattva meditates on the position of the True
Dharma but does not follow a rigid path).
15)
Quán các pháp hư vọng, không bền chắc, không nhân, không chủ, không
tướng, bổn nguyện chưa mãn mà không bỏ phước đức thiền định trí tuệ. Tu
các pháp như thế gọi là Bồ Tát không trụ vô vi: Looking into the unreality
of all phenomena which are neither firm nor have an independent nature,
impermanence, and are egoless and formless (markless), but since his own
fundamental vows are not entirely fulfilled, he should not regard merits,
serenity and wisdom as unreal and so cease practicing them.
Thập Ngũ Tâm Thiện Sắc Giới:
Fifteen Kinds of Fine-Material-Sphere Wholesome Consciousness—See Mười
Lăm Tâm Thiện Thuộc sắc Giới.
Thập Nguyện Bồ Tát: Theo Nghiên
Cứu Kinh Lăng Già của Thiền Sư D.T. Suzuki, theo trí tuệ siêu việt các Bồ
Tát biết rằng chân lý Bồ Tát vượt khỏi mọi sự định tính và không hề chịu
bất cứ hình thức miêu tả nào, nhưng vì tâm các ngài đầy từ bi đối với tất
cả chúng sanh, là những kẻ không thể nào bước ra khỏi vùng nước xoáy của
hữu và phi hữu, nên các ngài hướng những nguyện ước mãnh liệt của các ngài
đến sự cứu độ và giải thoát chúng sanh. Trái tim của chính ngài thì thoát
khỏi những chấp trước như những kẻ chưa chứng ngộ thường tôn giữ, mà lại
cảm thấy kiên định vì trí tuệ cùa các ngài đã không phá diệt điều nầy, và
từ đó mà có các bổn nguyện, các phương tiện thiện xảo và các Hóa Thân của
các ngài. Nhưng tất cả những gì mà các ngài làm để làm chín muồi tất cả
mọi chúng sanh để đáp ứng yêu cầu của họ và cũng giống như ánh trăng trong
nước, các ngài hiện ra đủ mọi hình tướng mà thuyết pháp. Hoạt động của các
ngài thuật ngữ Đại Thừa gọi là Vô Công Dụng Hạnh, nghĩa là những hành động
không dụng công, không tác động, không mục đích. Khi vị Bồ Tát nhập vào
địa thứ nhất gọi là Hoan Hỷ Địa, trong sự nghiệp tu tập tâm linh, ngài
phát ra mười lời nguyện bao trùm toàn bộ vũ trụ, trải rộng tới cuối chỗ
không gian, đạt đến tận cùng của thời gian, hết tất cả các kiếp và vẫn vận
hành không gián đoạn khi có Đức Phật xuất hiện—According to The Studies
in The Lankavatara Sutra, written by Zen Master D.T. Suzuki, according to
his transcendental insight into the truth of things, the Bodhisattva knows
that it is beyond all oredicates and not at all subject to any form of
description, but his heart full of compassion and love for all beings who
are unable to step out of the dualistic whirlpools of “becoming” or not
becoming,” he directs his vows towards their salvation and emancipation.
His own heart is free from such attachments as are ordinarily cherished by
the unemancipated, but that which feels persists, for his insight has not
destroyed this, and hence his Purvapranidhana, his Upayakausalya, his
Nirmanakaya. Yet all that he does for the maturity of all beings in
response to their needs, is like the moon reflection in water, showing
himself in all forms and appearances he preaches to them on the Dharma.
His activity is what is in Mahayana phraseology called “Anabhogacarya,”
deeds that are effortless, effectless, and purposeless. When the
Bodhisattva enters upon the first stage called Joy or Pramudita, in the
career of his spiritual discipline, he makes the following solemn vows,
ten in number, which, flowing out of his most earnest determined will, are
as all-inclusive as the whole universe, extending to the extremity of
space itself, reaching the end of time, exhausting all the number of
kalpas or ages, and functioning uninterruptedly as long as there is the
appearance of a Buddha.
1) Nguyện
thứ nhất—The first vow: Tôn kính và phụng sự hết thảy chư Phật, một vị và
tất cả, không trừ ra vị nào—To honour and serve all the Buddhas, one and
all without a single exception.
2) Nguyện
thứ hai—The second vow: Mãi mãi hộ trì giáo pháp của chư Phật—To work for
the preservation and perpetuation of the teaching of all the Buddhas.
3) Nguyện
thứ ba—The third vow: Có mặt khi mỗi Đức Phật xuất hiện, dù bất cứ ở đâu
hay bất cứ lúc nào—To be present at the appearance of each Buddha,
wherever and whenever it may be.
4) Nguyện
thứ tư—The fourth vow: Thực hành Bồ Tát hạnh là rộng lớn vô lượng, vô tận,
vượt khỏi mọi ô nhiễm, và mở rộng các ba la mật hay đức hạnh toàn hảo đến
tất cả chúng sanh—To practice the proper conduct of Bodhisattvahood which
is wide and measureless, imperishable and free from impurities, and to
extend the Virtues of Perfection (paramitas) towards all beings.
5) Nguyện
thứ năm—The fifth vow: Đưa chúng sanh bằng những lời lẽ dễ hiểu nhất để
đến với giáo lý của chư Phật khiến họ có thể tìm thấy chỗ an trú tối hậu
trong trí tuệ của các bậc toàn trí—To induce all beings in the most
comprehensive sense of the term to turn to the teaching of the Buddhas so
that they may find their final abode of peace in the wisdom of the
all-wise ones.
6) Nguyện
thứ sáu—The sixth vow: Có một nhận thức tự nội về vũ trụ rộng rãi và vô
tận trong tất cả các mọi khía cạnh phức tạp của nó—To have an inner
perception of the universe, wide and inexhaustible, in all its possible
multitudinousness.
7) Nguyện
thứ bảy—The seventh vow: Thể hội mối tương quan hỗ tương xâm nhập chặt chẻ
của một và tất cả, của tất cả và một, và làm cho mọi quốc độ của chúng
sanh thanh khiết như một quốc độ của Phật—To realize the most closely
interpenetrating relationship of each and all, of all and each, and to
make everyland of beings immaculate as a Buddha-land.
8) Nguyện
thứ tám—The eighth vow: Kết hợp với hết thảy chư Bồ Tát trong sự nhất thể
của ý định, trở nên thân thiết với phẩm chất, sự hiểu biết và điều kiện
tâm linh của chư Như Lai, khiến cho vị Bồ tát có thể nhập vào mọi giới
chúng sanh mà thành tựu Đại Thừa, là giáo pháp vượt khỏi mọi tư nghì—To be
united with all the Bodhisattvas in oneness of intention, to become
intimately acquainted with the dignity, understanding, and psychic
condition of the Tathagatas, so that the Bodhisattva can enter any society
of beings and accomplish the Mahayana which is beyond thought.
9) Nguyện
thứ chín—The ninth vow: Xoay bánh xe bất thối chuyển mà từ đó thực hiện
công việc phổ độ của mình bằng cách tự làm cho mình giống như vị đại y sư
hay như viên ngọc Mani—To evolve the never-receding wheel whereby to carry
out his work of universal salvation, by making himself like unto the great
lord of medicine or wish-fulfilling gem.
10) Nguyện
thứ mười—The tenth vow: Thể chứng sự chứng ngộ tối thượng trong mọi thế
giới bằng cách vượt qua các Bồ Tát địa và thành tựu các nguyện ước của mọi
chúng sanh bằng một tiếng nói, và trong khi tỏ hiện mình ở trong Niết Bàn,
vẫn không ngừng thực hiện các mục đích của quả vị Bồ Tát—To realize the
great supreme enlightenment in all the worlds, by going through the stages
of Buddhahood, and fulfilling the wishes of all beings with one voice, and
while showing himself to be in Nirvana, not to cease from practicing the
objects of Bodhisattvahood.
Thập Nguyện Vương: The King of
the Ten Vows—Samantabhadra—See Thập Đại Nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền.
Thập Ngưu Đồ: The ten
ox-pictures:
1) Tìm
trâu: Looking for an ox—Seeking the ox.
2) Thấy
dấu: Seeing its tracks—Finding the tracks.
3) Thấy
trâu: Seeing the ox—First glympse of the ox.
4) Được
trâu: Catching it—Catching the ox.
5) Chăn
trâu: Feeding the ox—Taming the ox.
6) Cỡi
trâu về nhà: Riding the ox home—Riding the ox home.
7) Quên
trâu còn người: Ox dies, man lives—Forgetting the ox—Self alone.
8) Người
trâu đều quên: Both dead—Forgetting the ox and self.
9) Trở về
nguồn cội: Return whence both came—Returning to the source.
10) Thõng tay
vào chợ (vào chốn trần ai): Enter the dust—Entering the market place with
helping hands.
Thập Nhãn: Ten kinds of eyes:
1) Nhục
nhãn: Eyes of flesh—Ordinary eyes—Worldly eyes.
2) Thiên
nhãn: Deva eyes.
3) Huệ
nhãn: Wisdom eyes.
4) Pháp
nhãn: Dharma eyes.
5) Phật
nhãn: Buddha eyes.
6) Trí
nhãn: Eyes of judgment.
7) Quang
minh nhãn: Eyes shining with Buddha-light.
8) Xuất
sinh tử nhãn: Immortal eyes.
9) Vô
ngại nhãn: Unhindered eyes.
10) Nhứt
thiết trí nhãn: Omniscient eyes.
Thập Nhân: Ten Causes—See Thập
Nhân Thập Quả.
Thập Nhân Thập Quả: Theo Kinh
Thủ Lăng Nghiêm, quyển Tám, Đức Phật đã nhắc nhở ngài A Nan về thập nhân
thập quả như sau—According to the Surangama Sutra, book Eight, the Buddha
reminded Ananda about the ten causes and ten effects as follows:
1) Dâm
Tập Nhân: Habits of lust or the habit of sexual desire.
a) Dâm
dục phát triển thành thói quen vì sự giao hợp trong đó hai người âu yếm
nhau và phát sanh sức nóng kích thích sự ham muốn. Chuyện nầy cũng giống
như việc chà xát hai tay với nhau: Lust grows into a habit because of
sexual intercourse in which two people caress each other thereby producing
heat that in turn stimulates desire. This is like the heat caused by
rubbing the hands together.
b) Nhân
dâm dục có quả báo là giường sắt nóng, cột đồng, tám địa ngục nóng (giường
sắt có nghĩa là sự ham muốn, và cột đồng có nghĩa là sự thèm muốn tình
dục): Adultery results in the iron bed, the copper pillar, and the eight
hot hells (the bed stands for sexual desire and the pillar for the partner
on whom the sinner depends to stimulate his sexual appetite).
c) Đức
Phật dạy: “Dâm tập giao tiếp, phát ra từ nơi cọ xát mãi không thôi. Như
vậy nên lúc chết thấy có lửa sáng, trong đó phát động. Ví dụ như người lấy
tay cọ xát nhau thấy có hơi nóng. Hai cái tập nương nhau khởi, nên có việc
giường sắt trụ đồng. Cho nên mười phương các Đức Phật nói dâm là lửa dục.
Bồ Tát thấy sự dâm dục như tránh hầm lửa.”—The Buddha taught: “Habits of
lust and reciprocal interactions which give rise to mutual rubbing. When
this rubbing continues without cease, it produces a tremendous raging fire
within which movement occurs, just as warmth arises between a person’s
hands when he rubs them together. Because these two habits set each other
ablaze, there come into being the iron bed, the copper pillar, and other
such experiences. Therefore, Thus Come Ones of the ten directions look
upon the practice of lust and name it the ‘fire of desire.’ Bodhisattvas
avoid desire as they would a fiery pit.”
2) Tham
Tập Nhân: Habits of greed (craving).
a) Nhân
tham lam quả báo là địa ngục lạnh: Covetousness results in the cold hells.
b) Đức
Phật dạy: “Tham tập giao kết, phát ra thu hút mãi không thôi. Như vậy nên
có chứa cái giá lạnh, trong đó lạnh lẽo. Ví dụ người lấy miệng hít gió,
thấy có hơi lạnh. Hai cái tập xô đẩy nhau, nên có những việc ba ba, tra
tra, la la, như băng lạnh, hoa sen trắng, đỏ, xanh. Vì thế mười phương
các Đức Phật nói tham cầu như là nước tham. Bồ Tát nên tránh tham như
tránh biển độc.”—The Buddha taught: “Habits of greed and intermingled
scheming which give rise to a suction. When this suction becomes dominant
and incessant, it produces intense cold and solid ice where freezing
occurs, just as a sensation of cold is experienced when a person draws in
a blast of wind through his mouth. Because these two habits clash
together, there come into being chattering, whimpering, and shuddering;
blue, red, and white lotuses; cold and ice; and other such expeirences.”
3) Mạn
Tập Nhân: Habits of arrogance.
a) Nhân
ngã mạn quả báo là bị rơi vào sông máu biển độc: Conceit results in blood
rivers and poisonous seas.
b) Đức
Phật dạy: “Mạn tập giao lấn, phát ra ỷ nhau, tuôn chảy mãi không thôi. Như
vậy nên có cuồn cuộn chảy, chứa sóng thành nước. Như lưỡi nếm vị, chảy
nước dãi vậy. Hai tập cổ động nhau, nên có các việc sông huyết, tro cát
nóng, biển độc, nước đồng, vân vân. Vì thế mười phương Phật gọi ngã mạn là
uống nước si. Bồ Tát nên tránh ngạo mạn như tránh chỗ sa lầy lớn.”—Habits
of arrogance and resulting friction which give rise to mutual
intimidation. When it accelerates without cease, it produces torrents and
rapids which create restless waves of water, just as water is produced
when a person continuously works his tongue in an effort to taste flavors.
Because these two habits incite one another, there come into being the
river of blood, the river of ashes, the burning sand, the poisonous sea,
the molten copper which is poured over one or which must be swallowed,
and other such experiences. Therefore, the Thus Come Ones of the ten
directions look upon self-satisfaction and name it ‘drinking the water of
stupidity.’ Bodhisattvas should avoid arrogance as they would a huge
deluge.”
4) Sân
Tập Nhân: Habits of hatred (anger)—Nhân sân hận quả báo là bị thiến, cắt,
đẽo: Hatred results in emasculation of sex organ—Đức Phật dạy: “Sân tập
xung đột xen nhau, phát từ nơi giận nhau, kết mãi không thôi. Tâm nóng nảy
phát ra lửa, hun đúc khí kết lại thành loại kim. Như vậy nên có các việc
đao sơn, kiếm thụ, và phủ việt. Như người bị hàm oan, đằng đằng sát khí.
Hai tập kích thích nhau, nên có các việc bị hình, chém, đâm, đánh, đập. Vì
thế mười phương Phật nói nóng giận tên là đao kiếm sắc. Bồ Tát tránh sân
như tránh sự tàn sát.”—Habits of hatred which give rise to mutual
defiance. When the defiance binds one without cease, one’s heart becomes
so hot that it catches fire, and the molten vapor turns into metal. From
it produced the mountain of knives, the iron cudgel, the tree of swords,
the wheel of swords, axes and halberds (cây kích), and spears and saws. It
is like the intent to kill surging forth when a person meets a mortal
enemy, so that he is roused to action. Because these two habits clash with
one another, there come into being castration and hacking, beheading and
mutilation, filing and sticking, flogging and beating, and other such
experiences. Therefore, the Thus Come Ones of the ten directions look upon
hatred and name it ‘sharp knives and swords.’ Bodhisattvas should avoid
hatred as they would their own execution.”
5) Trá
Tập Nhân: Gian trá lừa đảo quả báo là bị gông cùm roi vọt—Habits of
deceptions (deceitfulness) result in yokes and being beaten with rods—Đức
Phật dạy: “Trá tập dụ nhau, phát từ nơi dỗ nhau, dẫn dắt không thôi. Vì
vậy như dây quấn cây để sống, nước tưới ruộng thì cây cỏ sinh trưởng. Hai
tập nhân nhau, nên có các việc gông, xiềng, cùm, xích, roi, đánh, vân vân.
Vì thế mười phương Phật gọi gian ngụy là giặc hiểm. Bồ Tát nên tránh gian
trá như tránh lang sói.”—The Buddha taught: “Habits of deception and
misleading involments which give rise to mutual guile. When such
maneucering continues without cease, it produces the ropes and wood of
gallows for hanging, like the grass and trees that grow when water
saturates a field. Because these two habits perpetuate one another, there
come into being handcuffs and fetters, cangues and locks, whips and clubs,
sticks and cudgels, and other such experiences. Therefore, the Thus Come
Ones of the ten directions look upon deception and name it a ‘treacherous
crook.’ Bodhisattvas fear deception as they would a savage wolf.”
6) Cuốn
Tập Nhân: Habits of lying—Đức Phật dạy: “Cuốn tập dối nhau, phát từ nơi
dối gạt nhau, dối và vu khống mãi không thôi, buông tâm làm gian. Như vậy
nên có đồ bẩn thỉu, bụi bậm ô uế, như bụi theo gió, đều không thấy. Hai
tập giao nhau, nên có các việc chìm đắm, vụt, bay. Vì thế mười phương Phật
gọi lừa gạt là cướp giết. Bồ Tát tránh dối gạt như tránh rắn độc.”—The
Buddha taught: “Habits of lying and combined fraudulence which give rise
to mutual cheating. When false accusations continue without cease, one
becomes adept at corruption. From this there come into being dust and
dirt, excrement and urine, filth, stench, and impurities. It is like the
obscuring of everyone’s vision when the dust is stirred up by the wind.
Because these two habits augment one another, there come into being
sinking and drowning, tossing and pitching, flying anf falling, floating
and submerging, and other such experiences. Therefore, the Thus Come Ones
of the ten directions look upon lying and name it ‘robbery and murder.’
Bodhisattvas regard lying as they would treading on a venomous snake.”
7) Oan
Tập Nhân: Habits of animosity (resentment)—Đức Phật dạy: “Oan tập hiềm
nhau, phát từ nơi hàm hận. Như vậy nên có những việc ném đá, ném gạch,
nhốt cũi, rọ, như người âm độc, lòng chất chứa các sự ác. Hai tập lấn át
nhau, nên có những việc ném bắt, đánh, bắn. Vì thế mười phương Phật gọi
oan gia là quỷ phá hoại. Bồ Tát tránh oan gia như rượu độc.”—Habits of
animosity and interconnected enmity which give rise to grievances. From
this there come into being flying rocks, thrown stones, caskets and
closets, cages on wheels, jars and containers, and bags and rods. It is
like someone harming others secretly. He harbors, cherishes, and nurtures
evil. Because these two habits swallow one another up, there come into
being tossing and pitching, seizing anf apprehending, striking and
shooting, casting away and pinching, and other such experiences. .
Therefore, the Thus Come Ones of the ten directions look upon animosity
and name it a ‘disobedient and harmful ghost.’ Bodhisattvas regard
animosity as they would drinking poisonous wine.”
8) Kiến
Tập Nhân: Habits of views (wrong views)—quả báo của kiến tập là bị tra tấn
khảo đảo: Wrong views result in torture—Đức Phật dạy: “Kiến tập giao minh,
như thân kiến, kiến thủ, giới cấm thủ, tà giải, các nghiệp. Phát từ nơi
chống trái, sinh ra trái nhau. Như vậy nên có sứ vua, chủ lại cầm văn tịch
làm chứng. Ví như người đi đường qua lại gặp nhau. Hai tập giao nhau, nên
có các việc tra hỏi, gian trá, xét gạn, khám tra, vạch cứu, soi rõ, và
thiện ác đồng tử tay cầm quyển sổ để biện bạch. Vì thế mười phương Phật
gọi ác kiến là hầm ái kiến. Bồ Tát tránh các sự thiên chấp hư vọng như xa
vũng nước độc.”—The Buddha taught: “Habits of views and the admixture of
understandings, such as Satkayadrishti, views, moral prohibitions,
grasping, and deviant insight into various kinds of karma, which bring
about opposition and produce mutual antagonism. From them there come into
being court officials, deputies, certifiers, and registrars. They are like
people traveling on a road, who meet each other coming and going. Because
these two habits influence one another, there come into being official
inquiries, baited questions, examinations, interrogations, public
investigations, exposure, the youth who record good and evil, carrying the
record books of the offenders’ arguments and retionalizations, and other
such experiences. Therefore, the Thus Come Ones of the ten directions look
upon evil views and name them the ‘pit of views.’ Bodhisattvas regard
having false and one-sided views as they would standing on the edge of a
steep ravine full of poison.”
9) Uổng
Tập Nhân: Habits of injustice (unfairness)—Đức Phật dạy: “Uổng tập xen
nhau, phát từ nơi vu báng. Như vậy cho nên có các việc hai hòn núi đá ép
lại, nghiền, xay. Ví dụ đứa giặc dèm pha, hại người lương thiện. Hai tập
xô đẩy nhau, nên có các việc giằng, ép, đè, nén, lọc, cân. Vì thế mười
phương Phật gọi vu oan là cọp biết dèm nói. Bồ Tát tránh sự vu oan như
tránh sét đánh.”—Habits of injustice and their interconnected support of
one another; they result in instigating false charges and libeling. From
them are produced crushing between mountains, crushing between rocks,
stone rollers, stone grinders, plowing, and pulverizing . It is like a
slanderous villain who engages in persecuting good people unjustly.
Because these two habits join ranks, there come into being pressing and
pushing, bludgeons and compulsion, squeezing and straining, weighing and
measuring, and other such experiences. Therefore, the Thus Come Ones of
the ten directions look upon harmful accusations and name them a
‘treacherous tiger.’ Bodhisattvas regard injustice as they would a bolt of
lightning.”
10) Tụng Tập
Nhân: Habits of litigation (disputation)—Đức Phật dạy: “Tụng tập giao
huyên, phát từ che dấu. Như vậy nên có những việc gương soi thấy tỏ rõ, ví
như giữa mặt trời không thể dấu hình ảnh. Hai tập bày ra, nên có các bạn
ác tố cáo, nghiệp cảnh hỏa châu, vạch rõ và đối nghiệm nghiệp đời trước.
Vì thế mười phương Phật gọi che dấu là âm tặc. Bồ Tát tránh che dấu như bị
đội núi cao đi trên biển cả.”—Habits of litigation and the mutual
disputations which give rise to covering. From them there are produced a
look in the mirror and illumination by the lamp. It is like being in
direct sunlight. There is no way one can hide one’s shadow. Because these
two habits bicker back and forth, there come into being evil companions,
the mirror of karma, the fiery pearl, exposure of past karma, inquests,
and other such experiences. Therefore, all the Thus Come Ones of the ten
directions look upon covering and name it a ‘yin villain.’ Bodhisattvas
regard covering as they would having to carry a mountain atop their heads
while walking upon the sea.”
Thập Nhẫn: Theo Kinh Hoa
Nghiêm, Phẩm 29—Thập Nhẫn, có mười loại nhẫn. Chư Bồ Tát được mười nhẫn
nầy thời được đến nơi vô ngại nhẫn địa của tất cả Bồ Tát—According to The
Flower Adornment Sutra, there are ten kinds of acceptance. Enlightening
Beings who attain these ten acceptances will manage to arrive at the
stage of unhindered acceptance.
1) Âm
thanh nhẫn: They are acceptance of the voice of the Teaching.
2) Thuận
nhẫn: Conformative acceptance.
3) Vô
sanh pháp nhẫn: Acceptance of the nonorigination of all things.
4) Như
huyễn nhẫn: Acceptance of illusoriness.
5) Như
diệm nhẫn: Acceptance of being miragelike.
6) Như
mộng nhẫn: Acceptance of being dreamlike.
7) Như
hưởng nhẫn: Acceptance of being echolike.
8) Như
huyễn nhẫn: Acceptance of being like a reflection.
9) Như
hóa nhẫn: Acceptance of being fanthomlike.
10) Như hư
không nhẫn: Acceptance of being spacelike.
Thập Nhất Sắc: Mười một loại
sắc—Eleven kinds of rupa—See Sắc (C).
Thập Nhị Bộ Kinh: Twelve sutras
(which are classifications of the Buddha’s teachings.
1) Khế
Kinh: Sutra (skt)—Những bộ kinh lớn ghi lại những lời Phật dạy hay toàn bộ
Phật Pháp—Large volumes of the Buddha teachings; sutra is also often used
in general to refer to all Buddha Teachings.
2) Kỳ Dạ:
Geya (skt)—Giáo thuyết mà Đức Phật lặp lại lời thuyết giảng của Ngài bằng
thi thơ—Teachings in which the Buddha repeats his verbal teaching in
poetry.
3) Thọ
Ký: Vyakarana (skt)—Những lời Đức Phật thọ ký cho các đệ tử của
Ngài—Doctrine containing Buddha giving prophecies of attaining Buddhahood
for his disciples.
4) Phúng
Tụng: Gatha (skt)—Doctrine for chanting such as Amitabha Buddha Sutra.
5) Tự
Thuyết: Vdana (skt)—Những kinh mà Đức Phật tự thuyết, chứ không cần phải
đợi ai hỏi—Sutras the Buddha taught without anyone asking a question, such
as the Amitabha Buddha Sutra, etc.
6) Nhơn
Duyên: Nidana (skt)—Những kinh điển mà Đức Phật dựa vào điều kiện hay hoàn
cảnh bên ngoài để giáo thuyết như Kinh Hoa Nghiêm—Sutras in which the
Buddha relied on a condition or circumstance to teach, such as the
Avatamsaka Sutra.
7) Thí
Dụ: Avadana (skt)—Kinh điển Đức Phật dùng những thí dụ để giáo
thuyết—Sutras where the Buddha uses an example to teach the Dharma.
8) Bổn
Sự: Iturtaka (skt)—Kinh điển nói về giáo thuyết và bổn hạnh của các Đức
Phật thời quá khứ—Teachings where the Buddha speaks of the actions or the
Dharma Past Buddhas taught.
9) Bổn
Sanh: Jataka (skt)—Kinh điển nói về Đức Phật Thích Ca trong những đời quá
khứ khi Ngài còn là Bồ Tát—Teachings giving accounts of the practices of
Sakyamuni Buddha while he was still a Bodhisattva cultivating to attain
Buddhahood.
10) Phương
Quảng: Vaipulya (skt)—Những kinh điển Đại Thừa từ thấp đến cao như Kinh
Pháp Hoa, Hoa Nghiêm và Đại Bát Niết Bàn, vân vân—Various Mahayana Sutras
which are encompassing all Dharmas from lowest to highest level, such as
the Dharma Flower Sutra, Avatamsaka Sutra, Maha-Nirvana Sutra, etc.
11) Vị Tằng
Hữu: Adbhutahdharma (skt)—Kinh điển nói về những thần thông siêu việt,
ngoài sức tưởng tượng của phàm phu—Sutras which teach various extremely
extraordinary spiritual penetrations beyond the scope of the unenlightened
sentient beings.
12) Luận
Nghị: Upadesa (skt)—Những luận nghị về kinh điển Phật pháp—Commentaries
and explanations of the Buddha’s teachings.
Thập Nhị Chân Như: Mười hai
chân như—The twelve aspects of the Bhutatathata:
1) Chân
như: Void—Immaterial.
2) Pháp
giới: Dharma—As the medium of all things.
3) Pháp
tánh: As the nature of all things.
4) Bất hư
vọng tánh: Reality contra the unreality of phenomena.
5) Bất
biến dịch tánh: Immutability contra mortality and phenomenal variation.
6) Bình
đẳng tánh: Universal—Undifferentiated.
7) Ly
sanh tánh: Immortal—Apart from birth and death—Creation and destruction.
8) Pháp
định: Eternal—Nature ever sure.
9) Pháp
tánh: The abode of all things.
10) Thực tế
(chỗ chân thật của chư pháp): The bound of all reality.
11) Hư không
giới: Immortality—The void—The realm of space.
12) Bất tư
nghì giới: The realm beyond thought of expression.
Thập Nhị Chân Thật Hảo Tâm Bố Thí Nhân:
Mười hai hạng người chân thật hảo tâm bố thí—twelve kinds of people who
have a truly good heart and genuinely give.
1) Làm
việc lợi ích cho người mà chẳng cần trả ơn: benefit others without asking
for anything in return.
2) Làm
việc giúp đỡ cho người mà chẳng cần quả báo: Help others without wishing
for something in return.
3) Cúng
dường cho người mà chẳng cần sự báo ơn: Make offerings to others without
wishing for compensation, not even to be thanked.
4) Tự
nhún nhường để làm cho lòng muốn của kẻ khác được đầy dủ: Lower
themselves, or less emphasis on self-importance, so others’ wishes will be
fully realized.
5) Việc
khó bỏ xả mà bỏ xả được: Let go of things that are difficult to let go.
6) Việc
khó nhịn mà nhịn được: Tolerate things that are difficult to tolerate.
7) Việc
khó làm mà làm được: Able to accomplish things that are difficult to
accomplish.
8) Việc
khó cứu mà cứu được: Able to rescue when it is difficult to rescue.
9) Chẳng
luận thân sơ, cũng vẫn cứ một lòng lấy cái tâm bình đẳng như nhau ra mà
cứu giúp và làm đúng như sự thật: Do not discriminate between relatives or
strangers, but maintain an equal and fair mind in helping others as well
as carrying out conducts that are proper to the truths.
10) Hễ miệng
nói tốt là thực hành được ngay lời nói tốt ấy, có nghĩa là ngôn hành tương
ưng: If able to speak of goodness, then they should be able to “make
good” what they say. This means speech and action are consistent with one
another.
11) Tâm hiền
thường làm các việc tốt mà miệng chẳng khoe khoang: Kind and gentle souls
who often carry out wholesome conducts without boasting to everyone.
12) Ý nghĩ
chỉ đơn thuần là muốn giúp đỡ cho người mà thôi, chớ chẳng cần danh vọng,
khen tặng, hay lợi ích chi cho mình: Their only intent is simply to help
others. Otherwise, they do not hope for fame, praise, notoriety or for
self-benefits.
Thập Nhị Chủng Sanh Tử: Thập
Nhị Phẩm Sanh Tử—Mười hai loại sanh tử—The twelve kinds of life and death:
1) Vô Dư
Tử: Arhat (skt)—Final separation from mortality of the arhat, with no
remains of its causing return—See A La Hán, A La Hán Quả, and Tứ Thánh
Quả.
2) Độ Ư
Tử: Anagamin (skt)—Final death and no rebirth—See A Na Hàm, and Tứ Thánh
Quả.
3) Hữu Dư
Tử: Tư Đà Hàm—Once-returner—See Sakradagamin (skt) and Tứ Thánh Quả.
4) Học Độ
Tử: Tu Đà Huờn—Dự Lưu hay Thất Lai—Stream-enterer or seven advancing
rebirths of the Srta-apanna—See Srota-apanna (skt), and Tứ Thánh Quả.
5) Vô Số
Tử: Hạng người với bát nhẫn trí—Rebirths as human beings with eight ksanti
or powers of patience endurance.
6) Hoan
Hỷ Tử: Hạng người chịu tu tập Nhất Thiền—Rebirths as human beings with
mental development powers.
7) Số Số
Tử: hạng người ác giới—rebirths as evil human beings.
8) Hối
Tử: Rebirths as ordinary human beings.
9) Hoạnh
Tử: Hạng người cô độc cùng khổ—Rebirths as extremely solitary and
miserable human beings.
10) Phược Khổ
Tử: Súc sanh—Rebirths as animals.
11) Thiêu Lạn
Tử: Sanh tử trong địa ngục—Rebirths in the hells.
12) Cơ Khát
Tử: The births-cum-deaths of hungry ghosts.
Thập Nhị Du Kinh:
Dvadasaviharana sutra (The life of Sakyamuni to his twelfth year).
Thập Nhị Duyên Khởi: The twelve
links of “Cause and Effect” or “Karmic Causality.”
1) Vô
minh: Ignorance—Unenlightenment.
2) Hành:
Action—Moving—Activity—Conception—Disposition.
3) Thức:
Consciousness.
4) Danh
sắc: Name and Form.
5) Lục
Nhập: Six Organs (mắt,tai mũi, lưỡi, thân, ý/eye, ear, nose, tongue, body,
mind).
6) Xúc:
Contact—Touch.
7) Thọ:
Feeling or Perception—Sensation.
8) Ái:
Thirst—Desire—Craving—Attachment.
9) Thủ:
Grasping—Laying hold of.
10) Hữu:
Being—Existing—Owning or Possessing.
11) Sanh:
Birth.
12) Lão Tử:
Old Age, Illness and Death.
Vì vô minh mà tâm nầy vọng
động. Vọng động là mắc xích thứ hai. Nếu tâm vọng động, mọi thứ vọng động
từ từ sinh khởi là Hành. Do Hành mà có Tâm Thức, mắc xích thứ ba. Do Thức
mà có Cảnh, là mắc xích thứ tư. Do cảnh mà khởi lên mắc xích thứ năm là
Danh Sắc. Danh sắc hợp nhau lại để thành lập mọi thứ khác và dĩ nhiên
trong thân chúng sanh khởi lên sáu căn. Khi sáu căn nầy tiếp xúc với nội
và ngoại trần thì mắc xích thứ sáu là Xúc khởi dậy. Sau Xúc là mắc xích
thứ bảy Cảm Thọ. Khi những vui, buồn, thương, giận, ganh ghét, vân vân đã
được cảm thọ thì mắc xích thứ tám là Ái sẽ khởi sinh. Khi luyến ái chúng
ta có khuynh hướng giữ hay Thủ những thứ mình có, mắc xích thứ chín đang
trỗi dậy. Chúng ta luôn luôn nắm giữ sở hữu chứ không chịu buông bỏ, mắc
xích thứ mười đang cột chặt chúng ta vào luân hồi sanh tử. Do Hữu mà có
Sanh (mắc xích thứ mười một), Lão, Bịnh, Tử (là mắc xích thứ mười
hai)—Because of ignorance, the mind is moved. This Moving is the second
link. If the mind is moved, it will move everything. So everything else
comes into being due to that initial Moving. Subsequent to this Moving,
the third link of Consciousness arises. Owing to the consciousness wrong
views arise, that’s the fourth link. Because of the wrong views, arising
the fifth link of Form and Name. Form (visible), Name (invisible) combine
themselves together to form everything else and of course there arises the
Six Roots or Six Senses. When the six senses come into contact with the
internal and external, the sixth link of Contact arises. After the arising
of Contact, Perception or Feeling is brought forth. When happiness,
unhappiness, anger, love, jealousy, etc are all perceived, the eighth link
of attachment arises. When we attached to our perceptions, we have a
tendency to grasp on whatever we have. It’s very difficult to detach
ourselves from them, the ninth link of Grasping arises. We always grasp
our feelings very strongly and never let go what we grasp in hands, the
tenth link of Owning or Possessing arises to bind us tightly with the
samsara. Subsequent to Owning, there will arise Birth (the eleventh link),
Old Age, Illness and Death (the twelfth link).
Thập Nhị Dược Xoa Đại Tướng:
Theo Kinh Dược Sư, có mười hai vị Dược Xoa đại tướng—According to the
Bhaisajyaguru vaidurya Prabhasa Sutra, there are twelve Yaksha generals,
they are :
1)
Cung tì la Đại tướng: General Kumbhira.
2)
Phạt chiếc la đại tướng: General Vajra.
3)
Mê-Súy-La đại tướng: General Mihira.
4)
An-Để-La đại tướng: General Andira.
5)
Át Nể La đại tướng: General Majira.
6)
San-Để-La đại tướng: General Shandira.
7)
Nhơn Đạt La đại tướng: General Indra.
8)
Ba Di La đại tướng: General Pajra.
9)
Ma Hổ La đại tướng: General Makuram.
10)
Chơn Đạt La đại tướng: General Sindura.
11)
Chiêu Đỗ La đại tướng: General Catura.
12)
Tỳ Yết La đại tướng: General Vikarala.
---Mười hai vị đại
tướng nầy mỗi vị đều có bảy ngàn Dược Xoa làm quyến thuộc đồng cất tiếng
bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, hôm nay chúng tôi nhờ oai lực của Phật
mà được nghe danh hiệu của Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, không còn tâm
sợ sệt trong các đường ác thú nữa. Chúng tôi cùng nhau, đồng một lòng trọn
đời quy-y Phật, Pháp, Tăng, thề sẽ gánh vác cho chúng hữu tình, làm việc
nghĩa lợi đưa đến sự nhiêu ích an vui. Tùy nơi nào hoặc làng xóm, thành,
nước, hoặc trong rừng cây vắng vẻ, nếu có kinh nầy lưu bố đến hay có người
thọ trì danh hiệu Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai và cung kính cúng dường
Ngài, thì chúng tôi cùng quyến thuộc đồng hộ vệ người ấy thoát khỏi tất cả
ách nạn và khiến họ mong cầu việc chi cũng đều được thỏa mãn. Nếu có ai bị
bịnh hoạn khổ ách, muốn cầu cho khỏi thì cũng nên đọc tụng kinh nầy và lấy
chỉ ngũ sắc gút danh tự chúng tôi, khi đã được như lòng mong cầu thì mời
mở gút ra.
Each of the twelve
Yaksha General has an army of seven thousand Yakshas. The unanimously
pledged to the Buddha. “Lokajyestha, by the Buddha’s power, we have
learned of the name Lokajyestha Bhaisajyaguru vaidurya Prabhasa Tathagata,
we have no more fear or evil rebirth. We all sincerely take refuge in the
Buddha, the Dharma and the Sangha for the rest of our natural lives. We
will serve all beings, promote their benefit and comfort. Any town or
village, country or forest, wherever this Sutra is preached, and wherever
the name Bhaisajyaguru Vaidurya Prabhasa Tathagata is venerated, we and
our army will protect the faithful and rescue them from calamity. All
their wishes will be fulfilled. Those in sickness and danger should recite
this sutra. They should take a five colored skein, and tie it into knots
to form our names. They can untie the knots when the wishes are fulfilled.
Thập Nhị Đại Thừa Kinh: Anga or
Tripitaka (skt)—Mười hai bộ kinh Đại Thừa gồm nhiều thể loại khác nhau—The
twelve divisions of Mahayana canon—The twelve kinds of Buddhist scriptures
distinguished according to different styles of exposition:
(A) Arranged
in Pali Scriptures—Sắp xếp trong Kinh Tạng Pali.
1)
Tu-Đa-La (Khế Kinh): Sutra (skt)—Kinh Trường hàng là những bài pháp dài,
ngắn hay trung bình do Đức Phật thuyết giảng trong nhiều trường hợp như
kinh Hạnh Phúc, Kinh Trân Bảo, kinh Từ Tâm, vân vân—The Buddha’s
exposition of the Dharma in prose. These are short, medium, and long
discourses expounded by the Buddha on various occasions, such as the
Discourse on Blessings (Mangala Sutta), The Jewel Discourse (Ratana
Sutta), Discourse on Goodwill (Metta Sutta), etc.
2) Kỳ Dạ
(dịch theo mới là Ứng Tụng—dịch theo cũ là Trùng Tụng): Geya (skt)—Kệ
trùng tụng, có nghĩa là lặp lại kinh văn giảng thuyết ở đoạn trên (xưa Đức
Phật vì muốn lợi lạc chúng sanh nên sau khi thuyết giảng cho các Tỳ Kheo
ngài đã đặt tụng giải thích cho người đời sau), như Kinh Tương Ưng
Bộ—Singing—songs, or verses which repeat the ideas already expressed in
the preceding prose, in honour of the saints, such as the Sagathavagga of
the Samyutta Nikaya.
3) Già Đà
(Phúng tụng—Cô khởi tụng hay những bài kệ chưa có trong bài thuyết giảng.
Già Đà gồm những bài kệ trong Kinh Pháp Cú, Trưởng Lão Tăng Kệ, Trưởng Lão
Ni Kệ, vân vân: Gatha (skt)—Verses containing ideas not expressed in
prose. Gatha includes verses found in the The Way of Truth (Dhammapada),
Psalms of the Brethren (Theragatha), and Psalms of the Sisters
(Therigatha), etc.
4) Ni Đà
Na: Nidana (skt)—Thuyết giảng nhơn duyên—Narratives of the past which
explain a person’s present state.
5) Y Đế
Mục Đa Già: Itivrttaka (skt)—Itivuttaka (p)—Nói về tiền thân của các vị
đệ tử của Phật. Itivuttaka gồm 112 bài thuyết pháp của Đức Phật nằm trong
bộ Tạp A Hàm—Narratives of past lives of the Buddha’s disciples.
Itivuttaka includes 112 discourses in the Khuddaka Nikaya.
6) Xà Đa
Già (Bổn Sanh): Jataka (skt)—Bổ Sanh Kinh, gồm 547 chuyện kể về tiền thân
Đức Phật—Jataka includes 547 birth-stories or narratives of past lives of
the Buddha.
7)
A-Phù-Đạt-Ma (Vị Tằng Hữu): Adbhuta-dharma (skt)—Vị Tằng Hữu, thuyết về
những pháp vi diệu mà Phật hay chư Thiên đã từng thực hành. Kinh Vị Tằng
Hữu gồm những bài kinh trong Kinh Trung A Hàm—Accounts of miracle or
wonderful dharmas performed by the Buddha or a deva. The Adbhutadharma
includes a portion of the Majjhima Nikaya.
8)
A-Ba-Đà-Na (Thí Dụ): Avadana (skt)—Kinh Thí Dụ—An exposition of the Dharma
through allegories.
9)
Ưu-Ba-Đề-Xá: Upadesa (skt)—Kinh Luận Nghị, thuyết về lý luận—Discussions
of doctrine.
10) Ưu Đà Na
(Tự Thuyết): Udana (skt)—Kinh Vô Vấn Tự Thuyết, hay kinh mà Đức Phật tự
thuyết vì thấy nhu cầu cần thiết của chúng sanh, chứ không cần đợi ai hỏi,
như Kinh A Di Đà, và một phần của Tạp A Hàm—Sutra which spoken voluntarily
without being asked. An exposition of the Dharma by the Buddha without
awaiting questions or requests from his disciples, i.e. Amitabha Sutra,
and a portion of the Khuddaka Nikaya.
11) Tỳ Phật
Lược (Phương Quảng): Vaipulya (skt)—Phương Quảng—An extensive exposition
of principles of truth.
12) Hòa Ca La
(Thọ Ký): Vyakarana (skt)—Veyyakarana (p)—Kinh Thọ Ký, Phật nói về tương
lai thành Phật của những vị đệ tử của Ngài—Prophecies by the Buddha
regarding his disciples’ attainment of Buddhahood.
(B) Sắp xếp
trong Kinh Tạng Trung Hoa—Arranged in Chinese Scriptures.
1) Chánh
Kinh: Principal Sermons.
2) Ca
Vịnh: Metrical Pieces.
3) Ký
Thuyết: Prophecies.
4) Kệ
Tha: Verses.
5) Nhơn
Duyên: Introductory Parts.
6) Tuyển
Lục: Selections—Quotations.
7) Bổn
Khởi: Story of the Past.
8) Thử
Thuyết: This is said.
9) Sanh
Khởi: Birth Places.
10) Quảng
Giải: Detailed Explanations.
11) Vị Tằng
Hữu: Wonderful Dharmas.
12) Thuyết
Nghĩa: Explanation of Meaning.
Thập Nhị Duyên Khởi: See Thập
Nhị Nhân Duyên.
Thập Nhị Hạnh Đầu Đà: Hạnh tu
đầu đà nhằm giúp hành giả thanh tịnh thân tâm và giải thoát khỏi tham dục
về ăn uống, áo quần, nơi ở. Có 12 phép tu đầu đà quan hệ đến quần áo, thực
phẩm, và nơi ở—Ascetic practices help practitioners purify the body and
mind and free from the desire of food, clothing and shelter. There are
twelve kinds of dhuta relating to release from ties to clothing, food, and
dwelling.
1) Mặc áo
nạp y hay phấn tảo y, thứ áo khâu lại bằng những mảnh vải mà người ta đã
vứt đi: Garments of cast-off rags.
2) Chỉ có
tam y hay ba loại áo Tăng Già Lê, Uất Đa La, và An Đà Hội: To wear only
three garments.
3) Chỉ ăn
đồ khất thực, chứ không nhận đồ ăn của người khác mời: Eat only food
begged.
4) Chỉ ăn
sáng và bữa ngọ là chính (không ăn sau giờ ngọ, nghĩa là sau 1 giờ chiều):
Eat only breakfast and the main noon meal.
5) Nhất
tọa thực, nghĩa là chỉ ăn đúng buổi chứ không ăn vặt: No food between them
(breakfast and the noon meal).
6) Tiết
Lượng Thực: Ăn uống tiết độ, chỉ được ăn cơm và thức ăn đựng trong bát
khất thực của mình, hết thì thôi, chứ không lấy thêm—Eat with limited
amount, only eat what you have in the begging bowl without asking for
more.
7) A Lan
Nhã Xứ hay Viễn Ly Xứ, tức là ở nơi đồng không mông quạnh xa hẳn nơi dân
cư: Dwelling as a hermit.
8) Trủng
Gian Tọa: Ở nơi mồ mã nghĩa địa—Dwelling among tombs.
9) Thụ Hạ
Tọa: Ở dưới gốc cây—Dwelling under a tree.
10) Lộ Địa
Tọa: Ở nơi trống trải không cần có thứ gì che mát—Dwelling under the open
sky.
11) Tùy tọa:
Chỗ nào cũng có thể ở được—Dwelling anywhere.
12) Thường
tọa bất ngọa: Thường ngồi chứ không nằm—Sitting and not lying down.
Thập Nhị Loại Chúng Sanh:
Twelve categories of living beings—Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, quyển Bảy,
Đức Phật đã nhắc ngài A Nan về mười hai loại chúng sanh—In the Surangama
Sutra, book Seven, the Buddha reminded Ananda about the twelve categories
of living beings.
1) Noãn
sanh (trứng sanh): Born through egg—Bởi nhân thế giới hư vọng luân hồi,
động điên đảo, hòa hợp với khí thành tám vạn bốn nghìn loài bay, bơi
loạn tưởng. Như vậy nên có loài từ trứng sinh, lưu chuyển trong các quốc
độ, như loài cá, chim, rùa, rắn, đầy dẫy trong thế giới—Through a
continuous process of falseness, the upside-down state of movement occurs
in this world. It unites with energy to become eighty-four thousand kinds
of random thoughts that either fly or sink. From this there come into
being the egg kalalas which multiply throughout the lands in the form of
fish, birds, amphibians, and reptiles, so that their kinds abound.
2) Thai
sinh: Born through womb—Bởi nhân thế giới tạp nhiễm luân hồi, dục điên
đảo, hòa hợp thành tám vạn bốn nghìn loài hoành thụ, loạn tưởng. Như vậy
nên có loài từ thai sinh, như người, vật, tiên, rồng, đầy dẫy khắp thế
giới—Through a continuous process of defilement, the upside-down state of
desire occurs in this world. It unites with stimulation to become
eighty-four thousand kinds of random thoughts that are either upright or
perverse. From this there come into being the womb arbudas, which multiply
throughout the world in the form of humans, animals, dragons, and
immortals until their kinds abound.
3) Thấp
sinh: Born through moisture—Bởi nhân thế giới chấp trước luân hồi, thù
điên đảo, hòa hợp khí nóng thành tám vạn bốn nghìn loài phiên phúc loạn
tưởng. Như vậy nên có loài từ chỗ ẩm thấp sinh, như các loài trùng, sâu
bọ, vân vân, lưu chuyển đầy dẫy quốc độ—Through a continuous process of
attachment, the upside-down state of inclination occurs in this world. It
unites with warmth to become eighty-four thousand kinds of random thoughts
that are vacillating and inverted. From this there come into being through
moisture the appearance of peshis, which multiply throughout the lands in
the form of insects and crawling invertebrates, until their kinds abound.
4) Hóa
sinh: Born through transformation—Bởi nhân thế giới biến dịch luân hồi,
giả điên đảo, hòa hợp xúc thành tám vạn bốn nghìn loạn tưởng tân cố. Như
vậy có loài tự biến hóa sinh, như loài thay vỏ, thoát xác bay đi, lưu
chuyển đầy dẫy quốc độ—Through a continuous process of change, the
upside-down state of borrowing occurs in this world. It unites with
contact to become eighty-four thousand kinds of random thoughts of new and
old. From this there come into being through transformation the appearance
of ghanas, which multiply throughout the lands in the form of metamorphic
flying and crawling creatures, until their kinds abound.
5) Sắc
tướng sanh: Born through form—Bởi nhân thế giới lưu ngại luân hồi, chướng
điên đảo, hòa hợp chấp trước thành tám vạn bốn nghìn tinh diệu loạn
tưởng, như vậy nên có loài sắc tướng sanh, như loài tinh minh, xấu tốt,
lưu chuyển đầy dẫy trong quốc độ—Through a continuous process of
restraint, the upside-down state of obstruction occurs in this world. It
unites with attachment to become eighty-four thousand kinds of random
thoughts of refinement and brilliance. From this there come into being
the ghanas of appearance that possess form, which multiply throughout the
lands in the form of auspicious and inauspicious essences, until their
kinds abound.
6) Vô sắc
tướng sanh: Formless beings—Bởi nhân thế giới tiêu tản luân hồi, hoặc điên
đảo, hòa hợp u ám thành tám vạn bốn nghìn âm ẩn loạn tưởng. Như vậy nên
có loài vô sắc sinh, như loài không tản tiêu trầm lưu chuyển đầy dẫy
trong quốc độ—Through a continuous process of annihilation and dispersion,
the upside-down state of delusion occurs in this world. It unites with
darkness to become eighty-four thousand kinds of random thoughts of
obscurity and hiding. From this there come into being the ghanas of
formless beings, which multiply throughout the lands as those that are
empty, dispersed, annihilated, and submerged until their kinds abound.
7) Tưởng
tướng sanh: Beings with thought—Bởi nhân thế giới vọng tưởng luân hồi, ảnh
điên đảo, hòa hợp với ‘nhớ’ thành tám vạn bốn nghìn tiềm kiết loạn tưởng.
Như vậy nên có loài tưởng tướng sanh, như là quỷ thần, tinh linh, lưu
chuyển đầy dẫy trong quốc độ—Through a continuous process of illusory
imaginings, the upside-down state of shadows occurs in this world. It
unites with memory to become eighty-four thousand kinds of random thoughts
that are hidden and bound up. From this there come into being the ghanas
of those with thought, which multiply throughout the lands in the form of
spirits, ghosts, and weird essences, until their kinds abound.
8) Vô
tưởng sanh: Beings without thought—Bởi nhân thế giới ngu độn luân hồi, si
điên đảo, hòa hợp ngu ngoan, thành tám vạn bốn nghìn khô khan loạn tưởng.
Như vậy nên có loài vô tưởng sinh, như loài tinh thân hóa ra thảo mộc kim
thạch, lưu chuyển đầy dẫy quốc độ—Through a continuous process of dullness
and slowness, the upside-down state of stupidity occurs in this world. It
unites with obstinancy to become eighty-four thousand kinds of random
thoughts that are dry and attenuated. From this there come into being the
ghanas of those without thought, which multiply throughout the lands as
their essence and spirit change into earth, wood, metal, or stone, until
their kinds abound.
9) Chẳng
phải có sắc tướng sinh: Beings not totally endowed with form—Bởi nhân thế
giới tương đãi luân hồi, ngụy điên đảo, hòa hợp nhiễm thành tám vạn bốn
nghìn nhân y loạn tưởng. Như vậy nên có các loài chẳng phải có sắc tướng
sinh, như loài thủy mẫu, lưu chuyển đầy dẫy quốc độ—Through a continuous
process of parasitic interaction, the upside-down state of simulation
occurs in this world. It unites with defilement to become eighty-four
thousand kinds of random thoughts of according and relying. From this
there come into being those not totally endowed with form, who become
ghanas of form which multiply throughout the lands until their kinds
aboud, in such ways as jellyfish that use shrimp for eyes.
10) Chẳng
phải vô sắc sinh: Beings not totally lacking form—Bởi nhân thế giới tương
dẫn luân hồi, tính điên đảo, hòa hợp với phù chú mà thành tám vạn bốn
nghìn hô triệu loạn tưởng. Như vậy nên có loài chẳng phải không sắc sinh,
như loài yểm chú, lưu chuyển đầy dẫy quốc độ—Through a continuous process
of mutual enticement, an upside-down state of the nature occurs in this
world. It unites with mantras to become eighty-four thousand kinds of
random thoughts of beckoning and summoning. From this there come into
being those not totally lacking form, who take ghanas which are formless
and multiply throughout the lands, until their kinds abound, as the hiden
beings of mantras and incantations.
11) Chẳng
phải có tưởng sinh: Beings not totally endowed with thought—Bởi nhân thế
giới hợp vọng luân hồi, vỏng điên đảo, hòa hợp với các chất khác thành tám
vạn bốn nghìn hồi hỗ loạn tưởng. Như vậy nên có các loài chẳng phải có
tưởng sinh, như loài bồ lao, lưu chuyễn đầy dẫy quốc độ—Through a
continuous process of false unity, the upside-down state transgression
occurs in this world. It unites with unlike formations to become
eighty-four thousand kinds of random thoughts of reciprocal interchange.
From this come into being those not totally endowed with thought, which
become ghanas possessing thought and which multiply throughout the lands
until their kinds aboud in such forms as the varata, which turns a
different creature into its own species.
12) Chẳng
phải không tưởng sinh: Beings not totally lacking thought—Bởi nhân thế
giới oán hại luân hồi, sát điên đảo, hòa hợp quái thành tám vạn bốn nghìn
loài tưởng ăn thịt cha mẹ. Như vậy nên có các loài chẳng phải không tưởng,
mà vô tưởng, như loài thổ cưu và chim phá cảnh, lưu chuyển đầy dẫy quốc
độ—Through a continuous proces of empty and harm, the upside-down state
of killing occurs in this world. It unites with monstrosities to become
eighty-four thousand kinds of random thoughts of devouring one’s father
and mother. From this there come into being those not totally lacking
thought, who take ghanas with no thought and multiply throughout the
lands, until their kinds abound in such forms as the dirt owl, which
hatches its young from clods and dirt, and which incubates a poisonous
fruit to create its young. In each case, the young thereupon eat the
parents.
Thập Nhị Môn Luận:
Dvadasanikaya sastra (skt)—Thập Nhị Môn Luận được Ngài Long Thọ biên soạn,
nguyên bản tiếng Phạn đã bị thất lạc, nhưng dịch bản Hán Văn hiện vẫn còn
tồn tại. Tác phẩm nầy có tất cả 12 chương, chủ đích nhằm cải sửa những sai
lầm của các nhà Phật giáo Đại Thừa thời bấy giờ—The Dvadasanikaya Sastra
or the Twelve Gates was composed by Nagarjuna, which is not known in
Sanskrit, but is preserved in Chinese translation. It has twelve chapters
in all, and is devoted chiefly to correcting the errors of the Mahayanists
themselves at that time.
Thập Nhị Nguyện Của Dược Sư Lưu Ly Quang
Phật: See Mười Hai Lời Nguyện của Dược Sư Lưu Ly Quang Phật in
Vietnamese-English Section.
Thập Nhị Nguyệt: Mười hai tháng
trong năm ở Ấn Độ—Twelve months of a year:
1)
Caitra: Giữa khoảng tháng ba và tháng tư dương lịch (từ 16 tháng giêng đến
15 tháng hai âm lịch)—Between the months of March and April (16 of 1st
Chinese moon to 15th of 2nd ).
2)
Vaisakha: Giữa khoảng tháng tư và tháng năm dương lịch (từ 16 tháng hai
đến 15 tháng ba âm lịch). Đây cũng là tháng thứ hai của mùa xuân—Between
the months of April and May (16th of 2nd Chinese moon to 15th of 3rd). The
second month of spring.
3)
Jyaistha: Giữa khoảng tháng năm và tháng sáu dương lịch (từ 16 tháng ba
đến 15th tháng tư âm lịch)—Between the months of May and June (16th of 3rd
Chinese moon to 15th of 4th).
4)
Asadha: An Sa Đồ—Át Xã Gia—Át Sa Trà—Giữa khoảng tháng sáu và tháng bảy
dương lịch (từ 16th tháng tư đến 15th tháng 5th âm lịch)—Between the
months of June and July (or 16th of 4th Chinese moon to 15th of 5th ).
5)
Sravana: Giữa tháng bảy và tháng tám dương lịch (từ 16 tháng năm đến 15th
tháng hai âm lịch)—Between the months of July and August (16th of 5th
Chinese moon to 15th of 6th).
6)
Prausthapada or Bhadrapada: Bạt Nại La Bà Nã—Giữa khoảng tháng tám và
tháng chín dương lịch (từ 16th tháng sáu đến 15th tháng bảy âm
lịch)—Between the months of August and September (16th of 6th Chinese moon
to 15th of 7th).
7)
Asvina or Asvayuja: Giữa khoảng tháng chín và tháng mười dương lịch (Từ
16th tháng bảy đến 15 tháng tám âm lịch)—Between the months of September
and October (16th of 7th Chinese moon to 15th of 8th).
8)
Karttika: Giữa khoảng tháng mười và tháng mười một dương lịch (từ 16th
tháng tám đến 15th tháng 9th)—Between the months of October and November
(16th of 8th Chinese moon to 15th 9th).
9)
Margasira or Agrahayana: Giữa khoảng tháng mười một và tháng mười hai
dương lịch (từ 16th tháng 9th đến 15th tháng 10th)—Between the months of
November and December (16th of 9th Chinese moon to 15th of 10th).
10) Pausa
or Taisa: Giữa khoảng tháng mười hai và tháng giêng dương lịch (từ 16th
tháng 10th đến 15th tháng 11th)—Between the months of December and January
(16th of 10th Chinese moon to 15th of 11th).
11) Magha:
Giữa khoảng tháng giêng và tháng hai dương lịch (từ 16th tháng 11th đến
15th tháng 12th) —Between the months of January and February (16th of 11th
Chinese moon to 15th of 12th) .
12)
Phalguna: Giữa khoảng tháng hai và tháng ba dương lịch (từ 16th tháng 12th
đến 15th tháng 1st)—Between the months of February and March (16th of 12th
Chinese moon to 15th of 1st).
Thập Nhị Nhân Duyên (Thập Nhị Duyên Khởi):
Nidana (skt)—Pratitya-samutpada (skt)—Patichcha-samuppada (p).
(I) Đại
cương về Thập Nhị Nhân Duyên—An overview of the Twelve Conditions of
Cause-and-Effect:
(A) Ý nghĩa
của Thập Nhị Nhân Duyên—The meanings of Nidana:
·
Theo đạo Phật, mọi sự mọi vật trong vũ trụ không thể đứng
riêng một mình mà có được; trái lại phải nương nhờ nhau mà thành. Riêng về
loài hữu tình như con người thì do mười hai nhân duyên nương nhau mà thành
một chuỗi sinh tử vô hạn, nối tiếp từ quá khứ đến hiện tại và vị lai. Muốn
hiểu rõ guồng máy của của sự sinh tử luân hồi của kiếp người trong bể khổ
trần gian, Phật tử nên thông đạt thuyết “Thập Nhị Nhân Duyên” và phải tìm
hiểu phương pháp để diệt trừ cái vòng lẩn quẩn sinh tử luân hồi ấy. Nhân
là công năng sinh trưởng tất cả sự vật, duyên là sự trợ giúp cho công năng
được thực hiện. Cũng như gieo đậu được đậu, nhưng trước hết chúng ta phải
có hạt đậu giống, gieo xuống đất, rồi nhờ ánh sáng mặt trời, mưa, tưới,
bón phân, nhân công chăm sóc mới có sự nẩy mầm thành cây đậu, trái đậu.
Hạt giống là nhân; đất, ánh sáng, nước, vân vân là duyên. Do nhân có duyên
trợ giúp nên có quả. Theo Phật giáo, quả không bao giờ do một nhân duy
nhất mà thành; nhiều nhân và nhiều duyên mới thành một quả. Vì vậy chúng
ta có thể kết luận vạn vật trong vũ trụ nương nhau mà phát sanh, đây là
định luật tất yếu. Thập Nhị Nhân Duyên là mười hai mắt xích trong vòng
sanh tử. Nhân duyên sinh sản trong lệ thuộc. Tất cả các hiện tượng thể
chất và tâm thần tạo thành sự sống của chúng sanh đều có những liên hệ phụ
thuộc lẫn nhau. Đây là mười hai ràng buộc sinh linh vào luân hồi sinh
tử—In the Buddhist view, nothing in the world can exist alone; it must
depend on others to maintain its presence. With regard to sentient being,
especially human life, it is composed of twelve links in the chain of
Dependent Origination from the past to the present and future. To
understand the mechanism of birth, death, and reincarnation in this world,
Buddhists should read and try to grasp the method of breaking this chain
of Dependent Origination. The cause is the primary force that produces an
effect. The condition is something indispensable to the production of
effect. For instance, if we grow beans, we will harvest beans, but first
we must have bean seeds and sow them in the soil. With sunlight, rain,
watering, fertilizers and care, the seed will grow, become a plant and
finally produce beans. The seed is the cause; the soil, sunlight, and
water are the conditions. Cause combined with conditions give effect. In
Buddhist view, a unique cause cannot produce anything. It should be
combined with some conditions to create effect. Therefore, we can conclude
that all living beings and things in the universe are interrelated in
order to come into being. This is a “must.” The twelve nidanas is the
twelve links of Dependent Origination—The twelve links in the chain of
existence. Conditioned arising or interdependent arising. All
psychological and physical phenomena constituting individual existence are
interdependent and mutually condition each other. This is the twelve-link
chain which entangles sentient beings in samsara.
·
Hai mươi lăm thế kỷ về trước Đức Phật đã nói rằng: “Chúng
sanh và thế giới là do nhân duyên kết hợp mà thành.” Câu nói ấy đã phủ
nhận cái gọi là “Đấng Tạo Hóa” hay “Thượng Đế” sáng tạo ra muôn vật. Câu
nói ấy đặt ra một cái nhìn khoa học và khách quan về thế giới thực tại hay
“Duyên Khởi Luận.” Duyên khởi nghĩa là sự nương tựa hỗ tương lẫn nhau mà
sinh thành và tồn tại. Không có cái gì có thể tự mình sinh ra mình và tự
tồn tại độc lập với những sự vật khác. Tất cả mọi sự mọi vật trên thế
giới nầy đều phải tuân theo định luật “Duyên Khởi” mà Thành, Trụ, Hoại và
Không. Con người là một tiểu vũ trụ cũng không phải tự nhiên mà có, mà là
do nghiệp lực kết hợp các duyên mà thành, và cũng nằm trong định luật
“Thành Trụ Hoại Không.” Mười hai nhân duyên nầy nghĩa lý rất thâm diệu.
Đây là những cửa ngỏ quan trọng để cho chúng sanh bước vào Thánh quả,
thoát khỏi sanh tử, trói buộc, và khổ não trong ba cõi sáu đường, để chứng
thành quả vị Duyên Giác Thừa—Twenty centuries ago, the Buddha said:
“Humanity and the world are the cause and conditions to be linked and to
become.” His words have denied the prsence of a Creator or God. They give
us a scientific and objective outlook of the present world, related to the
law of Conditioning. It means that everything is dependent upon conditions
to come into being or survive. In other words, there is nothing that can
be self-creating and self-existing, independent from others. All sentient
beings, objects, elements, etc., in this world are determined by the law
of conditioning, under the form of formation, stabilization,
deterioration, and annihilation. Man is a small cosmos. He comes into
being not by himself but by the activation of the law of transformation.
The meaning of the Twelve Conditions of Cause-and-Effect are extremely
deep and profound. They are important doors for cultivators to step into
the realm of enlightenment, liberation from the cycle of birth, death,
bondage, sufferings, and afflictions from the three worlds and six paths,
and to attain Pratyeka-Buddhahood.
(B) Nội dung của Thập Nhị Nhân Duyên—The contents of the Twelve
Conditions of Cause-and-Effect:
1) Vô
minh: Avidya (skt)—Ignorance.
a) Vô
minh có nghĩa là ngu dốt, hay hiểu sai lầm, không sáng, mê muội, không
đúng như thật, mờ ám. Ngoài ra, vô minh còn có nghĩa là hoặc, mê tối, mù
quáng tối tăm: Avidya means ignorance, stupidity, or unenlightenment.
Avidya also means misunderstanding, being dull-witted ignorant, not
conforming to the truth, not bright, dubious, blind, dark.
b) Vô
minh còn có nghĩa là không hiểu được tứ diệu đế, không hiểu được thực chất
và nguyên nhân khổ đau cuộc đời, không biết được diệt khổ, không biết được
con đường diệt khổ. Từ vô minh sanh ra hành: Avidya also means being
dull-witted ignorant not knowing the four noble truths, not knowing
sufferings, the causes of sufferings, the mental state after severing
sufferings, and the way to sever sufferings. Through ignorance are
conditioned volitional actions.
c) Sự ngu
dốt lầm nhận những hiện tượng huyễn hóa trên đời nầy mà cho rằng chúng là
có thật—Ignorance which mistakes the illusory phenomena of this world for
realities.
2) Hành:
Samskara (skt)—Hành có nghĩa là hành vi, hoạt động do vô minh phiền não
nổi lên làm cho thân, khẩu, ý tạo tác các nghiệp lành dữ, tức là sẽ tự
thắt vào vòng luân hồi sanh tử, hay tiến dần đến giải thoát. Từ hành sanh
ra thức—Action—Activity—Conception—Disposition—Volitional actions—Karma
formation—Impulse—Moral conduct—Acting from ignorance would result in bad
or favorable karma which is conductive to reincarnation or liberation.
Through volitional actions is conditioned consciousness.
3) Thức:
Vijnana (skt).
a) Lục
thức: The six forms of perception, awareness or discernment—See Lục Thức,
and Bát Thức.
b) Thần
thức là phần tinh thần. Nếu chưa được giải thoát thì sau khi chết, thân
xác tiêu tan, nhưng do thân khẩu ý tạo những nghiệp lành dữ, ý thức ấy sẽ
đi theo tiến trình luân hồi mà đi vào bụng mẹ. Chỉ khi nào tam nghiệp đồng
thanh tịnh thì người ấy được giải thoát. Từ ý thức ấy sanh ra một cái tên
hay danh sắc—Vijnana means consciousness. If not liberated yet, after
death, the body decays, but the subject’s knowledge commonly called soul
follows its reincarnation course in accordance with the three karmas of
body, speech and mind. Only when his knowledge gains the status of
purification, then he would be liberated from reincarnation. Through
consciousness are conditioned name and form.
4) Danh
sắc: Namarupa (skt)—Sau khi sanh ra, nhờ vào ý thức mà chúng sanh ấy biết
rằng nó có tên và thân thể, từ đó có ý thức về giác quan—Name and
form—Individuality of things—Mind and matter—After birth, thanks to his
consciousness, the subject recognizes that he now has a name and a form
(body). Through name and form are conditioned the six senses-organs.
5) Lục
nhập: Sadayatana (skt)—Sáu cơ quan bao gồm ngũ quan và tâm, nơi tiếp xúc
với đối tượng bên ngoài—Six entrances—The six sense organs (eye—form,
ear—sound, nose—scent, tongue—taste, body—Texture, mind—mental object)—Six
faculties—He is now has five senses and mind to get in touch with
respective counterparts. Through the six senses-organs is conditioned
contact.
6) Xúc:
Sparsa (skt)—Sự tiếp xúc với thế giới bên ngoài, từ đó sanh ra cảm
giác—Contact—Touch—Feeling—Texture—Contact develops after the six
senses-organs are made. Through contact is conditioned feeling.
7) Thọ:
Vedana—Những cảm giác vui, buồn, sướng khổ. Qua cảm giác đưa tới sự ham
muốn—Receiving—Perceiving—Contact—Sensation—Contact provokes all kinds of
feelings, feelings of joy, sadness, pleasure or pain. Through feeling is
conditioned craving.
8) Ái:
Trsna (skt)—Ham muốn vui sướng kéo dài. Từ ham muốn đưa đến trói
buộc—Love—Thirst—Desire—Craving—From the feeling of joy and pleasure, the
subject tends to prolong it as much as possible. Through craving
conditioned clinging.
9) Thủ:
Upadana (skt)—Chấp thủ vào những thứ mà mình ham thích—Laying hold
of—Grasping—Clinging to existence—He becomes attached to what he likes or
desires. Through clinging is conditioned the process of becoming.
10) Hữu:
Bhava (skt)—Being—Existence—Existing—Từ những tham dục mà chấp hữu, cố
gắng làm chủ những gì mình muốn như tiền bạc, nhà cửa, danh vọng, vân vân.
Qua chấp hữu mà “sanh” theo liền—Becoming and re-becoming—Driven by his
desires, the subject tries to take in possession of what he wants such as
money, houses, fame, honor, etc. Through the process of becoming is
conditioned birth.
11) Sinh:
Jati (skt)—Birth or rebirth—The final outcome of karma—Craving, clinging
and becoming make up the present causes which will accompany the subject
in his birth. Through birth are conditioned decay, sorrow and death.
12) Lão Tử:
Jaramarana (skt)—Old age and death—In his new life, he will become old and
die as every being does.
(II) Lời Phật
dạy về Thập Nhị Nhân Duyên--The Buddha’s teachings on the Nidana:
1) Tùy
nơi Vô Minh mà phát sanh Hành: Từ nơi vô minh mà phát sanh ra các hành
động điên đảo mê lầm—Dependent on Ignorance arises Conditioning Activities
(ignorance gives rise to actions). Ignorance (stupidity or darkness)
develops into various crazy, chaotic, and delusional conducts and
practices.
2) Tùy
nơi Hành mà phát sanh Thức: Do nơi các hành động của thân khẩu ý hành xử
sai quấy mà sanh ra cái thức tánh phân biệt phải quấy, vân vân—Dependent
on Conditioning Activities arises Relinking Consciousness (Actions give
rise to consciousness). Improper and delusional actions of body, speech,
and mind give rise to a consciousness filled with discriminations of
right, wrong, etc.
3) Tùy
nơi Thức phát sanh Danh Sắc: Do nơi thức phân biệt sai quấy mà cảm thọ
thành thân tứ đại hay danh sắc—Dependent on Relinking Conciousness arises
Mind and Matter (consciousness gives rise to form name). It is to say,
consciousness (false discriminations) leads to having a physical body or
form-name.
4) Tùy
nơi Danh Sắc phát sanh Lục Căn: Do nơi thân tứ đại mà sanh ra sáu căn,
nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, và ý—Dependent on Mind and Matter arises the
Six Spheres of Sense (form name gives rise to six entrances). It is to
say, the physical body gives birth to the six entrances of sight, hearing,
scent, taste, body, and mind.
5) Tùy
nơi Lục Căn phát sanh Xúc: Do nơi lục căn bất tịnh mà sanh ra các sự xúc
cảm và va chạm với lục trần, sắc, thanh, hương, vị, xúc, và pháp, như là
sự xúc chạm thân mật giữa người nam và người nữ—Dependent on the Six
Spheres of Sense arises Contact (six entrances give rise to interactions).
It is to say six entrances give rise to interactions, or the impure six
faculties will breed attachments and wanting to connect with the six
elements of form, sound, fragrance, flavor, touch, and dharma, such as
sexual intimacies between a man and a woman.
6) Tùy
nơi Xúc phát sanh Thọ: Từ nơi những cảm xúc trên mà sanh ra các sự thọ
lãnh hay thọ dụng, như ham muốn sắc đẹp, ham muốn ăn ngon, vân
vân—Dependent on Contact arises Feeling (Interaction gives rise to
reception), which means attachments and interactions with these elements
breed yearnings to receive them, such as sight yearn for beautiful forms,
taste yearn for great delicacies, etc.
7) Tùy
nơi Thọ phát sanh Ái: Thọ duyên ái, tức là do từ nơi các sự thọ nhận kia
mà cảm ra những sự yêu ái, say mê, vân vân—Dependent on Feeling arises
Craving (reception gives rise to love). It is to say, having received and
accepted such pleasures gives rise to love, fondness, etc.
8) Tùy
nơi Ái phát sanh Thủ: Ái duyên thủ,tức là từ nơi yêu ái mà sanh ra sự chấp
chặt, giữ lấy không chịu buông bỏ—Dependent on Craving arises Grasping
(love gives rise to possessiveness). It is to say, love gives rise to
covetousness, fixation, unwilling to let go.
9) Tùy
nơi Thủ phát sanh Hữu: Thủ duyên hữu, tức là do từ nơi cái chấp giữ kia mà
sanh cái tánh tư hữu, nghĩa là cái của ta, và cái không phải của ta, hay
tất cả là của ta, chớ không phải của ngươi, vân vân—Dependent on Grasping
arises Becoming (possessiveness gives rise to existence). It is to say,
from being possessive gives rise to the characteristic of private
existence by discriminating what is ‘mine’ and what is not ‘mine,’ or
everything is mine and nothing is yours, etc.
10) Tùy nơi
Hữu có Sanh: Hữu duyên sanh, tức là do nơi tư hữu ấy mà phải trầm luân vào
vòng luân hồi sanh tử, tức là đầu thai, chuyển kiếp, trôi lăn trong ba cõi
sáu đường như một chúng sanh—Dependent on Becoming arises Birth (existence
gives rise to birth). It is to say, having the concept of private
existence gives rise to rebirth, which is to change lives, and continue
drowning in the cycle of birth and death in the three worlds and six
realms as a sentient being.
11) Tùy nơi
Sanh có Già Yếu Khổ Đau: Sanh duyên lão, tức là hễ có sanh là có thân tứ
đại, và dĩ nhiên là có già yếu khổ đau—Dependent on Birth arises Old Age
and Sorrow (birth gives rise to old age and sufferings). It is to say, if
there is birth, then there has to be a physical body of impermanence, and
naturally, there is also old age and sufferings.
12) Tùy nơi
Già yếu Khổ Đau mà lại Tử: Lão duyên tử, tức là hễ có già yếu khổ đau là
cuối cùng có chết—Dependent on Old Age and Sorrow arises Death (old age
and sufferings give rise to death). It is to say, if there are old age and
sufferings, there is eventualy death.
(III)
Tận diệt Vô Minh—Eradication of Ignorance: Muốn diệt trừ vô minh
chúng ta phải quán sát trạng thái sinh khởi trong quá khứ xa xưa và sự
luân lưu của 12 nhân duyên trong ba đời quá khứ, hiện tại và vị lai. Tuy
nhiên, phàm phu chúng ta căn cơ thấp kém không thể làm những điều vừa kể
trên được để trực tiếp diệt trừ vô minh gốc rễ như các vị Bồ Tát Đại Thừa,
hay những vị Phật tương lai, nhưng chúng ta có thể diệt trừ vô minh ngọn
là “Ái, Thủ, và Hữu.” Vì thế, chúng ta phải cố gắng thực hiện sao cho
không phát sinh
tâm tham ái. Không tham ái mới không thủ hay không tìm cầu. Không
tìm cầu nên không có hữu hay thọ quả sinh tử về sau nầy—To eradicate
ignorance, we must go back to the past and observe the first step of the
conditioning process and study how the twelve links operate in the past,
present and future. However, as ordinary people, our level of
understanding and practicing dharmas is still low; therefore, we cannot
apply the first method of eradicating ignorance at the root like
Bodhisattvas and Becoming-Buddhas, but we can do it by eradicating desire,
clinging, and becoming. Therefore, we must keep from amnifesting any
strong desire, covetousness for acquisition. Without such a desire, we
will be freed from clinging. If we are not attached to anything, we will
be liberated from the cycle of birth and death.
(IV)
Lời kết luận của Đức Phật về Vô Minh—The Buddha conclusion about Nidana:
Hễ vô minh không sanh thì các hành trực thuộc khác cũng không có. Ví như
hạt giống mà không có mộng thì chồi không sanh. Chồi đã không sanh thì
không có thân cây; thân cây đã không thì không có nhánh lá hoa quả chi
cả—If a seed does not germinate, a shoot will not rise, and if a shoot
does not rise, then there will be no plant. And if there is no plant,
there won’t be any leaves and branches.
1) Tận
diệt Vô Minh dẫn đến chấm dứt Hành: Do cái vô minh kia diệt, các hành động
sai lầm cũng không do đâu mà có được—The cessation of igonorance leads to
the cessation of Conditioning Activities (when Ignorance is extinguished,
Action is extinguished). It is to say, if ignorance ceases then all the
false and mistaken conducts and practices will not transpire.
2) Chấm
dứt Hành dẫn đến chấm dứt Thức: Do các hành động sai quấy của thân khẩu ý
không còn, thì thức tánh phân biệt cũng không sao sanh khởi được—The
cessation of Conditioning Activities leads to the cessation of
relinking-Consciousness (when Action is extinguished, Consciousness is
extinguished). It is to say, if the improper and delusional actions of
body, speech, and mind no longer exist, then the various consciousnesses
filled with discriminations will also cease.
3) Chấm
dứt Thức dẫn đến chấm dứt Danh Sắc: Một khi cái thức phân biệt phải quấy
không sanh thời không có thân danh sắc—The cessation of
Relinking-Consciousness leads to the cessation of Mind and Matter (when
consciousness is extinguished, form name is extinguished). It is to say,
if the consciousness of false and mistaken discriminations of right and
wrong is no longer born, then there will not be a body of form name (there
is no reincarnation or rebirth).
4) Chấm
dứt Danh Sắc dẫn đến chấm dứt Lục Căn: Khi không có thân danh sắc thì lục
căn cũng không thành—The cessation of Mind and Matter leads to the
cessation of the Six Spheres of Sense (when form name is extinguished, the
six entrances are extinguished). It is to say, if the body of form-name
does not exist, then the six entrances of sight, hearing, smell, taste,
body, and mind cannot exist.
5) Chấm
dứt Lục Căn dẫn đến chấm dứt Xúc: Khi thân lục căn bất tịnh không có, thời
sự tiếp giao giữa nam nữ cũng như cảm xúc với lục trần cũng không có—The
cessation of the Six Spheres of Sense leads to the cessation of Contact
(when the six entrances are extinguished, interactions are extinguished).
In other words, if the impure body of six faculties does not exist, then
the matter of lusts, attachments, and intimacies between men and women,
and the desires for the six elements of form, sound, fragrance, flavor,
touch, and dharma will also cease.
6) Chấm
dứt Xúc dẫn đến chấm dứt Thọ: Khi sự tiếp xúc với nhau không có, thì sự
thọ lãnh cũng không có—The cessation of Contact leads to the cessation of
Feeling (when interaction is extinguished, reception is extinguished). In
other words, if there are no interactions and no connections, then there
is no acceptance and reception.
7) Chấm
dứt Thọ dẫn đến chấm dứt Ái: Khi sự thọ dụng không có thì không có yêu ái,
thương mến, và ham mong, vân vân—The cessation of Feeling leads to the
cessation of Craving (when reception is extinguished, love is
extinguished). In other words, if acceptance and reception do not occur,
then there is no love, fondness, or yearning, etc.
8) Chấm
dứt Ái dẫn đến chấm dứt Thủ: Do sự yêu ái không sanh thời sự chiếm hữu hay
chấp giữ cũng không do đâu mà sanh khởi được—The cessation of Craving
leads to the cessation of Grasping (when love is extinguished,
possessivenes is extinguished). That is to say, if love and fondness do
not rise, then there is no covetousness, fixation, or the unwillingness to
let go, etc.
9) Chấm
dứt Thủ dẫn đến chấm dứt Hữu: Do sự chấp giữ không còn, thời cũng không có
cái của ta hay của người—The cessation of Grasping leads to the cessation
of Becoming (when possessiveness is extinguished, existence is
extinguished). In other words, if the characteristic of private existence
and the possessive nature do not exist, then there is no separation of
what belongs to me, and what belongs to others.
10) Chấm dứt
Hữu dẫn đến chấm dứt Sanh: Do cái của ta hay của người không còn, thời
không còn tái sanh nữa—The cessation of Becoming leads to the cessation of
Birth (when existence is extinguished, rebirth is extinguished). This
means, if the ideas of what’s mine and what’s yours cease, then there is
no more rebirth and reincarnation.
11) Chấm dứt
Sanh dẫn đến chấm dứt Già Cả Bệnh Hoạn Khổ Đau: Khi sanh diệt, nghĩa là
không có thân tứ đại, thời già cả, bệnh hoạn, khổ đau cũng không còn—The
cessation of Birth leads to the cessation of Old Age, Sickness and Sorrow
(when birth is extinguished, old age, sickness, and sorrow are also
extinguished). In other words, if there is no birth, which means there is
no physical body of impermanence, then there is no old age, sickness, and
pain.
12) Chấm dứt
sanh còn dẫn tới chấm dứt Lão, Tử, Sầu Muộn, Ta Thán, Đau Khổ, Phiền Não,
và Thất Vọng: The cessation of Birth also leads to the cessation of Old
Age, Death, Sorrow, Lamentation, Pain, Grief, and Despair.
Thập Nhị Nhập: Dvadasayatanani
(skt).
(I) Mười
hai thứ can thiệp vào nhau, như sáu căn nhập với sáu trần (nhãn nhập với
sắc, gọi là nhãn nhập, sắc nhập với nhãn kêu là sắc nhập, hai thứ nhập lại
gọi là thấy; nhĩ nhập với thanh gọi là nhĩ nhập, thanh nhập với nhĩ gọi là
thanh nhập, hai thứ nhập lại gọi là nghe; vân vân. Sáu căn nhập với sáu
trần gọi là thập nhị nhập)—The twelve entrances (entries—places):
(A) Lục Căn:
Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý—Six sense-organs (eye, ear, nose, tongue,
body, and mind)—See Lục Căn in Vietnamese-English Section.
(B) Lục Cảnh:
Sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp—Six objects which are corresponding to
the six senses (forms, sounds, scents, tastes, textures, and mental
objects)—See Lục Cảnh in Vietnamese-English Section.
(II) Theo
Kinh Thủ Lăng Nghiêm, quyển Ba, Đức Phật giải thích cho ông A Nan biết tại
sao bản tánh của Thập Nhị Xứ là Như Lai Tạng Diệu Chân Như tính như
sau—According to the Surangama Sutra, book Three, the Buddha explained to
Ananda why he said that the twelve places were basically the wonderful
nature of true suchness, the treasury of the Thus Come One.
1-2) Nhãn sắc Xứ: Cakshu-rupayatana (skt)—The place of the eye and form:
Ông A Nan! Ông xem rừng Kỳ Đà và các suối ao. Ý ông nghĩ sao? Vì là sắc
tướng sinh ra mắt thấy, hay là mắt sinh ra sắc tướng?—Ananda! Look again
at the trees in the Jeta Grove and the fountains and pools. What do you
think? Do these things come into being because the forms are produced and
thus the eyes see, or because the eyes produce the characteristics of
form?
a) Ông A
Nan! Nếu nhãn căn sinh các sắc tướng, vậy khi nhìn hư không, không phải là
sắc tướng, cái tính sinh sắc tướng phải tiêu diệt, tiêu rồi thì rõ ràng là
hết thảy các sắc tướng đều không. Sắc tướng đều không, lấy gì so sánh mà
biết hư không? Đối với hư không, lại cũng như vậy: Ananda! If the organ of
sight were to produce the characteristics of form, then the nature of form
would be obliterated when you see emptiness, which is not form. Once it
was obliterated, everything that is manifest would disappear. Since the
characteristics of form would then be absent, who would be able to
understand the nature of emptiness. The same is true of emptiness.
b) Lại
nếu sắc trần sinh ra cái thấy. Khi nhìn hư không, không phải là sắc, cái
thấy phải tiêu mất. Cái thấy đã mất thì mọi thứ đều không, lấy chi mà rõ
là không hay là sắc?: If, moreover, the defiling objects of form were to
produce the eye’s seeing, then seeing would perish upon looking at
emptiness, which is not form, and once it perished, everything would
disappear. Then who would be able to understand emptiness and form?
c) Vậy
ông nên biết, cái thấy với sắc không, đều không có xứ sở. Hai xứ ‘thấy và
sắc’ đều là hư vọng, vốn chẳng phải tính nhân duyên hay tính tự nhiên:
Therefore, you should know that neither seeing nor form nor emptiness has
a location, and thus the two places of ‘form and seeing’ are empty and
false. Their origin is not in causes and conditions, nor do their natures
arise spontaneously.
3-4) Nhĩ Thanh Xứ: Srotra-sabda (skt)—The place of the ear and sound:
Ông A Nan! Ông lại nghe trong vườn Kỳ Đà, lúc thức ăn dọn rồi thì đánh
trống, lúc nhóm chúng thì đánh chuông. Tiếng chuông, tiếng trống trước sau
nối nhau. Ý ông nghĩ sao? Như thế là tiếng đến bên tai, hay tai đến chỗ
tiếng?—Ananda! Listen again to the drum being beaten in the Jeta Grove
when the food is ready. The assembly gathers as the bell is struck. The
sounds of the bell and the drum follow one another in succession. What do
you think? Do these things come into existence because the sound comes to
the region of the ear, or because the ear goes to the place of the sound?
a) Ông A
Nan! Nếu là tiếng đến bên tai, ví dụ tôi đi khất thực trong thành Thất La
Phiệt, ở rừng Kỳ Đà chắc là không có tôi nữa; tiếng đã đến tai ông A Nan,
lẽ ra ông Mục Liên, ông Ca Diếp không thể cùng nghe một lần, huống chi
trong nầy có đến một nghìn hai trăm năm mươi vị Sa Môn đều nghe tiếng
chuông cùng một lúc, cùng đến chỗ ăn cơm: Again, Ananda, suppose that the
sound comes to the region of the ear. Similarly, when I go to beg for food
in the city of Shravasti, I am no longer in the Jeta Grove. If the sound
definitely goes to the region of Ananda’s ear, then neither Maudgalyayana
nor Kasyapa would hear it, and even less the twelve hundred and fifty
Sramanas who, upon hearing the sound of the bell, come to the dining hall
at the same time.
b) Nếu là
tai đến bên tiếng, ví dụ tôi đã trở về trong rừng Kỳ Đà rồi, ở thành Thất
La Phiệt không có tôi nữa; nay ông nghe tiếng trống, tai ông đã đi đến chỗ
đánh trống, thì khi tiếng chuông phát ra, lẽ ra ông không thể cùng nghe
một lần. Thế mà ông lại nghe được bao tiếng khác trong rừng nầy, nào các
tiếng voi, ngựa, trâu, dê: Again, suppose that the ear goes to the region
of the sound. Similarly, when I return to the Jeta Grove, I am no longer
in the city of Sravasti. When you hear the sound of the drum, your ear
will already have gone to the place where the drum is beaten. Thus, when
the bell peals, you will not hear the sound, even the less that of the
elephants, horses, cows, sheep, and all the other various sounds around
you.
c) Còn
như nếu không đi qua đi lại, sẽ không có sự nghe: If there is no coming or
going, there will be no hearing either.
d) Vậy
ông nên biết, cái nghe cùng cái tiếng, đều không có xứ sở. Hai xứ ‘nghe và
tiếng’ đều hư vọng, vốn chẳng phải tính nhân duyên hay tính tự nhiên:
Therefore, you should know that neither hearing nor sound a location, and
thus the two places of ‘hearing and sound’ are empty and false. Their
origin is not in causes and conditions, nor do their natures arise
spontaneously.
5-6) Tỷ Hương Xứ: Ghrana-gandha (skt)—The place of nose and smell: Ông A
Nan! Ông lại ngửi hương Chiên đàn trong lư nầy. Hương đó chỉ đốt một ít,
cả thành Thất La Phiệt trong vòng bốn mươi dặm đều ngửi thấy. Ý ông nghĩ
sao? Mùi thơm đó ở gỗ chiên đàn ra, ở mũi ông ra, hay ở lư hương ra?:
Moreover, Ananda, you smell the chandana in this censer. You sniff the
burning incense burning. When one particle of this incense is lit, it can
be smelled simultaneously through forty miles around the city of Sravasti.
What do you think? Is this fragrance produced from the chandana wood? Is
it produced in your nose? Or does it arise from the censer, or within
emptiness?
a) Ông A
Nan! Nếu ở mũi ông ra, gọi là mũi sinh mùi, thì mùi phải từ mũi ra. Song
mũi không phải là Chiên đàn, vì sao trong mũi lại có mùi chiên đàn? Đã gọi
là ngửi mùi, mùi thơm phải từ ngoài vào mũi, chứ ở trong mũi bay ra mùi
thơm, không gọi là ngửi: Again, Ananda! Suppose this fragrance is produced
from your nose. What is said to be produced from the nose should come
forth from the nose. Your nose is not chandana, so how can the nose have
the fragrance of chandana? When you say you smell fragrance, it should
enter your nose. For the nose to emit fragrance is not the meaning of
smelling.
b) Nếu ở
hư không ra, tính hư không có mãi, mùi thơm cũng phải có mãi, sao lại phải
đốt gỗ chiên đàn khô trong lư mới có?: Suppose it is produced from within
emptiness. The nature of emptiness is everlasting and unchanging, and so
the fragrance should be eternally present. What need should there to be to
rely on burning the dry wood in the censer?
c) Nếu ở
gỗ ra, mùi thơm do gỗ đốt thành khói, khói bay tới mũi mới ngửi thấy. Sao
khói kia bay lên hư không chưa được bao xa mà trong vòng bốn mươi dặm đã
ngửi thấy cả?: Suppose it is produced from the wood. Now, the nature of
this incense is such that it gives off smoke when it is burned. If the
nose smells it, it should be filled with smoke. The smoke rises into the
air, and before it has reached the distance, how is it that the fragrance
is already being smelled at a distance of forty miles?
d) Vậy
ông nên biết, ngửi và mùi hương, đều không có xứ sở. Hai xứ ‘ngửi và mùi
hương’ đều hư vọng, vốn chẳng phải tính nhân duyên hay tính tự nhiên:
Therefore, you should know that neither the fragrance nor the nose’s
smelling has a location, and so the two places of smelling and fragrance
are empty and false. Their origin is not in causes and conditions, nor do
their natures arise spontaneously.
7-8) Thiệt Vị Xứ: Jihva-rasa (skt)—The place of the tongue and taste:
Ông A Nan! Ông thường hai buổi ở trong chúng cầm bình bát đi khất thực, có
khi gặp món ăn ngon. Ông nghĩ sao? Vị đó sinh từ hư không, từ lưỡi, hay từ
món ăn?—Ananda! Twice everyday you take your bowl along with the rest of
the assembly, and among what you receive may be things of supreme flavor,
such as curds, butter milk, and clarified butter. What do you think? Are
these flavors produced from emptiness, do they come forth from the tongue,
or are they produced from the food?
a) Ông A
Nan! Nếu vị đó sinh từ lưỡi ông, trong miệng ông chỉ có một lưỡi, lưỡi đã
thành vị ngon rồi, gặp món hắc thạch mật, lẽ ra không dời đổi được. Nếu
không dời đổi, không gọi là biết vị. Còn nếu dời đổi được, lưỡi không phải
có nhiều như thế, làm sao lại biết nhiều vị?: Again, Ananda, suppose that
the flavors came from your tongue; now there is only one tongue in your
mouth. When that tongue had already become the flavor of curds, then it
would not change if it encountered some dark rock-candy. Suppose it did
not change, that would not be what is called knowing tastes. Suppose it
did change, the tongue is not many substances, and how could one tongue
know so many tastes?
b) Nếu
sinh từ món ăn, món ăn không có tính biết, sao biết vị mình. Nếu tự biết,
cũng như người khác ăn, có quan hệ gì tới ông mà nói rằng ông biết vị?:
Suppose it were produced from the food. The food does not have
consciousness; how could it know tastes? Moreover, if the food itself were
to recognize them, that would be the same as someone else eating. Then
what connection would that have with what is called your recognition of
tastes?
c) Nếu
sinh từ hư không, ông thử nếm hư không, xem là vị gì? Nếu là vị mặn, hư
không đã làm mặn lưỡi ông, cũng làm mặn mặt ông, vậy người ở thế gian nầy
giống như cá biển, quen với mặn, không biết nhạt. Nếu không biết nhạt, lại
cũng không biết mặn. Như thế là không biết gì, sao gọi là vị?: Suppose it
were produced in emptiness. When you eat emptiness, what flavor does it
have? Suppose that emptiness had the flavor salt. Then since your tongue
was salty, your face would also be salty, and likewise everyone in the
world would be like fish in the sea. Since you would be constantly
influenced by salt, you would never know tastelessness. If you did not
recognize tastelessness, you would not know anything at all. How could
that be what is called taste?
d) Vậy
ông nên biết, nếm và vị đều không có xứ sở. Hai xứ ‘nếm và vị’ đều hư
vọng, vốn chẳng phải tính nhân duyên hay tính tự nhiên: Therefore, you
should know that neither flavors nor the tongue’s tasting has a location;
and, so the two places of tasting and flavor are empty and false. Their
origin is not in causes and conditions, nor do their natures arise
spontaneously.
9-10) Thân Xúc Xứ: Kaya-sparshtavya (skt)—The place of the body and
touches: Ông A Nan! Ông thường buổi sáng lấy tay xoa đầu. Ý ông nghĩ sao?
Cái biết có xoa như vậy, ở đâu ra? Ở tay hay ở đầu?: Ananda! Early every
morning you rub your head with your hand. What do you think? When there is
a sensation of the rubbing, where does the ability in the hands or is it
in the head?
a) Nếu ở
tay, chắc đầu không biết, sao lại thành ra xúc?: If it were in the hands,
then the head would have no knowledge of it, and how could that be what
is called touch?
b) Nếu ở
đầu, chắc tay không cần đến, sao gọi là xúc?: If it were in the head, then
the hands would be useless, and how could that be what is called touch?
c) Nếu ở
cả hai nơi, chắc ông A Nan phải có hai thân: If each had it, then you,
Ananda, would have two bodies.
d) Nếu
một xúc sinh ra cái biết ở đầu và ở tay, hai thứ đó phải cùng một thể. Nếu
cùng một thể, cái nghĩa xúc lại không còn. Nếu là hai thể, cái xúc ở bên
nào? Ở bên năng không có sở, ở bên sở không có năng. Chẳng lẽ hư không làm
xúc cho ông?: If they were two substances, to which would the touch
belong? The one which was capable of touch would not be the one that was
touched. The one that was touched would not be the one that was capable of
touch. Nor should it be that the touch came into being between you and
emptiness.
e) Vậy
ông nên biết, cái biết khi sờ mó, đụng chạm và thân, đều không có xứ sở.
Hai xứ ‘xúc và thân’ đều hư vọng, vốn chẳng phải tính nhân duyên hay tính
tự nhiên: Therefore, you should know that neither the sensation of touch
nor the body has a location, and so the two places of the body and touch
are empty and false. Their origin is not in causes and conditions, nor do
their natures arise spontaneously.
11-12) Ý Pháp Xứ: Mano-dharma (skt)—The place of mind and dharmas: Ông A
Nan! Ông thường trong ý duyên với ba tính thiện, ác, và vô ký, sinh ra các
phép tắc. Các phép đó do tâm sinh ra, hay là rời tâm, riêng có nơi
chỗ?—Ananda! Your mind is always conditioned by three qualities, good,
bad, and indeterminate, which produce patterns of dharmas. Ananda! Are
these dharmas produced by the mind, or do they have a special place apart
from the mind?
a) Ông A
Nan! Nếu do tâm, các pháp không phải là trần, không phải là cái sở duyên
của tâm, sao thành xứ được?: Ananda! If they were the mind, the dharmas
would not be its defiling objects. Since they would not be conditions of
the mind, how could you say that they had a location?
b) Nếu
rời tâm, riêng có nơi chỗ, thì cái tự tính của pháp là có biết hay không
biết? Nếu có biết phải gọi là tâm: Suppose they were to have a special
place apart from the mind, then would the dharmas themselves be able to
know? If they were to have a sense of knowing, they would be called a
mind.
·
Nếu nó khác với ông, và không phải là trần, thì nó đồng với
tâm lượng của người khác: If they were something other than you, they
would be someone else’s mind, since they are not defiling objects.
·
Nếu nó tức là ông và cũng tức là tâm, sao ở ông lại có hai
tâm? (nhưng làm sao tâm ông có thể tách rời khỏi ông?): If they were the
same as you, they would be your own mind. But how can you have two minds?
(But how could your mind stand apart from you?).
·
Còn nếu không biết, thì cái pháp trần ấy đã chẳng phải là
sắc, thanh, hương, vị, ly, hợp, lạnh và nóng, và tướng hư không, vậy nó ở
đâu? Nay nơi sắc không kia, đều không thể chỉ cái gì là pháp trần, không
lẽ ở nhân gian lại có những cái ngoài vòng hư không. Nếu nó chẳng phải là
cái sở duyên của tâm, từ đâu lập ra có xứ?: Suppose they were to have no
sense of knowing; yet these defiling objects are not forms, sounds,
smells, or tastes; they are neither cold nor warmth, nor the
characteristic of emptiness. Where would they be located? We have
established that they are represented in neither form nor emptiness; nor
is it likely that they exist somewhere in the human realm beyond
emptiness, for if they did the mind could not be aware of them. Whence,
then, would they raise?
c) Vậy
nên biết pháp và tâm đều không có xứ sở. Hai xứ ‘ý và pháp’ đều hư vọng,
vốn chẳng phải tính nhân duyên hay tính tự nhiên: Therefore, you should
know that neither dharmas nor the mind has a location, and, so the two
places of mind and dharmas are empty and false. Their origin is not in
causes and conditions, nor do their natures arise spontaneously.
Thập Nhị Phẩm Sanh Tử: The
twelve kinds of rebirth—See Thập Nhị Chủng Sanh Tử.
Thập Nhị Tâm Vô Sắc Giới:
Twelve kinds of Immaterial-Sphere Consciousness—See Mười Hai Tâm Thiện Vô
Sắc Giới.
Thập Nhị Thần Minh Vương: Mười
hai vị thần liên hệ với Dược Sư—The twelve spirits connected with the
Master of Healing (Dược Sư):
1) Cung
Tỳ La Đại Tướng: Kumbhira.
2) Phạt
Chiết La Đại Tướng: Vajra.
3) Mê Xí
La Đại Tướng: Mihira.
4) An Để
(Lễ) La Đại Tướng: Andira.
5) Át Nể
(Lễ) La Đại Tướng: Anila.
6) San Để
La Đại Tướng: Sandila.
7) Nhân
Đà (Đạt) La Đại Tướng: Indra.
8) Ba Di
La Đại Tướng: Pajra.
9) Ma Hổ
La Đại Tướng: Mahoraga.
10) Chân Đạt
La Đại Tướng: Kinnara.
11) Chiên Đổ
La Đại Tướng: Catura.
12) Tỳ Yết La
(Bì Kiết La) Đại Tướng: Vikarala.
Thập Nhị Thần Tướng Dược Sư:
See Thập Nhị Thần Minh Vương.
Thập Nhị Thú: Mười hai con giáp
tiêu biểu cho 12 tháng trong năm, cũng tiêu biểu cho 24 giờ trong ngày—The
twelve animals which represent the twelve months of the year, which also
represent the 24 hours of the day:
1) Tý:
Rat (from 11 to 1 midnight).
2) Sửu:
Buffalo (from 1 to 3 a.m.).
3) Dần:
Tiger (from 3 to 5 a.m.).
4) Mẹo:
Cat (from 5 to 7 a.m.).
5) Thìn:
Dragon (from 7 to 9 a.m.).
6) Tỵ:
Serpent (from 9 to 11 a.m.).
7) Ngọ:
Horse (from 11 a.m. to 1 p.m.).
8) Mùi:
Goat (from 1 p.m. to 3 p.m.).
9) Thân:
Monkey (from 3 p.m. to 5 p.m.).
10) Dậu: Cock
(from 5 p.m. to 7 p.m.).
11) Tuất: Dog
(from 7 p.m. to 9 p.m.).
12) Hợi: Pig
(from 9 p.m. to 11 p.m.).
Thập Nhị Trước Tác Của Đại Sư Huệ Viễn:
Hui-Yuan’s twelve texts—Dầu Đại Sư Huệ Viễn chủ trương xiển dương Tịnh Độ,
nhưng Ngài cũng lưu tâm đến các pháp môn khác. Ngài viết nhiều bài tựa về
kinh, luận cùng hoàn thành được 12 tác phẩm—Although Great Master Hui-Yuan
concentrated his energy into propagating Pureland Buddhism, he still
devoted some of his time to other Dharma Doors. He wrote 12 Buddhist
texts, based on sutras and others’ commentary texts—See Huệ Viễn.
Thập Nhị Xứ: See Thập Nhị Nhập.
Thập Niệm: The ten repetitions
of an invocation (Namo Amitabha).
Thập Niệm Ký Số: Ten Recitation
in One Breath—Thập là mười, niệm là hơi thở, ký số là đếm số. Đây là
phương pháp của ngài Từ Vân, tổ thứ ba của Trung Quốc Tịnh Độ Liên Tông.
Chính yếu của phương pháp nầy là trong một hơi thở, hành giả phải xưng đủ
mười câu Phật hiệu. Trước hết hít một hơi thở vào, ngưng lại, niệm đủ số
mười câu Phật hiệu, . Kế đến thở ra hít vào một hơi khác, rồi tiếp tục
niệm y như trước. Nếu người hơi ngắn thì có thể chia làm hai phần, mỗi hơi
chỉ niệm năm câu Phật hiệu thôi. Phương pháp nầy có nhiều điểm lợi, trong
khi miệng niệm Phật thì tai nghe tiếng và tâm trí ghi nhớ số. Như thế dù
không chuyên tâm cũng phải chuyên, vì nếu không thì số mục mà mình đang
đếm sẽ bị sai lạc. Đây là một trong những phương pháp rất tốt cho những ai
có tâm tán loạn. Nên nhớ, khi xưng niệm danh hiệu Phật, chẳng nên nghĩ gì
khác, cũng chẳng nên nghi hoặc. Nếu chí tâm thành ý niệm như thế, thì mỗi
câu niệm Phật mới đủ sức diệt được tội nặng trong 80 ức kiếp sanh tử. Nếu
chẳng như vậy thì sức diệt tội sanh phước sẽ giảm đi và nghiệp chướng cũng
khó mau dứt trừ—The “Ten Recitation in One Breath” method was taught by
the great Venerable Tsu-Yun, the Third Patriarch of the Thirteen
Patriarchs of Chinese Pureland Buddhism. Essentially, this method requires
the practitioner to recite the Buddha’s name ten times per breath. First,
inhale, hold breath, and begin reciting ‘Namo Amitabha Buddha’ ten times.
Next, exhale, then inhale and repeat the process as done previously. If a
practitioner is short of breath, it is acceptable to divide the segment of
ten recitations into two; with each breath, recite Amitabha Buddha’s name
five times. There are many advantages to practicing this method: speech
reciting the Buddha’s name, ears listening, and mind counting the number
of recitations. Thus, if able to concentrate, it will lead the
practitioner to focus the mind because if not not focused, the count will
be lost. Therefore, the ultimate goal of this method is to force the
Pureland cultivator into achieving ‘singlemindedness’ while engaging in
Buddha Recitation. This is one of the best methods for those who are
easily distracted or have a wandering mind. It is important to remember
while reciting the Buddha’s name, try not to think of anything else, and
not to be doubtful or skeptical. If the practitioner is able to maintain a
sincere and truthful mind in this way, then each recitation will eliminate
many karmic offenses in eight million past reincarnations. If not
practiced this way, the power to eliminate karmic offenses as well as
gaining merits will not be as great. Thus, it will be difficult to
eliminate many of one’s karmic offenses.
Thập Niệm Thành Tựu: See Thập
niệm Vãng Sanh.
Thập Niệm Vãng Sanh: These ten
invocations will carry a dying man with an evil karma into the Pure Land.
Thập Niệm Xưù: The ten
repetition of an invocation (Namo Amitabha)—These ten invocations will
carry a dying man with an evil karma into the Pure Land—A Bodhisattva’s
ten objects of thought or meditation (body, senses, mind, things,
environment, monastery, city or district, good name, Buddha-learning,
riddance of all passion and delusion):
1) Niệm
thân: Thought of the impure body.
2) Niệm
thọ: Thought of sufferings caused by senses.
3) Niệm
tâm: Thought of impermanent mind.
4) Niệm
pháp: Thought of non-self things.
5) Niệm
cảnh giới: Thought of non-stop changeable environment.
6) Niệm
nơi tu hành vắng vẻ: Thought of cultivating in a monastery—Thought of
tranquility.
7) Niệm
đô ấp: Thought of cultivating wherever opportunity arises, even in a
noisy city or district.
8) Niệm
hồng danh chư Phật: Thought of names of all Buddhas.
9) Niệm
học pháp Như Lai: Thought of learning Buddha Dharma.
10) Niệm đoạn
chư phiền não: Thought of riddance of all passion and delusion.
Thập Ô Nhiễm: Ten
defilements—See Thập Phiền Não.
Thập Pháp: The ten perfecting
Mahayana rules:
1) Chánh
tín: Right belief.
2) Thiện
hạnh: Good conduct.
3) Tỉnh
giác: Alertness—Spirit.
4) Vui
sướng phát tâm bồ đề: The joy of the bodhi mind.
5) Vui
sướng hành trì Phật pháp: Joy in Dharma.
6) Vui
trong thiền định: Joy in meditation.
7) Hành
trì chánh pháp: Pursuing the correct dharma.
8) Tuân
giữ giới luật Phật: Obedience precepts.
9) Dứt bỏ
cống cao ngã mạn: Departing from pride.
Thập Pháp Cú Của Chư Bồ Tát Trong Kinh Hoa
Nghiêm: Ten indications used by Bodhisattvas in the Flower
Adornment Sutra:
1) Diễn
thuyết pháp cú thị hiện đồng trong pháp giới tất cả Phật sát vi trần, chư
Phật thứ đệ xuất thế, các cõi thứ đệ thành hoại: Indication of the
succession of all Buddhas and the succession of lands in the atoms of the
Buddha-lands throughout all universes.
2) Diễn
thuyết pháp cú có thể thị hiện đồng trong hư không pháp giới tất cả các
cõi Phật, tận vị lai kiếp, âm thanh tán thán công đức của Như Lai:
Indication of the seeking and following of virtues of the Buddhas in all
Buddha-lands in space throughout the future.
3) Diễn
thuyết pháp cú có thể thị hiện đồng trong hư không giới tất cả cõi Phật,
Như Lai xuất thế vô lượng vô biên thành Chánh Giác Môn: Indication of
Buddhas emerging in all Buddha-lands and showing the ocean of infinitely
various doors of enlightenment.
4) Diễn
thuyết pháp cú có thể thị hiện đồng trong hư không giới tất cả cõi Phật,
Đức Như Lai ngồi đạo tràng giữa chúng hội Bồ Tát: Indication of the hosts
of enlightening beings in the circles of the Buddhas in the Buddha-lands
throughout space facing the terrace of enlightenment.
5) Diễn
thuyết pháp cú nơi tất cả các lỗ lông niệm niệm xuất hiện đồng tam thế
thân biến hóa của tất cả chư Phật khắp pháp giới: Indication of pervading
the cosmos in a moment of thought with emanations in the forms of the
Buddhas of past, present and future, emitted in every pore.
6) Diễn
thuyết pháp cú có thể làm cho một thân đầy khắp mười phương tất cả sát hải
bình đẳng hiển hiện: Indication of the light of magical pervasion of all
multitudes of lands in all the oceans in all directions equally with one
body.
7) Diễn
thuyết pháp cú có thể làm cho trong tất cả những cảnh giới hiện khắp tam
thế chư Phật thần biến: Indication of revelation of the power of
concentration of all pasts, presents and futures of the transfigurations
of the state of Buddhahood in the surface of all objects.
8) Diễn
thuyết pháp cú có thể làm cho trong tất cả Phật sát vi trần hiện khắp tam
thế tất cả Phật sát vi trần số Phật, những thần biến trải qua vô lượng
kiếp: Indication of manifestation of the oceans of eons of various
successive transfigurations of Buddha in the lands of past, present and
future, equal to the atoms of all the lands.
9) Diễn
thuyết pháp cú có thể làm cho tất cả lỗ lông xuất sanh âm thanh đại nguyện
hải của tất cả tam thế chư Phật, tận vị lai kiếp, khai phát hóa đạo tất cả
Bồ Tát: Indication of the birth of Enlightening Beings from the endless
power emanating from every pore by the ocean of vows of all Buddhas of
past, present, and future.
10) Diễn
thuyết pháp cú có thể làm cho tòa sư tử của Phật lượng đồng pháp giới,
chúng hội Bồ Tát, đạo tràng trang nghiêm, tận vị lai kiếp chuyển những
pháp luân vi diệu: Indication of endless manifestation of varied
expositions of truth amid equal adornments of sites of enlightenment with
circles of Enlightening Beings around lion thrones equal in extent to the
cosmos.
Thập Pháp Giới: Mười pháp
giới—Ten Dharma Realms:
1) Phật
Pháp Giới: Pháp giới của chư Phật—The Dharma Realm of Buddhas.
2) Bồ Tát
Pháp Giới: Pháp giới của chư Bồ Tát—The Dharma Realm of Bodhisattvas.
3) Duyên
Giác Pháp Giới: Pháp giới của chư Độc Giác Phật (Duyên Giác)—The Dharma
Realm of the Conditionally Enlightened Ones.
4) Thanh
Văn Pháp Giới: Pháp giới của chư Thanh Văn—The Dharma Realm of Sound
Hearers.
5) Thiện
Pháp Giới: Pháp giới của chư Thiên—The Dharma Realm of gods.
6) Nhân
Pháp Giới: Pháp giới của con người—The Dharma Realm of humans.
7)
A-Tu-La Pháp Giới: Pháp giới của loài A-tu-la—The Dharma Realm of Asuras.
8) Súc
Sanh Pháp Giới: Pháp giới của loài súc sanh—The Dharma realm of animals.
9) Quỷ
Pháp Giới: Pháp giới của loài ngạ quỷ—The Dharma Realm of hungry ghosts.
10) Địa Ngục
Pháp Giới: Pháp giới của những chúng sanh địa ngục—The Dharma realm of
hell-beings.
Thập Pháp Thọ Ký: Mười pháp thọ
ký—According to the Buddha in The Flower Adornment Sutra (Chapter
38—Detachment From The World)—Great Enlightening Beings have ten ways of
receiving prediction of Budhahood.
(A)
1) Dùng
thù thắng nguyện phát Bồ Đề tâm, tự biết thọ ký: Arousing the
determination for enlightenment with extraordinary will.
2) Trọn
chẳng nhàm bỏ hạnh Bồ Tát, tự biết thọ ký: Never giving up the practices
of Enlightening Beings.
3) Tất cả
kiếp, thực hành hạnh Bồ Tát, tự biết thọ ký: Continuing to carry out the
practices of Enlightening Beings in all ages.
4) Tu tập
tất cả Phật pháp, tự biết thọ ký: Practicing all Buddha teachings.
5) Nơi
tất cả Phật giáo, một bề thâm tín: Having complete faith in the guidance
of all Buddhas.
6) Tu tất
cả thiện căn đều khiến thành tựu, tự biết thọ ký: Cultivating all roots of
goodness and bringing them to fulfillment.
7) Đặt
tất cả chúng sanh nơi Phật Bồ Đề, tự biết thọ ký: Placing all sentient
beings in the enlightenment of Buddhas.
8) Với
tất cả thiện hữu tri thức hòa hiệp không hai, tự biết thọ ký: Harmonizing
and unifying with all spiritual friends.
9) Nơi
tất cả thiện tri thức tưởng là Phật, tự biết thọ ký: Thinking of all
spiritual friends as Buddhas.
10) Hằng
siêng thủ hộ bổn nguyện Bồ Đề, tự biết thọ ký: Perpetually preserving the
fundamental aspiration for enlightenment with diligence.
(B)
1) Nội
trí giải thậm thâm: Having extremely profound inner understanding.
2) Tùy
thuận phát khởi những thiện căn của Bồ Tát: Being able to develop the
roots of goodness of enlightening beings as appropriate.
3) Tu
quảng đại hạnh: Cultivating extensive great practices.
4) Hiện
tiền: Open receiving of the prediction.
5) Chẳng
hiện tiền: Occult receiving of the prediction.
6) Nhơn
tự tâm chứng Bồ Đề: Realizing enlightenment by their own minds.
7) Thành
tựu nhẫn: Accomplishing tolerance.
8) Giáo
hóa điều phục chúng sanh: Teaching and taming sentient beings.
9) Rốt
ráo tất cả kiếp số: Comprehending the number of all ages.
10) Tất cả Bồ Tát hạnh tự tại Mastery of all practices of Enlightening
Beings.
Thập Pháp Trụ: Theo Kinh Hoa
Nghiêm, Phẩm 33, có mười pháp trụ, để an trụ tất cả các pháp của chư
Phật—According to The Flower Adornment Sutra, Chapter 33, there are ten
kinds of abode, abiding therein in all things of all Buddhas.
1) Chư
Phật trụ nơi giác ngộ tất cả pháp giới: All Buddhas abide in awareness of
all realms of reality.
2) Chư
Phật trụ nơi đại bi ngữ: All Buddhas abide in compassion speech.
3) Chư
Phật trụ nơi bổn đại nguyện: All Buddhas abide in the fundamental great
vow.
4) Chư
Phật trụ nơi chẳng bỏ điều phục chúng sanh: All Buddhas abide in
persistence in civilizing sentient beings.
5) Chư
Phật trụ nơi pháp không tự tánh: All Buddhas abide in the principle of
absence of selfhood.
6) Chư
Phật trụ nơi bình đảng cứu độ chúng sanh: All Buddhas abide in impartial
salvation.
7) Chư
Phật trụ nơi pháp không quên mất: All Buddhas abide in recollection of
truth.
8) Chư
Phật trụ nơi tâm không chướng ngại: All Buddhas abide in the unobstructed
minds.
9) Chư
Phật trụ nơi tâm hằng chánh định: All Buddhas abide in the constantly
rightly concentrated minds.
10) Chư Phật
trụ vào khắp tất cả pháp chẳng trái tướng thực tế: All Buddhas abide in
equal comprehension of all things without violating the character of
ultimate reality.
Thập Pháp Vô Học: Asekha
(p)—Theo Kinh Phúng Tụng trong Trường Bộ Kinh, có mười Pháp Vô
Học—According to the Sangiti Sutta in the Long Discourses of the Buddha,
there are ten qualities of the non-learner—See Mười Pháp Vô Học.
Thập Phát Thú Tâm: The ten
directional decisions:
1) Xả
tâm: The mind of renouncement of the world.
2) Giới
tâm: The mind of observance of the commandments.
3) Nhẫn
nhục tâm: The mind of patience or endurance.
4) Tấn
tâm: The mind of zealous progress.
5) Định
tâm: The mind of meditation.
6) Huệ
tâm: The mind of wisdom or perfect understanding.
7) Nguyện
tâm: The mind of the will for good for oneself and others.
8) Hộ
tâm: The mind of protection of the Triratna (Buddha, Dharma, Sangha).
9) Hỷ
tâm: The mind of joy.
10) Đỉnh tâm:
Highest wisdom.
Thập Phật:—Theo Kinh Hoa
Nghiêm, Phẩm 38, có mười vị Phật mà chư Bồ Tát hay nói đến—According to
the Flower Adornment Sutra, there are Ten kinds of Buddha whom Great
Enlightening Beings speak of:
1) Thành
Chánh Giác Phật: The Buddha of attainment of true enlightenment.
2) Nguyện
Phật: The Buddha of Vows.
3) Nghiệp
Báo Phật: The Buddha of rewards of action.
4) Trụ
trì Phật: The Buddha of preservation of true teaching.
5) Niết
Bàn Phật: The Buddha of Nirvana.
6) Pháp
giới Phật: The Buddha of the cosmos.
7) Tâm
Phật: The Buddha of Mind.
8) Tam
Muội Phật: The Buddha of concentration.
9) Bổn
Tánh Phật: The Buddha of Fundamental Nature.
10) Tùy Nhạo
Phật: The Buddha adapting to Mentalities.
Thập Phật Ân: Ten kinds of
Buddha’s grace—Hạnh nguyện Phật phổ cứu chúng sanh Buddha’s initial
resolve to universalize his salvation:.
1) Ân
Phật tự hy sinh nhiều đời trước: Buddha’s self-sacrifice in previous
lives.
2) Ân vị
tha bao la: Complete altruism.
3) Ân đi
vào cõi lục đạo Ta Bà mà cứu độ chúng sanh: His descent into all the six
states of existence for their salvation.
4) Ân làm
xoa dịu những khổ đau của chúng sanh trong vòng sanh tử: Relief of the
living from distress and mortality.
5) Ân bi
sâu rộng: Profound pity.
6) Ân thị
hiện nơi thân chúng sanh trang nghiêm để hóa độ họ: Revelation of himself
in human and glorified form.
7) Ân tùy
căn cơ độ chúng: Teaching in accordance with the capacity of his hearers
(first hinayana, then mahayana doctrine).
8) Ân soi
rạng Niết bàn khuyến khích chúng đệ tử: Reveal his nirvana to stimulate
his disciples.
9) Ân hy
sinh hạnh phúc riêng mình, cũng như để lại tam tạng kinh điển cho hậu thế
tiếp tục phổ độ chúng sanh: Pitying thought for all creatures (He died at
80 instead of 100. He left 20 years of his own happiness to his disciples,
and also the Tripitaka for universal salvation).
10)
Thập Phật (Trí) Lực: The ten
powers of a Buddha:
1) Tri
thị phi xứ Trí lực: The power of knowing (understanding) from awakening to
what is and what is not the case—Trong mọi trường hợp, Phật có trí lực cho
chúng ta biết giữa đúng và sai—In any situation, the Buddha can tell us if
it is according to principle or not; whether something holds good or not
(the wisdom power of knowing points of enlightenment and
non-enlightenment).
2) Tri
tam thế nghiệp báo trí lực: The power of knowing karmic retributions
throughout the three periods of time—Phật biết những nhân mà chúng sanh
trong tam giới đã gieo trong tam thế và hậu quả của nó—The Buddha knows
what kinds of causes every living being in the three realms throughout the
past, the present and the future has planted, and what retributions each
being is receiving as a result (the wisdom power of knowing the karmic
retribution of the three periods of time).
3) Tri
chư Thiên giải thoát tam muội Trí lực: The wisdom power of knowing all
Dhyanas, Liberation, and Samadhis—Phật biết và đã kinh qua tứ thiền, bát
giải thoát, và chín giai đoạn tam muội—The Buddha knows and has
experienced the four Dhyanas, eight Liberations, and nine Successive
Stages of Samadhi.
4) Tri
chúng sanh tâm tánh trí lực: Trí biết tất cả căn cơ thượng hạ của chúng
sanh—The wisdom power of knowing all faculties, whether superior or
inferior (superiority or baseness of the roots of all living beings). The
Buddha knows what the basic disposition of every living being is like.
5) Tri
chủng chủng giải trí lực: The wisdom power of knowing the various
realms—Phật đã đạt đến trạng thái cao nhứt, đã vượt ra tam giới, nên Ngài
biết rất rõ mọi trạng thái trong đó—The Buddha has already reached the
highest states, has transcended the three realms, so he is very clear
about all the states within them.
6) Tri
chủng chủng giới trí lực: The wisdom power of knowing the various
understandings—Phật biết rõ mức độ hiểu biết của từng chúng sanh (chúng
sanh nào thông minh lanh lợi, chúng sanh nào căn tánh ám độn)—The Buddha
knows very distinctly the level of understanding of each living being
(intelligent with keen understanding or dull and don’t understand).
7) Tri
nhứt thiết sở đạo trí lực: The wisdom power of knowing where all paths
lead—Phật biết từng quả vị của con đường tu tập (nếu bạn tu tập tứ diệu
đế, thì bạn có thể đắc một trong tứ Thánh quả; nếu bạn tu tập thập nhị
nhơn duyên, bạn có thể trở thành Độc giác Phật; nếu bạn tu tập lục Ba la
mật, một ngày nào đó bạn có thể trở thành Bồ Tát)—The Buddha knows the
fruit obtained through each way of cultivation (if you practice the four
noble truths, you can certify to the four fruits of Arhatship; if you
practice the twelve links of conditioned origination, you can become an
Enlightened One to conditions; if you practice the six paramitas, you can
become a Bodhisattva someday).
8) Tri
Thiên nhãn vô ngại trí lực: The wisdom power of knowing through the
heavenly eye without obstruction—Phật có thể nhìn thấy một cách tuyệt đối
mọi sự mọi vật ngay cả trong những tầng trời cao nhất, vì không có thứ gì
có thể cản ngăn được toàn nhãn của Phật—The Buddha can see absolutely
everything, even up to the highest heavens, for nothing can obstruct the
Buddha’s perfect eyes.
9) Tri
túc mạng vô lậu trí lực: The wisdom power of knowing previous lives
without outflows—Phật biết rất rõ mọi chúng sanh đã từng là cái gì trong
đời quá khứ, hoặc trong địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, hay đi về trong hành
trình Bồ Tát đạo—The Buddha knows very clearly what every living being was
in its past lives; whether it was in an animal, hungry ghost, hell, or
whether it is a returning Bodhisattva.
10) Tri vĩnh
đoạn tập khí trí lực: The wisdom power of knowing from having cut off all
habits forever—Phật đã thấy và đã từ bỏ mọi thói hư tật xấu, và sẽ chẳng
bao giờ những vấn đề nầy có thể trở lại với Ngài—The Buddha has already
seen through all habits and put them down, and will never have any of
those problems again.
Thập Phật Sự: Theo Kinh Hoa
Nghiêm, Phẩm 27 và 33, có mười thứ Phật sự của chư Phật tam thế. Đại Bồ
Tát làm cho chúng sanh được mười thứ viên mãn rồi, lại vì chúng sanh mà
làm mười thứ Phật sự—According to The Flower Adornment Sura, Chapters 27
and 33, there are ten kinds of Buddha-work in all worlds in all times of
the Buddhas. When Great Enlightening Beings have caused sentient beings to
attain these ten kinds of fulfillment, they also perform ten kinds of
Buddha-work for sentient beings.
(A) The Flower Adornment Sutra—Chapter 33: Mười thứ Phật sự của chư Thế
Tôn nơi tất cả thế giới, tất cả thế gian (Kinh Hoa Nghiêm—Phẩm 33).
1) Nếu có chúng sanh chuyên tâm nghĩ nhớ thời Phật hiện ra trước họ:
If there are sentient beings who think of them single-mindedly, the
Buddhas appear before them.
2) Nếu có chúng sanh tâm chẳng điều thuận thời Phật vì họ mà thuyết
pháp: If there are sentient beings whose minds are unruly, they explain
the Teaching to them.
3) Nếu có chúng sanh hay sanh tịnh tín, thời Phật làm cho họ được vô
lượng thiện căn: If there are sentient beings able to develop pure faith,
they will surely cause them to acquire immeasurable roots of goodness.
4) Nếu có
chúng sanh hay nhập pháp vị, thời Phật đều hiện chứng, không pháp nào
chẳng biết If there are sentient beings able to enter the ranks of truth,
they will appear to testify to it, so that they know all.
5) Giáo
hóa chúng sanh không nhàm mỏi: They teach and influence sentient beings
tirelessly.
6) Du
hành các cõi Phật, qua lại vô ngại: They travel to all Buddha-lands,
coming and going without impediment.
7) Đại bi
chẳng bỏ tất cả chúng sanh: With great compassion, they do not abandon
sentient beings.
8) Hiện
thân biến hóa hằng không đoạn tuyệt: They manifest transfigured emanation
bodies, coming forever.
9) Thần
thông tự tại chưa từng thôi nghỉ: Their exercise of spiritual powers is
ceaseless.
10) An trụ
pháp giới, hay khắp quán sát: They abide in the cosmos of reality, able to
observe everywhere.
(B) Chư Phật
có mười thứ Phật sự quảng đại, vô lượng vô biên, bất tư nghì, mà tất cả
thế gian chư thiên và người không thể biết được. Thanh văn Độc giác cũng
chẳng biết được, chỉ trừ thần lực của Như Lai: Ten kinds of great
Buddha-work, immeasurable, boundless, inconceivable, unknowable to all
celestial and human worldlings, unknowable even to the past, future and
present Buddhist disciples and self-enlightened ones, except by the
spiritual power of the Buddhas.
1) Phật sự quảng đại
thứ nhứt—The first
great
Buddha-work:
a) Chư Phật nơi tận hư không khắp pháp giới tất cả thế giới cung trời
Đâu Suất đều hiện thọ sanh—All Buddhas appear to be born in the heavens of
contentment in all worlds throughout the cosmos:
·
Tu hạnh Bồ Tát: Carry out enlightening practices.
·
Làm Phật sự lớn: Perform great Buddha-works.
·
Vô lượng sắc tướng: In the sphere of operation of infinite
forms.
·
Vô lượng oai đức: Infinite powers.
·
Vô lượng ánh sáng: Infinite lights.
·
Vô lượng âm thanh: Infinite sounds.
·
Vô lượng ngôn từ: Infinite verbal expressions.
·
Vô lượng tam muội: Infinite concentration.
·
Vô lượng trí huệ: Infinite knowledge.
b) Cảnh giới sở hành nhiếp lấy tất cả trời, người, ma, phạm, sa môn,
bà la môn, a-tu-la, vân vân, đại từ vô ngại, đại bi rốt ráo: Taking in
all celestials, humans, demons, monks, priests, titans, and so on their
great kindness uninhibited, their great compassion ultimate.
c) Bình đẳng lợi ích tất cả chúng sanh: Impartially aiding and
benefiting all living beings.
d) Làm
cho họ có khả năng sanh vào cõi trời hay cõi người: Enabling them to be
born in heaven or in the human realm.
e) Thanh
tịnh các căn của họ: Purifying their senses.
f) Điều
tâm của họ: Turning their mind.
g) Có lúc
vì họ mà nói ba thừa sai khác: Sometimes explaining three different
vehicles of salvation for them.
h) Cũng
có lúc vì họ mà chỉ nói viên mãn nhứt thừa: Sometimes explaining the
complete full unitary vehicle for them.
i) Khắp
đều tế độ cho họ ra khỏi sanh tử: Saving and liberating all, enabling
them to get out of birth and death.
2) Đại
Phật sự thứ nhì—The second great Buddha-work:
a) Chư Phât từ cung trời Đâu Suất giáng trần vào thai mẹ: All Buddhas
descend spiritually from the heaven of contentment into the mother’s womb.
b) Dùng tam muội rốt ráo quán pháp thọ sanh như huyễn, như hóa, như
bóng, như hư không, như ma: By means of ultimate concentration they
observe the phenomenon of taking on life as like an illusion, like a
phantom, like a reflection, like space, like mirage.
c) Tùy sở
thích mà thọ vô lượng vô ngại: They take on life however they wish,
without bound, without hindrance.
d) Nhập
pháp vô tránh: Entering the state of noncontention.
e) Ly dục
thanh tịnh: They develop knowledge without attachment; free from desire,
clear and pure.
f)
Thành tựu tạng diệu trang nghiêm quảng đại: They develop a vast treasury
of wondrous adornments.
g) Thọ
thân rốt sau: Take on their final embodiment.
h) Trụ
nơi lầu các trang nghiêm mà làm Phật sự: Live in a great jewel-adorned
mansion and perform Buddha-work.
i) Hoặc
dùng thần lực mà làm Phật sự: They may do Buddha-work by spiritual powers.
j) Hoặc
dùng chánh niệm mà làm Phật sự: Or by right recollection.
k) Hoặc
hiện thần thông mà làm Phật sự: Or by showing miracles.
l) Hoặc
hiện trí nhựt mà làm Phật sự: Or by manifesting the sun of knowledge.
m) Hoặc
hiện cảnh giới quảng đại của chư Phật mà làm Phật sự: Or by revealing the
enormous spheres of Buddhahood.
n) Hoặc
hiện vô lượng quang minh của chư Phật mà làm Phật sự: Or by showing the
immeasurable lights of the Buddhas.
o) Hoặc
nhập vô số tam muội quảng đại mà làm Phật sự: Or by entering countless
great concentrations.
p) Hoặc
hiện từ tam muội mà làm Phật sự: Or by manifesting emergence from
concentration.
q) Bấy
giờ Đức Như Lai ở trong thai mẹ, vì muốn lợi ích tất cả thế gian nên hiện
nhiều cách để làm Phật sự—The Buddhas, at that time, in the mother’s womb,
wishing to benefit all worldlings, show all kinds of appearances to do
Buddha-work:
·
Hoặc hiện sơ sanh: They may appear to be born.
·
Hoặc hiện đồng tử: Or appear as children.
·
Hoặc làm Thái tử: Or appear as princes.
·
Hoặc hiện xuất gia: Or appear as leaving home.
·
Hoặc thị hiện thành chánh đẳng chánh giác: Or they may show
the appearance of attaining true enlightenment.
·
Hoặc thị hiện chuyển diệu pháp luân: Or show the appearance
of turning the wheel of the Teaching.
·
Hoặc thị hiện nhập đại Niết bàn: Or show the appearance of
entering final extinction.
r) Như
vậy đều dùng các thứ phương tiện ở nơi tất cả phương, tất cả lưới, tất cả
vòng, tất cả hệ thống, tất cả thế giới mà làm Phật sự: In this way, all of
them, by various means, perform Buddha-work in all regions, all networks,
all circles, all systems, in all worlds.
3) Đại
Phật sự thứ ba—The third great Buddha-work:
a) Chư Phật đã thanh tịnh tất cả thiện nghiệp, tất cả sanh trí đều đã
sáng sạch: All good works of all Buddhas are already pure, and their
knowledge of all life is clear and immaculate.
b) Dùng sanh pháp mà dạy dỗ dẫn dắt quần mê, làm cho họ khai ngộ thực
hành đủ các nghiệp lành: So by birth they lead and guide the deluded,
causing them to open up in understanding and practice all that is good.
c) Vì
chúng sanh mà thị hiện đản sanh nơi vương cung: For the sake of sentient
beings they appear to be born in a royal palace.
d) Chư
Phật nơi những sắc dục cung điện hay kỹ nhạc đều đã xa lìa không tham
nhiễm: All Buddhas have already abandoned all materialistic desires for
palaces and pleasures; they have no craving or obsession.
e) Thường
quán các cõi rỗng không chẳng có thể tánh, tất cả đồ vui thích đều chẳng
có thật: Always reflect upon the emptiness and essencelessness of all
existents, that all comforts and delights are not truly real.
f) Trì
Phật tịnh giới rốt ráo viên mãn: Keeping the pure precepts of Buddhas,
ultimately fulfilling them.
g) Quán
những thê thiếp và kẻ hầu người hạ nơi nội cung mà sanh lòng đại bi:
observing the palace ladies and attendants, they develop great compassion.
h) Quán
chúng sanh hư vọng chẳng thật mà sanh lòng đại từ: Observing that all
sentient beings are unreal, they develop great kindness.
i) Quán
các thế gian không một gì là đáng thích mà sanh lòng đại hỷ: Observing
that there is nothing enjoyable in the world, they develop great joy.
j) Với
tất cả pháp tâm được tự tại mà sanh lòng đại xả: Their minds gaining
freedom in the midst of all things, they develop great relinquishment.
k) Đủ
Phật công đức hiện sanh pháp giới, thân tướng viên mãn, quyến thuộc thanh
tịnh, mà đối với tất cả không nhiễm trước: Imbued with the qualities of
Buddhahood, they manifest birth in the phenomenal realm, their physical
features perfect, their associates pure, yet they have no attachment to
anything.
l) Dùng
âm thanh tùy loại mà vì chúng diễn thuyết, cho họ sanh lòng nhàm lìa pháp
thế, như chỗ sở hành thị hiện đắc quả: With voices adapting to types, they
explain the truth to the masses, causing them to become disillusioned with
worldly things; they point out to them the results of what they are doing.
m) Lại dùng
phương tiện tùy nghi giáo hóa; kẻ chưa thành thục thời làm cho thành thục;
kẻ đã thành thục, thời làm cho họ được giải thoát: Also they use expedient
means to teach in accord with needs, causing the immature to develop
maturity, causing the mature to attain liberation.
n) Vì họ
mà làm Phật sự cho họ chẳng thối chuyển: Doing Buddha-work for them to
cause them not to regress.
o) Lại
dùng tâm từ bi quảng đại hằng vì chúng sanh mà thuyết pháp, lại vì họ mà
thị hiện ba thứ tự tại, khiến họ khai ngộ được tâm thanh tịnh: Also by
virtue of heart of universal love and compassion they continually explain
all kinds of principles to sentient beings and also manifest the powers of
diagnosis, prescription and occult influence for them, to enable them to
awaken to attain purity of mind.
p) Dầu ở
nội cung mọi người đều thấy, mà vẫn ở trong tất cả các thế giới làm Phật
sự: Though the Buddhas be in the inner palace, seen by all the people,
yet they are performing Buddha-work in all worlds.
q) Dùng
đại trí huệ, dùng đại tinh tấn thị hiện những Phật thần thông vô ngại vô
tận: By means of great knowledge and energy they manifest the various
powers of Buddhas, unhindered, inexhaustible.
r) Hằng
trụ nơi ba thứ nghiệp phương tiện thiện xảo là thân nghiệp rốt ráo thanh
tịnh, ngữ nghiệp theo trí huệ mà phát ra, ý nghiệp thậm thâm vô ngại. Dùng
phương tiện nầy để lợi ích chúng sanh: They always continue three kinds of
skillful expedient action: their physical activity is ultimately pure,
their verbal activity is always carried out in accord with knowledge, and
their mental activity is exceedingly profound and has no blockage or
inhibition; by these means they benefit living beings.
4) Đại
Phật sự thứ tư—The fourth great Buddha-work:
a) Chư Phật thị hiện ở những cung điện trang nghiêm, quán sát nhàm
lìa bỏ mà xuất gia, muốn cho chúng sanh biết rõ thế pháp đều là vọng tưởng
vô thường hư hoại, rất nhàm lìa chẳng nhiễm trước, dứt hẳn phiền não tham
ái, tu hạnh thanh tịnh lợi ích chúng sanh: All Buddhas show analytix
examination and disenchantment while living in a palace of all kinds of
adornments, thereupon giving it up and leaving home, wishing to let
sentient beings realize that things of the world are all illusions,
impermanent, and perishable, and become deeply disillusioned, avoid
creating attachments, forever cut off the affliction of worldly craving,
cultivate purifying practices, and benefit living beings.
b) Đương lúc xuất gia bỏ oai nghi thế tục, trụ trong pháp vô tránh,
đầy đủ bổn nguyện vô lượng công đức When the Buddhas leave home, they give
up conventional manners, abide in noncontention, and fulfill the
immeasurable virtues of their fundamental vow.
c) Thường dùng ánh sáng đại trí dẹp tan bóng tối si mê của thế gian:
By the light of great knowledge they destroy the darkness of delusion of
the world.
d) Làm
phước điền vô thượng cho các thế gian: Become unexcelled fields of
blessings for all beings.
e) Thường
vì chúng sanh mà tán thán công đức của Phật, cho họ ở nơi Phật gieo trồng
những cội lành: They always extol the virtues of Buddhas for the benefit
of sentient beings, causing them to plant roots of goodness with the
Buddhas.
f) Dùng
mắt trí huệ thấy nghĩa chơn thật: They see truth with the eye of wisdom.
g) Lại vì
chúng sanh mà khen nói công đức xuất gia thanh tịnh không lỗi: They also
extol renunciation for the benefit of sentient beings, its purity and
blamelessness.
h) Vĩnh
viễn được xuất ly, mãi mãi làm tràng cao trí huệ cho thế gian: They are
eternally emancipated and are forever lofty paragons of wisdom for the
world.
5) Đại
Phật sự thứ năm—The fifth great Buddha-work:
a) Chư Phật nhứt thiết trí, nơi vô lượng pháp đều đã thấy biết, dưới
cội Bồ Đề thành Chánh đẳng Chánh giác, hàng phục ma quân: All Buddhas have
omniscience and already know and see infinite realities. Attaining perfect
enlightenment under the Tree of Enlightenment, vanquishing all demons.
b) Thân Phật sung mãn tất cả thế giới: Their majesty supreme, their
bodies fill all worlds.
c) Thần lực chỗ làm của chư Phật là vô biên vô tận: Their deeds of
spiritual power are boundless and inexhaustible.
d) Nơi
nhứt thiết trí đúng nghĩa sở hành đều được tự tại: They attain mastery of
all meanings in the sphere of omniscience.
e) Tu các
công đức đều đã viên mãn: They have cultivated virtues to consummation.
f) Tòa
Bồ Đề của Phật đầy đủ trang nghiêm cùng khắp mười phương tất cả thế
giới—Their seats of enlightenment are fully adorned and pervade all
worlds in the ten directions:
·
Phật ngồi trên tòa này chuyển diệu pháp luân: The Buddhas
sit on them and turn the wheel of the sublime Teaching.
·
Nói tất cả những hạnh nguyện của Bồ Tát: Explaining all the
undertakings of enlightening beings.
·
Khai thị vô lượng Phật cảnh giới cho chư Bồ Tát đều được ngộ
nhập: Revealing the infinite realms of the Buddhas causing the
Enlightening Beings to awaken to and enter to them.
g) Tu
hành những diệu hạnh thanh tịnh: They carry out all kinds of pure
practices.
h) Lại hay giáo hóa tất cả chúng sanh—Are able to direct and guide all
living beings:
·
Khiến họ gieo căn lành: Cause them to plant roots of
goodness.
·
Khiến họ được sanh trong đất bình đẳng của Như Lai: Cause
them to be born in the ground of equality of The Enlightened.
·
Khiến họ trụ nơi vô biên diệu hạnh của chư Bồ Tát: Cause
them to continue in the boundless good practices of
Enlightening Beings.
·
Khiến họ được thành tựu công đức tối thắng: Cause them to
develop all the most excellent qualities.
i) Làm Phật sự theo những sự biết rõ sau—To Perform Buddha-work based
on the following:
·
Biết rõ tất cả thế giới: The Buddhas know perfectly all
worlds.
·
Biết rõ tất cả chúng sanh: All beings.
·
Biết rõ tất cả cõi Phật: All Buddha-lands.
·
Biết rõ tất cả các pháp: All phenomena.
·
Biết rõ tất cả Bồ Tát: All Enlightening Beings.
·
Biết rõ tất cả giáo pháp: All teachings.
·
Biết rõ tất cả tam thế: All pasts, presents, and futures.
·
Biết rõ tất cả điều phục: All disciplines.
·
Biết rõ tất cả thần biến: All mystic transformations.
·
Biết rõ tất cả tâm sở thích của chúng sanh nên khéo làm Phật
sự: The inclinations of all sentient beings’ minds, and based on this
knowledge perform Buddha-work.
6) Đại
Phật sự thứ sáu—The sixth great Buddha-work:
a) Chư Phật chuyển bất thối Pháp luân, vì làm cho chư Bồ Tát chẳng thối
chuyển: All Buddhas turn the irreversible wheel of the Teaching, to
cause the Enlightening Beings not to backslide.
b) Chuyển vô lượng pháp luân, vì làm cho tất cả thế gian đều biết rõ:
They turn the immeasurable wheel of the Teaching to cause all worldlings
to know.
c) Chuyển
khai ngộ pháp luân, vì có thể làm đại vô úy sư tử hống: They turn the
wheel of the Teaching, awakening all, because they can fearlessly roar the
lion’s roar.
d) Chuyển
nhứt thiết pháp trí tạng pháp luân, vì khai cửa pháp tạng trừ ám chướng:
They turn the wheel of the Teaching, which is a treasury of knowledge of
all truths, to open the door of the treasury of truth and remove the
obstacle of obscurity.
e) Chuyển
vô ngại pháp luân, vì đồng với hư không: They turn the unobstructed wheel
of the Teaching, being equal to space.
f)
Chuyển vô trước pháp luân, vì quán tất cả pháp chẳng có chẳng không: They
turn the wheel of Teaching of non-attachment, because they see that all
things are neither existent nor nonexistent.
g) Chuyển
chiếu thế pháp luân, vì làm cho tất cả chúng sanh được tịnh pháp nhãn:
They turn the world-illuminating wheel of Teaching, to cause all sentient
beings to purify their vision of reality.
h) Chuyển
khai thị nhứt thiết trí pháp luân, vì cùng khắp tất cả tam thế: They turn
the wheel of Teaching revealing all knowledge, pervading all things in all
times.
i)
Chuyển tất cả Phật đồng nhứt pháp luân, vì tất cả Phật pháp chẳng trái
nhau: They turn the wheel of Teaching, which is the same one of all
Buddhas because all Buddha teachings are not mutually opposed or
contradictory.
j) Tất
cả chư Phật dùng vô lượng vô số trăm ngàn ức na do tha pháp luân như vậy,
tùy theo tâm hành sai biệt của các chúng sanh mà làm Phật sự chẳng thể
nghĩ bàn: All Buddhas, by means of measureless, countless hundreds of
thousands of millions of billions of such wheels of Teaching, perform
Buddha-work inconceivably according to the differences in mental patterns
of sentient beings.
7) Đại
Phật sự thứ bảy—The seventh great Buddha-work:
a) Tất cả chư Phật vào nơi tất cả những vương đô thành ấp, vì những
chúng sanh mà làm Phật sự. Đó là—All Buddhas enter into all capital cities
and perform Buddha-work for the beings. That is:
·
Đô ấp của nhơn vương: They enter human capitals.
·
Đô ấp của Thiên vương: Celestial capitals.
·
Đô ấp của Long vương: Capitals of water spirits.
·
Đô ấp của Ma vương: Monster.
·
Đô ấp của Càn Thát Bà vương: Cherubium.
·
Đô ấp của A-tu-la vương: Titans.
·
Đô ấp của Ca-lâu-la vương: Birds.
·
Đô ấp của Khẩn-na-la vương: Hongoblins.
·
Đô ấp của Tỳ-xá Xà vương: Serpents.
·
Goblins: Đô ấp của La-hầu-la-già vương.
·
Đô ấp của La-sát vương: Demons.
·
Đô ấp của tất cả chư vương như vậy: And so on.
b) Lúc Phật vào cửa thành thời đại địa chấn động, quang minh chiếu
khắp—When they enter the gates of the city, the Earth trembles, light
shines everywhere:
·
Người đui được thấy: The blind gain vision.
·
Kẻ điếc được nghe: The deaf are able to hear.
·
Kẻ điên cuồng được tỉnh: The insane regain their sanity.
·
Kẻ nghèo khổ thiếu thốn được ấm no hạnh phúc: The naked are
clothed, the troubled and suffering all gain peace and happiness.
·
Tất cả những đồ trang sức, hoặc đeo hoặc chẳng đeo, đều tự
phát diệu âm, ai nghe cũng đều vui mừng cả: All musical instruments
spontaneously play, all adornments, used or not, emit marvelous sounds
that delight all hearers.
c) Chư Phật sắc thân thanh tịnh khiến người thấy không sanh nhàm
chán: The Buddhas’ physical forms are pure and clean, fully endowed with
the marks and refinements of greatness, so that none ever tire of seeing
them.
d) Chư
Phật hay vì chúng sanh mà làm Phật sự—They are able to do Buddha-work for
the benefit of sentient beings:
·
Hoặc đoái ngó: Whether looking.
·
Hoặc quán sát: Examining.
·
Hoặc co duỗi: Stretching.
·
Hoặc đi, đứng, ngồi, nằm: Walking or standing still, sitting
or reclining.
·
Hoặc nín hoặc nói: Silent or speaking.
·
Hoặc hiện thần thông: Whether manifesting occult powers.
·
Hoặc thuyết pháp: Or explaining principles.
·
Hoặc dạy bảo: Or giving instructions.
·
Tất cả như vậy đều vì chúng sanh mà làm Phật sự: In all
these, they are performing Buddha-work for the benefit of
sentient beings.
e) Chư
Phật khắp ở vô số thế giới trong biển tâm sở thích của các loài chúng
sanh mà—All Buddhas, in all the countless worlds, in the midst of the
oceans of mental inclinations of all kinds of sentient beings:
·
Khuyên họ niệm Phật: Urge them to remembrance the Buddhas.
·
Thường siêng quán sát và gieo trồng những căn lành: Always
diligently considering and planting roots of goodness.
·
Tu hạnh Bồ Tát: Cultivating the practices of Enlightening
Beings.
·
Khen Phật sắc tướng vi diệu đệ nhứt, tất cả chúng sanh đều
khó gặp gỡ: Praising the subtlety and supremacy of the Buddhas'
appearance, which is hard for any living being to get to meet.
f) Nếu
ai thấy được Phật mà sanh lòng kính tin thời phát khởi vô lượng pháp lành,
chứa Phật công đức đều khắp thanh tịnh: If beings see Buddhas and are
inspired with faith, when they produced all the immeasurable good
qualities and amass the virtues of Buddhas, all pure.
g) Khen
ngợi Phật công đức như vậy rồi thời—Thus, having extolled the virtues of
Buddhas:
·
Phân thân qua khắp mười phương thế giới khiến các chúng sanh
đều được chiêm ngưỡng phụng thờ: They multiply their bodies to go to all
worlds in the ten directions to let the sentient beings behold them.
·
Tư duy quán sát về chư Phật: Meditate on them and
contemplate them.
·
Cung kính cúng dường: Attend and serve them.
·
Trồng thiện căn để được chư Phật hoan hỷ: Plant roots of
goodness, gain the good graces of the Buddhas.
·
Thêm lớn Phật chủng để tất cả chúng sanh đều được thành
Phật: Increase the family of Buddhas, all beings certain to attain
Buddhahood.
h) Dùng
những hạnh nầy mà làm Phật sự—By these actions, they perform Buddha-work:
·
Hoặc vì chúng sanh mà thị hiện sắc thân: Sometimes
manifesting physical bodies for sentient beings.
·
Hoặc phát diệu âm: Sometimes making sublime utterances.
·
Hoặc chỉ vi tiếu: Sometimes just smiling.
·
Khiến cho chúng sanh kính tin, cúi đầu đảnh lễ, ca ngợi khen
tặng, thăm viếng hỏi thăm, dùng tất cả những thứ nầy mà làm Phật sự:
Causing them to believe, honor, praise, and behave courteouslyï.
i) Chư
Phật dùng vô lượng vô số bất khả thuyết bất khả tư nghì những Phật sự như
vậy, ở trong tất cả thế giới tùy tâm chúng sanh sở thích , dùng sức bổn
nguyện, sức đại từ bi, sức nhứt thiết trí, phương tiện giáo hóa đều làm
cho họ được điều phục: All Buddhas, by means of innumerable, untold,
inconceivable such Buddha-works of all kinds, in all worlds, according to
the inclinations of sentient beings’ minds, teach them expediently, by the
power of their original vows, the power of great love and compassion, and
the power of omniscience, causing them all to be civilized.
8) Đại
Phật sự thứ tám—The eighth great Buddha-work—All Buddhas may do
Buddha-work—Tất cả chư Phật có thể làm Phật sự:
a) Hoặc nơi rừng rậm: While dwelling in forest retreats.
b) Hoặc ở chỗ tịch tịnh: Or in quiet places, or in desolate places.
c) Hoặc ở
chỗ của Phật mà làm Phật sự: Or in Buddhas’ dwelling place.
d) Hoặc
trụ trong tam muội mà làm Phật sự: Or they may do Buddha-work while in
samadhi.
e) Hoặc ở
một mình nơi vườn rừng mà làm Phật sự: Or while alone in a grove.
f) Hoặc
ẩn thân chẳng hiện mà làm Phật sự: Or while concealing themselves from
views.
g) Hoặc
trụ nơi trí thậm thâm mà làm Phật sự: Or while abiding in knowledge of the
ultimate profundity.
h) Hoặc
trụ nơi cảnh giới vô tỷ của chư Phật mà làm Phật sự: Or while dwelling in
the incomparable realm of the Buddhas.
i) Hoặc
trụ những thân hành bất khả kiến, tùy tâm sở thích sở nguyện của chúng
sanh phương tiện giáo hóa không thôi nghỉ mà làm Phật sự: Or they may do
Buddha-work while carrying on various imperceptible physical actions,
adapting to sentient beings’ mentalities, predilections, and
understandings to teach them as is expedient, without cease.
j) Hoặc
dùng thân Trời cầu nhứt thiết trí mà làm Phật sự: Or they may do
Buddha-work seeking omniscience in the form of celestial beings.
k) Hoặc
dùng thân rồng, dạ-xoa, a-tu-la, ca-lâu-la, xà vương, nhẫn đến thân
người mà làm Phật sự: Or they may do Buddha-work seeking omniscience in
the form of water spirits, goblins, cherubim, titans, birds, serpents,
humans, subhumans, and so on.
l) Hoặc
dùng thân Thanh Văn, Duyên Giác, thân Bồ Tát cầu nhứt thiết trí mà làm
Phật sự: They may do Buddha-work by seeking omniscience in the form of
Listeners, Solitary Illuminates, or Enlightening Beings.
m) Hoặc nói
một Phật hoặc nói nhiều Phật mà làm Phật sự: Sometimes, they do
Buddha-work saying there is one Buddha, sometimes saying there are many
Buddhas.
n) Hoặc
nói chư Bồ Tát tất cả hạnh tất cả nguyện làm một hạnh nguyện mà làm Phật
sự: Sometimes they do Buddha-work saying practices and all vows of
Enlightening Beings are one practice and vow; sometimes they do
Buddha-work saying one practice and vow of Enlightening Beings are
infinite practices and vows.
o) Hoặc
nói cảnh giới Phật là cảnh giới thế gian mà làm Phật sự: Sometimes they do
Buddha-work saying the realm of Buddhahood is the world.
p) Hoặc
nói cảnh giới thế gian là cảnh giới Phật mà làm Phật sự: Sometimes they do
Buddha-work saying the world is the realm of Buddhahood.
q) Hoặc
nói cảnh giới Phật chẳng phải là cảnh giới mà làm Phật sự: Sometimes they
do Buddha-work saying the realm of Buddhahood is not the world.
r) Hoặc
trụ một ngày, hoặc trụ một đêm, hoặc trụ nửa tháng, hoặc trụ một tháng,
hoặc trụ một năm, nhẫn đến trụ bất khả thuyết kiếp vì các chúng sanh mà
làm Phật sự: Sometimes they remain for a day, or a night, or a fortnight,
or a month, or a year, or up to untold eons to do Buddha-work for the
benefit of sentient beings.
9) Đại
Phật sự thứ chín—The ninth great Buddha-work:
a) Chư Phật là tạng sanh ra thiện căn thanh tịnh, làm cho các chúng
sanh ở trong Phật pháp sanh tín giải thanh tịnh, các căn điều phục lìa hẳn
thế gian: All Buddhas are mines that produce pure roots of goodness,
causing sentient beings to engender pure faith and resolution in the
Buddha-teachings, so their faculties are tamed and they forever detach
from the world.
b) Làm cho chư Bồ Tát ở nơi đạo Bồ Đề đủ sáng trí huệ chẳng do tha ngộ:
They cause Enlightening Beings to be full of knowledge, wisdom and clarity
in regard to the way of enlightenment and not depend on another for
understanding.
c) Hoặc
hiện Niết bàn mà làm Phật sự: Sometimes they do Buddha-work manifesting
nirvana.
d) Hoặc
hiện thế gian thảy đều vô thường mà làm Phật sự: Sometimes they do
Buddha-work showing the evanescence of all in the world.
e) Hoặc
nói Phật thân mà làm Phật sự: Sometimes they do Buddha-work explaining the
Buddha-bodies.
f) Hoặc
nói những công đức đã làm xong mà làm Phật sự: Sometimes they do the
Buddha-work explaining the flawless fulfillment of virtuous qualities.
g) Hoặc
nói dứt hẳn những căn bổn mà làm Phật sự: Sometimes they do Buddha-work
explaining the extirpation of the roots of all existences.
h) Hoặc
khiến chúng sanh nhàm rời thế gian tùy thuận tâm Phật mà làm Phật sự:
Sometimes they do Buddha-work causing sentient beings to turn away from
the world to follow the Buddha-mind.
i) Hoặc
nói thọ mạng trọn về nơi hết mà làm Phật sự: Sometimes they do the
Buddha-work explaining the inevitable ending of life.
j) Hoặc
nói thế gian không một việc đáng vui mà làm Phật sự: Sometimes they do
Buddha-work explaining that there is nothing enjoyable in the world.
k) Hoặc
vì tuyên nói tận vị lai thế cúng dường chư Phật mà làm Phật sự: Sometimes
they do Buddha-work preaching the eternal service of Buddhas.
l) Hoặc
nói chư Phật chuyển tịnh Pháp luân khiến người được nghe rất vui mừng mà
làm Phật sự: Sometimes they do Buddha-work explaining the Buddhas’ turning
of the wheel of pure Teaching, causing the hearers to become very joyful.
m) Hoặc vì
tuyên nói cảnh giới của chư Phật khiến họ phát tâm tu hành mà làm Phật sự:
Sometimes they do Buddha-work expounding the sphere of Buddhahood,
inspiring people to cultivate spiritual practices.
n) Hoặc
vì tuyên nói niệm Phật tam muội, khiến họ phát tâm thường thích thấy Phật
mà làm Phật sự: Sometimes they do Buddha-work expounding concentration and
remembrance of Buddha, inspiring people to always delight in visions of
Buddha.
o) Hoặc
vì tuyên nói các căn thanh tịnh, siêng cầu Phật đạo tâm không lười trễ mà
làm Phật sự: Sometimes they do Buddha-work expounding the purification of
the senses, diligent search for the Buddha Way with unflagging spirit.
p) Hoặc
chỉ tất cả cõi Phật, quán sát những cảnh giới các loại nhơn duyên mà làm
Phật sự: Sometimes they do Buddha-work visiting all Buddha-lands and
observing the various causes and conditions of their environments.
q) Hoặc
nhiếp tất cả những thân chúng sanh đều làm thân Phật, làm cho những chúng
sanh lười biếng buông lung đều an trụ nơi cấm giới thanh tịnh của Như Lai
mà làm Phật sự: Sometimes they do Buddha-work uniting all bodies of living
beings into a Buddha-body, causing all lazy and self-indulgent sentient
beings to abide by the pure precepts of The Enlightened.
10) Đại Phật
sự thứ mười—The tenth great Buddha-work:
a) Chư Phật lúc nhập Niết bàn, vô lượng chúng sanh rất lo khổ kêu gào
khóc than, nhìn nhau mà nói rằng: “Đức Như Lai có đại từ đại bi, thương
xót lợi ích của tất cả thế gian, làm nơi cứu, làm chỗ về nương cho các
chúng sanh. Rất khó gặp Đức Như Lai xuất thế. Phước điền vô thượng nay đã
mất hẳn. Chư Phật dùng việc như vậy làm cho chúng sanh mến tiếc buồn khóc
mà làm Phật sự: When Buddhas enter extinction, countless sentient beings
mourn and weep, looking at each other in great grief and distress, they
say, “The Buddha had great sympathy and compassion, mercifully aiding all
worldly beings, a savior and a refuge for all living creatures. The
emergence of a Buddha is difficult to encounter, an unexcelled field of
blessings, and now the Buddha has passed away forever.” Thus they use this
to cause sentient beings to mourn and miss the Buddha, thereby doing
Buddha-work.
b) Lại vì hóa độ tất cả trời người và thiên long bát bộ, nên tùy theo sở
thích ý muốn của họ, mà nát thân Phật thành ngọc xá lợi vô lượng vô số bất
tư nghì, khiến các chúng sanh phát lòng tin thanh tịnh, cung kính tôn
trọng, hoan hỷ cúng dường, tu các công đức đầy đủ viên mãn, xây lại tháp
rồi đem các thứ trang nghiêm đặt trong cung điện của Trời người, bát bộ
thiên long để cúng dường. Răng, móng, và tóc của Phật cũng đều dựng tháp
cúng dường, làm cho người thấy đều phát tâm niệm Phật, niệm Pháp niệm
Tăng, tin mến không thôi, thành kính tôn trọng, cúng dường khắp mọi nơi,
tu các công đức: Also in order to transform and liberate all celestials,
humans, spirits, goblins, titans, cherubim, and so on, according to their
desires, they pulverize their own bodies to make countless relics, to
cause sentient beings to develop faith, honor, respect, and joyfully
reverence them, and cultivate virtues to complete fulfillment. They also
build monuments, variously adorned, in the abodes of all kinds of
creatures, for religious services; their teeth, nails, and hair are all
used to make monuments, to cause those who see them to remember the
Buddha, the Teaching, and the Community, to believe with unswerving faith,
sincerely respect and honor them, and make offerings to them wherever they
are, and cultivate virtues.
c) Do những công đức nầy chúng sanh có thể—So that by this merit they
may be:
·
Sanh vào cõi Trời: Born in heaven.
·
Hay trong nhơn gian: Or among humans.
·
Dòng họ tôn quí: Of noble and properous families.
·
Tài sản đủ đầy: With ample property.
·
Quyến thuộc thanh tịnh: Pure retinues.
·
Chẳng đọa ác đạo: Not enter into evil ways.
·
Thường sanh thiện đạo: Always enter into wholesome ways.
·
Thường được thấy Phật đủ những pháp lành: Always get to see
Buddhas, fulfill pure ways.
·
Chóng được xuất ly ba cõi: Quickly attain emancipation from
the three realms of existence.
·
Đều tùy sở nguyện được chứng quả nơi thừa mà họ đã tu: Each
attain the fruit of their own vehicle according to their aspiration.
·
Đối với chư Phật thời biết ân và báo ân: Recognize and
requite their debt to Buddhas.
·
Trọn làm chỗ quy-y cho thế gian: Forever be a reliance for
the world.
·
Chư Phật dầu nhập đại Niết bàn, vẫn làm phước điền thanh
tịnh bất tư nghì cho chúng sanh, là phước điền tối thượng công đức vô
tận, làm cho chúng sanh đầy đủ thiện căn phước đức viên mãn: Though the
Buddhas be extinct, they are still inconceivable pure fields of blessings
for living beings, with inexhaustible virtues, supreme fields of
blessings, causing sentient beings roots of goodness to be complete and
their virtue to be fully developed.
Thập Phật Trí: The ten Buddha’s
powers of understanding or wisdom:
1) Tam
thế trí: Perfect understanding of past, present, and future.
2) Phật
pháp trí: Perfect understanding of Dharma.
3) Pháp
giới vô ngại trí: Unimpeded understanding of the whole Buddha realm.
4) Pháp
giới vô biên trí: Unlimited or infinite understanding of Dharma.
5) Sung
mãn nhứt thiết thế giới trí: Understanding of Ubiquity.
6) Phổ
chiếu nhứt thiết thế giới trí: Understanding of Universal enlightenment.
7) Trụ
trì nhứt thiết thế giới trí: Understanding of omnipotence or universal
control.
8) Tri
nhứt thiết chúng sanh trí: Understanding of omniscience regarding all
living beings.
9) Tri
nhứt thiết pháp trí: Understanding of omniscience regarding laws of
universal salvation.
10) Tri vô
biên chư Phật trí: Understanding of omniscience regarding all Buddha’s
wisdom.
Thập Phiền Não: Ten kinds of
afflictions:
(A)
1) Từ 1
đến 5—See Lục Đại Phiền Não from 1 to 5.
6) Thân
Kiến: Satkayadrsti (skt)—Ảo tưởng về thân nầy hay cái ngã—The
illusion of the body or self—See Thân Kiến.
7) Biên
Kiến: The extreme view—See Biên Kiến.
8) Tà
Kiến: Wrong views—See Tà Kiến.
9) Thủ
Kiến: Chấp theo tà kiến—Clinging to wrong views—See Kiến Thủ Kiến.
10) Giới Cấm
Thủ: Chấp theo tà giáo hay chấp theo nghi lễ cúng kiến—Clinging to
heterodox ascetic views or clinging to ritual and rules—See Giới Cấm Thủ
Kiến.
(C) Theo
Thanh Tịnh Đạo, gọi là phiền não vì tự chúng đã ô nhiễm mà còn làm ô nhiễm
các pháp tương ưng với chúng—According to The Path of Purification, so
called because they are themselves defiled and because they defile the
states associated with them:
1) Tham:
greed.
2) Sân:
Hate.
3) Si:
Delusion.
4) Mạn:
Deceit—Pride.
5) Nghi:
Doubt—Uncertainty.
6) Tà
Kiến: Wrong or false view.
7) Hôn
trầm: Stiffness of mind.
8) Trạo
cử: Agitation.
9) Vô
Tàm: Consciencelessness.
10) Vô Quý:
Shamelessness.
** For more information,
please see Tứ Thủ.
Thập Phổ Môn: The ten
universals of a bodhisattva:
1) Từ bi
phổ: Universal pity and loving-kindness.
2) Hoằng
thệ phổ: Vow of universal salvation.
3) Tu
hành phổ: Accordant action.
4) Đoạn
hoặc phổ: Universal cutting off of delusions.
5) Nhập
pháp môn phổ: Freedom of entry into all forms of truth.
6) Thần
thông phổ: Universal superhuman powers.
7) Phương
tiện phổ: Universal accordance with conditions of the receptivity of
others.
8) Thuyết
pháp phổ: Powers of universal explication of the truth.
9) Cúng
dường chư Phật phổ: Power of universal service of all Buddhas.
10) Thành tựu
chúng sanh phổ: The perfecting of all beings universally.
Thập Phương:
(I)
Everywhere—All directions—Ten directions:
1) Phương
Đông: East—Nơi hội họp đầu tiên của chư Bồ Tát từ các nơi xa bên ngoài thế
giới đại hải. Phương Đông còn tiêu biểu cho sự chứng nhập thâm sâu vào
pháp giới—The first Bodhisattva assembly from the East has come from a
world very far away, beyond “seas of worlds.” This symbolizes profound
certification into the Dharma realm.
2) Phương
Nam: South—Symbolizes the upholding and maintaining of the Dharma—Tiêu
biểu cho trì giữ Pháp giới.
3) Phương
Tây: West—Nơi có núi Tu Di và Vân-hóa địa, tiêu biểu cho sự uy nghi kỳ
diệu của Tứ đức Niết bàn: thường, lạc, ngã, tịnh, làm tươi mát chúng sanh
mọi loài—Mount Sumeru and the transformation-clouds symbolize the
wonderful loftiness of the four virtues of Nirvana: permanence, bliss,
true self, and purity, which cool and refresh living beings.
4) Phương
Bắc: North—Sự cúng dường của y áo tiêu biểu cho sự nhẫn nhục tĩnh lặng và
cảm giác hổ thẹn. Người ta dùng những y áo nầy làm trang sức cho Pháp
thân—The offering of garments is symbolic of still patience and a sense of
shame. One adorns the Dharma Body with such garments.
5) Phương
Đông Bắc: Northeast—Đây là những túp lều tiêu biểu cho tinh thần Bi Trí
trong nhà Phật—The different pavilions symbolize the dual benefits of
compassion and wisdom.
6) Phương
Đông Nam: Southeast—Ánh sáng toàn hảo, có nghĩa là sự toàn hảo của trí tuệ
mà không thiếu thực hành—The perfection of light signifies the perfection
of wisdom, but not lacking in practice.
7) Phương
Tây Nam: Southwest—Ánh sáng rực lên, chỉ cho trí tuệ thanh tịnh, bới lên
và đốt cháy tất cả những bùi nhùi phiền não—The blazing flames refer to
pure wisdom which exhumes the tinder of delusion.
8) Phương
Tây Bắc: Northwest—Vì lợi ích của chúng sanh mà chư Bồ Tát thị hiện, phản
ánh hình ảnh của chư Phật, sự xuất hiện nầy chỉ khởi lên từ những điều
kiện (vì chúng sanh), chứ không có tính cách hiện hữu thật sự—For the sake
of all living beings these Bodhisattvas manifest reflected images of all
Buddhas, to show that such appearances arise only from conditions and do
not have any actual existence.
9) Hạ
Phương: The Direction below—Phương nầy tiêu biểu cho Ba la mật mà vị Bồ
tát thực hành, thần thông và những hạnh của chư Phật—This refers to the
Paramitas, the Bodhisattva practices, their spiritual penetrations and the
deeds of the Buddhas.
10) Thượng
Phương: The Direction Above—Nơi đây trả lời những câu hỏi về tiền kiếp của
Phật Tổ và Thập ba la mật—This passage answers questions concerning events
of the Buddha’s former lives and the ten Paramitas.
(II) Tên của
một ngôi chùa tọa lạc trong thị xã Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang. Dân địa
phương còn gọi là chùa Lớn. Chùa được xây dựng vào cuối thế kỷ thứ 18.
Trước chùa có cây Bồ Đề ở Ấn Độ được thỉnh về trồng vào năm 1955—Name of a
temple, located in Rạch Giá town, Kiên Giang province. It is also called
Chùa Lớn. The temple was built in the late eighteenth century. There is a
Bodhi-tree, brought back from India in 1955, was grown in front of the
temple.
Thập Phương Giới Chân Thật Nhân Thể:
Vũ trụ mười phương chính thật là thân nầy—The whole universe in the ten
directions is the real human body.
Thập Phương Phật Nhiên: Buddhas
in the ten directions are like that.
Thập Phương Tam Thế Nhứt Thiết Chư Phật:
All the Buddhas of the Ten directions and the three periods of time.
Thập Quán Sát Trí: See Mười Trí
Quán Sát Của Chư Đại Bồ Tát.
Thập Quang Chiếu Trí: See Mười
Trí Quang Chiếu.
Thập Quảng Đại Trí: Theo Kinh
Hoa Nghiêm, Phẩm 36, chư Đại Bồ Tát có mười trí quảng đại. Khi chư Đại Bồ
Tát trụ nơi mười pháp thanh tịnh thời đầy đủ mười trí quảng đại—According
to The Flower Adornment Sutra, Chapter 36, there are ten kinds of broad
knowledge. When great
enlightening beings persist in the ten kinds of purity, they become imbued
with ten kinds of broad knowledge.
1) Trí
biết tất cả tâm hành của chúng sanh: Knowledge of all sentient beings’
mental behavior.
2) Trí
biết tất cả nghiệp báo của chúng sanh: Knowledge of the consequences of
actions of all sentient beings.
3) Trí
biết tất cả Phật pháp: Knowledge of all Buddha-teachings.
4) Trí
biết lý thú thâm mật của tất cả Phật pháp: Knowledge of the profound,
occult import of all Buddha teachings.
5) Trí
biết tất cả môn Đà La Ni: Knowledge of all methods of concentration
spells.
6) Trí
biết tất cả văn tự biện tài: Knowledge of interpretation of all writings.
7) Trí
biết tất cả ngôn ngữ âm thanh từ biện thiện xảo của chúng sanh: Knowledge
of the language and speech of all sentient beings.
8) Trí
hiện thân mình ở khắp trong tất cả thế giới: Knowledge of manifestation of
their bodies in all worlds.
9) Trí
hiện ảnh tượng mình ở khắp trong tất cả chúng hội đạo tràng: Knowledge of
manifestation of their reflections in all assemblies.
10) Trí ở nơi
tất cả chỗ thọ sanh đều đầy đủ nhứt thiết trí: Knowledge of embodying
omniscience in all realms of beings.
** For more information,
please see Ten
kinds of purity.
Thập Quyết Định Giải: Ten kinds
of definitive understanding of worlds—See Mười Quyết Định Giải Của Chư Bồ
Tát.
Thập Sắc Ấm Ma: Theo Kinh Lăng
Nghiêm quyển Chín, có mười sắc ấm ma—According to the Surangama Sutra,
book Nine, there are ten states within the form skandha:
1) Thân
ra khỏi ngại: Body can transcend obstructions—Đức Phật bảo ông A Nan khi
đang trong ấy tinh nghiên diệu minh, bốn đại chẳng xen dệt, trong giây lát
thân có thể ra khỏi chướng ngại—The Buddha told Ananda that at the point,
as the person intently investigates that wondrous brightness, the four
elements will no longer function together, and soon the body will be able
to transcend obstructions.
a) Ấy gọi
là minh tinh lưu dật cảnh hiện tiền, nhờ công dụng tạm thời mà được như
vậy: This state is called “the pure brightness merging into the
environment.” It is a temporary state in the course of cultivation and
does not indicate sagehood.
b) Không
phải là chứng Thánh, đừng khởi tâm cho là Thánh, gọi là cảnh giới tốt. Nếu
cho là Thánh, thì liền bị quần tà: If he does not think he has become a
sage, then this will be a good state. But if he considers himself a sage,
then he will be vulnerable to the demon’s influence.
2) Trong
Thân Nhặt Trùng: The light pervades internally and he can extract
intestinal worms—Ông A Nan! Lại do tâm ấy, tinh nghiên diệu minh, trong
thân rỗng suốt. Người đó bỗng nhiên lấy ra các loài giun sán ở trong thân.
Thân tướng còn nguyên, không bị tổn thương. Đó gọi là tinh minh lưu lộ
hình thể. Ấy chỉ là tinh hạnh, tạm thời được như vậy. Không phải là chứng
Thánh, đừng khởi tâm cho là Thánh, gọi là cảnh giới tốt. Nếu cho là Thánh
liền bị quần tà—Ananda! As the person uses his mind to intently
investigate that wondrous light, the light will pervade his body. Suddenly
he will be able to extract intestinal worms from his own body, yet his
body will remain intact and unharmed. This state is called “the pure light
surging through one’s physical body.” It is a temporary state in the
course of intense practice, and does not indicate sagehood. If he does not
think he has become a sage, then this will be a good state. But if he
considers himself a sage, then he will be vulnerable to the
demon's’influence.
3) Tinh
Phách Đắp Đổi Hợp: His essence and souls alternately separate and
unite—Lại do tâm ấy, trong ngoài tinh nghiên. Khi ấy hồn phách , ý chí,
tinh thần, thảy đều xen vào, đắp đổi làm chủ làm khách, trừ thân chấp thọ.
Bỗng trong hư không nghe tiếng thuyết pháp, hoặc nghe mười phương đồng tỏ
nghĩa bí mật. Ấy gọi là tinh phách đắp đổi hợp ly, thành tựu thiện chủng.
Tạm thời được như vậy, không phải là chứng Thánh, đừng khởi tâm cho là
Thánh, gọi là cảnh giới tốt. Nếu cho là Thánh, liền bị quần tà—As the
person uses his mind to intently investigate inside and outside, his
physical and spiritual souls, intellect, will, essence, and spirit will be
able to interact with one another without affecting his body. They will
take turns as hosts and guests. Then he may suddenly hear the Dharma being
spoken in space, or perhaps he will hear esoteric truths being pronounced
simultaneously throughout the ten directions. This state is called “the
essence and souls alternately separating and uniting, and the planting of
good seeds.” It is a temporary state and does not indicate sagehood. If he
does not think he has become a sage, then this will be a good state. But
if he considers himself a sage, then he will be vulnerable to the demons’
influence.
4) Phật
Hiện Ra: Buddhas appear—Lại do tâm ấy, đứng lặng trong suốt, sáng từ bề
trong phát ra. Mười phương khắp hóa thành sắc vàng Diêm phù đàn. Tất cả
các giống loại hóa ra thành Như Lai. Khi ấy bỗng thấy Đức Tỳ Lô Giá Na
ngồi trên đài Thiên Quang, nghìn đức Phật nhiễu chung quanh. Trăm ức quốc
độ cùng các hoa sen đồng thời xuất hiện. Ấy gọi là tâm hồn linh ngộ nhiễm
thành. Tâm quang sáng chói, chiếu các thế giới. Tạm thời được như vậy, chứ
không phải là chứng Thánh, đừng khởi tâm cho là Thánh, thì gọi là cảnh
giới tốt. Nếu cho là Thánh, liền bị quần tà—When a person’s mind becomes
clear, unveiled, bright, and penetrating, an internal light will shine
forth and turn everything in the ten directions into the color of
Jambu-river gold. All the various species of beings will be transformed
into Tathagatas. Suddenly he will see Vairocana Buddha seated upon a
platform of celestial light, surrounded by a thousand Buddhas, who
simultaneously appear upon lotus blossoms in a hundred million lands.
This state is called “the mind and soul being instilled with spiritual
awareness.” When he has investigated to the point of clarity, the light of
his mind shine upon all worlds. This is a temporary state and does not
indicate sagehood. If he does not think he has become a sage, then this
will be a good state. But if he considers himself a sage, then he will be
vunerable to the demons’ influence.
5) Hư
Không Hóa Thành Sắc Báu: Space takes on the color of precious things—Lại
do tâm ấy tinh nghiên, diệu minh, xem xét không dừng, đè nén, hàng phục,
vằng ép quá phần. Lúc đó bỗng nhiên mười phương hư không hóa thành bảy sắc
báu, hoặc trăm sắc đồng thời đầy khắp, chẳng chướng ngại nhau. Các màu
xanh, vàng, đỏ, trắng đều hiển hiện. Đó là công lực đè ép quá phần, tạm
được như vậy, chứ không phải là chứng Thánh, đừng khởi tâm cho là Thánh,
thì gọi là cảnh giới tốt. Nếu cho là Thánh, liền bị quần tà—As the person
uses his mind to intently investigate that wondrous light, he will
contemplate without pause, restraining and subduing his mind so that it
does not go to extremes. Suddenly the space in the ten directions may
take on the colors of the seven precious things or the colors of a hundred
precious things, which simultaneously pervade everywhere without hindering
one another. The blues, yellows, reds, and whites will each be clearly
apparent. This state is called “excessively subduing the mind.” It is a
temporary state and does not indicate sagehood. If he does not think he
has become a sage, then this will be a good state. But if he considers
himself a sage, then he will be vulnerable to the demons’ influence.
6) Trong
Tối Thấy Vật: He can see things in the dark—Lại do tâm đó, nghiên cứu
triệt để, tinh quang chẳng loạn. Bỗng lúc nửa đêm, ở trong nhà tối, thấy
các đồ vật, chẳng khác ban ngày. Mà vật trong nhà tối cũng chẳng mất. Đó
là tế tâm mật trừng, xem thấy rỗng suốt. Tạm được như vậy, chớ không phải
là chứng Thánh, đừng khởi tâm cho là Thánh, gọi là cảnh giới tốt. Nếu cho
là Thánh, liền bị quần tà—As the person uses his mind to investigate with
clear discernment until the pure light no longer disperses, he will
suddenly be able to see various things appear in a dark room at night,
just as if it were daytime, while the objects that were already in the
room do not disappear. This state is called “refining the mind and
purifying the vision until one is able to see in the dark.” It is a
temporary state and does not indicate sagehood. If he does not think he
has become a sage, then this will be a good state. But if he considers
himself a sage, then he will be vulnerable to the demons’ influence.
7) Thân
Giống Như Cây Cỏ: His body becomes like grass or wood—Lại do tâm đó, tiến
vào, mãn phần vào nơi rỗng không. Chân tay bỗng nhiên giống như cây cỏ,
lửa đốt dao cắt không hề biết. Lửa sáng thiêu cũng không nóng, dao cắt
thịt như đốn cây. Đó là tiêu bỏ trần cảnh và xô dẹp tứ đại, một mặt thuần
túy. Tạm thời được như vậy, chớ không phải là chứng Thánh, đừng khởi tâm
cho là Thánh, thì gọi là cảnh giới tốt. Nếu cho là Thánh, liền bị quần
tà—When his mind completely merges with emptiness, his four limbs will
suddenly become like grass or wood, devoid of sensation even when burned
by fire or cut with a knife. The burning of fire will not make his limbs
hot, and even when his flesh is cut, it will be like wood being whittled.
This state is called “the merging of external states and blending of the
four elements into a uniform substance.” It is a temporary state and does
not indicate sagehood. If he does not think he has become a sage, then
this will be a good state. But if he considers himself a sage, then he
will be vulnerable to the demons’ influence.
8) Nhìn
thấy mọi nơi đều thành nước Phật: He sees everywhere turn into
Buddha-lands—Lại do tâm đó, thành tựu thanh tịnh, lắm công tịnh tâm. Bỗng
nhiên thấy núi sông, đất bằng mười phương đều thành nước Phật, đầy đủ bảy
món báu, sáng chói khắp cả. Lại thấy hằng sa Phật đầy dẫy hư không, lầu
các tốt đẹp. Nhìn xuống thấy địa ngục, xem trên thiên cung không chướng
ngại. Đó là tại mong thấy cõi Phật, tư tưởng lâu ngày hóa thành, chứ không
phải là chứng Thánh, đừng khởi tâm cho là Thánh, gọi là cảnh giới tốt. Nếu
cho là Thánh, liền bị quần tà—When his mind accomplishes such purity that
his skill in purifying the mind has reached its ultimate, he will suddenly
see the earth, the mountains, and the rivers in the ten directions turn
into Buddha-lands replete with the seven precious things, their light
shining everywhere. He will also see Buddhas, tathagatas, as many as the
sands of the Ganges, filling all of space. He will also see pavilions and
palaces that are resplendent and beautiful. He will see the hells below
and the celestial palaces above, all without obstruction. This state is
called “the gradual transformation of concentrated thoughts of fondness
and loathing.” It does not indicate sagehood. If he does not think he has
become a sage, then this will be a good state. But if he considers himself
a sage, then he will be vulnerable to the demons’ influence.
9) Nghe
được xa: He sees and hears distant things—Lại do tâm ấy, nghiên cứu sâu
xa. Bỗng ban đêm từ xa nhìn thấy làng xóm, tỉnh, chợ, đường sá, thân tộc,
quyến thuộc, hoặc nghe tiếng nói. Đó là bức tâm, đè nén tâm quá, tâm bay
xa, nên thấy chỗ xa, chứ không phải là chứng Thánh, đừng khởi tâm cho là
Thánh, gọi là cảnh giới tốt. Nếu cho là Thánh, liền bị quần tà—As the
person uses his mind to investigate what is profound and far away, he will
suddenly be able to see distant places in the middle of the night. He will
see city markets and community wells, streets, and alleys, and relatives
and friends, and he may hear their conversations. This state is called
“having been suppressed to the utmost, the mind flies out and sees much
that had been blocked from view.” It does not indicate sagehood. If he
does not think he has become a sage, then this will be a good state. But
if he considers himself a sage, then he will be vulnerable to the demons’
influence.
10) Thấy
thiện tri thức: He sees good advisors—Lại do tâm ấy, nghiên cứu tinh cực,
thấy thiện tri thức, hình thể dời đổi, trong chốc lát bỗng nhiên thay đổi
nhiều cách. Đó là tà tâm bị yêu mị, hoặc mắc thiên ma vào trong tâm phúc,
bỗng dưng thuyết pháp, thông đạt nghĩa mầu. Đây không phải là chứng Thánh,
đừng khởi tâm cho là Thánh, ma sự dứt hết. Nếu cho là Thánh, liền bị quần
tà—As the person uses his mind to investigate to the utmost point, he may
see a Good and Wise Advisor whose body undergoes changes. Within a brief
interval, various transformations will occur which cannot be explained.
This state is called “having an improper mind which is possessed by a
li-ghost, a mei-ghost, or a celestial demon, and without a reason speaking
Dharma that fathoms wondrous truths.” It does not indicate sagehood. If he
does not think he has become a sage, then the demonic formations will
subside. But if he considers himself a sage, then he will be vulnerable to
the demons’ influence.
Thập Tà: Ten Wrongnesses.
1-8) See Bát Tà.
9) Tà Trí: Wrong
knowledge.
11) Tà Giải
Thoát: Wrong deliverance.
Thập Tà Kiến: The ten wrong
views:
1) Thân
kiến: Ngã kiến—Ngã sở kiến—Sakayadrsti—The view that there is a real self
and a mine and thine.
2) Biên
kiến: Antargraha—Extreme views (extinction or permanence).
3) Tà
kiến: Mithya—Perverse views, which denying cause and effect, destroy the
foundation of morality.
4) Kiến
thủ kiến: Drstiparamarsa—Stubborn perverted views, viewing inferior things
as superior or counting the worse as the better.
5) Giới
cấm thủ kiến: Sila-vrata-paramarsa—Rigid views in favor of rigorous
ascetic prohibitions (covering oneself with ashes).
6) Tham:
Desire.
7) Sân
hận: Hate.
8) Ngã
mạn: Pride.
9) Ngu
si: Ignorance.
10) Nghi:
Doubt—Doubtful views.
Thập Tam Bồ Tát Lực: The
thirteen powers (balas) of Bodhisattvas of the Pure Land School:
1) Nhân
lực: Power of the causes.
2) Duyên
lực: Power of dependent conditions.
3) Ý lực:
Power of the mind.
4) Nguyện
lực: Power of the will (for good for onself and others).
5) Phương
tiện lực: Power of expedient means.
6) Thường
lực: Power of the Impermanence.
7) Hỷ
lực: Power of joy.
8) Định
lực: Power of meditation.
9) Huệ
lực: Power of the mind of wisdom or perfect understanding.
10) Đa văn
lực: Power of broad study or hearing.
11) Lực trì
giới, nhẫn nhục, tinh tấn và thiền định: Power of observing commandments,
endurance, effort and meditation.
12) Lực Chánh
niệm, chánh quán chư thông minh: Power of right mindfulness and right
contemplation.
13) Lực Như
pháp điều phục chư chúng sanh: Power of the True Law which can guide and
save all sentient beings.
Thập Tam Giới Tăng Tàn:
Sanghadisesa (skt)—Theo Luật Nghi Khất Sĩ được Tôn Sư Minh Đăng Quang soạn
theo Luật Tạng, mười ba giới tổn hại Tăng Tàn khiến chư Tăng Ni phạm phải
sẽ bị tạm thời trục xuất khỏi giáo đoàn. Tăng Ni phạm phải sẽ bị Tăng
chúng quy định thời gian bị tạm trục xuất. Đến khi mãn hạn trục xuất,
người phạm tội phải ra trước Tăng chúng xin được tái gia nhập vào giáo
đoàn. Không có sự chấp thuận của Tăng chúng, người phạm tội không thể trở
lại giáo đoàn—According to Rules for Mendicants composed by Most Honorable
Master Minh Đăng Quang in accordance with The Sacred Books of the
Buddhists, book of the discipline, thirteen offences which entail monks or
nuns temporary expulsion from the Order. Indulging in any one of these
offences, monks or nuns are required to leave the Order for a period of
time fixed by the assembly of monks. After that time, offenders present
themselves before the Order to beg for a reinstatement. Without the
permission from the assembly of monks, offenders cannot return to the
Order.
1) Cấm cố
ý lấy tay tự làm sự dâm, ngoại trừ trong giấc mộng: Not to intentionally
discharge of semen, except during a dream.
2) Cấm rờ
mình đàn bà, như nắm tay, rờ búi tóc, rờ rẫm tay chân, vân vân: Not to
come into physical contact with a woman, such as holding her hand, or
holding a braid of her hair, or rubbing against any one of her limbs.
3) Cấm
chọc ghẹo dụ dỗ đàn bà: Not to offend a woman with lewd words concerned
with unchastity.
4) Cấm
làm mai, cưới gã hay môi giới cho sự hẹn hò: Not to act as a go-between
for a woman with a man in mind or for a man with a woman in mind, whether
as a wife or as a mistress, or acting as an agent for arranging the
meeting of two persons for sexual indulgence.
5) Cấm
khoe phép tinh tấn với đàn bà, nói rằng ‘Các bà phải phụ trợ một người như
tôi, đức hạnh vẹn toàn, sống đời phạm hạnh’ với ý muốn quan hệ tới việc
dâm dục: Not to speak in praise of ministering to sensure pleasure for
self in the present of women, saying: “Ladies, this is the highest kind of
ministration, that a woman should minister to one like me, virtuous, of
good conduct, leading the Brahma-life” with the meaning to connect with
sexual intercourse.
6) Cấm tự
ý cất phòng sái luật (12 sãy bề dài và 7 sãy bề ngang, và không trình với
Tăng chúng chỗ cất, bởi vì vị ấy có thể cất phòng ở chỗ không có khoảng
trống bao quanh sẽ dẫn đến sự bại hoại): Not to build a hut in an unlawful
manner (not in accordance with measure of twelve spans in length and seven
spans in width, and not bring the assembly of monks for marking out a
site, for a monk should beg himself for a site which involves destruction
and which has not an open space round it).
7) Không
trình chỗ cất phòng, mặc dù tự ý thí chủ cất cho: Fail to bring for
marking out a site, even though there is a benefactor who is willing to
build and donate a vihara.
8) Cấm
cáo gian một vị Tỳ Kheo khác một tội gì mà không có thật: Not to accuse
falsely (unjustly or wrongly) a monk with an unfounded charge.
9) Cấm
dùng cách nầy thế kia để phá sự hòa hiệp của giáo hội: Not to do things to
destroy the harmony of the Order.
10) Cấm nghi
quấy một vị Tỳ Kheo khác một điều gì không có thật: Not to suspect a monk
with a groundless charge.
11) Cấm binh
vực kẻ phá hoại sự hòa hiệp ở giáo hội: Not to side with someone who
creates schism to destroy the harmony of the Order.
12) Cấm không
trang nghiêm, làm quấy ác cho kẻ khác bắt chước: Not to lead a solemnly
brahma life, to be a bad example for others to imitate.
13) Nếu vị
Tăng cưỡng lý khi làm quấy, chẳng chịu nghe lời khuyên giải. Nếu Tăng
chúng hỏi ba lần mà vẫn không chịu nghe lời, vị nầy phạm tội Tăng Tàn: If
a monk who commits evil conduct or misbehavior, and his evil conduct is
seen or heard, that monk should be admonished up to three times by the
assmebly of monks to allow him to give up his course. If after being
admonished, he gives up that course, it is good. If he does not give up,
it is an offence entailing a formal meting of the Order.
Thập Tam Muội: Thập Định của
chư Phật (Kinh Hoa Nghiêm—Phẩm 27—According to the Flower Adornment Sutra,
Chapter 27, there are ten concentrations of the Buddhas.
1) Phổ
Quang Đại Tam Muội, gồm những pháp tam muội sau đây: The Great
Concentration of Universal Light includes the following concentrations.
a. Mười
pháp môn vô tận: See Ten kinds of Inexhaustible Qualities.
b. Mười
môn vô biên tâm: See Ten kinds of boundless will.
c. Mười
môn nhập Tam muội sai biệt trí: See Ten kinds of knowledge of
differentiation of entry into concentration.
d. Mười
môn Trí thiện xảo nhập đại Tam muội: See Ten kinds of knowledge of skills
in entry into great concentration.
2) Diệu
Quang Đại Tam Muội: The Great Concentration of Subtle Light.
3) Biến
vãng chư Phật quốc độ Đại Tam Muội: The Great Concentration of successive
journeying to the Buddha-lands.
4) Thanh
Tịnh Thâm Tâm Hành Đại Tam Muội: The Great Concentration of the Action of
the Pure Profound Mind.
5) Biết
Quá Khứ Trang Nghiêm Tạng Đại Tam Muội: The Great Concentration of
Knowledge of the stores of Adornments of the Past.
6) Trí
Quang Minh Tạng Đại Tam Muội: The Great Concentration of the Treasury of
Light of Knowledge.
7) Liễu
Tri Nhứt Thiết Thế Giới Phật Trang Nghiêm Tam Muội: The great
Concentration of Knowledge of the Adornments of the Buddhas.
8) Chúng
Sanh Sai Biệt Thân Đại Tam Muội: The Great Concentration of Differentiated
Bodies of Sentient Beings.
9) Pháp
Giới Tự Tại Đại Tam Muội: The Great Concentration of Freedom in the
Elemental Cosmos.
10) Vô Ngại
Luân Đại Tam Muội: The Great Concentration of the Unimpeded Wheel.
Thập Tâm An Ổn: Ten kinds of
attainment of peace of mind—Mười thứ tâm được an ổn— Theo lời Phật dạy
trong Kinh Hoa Nghiêm (Phẩm 38—Phẩm Ly Dục), chư đại Bồ tát có mười thứ
tâm an ổn nhằm giúp họ đạt được sự an ổn đạt trí vô thượng của chư Như Lai
According to the Buddha in The Flower Adornment Sutra (Chapter
38—Detachment From The World), Great Enlightening Beings have ten kinds of
attainment of peace of mind which help them attain the peace of the
supreme knowledge of the Buddhas.
1) Mình
trụ Bồ Đề tâm cũng phải khiến người trụ Bồ Đề tâm, nên tâm được an ổn:
Abiding themselves in the will for enlightenment, they should also induce
to abide in the will for enlightenment, to attain peace of mind.
2) Mình
được rốt ráo rời giận hờn tranh đấu, cũng phải khiến người rời giận hờn
đấu tranh, nên tâm được an ổn: Ultimately free from anger and strife
themselves, they should also free others from anger and strife, to attain
peace of mind.
3) Mình
rời pháp phàm ngu, cũng khiến người rời pháp phàm ngu, nên tâm được an ổn:
Free from the state of ordinary ignorance themselves, they also free
others from the state of ordinary ignorance, and attain peace of mind.
4) Mình
siêng tu thiện căn, cũng khiến người siêng tu thiện căn, nên tâm được an
ổn: Diligently cultivating roots of goodness themselves, they also induce
others to cultivate roots of goodness, and attain peace of mind.
5) Mình
trụ đạo Ba La Mật cũng khiến người trụ đạo Ba La Mật, nên tâm được an ổn:
Persisting in the path of transcendent ways themselves, they also induce
others to abide in the path of transcendent ways, and attain peace of
mind.
6) Mình
được sanh tại nhà Phật, cũng khiến người được sanh tại nhà Phật, nên tâm
được an ổn: Being born themselves in the house of Buddha, they should also
enable others to be born in the house of Buddha, to attain peace of mind.
7) Mình
thâm nhập pháp chân thật không tự tánh, cũng khiến người được thâm nhập
pháp ấy, nên tâm được an ổn: Deeply penetrating the real truth of absence
of intrinsic nature, they also introduce others into the real truth of
absence of inherent nature, and attain peace of mind.
8) Mình
không phỉ báng tất cả Phật pháp, cũng khiến người không phỉ báng tất cả
Phật pháp, nên tâm được yên ổn: Not repudiating any of the Buddhas’
teachings, they also cause others not to repudiate any of the Buddhas’
teachings, and attain peace of mind.
9) Mình viên mãn nhứt thiết trí Bồ Đề nguyện, cũng khiến người viên mãn
nhứt thiết trí Bồ đề nguyện, nên tâm được an ổn: Fulfilling the vow of
all-knowing enlightenment, they also enable others to fulfill the vow of
all-knowing enlightenment, and attain peace of mind.
10) Mình thâm nhập trí tạng của chư Như Lai, cũng khiến người thâm nhập
trí tạng vô tận của chư Như Lai, nên tâm được an ổn: Entering deeply into
the inexhaustible treasury of knowledge of all Buddhas, they also lead
others into the inexhaustible treasury of knowledge of all Buddhas, and
attain peace of mind.
Thập Tâm Niệm (Mười Điều Tâm Niệm):
Ten non-Seeking Practices:
1) Nghĩ
đến thân thể thì đừng cầu không bịnh khổ, vì không bịnh khổ thì dục vọng
dễ sanh: We should not wish that our bodies be always free of diseases,
because a disease-free body is prone to desire and lust. This will lead to
precept-breaking and retrogression.
2) Ở đời
thì đừng cầu không hoạn nạn, vì không hoạn nạn thì kiêu sa nổi dậy: We
should not wish that our lives be free of all misfortune and adversity,
because without misfortune and adversity, we will be easily prone to pride
and arrogance.
3) Cứu
xét tâm tánh thì đừng cầu không khúc mắc, vì không khúc mắc thì sở học
không thấu đáo: We should not wish our mind cultivation be free of all
obstacles, because without obstacles we would not have opportunities to
excell our mind. This will lead to the transgression of thinking that we
have awakened, when in fact we have not.
4) Xây
dựng đạo hạnh thì đừng cầu không bị ma chướng, vì không bị ma chướng thì
chí nguyện không kiên cường: We should not wish that our cultivation be
free of demonic obstacles, because our vows would not be then firm and
enduring. This leads to the transgression of thinking that we have
attained, when in fact we have not.
5) Việc
làm thì đừng mong dễ thành, vì việc dễ thành thì lòng hay khinh thường
kiêu ngạo: We should not wish that our plans and activities meet with easy
success, for we will then be inclined to thoughts of contempt and
disrespect. This leads to the transgression of pride and conceit, thinking
ourselves to be filled with virtues and talent.
6) Giao
tiếp thì đừng cầu lợi mình, vì lợi mình thì mất đi đạo nghĩa: We should
not wish for gain in our social relations. This will lead us to violate
moral principles and see only mistakes of others.
7) Với
người thì đừng mong tất cả đều thuận theo ý mình, vì được thuận theo ý
mình thì lòng tất kiêu căng: We should not wish that everyone, at all
times, be on good terms and in harmony with us. This leads to pride and
conceit and seeing only our own side of every issue.
8) Thi ân
thì đừng cầu đền đáp, vì cầu đền đáp là thi ân có mưu đồ: We should not
wish to be repaid for our good deeds, lest we develop a calculating
mind.This leads to greed for fame and fortune.
9) Thấy
lợi thì đừng nhúng vào, vì nhúng vào thì si mê phải động: We should not
wish to share in opportunities for profit, lest the mind of illusion
arise.
10) Oan ức
không cần biện bạch, vì còn biện bạch là nhân ngã chưa xả: When subject to
injustice and wrong, we should not necessarily seek the ability to refute
and rebut, as doing so indicates that the mind of self-and-others has not
been severed. This will certainly lead to more resentment and hatred.
Thus the Buddha advised
all of us to consider:
1) Lấy
bịnh khổ làm thuốc thần: To turn suffering and disease into good medicine.
2) Lấy
hoạn nạn làm giải thoát: To turn misfortune and calamity into liberation.
3) Lấy
khúc mắc làm thú vị: To turn obstacles into freedom and ease.
4) Lấy ma
quân làm bạn đạo: To turn demons into Dharma friends.
5) Lấy
khó khăn làm thích thú: To turn trying events into peace and joy.
6) Lấy kẻ
tệ bạc làm người giúp đỡ: To turn bad friends into helpful associates.
7) Lấy
người chống đối làm nơi giao du: To turn opponents into “fields of
flowers.”
8) Coi
thi ân như đôi dép bỏ: Treat ingratitude as worn-out shoes to be
discarded.
9) Lấy sự
xả lợi làm vinh hoa: To turn frugality into power and wealth.
10) Lấy oan
ức làm cửa ngõ đạo hạnh: To turn injustice and wrong into conditions for
progress along the Way.
Thập Tâm Thương Xót: Ten kinds
of minds of sympathy and compassion (pity):
1) Thấy
chúng sanh cô độc không chỗ nương tựa mà sanh lòng thương xót:
Bodhisattvas bring forth a mind of sympathy and pity when seeing that all
living beings are alone and forlorn with nothing to rely on.
2) Thấy
chúng sanh nghèo cùng túng thiếu mà sanh lòng thương xót: Bodhisattvas
bring forth a mind of sympathy and pity when seeing that all living beings
are poor and destitude.
3) Thấy
chúng sanh bị lửa tam độc đốt cháy mà đem lòng thương xót: Bodhisattvas
bring forth a mind of sympathy and pity when seeing that all living beings
scorched by the fire of three poisons.
4) Thấy
chúng sanh bị tù trong lục đạo mà sanh lòng thương xót: Bodhisattvas bring
forth a mind of sympathy and pity when seeing all living beings are
imprisoned (shut up) in the prison of the existence (six realms).
5) Thấy
chúng sanh luôn bị rừng rậm phiền não che chướng mà sanh lòng thương xót:
Bodhisattvas bring forth a mind of sympathy and pity when seeing all
living beings are constantly covered and hemmed in by the dense forest of
afflictions.
6) Thấy
chúng sanh không khéo quán chiếu mà sanh lòng thương xót: Bodhisattvas
bring forth a mind of sympathy and pity when seeing all living beings are
not good at contemplating.
7) Thấy
chúng sanh không thích muốn pháp lành mà đem lòng thương xót: Bodhisattvas
bring forth a mind of sympathy and pity when seeing all living beings do
not desire wholesome Dharmas.
8) Thấy
chúng sanh bỏ mất Phật pháp mà đem lòng thương xót: Bodhisattvas bring
forth a mind of sympathy and pity when seeing all living beings lose all
Buddhadharma.
9) Thấy
chúng sanh lăn trôi trong vòng sanh tử mà đem lòng thương xót:
Bodhisattvas bring forth a mind of sympathy and pity when seeing all
living beings follow along with the cycle of birth and death.
10) Thấy
chúng sanh đánh mất phương tiện giải thoát mà sanh lòng thương xót:
Bodhisattvas bring forth a mind of sympathy and pity when seeing all
living beings lose expedients for liberation.
Thập Tâm Tịnh Độ: Ten Minds
developed by the Pure Land practitioners—Trong Kinh Đại Bảo Tích, Đức Thế
Tôn bảo Ngài Di Lặc Bồ Tát: “Mười Tâm cho hành giả Tịnh Độ nầy không phải
hạng phàm ngu, bất thiện, hay kẻ ác nhiều phiền não có thể phát được.”
Những gì là mười?—In the Maharatnakuta Sutra, Sakyamuni Buddha told
Maitreya Bodhisattva: “Ten Minds developed by the Pure Land practitioners
cannot be developed by ordinary people, nor those who lack virtue and are
beset by afflictions.” What are these ten?
1) Đối
với chúng sanh khởi lòng đại từ, không làm tổn hại: To develop great
loving kindness, not to harm sentient beings.
2) Đối
với chúng sanh khởi lòng đại bi, không làm bức não: To develop great
compassion, not to cause any afflictions to sentient beings.
3) Với
chánh pháp của Phật, hết lòng hộ trì, không tiếc thân mạng: To protect the
true Dharma of the Buddha without regard for one’s life.
4) Với
chánh pháp sanh lòng thắng nhẫn, không chấp trước: To develop Supreme
Tolerance of the Correct Dharma, without clinging nor grasping.
5) Tâm
điềm tĩnh an vui, không tham sự lợi dưỡng, cung kính, tôn trọng: To be
still and peaceful, without seeking gain, support nor respect.
6) Tâm
cầu chủng trí của Phật trong tất cả thời không quên lãng: To seek the
Buddha’s wisdom at all times.
7) Đối
với chúng sanh, khởi lòng tôn trọng, cung kính, không cho là hạ liệt: To
be respectful and reverential toward all sentient beings at all times.
8) Không
tham trước thế luận, với phần Bồ Đề sanh lòng quyết định: To avoid
indulging in mundane discussions; to resolve to Bodhi-Mind.
9) Tâm
thanh tịnh, không tạp nhiễm, siêng trồng các căn lành: To keep the Mind
pure, to plant all good roots.
10) Đối với
chư Phật, xả ly các tướng, khởi lòng tùy niệm: To give up attachment to
the marks of the Buddhas, while always keeping the Buddhas in mind.
Thập Thanh Tịnh: Ten kinds of
purity—See Mười Thanh Tịnh.
Thập Thánh Cư: Ariya-vasa
(p)—Ten Ariyan dispositions—See Mười Thánh Cư.
Thập Thắng Hạnh: See Thập Địa
Bồ Tát.
Thập Thắng Sự: Ten great
benefits—Theo hai Đại Sư Trí Giả và Thiên Như trong Tịnh Độ Thập Nghi Hoặc
Vấn Luận, người nào chí tâm thọ trì danh hiệu Phật, hiện đời sẽ được mười
điều thắng lợi—According to the two Great Masters Chih-I and T’ien-Ju in
The Pure Land Buddhism, those who invoke the Buddha’s name with utmost
sincerity will derive ten great benefits in this very life.
1) Ngày
đêm thường được tất cả chư Thiên, đại lực thần tướng và hằng sa quyến
thuộc ẩn hình ủng hộ: Day and night they enjoy the invisible protection of
all celestial beings, powerful deities and their multitudes of retainers.
2) Thường
được hai mươi lăm vị Đại Bồ Tát như Đức Quán Thế Âm và tất cả Bồ Tát theo
thủ hộ bên mình: Twenty-five great Bodhisattvas, including Avalokitesvara
Bodhisattva (Kuan-Yin) and other Bodhisattvas, constantly keep them in
mind and protect them.
3) Hằng
được chư Phật ngày đêm hộ niệm; Đức A Di Đà thường phóng ánh sáng nhiếp
thọ người ấy: They enjoy the continuous aid and protection of the Buddhas;
Amitabha Buddha emits constant light to gather them in.
4) Tất cả
ác quỷ như Dạ Xoa, La Sát đều không thể làm hại. Tất cả rồng độc, rắn độc
và thuốc độc đều không thể xâm phạm: No evil demons, ferocious dragons,
poisonous snakes or the like can harm them.
5) Không
bị những tai nạn như nước trôi, lửa cháy, giặc oán, đao tên, gông xiềng,
tù ngục, hoạnh tử: They do not meet with such calamities as drowning,
burning or other violent death; nor do they encounter such punishment as
being shackled and imprisoned, or sudden death.
6) Những
nghiệp ác về trước lần lượt tiêu diệt. Những oan mạng bị đương nhơn giết,
nhờ công đức niệm Phật, đều được giải thoát, không còn theo báo phục:
Previous karma is gradually dissipated; the soulsof those whom they have
murdered in past lives are liberated and no longer seek revenge.
7) Đêm
nằm nghỉ yên ổn, hoặc mơ thấy điềm lành hay thấy sắc thân thắng diệu của
Phật A Di Đà: They have restful sleep or dream of auspicious events or
view the supremely wonderful body of Amitabha Buddha.
8) Tâm
thường an vui, nhan sắc sáng nhuận, khí lực đầy đủ, việc làm có kết quả
tốt đẹp: Their Minds are always joyful and at peace, their complexions
clear and bright, their bodies filled with energy and strength; whatever
they undertake generally meets with success.
9) Thường
được mọi người kính trọng giúp đỡ, hoặc hoan hỷ lễ bái cũng như kỉnh Phật:
They are always honored and assisted by others, and are gladly accorded
the respect reserved for the Buddhas.
10) Khi lâm
chung tâm không sợ hãi, chánh niệm hiện ra, được thấy Phật A Di Đà và các
Thánh chúng tay bưng đài vàng tiếp dẫn vãng sanh về Cực Lạc, cùng tận kiếp
vị lai hưởng thọ sự vui nhiệm mầu: At the time of death, they do not
experience fright, as right thoughts manifest themselves; they witness
Amitabha Buddha and the Sacred Assembly bearing the golden lotus dais, to
welcome and escort them to the Pure Land, where they will enjoy peace of
Mind and happiness forever.
Thập Thâm Tâm: Ten profound
minds—Vị Đại Bồ Tát đã thanh tịnh xong nhị địa muốn bước vào tam địa phải
có mười thâm tâm sau đây—A Bodhisattva Mahasattva who has already
purified the second ground, and who wishes to enter the third ground,
should bring forth ten kinds of profound minds:
1) Tâm
thanh tịnh: A purified mind.
2) Tâm an
trụ: A peaceful dwelling mind.
3) Tâm
nhàm bỏ: A mind of disgust and renunciation.
4) Tâm
lìa tham: A mind free of greed.
5) Tâm
bất thối: An unretreating mind.
6) Tâm
kiên cố: A solid mind.
7) Tâm
minh thạnh: A mind of floursihing brightness.
8) Tâm
dũng mãnh: A courageous mind.
9) Tâm
rộng: A vast mind.
10) Tâm lớn:
A great mind.
Thập Thành: Perfect.
Thập Thân Phật: Ten bodies of a
Thus Come One:
1) Thân
Bồ đề: The body of Bodhi.
2) Thân
Nguyện: The body of Vows—See Nguyện Thân.
3) Thân
Hóa: The Transformation body.
4) Thân
Trụ trì: The body of Maintaining with powers.
5) Thân
Tướng hảo Trang nghiêm: The body Adorned with Marks and Characteristics.
6) Thân
Thế lực: The body of Awesome strength.
7) Thân
Như ý: The body produced by mind.
8) Thân
Phước đức: The body of Blessing and Virtue.
9) Thân
Trí: The Wisdom body.
10) Thân
Pháp: The Dharma body.
Thập Thần Thông: The ten
supernatural powers—See Thập Thông.
Thập Thần Thông Lực: Ten
spiritual powers of the Buddha—Theo Kinh Hoa Nghiêm, Phật có mười thần
thông lực, Ngài có thể hóa thành tất cả những điều kỳ lạ ấy bằng cách nhập
vào tam muội—According to the Avatamsaka Sutra, the Buddha has ten
spiritual powers. He can achieve all these wonders by merely entering into
a certain Samadhi.
1) Gia
Trì Lực: Adhisthana (skt)—Năng lực ban bố cho Bồ Tát để thành tựu mục đích
của đời sống—The sustaining and inspiring power which is given to the
Bodhisattva to achieve the aim of his life.
2) Thần
Thông Lực: Vikurvita (skt)—Năng lực tạo ra các phép lạ—The power of
working miracles.
3) Uy Đức
Lực: Anubhava (skt)—Năng lực chế ngự—The power of ruling.
4) Bổn
Nguyện Lực: Purvapranidhana (skt)—The power of original vow.
5) Túc
Thế Thiện Căn Lực: Purva-sukrita-kusalamula (skt)—Năng lực của những thiện
căn trong đời trước—The power of goodness practiced in his former lives.
6) Thiện
Tri Thức Nhiếp Thọ Lực: Kalyanamitra-parigraha (skt)—Năng lực tiếp đón hết
thảy bạn tốt—The power of receiving good friends.
7) Thanh
Tịnh Tín Trí Lực: Sraddhayajnanavisuddhi (skt)—Năng lực của tín và trí
thanh tịnh—The power of pure faith and knowledge.
8) Đại
Minh Giải Lực: Udaradhimuktyavabhasapratilambha (skt)—Năng lực thành tựu
một tín giải vô cùng sáng suốt—The power of attaining a highly
illuminating faith.
9) Thú
Hướng Bồ Đề Thanh Tịnh Tâm Lực: Bodhisattvadhyasayaparisuddhi (skt)—Năng
lực làm thanh tịnh tâm tưởng của Bồ Tát—The power of purifying the thought
of the Bodhisatva.
10) Cầu Nhất
Thiết Trí Quảng Đại Nguyện Lực: Adhyasayasarva-jnana-pranidhana-prasthana
(skt)—Năng lực khiến nhiệt thành hướng tới nhất thiết trí và các đại
nguyện—The power of earnestly walking towards all-knowledge and original
vows.
Thập Thất Giới Tăng Tàn:
Sanghadisesa (skt)—Theo Luật Nghi Khất Sĩ được Tôn Sư Minh Đăng Quang soạn
theo Luật Tạng, mười bảy giới tổn hại Tăng Tàn khiến chư Ni phạm phải sẽ
bị tạm thời trục xuất khỏi giáo đoàn. Ni chúng phạm phải sẽ bị Giáo Đoàn
Tăng Ni chúng quy định thời gian bị tạm trục xuất. Đến khi mãn hạn trục
xuất, người phạm tội phải ra trước Tăng Ni chúng xin được tái gia nhập vào
giáo đoàn. Không có sự chấp thuận của Tăng Ni chúng, người phạm tội không
thể trở lại giáo đoàn—According to Rules for Mendicants composed by Most
Honerable Master Minh Đăng Quang in accordance with The Sacred Books of
the Buddhists, book of the discipline, seventeen offences which entail
nuns temporary expulsion from the Order. Indulging in any one of these
offences, nuns are required to leave the Order for a period of time fixed
by the assembly of monks and nuns. After that time, offenders present
themselves before the Order to beg for a reinstatement. Without the
permission from the assembly of monks and nuns, offenders cannot return to
the Order.
1) Cấm
làm mai, cưới gã hay môi giới cho sự hẹn hò: A nun should not to act as a
go-between for a woman with a man in mind or for a man with a woman in
mind, whether as a wife or as a mistress, or acting as an agent for
arranging the meeting of two persons for sexual indulgence.
2) Cấm
cáo gian một vị Tỳ Kheo Ni khác một tội gì mà không có thật: A nun should
not accuse falsely (unjustly or wrongly) another nun with an unfounded
charge.
3) Cấm
nghi quấy một vị Tỳ Kheo Ni khác một gì mà không có thật: A nun should not
suspect another nun with a groundless charge.
4) Cấm
kiện thưa đến quan chức: A nun should not bring any law suits or any legal
questions to the government officials for judgment.
5) Cấm
cho nhập đạo một người phạm tội đáng chết: A nun should not ordain a woman
who has committed a capital offense (a woman with death penalty).
6) Cấm
binh vực một cô phạm đại giới: A nun should not speak in support for a nun
who has committed one of the eight Parajikas.
7) Cấm đi
xa một mình: Cấm vị Ni đi một mình đến một làng xa hay qua bên kia bờ
sông, ở cách đêm—A nun should not go alone to a remote region. Going alone
to a remote village or other side of a river, remaining away for a night
alone or staying behind a group alone by a nun are regarded undesirable. A
nun doing so committed the offense called Sanghadisesa.
8) Cấm vì
ý riêng lãnh của đàn ông những thức cần dùng: A nun should not accept
necessities from a man.
9) Cấm vì
ý riêng mượn kẻ khác lãnh thế của đàn ông những thức cần dùng: A nun
should not ask other people to accept necessities from a man.
10) Cấm dùng
cách nầy thế kia để phá sự hòa hiệp của giáo hội: A nun should not do
things to destroy the harmony of the Order.
11) Cấm binh
vực kẻ phá sự hòa hiệp ở Giáo Hội: A nun should not speak in support for
a person who does things to destroy the harmony of the Order.
12) Cấm không
trang nghiêm, làm quấy ác cho kẻ khác bắt chước: A nun should not lead a
solemnly brahma life, to be a bad example for others to imitate.
13) Nếu vị Ni
cưỡng lý khi làm quấy, chẳng chịu nghe lời khuyên giải. Nếu Ni chúng hỏi
ba lần mà vẫn không chịu nghe lời, vị nầy phạm tội Tăng Tàn: If a nun who
commits evil conduct or misbehavior, and her evil conduct is seen or
heard, that nun should be admonished up to three times by the assembly of
nuns to allow her to give up her course. If after being admonished, she
gives up that course, it is good. If she does not give up, it is an
offence entailing a formal meeting of the Order.
14) Cấm giấu
lỗi một cô khác vì tình thân: A nun should not conceal other nun’s faults
due to personal affection.
15) Cấm đốc
xúi những cô khác, bảo đừng nghe Giáo Hội: A nun should not provoke other
nuns to disobey the laws of the Order.
16) Cấm đốc
xúi những cô khác hoàn giới: A nun should not direct (superintend) other
nuns to give up precepts.
17) Cấm gây
gỗ và phiền trách Giáo Hội: A nun should not quarrel and reproach or
condemn the Order.
Thập Thiện: Ten good deeds.
1) Không
sát sanh: Not to kill.
2) Không
trộm cắp: Not to steal.
3) Không
tà dâm: Not to fornicate.
4) Không
nói dối: Not to lie.
5) Không
nói lời trau chuốt: Not to polish your words for personal advantages.
6) Không
nói lời đâm thọc hay nói lưỡi hai chiều: Not to slander nor
double-tongued.
7) Không
nói lời độc ác: Not to use harsh speech—Not be of evil speech.
8) Không
tham lam: Not to crave (desire—Greed).
9) Không
sân hận: Not to be angry.
10) Không mê
muội tà kiến: Not to be ignorant (Stupid) or wrong views.
** For more information,
please see Thập
Thiện Nghiệp.
Thập Thiện Chánh Pháp: See Thập
Thiện.
Thập Thiện Đạo: The excellent
karma resulting from practice of the ten commandments.
Thập Thiện Giới: See Thập
Thiện.
Thập Thiện Giới Lực: The power
of the ten commandments.
Thập Thiện Nghiệp:
(A) Thập
Thiện Nghiệp theo Phật Giáo Đại Thừa: Ten meritorious deeds, or the ten
paths of good action according to the Mahayana Buddhism:
1) Không
sát sanh mà phóng sanh là tốt: To abstain from killing, but releasing
beings is good.
2) Không
trộm cướp mà bố thí là tốt: To abstain from stealing, but giving is good.
3) Không
tà hạnh mà đạo hạnh là tốt: To abstain from sexual misconduct, but being
virtuous is good.
4) Không
nói lời dối trá, mà nói lời đúng đắn là tốt: To abstain from lying, but
telling the truth is good.
5) Không
nói lời thêu dệt, mà nói lời đúng đắn là tốt: To abstain from speaking
double-tongued (two-faced speech), but telling the truth is good.
6) Không
nói lời độc ác, mà nói lời ái ngữ là tốt: To abstain from hurtful words
(abusive slander), but speaking loving words is good.
7) Không
nói lời vô ích, mà nói lời hữu ích là tốt: To abstain from useless
gossiping, but speaking useful words.
8) Không
tham lam ganh ghét ngưới là tốt: To abstain from being greedy and
covetous.
9) Không
sân hận, mà ôn nhu là tốt: To abstain from being angry, but being gentle
is good.
10) Không mê
muội tà kiến, mà hiểu theo chánh kiến là tốt: To abstain from being
attached (devoted) to wrong views, but understand correctly is good.
(B) Theo Kinh
Duy Ma Cật, chương mười, phẩm Phật Hương Tích, cư sĩ Duy Ma Cật đã nói với
các Bồ Tát nước Chúng Hương rằng: “Bồ Tát ở cõi này đối với chúng sanh,
lòng đại bi bền chắc thật đúng như lời các ngài đã ngợi khen. Mà Bồ Tát ở
cõi nầy lợi ích cho chúng sanh trong một đời còn hơn trăm ngàn kiếp tu
hành ở cõi nước khác. Vì sao? Vì cõi Ta Bà nầy có mười điều lành mà các
Tịnh Độ khác không có.”—According to the Vimalakirti Sutra, chapter ten,
the Buddha of the Fragrant Land, Vimalakirti said to Bodhisattvas of the
Fragrant Land as follows: “As you have said, the Bodhisattvas of this
world have strong compassion, and their lifelong works of salvation for
all living beings surpass those done in other pure lands during hundreds
and thousands of aeons. Why? Because they achieved ten excellent deeds
which are not required in other pure lands.”
·
Thế nào là mười?—What are these ten excellent deeds? They
are:
1) Dùng
bố thí để nhiếp độ kẻ nghèo nàn: Using charity (dana) to succour the poor.
2) Dùng
tịnh giới để nhiếp độ người phá giới: Using precept-keeping (sila) to help
those who have broken the commandments.
3) Dùng
nhẫn nhục để nhiếp độ kẻ giận dữ: Using patient endurance (ksanti) to
subdue their anger.
4) Dùng
tinh tấn để nhiếp độ kẻ giải đãi: Using zeal and devotion (virya) to cure
their remissness.
5) Dùng
thiền định để nhiếp độ kẻ loạn ý: Using serenity (dhyana) to stop their
confused thoughts.
6) Dùng
trí tuệ để nhiếp độ kẻ ngu si: Using wisdom (prajna) to wipe out
ignorance.
7) Nói
pháp trừ nạn để độ kẻ bị tám nạn: Putting an end to the eight distressful
conditions for those suffering from them.
8) Dùng
pháp đại thừa để độ kẻ ưa pháp tiểu thừa: Teaching Mahayana to those who
cling to Hinayana;
9) Dùng
các pháp lành để cứu tế người không đức: Cultivation of good roots for
those in want of merits.
10) Thường
dùng tứ nhiếp để thành tựu chúng sanh: The four Bodhisattva winning
devices for the purpose of leading all living beings to their goals (in
Bodhisattva development).
(C) Thập
Thiện Nghiệp theo Phật Giáo Nguyên Thủy hay Mười Nghiệp Lành Tạo Quả Trổ
Sanh Trong Dục Giới được đề cập trong Đức Phật Và Phật Pháp của Hòa Thượng
Narada—According to Most Venerable Narada, there are ten kinds of good
karma or meritorious actions which may ripen in the sense-sphere:
1) Bố
thí: Dana (skt & p)—Lòng quảng đại rộng rãi—Generosity or charity—Đức
khoan dung quảng đại hay tâm bố thí tạo quả nhiều của cải: Charity yields
wealth.
2) Trì
giới: Sila (p)—Morality—Trì giới đem lại sự tái sanh trong dòng dõi quý
phái và trạng thái an vui: Morality gives birth in noble families and in
states of happiness.
3) Tham
thiền: Bhavana (p)—Meditation—Tham thiền dẫn đến sự tái sanh trong cõi sắc
giới và vô sắc giới, và đưa hành giả đến chỗ giác ngộ và giải thoát:
Meditation gives birth in realms of form and formless realms.
4) Lễ
bái: Apacayana (p)—Biết trọng người đáng kính trọng—Reverence—Kính trọng
người đáng kính là nhân tạo quả được thân bằng quyến thuộc quý phái thượng
lưu: Reverence is the cause of noble parentage.
5) Phục
vụ: Veyyavacca (p)—Service—Phục vụ tạo quả được nhiều người theo hầu:
Service produces larger retinue.
6) Hồi
hướng phước báu: Pattidana (p)—Transference of merit—Hồi hướng phước báu
sẽ được đời sống sung túc và phong phú: Transference of merit acts as a
cause to give in abundance in future births.
7) Hoan
hỷ với phước báu của người khác: Anumodana (p)—Rejoicing in other’s good
actions, and praising other’s good work.
a) Hoan
hỷ với phước báu của kẻ khác đem lại trạng thái an vui, bất luận trong
cảnh giới nào: Rejoicing in other’s merit is productive of joy wherever
one is born.
b) Tán
dương hành động của kẻ khác cũng đem lại kết quả được người khác tán dương
lại: Rejoicing in other’s merit is also getting praise to oneself.
8) Nghe
pháp: Dhamma-savana (p)—Hearing the doctrine—Nghe pháp đem lại trí tuệ:
Hearing the dhamma is conductive to wisdom.
9) Hoằng
pháp: Dhamma desana (p)—Expounding the doctrine—Hoằng pháp cũng đem lại
trí tuệ: Expounding the dhamma is also conducive to wisdom.
10) Củng cố
chánh kiến của mình: Ditthijjukamma (p)—Straightening one’s own views by
two parts:
a) Quy-y
Tam Bảo: Taking the three refuges—Quy y Tam Bảo sớm dẹp tan dục vọng phiền
não: Taking the three refuges results in the destruction of passions.
b) Tỉnh
thức: Mindfulness—Tỉnh thức đem lại hạnh phúc dưới nhiều hình thức:
Mindfulness is conducive to diverse forms of happiness.
Thập Thiện Tâm: The mind of the
ten good qualities.
Thập Thiện Thập Ác: Giữ và phá
Thập Thiện Giới—Keeping or breaking the ten commandments.
** For more information,
please see Thập
Thiện Nghiệp, and
Thập Ác.
Thập Thiện Vương: Quả vị hay
sức mạnh đạt được trong kiếp vị lai nếu hiện đời tu trì thập thiện, kiếp
vị lai sẽ được sanh vào cõi trời hay quốc vương nơi cõi người—The position
or power attained in the next life by observing the ten commandments here,
to be born in the heavens, or as rulers of men.
Thập Thiện Xảo: The ten good
crafts.
Thập Thò: To hesitate at the
door.
Thập Thông: Mười thần thông—The
ten supernatural, ubiquitous powers:
1) Túc
Mệnh Thông: Knowing all previous transmigrations—See Lục Thông (5).
2) Thiên
Nhĩ Thông: Deva hearing—See Lục Thông (1).
3) Tha
Tâm Thông: Knowing the minds of others—See Lục Thông (3).
4) Thiên
Nhãn Thông: Deva vision—See Lục Thông (2).
5) Hiện
Thần Lực: Showing deva powers.
6) Hiện
Đa Thân: Manifesting many bodies or forms.
7) Thần
Túc Thông: Being anywhere instantly—See Lục Thông (4).
8) Năng
trang nghiêm sát độ: Có thể làm cho quốc độ thêm tươi đẹp—Power of
bringing glory to one’s domain.
9) Hiện
Hóa Thân: Manifesting a body of transformation.
10) Lậu Tận
Thông: Power to end evil and transmigration—See Lục Thông (6).
Thập Thù Thắng: Ten kinds of
excellence—See Mười Thứ Thù Thắng Của Chư Đại Bồ Tát.
Thập Thụ Ấm Ma: Theo Kinh Thủ
Lăng Nghiêm, Đức Phật nhắc ông A Nan về mười thụ ấm ma—According to the
Surangama Sutra, the Buddha reminded Ananda about the ten states of
Feeling Skandha.
1) Ép
mình sanh ra buồn: Suppression of the self leads to sadness—Ông A Nan!
Người thiện nam đó, đương ở lúc thụ ấm chưa bị phá, được rất sáng chói,
tâm ấy phát minh. Bị đè ép quá phần, bỗng phát buồn vô cùng. Đến nỗi coi
ruồi muỗi như con nhỏ, thương xót đến chảy nước mắt. Đó là dụng công đè
nén quá đáng. Hễ biết thì không lỗi gì. Không phải là chứng Thánh. Hễ
chẳng mê thì tự tiêu. Nếu cho là Thánh thì có ma Bi vào trong tâm phủ.
Thấy người thì buồn, than khóc thảm thiết. Mất chính thụ và sẽ bị chìm
đắm—Ananda! In this situation the good person experiences a brilliant
light. As a result of the excessive internal pressure in his mind, he is
suddenly overwhelmed with such boundless sadness that he looks upon even
mosquitoes and gadflies as newborn children. He is filled with pity and
unconsciously burst into tears. This is called “overexertion in
suppressing the mind in the course of cultivation.” If he understands,
then there is no error. This experience does not indicate sagehood. If he
realizes that and remains unconfused, then after a time it will disappear.
But if he consider himself a sage, then a demon of sadness will enter is
mind. Then, as soon as he sees someone, he will feel sad and cry
uncontrollably. Lacking proper samadhi, he will certainly fall.
2) Nâng
mình lên ngang với Phật: Praising oneself is being equal to the
Buddhas—Ông A Nan! Lại trong cảnh định, các thiện nam tử thấy sắc ấm tiêu,
thụ ấm minh bạch, thắng tướng hiện tiền. Cảm kích quá phần, bỗng sanh tâm
mạnh mẽ vô hạn, chí tầy các Đức Phật. Cho là một niệm có thể vượt khỏi
được ba a tăng kỳ kiếp. Đó là vì công phu hăng hái cố tiến cố gắng quá.
Tỉnh ngộ thì không lỗi. Chẳng phải là chứng Thánh. Hễ chẳng mê thì cảnh ấy
tự tiêu hết. Nếu cho là Thánh thì có ma Cuồng vào trong tâm phủ. Thấy
người là khoe khoang kiêu ngạo, ngã mạn không ai bằng. Tâm ấy trên chẳng
thấy Phật, dưới chẳng thấy người. Mất chính định, sẽ bị chìm đắm—Further,
Ananda, in this state of samadhi, the good person sees the disintegration
of the form skandha and understands the feeling skandha. At that time he
has a sublime vision and is overwhelmed with gratitude. In this situation,
he suddenly evinces tremendous courage. His mind is bold and keen. He
resolves to equal all Buddhas and says he can transcend three asamkheyas
of eons in a single thought. This is called “being too anxious to excel in
cultivation.” If he understands, then there is no error. This experience
does not indicate sagehood. If he realizes that and remains unconfused,
then after a time it will disappear. But if he considers himself a sage, ,
then a demon of insanity will enter his mind. As soon as he sees someone,
he will boast about himself. He will become extraordinarily haughty, to
the point that he recognizes no Buddhas above him and no people below him.
Lacking proper samadhi, he will certainly fall.
3) Trong
định hay nhớ: Samadhi out of balance brings much reverie—Lại trong định,
các thiện nam tử thấy sắc ấm tiêu, thụ ấm minh bạch, trước không thấy cảnh
giới mới chứng, lui lại thì mất địa vị cũ, sức trí kém mòn, giũa chừng bị
trụy, không thấy gì cả. Trong tâm bỗng nhiên sanh rất khô khan, suốt ngày
nhớ mãi không tan, lấy làm siêng năng. Đó là tu tâm không tuệ, tự mất
phương tiện. Biết thì không lỗi. Không phải là chứng Thánh. Nếu cho là
Thánh thì có ma Nhớ vào trong tâm phủ. Sáng chiều tập trung tâm ở một chỗ.
Mất chính định, sẽ bị chìm đắm—Further, in this state of samadhi the good
person sees the disintegration of the form skandha and understands the
feeling skandha. With no new realization immediately ahead of him, and
having lost his former status as well, his power of wisdom weakens, and he
enters an impasse in which he sees nothing to anticipate. Suddenly a
feeling of tremendous monotony and thirst arises in his mind. At all times
he is fixated in memories that do not disperse. He mistakes this for a
sign of diligence and vigor. This called “cultivating the mind but losing
oneself due to lack of wisdom.” If he understands, then there is no error.
This experience does not indicate sagehood. But if he considers himself a
sage, then a demon of memory will enter his mind. Day and night it will
hold his mind suspended in one place. Lacking proper samadhi, he will
certainly fall.
4) Tuệ đa
cuồng: Wisdom out of balance brings much arrogance—Lại trong định, các
thiện nam tử thấy sắc ấm tiêu, thụ âm minh bạch, tuệ lực nhiều hơn định,
mất dũng mạnh, do tính hiếu thắng ưa hơn người ta, để trong tâm, cho là
mình giỏi ngang với Phật Tỳ Lô Giá Na. Được chút ít đã cho là đủ. Đó là
dụng tâm, bỏ mất hằng xét nét, đắm nơi tri kiến. Biết thì không lỗi. Không
phải chứng Thánh. Nếu cho là Thánh thì có ma Hèn, tự lấy làm đủ, vào trong
tâm phủ. Thấy người tự nói: “Ta được đệ nhất nghĩa đế vô thượng.” Mất
chính định, sẽ bị chìm đắm—Further, in this state of samadhi, the good
person sees the disintegration of the form skandha and understands the
feeling skandha. His wisdom becomes stronger than his samadhi, and he
mistakenly becomes impetuous. Cherishing the supremacy of his nature, he
imagines that he is Vairocana Buddha and rests content with his minor
achievement. This is called “applying the mind, but straying away from
constant examination and becoming preoccupied with ideas and opinions.” If
he understands, then there is no error. This experience does not indicate
sagehood. But if he considers himself a sage, then a lowly demon that is
easily satisfied will enter his mind. As soon as he sees someone, he will
announce “I have realized the unsurpassed absolute truth.” Lacking proper
samadhi, he will certainly fall.
5) Thấy
gian hiểm hay lo: Passing through danger leads to anxiety—Lại trong định,
các thiện nam tử thấy sắc ấm tiêu, thụ ấm minh bạch. Sự chứng mới chưa
được, tâm cũ đã mất. Xem hai chỗ đó, tự sinh gian hiểm. Bỗng nhiên tâm
sinh lo vô cùng, như ngồi giường sắt, như uống thuốc độc, lòng chẳng muốn
sống. Thường cầu người để hại mạng mình, mau được giải thoát. Đó là tu
hành sai mất phương tiện. Biết thì không lỗi. Không phải chứng Thánh. Nếu
cho là Thánh thì có ma hay Lo Rầu vào trong tâm phủ. Tay cầm đao kiếm, tự
cắt thịt mình, muốn bỏ thọ mạng. Hoặc thường lo buồn chạy vào rừng rú,
chẳng chịu thấy người. Mất chính định, sẽ bị chìm đắm—Further, in this
state of samadhi the good person sees the disintegration of the form
skandha and understands the feeling skandha. He has not yet obtain any
results, and his prior state of mind has already disappeared. Surveying
the two extremes, he feels that he is in great danger. Suddenly he
becomes greatly distraught, as if he were seated on the Iron Bed, or as if
he has taken poison. He has no wish to go on living, and he is always
asking people to take his life so he can be released sooner. This is
called “cultivating, but not understanding expedients.” If he understands,
then there is no error. This experience does not indicate sagehood. But if
he considers himself a sage, then a demon of chronic depression will enter
his mind. He may take up knives and swords and cut his own flesh, happily
giving up his life. Or else, driven by constant anxiety, he may flee into
the wilderness and be unwilling to see people. Lacking proper samadhi, he
will certainly fall.
6) Thấy
an lành hay mừng: Experiencing ease leads to joy—Lại trong định, các thiện
nam tử thấy sắc ấm tiêu, thụ ấm minh bạch. Ở trong cảnh thanh tịnh, tâm
yên lành rồi. Bỗng nhiên tự sinh mừng vô hạn. Trong tâm vui mừng không thể
ngăn được. Đó là an lành, không có tuệ để tự cấm. Tỉnh ngộ thì không lỗi.
Không phải chứng Thánh. Nếu cho là Thánh thì có ma ưa Vui Mừng vào trong
tâm phủ. Thấy người thì cười, múa hát ngoài đường. Tự cho là đã được giải
thoát vô ngại. Mất chính định, sẽ bị chìm đắm—Further, in this state of
samadhi, the good person sees the disintegration of the form skandha and
understands the feeling skandha. As he dwells in this purity, his mind is
tranquil and at ease. Suddenly a feeling of boundless joy wells up in him.
There is such bliss in his mind that he cannot contain it. This is called
“experiencing lightness and ease, but lacking the wisdom to control it.”
If he understands, then there is no error. This experience does not
indicate sagehood. But if he considers himself a sage, then a demon that
likes happiness will enter his mind. As soon as he sees someone, he will
laugh. He will sing and dance in the streets. He will say that he has
already attained unobstructed liberation. Lacking proper samadhi, he will
certainly fall.
7) Thấy
hơn khinh người: Viewing oneself as as supreme and arrogant—Lại trong
định, các thiện nam tử thấy sắc ấm tiêu, thụ ấm minh bạch. Tự cho mình đầy
đủ. Bỗng dưng đại ngã mạn khởi lên, nào ngạo mạn người ngang mình, ngạo
mạn người hơn mình, hoặc ngạo mạn tăng lên, hoặc ngạo mạn thấp hèn, đồng
thời phát ra. Trong tâm dám khinh mười phương Như Lai, huống là các bậc
thấp như Thanh Văn hay Duyên Giác. Đó là khí bồng bột thấy mình hơn, không
có tuệ để cứu. Tỉnh ngộ thì không lỗi. Không phải chứng Thánh. Nếu cho là
Thánh thì có ma Đại Ngã Mạn vào trong tâm phủ. Chẳng lễ tháp miếu, phá hư
kinh, tượng Phật. Bảo các cư sĩ: “Tượng là kim đồng, hoặc là gỗ; kinh là
lá cây, hoặc là vải. Nhục thân chân thường, sao chẳng tự cung kính, trở
lại những chất gỗ, thật là điên đảo.” Những người quá tin theo bèn phá bỏ
kinh và tượng Phật, hay đem chôn. Nghi ngộ chúng sanh, vào ngục vô gián.
Mất chính định, sẽ bị chìm đắm—Further, in this state of samadhi, the good
person sees the disintegration of the form skandha and understands the
feeling skandha. He says he is already satisfied. Suddenly a feeling of
unreasonable, intense self-satisfaction may arise in him. It may include
pride, outrageous pride, haughty pride, overweening pride, and pride based
on inferiority, all of which occur at once. In his mind, he even looks
down on the Tathagatas of the ten directions, how much the more so the
lesser positions of Hearers and Those Enlightened by Conditions. This
called “viewing oneself as supreme, but lacking the wisdom to save
oneself.” If he understands, then there is no error. This experience does
not indicate sagehood. But if he considers himself a sage, then a demon of
intense arrogance will enter his mind. He will not bow to the stupas or
in temples. He will destroy sutras and images. He will say to the
danpatis, “These are gold, bronze, clay, or wood. The sutras are just
leaves or cloth. The flesh body is what is real and eternal, but you don’t
revere it; instead you venerate clay and wood. That is totally absurd.”
Those who have deep faith in him will follow him to destroy the images or
bury them. He will mislead living beings so that they fall into the
Relentless Heels. Lacking proper samadhi, he will certainly fall.
8) Tuệ an
tự cho là đủ: With wisdom comes lightness and ease, which leads to
complacency—Lại trong định, các thiện nam tử thấy sắc ấm tiêu, thụ ấm minh
bạch. Trong cảnh tinh minh, viên ngộ tinh lý, được rất tùy thuận. Tâm bỗng
sinh khoan khoái vô cùng. Nói thành Thánh, được rất tự tại. Đó là nhân tuệ
được khinh thanh. Tỉnh ngộ thì không lỗi. Không phải chứng Thánh. Nếu cho
là Thánh thì có một phần ma ưa Khinh Thanh vào trong tâm phủ, tự cho là
đầy đủ, chẳng cầu tiến nữa. Những hạng ấy phần nhiều là Tỳ Kheo không có
học hỏi, khiến chúng sanh nghi ngờ, bị đọa ngục vô gián. Mất chính định,
sẽ bị chìm đắm—Further, in this state of samadhi, the good person sees the
disintegration of the form skandha and understands the feeling skandha. In
his refine understanding, he awakens completely to subtle principles.
Everything is in accord with his wishes. He may suddenly experience
limitless lightness and ease in his mind. He may say that he has become a
sage and attained great self-mastery. This is called “attaining lightness
and clarity due to wisdom.” If he understands , then there is no error.
This experience does not indicate sagehood. But if he considers himself a
sage, then a demon that likes lightness and clarity will enter his mind.
Claiming that he is already satisfied, he will not strive to make further
progress. For the most part, such cultivators will become like Uncleaned
Bhikshu. He will mislead living beings so that they will fall into the
Avichi Hell. Lacking proper samadhi, he will certainly fall.
9) Chấp
không và pháp giới: Becoming attached to emptiness and slandering
precepts—Lại trong định, các thiện nam tử thấy sắc ấm tiêu, thụ ấm minh
bạch. Trong cảnh minh ngộ, được cái tính rỗng không sáng suốt. Bỗng dưng
quay về cảnh vĩnh diệt, bác không có nhân quả, một mạch vào không, không
tâm hiện tiền, cho đến sanh cái hiểu biết hằng đoạn diệt. Tỉnh ngộ thì
không lỗi. Không phải chứng Thánh. Nếu cho là Thánh thì có ma Không vào
trong tâm phủ. Chê người trì giới, nói là tiểu thừa. Bồ Tát giác ngộ
không, cần gì phải trì phạm. Người ấy thường ở nhà tín tâm đàn việt, uống
rượu ăn thịt, hay làm những sự dâm uế. Vì sức ma thu nhiếp các người kia,
không sinh nghi báng. Ma quỷ nhập tâm đã lâu, hoặc ăn những đồ nhơ nhớp,
cũng như là rượu thịt. Một mặt đều không, phá luật nghi Phật. Làm cho
người bị lầm mắc tội. Mất chính định, sẽ bị chìm đắm—Further, in this
state of samadhi, the good person sees the disintegration of the form
skandha and understands the feeling skandha. In that clear awakening, he
experiences an illusory clarity. Within that, suddenly he may veer (xoay
chiều) towards the view of eternal extinction, deny cause and effect, and
take everything as empty. The thought of emptiness so predominates that he
comes to believe that there is eternal extinction after death. This is
called “the mental state of samadhi dissolving so that one loses sight of
what is right.” If he understands, then there is no error. This experience
does not indicate sagehood. But if he considers himself a sage, then a
demon of emptiness will enter his mind. He will slander the holding of
precepts, calling it a “Small Vehicle Dharma.” He will say, “Since
Bodhisattvas have awakened to emptiness, what is there to hold or
violate?” This person, in the presence of his faithful danapatis, will
often drink wine, eat meat, and engage in lust. The power of the demon
will keep his followers from doubting or denouncing him. After the ghost
has possessed him for a long time, he may consume excrement and urine, or
meat and wine, claiming that all such things are empty. He will break the
Buddha’s moral precepts and mislead people into committing offenses.
Lacking proper samadhi, he will certainly fall.
10) Chấp có
và buông dâm: Becoming attached to existence and indulging in lust—Lại
trong định, các thiện nam tử thấy sắc ấm tiêu, thụ ấm minh bạch. Tham đắm
nơi cảnh hư minh. Cảnh đó thâm nhập trong tâm cốt. Tâm đó bỗng dưng thấy
yêu vô cùng. Yêu đến cùng cực phát cuồng, bèn làm những việc tham dục. Đó
là định cảnh an thuận nhập tâm, không tuệ để giữ, lầm vào các dục. Tỉnh
ngộ thì không lỗi. Không phải chứng Thánh. Nếu cho là Thánh thì có ma Dâm
Dục vào trong tâm phủ. Chuyên nói tham dục là đạo Bồ Đề, giáo hóa các
người bạch y bình đẳng làm dâm, cho hành dâm là giữ pháp tử. Vì sức quỷ
thần nên trong đời mạt pháp thu nhiếp kẻ phàm ngu, cho đến hàng nghìn hàng
vạn. Ma sinh tâm nhàm chán, bỏ thân thể người ấy. Họ hết uy đức, bị mắc
nạn với nước với dân. Nghi ngộ chúng sanh vào ngục vô gián. Mất chính
định, sẽ bị chìm đắm—Further, in this state of samadhi, the good person
sees the disintegration of the form skandha and understands the feeling
skandha. He savors the state of illusory clarity, and it deeply enters his
mind and bones. Boundless love may suddenly well forth from his mind. When
that love becomes extreme, he goes insane with greed and lust. This is
called “when an agreeable state of samadhi enters one’s mind, lacking the
wisdom to control oneself and mistakenly engaging in lustful behavior.” If
he understands, then there is no error. This experience does not indicate
sagehood. But if he considers himself a sage, then a demon of desire will
enter his mind. He will become an outspoken advocate of lust, calling it
the Way to Bodhi. He will teach his lay followers to indiscriminately
engage in acts of lust, calling those who commit acts of lust his Dharma
heirs. The power of spirits and ghosts in the Ending Age will enable him
to attract a following of ordinary, nạve people numbering one hundred, two
hundred, five or six hundred, or as many as one thousand or ten thousand.
When the demon becomes bored, it will leave the person’s body. Once the
person’s charisma is gone, he will run afoul of the law. He will mislead
living beings, so that they fall into the Relentless Heels. Lacking proper
samadhi, he will certainly fall.
Thập Thức Ấm Ma: The ten states
of consciousness skandha—Theo Kinh Thủ Lăng Nghiêm, quyển Chín, Đức Phật
đã nhắc nhở ngài A Nan về mười thức ấm ma như sau—In the Surangama Sutra,
the Buddha reminded Ananda about the ten states of consciousness.
1) Chấp
nhân và sở nhân: Attachment to causes and what which is caused—A Nan! Ông
phải biết, người thiện nam đó nghiên cùng hành ấm tiêu không, đối với thức
đã trở về chỗ đầu. Đã dứt sanh diệt, mà đối với tịch diệt tinh diệu chưa
được viên. Có thể khiến cái thân căn của mình, căn cách hợp ly. Với các
loại mười phương thông biết. Hiểu biết đã thông hợp, có thể vào nơi viên
nguyên. Nếu đối với chỗ sở quy, lập cái nhân chơn thường, cho là thắng
giải, thì người ấy đọa về cái chấp nhân, sở nhân. Thành bạn lữ của phái Ca
Tỳ La chấp “minh đế” là chỗ sở quy, mê Bồ Đề của Phật, bỏ mất tri kiến. Đó
là cái chấp thứ nhất lập tâm sở đắc, thành quả sở quy, trái xa viên thông,
ngược với thành Niết Bàn, sinh giống ngoại đạo—Ananda! You should know
that the good person has thoroughly seen the formations skandha as empty,
and he must return consciousness to the source. He has ended production
and destruction, but he has not yet perfected the subtle wonder of
ultimate serenity. He can cause the individual sense faculties of his body
to unite and open. He also has a pervasive awareness of all categories of
beings in the ten directions. Since his awareness is pervasive, he can
enter the perfect source. But is he regards what he is returning to as the
cause of truepermanence and interprets this as a supreme state, he will
fall into the error of holding to that cause. Kapila the Sankhyan, with
his theory of returning to the Truth of the Unmanifest, will become his
companion. Confused about the Bodhi of the Buddhas, he will lose his
knowledge and understanding. This is the first state, in which he
concludes that there is a place to which to return, based on the idea that
there is something to attain. He strays far from perfect penetration and
turns his back on the City of Nirvana, thus sowing the seeds of
externalism.
2) Chấp
năng phi năng: Attachment to ability that is not actually ability—Ông A
Nan! Lại người thiện nam nghiên cùng hành ấm tiêu không, đối với thức đã
trở về chỗ đầu. Đã dứt sinh diệt, mà đối với tịch diệt tinh diệu chưa được
viên. Nếu đối với chỗ sở quy, ôm làm cái thể của mình, cùng tận cõi hư
không, trong 12 loại chúng sinh, đều là trong thân ta một loại lưu xuất
ra, cho là thắng giải. Người ấy đọa về cái chấp năng và phi năng. Thành
bạn lữ của phái Ma Hê Thủ La, hiện cái thân vô biên, mê Bồ Đề của Phật, bỏ
mất tri kiến. Đó là cái chấp thứ hai, lập tâm năng vi, thành quả năng sự,
trái xa viên thông và thành Niết Bàn, sinh trời đại mạn, cho rằng ta trùm
khắp tất cả—Further, Ananda, the god person has thoroughly seen the
formations skandha as empty. He has ended production and destruction, but
he has not yet perfected the subtle wonder of ultimate serenity. He may
regard that to which he is returning as his own body and may see all
beings in the twelve categories throughout space as flowing forth from his
body. If he interprets this as a supreme state, he will fall into the
error of maintaining that he has an ability which he does not really have.
Maheshvara, who manifests his boundless body, will become his companion.
Confused about the Bodhi of the Buddhas, he will lose his knowledge and
understanding. This is the second state, in which he draws conclusions
about the workings of an ability based on idea that he has such an
ability. He strays far from perfect penetration and turns his back on the
City of Nirvana, thus sowing the seeds for being born in the Heaven of
Great Pride where the self is considered all-pervading and perfect.
3) Chấp
thường phi thường: Atachment to a wrong idea of permanence—Lại người thiện
nam nghiên cùng thành ấm tiêu không, đối với thức đã trở về chỗ đầu. Đã
dứt sinh diệt, mà đối với tịch diệt tinh diệu chưa được viên. Nếu đối với
chỗ sở quy, có cái chỗ nương về, thì tự nghi thân tâm từ đó lưu xuất,
mười phương hư không đều do đó phát khởi. Cứ nơi sinh khởi, đó là chỗ
tuyên lưu ra, làm cái thân chân thường, cho là không sinh diệt. Ở trong
sinh diệt, đã chấp là thường trú. Đã lầm cái bất sinh, lại mê cái sinh
diệt. An trụ nơi trầm mê, cho là thắng giải. Người đó đọa về chấp thường
phi thường. Làm bạn của trời Tự Tại, mê Bồ Đề của Phật, bỏ mất tri kiến.
Đó là cái chấp thứ ba lập cái tâm nhân y, thành quả vọng chấp, trái xa
viên thông và thành Niết Bàn, sinh điên đảo viên—Further, the good person
has thoroughly seen the formations skandha as empty. He has ended
production and destruction, but he has not yet perfected the subtle wonder
of ultimate serenity. If he regards what he is returning to as a refuge,
he will suspect that his body and mind come forth from there, and that all
things throughout space in the ten directions arise from there as well.
He will explain that from which all things issue forth is the truly
permanent body, which is not subject to production and destruction. While
still within production and destruction, he prematurely reckons that he
abides in permanence. Since he is deluded about nonproduction, he is also
confused about production and destruction. He is sunk in confusion. If he
interprets this as a supreme state, he will fall into the error of taking
what is not permanent to be permanent. He will speculate that the
Sovereign God (Ishvaradeva) is his companion. Confused about the Bodhi of
the Buddhas, he will lose his knowledge and understanding. This is the
third state, in which he makes a false speculation based on the idea that
there is a refuge. He strays far from perfect penetration and turns his
back on the City of Nirvana, thus sowing the seeds of a distorted view of
perfection.
4) Chấp
tri vô tri: Attachment to an awareness that is not actually awareness—Lại
người thiện nam nghiên cùng hành ấm tiêu không. Đã dứt sinh diệt, mà đối
với tịch diệt tinh diệu chưa được viên. Nếu đối với chỗ bị biết, cái biết
nó khắp và hoàn toàn. Nhân cái biết đó lập ra kiến giải rằng: “Mười phương
thảo mộc đều gọi là hữu tình, với người không khác. Cỏ cây là người, người
chết lại thành mười phương cỏ cây. Không lựa riêng cái biến tri.” Cho là
thắng giải. Người ấy đọa về cái chấp tri vô tri. Thành bạn lữ của phái Ba
Tra Tiện Ni, chấp tất cả có giác, mê Bồ Đề của Phật, bỏ mất tri kiến. Đó
là cái chấp thứ tư, lập cái tâm viên tri, thành quả hư vọng, trái xa viên
thông và thành Niết Bàn, sinh giống biết điên đảo—Further, the good person
has thoroughly seen the formations skandha as empty. He has ended
production and destruction, but he has not yet perfected the subtle wonder
of ultimate serenity. Based on his idea that there is universal awareness,
he formulates a theory that all the plants in the ten directions are
sentient, not different from human beings. He claims that plants can
become people, and that when people die they again become plants in the
ten directions. If he considers this idea of unrestricted, universal
awareness to be supreme, he will fall into the error of maintaining that
what is not aware has awareness. Vasishtha and Sainika, who maintained the
idea of comprehensive awareness, will become his companions. Confused
about the Bodhi of the Buddhas, he will lose his knowledge and
understanding. This is the fourth state, in which he draws an erroneous
conclusion based on the idea that there is a universal awareness. He
strays far from perfect penetration and turns his back on the City of
Nirvana, thus sowing the seeds of a distorted view of awareness.
5) Chấp
sinh vô sinh: Attachment to birth that is not actually birth—Lại người
thiện nam nghiên cùng hành ấm tiêu không. Đã dứt sinh diệt, mà đối với
tịch diệt tinh diệu chưa được viên. Nếu đối trong cái tính viên dung, các
căn hỗ dụng, đã được tùy thuận. Bèn đối với viên dung biến hóa, tất cả
phát sinh, cầu lửa sáng chói, ưa nước thanh tịnh, ưa gió chu lưu, xem trần
thành tựu, mỗi mỗi phụng sự. Lấy các trần ấy, phát làm bản nhân, lập cho
là thường trụ. Người đó đọa về cái chấp sinh vô sinh, là bạn lữ của Ca
Diếp Ba và Bà La Môn, tâm siêng năng ép xác thờ nước lửa, cầu ra khỏi sinh
tử, mê Bồ Đề của Phật, bỏ mất tri kiến. Đó là cái chấp thứ năm: chấp trước
thờ phụng, bỏ tâm theo vật, lập cái nhân vọng cầu, cầu cái quả vọng ký,
trái xa viên thông và thành Niết Bàn, sinh giống điên đảo—Further, the
good person has thoroughly seen the formations skandha as empty. He has
ended production and destruction, but he has not yet perfected the subtle
wonder of ultimate serenity. If he has attained versality in the perfect
fusion and interchangeable functioning of the sense faculties, he may
speculate that all things arise from these perfect transformations. He
then seeks the light of fire, delights in the purity of water, loves the
wind’s circuitous flow, and contemplates the accomplishments on the earth.
He reveres and serves them all. He takes these mundane elements to be a
fundamental cause and considers them to be everlasting. He will then fall
into the error of taking what is not production to be production.
Kashyapa and the Brahmans who seek to transcend birth and death by
diligently serving fire and worshipping water will become his companions.
Confused about the Bodhi of the Buddhas, he will lose his knowledge and
understanding. This is the fifth state, in which he confusedly pursues the
elements, setting up a false cause that leads to false aspirations based
on speculations about his attachment to worship. He strays far from
perfect penetration and turns his back on the City of Nirvana, thus sowing
the seeds of a distorted view of transformation.
6) Chấp
quy vô quy: Attachment to a refuge that is not actually a refuge—Lại người
thiện nam nghiên cùng hành ấm tiêu không. Đã dứt sanh diệt, mà đối với
tịch diệt tinh diệu chưa được viên. Nếu đối với viên minh, họ chấp trong
viên minh ấy trống rỗng, phá bỏ các cái biến hóa, lấy cái vĩnh diệt làm
chỗ quy y, sinh thắng giải. Người đó đọa về cái chấp quy vô quy. Làm bạn
lữ của phái chấp “vô tưởng thiên” và Thuân Nhã Đa, mê Bồ Đề của Phật, bỏ
mất tri kiến. Đó là cái chấp thứ sáu, lập tâm viên hư vô thành quả không
vong, trái xa viên thông và thành Niết Bàn, sinh giống đoạn diệt—Further,
the good person has thoroughly seen the formations skandha as empty. He
has ended production and destruction, but he has not yet perfected the
subtle wonder of ultimate serenity. He may speculate that there is an
emptiness within the perfect brightness, and based on that he denies the
myriad transformations, taking their eternal cessation as his refuge. If
he interprets this as a supreme state, he will fall into the error of
taking what is not a refuge to be a refuge. Those abiding in the Shunyata
of the Heaven of Neither Thought nor Non-Thought will become his
companions. Confused about the Bodhi of the Buddhas, he will lose his
knowledge and understanding. This is the sixth state , in which he
realizes a state of voidness based on the idea of emptiness within the
perfect brightness. He strays far from perfect penetration and turns his
back on the City of Nirvana, thus sowing the seeds of annihilationism.
7) Chấp
tham phi tham: Attachment to an attainable craving—Lại người thiện nam
nghiên cùng hành ấm tiêu không. Đã dứt sinh diệt, mà đối với tịch diệt
tinh diệu chưa được viên. Nếu đối với viên thường, họ kiên cố thân thường
trú, đồng với cái tinh viên hằng chẳng mất, sinh thắng giải. Người ấy đọa
về cái chấp tham phi tham. Làm bạn lữ của phái chấp A Tư Đà Tiên, cầu sống
lâu, mê Bồ Đề của Phật, bỏ mất tri kiến. Đó là cái chấp thứ bảy: chấp
trước nơi sống lâu, lập cái nhân cố vọng, đến quả sống lâu mà khổ, trái
xa viên thông và thành Niết Bàn, sinh giống vọng sống lâu—Further, the
good person has thoroughly seen the formations skandha as empty. He has
ended production and destruction, but he has not yet perfected the subtle
wonder of ultimate serenity. In the state of what seems to be perfect
permanence, he may bolster his body, hoping to live for a long time in
that subtle and perfect condition without dying. If he interprets this as
a supreme state, he will fall into the error of being greedy for
something attainable. Asita and those who seek long life will become his
companions. Confused about the Bodhi of the Buddhas, he will lose his
knowledge and understanding. This is the seventh state, in which he sets
up the false cause of bolstering and aspires to permanent worldly
existence, based on his attainment to the life-source. He strays far from
perfect penetration and turns his back on the City of Nirvana, thus sowing
the seeds for false thoughts of lengthening life.
8) Chấp
chân phi chân: Attachment to truth that is not actually truth—Lại người
thiện nam nghiên cùng hành ấm tiêu không. Đã dứt sanh diệt, mà đối vói
tịch diệt tinh diệu chưa được viên. Quán sát căn mệnh với trần cảnh dung
thông lẫn nhau, sợ phải tiêu hết, cố gắng làm cho căn cảnh bền chắc. Nơi
đó ngồi cung Liên Hoa, biến hóa rất nhiều đồ quý báu đẹp đẽ, buông lung
tâm mình, sinh thắng giải. Người đó đọa về cái chấp chân phi chân. Làm bạn
lữ của phái Tra Chỉ Ca La, mê Bồ Đề của Phật, bỏ mất tri kiến. Đó là cái
chấp thứ tám, phát nhân nghĩ sai, lập quả trần lao hưng thịnh, xa trái
viên thông và thành Niết Bàn, sinh giống Thiên ma—Further , the good
person has thoroughly seen the formations skandha as empty. He has ended
production and destruction, but he has not yet perfected the subtle wonder
of ultimate serenity. As he contemplates the interconnection of all lives,
he wants to hang on to worldly enjoyments and is afraid they will come
to an end. Caught up in this thought, he will, by the power of
transformation, seat himself in a lotus flower palace, conjure up an
abundance of the seven precious things, increase his retinue of beautiful
women, and indulge his mind. If he onterprets this as a supreme state, he
will fall into the error of taking what is not the truth to be the truth.
Vignakara will become his companion. Confused about the Bodhi of the
Buddhas, he will lose his knowledge and understanding. This is the eighth
state, in which he decides to indulge in worldly enjoyments, based on his
wrong thinking. He strays far from perfect penetration and turns his back
on the City of Nirvana, thus sowing the seeds for becoming a demon of the
heavens.
9) Định
tính Thanh Văn: Fixed nature Hearers—Lại người thiện nam nghiên cùng hành
ấm tiêu không. Đã dứt sinh diệt, mà đối với tịch diệt chưa được viên. Đối
với trong mệnh minh, phân biệt tinh, thô, thẩm, quyết, chân, ngụy. Nhân
quả báo đáp nhau, chỉ cầu cảm ứng, trái với đạo thanh tịnh. Đó là thấy quả
khổ, đoạn tập nhân, chứng tịch diệt, tu đạo lý, ở tịch diệt rồi thôi,
chẳng tiến tới nữa, sinh thắng giải. Người đó đọa về định tính Thanh Văn.
Làm bạn lữ của các Tăng ít học, Tăng thượng mạn, mê Bồ Đề của Phật, bỏ mất
tri kiến. Đó là cái chấp thứ chín, cố làm đầy đủ công hạnh, cầu quả tịch
diệt, xa trái viên thông và thành Niết Bàn, sinh giống bị buộc nơi cái
không—Further, the good person has thoroughly seen the formations skandha
as empty. He has ended production and destruction, but he has not yet
perfected the subtle wonder of ultimate serenity. In his understanding of
life, he distinguishes the subtle and the coarse and determines the true
and the false. But he only seeks a response in the mutual repayment of
cause and effect, and he turns his back on the Way of Purity. In the
practice of seeing suffering, eliminating accumulation, realizing
cessation, and cultivating the Way, he dwells in cessation and stops
there, making no further progress. If he interprets this as a supreme
state, he will fall and become a fixed nature Hearer. Unlearned Sanghans
and those of overweening pride will become his companions. Confused about
the Bodhis of the Buddhas, he will lose his knowledge and understanding.
This is the ninth state, in which he aspires toward the fruition of
cessation, based on perfecting the mind that seeks responses. He strays
far from perfect penetration and turns his back on the City of Nirvana,
thus sowing the seeds for becoming enmeshed in emptiness.
10) Định tính
Độc Giác: Fixed nature Pratyekas—Lại người thiện nam nghiên cùng hành ấm
tiêu không. Đã dứt sinh diệt, mà đối với tịch diệt tinh diệu chưa được
viên. Nếu đối với viên dung thanh tịnh giác minh, nghiên cùng phát ra thâm
diệu. Bèn lập Niết Bàn, mà chẳng tiến nữa, sinh thắng giải. Người đó bị
đọa về định tính Bích Chi. Làm bạn lữ với các Duyên Giác, chẳng hồi tâm,
mê Bồ Đề của Phật, bỏ mất tri kiến. Đó là cái chấp thứ mười, tâm hợp với
viên giác của Duyên Giác, thành quả trạm minh, xa trái viên thông và thành
Niết Bàn, sinh giống giác viên minh, chẳng hóa viên—Further, the good
person has thoroughly seen the formations skandha as empty. He has ended
production and destruction, but he has not yet perfected the subtle wonder
of ultimate serenity. In that perfectly fused, pure, bright enlightenment,
as he investigates the profound wonder, he may take it to be Nirvana and
fail to make further progress. If he interprets this as a supreme state,
he will fall and become a fixed-nature Pratyeka. Those Enlightened by
Conditions and Solitary Enlightened Ones who do not turn their minds to
the Great Vehicle will become his companions. Confused about the Bodhi of
the Buddhas, he will lose his knowledge and understanding. This is the
tenth state, in which he realizes a profound brightness based on fusing
the mind with perfect enlightenment. He strays far from perfect
penetration and turns his back on the City of Nirvana, thus sowing the
seeds for being unable to surpass his attachment to the brightness of
perfect enlightenment.
Thập Tiên: Trong Kinh Thủ Lăng
Nghiêm, quyển Tám, Đức Phật đã nói với ông A Nan về thập Tiên như sau:
“Ông A Nan! Lại có người trong loài người, không nương theo chánh giác tu
tam ma địa, riêng tu theo vọng niệm, giữ tư tưởng tồn tại, kiên cố hình
hài, dạo chỗ rừng núi, nơi người không đến và trở thành một trong mười
loại Tiên.”—In the Surangama Sutra, book Eight, the Buddha told Ananda
about the ten kinds of Immortals as follows: “Ananda! There are people who
do not rely on proper enlightenment to cultivate samadhi, but cultivate in
some special way that is based on their false thinking. Holding to the
idea of perpetuating their physical bodies, they roam in the mountains and
forests in places people do not go and become one of the ten kinds of
Immortals.”
1) Địa
Hành Tiên: Có người tu phép hòa luyện đồ ăn kiên cố chẳng thôi cho đến khi
đạo ăn thành hoàn hảo, gọi là Địa Hành Tiên—Some living beings with
unflagging resolution make themselves strong with doses of medicine. When
they have perfected this method of ingestion, they are known as
Earth-Traveling Immortals.
2) Phi
Hành Tiên: Có người luyện thuốc bằng cây cỏ, luyện mãi cho đến khi thành
hoàn hảo, gọi là Phi Hành Tiên—Some of these beings with unflagging
resolution make themselves strong through the use of grasses and herbs.
When they have perfected this method of taking herbs, they are known as
Flying Immortals.
3) Du
Hành Tiên: Có người hóa luyện loại kim, loại đá, kiên cố chẳng thôi cho
đến khi thành hoàn hảo, gọi là Du Hành Tiên—Some of these beings with
unflagging resolution make themselves strong through the use of metal and
stone. When they have perfected this method of transformation, they are
known as Roaming Immortals.
4) Không
Hành Tiên: Có người luyện tinh khí, động chỉ hô hấp, kiên cố chẳng thôi,
cho đến khi thành hoàn hảo, gọi là Không Hành Tiên—Some of these beings
with unflagging resolution make themselves strong through movement and
cessation. When they have perfected their breath and essence, they are
known as Space-Traveling Immortals.
5) Thiên
Hành Tiên: Có người luyện nuốt nước miếng, luyện mãi cho đến khi thành
hoàn hảo, gọi là Thiên Hành Tiên—Some beings with unflagging resolution
make themselves strong by using the flow of saliva. When they have
perfected the virtues of this moisture, they are known as
Heaven-Traveling Immortals.
6) Thông
Hành Tiên: Có người hô hấp tinh hoa mặt trời, mặt trăng, luyện mãi cho đến
khi thành hoàn hảo, gọi là Thông Hành Tiên—Some beings with unflagging
resolution make themselves strong with the essence of sun and moon. When
they have perfected the inhalation of this purity, they are known as
Immortal of penetrating conduct.
7) Đạo
Hạnh Tiên: Có người luyện theo chú thuật, luyện mãi cho đến khi thành hoàn
hảo, gọi là Đạo Hạnh Tiên—Some beings with unflagging resolution make
themselves strong through mantras and prohibitions. When they have
perfected these spells and dharmas, they are known as Immortal with
Way-conduct.
8) Chiếu
Hạnh Tiên: Có người tu phép tập trung tư tưởng, luyện mãi cho đến khi
thành hoàn hảo, gọi là Chiếu Hạnh Tiên: Some beings with unflagging
resolution make themselves strong through the use of thought-process. When
they have perfected thought and memory, they are known as Immortals with
Illuminating Conduct.
9) Tinh
Hạnh Tiên: Có người tu phép luyện giao cầu, luyện mãi cho đến khi cảm ứng
thành hoàn hảo, gọi là Tinh hạnh Tiên: Some beings with unflagging
resolution make themselves strong through intercourse. When they have
perfected the response, they are known as Immortal with Essential Conduct.
10) Tuyệt
Hạnh Tiên: Có người tu luyện theo biến hóa, luyện mãi cho đến khi thành
hoàn hảo, gọi là Tuyệt Hạnh Tiên: Some beings with unflagging resolution
make themselves strong through transformations and changes. When they have
perfected their awakening, they are known as Immortals of Absolute
Conduct.
Thập Tiến Cửu Thối: The
Buddha’s teaching is so difficult that of ten who enter it nine fall away.
Thập Tín Tâm: Trong Kinh Thủ
Lăng Nghiêm, quyển Tám, Đức Phật đã nhắc nhở ngài A Nan về mười tín tâm
của Bồ Tát—In the Surangama Sutra, book Eight, the Buddha reminded Ananda
about the ten grades of Bodhisattva faith:
1) Tín
Tâm Trụ: The mind that resides in faith and faith which destroys
illusions—Cứ tâm ấy, nương theo trung đạo tiến vào, thì viên diệu phát ra.
Từ nơi chân diệu viên, càng phát càng chân diệu. Diệu tín thường trụ. Tất
cả vọng tưởng vô dư đều dứt hết, thuần là chân trung đạo. Đó gọi là tín
tâm trụ—With the mind centered in the middle, they enter the flow where
wonderful perfection reveals itself. From the truth of that wonderful
perfection there repeatedly arise wonders of truth. They always dwell in
the wonder of faith, until all false thinking is completely eliminated
and the middle way is totally true. This is called the mind that resides
in faith.
2) Niệm
tâm: Rememberance—Unforgetfulness or the mind that resides in
mindfulness—Chân tín rõ ràng, tất cả viên thông. Ba thứ ấm, xứ, giới không
thể làm ngại. Như thế cho đến quá khứ vị lai vô số kiếp, bỏ thân nầy thọ
thân khác, bao nhiêu tập khí đều hiện ra trước. Người thiện nam đó đều có
thể ghi nhớ không sót. Đó gọi là niệm tâm trụ—When true faith is clearly
understood, then perfect penetration is total, and the three aspects of
skandhas, places, and realms are no longer obstructions. Then all their
habits throughout innumerable kalpas of past and future, during which they
abandon bodies and receive bodies, appear to them now in the present
moment. These good people can remember everything and forget nothing. This
is called “The mind that resides in mindfulness.”
3) Tinh
tấn tâm trụ: Zealous progress or the mind that resides in vigor—Diệu viên
thuần chân, chân tinh phát ra. Từ vô thủy tập khí thông một tinh minh. Chỉ
do tinh minh tiến tới chân tịnh. Đó gọi là tinh tấn tâm—When the wonderful
perfection is completely true, that essential truth brings about a
transformation. They go beyond the beginningless habits to reach the one
essential brightness. Relying solely on this essential brightness, they
progress toward true purity. This is called the mind of vigor.
4) Tuệ
tâm trụ: Wisdom or the mind resides in wisdom—Tâm tinh, hiện tiền, thuần
là trí tuệ, gọi là tuệ tâm trụ—The essence of the mind reveals itself as
total wisdom; this is called the mind that resides in wisdom.
5) Định
tâm trụ: Settled firmness on concentration or the mind that resides in
samadhi—Giữ gìn trí sáng, khắp cả trạm tịch, tịch diệu thường yên lặng.
Đây gọi là định tâm trụ—As the wisdom and brightness are held steadfast,
a profound stillness pervades. The stage at which the majesty of this
stillness becomes constant and solid. This is called the mind that resides
in samadhi.
6) Bất
thối tâm trụ: Non-retrogression or the mind that resides in
irreversibility—Định quang phát sáng, tính sáng tiến sâu vào, chỉ có tiến
mà không thoái. Đó gọi là bất thối tâm trụ—The light of samadhi emits
brightness. When the essence of the brightness enters deeply within, they
only advance and never retreat. This is called the mind of
irreversibility.
7) Hộ
pháp tâm trụ: Protection of the Truth or the mind that resides in
protecting the Dharma—Tâm càng tiến tới, càng yên lành, giữ gìn không sai
mất. Giao tiếp với khí phần của mười phương Như Lai. Đó gọi là hộ pháp tâm
trụ—When the progress of their minds is secure, and they hold their minds
and protect them without loss, they connect with the life-breath of the
Thus Come Ones of the ten directions. This is called the mind that
protects the Dharma.
8) Hồi
hướng tâm trụ: Reflexive powers or the mind that resides in Making
Transferences—Giác minh giữ gìn có thể lấy được diệu lực xoay từ quang của
Phật, đến cảnh Phật mà an trụ. Ví như hai gương sáng chói đối nhau. Chặn
giữ diệu ảnh chồng chập xen vào nhau. Đó gọi là hồi hướng tâm
trụ—Protecting their light of enlightenment, they can use this wonderful
force to return to the Buddha’s light of compassion and come back to stand
firm with the Buddha. It is like two mirrors that are set facing one
another, so that between them the exquisite images interreflect and enter
into one another layer upon layer. This is called the mind of
transference.
9) Giới
tâm trụ: The nirvana mind in effortlessness or the mind that resides in
precepts—Tâm sáng suốt bí mật xoay lại, được thường trụ vô thượng diệu
tịnh không gì vượt nổi của Phật, an trụ với vô vi không bị mất sót. Đó gọi
là giới tâm trụ—With this secret interplay of light, they obtain the
Buddha’s eternal solidity and unsurpassed wonderful purity. Dwelling in
the unconditioned, they know no loss or dissipation. This is called the
mind that resides in precepts.
10) Nguyện
tâm trụ: Action at will in anything in anywhere or the mind that resides
in vows—An trụ giới tự tại, có thể dạo chơi mười phương, đến đâu đều theo
như nguyện. Đó gọi là nguyện tâm trụ—Abiding in the precepts with
self-mastery, they can roam throughout the ten directions, going anywhere
they wish. This is called the mind that resides in vows.
Thập Toàn: Excellent—Perfect.
Thập Tông: Mười Tông phái Phật
giáo Trung Quốc—The ten schools of Chinese Buddhism:
1) Luật
Tông: Nam Sơn Tông—Vinaya-discipline.
2) Câu Xá
Tông: Kosa—Abhidharma—Sarvastivadin.
3) Thành
Thật Tông: Satya-siddhi sect (founded by Harivarman).
4) Tam
Luận Tông: Madhyamika.
5) Pháp
Hoa Tông: The Lotus Flower Sect—Law-Flower or Tien Tai sect.
6) Hoa
Nghiêm Tông: The Flower Ornament Sect—Hua-yen Sect.
7) Pháp
Tướng Tông: Dharmalaksana.
8) Tâm
Tông: Zen Sect, based on mind-only or intuitive.
9) Chân
Ngôn Tông: Esoteric Sect.
10) Tịnh Độ
Tông: Liên Tông—Amitabha-Lotus or Pure Land Sect.
Thập Tông Cương Yếu: Theo Giáo
Sư Junjiro Takakusu trong Cương Yếu Triết Học Phật Giáo, tông Hoa Nghiêm
hệ thống hóa toàn bộ giáo lý Phật giáo thành mười tông cương yếu—According
to Prof. Junjiro Takakusu in The Essentials of Buddhist Philosophy, the
Hua-Yen School systematized the whole teaching of the Buddha into ten
tenets.
1) Pháp
Ngã Câu Hữu Tông: Được Độc Tử Bộ thừa nhận—The existence of both self
(atman) and element (dharma), as admitted by the unusual, almost
non-Buddhistic Vatsiputriya School.
2) Pháp
Hữu Ngã Vô Tông: Thực hữu tính của ba thời (quá khứ, hiện tại và vị lai)
và thực hữu tính của các pháp (tam thể thực hữu, pháp thể hằng hữu). Chủ
điểm nầy là chủ trương của Nhất Thiết Hữu Bộ—The existence of element and
the non-existence of self, the reality of the three time-periods (past,
present, and future), the reality of all elements. This tenet is admitted
by the Sarvastivada School.
3) Pháp
Vô Khứ Lai Tông: Chỉ có hiện tại là thực hữu, còn quá khứ và vị lai đều
không thực, được Đại Chúng Bộ thừa nhận—All elements devoid of motion
hither and thither, the reality of present and unreality of past and
future, as admitted by the Mahasanghika School.
4) Hiện
Thông Giả Thật Tông: Trong thực tại tính của hiện tại, chỉ có năm uẩn,
sắc, thọ, tưởng, hành, thức là thực, còn mười hai xứ (sáu căn và sáu trần)
và 18 giới (sáu căn, sáu trần, sáu thức) đều giả hữu và bất thực, Giả Bộ
thừa nhận giáo thuyết nầy—The present possessed of both unreality and
reality. In the reality of present, the five aggregates (skandhas), form,
perception, conception, volition, and consciousness are real, but the
twelve ayatanas including six senses and six sense-organs, and the
eighteen dhatus including six sense-organs, six sense-objects and six
senses are temporary or unreal, as admitted by the Prajnaptivada School.
5) Tục
Vọng Chân Thực Tông: Chân lý thường tình trong thế tục thì hư vọng, còn
chân lý tối thượng thì thực hữu, Xuất Thế Bộ thừa nhận giáo lý nầy—The
popular truth (laukika or samvrti-satya) as false, but the higher truth
(lokottara or paramartha-satya) as real as admitted by the Lokottaravada
School.
6) Chư
Pháp Đản Danh Tông: Tất cả các pháp đều chỉ là những danh từ, không có
tính thực tại, Nhất Thuyết Bộ thừa nhận giáo thuyết nầy—All dharmas as
nominal or mere names (akhyati matra or nama matra). All elements are
simply names and of no reality, as admitted by the Ekottiya School.
7) Nhất
Thiết Giai Không Tông: Tất cả các pháp đều không hay không có tự tính, như
được giảng dạy trong kinh Đại Bát Nhã hay được Tam Luận tông thừa nhận.
Đây là giáo lý của Đại Thừa, phủ nhận hữu thể của sự tướng sai biệt với
hai học thuyết cơ sở trên—All dharmas as void, or devoid of specific
character (sarva-dharma sunyata or sarva sunyata), as taught by the
Prajnaparamita text or as admitted by the San-Lun (Madhyamika) School.
This is the teaching of the Mahayana denying specific character (laksana
abhava) with the two elementary doctrines.
8) Chân
Đức Bất Tông Không: Mặc dù chân như không có định tướng, nhưng vẫn có vô
số ân đức mà từ đó biểu lộ tất cả các pháp tất định và sai biệt. Giáo
thuyết nầy được Đại Thừa Chung Giáo và Đại Thừa Khởi Tín Luận thừa
nhận—The attribute of Thusness not empty or ‘void.’ Thusness , though it
is without any determinate character, is possessed with innumerable
potentialities from which all determinate ot differentiated dharmas are
manifested. This tenet is admitted in the final doctrine of Mahayana (the
T’ien-T’ai School) and in the Awakening of Faith.
9) Tướng
Tưởng Câu Tuyệt Tông: Nơi đây sự sai biệt giữa tâm thức chủ quan và thực
tại khách quan hoàn toàn bị xóa bỏ, chỉ có sự hợp nhất chủ và khách, trạng
thái không có sai biệt và không có tâm tưởng. Tất cả những ‘đốn giáo’ đều
thuộc vào đây, đặc biệt là Thiền tông—The stage in which the distinction
between subjective ideation and objective reality removed, the coalescence
of subject and object, the stage without specific character, and without
sense and thought. All the “Abrupt Doctrines” belong to it, especially the
Zen School.
10) Viên Minh
Cụ Đức Tông: Giáo lý tròn đầy và trong sáng trong đó tất cả những biểu
hiện đều hiện hữu trong một toàn thể nhịp nhàng như ở Viên Giáo của tông
Hoa Nghiêm—The ‘round and bright doctrine’ in which all attributes exist
in a harmonious whole, as in the Round Doctrine of the Avatamsaka
School.
Thập Trai Nhựt: Mười ngày ăn
chay tính theo âm lịch là mồng 1, 8, 14, 15, 23, 28, 29 và 30. Trong những
ngày nầy ăn thịt, săn bắn, câu cá, hành hình đều bị cấm—The ten “fast”
days of a month based on Lunar calendar are 1, 8, 14, 15, 18, 23, 28, 29,
30. Eating flesh, hunting, fishing, execution, etc. are forbidden in
those days.
Thập Trai Nhựt Phật: Mười ngày
cúng chay cho chư Phật và chư Bồ tát—The ten Buddhas or Bodhisattvas
connected with the ten “fast” days:
1) Định
Quang Phật, ngày mồng một: Samadhi Buddha 1st day.
2) Dược
Sư Phật, ngày mồng tám: Medicine Master Buddha 8th day.
3) Phổ
Hiền Bồ Tát, ngày 14: Samantabhadra Bodhisattva 14th day.
4) A Di
Đà Như Lai, ngày 15: Amitabha Buddha 15th day.
5) Quán
Âm Bồ Tát, ngày 18: Avalokitesvara Bodhisattva 18th day.
6) Đại
Thế Chí Bồ Tát ngày 23: Mahasthama-prpta Bodhisattva 23rd day.
7) Địa
Tạng Bồ Tát ngày 24: Ksitigarbha (Earth-Store) Bodhisattva 24th day.
8) Tỳ Lô
Giá Na Phật ngày 28: Vairocana Buddha 28th day.
9) Dược
Vương Bồ Tát ngày 29: Medicine King (Bhaisajya) Buddha 29th day.
10) Thích Ca
Mâu Ni Phật ngày 30: Sakyamuni Buddha 30th day.
Thập Trí: Mười trí—Ten forms of
understanding:
(A) Tiểu Thừa—Hinayana:
1) Thế
tục trí: Common understanding.
2) Pháp
trí: Enlightened understanding.
3) Loại
trí (trí khôn quán tưởng về tứ đế trong dục giới): Understanding of the
four noble truths in the worldly world.
4) Khổ
trí: Understanding the nature of all sufferings.
5) Tập
trí: Understanding the causes of all sufferings.
6) Diệt
trí: Understanding of how to eliminate all sufferings.
7) Đạo
trí: Understanding of the path leading to nirvana where there are no more
sufferings.
8) Tha
tâm trí: Understanding the mind of others.
9) Tận
trí: Understanding that puts an end to all previous faith in or for self.
10) Vô sanh
trí: Nirvana wisdom.
a) Tối
cực trí của bậc A La Hán, đã cắt đứt phiền não của tam giới: Nirvana
wisdom, or final knowledge attained by the arhat, his release from the
chain of transmigration.
b) Vô
sanh trí của bậc Bồ Tát chứng biết rõ ràng là không còn thọ sanh nơi tam
giới nữa: The knowledge of the bodhisattva of the asurance of immortality,
or no rebirth
(B) Đại
Thừa—Mahayana:
1) Tam
thế trí: Perfect understanding of past, present and future.
2) Tam
thế Phật pháp trí: Perfect understanding of Buddha-Law of past, present
and future.
3) Pháp
giới vô ngại trí: Unimpeded understanding of the whole Buddha-realm.
4) Pháp
giới vô biên trí: Unlimited or infinite understanding of the whole
Buddha-realm.
5) Sung
mãn nhứt thiết trí: Perfect understanding of ubiquity.
6) Phổ
chiếu nhứt thiết thế gian trí: Perfect understanding of universal
enlightenment.
7) Trụ
trì nhứt thiết thế giới trí: Perfect understanding of omnipotence or
universal control.
8) Tri
nhứt thiết chúng sanh trí: Perfect understanding of omniscience regarding
all living beings.
9) Tri
nhứt thiết pháp trí: Perfect understanding of omniscience regarding the
law of universal salvation.
10) Tri vô
biên chư Phật trí: Perfect understanding of omniscience regarding all
Buddha wisdom.
Thập Trí Nghiệp: Theo Kinh Hoa
Nghiêm, có mười trí nghiệp. Chư Bồ Tát an trụ trong mười trí nghiệp nầy
thời được tất cả thiện xảo phương tiện đại trí nghiệp vô thượng của các
Đức Như Lai—According to The Flower Adornment Sutra, there are ten kinds
of actions of knowledge. Enlightening Beings who abide by these ten
actions of knowledge can attain the supreme action of great knowledge of
Buddhas, including all skillful means of liberation.
1) Tin
hiểu nghiệp báo, chẳng chối nhơn quả: Believing in consequences of action
and not denying causality.
2) Chẳng
bỏ Bồ Đề tâm, thường niệm chư Phật: Not giving up the determination for
enlightenment, always remembering the Buddhas.
3) Gần
thiện tri thức, cung kính cúng dường, hết lòng tôn trọng, trọn không nhàm
mỏi: Attending the wise (good-knowing advisors), respecting and providing
for them, honoring them tirelessly.
4) Trí
nghiệp thứ tư—The fourth action of knowledge:
a. Thích
pháp thích nghĩa không nhàm đủ: Enjoying the teachings and their meaning
tirelessly.
b. Xa lìa
tà niệm: Getting rid of wrong awareness.
c. Luôn
tu chánh niệm: Always cultivating true awareness.
5) Trí
nghiệp thứ năm—The fifth action of knowledge:
a. Đối
với tất cả chúng sanh xa lìa ngã mạn: Getting rid of haughtiness toward
all sentient beings.
b. Tưởng
chư Bồ Tát như Phật: Thinking of Enlightening Beings as Buddhas.
c. Mến
trọng chánh pháp chẳng tiếc thân mình: Valuing the true Teaching as much
as one’s own being.
d. Tôn
thờ Như Lai như hộ mạng mình: Honoring The Enlightened as though
protecting one’s own life.
e. Với
người tu hành tưởng là Phật: Thinking of practitioners as Buddhas.
6) Trí
nghiệp thứ sáu—The sixth action of knowledge:
a. Ba
nghiệp thân, khẩu, ý không có sự bất thiện: Being free from all that is
not good in thought, word, and deed.
b. Ca
ngợi các bậc Hiền Thánh: Praising the excellence of sages and saints.
c. Tùy
thuận Bồ Đề: According with enlightenment.
7) Trí
nghiệp thứ bảy—The seventh action of knowledge:
a. Chẳng
chối duyên khởi: Not denying interindependent origination.
b. Xa lìa
tà kiến: Getting rid of false views.
c. Phá
si ám, được sáng suốt: Destroying darkness and attaining light.
d. Chiếu
rõ các pháp: Illuminating all things.
8) Trí
nghiệp thứ tám—The eighth action of knowledge:
a. Tùy
thuận tu hành nơi mười môn hồi hướng: Acting in accord with the ten kinds
of dedication.
b. Nơi
các môn Ba La Mật tưởng là từ mẫu: Thinking of the ways of transcendence
as one’s mother.
c. Nơi
phương tiện thiện xảo tưởng là từ phụ: Thinking of skillful means as one’s
father.
d. Nhập
nhà Bồ Đề với thâm tâm thanh tịnh: Entering the house of enlightenment
with a profound pure mind.
9) Thí,
giới, đa văn, chỉ, quán, phước, huệ, tất cả pháp trợ đạo như vậy thường
siêng tinh cần chứa nhóm: Diligently accumulating all practices that
foster enlightenment, such as charity, morality, learning, cessation and
contemplation, virtue and wisdom.
10) Chuyên tu
không mỏi mệt những hạnh sau đây—Indefatigably cultivating any practices
the followings:
a. Được
chư Phật khen ngợi: That is praised by the Buddhas.
b. Có thể
phá chúng ma trừ phiền não: That can break through the afflictions and
conflicts of demons.
c. Có
thể rời lìa chướng cái, triền phược: That can remove all obstructions,
veils, shrouds and bonds.
d. Có thể
giáo hóa điều phục chúng sanh: That can teach and tame all sentient
beings.
e. Có
thể tùy thuận trí huệ nhiếp thủ chánh pháp: That can embrace the truth in
accord with knowledge and wisdom.
f. Có
thể nghiêm tịnh cõi Phật: That can purify a Buddha-land.
g. Có
thể phát khởi thần thông và minh mẫn: That can generate spiritual
capacities and insights.
Thập Triền: Mười thứ trói
buộc—Ten entanglements or bonds—See Mười Điều Ràng Buộc.
1-8) From one to eight—See
Bát Triền.
9) Phẫn: Krohda
(skt)—Anger.
11) Phú: Che
dấu, lừa dối—Covering—Deceit.
Thập Triền Tứ Phược: Mười triền
bốn phược—Ten entanglements and four bonds.
(A) Thập
Triền: Ten entanglements—See Thập Triền.
(B) Tứ Phược:
Four bonds—See Tứ Phược.
Thập Trọng Chướng: Mười chướng
ngại chính hay thập ác nghiệp—Ten major obstacles, or ten unwholesome
deeds, or evil actions—See Thập Ác.
Thập Trọng Giới: See Mười Giới
Trọng Của Chư Bồ Tát, in Vietnamese-English Section.
Thập Trụ: Trong Kinh Thủ Lăng
Nghiêm, quyển Tám, Đức Phật đã nhắc nhở ngài A Nan về thập trụ Bồ Tát như
sau—In the Surangama Sutra, book Eight, the Buddha reminded Ananda about
the Ten Grounds or the ten stages (periods) in Bodhisattva-wisdom as
follows:
1) Phát
tâm trụ: The purposive stage—The mind set upon Buddhahood or the mind that
dwells of bringing forth the resolve—Do chân như phương tiện mà phát mười
thứ tín tâm nầy, tâm tinh phát sáng mười thứ dụng xen vào, viên mãn thành
một tâm, gọi là phát tâm trụ—Ananda, these good people use honest
expedients to bring forth those ten minds of faith. When the essence of
these minds becomes dazzling, and the ten functions interconnect, then a
single mind is perfectly accomplished. This is called the dwelling of
bringing forth the resolve.
2) Trì
địa trụ: Clear understanding and mental control or the dwelling of the
ground of regulation—Trong tâm phát sáng suốt như trong ngọc lưu ly trong
suốt hiện chất tinh kim. Lấy diệu tâm trước thành chỗ để trụ. Đây gọi là
trì địa trụ—From within this mind light comes forth like pure crystal,
which reveals pure gold inside. Treading upon the previous wonderful mind
as a ground is called the dwelling of the ground of regulation.
3) Tu
hành trụ: Unhampered liberty in every direction or dwelling of
cultivation—Tâm và địa đã biết nhau, đều được tỏ rõ. Dạo khắp mười phương
đều không lưu ngại. Đó gọi là tu hành trụ—When the mind-ground connects
with wisdom, both become bright and comprehensive. Traversing the ten
directions then without obstruction. This is called the dwelling of
cultivation.
4) Sinh
quí trụ: Acquiring the Tathagata nature or seed or dwelling of noble
birth—Hạnh đồng với Phật, hấp thụ khí phần của Phật. Như cái thân trung
ấm, tự cầu cha mẹ, âm tín thầm thông hợp vào giống Như Lai. Đó gọi là sinh
quí trụ—When their conduct is the same as the Buddhas’ and they take on
the demeanor of a Buddha, then, like the intermediate skandha body
searching for a father and mother, they penetrate the darkness with a
hidden trust and enter the lineage of the Thus Come One. This is called
the dwelling of noble birth.
5) Phương
tiện cụ túc trụ (phương tiện đầy đủ trong cuộc tự lợi lợi tha): Perfect
adaptability and resemblance in self-development and development of others
or dwelling with endowment with skill-in-means—Đã du nhập trong đạo thai
rồi, thì vâng nối theo dòng giác. Như cái thai đã thành, nhân tướng chẳng
thiếu. Đó gọi là phương tiện cụ túc trụ—Since they ride in the womb of the
way and will themselves become enlightened heirs, their human features
are in no way deficient. This is called the dwelling of endownment with
skill-in-means.
6) Chánh
tâm trụ: The whole mind becoming Buddha-like or dwelling of the
rectification of the mind—Dung mạo và tâm tướng như Phật, gọi là chính tâm
trụ—With a physical appearance like that of a Buddha and a mind that is
the same as well, they are said to be dwelling in the rectification of the
mind.
7) Bất
thối trụ: Non-retrogression—Perfect unity and constant progress or
dwelling of irreversibility—Thân tâm hợp thành, càng ngày càng thêm lớn.
Trong giai đoạn nầy Bồ Tát chứng được tâm thanh tịnh và thường an trụ nơi
lý vô ngại giải thoát. Đây gọi là bất thối trụ—United in body and mind,
they easily grow and mature day by day. In this stage, Bodhisattvas
realize serenity of mind and also achieve unimpeded liberation. This is
called the dwelling of irreversibility.
8) Đồng
chơn trụ (Con Phật với đủ đầy Tướng Phật): As a Buddha-son now, or the
stage of youth in Buddhahood or dwelling of pure youth—Linh tướng của mười
thân đều đầy đủ trong một lúc, gọi là đồng chơn trụ—With the efficacious
appearance of ten bodies, which are simultaneously perfected, they are
said to be at the dwelling of a pure youth.
9) Pháp
vương tử: (Con tinh thần của bậc Pháp vương): As prince of the law or
dwelling of a Dharma Prince—Hình thành, ra khỏi thai, thân làm Phật tử.
Đây gọi là pháp vương tử trụ—Completely developed, they leave the womb and
become sons of the Buddha. This is called the dwelling of a Dharma Prince.
10) Quán đỉnh
trụ: Baptism as the summit of attainment of the conception of Buddhahood
or dwelling anointing the crown of the head—Nghi biểu đã thành người. Ví
dụ như việc quốc vương trao việc nước cho thái tử. Thái tử đã trưởng
thành, làm lễ quán đảnh. Đây gọi là quán đỉnh trụ—Reaching the fullness of
adulthood, they are like the chosen prince to whom the great king of a
country turns over the affairs of state. When this Kshatriya King’s eldest
is ceremoniously anointed on the crown of the head, he has reached what
is called the dwelling of anointing the crown of the head.
Thập Trưởng Dưỡng Tâm (Thập Trụ Tâm):
Ten Dwelling Minds—Ten kinds of well-nourished heart, essential to entry
into the cult of the higher patience and endurance:
1) Từ
tâm: A heart of kindness.
2) Bi
tâm: A heart of pity.
3) Hỷ
tâm: A heart of joy in progress toward salvation of others.
4) Xả
tâm: A heart of renunciation.
5) Thí
tâm: A heart of almsgiving.
6) Hảo
ngữ tâm (lòng nói sự tốt): A heart of delight in telling the dharma.
7) Ích
tâm (lòng làm lợi ích): The heart of benefitting or aiding others to
salvation.
8) Đồng
tâm: A heart of unity or amity.
9) Định
tâm: A heart of concentration in meditation.
10) Huệ tâm:
A heart of wisdom.
Thập Tùy Giác Trí: Theo Kinh
Hoa Nghiêm, Phẩm 38—Ly Thế Gian, chư đại Bồ Tát có mười trí tùy giác. Chư
Bồ Tát an trụ trong pháp nầy thời được tất cả pháp tự tại quang minh, sở
nguyện đều viên mãn, trong khoảng một niệm đều hay biết rõ tất cả Phật
pháp và thành chánh đẳng chánh giác—According to the Flower Adornment
Sutra, Chapter 38, Great Enlightening Beings have ten kinds of conscious
knowledge. Enlightening Beings who abide by these can attain the
illumination of mastery of all truth, their vows will be fulfilled, they
will be instantly able to understand all Buddhas’ techniques and attain
true enlightenment.
1) Trí
tùy giác tất cả thế giới vô lượng sai biệt: Conscious knowledge of the
infinite differentiations of all worlds.
2) Trí
tùy giác tất cả chúng sanh bất tư nghì: Conscious knowledge of the
inconceivability of all realms of sentient beings.
3) Trí
tùy giác tất cả pháp, một vào nhiều pháp, nhiều vào một pháp: Conscious
knowledge of all things, each individual being immanent in the variegated
manifold, and the variegated manifold being immanent in each individual
unit. .
4) Trí
tùy giác tất cả pháp giới rộng lớn: Conscious knowledge of the vastness of
all spheres of reality.
5) Trí
tùy giác tất cả hư không giới rốt ráo: Conscious knowledge of the
ultimacy of all realms of space.
6) Trí
tùy giác tất cả thế giới nhập quá khứ thế: Conscious knowledge of all
worlds entering the past.
7) Trí
tùy giác tất cả thế giới nhập vị lai thế: Conscious knowledge of all
worlds entering the future.
8) Trí
tùy giác tất cả thế giới nhập hiện tại thế: Conscious knowledge of all
worlds entering the present.
9) Trí
tùy giác tất cả Như Lai vô lượng hạnh nguyện đều ở nơi một trí mà được
viên mãn: Conscious knowledge of the infinite undertakings and vows of all
Buddhas reaching fulfillment in one knowledge.
10) Trí tùy
giác tam thế chư Phật đều đồng một hạnh mà được xuất ly: Conscious
knowledge that the Buddhas of past, present and future all attain
emancipation by own and the same practice.
Thập Tứ Chủng Cúng Dường:
Fourteen kinds of offering—See Mười Bốn Loại Cúng Dường.
Thập Tứ Sắc: Mười bốn loại
sắc—Fourteen kinds of rupa—See Sắc (D).
Thập Tứ Vô Úy: Fourteen
Fearlessnesses—Theo Kinh Thủ Lăng Nghiêm, quyển Sáu, ngài Quán Thế Âm Bồ
Tát đã bạch Phật về 14 phép vô úy như sau: “Bạch Thế Tôn! Tôi lại do các
pháp kim cương tam muội văn huân, văn tu, vô tác diệu lực ấy, với mười
phương ba đời lục đạo, tất cả chúng sanh, đồng một đức bi ngưỡng, khiến
các chúng sanh nơi thân tâm tôi được 14 món vô úy.”—According to The
Surangama Sutra, book Six, Avalokitesvara Bodhisattva reported to the
Buddha about fourteen fearlessnesses as follows: “World Honored One! Using
this vajra samadhi of becoming permeated with hearing and cultivating
hearing, and use the miraculous strength of effortlessness, because I have
a kind regard equally for all living beings in the six paths, I go
throughout the ten directions and the three periods of time cause all
living beings who encounter bodies of mine to receive the meritorious
virtue of fourteen kinds of fearlessness.”
1) Một
là, bởi tôi không tự quán theo âm thanh, do cái quán trí mà quán, khiến
mười phương chúng sanh khổ não, quán nơi tiếng tăm mà được giải thoát:
First, because I do not contemplate sounds for my own sake, but rather
listen to the sounds of those whom I contemplate, I can enable living
beings throughout the ten directions who are suffering and in distress to
attain liberation by contemplating their sounds.
2) Hai là
xoay tri kiến trở lại, khiến các chúng sanh, giả sử vào trong đống lửa,
lửa chẳng thiêu được: Second, since my knowledge and views have turned
around and come back, I can make it so that if living beings are caught
in a raging fire, the fire will not burn them.
3) Ba là
do xoay cái nghe trở lại, khiến các chúng sanh dù gặp nước lớn trôi, mà
không bị chìm đắm: Third, since contemplation and listening have turned
around and come back, I can make it so that if living beings are
floundering in deep water, the water cannot drown them.
4) Bốn là
dứt trừ vọng tưởng, tâm không sát hại, khiến các chúng sanh vào các quỷ
quốc, mà quỷ không hại được: Fourth, since false thinking is cut off, and
my mind is without thoughts of killing or harming, I can make it so that
if living beings enter the territory of ghosts, the ghosts cannot harm
them.
5) Năm là
huân tu thành văn tính, sáu căn đều tiêu tan, đồng với âm thanh. Có thể
khiến chúng sanh sắp bị giết hại, đao kiếm gãy hỏng. Đao binh chém mình
như chặt xuống nước, như thổi ánh sáng, không hề lay động: Fifth, since I
am permeated with hearing and have brought hearing to accomplishment, so
that the six sense-organs have dissolved and returned to become identical
with hearing, I can make it so that if living beings are about to be
wounded, the knives will break into pieces. I can cause swords of war to
have no more effect than if they were to slice into water, or if one were
to blow upon light.
6) Sáu là
cái văn huân được tinh minh, sáng khắp pháp giới, dẹp tan các u ám. Có thể
khiến chúng sanh bị quỷ dữ như Dược Xoa, La sát, Cưu bàn trà, Tỳ xá gia,
Phú đan na, vân vân gần bên mà mắt chẳng thấy: Sixth, when the hearing
permeates and the essence is bright, light pervades the Dharma realm, so
that absolutely no darkness remains. I am then able to make it so that,
though Yakshas, Rakshasas, Kumbhandas, Pischachas, and Putanas may draw
near to living beings, the ghosts will not be able to see them.
7) Bảy là
âm thanh tiêu dung, xoay máy nghe vào trong, thoát ly các trần vọng, có
thể khiến chúng sanh không bị ràng buộc bởi gông cùm xiềng xích: Seventh,
when the nature of sound completely melts away and contemplation and
hearing return and enter, so that I am separate from false and defiling
sense-objects, I am able to make it so that if living beings are confined
by cangues and fetters, the locks will not hold them.
8) Tám
là diệt âm thanh, thuần một văn tính, khắp sinh từ lực, có thể khiến
chúng sanh đi ngang đường hiểm, không bị giặc cướp: Eight, when sound is
gone and the hearing is perfected, an all-pervasive power of compassion
arises, and I can make it so that if living beings are travelling a
dangerous road, thieves will not rob them.
9) Chín
là Văn huân xa lìa các trần cảnh, chẳng bị cái sắc cướp, có thể khiến tất
cả chúng sanh đa dâm xa lìa tham dục: Ninth, when one is permeated with
hearing, one separates from worldly objects, and forms cannot rob one.
Then I can make it so that living beings with a great deal of desire can
leave greed and desire far behind.
10) Mười là
thuần âm thanh, không có trần, căn cảnh viên dung, không năng đối sở đối,
có thể khiến tất cả chúng sanh hay giận dữ xa lìa sân hận: Tenth, when
sound is so pure that there is no defiling object, the sense-organ and the
external state are perfectly fused, without any complement and without
anything complemented. Then I can make it so that living beings who are
full of rage and hate will leave all hatred.
11) Mười một
là tiêu trần xoay trở lại sáng suốt, pháp giới, thân tâm dường như ngọc
lưu ly trong suốt, không ngại, có thể khiến tất cả chúng sanh vô thiện
tâm, ngu độn, tối tăm, trọn xa lìa si ám: Eleventh, when the dust has gone
and has turned to light, the dharma realm and the body and mind are like
crystal, transparent and unobstructed. Then I can make it so that all dark
and dull-witted beings whose natures are obstructed, all Atyantikas, are
forever free from stupidity and darkness.
12) Mười hai
là tiêu dung hình trở lại văn tính, chẳng rời đạo tràng, xen vào thế gian.
Dùng phương tiện trí, có thể khắp mười phương cúng dường các Đức Phật
nhiều như vi trần, và bên các Đức Phật được làm Pháp vương tử. Có thể
khiến cho những chúng sanh không con trai trong pháp giới muốn cầu con
trai thì sanh con trai phúc đức trí tuệ: Twelfth, when matter dissipates
and return to the hearing, then unmoving in the Bodhimanda I can travel
through worlds without destroying the appearance of those worlds. I can
make offerings to as many Buddhas, Thus Come Ones, as there are fine motes
of dust throughout the ten directions. At the side of each Buddha I become
a dharma prince, and I can make it so that childless living beings
throughout the dharma realm who wish to have sons, are blessed with
meritorious, virtuous, and wise sons.
13) Mười ba
là sáu căn viên thông, sáng suốt mười phương thế giới. Dùng thực trí thừa
thuận mười phương Như Lai nhiều như vi trần, các bí mật pháp môn đều lãnh
thụ không sót. Có thể khiến các chúng sanh không con gái trong pháp giới,
muốn cầu con gái thì sanh con gái có tướng tốt, đoan chính, phúc đức, nhu
thuận, được mọi người kính yêu: Thirteenth, with perfect penetration of
the six sense-organs, the light and what is illumined are not two.
Encompassing the ten directions, a great perfect mirror stands in the
empty treasury of the Thus Come One. I inherit the secret dharma doors of
as many Thus Come Ones as there are fine motes of dust throughout the ten
directions. Receiving them without loss, I am able to make it so that
childless living beings throughout the dharma realm who seek daughters are
blessed with lovely daughters who are upright, virtuous, and compliant and
whom everyone cherishes and respects.
14) Mười bốn
là trong tam thiên đại thiên thế giới có 62 ức hằng sa số vị Pháp vương
tử, tu phương pháp làm mô phạm giáo hóa chúng sanh, tùy thuận chúng sanh,
phương tiện trí huệ, vẫn chẳng đồng nhau. Do tôi tu được viên thông bản
căn, phát diệu nhĩ môn, rồi sau thân tâm vi diệu, bao khắp pháp giới, có
thể khiến chúng sanh trì danh hiệu tôi, so sánh với chúng sanh trì cả 62
ức hằng hà sa số các Pháp vương tử, hai người phúc đức bằng nhau không
khác. Bạch Thế Tôn! Một danh hiệu của tôi so với nhiều danh hiệu kia, hai
bên không khác, bởi tôi tu tập được chân viên thông: Fourteenth, in this
three-thousand-great-thousand world system with its billions of suns and
moons, as many dharma princes as there are grains of sand in sixty-two
Ganges rivers appear in the world and cultivate the dharma. They act as
models in order to teach and transform living beings. They comply with
living beings by means of expedients and wisdom, in different ways for
each. However, because I have obtained the perfect penetration of the
sense-organ and have discovered the wonder of the ear-entrance, after
which my body and mind subtly and miraculously included all of the
dharma realm, I am able to make it so that living beings who uphold my
name obtain as much merit and virtue as would be obtained by a person
who upheld the names of all those Dharma Princes who are as many as the
grains of sand in sixty-two Ganges rivers. World Honored One! There is no
difference between the merit of my name and the merit of those other
names, because from my cultivation I obtained true and perfect
penetration.
Thập Tự Tại: Ten kinds of
control of Great Enlightening Beings—See Mười Tự Tại Của Chư Đại Bồ Tát.
Thập Tướng Thân Như Lai: Ten
characteristics of the body of Buddha—Theo Kinh Hoa Nghiêm, Phẩm Như Lai
Xuất Hiện (37), chư Bồ Tát thấy mười tướng thân Như Lai Chánh Đẳng Chánh
Giác ở tất cả các xứ—According to The Flower Ornament Scripture, Chapter
37, Manifestation of Buddha, enlightening beings see ten characteristics
of the body of Buddha in infinite places.
1) Tướng
Thân Thứ Nhất của Như Lai—The first characteristic of the body of Buddha:
a) Đại Bồ
Tát phải ở vô lượng xứ mà thấy thân Như Lai. Vì chư đại Bồ Tát chẳng nên ở
một pháp, một sự, một quốc độ, một chúng sanh mà thấy Như Lai. Phải khắp
tất cả nơi thấy Như Lai. Ví như hư không đến khắp tất cả chỗ sắc phi sắc,
chẳng phải đến, chẳng phải chẳng đến. Vì hư không chẳng có thân—Great
enlightening beings should see the body of Buddha in infinite places. They
should not see Buddha in just one thing, one phenomenon, one body, one
land, one being; they should see Buddha everywhere. Just as space is
omnipresent, in all places, material or immaterial, yet without either
arriving or not arriving there, because space is incorporeal.
b) Cũng
vậy, thân Như Lai khắp tất cả chỗ, khắp tất chúng sanh, khắp tất cả pháp,
khắp tất cả quốc độ, chẳng phải đến, chẳng phải chẳng đến. Vì thân Như Lai
là không có thân. Vì chúng sanh mà thị hiện thân Phật—In the same manner,
Buddha is omnipresent, in all places, in all beings, in all things, in all
lands, yet neither arriving nor not arriving there, because Buddha’s body
is incorporeal, manifesting a body for the sake of sentient beings.
2) Tướng
Thân Thứ Hai của Như Lai—The second characteristic of the body of Buddha:
Ví như hư không rộng rãi chẳng phải sắc mà hay hiển hiện tất cả sắc. Nhưng
hư không kia không có phân biệt cũng không hý luận. Thân của Như Lai cũng
vậy, vì do trí quang minh khắp chiếu sáng làm cho tất cả chúng sanh, thế
gian, xuất thế gian, các nghiệp thiện căn đều được thành tựu. Nhưng thân
Như Lai không có phân biệt cũng không hý luận. Vì từ xưa đến nay, tất cả
chấp trước, tất cả hý luận đều đã dứt hẳn—Just as space is wide open, is
not a form yet can reveal all forms, yet space is without discrimination
or false description, so also is the body of Buddha like this, causing all
beings’ mundane and transmundane good works to be accomplished by
illuminating all with the light of knowledge, yet without discrimination
or false descriptions, having originally terminated all attachments and
false descriptions.
3) Tướng
Thân Thứ Ba của Như Lai—The third characteristic of the body of Buddha:
a) Ví như
mặt nhựt mọc lên, vô lượng chúng sanh ở châu Diêm Phù Đề đều được lợi ích.
Những là phá tối làm sáng, biến ướt thành khô, sanh trưởng cỏ cây, thành
thục lúa mạ, chói suốt hư không, hoa sen nở xòe, người đi thấy đường, kẻ ở
nhà xong công việc. Vì mặt nhựt khắp phóng vô lượng quang minh—When the
sun comes out, infinite living beings all receive its benefits; it
disperses the darkness and gives light, dries up moisture, causes plants
and trees to grow, matures crops, permeates the sky, causes lotuses to
bloom, allows travelers to see the road, allows people to do their work,
because the orb of the sun radiates infinite beams of light everywhere.
b) Như
Lai trí nhựt cũng như vậy, dùng vô lượng sự khắp lợi chúng sanh. Những là
diệt ác sanh lành, phá ngu làm trí, đại từ cứu hộ, đại bi độ thoát, làm
cho họ tăng trưởng căn lực, giác phần, khiến họ sanh lòng tin sâu chắc, bỏ
lìa tâm ô trược, khiến kẻ thấy nghe chẳng hư nhân quả, khiến được thiên
nhãn thấy chỗ thọ sanh sau khi chết, khiến tâm vô ngại chẳng hư căn lành,
khiến trí tỏ sáng mau nở giác hoa, khiến họ phát tâm thành tựu bổn hạnh.
Vì thân mặt nhựt trí huệ quảng đại của Như Lai phóng vô lượng quang minh
chiếu sáng khắp nơi—The sun of knowledge of Buddha is also like this,
benefitting sentient beings everywhere by infinite works, destroying evil
and producing good, breaking down ignorance and creating knowledge,
benevolently saving, compassionately liberating, causing growth of
faculties, , powers, and elements of enlightenment, causing beings to
develop profound faith, enabling them to see inevitable cause and effect,
fostering in them the celestial eye to see where beings die and are born,
causing their minds to be unimpeded and not destroy roots of goodness,
causing them to cultivate illumination by knowledge and open the flower of
awakening, causing them to determine to fulfill their fundamental task.
Why? Because Buddhas’ immense sun-body of knowledge and wisdom radiates
infinite light, illuminating everywhere.
4) Tướng
Thân Thứ Tư của Như Lai—The fourth characteristic of the body of Buddha:
a) Ví
như mặt nhựt mọc lên, trước hết chiếu những núi lớn như núi Tu Di vân
vân, kế chiếu hắc sơn, kế chiếu cao nguyên, sau rốt chiếu khắp đại địa.
Mặt nhựt chẳng nghĩ rằng ta trước chiếu nơi đây rồi sau chiếu nơi kia. Chỉ
do núi và mặt đất có cao và thấp, nên chiếu có trước và sau. Đức Như Lai
Chánh Đẳng Chánh Giác lại cũng như vậy. Ngài thành tựu vô biên pháp giới
trí luân, thường phóng vô ngại trí huệ quang minh. Trước chiếu chư đại Bồ
Tát, kế chiếu Duyên Giác, kế chiếu Thanh Văn, kế chiếu chúng sanh có thiện
căn quyết định, tùy theo tâm khí của họ mà thị hiện trí quảng đại, sau rốt
chiếu khắp tất cả chúng sanh, nhẫn đến kẻ tà định cũng chiếu đến làm nhơn
duyên lợi ích thuở vị lai khiến họ được thành thục. Nhưng Đức Như Lai đại
trí nhựt quang chẳng nghĩ rằng ta phải chiếu Bồ Tát đại hạnh, nhẫn đến sau
rốt sẽ chiếu tà định chúng sanh. Hỉ phóng trí quang bình đẳng chiếu khắp,
vô ngại, vô chướng, vô phân biệt—When the sun rises, first it lights up
the highest mountains such as the Sumeru, then the lower mountains, then
the high plateaus, and finally the whole land; but the sun does not think,
“First I will illuminate here, afterward I will illuminate there.” It is
just because of difference in height of the mountains and land that there
is a succession in illumination. The Buddha, similarly, having developed
the boundless orb of knowledge of the realm of reality, always radiating
the light of unimpeded knowledge, first of all illumines the high
mountains, which are the Great Enlightening Beings, then illumines those
who are awakened by understanding of conditioning, then illumines those
who listen to the message, then illumines sentient beings whose foundation
of goodness are sure and stable, revealing vast knowledge according to
beings’ mental capacities, finally illumining all sentient beings, even
reaching those who are fixated on error, to be a beneficial cause for the
future, that they may develop to maturity. But the light of the sun of
great knowledge of Buddha does not think, “I will first illumine the great
deeds of Enlightening Beings and at the very last shine on sentient beings
who are fixated on error.” It just radiates the light, shining equally on
all, without obstruction or impediment, without discrimination.
b) Ví như
mặt nhựt mặt nguyệt tùy thời xuất hiện, núi lớn, hang tối chiếu khắp không
riêng tư. Như trí huệ lại cũng như vậy, chiếu khắp tất cả không có phân
biệt. Tùy theo chúng sanh căn khí sở thích không đồng mà trí huệ quang
minh có nhiều thứ khác nhau—Just as the sun moon appear in their time and
impersonally shine on the mountains and valleys, so also does the
knowledge of Buddha shine on all without discrimination, while the light
of knowledge has various differences according to the differences in
faculties and inclinations of sentient beings.
5) Tướng
Thân Thứ Năm của Đức Như Lai—The fifth characteristic of the body of
Buddha:
a) Ví như
mặt nhựt mọc lên, những kẻ sanh manh vì không nhãn căn nên trọn không
thấy. Dầu không thấy, nhưng vẫn được ánh sáng mặt nhựt làm lợi ích. Vì do
mặt nhựt mà biết thời tiết ngày đêm, thọ dụng các thứ y phục, ẩm thực,
khiến thân thể mạnh khỏe khỏi bệnh tật. Như Lai trí nhựt lại cũng như vậy.
Những kẻ không tin, không hiểu, phá giới, phá kiến, tà mạng sanh sống, vì
không tín nhãn nên chẳng thấy được chư Phật trí huệ. Dầu không thấy, nhưng
vẫn được sự lợi ích nơi trí huệ của Phật. Vì do oai lực của Phật làm cho
những chúng sanh đó, các sự khổ nơi thân và những phiền não, nhơn khổ vị
lai đều được tiêu diệt—When the sun comes out, those born blind cannot see
it, because they have no faculty of vision; yet even though they do not
see it, they are benefitted by the light of the sun. Why? By this is
possible to know the times of day and night, and to have access to food
and clothing to comfort the body and free from distress. The sun of
knowledge of Buddha is also like this; the blind without faith or
understanding, immoral and heedles, sustaining themselves by wrong means
of livelihood, do not see the orb of the sun of knowledge of the Buddha
because they have no eye of faith, but even though they do not see it,
they are still benefitted by the sun of knowledge. Why? Because by the
power of Buddha it makes the causes of future suffering of those beings,
physical pains and psychological afflictions, all vanish.
b) Đức
Như Lai có rất nhiều quang minh làm phương tiện cứu độ chúng sanh—The
Buddha has various kinds of light to use as skillful means to save
sentient beings:
·
Có quang minh tên là tích tập tất cả công đức—A light called
accumulating all virtues.
·
Có quang minh tên là chiếu khắp tất cả—A light called total
universal illumination.
·
Có quang minh tên là thanh tịnh tự tại chiếu—A light called
pure, free illumination.
·
Có quang minh tên là xuất đại diệu âm—A light called
producing great, wondrous sound.
·
Có quang minh tên là hiển khắp tất cả ngôn ngữ khiến sanh
hoan hỷ—A light called understanding all languages and gladdening others.
·
Có quang minh tên là thị hiện cảnh giới tự tại dứt hẳn tất
cả nghi ngờ—A light called the realm of freedom showing the eternal
cancellation of all doubts.
·
Có quang minh tên là trí vô trụ tự tại chiếu khắp—A light
called independent universal illumination of nondwelling knowledge.
·
Có quang minh tên là trí tự tại dứt hẳn tất cả hý luận—A
light called free knowledge forever terminating all false descriptions.
·
Có quang minh tên là tùy sở nghi xuất diệu âm—A light called
marvelous sayings according to need.
·
Có quang minh tên là xuất âm thanh tự tại thanh tịnh trang
nghiêm quốc độ thành thục chúng sanh—A light called producing free
utterances adorning lands and maturing sentient beings.
c) Mỗi lổ
lông của Đức Như Lai phóng ra ngàn thứ quang minh như vậy—Each pore of the
Buddha emits a thousand kinds of light like these:
·
Năm trăm quang minh chiếu khắp hạ phương, năm trăm quang
minh chiếu khắp thượng phương các chúng Bồ Tát ở chỗ chư Phật trong tất cả
cõi—Five hundred lights beam downward, five hundred lights beam upward,
illuminating the congregations of Enlightening Beings at the various
places of the Buddhas in the various lands.
·
Những Bồ Tát đó thấy quang minh nầy đồng thời đều được cảnh
giới Như Lai: mười đầu, mười mắt, mười tai, mười mũi, mười lưỡi, mười
thân, mười tay, mười chưn, mười địa, mười trí đều thanh tịnh tất cả. Chư
Bồ Tát đó trước đã thành tựu những xứ, những địa, khi thấy quang minh nầy
thời lại thanh tịnh hơn, tất cả thiện căn thảy đều thành thục, hướng đến
nhứt thiết trí—When the Enlightening Beings see these lights, all at once
they realize the realm of Buddhahood, with ten heads, ten eyes, ten ears,
ten noses, ten tongues, ten bodies, ten hands, ten feet, ten stages, and
ten knowledges, all thoroughly pure. The states and stages previously
accomplished by those Enlightening Beings become more pure upon seeing
these lights; their roots of goodness mature, and they proceed toward
omniscience.
·
Hạng trụ ở nhị thừa thời diệt tất cả phiền não—Those in the
two lesser vehicles have all their defilements removed.
·
Ngoài ra, một phần sanh manh chúng sanh, nhờ những quang
minh nầy, thân đã an lạc nên tâm họ cũng thanh tịnh nhu nhuyễn, điều phục,
kham tu niệm trí—Some other beings, who are blind, their bodies blissful,
also become purified in mind, gentle and docile, able to cultivate
mindfulness and knowledge.
·
Các chúng sanh nơi ác đạo: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh đều
được khoái lạc giải thoát những khổ, khi mạng chung đều được sanh lên cõi
trời hoặc nhơn gian. Những chúng sanh đó chẳng biết do nhơn duyên gì, do
thần lực nào mà sanh về đây. Hàng sanh manh kia nghĩ rằng ta là Phạm
Thiên, ta là Phạm Hóa. Bấy giờ Đức Như Lai trụ trong phổ tự tại tam muội,
phát ra sáu mươi thứ diệu âm mà bảo họ rằng, các ngươi chẳng phải là Phạm
Thiên, Phạm Hóa, cũng chẳng phải là Đế Thích, Hộ Thế làm ra, mà đều do
thần lực của Như Lai. Những chúng sanh đó nghe lời trên đều được biết đời
trước và đều rất hoan hỷ. Vì tâm hoan hỷ nên tự nhiên hiện ra mây hoa ưu
đàm, mây hương, mây âm nhạc, mây y phục, mây lọng, mây tràng, mây phan,
mây hương bột, mây châu báu, tràng sư tử lầu các bán nguyệt, mây ca ngâm
khen ngợi, mây những đồ trang nghiêm, đều cúng dường Đức Như Lai với lòng
tôn trọng. Vì những chúng sanh đó được tịnh nhãn. Đức Như Lai thọ ký vô
thượng Bồ Đề cho họ—The sentient beings in the realms of hells, hungry
ghosts and animals all become blissful and are freed from pains, and when
their lives end are reborn in heaven or the human world. Those sentient
beings are not aware , do not know by what cause, by what spiritual power,
they came to be born there. Those blind ones think, “We are Brahma gods,
we are emanations of Brahma.” Then Buddha in the concentration of
universal freedom, says to them, “You are not Brahma gods, not emanations
of Brahma, nor were you created by the king-god Indra or the
world-guardian gods: all this is spiritual power of Buddha.” Having heard
this, those sentient beings, by the spiritual power of Buddha, all know
their past life and become very happy. Because their hearts are joyful,
they naturally produce clouds of udumbara flowers, clouds of fragrances,
music, cloth, parasols, banners, pennants, aromatic powders, jewels,
towers adorned with lion banners and crescents, clouds of song of praise,
clouds of all kinds of adornments, and respectfully offer them to the
Buddha. Why? Because these sentient beings have gained clear eyes, and
therefore the Buddha gives them the prophecy of unexcelled, complete
perfect enlightenment. In this way the Buddha’s sun knowledge benefits
sentient beings born blind, fostering the full development of basic
goodness.
6) Tướng
Thân Thứ Sáu Của Đức Như Lai—The sixth characteristic of the body of
Buddha: Ví như mặt nguyệt có bốn pháp kỳ đặc vị tằng hữu, thân tướng của
Đức Như Lai lại cũng có bốn pháp kỳ đặc vị tằng hữu—It is like the moon,
with four special extraordinary qualities, the characteristics of the body
of Buddha similarly has four special extraordinary qualities:
a) Ánh
nguyệt che chói quang minh của tất cả tinh tú, thì tướng thân của Đức Như
Lai che chói tất cả hàng Thanh Văn Duyên Giác, dù hữu học hay vô học—The
moon outshines all the stars, the body of Buddha similarly outshines all
hearers and Individual Illuminates, whether they are in the stage of
learning or beyond learning.
b) Ánh
nguyệt hay theo thời gian mà hiện ra tròn khuyết, nhưng ánh nguyệt tự nó
không tròn khuyết. Đức Như Lai cũng tùy theo sở nghi mà thị hiện thọ mạng
dài ngắn chẳng đồng, nhưng thân Như Lai không tăng giảm—As time passes,
the moon shows waning or waxing, but its original nature has no waning nor
waxing. The body of the Buddha manifests different life spans according to
the needs of the situation, yet the Buddha-body is neither increasing nor
decreasing.
c) Mặt
nguyệt hiện rõ trong nước đứng trong hay nơi đại địa. Tướng thân Đức Như
Lai đều hiện bóng trong căn khí Bồ Đề hay nơi chúng sanh tâm tịnh, hay
khắp toàn thế giới—The moon reflection appears in all clear waters. In the
same manner, the reflection of the Buddha-body appears in all vessels of
enlightenment, sentient beings with pure minds, in all worlds.
d) Tất cả
người thấy mặt nguyệt đều đối trước mặt họ, chứ nguyệt luân không phân
biệt không hý luận. Cũng như vậy, tất cả chúng sanh, có ai thấy Như Lai,
đều cho rằng Đức Như Lai chỉ hiện trước tôi. Như Lai theo sở thích của họ
mà thuyết pháp, theo địa vị của họ khiến được giải thoát, theo chỗ đáng
hóa độ khiến được thấy Phật. Nhưng thân Như Lai vẫn không phân biệt, không
hý luận. Những điều lợi ích làm ra đều được rốt ráo—All who see the moon
see it right before them, yet the moon has no discrimination and no
arbitrary conception. In the same manner, all sentient beings who behold
the Buddha-body think the Buddha is in their presence alone. According to
their inclinations, Buddha teaches them, liberating them according to
their states, causing them to perceive the Buddha-body according to their
needs and potentials for edification, yet the Buddha-body has no
discrimination, no arbitrary conceptions; all benefits it renders reach
the ultimate end.
7) Tướng
Thân Thứ Bảy Của Đức Như Lai—The seventh characteristic of the body of
Buddha: Ví như Đại Phạm Thiên Vương dùng chút phương tiện hiện thân khắp
Đại Thiên thế giới. Tất cả chúng sanh đều thấy Đại Phạm Thiên Vương hiện ở
trước mình. Nhưng Đại Phạm Thiên Vương nầy chẳng phân thân, cũng không có
các thứ thân. Cũng như vậy, Đức Như Lai không có phân biệt, không hý luận,
cũng chẳng phân thân, cũng chẳng có các thứ thân. Nhưng tùy sở thích của
tất cả chúng sanh mà thị hiện Phật thân, cũng vẫn chẳng nghĩ rằng hiện
ngần ấy thân—Just as the supreme Brahma god of a billion-world universe
simply manifests its body in the billion worlds, and all beings see Brahma
before them, yet Brahma does not divide its body and does not have
multiple bodies. In the same way the Buddhas have no discrimination, no
flase representations, and do not divide their bodies or have multiple
bodies, yet they manifest their bodies in accord with the inclinations of
all sentient beings, without thinking that they manifest so many bodies.
8) Tướng
Thân Thứ Tám Của Đức Như Lai—The eighth charateristic of the body of
Buddha: Ví như y vương khéo biết các thứ thuốc và những chú luận, đều
dùng được tất cả những thứ thuốc có ở Diêm Phù Đề. Lại do năng lực của
những thiện căn đời trước và sức đại minh chú làm phương tiện, nên chúng
sanh được thấy y vương đều được lành mạnh. Y vương nầy biết mạng sắp chết,
nghĩ rằng sau khi ta chết, tất cả chúng sanh không nơi nương tựa. Nay ta
phải nên vì họ mà hiện phương tiện. Lúc đó y vương chế thuốc thoa thân
mình dùng sức minh chú gia trì, nên dầu đã chết mà thân chẳng rã, chẳng
héo, chẳng khô, cử chỉ, nhìn, nghe không khác lúc còn sống, phàm có chữa
trị đều được lành mạnh. Cũng như vậy, Đức Như Lai Chánh Đẳng Chánh Giác vô
thượng y vương trải qua vô lượng trăm ngàn ức na do tha kiếp tu luyện pháp
dược đã được thành tựu, tu học tất cả phương tiện thiện xảo đại minh chú
lực đều được viên mãn đến bỉ ngạn. Khéo trừ diệt được tất cả bệnh phiền
não của chúng sanh, và trụ thọ mạng trải qua vô lượng kiếp. Thân Phật
thanh tịnh, không tư lự, không động dụng, tất cả Phật sự không hề thôi
nghỉ. Chúng sanh được thấy, các bệnh phiền não đều được tiêu diệt—A master
physician is well versed in all medications and the science of hypnosis,
fully uses all the medicines in the land, and, also because of the power
of the physician’s past roots of goodness, and because of using hypnotic
spells as an expedient, all those who see the physician recover from
illness. That master physician, sensing impending death, thinks, “After I
die, sentient beings will have no one to rely on; I should manifest an
expedient for them.” Then the master physician compounds drugs, which he
smears on his body, and support his body by spell power, so that it will
not decay or shrivel after death, so its bearing, seeing, and hearing will
be no different from before, and all cures will be effected. The Buddha,
the Truly Enlightened One, the unexcelled master physician, is also like
this, having developed and perfected the medicines of the Teaching over
countless eons, having cultivated and learned all skills in application of
means and fully consummated the power of illuminating spells, is able to
quell all sentient beings’ afflictions. Buddha’s life spans measureless
eons, the body pure, without any cognition, without activity, never
ceasing the works of Buddhas; the afflictions of all sentient beings who
see Buddha dissolve away.
9) Tướng
Thân Thứ Chín Của Đức Như Lai—The Ninth characteristic of the body of
Buddha: Ví như đại hải có châu đại ma ni tên là tạng Tỳ Lô Giá Na họp tất
cả quang minh. Nếu có chúng sanh nào chạm phải quang minh của châu nầy
thời đồng một màu với bửu châu. Nếu ai được thấy châu nầy thời mắt được
thanh tịnh. Tùy quang minh nầy chiếu đến chỗ nào thời mưa ma ni bửu tên là
an lạc, làm cho chúng sanh khỏi khổ và được vừa ý. Thân của Đức Như Lai
lại cũng như vậy, là đại bửu tụ, là tạng đại trí huệ tất cả công đức. Nếu
có chúng sanh nào chạm phải quang minh của thân Phật thời đồng màu với
thân Phật. Nếu ai được thấy thân Phật thời được pháp nhãn thanh tịnh. Tùy
chỗ nào mà quang minh của Phật chiếu đến đều làm cho các chúng sanh khổ
khó bần cùng, nhẫn dến đầy đủ sự vui Phật Bồ Đề. Như Lai pháp thân không
phân biệt, cũng không hý luận mà hay làm khắp tất cả chúng sanh làm Phật
sự lớn—In the ocean there is a great jewel called radiant repository, in
which are assembled all lights: if any sentient beings touch its light,
they become assimilated to its color; if any see it, their eyes are
purified; whenever the light shines it rains jewels called felicity that
soothe and comfort beings. The body of Buddha is also like this, being a
treasury of knowledge in which are collected all virtues: if any sentient
beings come in contact with the light of precious knowledge of the body
of Buddha, they become the same as Buddha in appearance; if any see it
their eye of reality is purified; wherever that light shines, it frees
sentient beings from the miseries of poverty and ultimately imbues them
with the bliss of enlightenment, but can perform great Buddha-works for
all sentient beings.
10) Tướng
Thân Thứ Mười Của Đức Như Lai—The tenth characteristic of the body of
Buddha:
a) Ví như
đại hải có đại như ý ma ni bửu vương tên là tạng trang nghiêm tất cả thế
gian. Thành tựu đầy đủ trăm vạn công đức. Tùy bửu vương nầy ở chỗ nào thời
làm cho các chúng sanh tai hoạn tiêu trừ, sở nguyện đầy đủ. Nhưng chẳng
phải chúng sanh ít phước đức mà được thấy như ý bửu vương nầy. Cũng vậy,
thân Đức Như Lai tên là hay làm cho tất cả chúng sanh đều được hoan hỷ.
Nếu có ai thấy thân Như Lai, nghe danh hiệu Như Lai, khen công đức Như Lai
thời đều làm cho thoát hẳn khổ hoạn sanh tử. Giả sử tất cả thế giới, tất
cả chúng sanh đồng thời chuyên tâm muốn thấy Đức Như Lai, đều làm cho được
thấy, sở nguyện được đầy đủ—In the ocean is a great wish-fulfilling jewel
called treasury of adornments of all worlds, fully endowed with a million
qualities, eliminating calamities and fulfilling wishes of beings wnerever
it is. However, this jewel cannot be seen by beings of little merit. The
supreme wish-fulfilling jewel of the body of Buddha is also like this;
called able to gladden all beings, if any sentient beings see the body of
Buddha, hear the name, and praise the virtues, they will all be enabled to
escape forever the pains and ills of birth and death. Even if all beings
in all worlds focus their minds all at once on the desire to see Buddha,
they will all be enabled to see and their wish will be fulfilled.
b) Chẳng
phải chúng sanh ít phước đức mà thấy được thân Như Lai, chỉ trừ thần lực
tự tại của Phật gia hộ cho kẻ đáng được điều phục. Nếu có chúng sanh nhơn
thấy thân Phật bèn gieo căn lành nhẫn đến thành thục, vì thành thục nên
mới khiến thấy được thân Như Lai. Chư đại Bồ Tát sở dĩ luôn thấy được
tướng thân Đức Như Lai là vì do tâm lượng khắp mười phương, vì sở hành vô
ngại như hư không, vì vào đi vào khắp pháp giới, vì luôn trụ nơi chân thực
tế, vì vô sanh vô diệt, vì bình đẳng trụ nơi tam thế, vì lìa hẳn mọi phân
biệt, vì an trụ thệ nguyện tột hết thuở vị lai, vì nghiêm tịnh tất cả thế
giới, vì mỗi mỗi thân đều trang nghiêm—The Buddha-body cannot be seen by
sentient beings of little merit unless they can be tamed by the spiritual
power of Buddha; if sentient beings, because of seeing the body of Buddha,
plant roots of goodness and develop them, they are enabled to see the body
of Buddha for their development. Great enlightening beings should see it
thus, because their minds are measureless, pervading the ten directions,
because their actions are as unhindered as space, because they penetrate
everywhere in the realm of reality, because they abide in the absolute
truth, because they have no birth or death, because they remain equal
throughout past, present, and future, because they are forever rid of all
false discriminations, because they continue their eternal vows, because
they purify all worlds, because they adorn each Buddha-body.
Thập Tưởng Ấm Ma: The ten
states of thinking skandha—Theo Kinh Lăng Nghiêm, Đức Phật dạy ông A Nan
về mười tưởng ấm ma—According to The Surangama Sutra, the Buddha taught
Ananda about the ten states of thinking skandha.
1) Tham
cầu thiện xảo: Greed for cleverness and skill—Ông A Nan! Người thiện nam
đó, thụ ấm hư diệu, chẳng mắc tà lự, viên định phát minh trong tam ma địa.
Tâm ưa mến viên minh, phấn khởi tinh thần cứu xét, tham cầu sự khéo giỏi.
Khi đó Thiên ma nhân dịp tiện lợi, nhập xác người, giảng kinh pháp. Người
đó không biết là bị ma nhập, nói được Niết Bàn vô thượng. Đến chỗ người
thiện nam cầu thiện xảo, trải tọa cụ nói pháp. Trong giây phút hiện hình,
hoặc ông Tỳ Kheo cho người kia thấy, hoặc làm Đế Thích, đàn bà, hoặc Tỳ
Kheo Ni, hoặc nằm trong nhà tối, thân có ánh sáng. Người tu cầu thiện xảo
trên, ngu mê, lầm cho là Bồ Tát, tin lời nó giáo hóa, phiêu đãng tâm mình,
phá luật nghi Phật, âm thầm làm sự dâm dục. Ưa nói những việc tai tường
quái gở, hoặc nói Như Lai chỗ đó ra đời, hoặc nói kiếp tận lửa cháy, hoặc
nói đao binh, làm cho người ta sợ hãi, khiến cho gia tài vô cớ bị tổn
hại. Đó là quỷ quái lâu năm thành ma, não loạn người ấy. Đến khi ma nhàm
chán, bỏ xác người, đệ tử với thầy đều bị nạn vua phép nước. Ông phải biết
như thế mới mong thoát khỏi luân hồi. Nếu mê hoặc mà không biết là đọa
ngục vô gián—Ananda, in the unhindered clarity and wonder that ensues
after the feeling skandha is gone, this good person is untroubled by any
deviant mental state and experiences perfect, bright cencentration. Within
samadhi, his mind craves its perfect brightness, so he sharpens his
concentrated thought as he greedily seeks for cleverness and skill. At
that time a demon from the heaven seizes the opportunity it has been
waiting for. Its spirit possesses another person and uses him as a
mouthpiece to expound the Sutra and the Dharma. This person, unaware that
he is possessed by a demon, claims he has reached unsurpassed Nirvana.
When he comes to see that good person who seeks cleverness and skill, he
arranges a seat and speaks the Dharma. In an instant, he may appear to be
a Bhikshu, enabling that person to see him as such, or he may appear as
Shakra, as a woman, or as a Bhikshuni; or his body may emit light as he
sleeps in a dark room. The good person is beguiled and fooled into
thinking that the other is a Bodhisattva. He believes the other’s
teachings and his mind is swayed. He breaks the Buddha’s moral precepts
and covertly indulges his greedy desires. The other person is fond of
speaking about calamities, auspicious events, and unusual changes. He may
say that a Tathagata has appeared in the world at a certain place. He may
speak of catastrophic fire or wars, thus frightening people into
squandering their family wealth without reason. This is a strange ghost
that in its old age has become a demon. It disturbs and confuses the good
person. But when it tires of doing so, it will leave the other person’s
body. Then both the disciples and the teacher will get in trouble with the
law. You should be aware of this in advance and not get caught up in the
cycle of transmigration. If you are confused and do not understand, you
will fall into the Relentless Hells.
2) Tham
cầu du lịch: Greed for adventure—Ông A Nan! Lại người thiện nam, thụ ấm hư
diệu, chẳng mắc tà lự, viên định phát minh trong tam ma địa. Tâm ưa mến
phiêu đãng, phấn khởi tinh thần cứu xét, tham cầu kinh nghiệm. Khi đó
Thiên ma nhân dịp tiện, nhập xác người giảng kinh nói pháp. Người đó không
biết là mình bị ma nhập, nói được Niết Bàn vô thượng. Đến chỗ người thiện
nam cầu du lịch, trải tọa cụ nói pháp. Hình nó không thay đổi. Người nghe
pháp bỗng thấy thân mình ngồi trên sen báu, toàn thể hóa thành sắc vàng.
Cả chúng nghe pháp đều được như vậy, cho là chưa từng có. Người nghe ngu
mê, lầm cho là Bồ Tát, dâm dật cái tâm mình, phá luật nghi Phật, âm thầm
làm dâm dục. Người ma ưa nói các Phật ứng thế, chỗ đó, người ấy, là vị
Phật hóa thân đến đấy. Người đó tức là vị Bồ Tát ấy đến hóa trong nhân
gian. Thiện nam thấy vậy, tâm sinh khao khát, tà kiến âm thầm khởi lên,
chưởng trí bị tiêu diệt. Đó là Bạt Quỷ lâu năm thành ma, não loạn người
đó. Đến khi ma nhàm chán, bỏ xác người, đệ tử với thầy đều bị nạn vua phép
nước. Ông phải biết trước mới khỏi luân hồi. Mê hoặc không biết, đọa ngục
vô gián—Ananda! In the unhindered clarity and wonder that ensues after the
feeling skandha is gone, this good person is untroubled by any deviant
mental state and experiences perfect, bright concentration. Within
samadhi, his mind craves to roam about, so he lets his subtle thoughts
fly out as he greedily seeks for adventure. At that time a demon from the
heavens seizes the opportunity it has been waiting for. Its spirit
possesses another person and uses him as a mouthpiece to expound the sutra
and the Dharma. This person, unaware that he is possessed by a demon,
claims he has reached unsurpassed Nirvana. When he comes to see that good
person who seeks to roam, he arranges a seat and speaks the Dharma. His
own body does not change its appearance, but those listening to the Dharma
suddenly see themselves sitting on jeweled lotuses and their entire bodies
transformed into clusters of purple-golden light. Each person in the
audience experiences that state and feels he has obtained something
unprecedented. The good person is beguiled and fooled into thinking the
other is a Bodhisattva. Lust and laxity corrupt his mind. He breaks the
Buddha’s moral precepts and covertly indulges his greedy desires. The
other person is fond of saying that Buddhas are appearing in the world. He
claims that in a certain place a certain person is actually a
transformation body of a certain Buddha. Or he says that a certain person
is such and such a Bodhisattva who has come to teach humankind. People who
witness this are filled with admiration. Their wrong views multiply, and
their Wisdom of Modes is destroyed. This is a drought ghost that in its
old age has become a demon. It disturbs and confuses the good person. But
when it tires of doing so, it will leave the other person’s body. Then the
disciples and the teacher will get in trouble with the law. You should be
aware of this in advance and not get caught up in the cycle of
transmigration. If you are confused and do not understand, you will fall
into the Relentless Hells.
3) Tham
cầu khế hợp: Greed for union—Lại người thiện nam, thụ ấm hư diệu, chẳng
mắc tà lự, viên định phát minh trong tam ma địa. Tâm ưa mến thầm hợp, càng
chuyên tinh thần cứu xét, tham cầu khế hợp. Khi đó Thiên ma nhân dịp tiện,
nhập xác người, giảng kinh nói pháp. Người đó không biết là bị ma nhập,
nói được Niết Bàn vô thượng. Đến chỗ người thiện nam cầu hợp, trải tọa cụ
nói pháp. Hình nó và những người ngoài nghe pháp không dời đổi chi. Về bề
trong, khiến thính giả trước khi nghe, tâm tự khai ngộ. Trong giây lát dời
đổi, hoặc được túc mệnh, hoặc có tha tâm thông, hoặc thấy địa ngục, hoặc
biết các việc tốt xấu trong nhân gian, hoặc nói kệ tụng kinh. Ai nấy đều
được vui mừng, thấy chưa từng có. Thiện nam ngu mê, lầm cho là Bồ Tát,
lòng lưu luyến theo, phá luật nghi Phật, âm thầm làm tham dục. Người ma ưa
nói Phật có lớn nhỏ, các vị Phật trước sau, trong đó các Phật chân giả,
trai gái, Bồ Tát cũng vậy. Thiện nam thấy vậy, đổi mất bản tâm, dễ vào nơi
tà ngộ. Đó là Mỵ Quỷ lâu năm thành ma, não loạn người ấy. Đến khi nhàm
chán, ma bỏ xác người, đệ tử với thầy đều bị nạn vua phép nước. Ông phải
biết trước mới khỏi luân hồi. Mê hoặc không biết là đọa ngục vô
gián—Ananda! In the unhindered clarity and wonder that ensues after the
feeling skandha is gone, this good person is untroubled by any deviant
mental state and experiences perfect, bright concentration. Within
samadhi, his mind craves spiritual oneness, so he clarifies his
concentrated thought as he greedily seeks for union. At that time, a demon
from the heavens seizes the opportunity it has been waiting for. Its
spirit possesses another person and uses him as a mouthpiece to expound
the Sutra and the Dharma. This person, unaware that he is actually
possessed by a demon, claims he has reached unsurpassed Nirvana. When he
comes to see that good person who seeks union, he arranges a seat and
speaks the Dharma. Neither his own body nor the bodies of those listening
to the Dharma go through any external transformations. But he makes the
minds of the listeners become "“alightened"”before they listen to the
Dharma, so they experience changes in every thought. They may have the
knowledge of past lives or the knowledge of others’ thoughts. They may see
the hells or know all the good and evil events in the human realm. They
may speak verses or spontaneously recite Sutras. Each person is elated and
feels he has obtained something unprecedented. The good person is beguiled
and fooled into thinking the other is a Bodhisattva. His thoughts become
entangled in love. He breaks the Buddhas’ moral precepts and covertly
indulges his greedy desires. He is fond of saying that there are greater
Buddhas and lesser Buddhas, earlier Buddhas and later Buddhas; that among
them are true Buddhas and false Buddhas, male Buddhas and female Buddhas;
and that the same is true of Bodhisattvas. When people witness this, their
initial resolve is washed away, and they easily get carried away with
their wrong understanding. This is a Mei-Ghost that in its old age has
become a demon. It disturbs and confuses the good person. But when it
tires of doing so, it will leave the other person’s body. Then both the
disciples and the teacher will get in trouble with the law. You should be
aware of this in advance and not get caught in the cycle of
transmigration. If you are confused and do not understand, you will fall
into the Relentless Hells.
4) Tham
cầu biện bạch, phân tách: Greed to analyze things—Lại người thiện nam, thụ
ấm hư diệu, chẳng mắc tà lự, viên định phát minh trong tam ma địa. Tâm ưa
căn bản, xem xét cho cùng tận sự biến hóa của sự vật, về tính chất thủy
chung. Tâm ấy càng tinh sáng, tham cầu biện bạch, phân tách. Khi đó Thiên
ma nhân dịp tiện, nhập xác người giảng kinh nói pháp. Người đó không biết
là bị ma nhập, nói được Niết Bàn vô thượng. Đến chỗ người thiện nam cầu
biện bạch, trải tọa cụ nói pháp. Thân nó có uy thần, triết phục các người
cầu, khiến cho dưới pháp tọa, dù chưa nghe pháp, tự nhiên tâm đã phục. Các
người ấy cho là Phật, Bồ Đề, Niết Bàn, Pháp thân tức là thân thịt hiện
tiền của ta. Cha cha, con con thay đổi sinh nhau, tức là pháp thân thường
trú bất tuyệt. Cõi hiện tại là xứ Phật. Không có cõi tịnh nào riêng, và
không có tướng sắc vàng. Người nghe tin chịu, bỏ mất tâm trước, thân mệnh
quy-y, được chưa từng có. Thiện nam ngu mê, lầm cho là Bồ Tát, xem xét cái
tâm ấy, phá luật nghi Phật, âm thầm làm tham dục. Người ma ưa nói: mắt,
tai, mũi, lưỡi đều là tịnh độ, nam căn, nữ căn tức là chỗ Bồ Đề, Niết Bàn.
Các người nghe không biết, tin lời uế ngôn ấy. Đó là ác quỷ Cổ Độc Yểm
Thắng lâu năm thành ma, não hại người đó. Đến khi nhàm chán, ma bỏ xác
người, đệ tử với thầy đều bị nạn vua phép nước. Ông A Nan! Ông phải biết
trước, mới khỏi luân hồi. Mê hoặc không biết, đọa ngục vô gián—Further, in
the unhindered clarity and wonder that ensues after the feeling skandha is
gone, this good person is untroubled by any deviant mental state and
experiences perfect, bright concentration. Within samadhi, his mind craves
to know the origins of things, so he exhaustively investigates the nature
of physical things and their changes from beginning to end. He intensifies
the keenness of his thoughts as he greedily seeks to analyze things. At
that time a demon from the heavens seizes the opportunity it has been
waiting for. Its spirit possesses another person and uses him as a
mouthpiece to expound the Sutras and the Dharma. This person, unaware that
he is possessed by a demon, claims he has reached unsurpassed Nirvana.
When he comes to see that good person who seeks to know the origins of
things, he arranges a seat and speaks the Dharma. His body has an awesome
spiritual quality which subdues the seeker. He makes the minds of those
gathered beside his seat spontaneously compliant, even before they have
heard the Dharma. He says to all those people that the Buddha's Nirvana,
Bodhi, and Dharma-body are there before them in the form of his own
physical body. He says: “The successive begetting of fathers and sons from
generation to generation is itself the Dharma-body, which is permanent and
never-ending. What you see right now are those very Buddha-lands. There
are no other pure dwellings or golden features. Those people believe and
accept his words, forgetting their initial resolve. They offer up their
lives, feeling they have obtained something unprecedented. They are all
beguiled and confused into thinking he is a Bodhisattva. As they pursue
his ideas, they break the Buddha’s moral precepts and covertly undulges
their greedy desires. He is fond of saying that the eyes, ears, nose, and
tongue are the Pure Land, and that the male and female organs are the true
place of Bodhi and Nirvana. Ignorant people believe these filthy words.
This is a poisonous ghost or an evil paralysis ghost that in its old age
has become a demon. It disturbs and confuses the good person. But when it
tires of doing so, it will leave the other person’s body. Then both the
disciples and the teacher will get in trouble with the law. You should be
aware of this in advance and not get caught up in the cycle of
transmigration. If you are confused and not understand, you will fall into
the Relentless (Uninterrupted) Hells.
5) Tham
cầu minh cảm: Greed for spiritual responses—Lại người thiện nam, thụ ấm hư
diệu, chẳng mắc tà lự, viên định phát minh trong tam ma địa, tâm ưa cảm
ứng, cứu xét tinh vi chẳng dứt, tham cầu minh cảm. Khi đó Thiên ma nhân
dịp tiện, nhập xác người giảng kinh nói pháp. Người đó không biết là bị ma
nhập, nói được Niết Bàn vô thượng. Đến chỗ người thiện nam cầu cảm ứng,
trải tọa cụ nói pháp. Ma có thể khiến người nghe tạm thời thấy thân người
đó như cả trăm, nghìn tuổi. Lòng người nghe sinh yêu mến, không rời xa
được, thân làm đầy tớ, cúng dường bốn thứ: ăn mặc, áo quần, thuốc men, đồ
dùng, chẳng ngại khó nhọc. Khiến người nghe thấy là Tiên sư, là thiện tri
thức, hết sức mến yêu, thiết tha như keo sơn, được cái chưa từng có. Thiện
nam ngu mê, lầm cho là Bồ Tát, lòng hằng thân cận, phá luật nghi Phật, âm
thầm làm tham dục. Ma ưa nói: đời trước, ta sinh nơi đó, độ người nầy,
người nọ, đương thời là vợ, là anh em với ta. Nay đến độ nhau. Đem nhau về
thế giới của ta, cúng dường Phật ở đó. Hoặc nói riêng có trời đại quang
minh, Phật ở đó, chư Phật nghỉ ở đó. Người nghe không biết, tin lầm lời
dối trá, quên mất bản tâm. Đó là Lệ Quỷ lâu năm thành ma, não loạn người
đó. Đến khi nhàm chán, ma bỏ xác người, đệ tử với thầy đều bị nạn vua phép
nước. Ông A Nan! Ông phải biết trước, mới khỏi luân hồi. Mê hoặc không
biết, đọa ngục vô gián—Further, in the unhindered clarity and wonder that
ensues after the feeling skandha is gone, this good person is untroubled
by any deviant mental state and experiences perfect, bright concentration.
Within samadhi, his mind craves revelations from afar, so he pours all
his energy into this intense investigation as he greedily seeks for
imperceptible spiritual responses. At that time a demon from the heavens
seizes the opportunity it has been waiting for. Its spirit possesses
another person and uses him as a mouthpiece to expound the Sutras and
Dharma. This person, completely unaware that he is possessed by a demon,
claims he has reached unsurpassed Nirvana. When he comes to see that good
person who seeks revelations, he arranges a seat and speaks the Dharma. He
briefly appears to his listeners in a body that looks a hundred or a
thousand years old. They experience a defiling love for him and cannot
bear to part with him. They personally act as his servants, tirelessly
making the Four Kinds of Offerings to him. Each member of the assembly
believes that this person is his former teacher, his original Good and
Wise Advisor. They give rise to love for his Dharma and stick to him as if
glued, feeling they have obtained something unprecedented. The good person
is beguiled and fooled into thinking the other is a Bodhisattva. Attracted
to the other’s thinking, he breaks the Buddha’s moral precepts and
covertly indulges his greedy desires. He is fond of saying, “In a past
life, in a certain incarnation, I rescued a certain person who was then my
wife, my mistress or my brother. Now I have come to rescue you again. We
will stay together and go to another world to make offerings to a certain
Buddha.” Or he may say, “There is a Heaven of Great Brilliance where a
Buddha now dwells. It is the resting place of all Tathagatas.” Ignorant
people believe his ravings and lose their original resolve. This is a
pestilence ghost that in its old age has become a demon. It disturbs and
confuses the good person. But when it tires of doing so, it will leave the
other person’s body. Then both the disciples and the teacher will get in
trouble with the law. You should be aware of this in advance and not get
caught up in the cycle of transmigration. If you are confused and do not
understand, you will fall into the Relentless Hells.
6) Tham
cầu tĩnh mật: Greed for peace and quiet—Lại người thiện nam, thụ ấm hư
diệu, chẳng mắc tà lự, viên định phát minh trong tam ma địa. Tâm ưa thâm
nhập, buộc mình khó nhọc, ưa chỗ vắng vẻ, tham cầu tĩnh mịch. Khi đó,
Thiên ma nhân dịp tiện, nhập xác người giảng kinh nói pháp. Người đó không
biết là bị ma nhập, nói được Niết Bàn vô thượng. Đến chỗ người thiện nam,
trải tọa cụ nói pháp. Khiến người nghe đều biết bản nghiệp. Gọi một người
trong chúng, bảo: “Nay ngươi chưa biết mà đã hóa làm súc sanh.” Rồi sai
một người đứng đằng sau đạp đuôi, làm người ấy đứng dậy không được. Cả đám
người nghe đều khâm phục, kính sợ. Có người khởi tâm nghĩ chi, nó đã biết.
Ngoài luật nghi của Phật, càng thêm tinh khổ. Chê bai Tỳ Kheo, mắng nhiếc
đồ chúng. Tỏ lộ việc người, chẳng tránh hiềm khích. Ưa nói các việc họa
phúc chưa đến, sau thấy đúng không sai. Đó là Đại Lực Quỷ lâu năm thành
ma, não loạn người đó. Đến khi nhàm chán, ma bỏ xác người, đệ tử với thầy
đều bị nạn vua phép nước. Ông A Nan! Ông phải biết trước, mới khỏi luân
hồi. Mê hoặc không biết, đọa ngục vô gián—Further, in the unhindered
clarity and wonder that ensues after the feeling skandha is gone, this
good person is untroubled by any deviant mental state and experiences
perfect, bright concentration. Within samadhi, his mind craves deep
absorption, so he restrains himself with energetic diligence and likes to
dwell in secluded places as he greedily seeks for peace and quiet. At that
time a demon from the heavens seizes the opportunity it has been waiting
for. Its spirit possesses another person and uses him as a mouthpiece to
expound the Sutras and the Dharma. This person, unaware that he is
possessed by a demon, claims he has reached unsurpassed Nirvana. When he
comes to see that good person who seeks seclusion, he arranges a seat and
speaks the Dharma. He causes all of his listeners to think they know their
karma from the past. Or he may say to someone there, “You haven’t died
yet, but you have already become an animal.” Then he instructs another
person to step on the first person’s tail,” and suddenly the first person
cannot stand up. At that point, all in the assembly pour out their hearts
in respect and admiration for him. If someone has a thought, the demon
detects it immediately. He establishes intense ascetic practices that
exceed the Buddha's oral precepts. He slanders Bhikshus, scolds his
assembly of disciples, and exposes people's private affairs without fear
of ridicule or rejection. He is fond of foretelling calamities and
auspicious events, and when they come to pass, he is not wrong in the
slightest. This is a ghost with great powers that in its old age has
become a demon. It disturbs and confuses the good person. But when it
tires of doing so, it will leave the other person's body. Then both the
disciples and the teacher will get in trouble with the law. You should be
aware of this in advance and not get caught up in the cycle of
transmigration. If you are confused and do not understand, you will fall
into the Relentless Hells.
7) Tham
cầu túc mệnh: Greed for past lives—Lại người thiện nam, thụ ấm hư diệu,
chẳng mắc tà lự, viên định phát minh trong tam ma địa. Tâm ưa tri kiến,
siêng khổ nghiên tầm, tham cầu túc mệnh. Khi đó Thiên ma nhân dịp tiện,
nhập xác người giảng kinh nói pháp. Người đó không biết là bị ma nhập,
nói được Niết Bàn vô thượng. Đến chỗ người thiện nam, trải tọa cụ nói
pháp. Người nghe bỗng nhiên được hòn ngọc báu nơi chỗ thuyết pháp. Ma đó
hoặc có khi hóa làm súc sinh, miệng ngậm ngọc báu và các của báu như là
sách, bùa, các vật quý lạ, trước đem trao cho người nghe, rồi sau nhập xác
người đó. Hoặc cám dỗ những người nghe, chôn dưới đất hòn ngọc minh nguyệt
sáng chói chỗ ấy. Các người nghe được chưa từng có. Thường ăn toàn rau,
không ăn cơm. Hoặc có khi một ngày chỉ ăn một hạt vừng hay một hạt gạo, mà
thân thể vẫn béo mạnh, vì sức ma hộ trì. Chê bai Tỳ Kheo, mắng nhiếc đồ
chúng, chẳng tránh hiềm khích. Kẻ ấy thích nói: phương khác có kho báu do
các vị Thánh Hiền ở mười phương cất dấu. Theo sau nó thường thấy có các
người kỳ dị. Đó là sơn lâm, thổ địa, Thành Hoàng, Xuyên nhạc, quỷ thần lâu
năm thành ma. Hoặc có tỏ ra sự dâm dục, phá giới luật Phật. Với học trò
thì âm thầm làm sự ngũ dục. Hoặc có tinh tiến, thuần ăn cây cỏ. Những việc
làm không có nhất định. Não loạn người đó. Đến khi nhàm chán, ma bỏ xác
người, đệ tử với thầy đều bị nạn vua phép nước. Ông A Nan! Ông phải biết
trước, mới khỏi luân hồi. Mê hoặc không biết, đọa ngục vô gián—Further, in
the unhindered clarity and wonder that ensues after the feeling skandha is
gone, this good person is untroubled by any deviant mental state and
experiences perfect, bright concentration. Within samadhi, his mind craves
more knowledge and understanding, so he diligently toils at examining and
probing as he greedily seeks to know past lives. At that time a demon from
the heavens seizes the opportunity it has been waiting for. Its spirit
possesses another person and uses him as a mouthpiece to expound the
Sutras and the Dharma. This person, unaware that he is possessed by a
demon, claims he has reached unsurpassed Nirvana. When he comes to see
that good person who seeks knowledge, he arranges a seat and speaks the
Dharma. There in the Dharma Assembly, inexplicably, that person may obtain
an enormous precious pearl. The demon may sometimes change into an animal
that holds the pearl or other jewels, bamboo tablets, tallies, talismans,
letters, and other unusual things in its mouth. The demon first gives the
objects to the person and afterwards possesses him. Or he may fool his
audience by buying the objects underground and then saying that a
“moonlight pearl” is illuminating the place. Thereupon the audience feels
they have obtained something unique. He may eat only medicinal herbs and
not partake of prepared food. Or he may eat only one sesame seed and one
grain of wheat a day and still look robust. That is because he is
sustained by the power of the demon. He slanders Bhikshus and scolds his
assembly of disciples without fear of ridicule or rejection. He is fond of
talking about treasure troves in other locations, or of remote and hidden
places where sages and worthies of the ten directions dwell. Those who
follow him often see strange and unusual people. This is a ghost or spirit
of the mountain forests, earth, cities, rivers, and mountains that in its
old age has become a demon. The person it possesses may advocate
promiscuity and violate the Buddha’s precepts. He may covertly indulges in
the five desires with his followers. Or he may appear to be vigorous,
eating only wild plants. His behavior is erratic, and he disturbs and
confuses the good person. But when the demon tires, it will leave the
other person’s body. Then both the disciples and the teacher will get in
trouble with the law. You should be aware of this in advance and not get
caught up in the cycle of transmigration. If you are confused and not
understand, you will fall into the Relentless Hells.
8) Tham
cứu thần lực: Greed for spiritual powers—Lại người thiện nam, thụ ấm hư
diệu, chẳng mắc tà lự, viên định phát minh trong tam ma địa. Tâm thích
thần thông, các phép biến hóa, nghiên cứu cội nguồn biến hóa, tham lấy
thần lực. Khi đó Thiên ma nhân dịp tiện, nhập xác người, giảng nói kinh
pháp. Người đó không biết là bị ma nhập, nói được Niết Bàn vô thượng. Đến
chỗ người thiện nam, trải tọa cụ nói pháp. Người ấy hoặc tay nắm lửa sáng
chia để trên đầu các người nghe. Lửa sáng dài hơn vài thước trên đầu mỗi
người, mà không thấy nóng, không bị cháy. Hoặc đi trên nước như trên đất
bằng. Hoặc giữa hư không ngồi yên chẳng động. Hoặc vào trong bình, hoặc ở
trong đãy, hoặc đi qua tường vách, không hề chướng ngại. Chỉ đối với đao
binh, chẳng được tự tại. Ma tự nói là Phật. Thân mặc áo trắng, để các Tỳ
Kheo làm lễ. Chê bai người tu thiền luật, mắng nhiếc đồ chúng. Phát lộ
việc người, chẳng tránh hiềm khích. Thường nói thần thông tự tại. Hoặc
khiến người ở nơi bên thấy Phật độ. Sức quỷ mê hoặc người, chẳng phải có
chân thật. Khen ngợi những việc hành dâm, chẳng bỏ thô hạnh. Đem việc ô
nhớp, cho là truyền pháp. Đó là Thiên Địa Đại Lực, Sơn tinh, Hải tinh,
Phong tinh, Hà tinh, Thổ tinh, tất cả cây cối sống lâu nhiều kiếp đều có
thể thành tinh mỵ, hoặc long mỵ, hoặc Tiên mãn số, sống lại làm mỵ, hoặc
Tiên đến lúc chết, hình không tản, có con quái chi khác nhập vào xác, lâu
năm thành ma, não loạn người đó. Đến khi nhàm chán, ma bỏ xác người, đệ tử
và thầy đều bị nạn vua phép nước. Ông A Nan! Ông phải biết trước, mới khỏi
luân hồi. Mê hoặc không biết, đọa ngục vô gián—Further, in the unhindered
clarity and wonder that ensues after the feeling skandha is gone, this
good person is untroubled by any deviant mental state and experiences
perfect, bright concentration. Within samadhi, his mind craves spiritual
powers and all manner of transformations, so he investigates the source of
transformations as he greedily seeks for spiritual powers. At that time a
demon from the heavens seizes the opportunity it has been waiting for. Its
spirit possesses another person and uses him as a mouthpiece to expound
the Sutras and the Dharma. This person, truly unaware that he is possessed
by a demon, also claims he has reached unsurpassed Nirvana. When he comes
to see that good person who seeks spiritual powers, he aranges a seat and
speaks the Dharma. The possessed person may hold fire in his hands and,
grasping a portion of it, put a flame on the head of each listener in the
Fourfold Assembly. The flames on top of their heads are several feet high,
yet they are not hot and no one is burned. Or he may walk on water as if
on dry land; or he may sit motionless in the air; or he may enter into a
bottle or stay in a bag; or he may pass through window panes and walls
without obstruction. Only when attacked by weapons does he feel ill at
ease. He declares himself to be a Buddha and, wearing the clothing of a
lay person, receives bows from Bhikshus. He slanders dhyana meditation and
the moral regulations. He scolds his disciples and exposes people’s
private affairs without fear of ridicule or rejection. He often talks
about spiritual powers and self-mastery. He may cause people to see
visions of Buddhalands, but they are unreal and arise merely from the
ghost’s power to delude people. He praises the indulgence of lust and does
not condemn lewd conduct. He uses indecent means to transmit his Dharma.
This is a powerful nature spirit: a mountain sprite, a sea sprite, a wind
sprite, a river sprite, an earth sprite or a grass-and-tree sprite that
has evolved over long ages. It may be a dragon-goblin; or a rishi who has
been reborn as a goblin; or again a rishi who, having reached the end of
his appointed time, should have died, but whose body does not decay and
is possessed by a goblin. In its old age it has become a demon. It
disturbs and confuses the good person. But when it tires of doing so, it
will leave the other person’s body. Then both the disciples and the
teacher will get in trouble with the law. You should be aware of this in
advance and not get caught up in the cycle of transmigration. If you are
confused and do not understand, you will fall into the Relentless Hells.
9) Tham
cầu thâm không: Greed for profound emptiness—Lại người thiện nam, thụ ấm
hư diệu, chẳng mắc tà lự, viên định phát minh trong tam ma địa. Tâm ưa
nhập diệt, nghiên cứu tinh biến hóa, tham cầu thâm không. Khi đó Thiên ma
nhân dịp tiện, nhập xác người giảng kinh nói pháp. Người đó không biết là
bị ma nhập, nói được Niết Bàn vô thượng. Đến chỗ người thiện nam, trải tọa
cụ nói pháp. Giữa đại chúng, hình nó bỗng biến mất, chúng không trông
thấy. Lại từ nơi hư không hiện ra, còn mất tự tại. Hoặc hiện thân trong
suốt như ngọc lưu ly. Hoặc đưa tay chân, có mùi hương chiên đàn. Hoặc đại
tiểu tiện như đường phèn. Chê bai giới luật, khinh bỉ người xuất gia.
Thường nói không nhân không quả. Một phen chết rồi là mất hẳn, không còn
thân sau. Các phàm Thánh dù được không tịch, âm thầm làm sự tham dục.
Người thụ dục cũng được không tâm. Bác bỏ nhân quả. Đó là Tinh Khí Nhật
Thực, Nguyệt thực, Kim thạch, Chỉ thảo, hoặc lân, phụng, rùa, hạc trải
qua nghìn muôn năm chẳng chết, hóa ra linh, xuất sinh trong quốc độ, lâu
năm thành ma, não loạn người đó. Đến khi nhàm chán, ma bỏ xác người, đệ tử
với thầy đều bị nạn vua phép nước. Ông A Nan! Ông phải biết trước, mới
khỏi luân hồi. Mê hoặc không biết, đọa ngục vô gián—Further, in the
nhindered clarity and wonder that ensues after the feeling skandha is
gone, this good person is untroubled by any deviant mental state and
experiences perfect, bright concentration. Within samadhi, his mind craves
to enter cessation, so he investigates the nature of transformations as he
greedily seeks for profound emptiness. At that time a demon from the
heavens seizes the opportunity it has been waiting for. Its spirit
possesses another person and uses him as a mouthpiece to expound the
Sutras and the Dharma. This person, unaware that he is possessed by a
demon, claims he has reached unsurpassed Nirvana. When he comes to see
that good person who seeks emptiness, he arranges a seat and speaks the
Dharma. In the midst of the great assembly, his physical form suddenly
disappears, and no one in the assembly can see him. Then out of nowhere,
he abruptly reappears. He can appear and disappear at will , or he can
make his body transparent like crystal. From his hands and feet he
releases the fragrance of sandalwood, or his excrement and urine may be
sweet as thick rock candy. He slanders the precepts and is contemptuous of
those who have left the home-life. He often says that there is no cause
and no effect, that once we die, we are gone forever, that there is no
afterlife, and that there are no ordinary people and no sages. Although
he has obtained a state of empty stillness, he covertly indulges his
greedy desires. Those who give in to his lust also adopt his views of
emptiness and deny cause and effect. This is an essence that was created
during an eclipse of the sun or moon. Having fallen on gold, jade, a rare
fungus, a unicorn, a phoenix, a tortoise, or a crane, the essence endowed
it with life, so that it did not die for a thousand or ten thousands of
years and eventually became a spirit. It was then born into this land and
in its old age has become a demon. It disturbs and confuses the good
person. But when it tires of doing so, it will leave the other person’s
body. Then both the disciples and the teacher will get in trouble with the
law. You should be aware of this in advance and not get caught up in the
cycle of transmigration. If you are confused and do not understand, you
will fall into the Relentless Hells.
10) Tham cầu
sống lâu: Greed for immortality—Lại người thiện nam, thụ ấm hư diệu, chẳng
mắc tà lự, viên định phát minh trong tam ma địa. Tâm thích sống lâu, khó
nhọc nghiền ngẫm, tham cầu sống lâu, bỏ thân sanh tử phân đoạn, mong được
thân biến dịch, tế tướng thường còn. Khi đó Thiên ma nhân dịp tiện, nhập
xác người, giảng kinh nói pháp. Người đó không biết là bị ma nhập, nói
được Niết Bàn vô thượng. Đến chỗ người thiện nam, trải tọa cụ nói pháp.
Thích nói phương khác, qua lại không có trệ ngại. Hoặc qua muôn dặm, nháy
mắt trở lại, đến phương xa lấy đồ vật. Hoặc nơi một chỗ, trong một nhà,
khoảng vài bước, khiến từ phương Đông sang phương Tây, đi mau tới nhiều
năm chẳng đến. Vì thế người nghe tin, nghi là Phật hiện tiền. Thường nói
mười phương chúng sanh đều là con ta. Ta sinh các Đức Phật. Ta xuất hiện
ra thế giới. Ta là ông Phật đầu, xuất thế tự nhiên, chẳng nhân tu mà
được. Đó là Tự Tại Thiên Ma ở đời, khiến các quyến thuộc như Gia Văn Tra
và Tỳ Xá Đồng tử của Tứ Thiên Vương, họ chưa phát tâm, có sức định hư minh
thụ hưởng tinh khí; hoặc có khi hiện hình cho người tu hành xem thấy. Xưng
là Chấp Kim Cang, cho ngươi sống lâu. Hiện thân mỹ nữ, thịnh hành tham
dục. Chưa được một năm, cân não đã khô kiệt. Nói chuyện một mình. Nghe yêu
mỵ, người khác không hiểu. Nhiều khi bị nạn vua phép nước. Chưa kịp xữ
hình mà đã chết khô. Não loạn người cho đến chết. Ông A Nan! Ông phải biết
trước, mới khỏi luân hồi. Mê hoặc không biết, đọa ngục vô gián—Further, in
the unhindered clarity and wonder that ensues after the feeling skandha
is gone, this good person is untroubled by any deviant mental state and
experiences perfect, bright concentration. Within samadhi, his mind craves
long life, so he toils at investigating its subtleties as he greedily
seeks for immortality. He wishes to cast aside the birth and death of the
body, and suddenly he hopes to end the birth and death of thoughts as
well, so that he can abide forever in a subtle form. At that time a demon
from the heavens seizes the opportunity it has been waiting for. Its
spirit possesses another person and uses him as a mouthpiece to expound
the Sutras and the Dharma. This person, unaware that he is possessed by a
demon, claims he has reached unsurpassed Nirvana. When he comes to see
that good person who seeks long life, he arranges a seat and speaks the
Dharma. He is fond of saying that he can go places and come back without
hindrance, perhaps traveling ten thousand miles and returning in the
twinkling of an eye. He can also bring things back from wherever he goes.
Or he may tell someone to walk from one end of the room to the other, a
distance of just a few paces. Then even if the person walked fast for ten
years, he could not reach the wall. Therefore, people believe in the
possessed person and mistake him for a Buddha. He often says, “All beings
in the ten directions are my children. I gave birth to all Buddhas. I
created the world. I am the original Buddha. I created this world
naturally, not due to cultivation.” This may be a chamunda sent from the
retinue of the demon in the Heaven of Sovereignty, or a youthful pishacha
from the Heaven of the Four Kings that has not yet brought forth the
resolve. It takes advantage of the person’s luminous clarity and devours
his essence and energy. Or perhaps without having to rely on a teacher,
the cultivator personally sees a being that tells him, “I am a Vajra
Spirit who has come to give you long life.” Or the being transforms itself
into a beautiful woman and engages him in lust, so that within a year his
vitality is exhausted. He talks to himself; and to anyone listening he
sounds like a goblin. The people around him do not realize what is
happening. In most cases such a person will get in trouble with the law.
But before he is punished, he will die from depletion. The demon disturbs
and confuses the person to the point of death. You should be aware of this
in advance and not get caught up in the cycle of transmigration. If you
are confused and do not understand, you will fall into the Relentless
Hells.
Thập Vạn Ức Phật Độ: Hundreds
of thousands of millions of Buddha lands.
Thập Vạn Ức Phật Độ, Tây Phương Cực Lạc A
Di Đà: Amitabha’s Paradise in the West, beyond ten thousand
million Buddha-realms.
Thập Vô Biên Tâm: Theo Kinh Hoa
nghiêm, Phẩm 27—Thập Định, có mười môn vô biên tâm của chư Đại Bồ
Tát—According to The Flower Adornment Sutra, Chapter 27, there are ten
kinds of boundless will of Great Enlightening Beings.
1) Phát
tâm vô biên độ thoát tất cả chúng sanh: They awaken the boundless will to
liberate all sentient beings.
2) Phát
tâm vô biên thừa sự tất cả chư Phật: The boundles will to attend all the
Buddhas.
3) Phát
tâm vô biên cúng dường tất cả chư Phật: The boundless will to provide for
all Buddhas.
4) Phát
tâm vô biên thấy khắp tất cả chư Phật: The boundless will to see all
Buddhas.
5) Phát
tâm vô biên thọ trì tất cả Phật pháp chẳng quên mất: The boundless will to
receive and hold all Buddha teachings without forgetting any.
6) Phát
tâm vô biên thị hiện vô lượng thần biến của tất cả chư Phật: The boundless
will to manifest the infinite spiritual metamorphoses of all Buddhas.
7) Phát
tâm vô biên vì được Phật lực nên chẳng bỏ tất cả Bồ Đề hạnh: The boundless
will not to abandon any enlightening practices to attain enlightened
power.
8) Phát
tâm vô biên nhập khắp cảnh giới vi tế của nhứt thiết trí diễn thuyết tất
cả Phật pháp: The boundless will to enter into the subtle realm of all
knowledge and explain all Buddha teachings.
9) Phát
tâm vô biên nhập khắp cảnh giới quảng đại bất tư nghì của Phật: The
boundless will to enter into the inconceivable vast realm of Buddhahood.
10) Tâm vô
biên thứ mười—The tenth boundless will:
a. Phát
tâm vô biên ham thích biện tài của Phật và lãnh thọ các Phật pháp: To
develop profound aspiration for the Buddhas’ powers of elucidation and
receive all Buddha teachings
b. Thị
hiện những thân tự tại vào trong chúng hội đạo tràng của tất cả Như Lai:
To manifest all kinds of free bodies and enter the circles of all
Enlightened Ones.
Thập Vô Cầu Hạnh: See Ten
Non-Seeking Practices.
Thập Vô Lượng Sự: Ten infinite
things—Mười Vô Lượng Sự—Theo Đức Phật trong Kinh Hoa Nghiêm, Đức Như Lai
Chánh Đẳng Chánh Giác, chẳng phải do một duyên một sự, mà Như Lai xuất
hiện được thành tựu là do mười vô lượng sự—According to the Buddha in The
Flower Ornament Scripture, the Buddha, the one who realizes Thusness, the
worthy, the truly awake, becomes manifest, not by one condition, not by
one phenomenon, but by means of infinite phenomena. It is accomplished by
ten infinities of things.
1) Thành
tựu là do quá khứ vô lượng bồ đề tâm nhiếp thọ tất cả chúng sanh: It is
accomplished by the mind of enlightenment that took care of infinite
sentient beings in the past.
2) Thành
tựu là do quá khứ vô lượng chí nguyện thanh tịnh thù thắng: It is
accomplished by the infinite supreme aspirations of the past.
3) Thành
tựu do quá khứ vô lượng đại từ đại bi cứu hộ tất cả chúng sanh: It is
accomplished by great benevolence and compassion, which infinitely save
all sentient beings in the past.
4) Thành
tựu là do quá khứ vô lượng hạnh nguyện tương tục: It is accomplsihed by
infinite continuous commitments of the past.
5) Thành
tựu là do quá khứ vô lượng tu các phước trí tâm không nhàm đủ: It is
accomplished by infinite cultivation of virtues and knowledge tirelessly
in the past.
6) Thành
tựu là do quá khứ vô lượng cúng dường chư Phật và giáo hóa chúng sanh: It
is accomplished by infinite services of Buddhas and education of sentient
beings in the past.
7) Thành
tựu là do vô lượng quá khứ trí huệ phương tiện thanh tịnh đạo: It is
accomplished by infinite pure paths of wisdom and means in the past.
8) Thành
tựu là do quá khứ vô lượng thanh tịnh công đức tạng: It is accomplished by
infinite pure virtues of the past.
9) Thành tựu là do quá khứ vô lượng trang nghiêm đạo trí: It is
accomplished by infinite ways of adornment in the past.
9) Thành
tựu là do quá khứ vô lượng thông đạt pháp nghĩa làm thành: It is
accomplished by infinite comprehensions of principles and meanings in the
past.
Thập Vô Tận Nguyện:
Dasanishthapada (skt)—Mười lời nguyện vô tận của một vị Bồ Tát ở Hoan Hỷ
Địa. Các lời nguyện được gọi là vô tận vì đối tượng của chúng thuộc bản
chất như thế. Vì cả mười thế giới kể dưới đây sẽ không bao giờ dứt tận, và
hễ chừng nào chúng còn tiếp tục hiện hữu thì vị Bồ Tát vẫn sẽ thực hiện
các đại nguyện của mình với năng lực và sự cả quyết—Ten Inexhaustible Vows
to be made by the Bodhisattva at the Stage of Joy. The vows are called
“inexhaustible” because their objectives are of such nature. Because all
the ten worlds will never come to an end, and as long as they continue to
exist, the Bodhisattva will never put forward his great vows with energy
and determination.
1) Vô
Sinh Giới hay thế giới của các chúng sanh: Sattvadhatu (skt)—The world of
beings.
2) Thế
giới nầy: Lokadhatu (skt)—This world.
3) Hư
Không Giới (không gian, hu không): Akasadhatu (skt)—Space.
4) Pháp
Giới (thế giới trong đó Pháp là thù thắng): Dharmadhatu (skt)—The world
where Dharma prevails.
5) Niết
Bàn Giới (thế giới Niết Bàn): Nirvanadhatu (skt)—Nirvana-world.
6) Phật
Xuất Hiện Giới (thế giới mà ở dó Đức Phật ra đời): Buddhotpadhatu
(skt)—The world where the Buddha is born.
7) Như
Lai Trí Giới (thế giới của Như Lai trí): Tathagatajnanadhatu (skt)—The
world of Tathagata-knowledge.
8) Tâm Sở
Duyên Thế Giới (thế giới làm đối tượng của ý tưởng): Cittalambanadhatu
(skt)—The world as the object of thought.
9) Phật
Trí Sở Nhập Cảnh Giới Giới (thế giới làm đối tượng của Phật trí):
Buddhavishayajnanadhatu (skt)—The world as the object of Buddha-knowledge.
10) Thế Gian
Chuyển Pháp Luân Trí Chuyển Giới (thế giới mà ở đó cuộc đời trần tục nầy
Pháp và Phật trí phát sanh): Lokavartani-dharmavartani-jnanavartani-dhatu
(skt)—The world where this worldly life, the Dharma and the
Buddha-knowledge are evolved.
Thập Vô Tận Tạng: Ten
inexhaustible treasures—Theo Kinh Hoa Nghiêm, Phẩm 18, có mười vô tận tạng
thành đạt bởi chư Bồ Tát khi các Ngài thành tựu đầy đủ mười
nguyện—According to the Flower Adornment Sutra, Chapter 18, there are ten
inexhaustible treasuries attained by enlightening beings once they have
fulfilled ten vows.
1) Vô tận
tạng thấy khắp chư Phật: Perception of all the Buddhas.
2) Tổng
trì chẳng quên: Perfect memory power.
3) Quyết
rõ các pháp: Certain understanding of all the teachings.
4) Đại bi
cứu độ: Compassion salvation.
5) Các
môn tam muội: Various states of concentration.
6) Phước
đức rộng lớn làm thỏa mãn lòng chúng sanh: Extensive blessings and virtues
satisfying the hearts of all beings.
7) Trí
huệ rất sâu có khả năng giải bày tất cả các pháp: Profound knowledge to
expound all truths.
8) Báo
được thần thông: Spiritual powers gained as a consequences of practice.
9) Trụ vô
lượng kiếp: Subsistence for immeasurable eons.
10) Nhập vô
biên thế giới: Entry into boundless worlds.
** For more information, please see Ten principles which help
enlightening beings fulfill their great vows.
Thập Vô Úy: Ten kinds of
fearlessness—See Mười Vô Úy Của Chư Đại Bồ Tát.
Thập Y Chỉ: Theo Kinh Hoa
Nghiêm, Phẩm 38, có mười y chỉ mà chư Đại Bồ Tát đều phải nương theo để
thực hành hạnh Bồ Tát—According to the Flower Adornment Sutra, Chapter 38,
there are ten kinds of basis on which Great Enlightening Beings carry out
their practices.
1) Y chỉ
cúng dường tất cả chư Phật thực hành hạnh Bồ Tát: They carry out the
practices of Enlightening Beings based on honoring all Buddhas.
2) Y chỉ
điều phục tất cả chúng sanh thực hành hạnh Bồ Tát: They carry out the
practices of taming all sentient beings.
3) Y chỉ
gần gủi tất cả thiện hữu thực hành hạnh Bồ Tát: Associating with all good
companions.
4) Y chỉ
chứa nhóm tất cả thiện căn thực hành hạnh Bồ Tát: Accumulating all roots
of goodness.
5) Y chỉ
nghiêm tịnh tất cả cõi Phật thực hành hạnh Bồ Tát: Purifying all
Buddha-lands.
6) Y chỉ
chẳng lìa bỏ tất cả chúng sanh thực hành hạnh Bồ Tát: Not to abandon all
sentient beings.
7) Y chỉ
thâm nhập tất cả Ba La Mật thực hành hạnh Bồ Tát: Entering deeply into all
transcendent ways.
8) Y chỉ
đầy đủ tất cả Bồ Tát nguyện thực hành hạnh Bồ Tát: Fulfilling vows of
Enlightening Beings.
9) Y chỉ
vô lượng Bồ Đề tâm thực hành hạnh Bồ Tát: Infinite will for enlightenment.
10) Y chỉ
vô lượng Phật Bồ Đề thực hành hạnh Bồ Tát: Enlightenment of all Buddhas.
THẤT
Thất:
1) Bảy:
Sapta (skt)—Seven.
2) Mất:
To lose.
3) Nhà:
House—Household—Abode.
Thất Ác: Bảy điều ác—Seven
evils (sins)—Three sins of the body and four of speech:
A. BODY:
1) Sát
sanh: Killing.
2) Trộm
cướp: Robbing.
3) Tà
dâm: Adultery.
B. SPEECH:
4) Nói
dối: Lying.
5) Nói
lời chia rẽ: Slander.
6) Nói
lời lấn lướt độc ác: Abuse.
7) Nói
lời vô ích: Double-tongue (vain conversation).
Thất Bách Hiền Thánh: Bảy trăm
vị Thánh Tăng trong lần Kiết Tập Kinh Điển lần thứ hai tại thành Xá Vệ—The
700 disciples who met in the Second Council (Synod) at Vaisali.
Thất Bách Kiết Tập: See Thất
Bách Hiền Thánh.
Thất Bại: Failure.
Thất Bảo: Sapta ratna (skt)—The
seven treasures or precious things. :
(A) Thất Bảo
trong Kinh A Di Đà—The seven treasures in Amitabha Sutra:
1) Kim:
Gold.
2) Ngân:
Silver.
3) Lưu
ly: Lapis lazuli.
4) Pha
lê: Crystal.
5) Xa cừ:
Agate—Mother of pearl.
6) Xích
châu: Rubies or red pearls.
7) Mã
não: Cornelian.
(B) Bảy nhân
vật quí vô giá của vị Chuyển Luân Thánh Vương trong Kinh Đại Bát Niết
Bàn—Seven sages of a Wheel-Turning Sage King in the Maha-Paranirvana
Sutra:
1) Nữ Bảo
(Bà vợ đẹp và hiền đức): The woman jewel.
2) Tượng
Bảo (Voi báu): The elephant jewel.
3) Mã Bảo
(Ngựa báu): The horse jewel.
4) Chủ
tạng thần (Vị quan giữ kho tàng): The minister jewel.
5) Chủ
binh thần (Vị quan giữ binh quyền): The army jewel.
6) Luân
Bảo (Xe báu dùng đi hàng phục thiên hạ): The chariot jewel.
7) Châu
báu: The Mani (treasure) jewel.
Thất Bảo Thụ Lâm: Rừng cây bảy
báu (một phần của Tịnh Độ)—The grove of jewel trees—Trees of the seven
precious things (part of the Pure Land).
Thất Bát Hành: Sự thực hành
Thất Bồ đề phần và Bát Thánh đạo—The practice of the seven bodhyanga and
the eight marga.
Thất Bất Khả Tị: Bảy điều không
tránh khỏi—The seven unavoidable:
1) Tái
sanh chẳng thể tránh được: Rebirth is unavoidable.
2) Già
chẳng tránh được: Old age is unavoidable.
3) Bịnh
chẳng tránh được: Sickness is unavoidable.
4) Chết
chẳng tránh được: Death is unavoidable.
5) Tội
chẳng tránh được: Punishment for sins is unavoidable.
6) Phước
chẳng tránh được: Happiness for goodness is unavoidable.
7) Nhơn
duyên chẳng tránh được: Consequences or Cause and effect are unavoidable.
Thất Bất Tịnh Quán: Seven Types
of Meditation on Impurity—See Thất Pháp Bất Tịnh Quán.
Thất Bố Thí: Seven kinds of
dana or charity—See Thất Chủng Bố Thí.
Thất Bồ Đề Phần: Thất giác
chi—The seven Bodhyanga—Seven characteristics of bodhi—Seven bodhi
shares—Seven limbs of enlightenment.
(A)
1) Chánh
niệm (tỉnh thức): Mindfulness.
2) Trạch
pháp: Investigation of (choosing) the dharma—Discriminative investigation
of the Dharma.
3) Tinh
tấn: Zeal—Vigor.
4) Hỷ
lạc: Joy.
5) Thanh
tịnh thân tâm: Tranquility of body and mind—Ease of body and mind.
6) Thiền
đinh: Concentration.
7) Tịnh
mặc: Equanimity—Serenity.
(B)
1) Trạch
pháp: Dharma-pravicaya-sambodh-yanga—Phân biệt đúng sai—Discrimination of
the true and the false.
2) Tinh
tấn: Virya-sambodhi—Zeal or understood progress.
3) Hỷ:
Priti-sambodhi—Joy—Delight.
4) Khinh
an: Prasrabdhi-sambodhi—Trút được gánh nặng dục vọng mê mờ cho thân tâm
nhẹ nhàng an tịnh—Riddance of all passions and ignorance and grossness or
weight of body or mind, so that they may be light or free and at ease.
5) Niệm:
Smrti-sambodhi—Khả năng ghi nhớ những trạng thái an tịnh qua thiền
quán—Power of remembering the various peaceful and purified states passed
through in contemplation.
6) Định:
Samadhi-sambodhi—Khả năng giữ tâm tập trung chuyên chú—Power to keep the
mind in a given realm undiverted.
7) Hành
xả: Upeksa-sambodhi—Hoàn toàn buông bỏ—Complete abandonment—Dửng dưng
trước mọi phiền toái—Indifference to all disturbances of subconscious or
ecstatic mind.
** For more information,
please see Thất
Giác Chi.
Thất Bộ Xà: Loại rắn cắn chết
người trước khi bước được bảy bước—A snake of which bite brings death
before seven steps can be taken.
Thất Cách: Improper.
Thất Câu Chỉ Phật Mẫu Tôn:
Saptakotibuddha-matr (skt)—The fabulous mother of seven kotis of Buddhas.
Thất Cấu: Bảy điều ô nhiễm—The
seven defilements:
1) Tham
dục: Desire.
2) Si mê:
Ignorance or stupidity.
3) Ngã
mạn cống cao: Pride and Arrogance.
4) Thụy
miên Hôn trầm: Torpor
5) Nghi
hoặc: Doubt.
6) Tà
kiến: Wrong (false) views.
7) Bỏn
xẻn: Stinginess.
Thất Chi: Bảy tội nơi thân và
khẩu—The seven spreading branches of sins (three sins of the body and four
sins of speech):
(A) Thân
tam—Three sins of the body:
1) Sát
sanh: killing.
2) Trộm
cắp: Stealing or robber.
3) Tà
dâm: Adultery.
(B) Khẩu
tứ—Four sins of speech:
4) Nói
dối: lying.
5) Nói
lời vu khống phỉ báng: Slander.
6) Lợi
dụng: Abuse.
7) Nói
lưỡi hai chiều nói lời vô ích: Double-tongue or vain conversation.
Thất Chi Nghiệp: Nghiệp gây tạo
bởi bảy tội nơi thân và khẩu—The karma resulting from the seven sins of
the body and the mouth—For more information, please see Thất Chi in
Vietnamese-English Section.
Thất Chí: Unsatisfied.
Thất Chúng: Bảy chúng đệ
tử—Seven classes of disciples:
(A) Chúng
xuất gia—Those who have left home:
1) Tỳ
kheo: Bhiksu—A monk.
2) Tỳ
kheo ni: Bhiksuni—A female observer of all the commandments.
3) Thức
xoa ma na: Siksamana—A novice nun—A novice or observer of the six
commandments.
4) Sa di:
Sramanera—A male observer of the minor commandments.
5) Sa di
ni: Sramanerika (skt)—A female observer of the minor commandments.
(B) Chúng
tại gia—Those who still remain at home:
6) Ưu bà
tắc: Upasaka—Nam cư sĩ—Lay man.
7) Ưu bà
di: Upasika—Nữ cư sĩ---Lay woman.
Thất Chủng Bất Tịnh: Bảy loại
bất tịnh—The seven kinds of imcleanness:
1) Chủng
tử bất tịnh: Hạt giống chẳng sạch (nghiệp nhân phiền não là giống bên
trong và thể xác cha mẹ là giống bên ngoài đều bất tịnh)—Unclean parental
seed.
2) Thọ
sanh bất tịnh (cha mẹ giao cấu, huyết đỏ huyết trắng chẳng sạch): Parental
intercourse is unclean.
3) Trụ xứ
bất tịnh (chín tháng trong thai chẳng sạch): The womb is unclean.
4) Thực
hám bất tịnh (ăn uống chẳng sạch): The pre-natal blood of the mother is
not clean.
5) Sơ
sanh bất tịnh (Lúc mới sanh chẳng sạch): Birth is not clean.
6) Thân
thể chẳng sạch: One’s own flesh is not clean.
7) Cứu
cánh bất tịnh (Cuối cùng thì toàn thân
thối rửa bất tịnh): One’s own putrid corpse is not clean at all.
Thất Chủng Bố Thí: Bảy loại bố
thí—Seven kinds of dana or almsgiving:
(A)
1) Bố thí
cho khách lạ hay cho người lận đận chốn tha hương: Almsgiving to visitors
or callers.
2) Bố thí
cho người đi đường: Almsgiving to travellers.
3) Bố thí
cho người ốm đau bịnh hoạn: Almsgiving to the sick.
4) Bố thí
cho người hầu bịnh (trông nom người bệnh): Almsgiving to the nurses.
5) Bố thí
cho tịnh xá chùa chiền: Almsgiving to the monasteries.
6) Bố thí
(cúng dường) đồ ăn thường ngày cho chư Tăng Ni: Almsgiving of daily food
to the monks and nuns.
7) Tùy
thời tùy lúc bố thí (nóng, lạnh, gió bão…): General almsgiving of clothing
and food according to season.
(B)
1) Bố thí
Thân: The physical offering—Bố thí thân, dùng thân mình để phục vụ—This is
to offer service by one’s labor.
2) Bố thí
Tâm: The spiritual offering—Dùng tâm từ bi ban rãi cho người khác—This is
to offer a compassionate heart to others.
3) Bố thí
Mắt: Offering of eyes—Một cái nhìn nồng ấm có thể làm cho tha nhân cảm
thấy an tịnh—This is to offer a warm glance to others which will give
them tranquility.
4) Bố thí
hòa tu (nụ cười hiền hòa): The offering of Countenance—Ban cho một nụ cười
hiền hòa êm dịu—To offer a soft countenance with smile to others.
5) Ngôn
thí: The oral offering—Dùng lời ái ngữ nồng ấm làm cho người yên vui—To
offer kind and warm words to relieve others.
6) Sàng
tọa thí (bố thí chỗ ngồi): The seat offering—Nhường chỗ cho người—To offer
one’s seat to others.
7) Phòng
xá thí: To offer the shelter—Cho phép ai ngủ qua đêm—To let others spend
the night at one’s home.
Thất Chủng Cúng Dường Tăng Chúng:
Seven kinds of offerings made to the Sangha—See Bảy Loại Cúng Dường Cho
Tăng Chúng.
Thất Chủng Hữu: Bảy loại hiện
hữu trong thế giới loài người hay trong bất cứ dục giới nào—The seven
stages of existence in a human world or in any desire world:
1) Địa
ngục hữu: In the hells.
2) Súc
sanh hữu: As animals.
3) Ngạ
quỷ hữu: In the hungry ghosts.
4) Thiên
hữu: In the Devas.
5) Nhơn
hữu: In the human beings.
6) Nghiệp
hữu: Karma.
7) Thân
trung ấm hữu: In the intermediate stage.
Thất Chủng Không: Seven kinds
of Emptiness—Trong Kinh Lăng Già, Đức Thế Tôn đã nhắc tôn giả Mahamati về
bảy loại không: “Này Mahamati, hãy lắng nghe những gì ta sắp nói cho ông
biết. Cái ý niệm về ‘không’ thuộc phạm vi của sự sáng kiến tưởng tượng
hay biến kế sở chấp, và vì người ta có thể chấp vào thuật ngữ của phạm vi
nầy nên chúng ta có các học thuyết về ‘không,’ ‘bất sinh, ‘bất nhị,’ vô tự
tính,’ với quan điểm giải thoát chúng ta khỏi sự chấp thủ.” Một cách vắn
tắt có bảy loại không—In The Lankavatara Sutra, the Buddha reminded
Mahamati about ‘Emptiness’ as thus: “Listen, Mahamati, to what I tell you.
The idea of Sunyata belongs to the domain of imaginative contrivance, and
as people are apt to cling to the terminology of this domain, we have the
doctrines of Sunyata, Anutpada, Advaya, and Nihsvabhava, i.e., with the
view of freeing from the clinging.” Briefly, there are seven kinds of
Emptiness.
1) Tướng
Không (cái Không về Tướng): Lakshana (skt): Emptiness of Appearance—Cái
không về tướng nghĩa là gì? Sự hiện hữu được định tính bằng sự tùy thuộc
lẫn nhau; tính đặc thù và tính phổ quát đều không có khi cái nầy được xem
là tách biệt với cái kia, khi các sự vật được phân tích cho đến mức độ
cuối cùng thì người ta sẽ hiểu rằng chúng không hiện hữu; cuối cùng,
không có những khía cạnh của đặc thù như ‘cái nầy,’ ‘cái kia’ hay ‘cả
hai;’ không có những dấu hiệu sai biệt cực vi tối hậu. Vì lý do nầy nên
bảo rằng tự tướng là không, nghĩa là tướng không phải là một sự kiện tối
hậu—What is meant by Emptiness of Appearance? Existence is characterized
by mutual dependence; individuality and generality are empty when one is
regarded apart from the other; when things are analyzed to the last
degree, they are to be comprehended as not existent; there are, after all,
no aspects of individuation such as “this,” “that,” or “both;” there are
no ultimate irreducible marks of differentiation. For this reason, it is
said that self-appearance is empty. By this is meant that appearance is
not a final fact.
2) Tự
Tính Không (cái Không về Tự Tính): Bhavasbhava (skt)—Emptiness of
self-substance—Cái không về tự tính nghĩa là gì? Đấy là vì không có sự
sinh ra của ngã thể, tức là sự đặc thù hóa là cấu trúc của tự tâm chúng
ta. Nếu chúng ta nghĩ rằng thực ra những sự vật đặc thù như thế chỉ là ảo
tưởng, chúng không có tự tính, do đó mà bảo rằng chúng là không—What is
meant by Emptiness of Self-substance? It is because there is no birth of
self-substance by itself. That is to say, individualization is the
construction of our own mind; to think that there are in reality
individual objects as such, is an illusion; they have no self-substance,
therefore, they are said to be empty.
3) Vô
Hành Không (cái Không về Vô Hành): Apracarita (skt)—Emptiness of
Non-action—Cái không về vô hành nghĩa là gì? Từ lúc đầu tiên, có Niết bàn
được chứa trong tất cả các uẩn mà không để lộ ra dấu hiệu gì về hoạt tính
cả, tức là những hoạt động của uẩn như các giác quan của chúng ta nhận
thức đều không thật trong tự bản chất, chúng là im lặng và không hành tác.
Do đó chúng ta nói đến sự vô hành của các uẩn là cái được định tính là
không—What is meant by Emptiness of Non-action? It means that harboured in
all the Skandhas there is, from the first, Nirvana which betrays no sign
of activity. That is, their activities as perceived by our senses are not
real, they are in their nature quiet and not doing. Therefore, we speak
of non-acting of the Skandhas, which is characterized as emptiness.
4) Hành
Không (cái Không về Hành): Pracarita (skt)—Emptiness of action—Cái không
về hành nghĩa là gì? Tất cả các uẩn thoát khỏi cái ngã tính và tất cả
những gì thuộc về ngã tính, và rằng mọi hoạt động mà chúng biểu hiện đều
do bởi sự tập hợp của các nguyên nhân và điều kiện hay nhân duyên, nghĩa
là tự chúng không phải là những nhân tố sáng tạo độc lập, chúng không có
cái gì để có thể tuyên bố là thuộc cái “ngã” của chúng, và hoạt động tạo
nghiệp của chúng được sinh ra bởi sự nối kết của nhiều nguyên nhân hay sự
kiện. Vì lý do ấy nên có cái mà ta nêu định là Không về Hành—What is meant
by the Emptiness of Action? It means that the Skandhas are free of
selfhood and all that belongs to selfhood, and that whatever activities
are manifested by them are due to the combination of causes and
conditions. That is, they are not by themselves independent creating
agencies, they have nothing which they can claim as belonging to their
“self,” and their karmic activities are generated by the conjunction of
many causes or accidents. For which reason there is what we designate the
Emptiness of Action.
5) Nhất
thiết pháp bất khả thuyết không (cái Không với ý nghĩa là không thể gọi
tên của Hiện Hữu): Sarvadharma (skt)—Emptiness by which is meant the
Unnamability of Existence—Cái không về sự bất khả thuyết của tất cả các
sự vật nghĩa là gì? Vì sự hiện hữu nầy phụ thuộc vào sáng kiến tưởng tượng
hay biến kế sở chấp của chúng ta nên không có tự tính nào trong nó có thể
được gọi tên và được miêu tả bởi cú pháp của trí tương đối của chúng
ta—What is meant by the Emptiness of the Unnamability (có thể được gọi
tên) of All Things? As this existence is dependent upon our imaginative
contrivance, there is no self-substance in it which can be named and
described by the phraseology of our relative knowledge. This unnamability
is designated here as a form of emptiness.
6) Đệ
nhất nghĩa đế Không (cái không của cấp độ tối thượng, nghĩa là thực tính
tối hậu hay Thánh trí): Paramartra (skt)—Emptiness of the highest degree
by which is meant Ultimate Reality or Supreme Wisdom—Cái không về thực
tính tối hậu nghĩa là gì? Khi trí tuệ tối thượng được thể chứng trong tâm
thức nội tại của chúng ta, bấy giờ chúng ta sẽ thấy rằng tất cả mọi lý
thuyết, ý niệm sai lầm, và tất cả những dấu vết của tập khí từ vô thỉ đều
bị tẩy sạch và hoàn toàn trống không—What is meant by Great Emptiness of
Ultimate Reality, which is Supreme Wisdom. When the supreme wisdom is
realized in our inner consciousness, it will then be found that all the
theories, wrong ideas, and all the traces of beginningless memory are
altogether wiped out and perfectly empty. This is another form of
emptiness.
7) Bỉ Bỉ
Không (cái không về sự hỗ tương): Itaretara (skt)—Emptiness of
Reciprocity—Cái không về sự hỗ tương nghĩa là gì? Khi bất cứ một tính chất
nào mà một sự vật có, nhưng tính chất nầy lại không có trong một sự vật
khác, thì sự thiếu vắng nầy được nêu định là không. Chẳng hạn như trong
nhà của Lộc Mẫu không có voi, trâu, bò, cừu, vân vân, ta bảo cái nhà nầy
trống không. Điều nầy không có nghĩa là không có các Tỳ Kheo ở đây. Các Tỳ
Kheo là các Tỳ Kheo, nhà là nhà, mỗi thứ đều có đặc tính riêng của nó. Còn
về voi, ngựa, trâu, bò, vân vân chúng sẽ được tìm thấy ở nơi riêng dành
cho chúng, chúng chỉ không có mặt ở nơi được dành cho mọi người ở đây.
Theo cách như thế thì mỗi sự vật có những đặc trưng riêng của nó mà nhờ đó
nó được phân biệt với sự vật khác, vì những đặc trưng ấy không có trong
các sự vật khác. Sự thiếu vắng ấy được gọi là cái không hỗ tương—What is
meant by Emptiness of Reciprocity? When whatever quality possessed by one
thing is lacking in another, this absence is designated as emptiness. For
instance, in the house of Srigalamatri there are no elephants, no cattle,
no sheep, etc., and I call this house empty. This does not mean that there
are no Bhiksus here. The Bhiksus are Bhiksus, the house is the house, each
retaining its own characteristics. As to elephants, horses, cattle, etc.,
they will be found where they properly belong, only they are absent in a
place which is properly occupied by somebody else. In this manner, each
object has its special features by which it is distinguished from another,
as they are not found in the latter. This absence is called Emptiness of
Reciprocity.
Thất Chủng Phu Nhân: Theo Kinh
Tăng Nhứt A Hàm, Đức Phật dạy: “Có bảy loại phu nhân,” hay bảy loại
vợ—According to the Anguttara Nikaya Sutra, the Buddha commented: “There
are seven kinds of wives.”
1) Loại
vợ gây phiền chuốc não cho chồng: Vadhakabhariya (p)—Kẻ ấy không có lòng
trắc ẩn, tâm hồn đồi bại, không ngó ngàng chăm sóc chồng, không nhã nhặn
ôn hòa. Kẻ ấy thường hay khêu gợi và làm chuyện trắc nết—A troublesome
wife who is wicked in mind, ill-disposed, pitiless, fond of other men,
neglecting husband, prostitute, and bent on harassing.
2) Loại
vợ núp dưới hình thức một tên trộm: Corabhariya (p)—Kẻ trộm cắp của chồng,
của chồng cố công tạo ra hay buôn bán sinh lợi, dù ít dù nhiều, kẻ ấy đều
muốn lén lút bòn rút của chồng—A thievish wife who wishes to squander
whatever profits, though little, that the husband gains whether by crafts,
trade, or plough.
3) Một bà
chủ: Ayyabhariya (p)—Kẻ lười biếng, tham ăn, cả ngày không làm gì, chỉ
ngồi lê đôi mách, hay la lối gắt gỏng chồng, không bao giờ để ý đến công
lao khổ nhọc và sự chuyên cần của chồng—A lordly wife who is not inclined
to do anything, lazy, gluttonous, harsh, cruel, fond of bad speech, lives
domineering the industrious.
4) Loại
vợ chăm sóc cho chồng như một bà mẹ: Matubhariya (p)—Người đối xử với
chồng bằng tình thương, bảo vệ chồng như bà mẹ bảo vệ con. Luôn săn sóc và
gìn giữ của cải của chồng—A motherly wife who is ever kind and
compassionate, protects her husband as a mother protects her son. She
guards and accumulates wealth of her husband.
5) Loại
vợ đối với chồng như một đứa em gái chăm sóc cho anh trai: Bhaginibhariya
(p)—Kính nể chồng như em gái kính nể anh trai, tâm tánh ôn hòa và hết lòng
phục vụ mọi ý muốn của chồng—A sisterly wife who is respectful towards her
husband just as a younger sister towards her elder brother, modest, lives
in accordance with her husband’s wishes.
6) Loại
vợ đối với chồng như một người bạn: Sakhibhariya (p)—Loại vợ luôn vui vẻ
hân hoan. Mỗi khi thấy chồng như gặp lại người bạn thân đã lâu năm không
gặp. Con người ấy duyên dáng dịu hiền, vừa là một người vợ trung trinh
tiết liệt, mà cũng là một người cộng sự dễ mến—A friendly wife who
rejoices at the sight of her husband even as a friend on seeing a
companion who has come after a long period of time, is of noble birth. She
is not only a virtuous and chaste wife, but she is also an excellent
companion.
7) Loại
vợ phục vụ chồng như một người tớ gái: Dasibhariya (p)—Loại vợ nầy dầu có
bị hăm dọa hay đánh đập cũng không sợ hãi, không xúc động. Im lặng chịu
đựng tất cả, luôn giữ tâm thanh khiết, và luôn vâng lời chồng, không bao
giờ sân hận—A maid wife who, when threatened with harm and punishment, is
not angry but calm, endures all things of her husband with no wicked
heart, free from hatred, lives in accordance with her husband’s wishes.
Thất Chủng Tâm Sám Hối: The
seven mental attitudes in penitential meditation or worship:
1) Cảm
thấy xấu hổ vì chưa thoát được luân hồi sanh tử: Shame for not yet being
free from mortality.
2) Cảm
thấy sợ hãi trước những khổ đau của địa ngục: Fear of the pains of hells.
3) Tránh
xa thế giới ác độc: Turning from the evil world.
4) Mong
cầu xuất gia giác ngộ: Desire for renunciation and enlightenment.
5) Tình
thương không phân biệt: Impartiality in love to all.
6) Cảm vì
ân đức của Phật: Gratitude to the Buddha.
7) Thiền
quán để thấy rõ bản chất không thật của tội lỗi; tội lỗi khởi lên từ sự tà
vạy và không có thực hữu: Meditation on the unreality of the sin-nature,
that sin arises from perversion and that it has no real existence.
Thất Chủng Tự Tánh: Theo Kinh
Lăng Già, có bảy loại tự tánh—According to The Lankavatara Sutra, there
are seven types of self-nature (svabhava):
1) Tập Tự
Tánh: Amudayasvabhava (skt)—Sự tập hợp hay tụ tập—Collection or aggregate.
2) Tánh
Tự Tánh: Bhavasvabhava (skt)—Hữu thể hay sự hiện hữu—Being—Existence.
3) Tướng
Tự Tánh: Lakshanasvabhava (skt)—Dấu hiệu hay cái tượng trưng—Sign—Symbol.
4) Đại
Chủng Tự Tánh: Mahabhutasvabhava (skt)—Các thành tố—The elements.
5) Nhân
Tự Tánh: Hetusvabhava (skt)—Nguyên nhân hay lý do—Cause or reason.
6) Duyên
Tự Tánh: Pratyayasvabhava (skt)—Điều kiện hay duyên—Condition—Causation.
7) Thành
Tự Tánh: Nishpattisvabhava (skt)—Sự hoàn thành hay sự toàn hảo—Perfection.
Thất Chủng Vô Thượng: See Thất
thắng sự in Vietnamese-English Section.
Thất Chủng Xả: Bảy loại xả
bỏ—Seven abandonments or riddances:
1) Tâm
tánh bình đẳng, xả bỏ ghét thương: Cherishing non and nothing.
2) Xả bỏ
kẻ thân người thù: No relations with others.
3) Xả bỏ
lỗi lầm thương ghét gây ra bởi tham, sân, si…: Riddance of love and hate.
4) Xả bỏ
lo âu về lợi tha: Riddance of anxiety about the salvation of others.
5) Xả bỏ
chấp tướng: Riddance of the clinging of form.
6) Xả bỏ
mọi vui sướng của mình, đem thí cho người: Giving to others.
7) Làm
lợi cho kẻ khác mà không mong đền đáp: Benefitting others without hope of
return.
Thất Cơ: To miss the
opportunity.
Thất Diệp Nghiêm: See Thất Diệp
Thụ in Vietnamese-English Section.
Thất Diệp Thụ: Cây Bảy Lá mọc
dưới hang đá nơi mà người ta cho rằng đã xãy ra cuộc kết tập kinh điển lần
đầu tiên ngay sau khi Đức Phật nhập diệt, để tưởng nhớ và quyết định ghi
lại những lời dạy dỗ của Ngài—The “Seven-leaf-tree” that grew in the cave
beneath which the first Council (Synod) is said to have been held after
the Buddha’s death, to recall and determine his teaching.
Thất Diệt Tranh Pháp: Theo Kinh
Phúng Tụng trong Trường Bộ Kinh, có bảy pháp dùng để hòa giải mỗi khi có
sự tranh cãi giữa chư Tăng—Saptadhikarana-samatha (skt)—According to the
Sangiti Sutta in the Long Discourses of the Buddha, there are seven rules
given in the Vinaya for settling disputes among monks (disputes arise from
arguments, misconduct, judgment and punishment, correctness of a religious
observance)—Seven rules for the participation and settlement of disputed
questions that have been raised:
1) Tự
Thuận: Ưng dữ hiện tiền tỳ ni—Sammukha-vinaya (skt)—Face to face evidence,
or appeal to the law—Cho hai tu sĩ tranh chấp đối diện nhau để thanh minh
và giải quyết vấn đề—To place the two quarrelling monks face to face in
order to clarify and solve the problem.
2) Ức
Niệm: Ưng dữ ức niệm tỳ ni (có chứng cớ rằng mình không biết hay không
nhớ)—Smrti-vinaya (skt)—no witness or proof—No recollection—Làm cho một
người nhìn nhận rằng mình không còn nhớ gì về vấn đề đã tranh chấp nữa—To
make one admit that his memory had failed in regard to the point of
dispute.
3) Bất
Tri: Ưng dữ bất tri tỳ ni (nói quyết rằng tâm trí không bình thường khi
xãy ra tranh chấp)—Amudha-vinaya (skt)—Irresponsibility—Mental
derangement—Làm cho một bên nhìn nhận rằng tâm trí mình không bình thường
khi xãy ra tranh chấp—To make a monk admit that he was not in his normal
mind when the point of dispute arose.
4) Đa
Nhơn Mích Tội: Chuyển lên giáo hội phân xử bằng biểu quyết của đa
số—Pratijnakaraka-vinaya (skt)—Decision by majority vote or verdict.
5) Ưng Dữ
Tự Ngôn Trị: Tự ăn năn xin lỗi—Tatsvabhavaisiya-vinaya (skt)—Voluntary
confession or formality of confession.
6) Đa
Mích Tội Tướng: Yadbhuyasikiya-vinaya (skt)—Quanh co thoái thác và Tăng
chúng sẽ hỏi đi hỏi lại ba lần trước khi quyết định hình phạt—Condemnation
of unconfessioned sin, make a statement and ask thrice for judgment.
7) Như
Thảo Phú Địa: Cùng niệm Phật khỏa lấp—Trnastaraka-vinaya (skt)—Covering
the mud with straw—Covering over with grass—Tránh để cho nhiều người biết
về sự tranh chấp trong Tăng đoàn—The avoidance of publicity to a dispute
within the Sangha.
Thất Diệu: Graha (skt)—The sun,
moon, and five graha or planets.
1) Mặt
trời: The sun.
2) Mặt
trăng: The moon.
3) Kim
Tinh: Venus.
4) Mộc
tinh: Jupiter.
5) Thủy
tinh: Mercury.
6) Hỏa
Tinh: Mars.
7) Thổ
tinh: Saturn.
Thất Diệu Pháp: Saddhamma
(p)—Theo Kinh Phúng Tụng trong Trường Bộ Kinh, có bảy diệu pháp—According
to the Sangiti Sutta in the Long Discourses of the Buddha, there are seven
right practices:
1) Ở đây
vị Tỳ Kheo có lòng tín: Here a monk who has faith.
2) Ở đây
vị Tỳ Kheo có tàm: Here a monk who has moral shame.
3) Ở đây
vị Tỳ Kheo có quý: Here a monk who has moral dread.
4) Ở đây
vị Tỳ Kheo đa văn: Here a monk who has much learning.
5) Ở đây
vị Tỳ Kheo có tinh tấn: Araddha-viriyo (p)—Here a monk who has aroused
vigour.
6) Ở đây
vị Tỳ Kheo có niệm an trú: Upatthita-sati hoti (p)—Here a monk who has
established mindfulness.
7) Ở đây
vị Tỳ Kheo có trí tuệ: Here a monk who possesses wisdom.
** For more information,
please see Thất Phi
Diệu Pháp.
Thất Đại: Seven elements—Trong
Kinh Thủ Lăng Nghiêm, quyển Ba, Ngài A Nan bạch Phật: “Đức Như Lai thường
giảng về nhân duyên hòa hợp, các sự biến hóa ở thế gian đều nhân tứ đại
hòa hợp, mà phát minh ra. Sao Đức Như Lai lại bài bác cả hai nghĩa nhân
duyên và tự nhiên? Tôi nay không rõ nghĩa ấy thuộc về đâu, xin Phật nhủ
lòng thương, khai thị cho chúng sanh pháp liễu nghĩa không hý luận của
Trung Đạo.” Đức Phật đã dạy ngài A Nan về Thất Đại như sau: “Trước ông đã
chán bỏ các pháp Tiểu Thừa Thanh Văn, Duyên Giác, phát tâm cầu Bồ Đề Vô
Thượng, vì thế nay tôi vì ông khai thị cái pháp cao nhứt, chỉ thẳng chân
lý, sao ông còn đem những hý luận của thế gian như vọng tưởng nhân duyên
mà tự ràng buộc? Ông tuy nghe nhiều, như người nói món thuốc, thuốc thực ở
trước mắt, mà không phân biệt được. Như Lai thấy thật đáng thương. Nay ông
hãy lắng tai nghe, tôi sẽ phân biệt khai thị cho ông, khiến đời sau những
người tu Đại Thừa hiểu rõ thực tướng. Ông A Nan! Như ông nói ‘bốn đại hòa
hợp phát minh ra các thứ biến hóa ở thế gian. Ông A Nan! Nếu các đại nầy,
thể không phải là hòa hợp, thì không thể xen hòa với các đại khác, ví như
hư không chẳng hòa với các sắc. Nếu thể chúng là hòa hợp, thì cùng biến
hóa, trước và sau làm thành ra nhau, sinh diệt nối luôn, sinh tử, tử sinh,
sinh sinh tử tử, ví như cái vòng lửa, đốm lửa quay tít thành vòng. Ông A
Nan! Ví như nước thành băng, rồi băng trở lại thành nước, không ngừng nghỉ
vậy.”—In the Surangama Sutra, book Three, Ananda said to the Buddha,
“World Honored One, the Thus Come One has often spoken of the mixture and
union of causes and conditions, saying that the transformations of
everything in the world are created from the mixing and uniting of the
four elements. Why does the Thus Come One reject causes and conditions and
spontaneity as well? I do not know how to understand your meaning now.
Please be so compassionate as to instruct us living beings in the final
meaning of the Middle Way, in the Dharmas which are not idle theories.”
The Buddha then taught Ananda about the Seven Great Elements as follows:
“Ananda! You have renounced the small vehicle dharmas of the sound-hearers
and those enlightened to conditions and have resolved to diligently seek
unsurpassed Bodhi. Because of that, I will now explain the foremost truth
to you. Why do you still bind yourself up in the idle theories and false
thoughts current among people of the world. Although you are very learned,
you are like someone who can discuss medicines but cannot distinguish a
real medicine when it is placed before you. The Thus Come One says that
you are truly pitiful. Listen attentively now as I explain this point in
detail for you and also for those of the future who cultivate the Great
Vehicle, so that you all can penetrate to the real appearance.Ananda!
According to what you said, the mixing and uniting of the four elements
create the myriad transformations of everything in the world. Ananda! If
the nature of those elements does not mix and unite in substance, then
they cannot combine with other elements, just as empty space cannot
combine with forms. Assuming that they do not mix and unite, they are then
only in a process of transformation in which they depend on one another
for existence from beginning to end. In the course of tranformation they
are produced and extinguished, being born and then dying, dying and then
being born, in birth after birth, in death after death, the way a torch
spun in a circle forms an unbroken wheel of flame. Ananda! The process is
like water becoming ice and ice becoming water again.”
1) Địa
Đại (Đất): The Element Earth.
a) Ông
hãy xét tính của Địa Đại, thô là đại địa, nhỏ là vi trần, cho đến cực nhỏ
là lân hư trần, nếu lại chẻ cái lân hư trần nữa thì là tính hư
không—Ananda! Consider the nature of earth; its coarse particles make up
the great earth, its fine particles make up motes of dust, down to and
including motes of dust bordering upon emptiness.
·
Ông A Nan! Nếu cái lân hư trần ấy chẻ ra thành hư không, thì
biết hư không sinh ra sắc tướng. Nay ông hỏi vì hòa hợp sinh ra các tướng
biến hóa giữa thế gian. Vậy ông hãy xét một cái lân hư trần phải dùng bao
nhiêu hư không hòa hợp lại mới có. Chẳng lẻ lân hư hợp thành lân hư? Lại
đã cho rằng chẻ được lân hư trần thành không, vậy phải dùng bao nhiêu sắc
tướng hợp lại mới thành hư không?: Ananda! If one divides those fine motes
of dust, their appearance is at the boundaries of form. Then divide those
into seven parts. Ananda! If mote of dust bordering upon emptiness is
divided and becomes emptiness, it should be that emptiness can give rise
to form. Just now you asked if mixing and uniting doesn’t bring about the
transformations of everything in the world. You should carefully consider
how much emptiness mixes and unites to make a single mote of dust
bordering upon emptiness, since it makes no sense to say that dust
bordering on emptiness is composed of dust bordering on emptiness.
Moreover, since motes of dust bordering upon emptiness can be reduced to
emptiness, of how many motes of such form as this must emptiness be
composed?
·
Nhưng nếu khi sắc hợp lại, hợp sắc không phải là không. Nếu
lúc hư không hợp lại, hợp không chẳng phải là sắc. Sắc còn có thể chẻ ra,
chứ làm sao mà hợp không cho được?: When these motes of form mass
together, a mass of form does not make emptiness; when emptiness is massed
together, a mass of emptiness does not make form. Besides, although form
can be divided, how can emptiness be massed together?
b) Ông
vốn không biết trong Như Lai Tạng, tính sắc là chân không, tính không là
chân sắc, bản nhiên thanh tịnh, cùng khắp pháp giới, theo tâm chúng sanh,
tùy trình độ cao thấp mà theo nghiệp phát hiện. Thế gian không biết, lầm
cho là nhân duyên và tính tự nhiên. Đều là do thức tâm phân biệt đo lường,
tính toán, chỉ có lời nói chứ không có thực nghĩa: You simply do not know
that in the treasury of the Thus Come One, the nature of form is true
emptiness, and the nature of emptiness is true form. Pure at its origin,
it pervades the dharma realm. It accords with living beings’ minds, in
response to their capacity to know. It is experienced to whatever extent
is dictated by the law of karma. Ignorant of this fact, people in the
world are so deluded as to assign its origin to causes and conditions or
to spontaneity. These mistakes, which arise from the discriminations and
reasoning processes of the conscious mind, are nothing but the play of
empty words which have no real meaning.
2) Hỏa
Đại (Lửa): The Element Fire—Ông A Nan! Tính của Hỏa Đại không có tự thể,
nương các duyên mà có. Ông xem các nhà chưa ăn ở trong thành, muốn nấu
cơm, tay họ cầm gương dương toại, đưa ra trước ánh nắng mặt trời mà lấy
lửa—Ananda! Fire, which has no nature of its own, depends upon various
causes and conditions for its existence. Consider a family in the city
that has not yet eaten. When they wish to prepare food, they hold up a
speculum to the sun, seeking fire.
a) Ông A
Nan! Gọi là hòa hợp như tôi và các ông 1250 Tỳ Kheo, nay hòa hợp làm một
chúng. Chúng tuy là một, nhưng xét căn bản, mỗi người có thân, có danh tự
họ hàng, như Xá Lợi Phất là Bà La Môn, Ưu Lâu Tần Loa là Ca Diếp Ba, cho
đến ông A Nan là Cù Đàm. Ông A Nan! Nếu tính của Hỏa Đại là nhân hòa hợp
mà có, khi tay người đó cầm gương lấy lửa, lửa đó từ gương ra, từ bùi nhùi
hay từ mặt trời?: Ananda! Let us look into your suggestion that the fire
comes forth from mixing and uniting. By way of example, you and I and the
twelve hundred fifty Bhiksus unite together to form a community. However,
a careful analysis of the community reveals that every member composing it
has his own body, birthplace, clan, and name. . For instance, Sariputra is
a Brahman, Uruvilva is of the Kasyapa clan, and, Ananda, come from the
Gautama family. Ananda! Suppose fire existed because of mixing and
uniting. When the hand holds up the speculum to the sun to seek fire, does
the fire come out of the speculum? Does it come out of the moxa tinder? Or
does it come from the sun?
·
Ông A Nan! Nếu từ mặt trời tới, lửa đó đã đốt được bùi nhùi,
đáng lẽ cũng đốt được các rừng cây mà nó qua: Suppose, Ananda, that it
came from the sun. Not only would it burn the moxa tinder in your hand,
but as it came across the groves of trees, it should burn them up as well.
·
Nếu từ trong gương mà ra, lửa đó đã từ gương ra đốt cháy bùi
nhùi, gương kia sao không cháy, tay cầm gương cũng không thấy nóng:
Suppose that it came from the speculum. Since it came out from within the
speculum to ignite the moxa tinder, why doesn’t the speculum melt? Yet
your hand that holds it feels no heat; how, then, could the speculum
melt?
·
Nếu sinh từ bùi nhùi, cần chi phải có ánh sáng mặt trời và
gương tiếp nhau, mới có sinh lửa: Suppose that the fire came from the moxa
tinder. Then why is fire generated only when the bright mirror comes into
contact with the dazzling light?
b) Ông A
Nan! Ông nên xét kỹ, gương do tay cầm, mặt trời từ trên trời chiếu đến,
bùi nhùi do đất sinh, vậy lửa từ đâu tới? Mặt trời và gương xa nhau, không
phải hòa hợp, không lẽ ngọn lửa không do đâu mà tự có: Furthermore,
Ananda, on closer examination, you will find the speculum held in hands,
the sun high up in the sky, and moxa tinder grown from the ground. Where
does the fire come from? How can it travel some distance to reach here?
The sun and the speculum cannot mix and unite, since they are far apart
from each other. Nor can it be that the fire exists spontaneously, without
an origin.
c) Ông
vốn không biết trong Như Lai Tạng, tính hỏa là chân không, tính không là
chân hỏa, bản nhiên thanh tịnh, cùng khắp pháp giới, theo tâm chúng sanh,
tùy trình độ cao thấp. Ông A Nan! Ông nên biết người ta cầm gương một nơi,
thì một nơi có lửa, khắp pháp giới cầm gương, thì khắp thế gian nổi lửa,
nổi khắp thế gian, đâu có nhứt định chỗ nào, chỉ theo nghiệp mà phát hiện:
You simply do not know that in the treasury of the Thus Come One, he
nature of fire is true emptiness, and the nature of emptiness is true
fire. Pure at its origin, it pervades the dharma realm. It accords with
living beings’ minds, in response to their capacity to know. Ananda! You
should know that fire is generated in the place where a speculum is held
up to the sunlight, and fire will be generated everywhere if specula are
held up to the sunlight throughout the dharma realm. Since fire can come
forth throughout the whole world, can there be any fixed place to which it
is confined? It is experienced to whatever extentis dictated by the law of
karma
d) Thế
gian không biết, lầm cho là nhân duyên và tính tự nhiên. Đều là do thức
tâm phân biệt, đo lường, tính toán, chỉ có lời nói đều không thật nghĩa:
People in the world, ignorant of this fact, are so deluded as to assign
its origin to causes and conditions or spontaneity. These mistakes, which
arise from the discriminations and reasoning processes of the conscious
mind, are nothing but the play of empty words which have no real
meaning.
3) Thủy
Đại (Nước): The Element Water.
a) Ông A
Nan! Tính thủy đại không định, dừng chảy không thường. Như trong thành
Thất La, các nhà đại huyễn sư như bọn Tiên Ca Tỳ La, Tích Ca La, và bọn
Bát Đầu Ma Ha Tát La, cầu Thái Âm tinh để hòa các thuốc huyễn. Họ cầm ngọc
Phương chư giơ ra ánh sáng trăng tròn, để hứng nước trong ánh mặt trăng.
Vậy nước đó từ trong hạt châu ra, từ hư không, hay từ mặt trăng?: Ananda!
Water is by nature unstable. It may keep on flowing or come to a stop.
Kapila, Chakra, Padma, and Hasta, and other great magicians of Sravasti
often hold up instruments to the light of the full moon at midnight to
extract from the moon the essence of water to mix with their drugs. Does
the water come out of the crystal ball? Does it exist of itself in space?
Or, does it come from the moon?
·
Ông A Nan! Nếu từ mặt trăng, chính nơi xa xôi còn làm cho
ngọc chảy ra nước, đáng lẽ những rừng cây trăng đã chiếu qua, cũng phun
nước cả. Nếu phun nước, sao phải đợi có ngọc Phương chư mới chảy. Nếu
không phun nước, nước không phải từ mặt trăng tới: Ananda! Suppose the
water came from the distant moon. Water then should also flow from all the
grass and trees when the moonlight passes over them on its way to the
crystal ball. If it does flow from them, why wait for it to come out of
the crystal ball? If it does not flow from the trees, then it is clear
that the water does not descend from the moon.
·
Nếu từ ngọc ra, lẽ ra ngọc thường chảy nước, sao phải đợi
nửa đêm hứng với ánh trăng sáng tỏ: If it came from the crystal balls,
then it should flow from the crystal all the time. Why would they have to
wait for mindnight and the light of the full moon to receive it?
·
Nếu từ hư không sinh, tính hư không không có bờ bến, đáng lẽ
nước cũng chảy không có giới hạn, khắp cõi người cõi Trời thảy đều chìm
ngập, sao còn có thủy, lục, không, đi lại mỗi thứ khác nhau: If it came
from space, which is by nature boundless, it would flow everywhere, until
everything between earth and sky was submerged. How, then, could there
still be travel by water, land, and space?
b) Ông
hãy xét kỹ, mặt trăng trên trời cao, ngọc do tay cầm, mâm hứng nước do
người bưng để, vậy nước từ đâu chảy tới? Mặt trăng và ngọc xa nhau, không
phải hòa, không phải hợp, chẳng lẽ nước không do đâu mà có: Furthermore,
upon closer examination you will find that the moon moves through the sky,
the crystal ball is held in by the hand, and the pan for receiving the
water is put there by someone; but, where does the water that flows into
the pan come from? The moon and the crystal balls cannot mix or unite,
since they are far apart. Nor can it be that the essence of water exists
spontaneously without an origin.
c) Ông
còn không biết trong Như Lai Tạng, tính thủy là chân không, tính không là
chân thủy, bản nhiên thanh tịnh, cùng khắp pháp giới, theo tâm chúng sanh,
tùy trình độ cao thấp. Mỗi chỗ cầm ngọc thì chỉ một chỗ ra nước, khắp pháp
giới cầm ngọc thì khắp pháp giới ra nước. Sinh khắp thế gian, đâu có nhứt
định chỗ nào, chỉ theo nghiệp mà phát hiện: You still do not know that in
the treasury of the Thus Come One the nature of water is true empty, and
the nature of emptiness is true water. Pure in its origin, it pervades the
dharma realm. It accords with living beings’ minds, in response to their
capacity to know. A crystal ball is held up at a certain place, and there
water comes forth. If crystal balls were held up throughout the dharma
realm, then throughout the dharma realm, water would come forth. Since
water can come forth throughout the entire world, can there be any fixed
place which it is confined? It is experienced to whatever extent is
dictated by the law of karma.
d) Thế
gian không biết, lầm cho là nhân duyên và tính tự nhiên, đều là do thức
tâm phân biệt, đo lường, tính toán, chỉ có lời nói chứ không có thật
nghĩa: People in the world, ignorant of this fact, are so deluded as to
assign their origin to causes and conditions or to spontaneity. These
mistakes, which arise from the discriminations and reasoning processes of
the conscious mind, are nothing but the play of empty words which have no
real meaning.
4) Phong
Đại (Gió): The Element Wind.
a) Ông A
Nan! Tính của Phong Đại không có thể, khi động, khi tĩnh bất thường. Ông
thường xốc áo vào trong đại chúng, chéo áo phải qua mặt người bên cạnh,
gây ra chút gió. Gió từ chéo áo cà sa ra, từ hư không, hay từ mặt người:
Ananda! By nature, the wind has no substance, and its movements and
stillness are erratic. You always adjust your robe as you enter the great
assembly. When the corner of your ‘samghati’ brushes the person next to
you, there is a slight breeze which stirs against that person’s face. Does
this wind come from the corner of the Kashaya, does it arise from
emptiness, or is it produced from the face of the person brushed by the
wind?
·
Ông A Nan! Nếu gió từ chéo áo cà sa ra, thì chính nơi ông
phất gió, áo ông lay động, phải bay rời thân ông. Nay tôi thuyết pháp, thả
áo rũ xuống trong hội nầy, ông thử xem trong áo tôi, gió ở chỗ nào? Chẳng
lẽ trong áo lại có chỗ đựng gió?: Ananda! If the wind comes from the
corner of the ‘kashaya,’ you are then clad in the wind, and your kashaya
should fly about and leave your body. I am now speaking Dharma in the
midst of the assembly, and my robe remains motionless and hangs straight
down. You should look closely at my robe to see whether there is any wind
in it. It can not be that the wind is stored somewhere in the robe,
either.
·
Còn nếu sinh từ hư không, khi áo ông động, sao lại không
phát gió? Tính hư không thường trụ, đáng lẽ gió phải thường sinh. Nếu
không có gió, hư không phải diệt. Gió diệt có thể thấy, còn hư không diệt,
hình trạng thế nào? Đã có sinh diệt, không thể gọi là hư không. Đã gọi là
hư không, sao còn có gió ở đó ra?: If it arose from emptiness, why
wouldn’t the wind brush against the man even when your robe did not move?
Emptiness is constant in nature; thus, the wind should constantly arise.
When there was no wind, the emptiness should disappear. You can perceive
the disappearance of the wind; but, what would the disappearance of
emptiness look like? If it did arise and disappear, it could not be what
is called emptiness. Since it is what is called emptiness, how can it
generate wind?
·
Nếu sinh từ mặt người kia, đáng lẽ gió phất ông. Sao ông tự
xốc áo mà gió trở lại phất mặt người kia?: If the wind came from the face
of the person by your side, it would blow upon you while you set your robe
in order. Why would it blow backwards upon the person from whom it was
generated?
b) Ông
thử xét kỹ, xốc áo là do ông, mặt thuộc người kia, hư không phẳng lặng
không có sự lay động, vậy gió từ phương nào tới? Tính của gió và tính của
hư không cách nhau, không phải hòa, không phải hợp. Chẳng lẽ gió kia không
từ đâu mà tự có?: Upon closer examination, you will find that the robe is
set in order by yourself, the face blown by the wind belongs to the person
by your side, and the emptiness is tranquil and not involved in movement.
Where, then, does the wind come from that blows in this place? The wind
and emptiness cannot mix and unite, since they are different from each
other. Nor should it be that the wind spontaneously exists without an
origin.
c) Ông
không biết trong Như Lai Tạng, tính phong là chân không, tính không là
chân phong, bản nhiên thanh tịnh, cùng khắp pháp giới, theo tâm chúng
sanh, tùy trình độ cao thấp: You still do not know that in the treasury of
the Thus Come One the nature of wind is true emptiness, and the nature of
emptiness is true wind. Pure at its origin, it pervades the dharma realm.
It accords with living beings’s minds, in response to their capacity to
know.
·
Ông A Nan! Như một ông động áo, chút gió sinh ra. Nếu khắp
pháp giới đều phất, khắp pháp giới nổi gió. Khắp thế gian, đâu có nhứt
định chỗ nào, chỉ theo nghiệp mà phát hiện: Ananda! In the same way that
you, as one person, move your robe slightly, and a small wind arises, so a
wind arises in all countries if there is a similar movement throughout the
dharma realm. Since it can be produced throughout the world, how can there
be any fixed place to which it is confined? It is experienced to whatever
extent is dictated by the law of karma.
·
Thế gian không biết, lầm cho là nhân duyên và tính tự nhiên,
đều do tâm thức phân biệt, đo lường, tính toán, chỉ có lời nói, chứ không
có thật nghĩa: People in the world, ignorant of this fact, are so deluded
as to assign their origin to causes and conditions or to spontaneity.
These mistakes, which arise from the discriminations and reasoning
processes of the conscious mind, are nothing but the play of empty words
which bear no real meaning.
5) Không
Đại (Hư không): Akasa (skt)—The Element Space.
a) Ông A
Nan! Tính hư không vô hình, nhân sắc tướng mà rõ bày ra. Như trong thành
Thất La Phiệt, chỗ xa cách sông, các người dòng sát Đế Lợi, dòng Bà La
Môn, dòng Tỳ Xá Thủ Đa, dòng Phả La Đọa, dòng Chiên Đà La, vân vân, khi
mới dựng chỗ ở, đào giếng lấy nước, đào đất một thước, nơi đó một thước hư
không. Đào được một trượng, có một trượng hư không. Hư không cạn hay sâu,
tùy theo đào nhiều hay ít. Hư không đó nhân đất sinh, nhân đào có, hay
không nhân gì mà tự sinh?: Ananda! The nature of emptiness has no shape;
it is only apparent because of form. For instance, Sravasti is far from
the river, so when the Sratriyas, Brahmans, Vaishyas, Sudras, Bharadvajas,
Chandalas, and so forth, build their homes there, they dig wells seeking
water. Where a foot of earth is removed, there is a foot of emptiness;
where as many as ten feet of earth are removed, there are ten feet of
emptiness. The depth of the emptiness corresponds to the amount of earth
removed. Does this emptiness come out of the dirt, does it exist because
of the digging, or does it arise of itself without a cause?
·
Ông A Nan! Nếu hư không không do nhân gì sinh mà tự sinh ra,
thì trước khi đào đất, sao chỗ đó không vô ngại, chỉ thấy đất liền, không
chút thông suốt: Moreover, Ananda, suppose this emptiness arose of itself
without any cause. Why wasn’t it unobstructed before the earth was dug?
Quite the contrary, one saw only the great earth; there was no emptiness
evident in it.
·
Nếu nhân đất mà ra, phải thấy hư không vào. Nếu không, không
thể nói như trên. Nếu không ra vào, thì hư không với đất, vốn không có
nhân gì khác nhau, không khác tức là đồng, thì khi đất ra, sao hư không
không ra?: If emptiness came about because of the removal of the earth, we
should have seen it entering the well as the earth was removed. If
emptiness was not seen entering the well when the earth was first
removed, how can we say that emptiness came about bcause of the removal of
the earth? If there is no going in or coming out, then there is no
difference between the earth and emptiness. Why, then, doesn’t emptiness
come out of the well along with the earth in the process of digging?
·
Nếu nhân đào mà ra, thì đáng lẽ phải đào ra hư không, chứ
không đào ra đất. Nếu không nhân đào mà ra, thì đào đất, sao lại thấy hư
không?: If emptiness appeared because of the digging, then the digging
would bring out emptiness instead of the earth. If emptiness does not come
out because of the digging, then the digging yields only earth. Why, then,
do we see emptiness appear as the well is dug?
b) Ông
nên suy xét kỹ, đào là tự tay người, tùy cách vận chuyển, đất nhân dưới
đất dời lên, còn hư không nhân đâu mà ra?: You should consider this event
more carefully. Look into it deeply, and you will find that the digging
comes from the person’s hand as it means of conveyance, and the earth
exists because of a change in the ground. But what cause the emptiness to
appear?
·
Cái đào là thực, cái không là hư, không ứng dụng với nhau,
không phải hòa, không phải hợp. Chẳng lẽ hư không không từ đâu mà ra?: The
digging and the emptiness, one being substantial and the other
insubstantial, do not function on the same plane. They do not mix and
unite. Nor can it be that emptiness exists spontaneously without an
origin.
·
Tính của hư không đầy đủ, cùng khắp, vốn không lay động, nên
biết hư không với địa, thủy, hỏa, phong hiện tiền đều gọi là ngũ đại,
tính chân viên dung, đều là Như Lai tạng, vốn không sinh diệt: The nature
of emptiness is completely pervasive, it is basically unmoving. You should
know that emptiness and earth, water, fire, and wind are together called
the five elements. Their natures are true and perfectly fused, and all are
the treasury of the Thus Come One, fundamentally devoid of production and
extinction. Ông A Nan! Ông mê muội không biết tứ đại vốn là Như Lai Tạng,
ông hãy xét kỹ hư không là ra, là vào, hay chẳng phải ra vào: Ananda! Your
mind is murky and confused, and you do not awaken to the fact that the
source of the four elements is none other than the treasury of the Thus
Come One. Why do you not take a look at emptiness to see whether it is
subject to such relativities as coming and going?
·
Ông không biết trong Như Lai Tạng, tính giác là chân không,
tính không là chân giác, bản nhiên thanh tịnh, cùng khắp pháp giới, theo
tâm chúng sanh, tùy trình độ cao thấp: Do you know at all that in the
treasury of the Thus Come One the nature of enlightenment is true
emptiness, and the nature of emptiness is true enlightenment. Pure at its
origin, it pervades the dharma realm. It accords with living beings’
minds, in response to their capacity to know.
·
Ông A Nan! Như một giếng mà không, hư không sinh ở một
giếng, cho đến hư không trong mười phương cũng thế, cùng khắp pháp giới,
đâu có nhứt định chỗ nào, chỉ theo nghiệp mà phát hiện: Ananda! If in one
place there is a well empty of earth, there will be emptiness filling up
that one place. If there are wells empty of earth in the ten directions,
there will be emptiness filling them up in the ten directions. Since it
fills up the ten directions, is there any fixed location in which
emptiness is found? It is experienced to whatever extent is dictated by
the law of karma.
·
Thế gian không biết, lầm cho là nhân duyên và tính tự nhiên.
Đều là thức tâm phân biệt, đo lường, tính toán, chỉ có lời nói, đều không
thật nghĩa: People in the world, ignorant of this fact, are deluded as to
assign their origin to causes and conditions or to spontaneity. These
mistakes, which arise from the discriminations and reasoning processes of
the conscious mind, are nothing but the play of empty words which bear no
real meaning.
6) Kiến
Đại: Reasoning to make the seven elements (sometimes it is also named as
Tâm Đại or Mind).
a) Ông A
Nan! Tính thấy nhân sắc, không mà có. Như nay ông ở rừng Kỳ Đà, sớm thì
thấy sáng tỏ, chiều thì thấy mờ tối. Ban đêm, trăng tỏ ánh sáng rực rỡ,
trăng mờ thấy tối, đều do cái thấy phân biệt. Cái thấy đó cùng các tướng
sáng, tối và hư không là cùng một thể, hay không cùng, hay cùng và chẳng
phải đồng, hay khác và chẳng khác?: Ananda! Seeing-awareness does not
perceive by itself. It depends upon form and emptiness for its existence.
You are now in the Jeta Grove where you see brightness in the morning and
darkness in the evening. Deep in the night you will see brightness when
the moon arises and darkness when no moon is visible. The brightness and
darkness are discerned by the seeing. Is the seeing identical in substance
with brightness, darkness, and emptiness, or are they not the same
substance? Are they the same and yet different, or are they not the same
and yet not different?
·
Ông A Nan! Cái thấy đó nếu cùng một thể với sáng, tối và hư
không, thì hai thể sáng và tối diệt mất nhau, sáng thì không tối, tối thì
không sáng. Nếu cùng một thể với tối, khi sáng cái thấy phải mất. Nếu cùng
một thể với sáng, khi tối phải diệt. Đã diệt, sao thấy sáng, thấy tối:
Ananda! Suppose seeing were one with brightness, darkness, and emptiness.
It so happens that where there is darkness there is no brightness, and
where there is brightness there is no darkness, because the two cancel
each other out. If it were one with brightness, it would cease to exist in
darkness. Such being the case, how could it perceive both brightness and
darkness.
·
Nếu sáng tối khác nhau, còn cái thấy không sinh diệt, thì lý
đồng một không thành: If brightness and darkness differ from each other,
how can they form a unity with seeing, which transcends production and
destruction.
·
Nếu không đồng, ông hãy thử rời các cái sáng, tối, hư không,
riêng chỉ cái thấy là hình tướng gì?: Suppose that the essence of seeing
were not of one substance with brightness and darkness, and that you were
separate from light, darkness, and emptiness. Then what shape and
appearance would the source of the seeing have, as you distinguish it?
b) Rời
sáng, tối, và hư không thì cái thấy đó như lông rùa sừng thỏ. Ngoài ba thứ
trên, từ đâu thành lập cái thấy? Sáng và tối trái nhau, làm sao cái thấy
đồng được? Lìa ba thứ, cái thấy vốn là không, làm sao khác được? Chia cái
không với cái thấy, vốn không có giới hạn, làm sao gọi là không phải đồng?
Thấy sáng, thấy tối, tính không dời đổi, sao gọi là không khác?: In the
absence of darkness, brightness, and emptiness, the seeing would be the
same as hair on a turtle or horns on a hare. How could we establish the
seeing-perception without the presence of the three qualities of
brightness, darkness, and emptiness? How could we say that the seeing was
one with darkness and brightness, since brightness and darkness are
opposite? Yet, how can we say that it was different from the three
qualities mentioned, since in their absence the seeing-perceptioncan never
be established. How could we say that the seeing was not one with
emptiness, since no boundary is established between them when they are
separated from each other? How could we say that they were not different,
since the seeing always remains unchanged, regardless of whether it is
perceiving brightness or perceiving darkness.
c) Ông
hãy xét kỹ, suy đi xét lại, sáng do mặt trời, tối từ đêm không trăng,
thông suốt thuộc hư không, ngăn ngại thuộc đất, còn cái thấy do đâu có?:
You should examine this even greater detail, investigate it minutely,
consider and contemplate it carefully. The light comes from the sun and
darkness from the absence of the moon; penetration belongs to emptiness,
and solidity returns to the earth. From what does the essence of seeing
arise?
d) Cái
thấy có biết, cái thấy chẳng biết, không phải hòa, chẳng phải hợp, không
lẽ cái thấy không theo đâu tự phát ra: Seeing has awareness, and emptiness
is inanimate; they do not mix and unite. Nor can it be that the essence of
seeing arise spontaneously without an origin.
e) Nếu
cái thấy, nghe, hay biết, tính viên dung cùng khắp, vốn không lay động,
nên biết cái thấy cùng hư không vô biên, bất động và địa, thủy, hỏa,
phong, bốn thứ lay động đều gọi là sáu đại, tính chân viên dung, đều là
Như Lai Tạng, vốn không sinh diệt: If the faculties of seeing, hearing,
and knowing are by nature all pervasive and unmoving, you should know that
the stable, boundless emptiness, together with the unstable elements such
as earth, water, fire, and wind, are together known as the six elements.
They are , in nature, true and perfectly fused and thus are the treasury
of the Thus Come One, fundamentally devoid of production and destruction.
f) Ông
A Nan! Tính ông chìm đắm, không ngộ được cái thấy, nghe, hay, biết của ông
vốn là Như Lai Tạng. Ông hãy xem xét cái thấy, nghe, hay biết ấy là sinh,
là diệt, là cùng, là khác, không phải sinh diệt, không phải đồng dị. Ông
chưa từng biết trong Như Lai Tạng, tính kiến và giác minh, giác tinh là
minh kiến, bản nhiên thanh tịnh, cùng khắp pháp giới, theo tâm chúng sanh,
tùy trình độ cao thấp: Ananda! Your nature is so submerged that you have
not realized that your seeing, hearing, awareness, and knowing are
basically the treasury of the Thus Come One. You should contemplate
seeing, hearing, awareness, and knowing to see whether they are subject to
production and extinction; whether they are identical or different;
whether they are not subject to production and extinction; and whether
they are not identical and not different. You still don’t know that in the
treasury of the Thus Come One the nature of seeing is enlightened
brightness; the essence of enlightenment is bright seeing. Pure at its
origin, it pervades the dharma realm. It accords with living beings’ minds
in response to their capacity to know.
·
Như Lai ở kiến căn, cái thấy cùng khắp pháp giới, các cái
nghe, ngửi, nếm, sờ, biết, diệu đức sáng suốt, cùng khắp pháp giới, đầy
khắp hư không mười phương, đâu có nhứt định chỗ nào cao, chỉ có theo
nghiệp mà phát hiện: Consider, for example, the sense-organ of seeing. Its
seeing pervades the dharma realm. The same is true of the lustre of the
wonderful virtue of hearing, smelling, tasting, contact, and knowing.
Since they fill emptiness in the ten directions throughout the dharma
realm, how could there be any fixed location in which they are found? It
is experienced to whatever extent is dictated by the law of karma.
·
Thế gian không biết, lầm cho là nhân duyên và tánh tự nhiên.
Đều là thức tâm phân biệt, đo lường, tính tóan, chỉ có lời nói, còn thì
tất cả đều là vô thực nghĩa: People in the world, ignorant of this fact,
are so deluded as to assign its origin to causes and conditions or to
spontaneity. These mistakes, which arise from the discriminations and
reasoning processes of the conscious mind, are nothing but the play of
empty words which have no real meaning.
7) Thức
Đại: Perception or the perception of the six organs.
a) Ông A
Nan! Tính của thức không có nguồn gốc, nhân sáu căn, trần mà giả dối hiện
ra. Nay ông xem Thánh chúng trong hội nầy, ông đưa mắt nhìn một lượt, thấy
các hình hiện ra trong gương soi, chưa phân biệtCái thức của ông mới chỉ
lần lượt phân biệt, đây là ông Văn Thù, đây là ông Phú Lâu Na, đây là ông
Mục Kiền Liên, đây là ông Tu Bồ Đề, đây là ông Xá Lợi Phất. Thức hay biết
đó, do thấy sinh, do tướng sinh, do hư không sinh, hay không nhân gì, bỗng
nhiên sinh ra?: Ananda! The nature of consciousness has no source, but is
a false manifestation based on the six organs and objects. Now, take a
look at the entire holy assembly gathered here. As you glance at each one
in turn, everything you see is like what is seen in a mirror, where
nothing has any special distinction. However, your consciousness will
identify them one by one, for example, Manjusri, Purna, Maudgalyayana,
Subhuti, and Sariputra. Does the discerning faculty of the conscious mind
come from seeing, from forms, or from emptiness, or does it arise suddenly
without a cause?
·
A Nan! Nếu do thấy sinh, cái thấy mà không có sáng, tối,
sắc, không, cũng không có. Vậy do đâu phát cái thức?: Ananda! Suppose your
consciousness came from seeing. If there were no brightness, darkness,
form, and emptiness. If these four did not exist, you could not see. With
seeing non-existent, what would be the origin of your consciousness?
·
Nếu do các tướng, chứ không do cái thấy. Đã không thấy sáng,
cũng không thấy tối. Vì thế, không có sắc không. Các tướng không có, thức
do đâu mà phát ra?: If your consciousness arose from form rather than from
seeing, it would not see either in brightness or in darkness. In the
absence of brightness and darkness, it would not see form or emptiness,
either. In the absence of form, where would your consciousness come from?
·
Nếu do hư không, chẳng liên hệ gì đến các tướng và cái thấy.
Không thấy nên không biết sáng, tối, sắc, không. Không tướng thì duyên bị
tiêu diệt, cái thấy, nghe, hay, biết không biết dựa chỗ nào: If it came
from emptiness, it is neither an appearance nor the seeing. Since it does
not see, it is unable by itself to discern brightness, darkness, form, or
emptiness. Since it is not an appearance, it is in itself devoid of
external conditions. Therefore, there is no place for seeing, hearing,
awareness, and knowing to be established.
b) Cái
thức đã không phải thấy, không phải tướng. Nếu nói không, cũng như không
có. Nếu là có, lại không phải đồng với các vật. Vậy cái thức phân biệt cái
gì?: Since its location is devoid of these two, the consciousness that
arises from emptiness would be the same as non-existent. Even if it did
exist, it would not be the same as a thing. Even if your consciousness
came forth from it, how would it discern anything?
c) Còn
nếu cái thức không nhân gì, bỗng nhiên phát ra, vì sao ban ngày không thấy
trăng sáng: If it suddenly comes forth without a cause, why can’t you
discern the moonlight within the sunlight.
d) Ông
hãy xét kỹ cái thấy thuộc về con mắt, tướng thuộc về tiền cảnh, cái có thể
chỉ hình trạng thành ra có, cái không có tướng thành ra không, còn cái
thức duyên nhân đâu có? Thức lay động, cái thấy lặng yên, chẳng phải hòa,
chẳng phải hiệp, các cái ngửi, nghe, hay, biết đều như vậy. Không lẽ cái
thức duyên không do đâu mà tự ra?: You should investigate this even more
carefully, discriminate it in detail, and look into it. The seeing belongs
to your eyes; the appearances are considered to be the environment; what
has an appearance is existent; what is without any appearance is
non-existent. What, then, are the conditions that cause the consciousness
to come into being? The consciousness moves and the seeing is quiet; they
do not mix and unite. Smelling, hearing, awareness, and knowing are the
same way. Nor should it be that the condition of consciousness exists
spontaneously without an origin.
·
Nếu thức tâm đó vốn không từ đâu, nên biết tính phân biệt,
thấy, nghe, hay, biết đều vắng lặng, cùng khắp, không do các thứ sở duyên.
Gồm với hư không và địa, thủy, hỏa, phong kia đều gọi là bảy đại, tính
chân viên dung, đều là Như Lai tạng, vốn không sinh diệt: If this
conscious mind does not come from anywhere, you should know that the same
is true of the mind, which makes distinctions, and the seeing, hearing,
awareness, and knowing, which are all complete and tranquil. Their nature
is without an origin. They and emptiness, earth, water, fire, wind are
together called the seven elements. Their true natures are perfectly
fused, and all are the treasury of the Thus Come One, fundamentally devoid
of production and extinction.
·
Ông A Nan! Tâm ông nông cạn, không biết cái thấy, nghe, hay,
biết, vốn là Như Lai Tạng. Ông hãy xét thức tâm và sáu căn là cùng, là
khác, là có, là không, là chẳng phải cùng, khác, là chẳng phải có, không?:
Ananda! Your mind is coarsed and shallow, and so you do not realize that
the seeing and hearing are the treasury of the Thus Come One, and you do
not discover that knowing is the same way. You should contemplate these
six locations of consciousness: are they the same or different? Are they
empty or existent? Are they neither the same nor different? Are they
neither empty nor existent?
·
Ông vốn không biết trong Như Lai Tạng tính thức là minh trí,
giác minh là chân thức, Diệu giác trạm nhiên, cùng khắp pháp giới, ẩn hiện
khắp mười phương, đâu có nhứt định chỗ nào, chỉ theo nghiệp mà phát hiện.
Thế gian không biết, lầm cho là nhân duyên và tính tự nhiên. Đều là thức
tâm phân biệt, đo lường, tính toán, chỉ có lời nói, chứ không thật nghĩa:
You basically do not know that in the treasury of the Thus Come One the
nature of consciousness is bright and knowing. Enlightened brightness is
the true consciousness. The wonderful enlightenment is tranquil and
pervades the dharma realm. It encompasses the emptiness of the ten
directions and issues forth in it. How can it have a location? It is
experienced to whatever extent is dictated by the law of karma. People in
the world, ignorant of this fact, are so deluded as to assign its origin
to causes and conditions or to spontaneity. These mistakes, which arise
from the discriminations and reasoning processes of the conscious mind,
are nothing but the play of empty words which have no real meaning.
Thất Đại Phu: Thất Thánh—Các
trường phái khác gọi là Thất Thánh thì trường phái Hoa Nghiêm gọi là Thất
Đại Phu hay Thất Sĩ Phu—While other schools call Thất Thánh, Hua-Yen
School calls Thất Đại Phu or Thất Sĩ Phu—See Thất Thánh in
Vietnamese-English Section.
Thất Đảm: Fill with
terror—Panic-stricken.
Thất Đẳng Giác Chi: See Thất
Giác Chi in Vietnamese-English Section.
Thất Điên Đảo: Viparyaya
(skt)—Seven inversions or upside-down views:
(A)
1) Thường
điên đảo: Wrong views on permanence.
2) Lạc và
vô lạc điên đảo: Wrong views on worldly happiness and unhappiness.
3) Ngã
điên đảo: Wrong views on ego.
4) Tịnh
và vô tịnh điên đảo: Wrong views on purity and impurity.
5) Vô
thường điên đảo: Wrong views on impermanence.
6) Vô ngã
điên đảo: Wrong views on non-egoism.
7) Không
điên đảo: Wrong views on emptiness.
(C) Theo Du
Già Luận—According to the Yogacara Sastra:
1) Tưởng
Điên Đảo: Evil thoughts or wrong views on (upside down) perception.
2) Kiến
Điên Đảo: False views or wrong views or illusory or misleading views. To
see things upside down.
3) Tâm
Điên Đảo: Deluded or upside down mind, or mind following the external
environments.
4) Thường
Điên Đảo: Điên đảo cho vô thường là thường—Wrong views on permanence and
impermanence.
5) Lạc
Điên Đảo: Điên đảo cho khổ là vui—Wrong views on worldly happiness and
unhappiness.
6) Ngã
Điên Đảo: Điên đảo cho vô ngã là ngã—Wrong views on ego and non-ego.
7) Tịnh
Điên Đảo: Điên đảo cho bất tịnh là tịnh—Wrong views on purity and
impurity.
** For more information,
please see Tam
Điên Đảo, Tứ Điên
Đảo, and Bát Điên
Đảo in
Vietnamese-English Section.
Thất Điên Bát Đảo: Completely
upset.
Thất Điều Cà Sa (Y): Y bảy
mảnh—The Uttara-sanga (skt)—The outer mantle of a monk, composed of seven
pieces.
Thất Điều Y: See Thất điều cà
sa.
Thất Định Cụ: Theo Kinh Phúng
Tụng trong Trường Bộ Kinh, có bảy định cụ—According to the Sangiti Sutta
in the Long Discourses of the Buddha, there are seven requisites of
concentration:
1) Chánh
Tri Kiến: Right views.
2) Chánh
Tư Duy: Right Thought.
3) Chánh
Ngữ: Right speech.
4) Chánh
Nghiệp: Right action.
5) Chánh
Mạng: Right livelihood.
6) Chánh
Tinh Tấn: Right effort (energy).
7) Chánh
Niệm: Right mindfulness.
Thất Đức: Inhuman—Lack of
virtues—Contrary to virtue.
Thất Giác Chi (Thất Bồ Đề Phần):
Sapta-bodhyangani (skt)—Sambojjhanga (p)—Theo Kinh Phúng Tụng trong Trường
Bộ Kinh, có bảy giác chi hay thất bồ đề phần. Phật tử tu hành thất giác
chi đạt được những kết quả sau đây: Tất cả ác pháp đều được tiêu trừ; tất
cả pháp lành càng ngày càng tăng trưởng; vì tu thiện bỏ ác nên luôn luôn
được an lạc, không bị đau khổ; sẽ chứng quả thành Phật—According to the
Sangiti Sutta in the Long Discourses of the Buddha, there are seven Limbs
(factors) of Enlightenment, or the seven Bodhi shares. Practicing the
seven awakening states will result in the following achievements:
Elimination of evil; development of virtue; feeling of cheerfulness versus
suffering; final enlightenment.
1) Trạch
Pháp Giác Chi: Dharma-pravicaya-sambodhyanga (skt)—Dhammavicaya
(p)—Selection of the proper dharma—Trạch pháp hay nhiệt thành khảo sát
giáo pháp hay hiện tượng. Trạch pháp là kiến thức sâu sắc và có tính cách
phân tách đến chi tiết để thấu đạt trọn vẹn thực chất của tất cả các pháp
hữu vi, vô tri vô giác hay hữu giác hữu tri, người hay chư Thiên. Đó là
thấy đúng thực tướng của sự vật, thấy sự vật đúng trong bối cảnh của nó.
Trạch pháp là phân tách tất cả các pháp hữu vi một cách rốt ráo, phân tách
đến cùng tột những nguyên tố căn bản. Nhờ nhiệt thành phân tách và khảo
sát như vậy mà ta có thể nhận thức rằng—Discrimination of true or false,
or keen investigation of phenomena (dharma). It is the sharp analytical
knowledge of understanding the true nature of all constituent things,
animate or inanimate, human or divine. It is seeing things in their proper
perspective. It is the analysis of all component things into their
fundamental elements, right down to their ultimates. Through keen
analysis and investigation, one understands that:
a) Tất cả
các pháp hữu vi đều trải qua những giai đoạn sanh, trụ, dị, diệt một cách
nhanh chóng, đến độ khó có thể thấy được: All compounded things pass
through the inconceivably rapid moments of arising, reaching a peak and
ceasing, just as a river in flood sweeps to climax and fades away.
b) Toàn
thể vũ trụ đều liên tục biến đổi, không hề tồn tại giống hệt trong hai
khoảnh khắc kế tiếp nhau: The whole universe is constantly changing, not
remaining the same for two consecutive moments.
c) Mọi sự
vật đều phải chịu sự chi phối của duyên, nhân, và quả: All things in fact
are subject to conditions, causes and effects.
d) Những
gì vô thường, bất ổn định đều đưa đến quả khổ: What is impermanent and not
lasting producing painful or sorrow fruit.
e) Không
có cái gọi là “thực ngã,” hay một linh hồn trường tồn bất biến: There
doesn’t exist a so-called permanent and everlasting soul or self.
f) Thực
tướng của ba đặc tính vô thường, khổ và vô ngã: The true nature of the
three characteristics, or laws of transiency, sorrow, and non-self.
2) Tinh
Tấn Giác Chi: Virya-sambodhyanga (skt)—Viriya (p)—Constant effort.
a) Tinh
tấn là một tâm sở, mà cũng là chi thứ sáu của bát Chánh Đạo, được gọi là
“chánh tinh tấn.” Đức Phật không tự xưng là một đấng cứu thế có khả năng
và sẳn sàng lãnh chịu tội lỗi của chúng sanh. Ngài chỉ là người vạch ra
con đường, chứ Ngài không đi thế dùm ai được. Chính vì thế mà Ngài khuyên
rằng mỗi người phải thành thật, nhiệt tâm, và nhứt quyết thành đạt mục
tiêu mà mình muốn đến. Ngài cũng đã khuyên tứ chúng rằng: “Hãy tự lấy con
làm hải đảo cho con, hãy lấy chính con làm nơi nương tựa cho con.” Như thế
ấy, Đức Bổn Sư kêu gọi tứ chúng không nên ỷ lại vào ai khác ngoài mình.
Bất luận ở vào trường hợp nào, người tu theo Phật không nên đánh mất niềm
hy vọng và tinh tấn. Hãy nhìn tấm gương rạng ngời của Phật, Ngài không bao
giờ thối chí, Ngài luôn dũng mãnh và tinh tấn, ngay từ thời Ngài còn là vị
Bồ Tát—Energy, zeal or undeflected progress. It is a mental property and
the sixth limb of the Noble Eightfold Path, there called right effort. The
Buddha has not proclaimed himself a saviour willing and able to take upon
himself the evil of all sentient beings. He is only a Path-Revealer. Each
one of us must put forth the necessary effort and work out his own
deliverance with heedfulness. He cannot walk for anyone on this path. Thus
he advised that each Buddhist should be sincerely zealous, strong and firm
in the purpose of reaching the final aim. He also advised: “Be islands
unto yourselves, be your own refuge.” Thus did the Master exhort his
followers to acquire self-reliance. A follower of the Buddha should not
under any circumstances relinquish hope and effort; for the Buddha was one
who never gave up courage and effort even as a bodhisattva.
b) Nhiệm
vụ của tinh tấn có bốn thứ: The function of energy is fourfold—See Tứ
Chánh Cần.
c) Đức
Phật đã dạy trong Kinh Pháp Cú, câu 280: “Người sống tiêu cực, uể oải, dã
dượi, không tinh tấn chuyên cần, dầu còn trẻ tuổi và khỏe mạnh vẫn lười
biếng, suy nhược và thiếu quyết tâm, con người lười biếng ấy không bao giờ
tìm ra được con đường dẫn đến trí tuệ và giác ngộ, giải thoát.”—In The
Dhammapada Sutta, sentence 280, the Buddha taught: “The idler who does
not strive, who, though, young and strong, is full of sloth, who is weak
in resolution and thought, that lazy and idle man will never find the way
to wisdom, the way to elightenment and deliverance.”
3) Hỷ
Giác Chi (hỷ lạc): Priti-sambodhyanga (skt)—Piti (p)—Cherfulness or high
spirits.
a) Hỷ
giác chi là một tâm sở, và là một đức tánh có ảnh hưởng sâu rộng đến thân
và tâm. Người thiếu đức “hỷ lạc” không thể tiến bước trên đường giác ngộ,
vì trong người ấy lúc nào cũng mang máng một trạng thái lãnh đạm lạnh lùng
trước thiện pháp, một thái độ bất mãn với thiền tập, một sự biểu lộ bất
toại nguyện—Joy, happiness, rapture, or delight is a mental property, and
is a quality which deeply influences both the body and mind. A man lacking
in this quality cannot advance along the path to enlightenment. In him
there will always arise sullen indifference to the Dharma, an aversion to
the practice of meditation, and morbid manifestations.
b) Muốn
tu tập đức “hỷ lạc,” hay tâm phỉ, hành giả cần luôn nhớ rằng hạnh phúc
không tìm được từ vật chất bên ngoài, mặc dù chuyện lớn chuyện nhỏ bên
ngoài luôn có ảnh hưởng đến tâm mình. Hạnh phúc chỉ có được nơi những
người biết tri túc: To practice “piti” or joy, Buddhist cultivators should
always remember that happiness is a matter of the mind and it should never
be sought in external and material things, though they may be instrumental
in any way. Only those who possess the quality of contentment can
expereince real happiness—See Tri Túc.
c) Hành
giả tu theo Phật nên luôn nhớ rằng có sự khác biệt lớn lao giữa thỏa thích
và hạnh phúc—Buddhist cultivators should always remember that there is a
vast difference between pleasure and happiness.
·
Thỏa thích: Cảm giác thích thú là cái gì tạm bợ nhất thời,
chỉ thoáng qua rồi mất. Thỏa thích có thể là một dấu hiệu báo trước khổ
đau phiền não, vì những gì mà ta ôm ấp tâng tiu trong khoảnh khắc nầy, có
thể là nguồn đau khổ trong khoảnh khắc kế tiếp. Khi thấy một hình sắc,
nghe một âm thanh, ngửi một mùi, nếm một vị, hay nhận thức một ý nghĩ,
chúng ta thường bị các đối tượng của giác quan và trần cảnh kích thích,
cũng như cảm thấy ít nhiều thỏa thích. Tuy nhiên, chúng chỉ là những hiện
tượng phù du tạm bợ, vừa phát sanh đã hoại diệt—Pleasure, or pleasant
feeling, is something very momentary and fleeting. Pleasant feeling may be
an indicative sign of suffering, for what we hug in great glee this
moment, may turn to be a source of suffering the next moment. Seeing a
form, hearing a sound, perceiving an odour, tasting a flavour, feeling
some tangible thing, cognizing an idea, we are usually moved, and from
those sense objects and mental objects, we experience a certain degree of
pleasure. However, they are all temporary; they are only a passing show of
phenomena—See Hai Loại Thỏa Thích.
·
Hạnh phúc thật sự: Real happiness—Hạnh phúc thật sự không
đến với chúng ta bằng cách bám víu hay nắm chắc lấy những vật vô tri hay
hữu tri, mà chỉ đạt được bằng hạnh buông bỏ. Đức Phật đã từ bỏ cung vàng
điện ngọc, vợ đẹp con ngoan, uy quyền tột đỉnh, để cuối cùng Ngài đạt được
giác ngộ và giải thoát, chúng ta há có con đường nào khác?—Real happiness
or rapture does not come through grasping or clinging to things, animate
or inanimate, but from giving up. The Buddha left behind his glorious
palace, beautiful wife, good son, as well as kingdom authority, and became
a homeless monk. Eventually he attained enlightenment and deliverance, do
we have any other choices if we wish to attain enlightenment and
deliverance?
4) Khinh
An Giác Chi: Prasrabdhi-sambodhyanga (skt)—Passaddhi (p)—Peaceful mind—An
hay vắng lặng an tĩnh—Ease, tranquility, riddance of all grossness or
weight of body or mind so that they may be light, free and at ease.
a) Có hai
loại khinh an—There are two kinds of tranquility:
·
Thân an: Kaya-passaddhi (p)—Toàn thể các tâm sở, chớ không
riêng phần thân thể vật chất. Nói cách khác, đây là trạng thái an tĩnh
vắng lặng của sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, và hành uẩn—The calm of all
mental properties rather than the only physical body. In other words, calm
of the aggregates of form, feeling, perception, and the volitional
activities or conformations.
·
Tâm an: Citta-passaddhi (p)—Trạng thái an tĩnh vắng lặng của
thức uẩn—The calm of the mind, or the calm of the aggregate of
consciousness.
b) Người
đã trau dồi tâm khinh an vắng lặng sẽ không còn phiền lụy, bối rối hay cảm
kích khi phải đương đầu với tám pháp thăng trầm của thế gian, vì người ấy
nhận thức được trạng thái phát sanh và hoại diệt, cũng như tánh cách mong
manh nhất thời của vạn hữu: A man who cultivates calm of the mind does not
get upset, confused or excited when confronted with the eight vicissitudes
(8 winds or influences) of the world. He is able to understand the rise
and fall (come into being and pass away), as well as the momentary
fragility of all things.
c) Tâm
khinh an vắng lặng là việc rất khó thực hiện vì tâm luôn có khuynh hướng
không bao giờ ở yên một chỗ. Rất khó cột và kéo tâm trở lại. Kinh Pháp Cú,
từ câu 33 đến 36, Đức Phật đã dạy: “Tâm ở trong trạng thái giống như con
cá mới bị bắt ra khỏi nước và bị vứt lên đất khô. Nó luôn phóng nhảy bất
định.”—It is hard to tranqilize the mind. It trembles and it is unsteady,
difficult to guard and hold back. In the Dhammapada, from sentece 33 to
36, the Buddha taught: “The mind quivers like a fish just taken from its
watery home and thrown on the dry ground. It wanders at will.”
d) Bình
tĩnh và trầm lặng không phải là một thái độ hèn yếu. Chỉ có những con
người có văn hóa mới làm được chuyện nầy: Calmness is not weakness. Only a
person of culture is able to present the calm attitude at all times.
e) Bình
tĩnh trầm lặng trước thuận cảnh không phải là điều khó, điều khó ở đây là
người Phật tử phải luôn giữ tâm an tĩnh vắng lặng trước mọi nghịch cảnh.
Làm được như vậy mới mong thành đạt được giác ngộ và giải thoát: It is not
so difficult to be calm under favourable circumstances, but it is indeed
difficult for a Buddhist to remain calm in the midst of unfavourable
circumstances. Only the calm mind can help the aspirant to achieve
enlightenment and deliverance.
5) Niệm
Giác Chi: Smrti-sambodhyanga (skt)—sati (p)—Remembrance of the Dharma.
a) Niệm
Giác chi hay trạng thái chánh niệm tỉnh thức qua quán chiếu. Đây là phương
tiện hữu hiệu nhất để làm chủ lấy mình. Niệm có bốn—Mindfulness,
relinquishment, or power of remembering the various states passed through
in contemplation. It is the instrument most efficacious in self-mastery.
It is fourfold—See Tứ Niệm Xứ.
b) Con
người không thể có chánh niệm nếu không kiểm soát những tác động của thân,
khẩu và ý của mình. Nói cách khác, nếu không tinh chuyên hành trì giới
luật thì không bao giờ có thể nói đến tỉnh thức được: A person cannot be
heedful unless he is fully controlling all his actions, whether they are
mental, verbal or physical at every moment of his walking life. In other
words, he must zealously observe all commandments required of him.
c) Trong
Kinh Trường A Hàm, lời di huấn tối hậu của Đức Phật trước khi Ngài nhập
Niết Bàn là: “Tất cả các pháp hữu vi đều vô thường. Hãy kiên trì chánh
niệm để thành đạt giải thoát: In the Digha Nikaya Sutra, the Buddha’s
final admonition to his disciples before entering the Nirvana: “Transient
are all component things. Work out your deliverence with mindfulness.”
d) Ngài
Xá Lợi Phất trước khi nhập diệt cũng đã khuyên nhủ tứ chúng: “Hãy kiên trì
chánh niệm để thành đạt giải thoát.”—Venerable Saripura also advised
everybody with his last words: “Strive on with mindfulness to obtain your
deliverance.”
e) Trong
Kinh Tăng Nhất A Hàm, Đức Phật đã dạy: “Này chư Tỳ Kheo, Như Lai không
thấy một pháp nào mà có nhiều năng lực như sự chuyên cần chú niệm, để làm
phát sinh những tư tưởng thiện chưa phát sanh, và làm tan biến những tư
tưởng bất thiện đã phát sanh. Với người hằng có chánh niệm, những tư tưởng
thiện, nếu chưa sanh sẽ phát sanh, và những tư tưởng bất thiện, nếu đã
phát sanh sẽ tan biến.”—In the Anguttara Nikaya Sutra, the Buddha taught:
“Monks, I know not of any other single thing of such power to cause the
arising of good thoughts if not yet arisen, or to cause the waning of evil
thoughts if already arisen, as heedfulness. In him who is heedful, good
thoughts not yet arisen, do arise, and evil thoughts, if arisen, do wane.”
6) Định
Giác Chi: Samadhi-sambodhyanga (skt)—Concentration ability—Khả năng giữ
tâm tập trung không tán loạn—Stability, concentration, or power to keep
the mind in a given realm undiverted.
a) Tâm an
trụ và tập trung vào đề mục hành thiền. Tâm an trụ thấy sự vật đúng theo
chân tướng của nó: It is only the tranquilized mind that can easily
concentrate on a subject of meditation. The calm concentrated mind sees
things as they really are.
b) Tâm an
trụ có khả năng chế ngự được năm pháp triền cái: Người hành thiền hay
người có nguyện vọng thành tựu giác ngộ, phải đương đầu với rất nhiều
chướng ngại, đặc biệt là năm pháp gây trở ngại mạnh mẽ trong việc định
tâm, và chận ngang con đường giải thoát—The unified mind brings the five
hindrances under subjugation. Many are the impediments that confront a
meditator, an aspirant for enlightenment, especially the five hindrances
that hinder concentrative thoughts, and obstruct the way to
deliverance—See Ngũ Triền Cái.
c) Định
là trạng thái tâm ổn định vững chắc, có thể ví như ngọn đèn vững ngọn ,
không dao động, ở một nơi không có gió: Concentration is the intensified
steadiness of the mind comparable to an unflickering flame of a lamp in a
windless place.
d) Định
có khả năng giữ các tâm sở trong trạng thái quân bình: Concentration has
the ability to maintain the mind and the mental properties in a state of
balance.
e) Định
giữ cho tâm ngay thẳng, không lay chuyển; tiêu trừ khát vọng chẳng những
giúp tâm không vọng động, mà còn giúp mang lại sự thanh tịnh nơi tâm: It
is concentration that fixes the mind aright and causes it to be unmoved;
dispels passions and not only helps the mind undisturbed, but also helps
bring purity and placidity of mind.
f)
Người quyết tâm trau dồi “định” phải nghiêm trì giới luật, vì chính giới
đức đạo hạnh nuôi dưỡng đời sống tâm linh và làm cho tâm an trụ vắng lặng:
One who is intent to practice “concentration” should always zealously
observe Buddhist commandments, for it is virtue that nourishes mental
life, and make it coherent and calm.
7) Xả
Giác Chi: Upeksa-sambodhyanga (skt)—Non-attachment ability—Hoàn toàn xả
bỏ, nghĩa là tâm không còn bị quấy nhiễu bởi nội chướng hay ngoại
trần—Detachment—Equanimity—Complete abandonment—Indifferent to all
disturbances of the sub-conscious or ecstatic mind.
a) Theo
Vi Diệu Pháp, “xả” có nghĩa là trung lập, không thiên vị bên nào. Đó là
trạng thái tâm quân bình chứ không phải tâm lãnh đạm thờ ơ, hay thản nhiên
dửng dưng. Đây là kết quả của tâm định an tĩnh vắng lặng: According to The
Abhidharma, “equanimity” means neutrality. It is mental equipoise and not
hedonic indifference. Equanimity is the result of a calm concentrative
mind.
b) Trong
xã hội loạn động hôm nay, con người khó mà tránh khỏi những chao động khi
phải va chạm thường xuyên với những thăng trầm của cuộc sống; tuy nhiên,
người đã tu tập được “xả giác chi” nầy không còn nghe phiền lụy bực mình
nữa. Giữa những phong ba bão táp của cuộc đời như lợi lộc, lỗ lã, danh
thơm, tiếng xấu, tán tụng, chê trách, hạnh phúc và khổ đau, người có tâm
xả không bao giờ bị lay động: In our nowadays violent society, amidst the
welter of experience, gain and loss, good repute and ill-repute, praise
and blame, happiness and suffering, a man with the mind of equanimity will
never waver.
c) Trong
Kinh Pháp Cú, câu 83, Đức Phật đã từng dạy: “Người tốt buông xả tất cả.
Bậc Thánh nhân không nghĩ đến ái dục. Dầu hạnh phúc hay đau khổ bậc thiện
trí không bồng bột cũng không để tinh thần suy sụp.”—In Dharmapada,
sentence 83, the Buddha taught: “Truly the good give up longing for
everything. The good sages not with thoughts of craving. Touched by
happiness or by pain, the wise show neither elation nor depression.”
d) Người
đã tu tập và trau dồi được tâm xả, luôn bình thản và tránh được bốn con
đường sai lạc—A man who has reached perfect neutrality through the
cultivation of equanimity, always avoids the following four wrong paths:
·
Tham ái: Chanda (p)—The path of greed.
·
Sân hận: Dosa (p)—The path of hate.
·
Yếu hèn: Bhaya (p)—Cowardice.
·
Si mê: Moha (p)—Delusion.
e) Người
tu tập và trau dồi được tâm xả luôn nhìn chúng sanh mọi loài một cách bình
đẳng, không thiên vị: A man who has reached perfect neutrality through
cultivation of equanimity, always has his serene neutrality which enables
him to see all beings impartially.
Thất Giác Phần: See Thất Bồ Đề
Phần, and Thất Giác Chi.
Thất Hẹn: To break an
appointment.
Thất Hiếu: Bất hiếu—Ungrateful
to one’s parents.
Thất Hoa:
(A) Seven
flowers of enlightenment:
1) Giới
thanh tịnh: Commandments are pure.
2) Tâm
thanh tịnh: Heart is pure.
3) Kiến
thanh tịnh: Views are pure.
4) Nghi
phân biệt thanh tịnh: Purity in doubt discrimination.
5) Phán
quyết thanh tịnh: Purity in judgment.
6) Hạnh
thanh tịnh: Purity in conduct.
7) Niết
bàn thanh tịnh: Purity in Nirvana.
(B) See Thất
Bồ Đề Phần and Thất Giác Chi in Vietnamese-English Section.
Thất Hòa: Bất
hòa—Dissension—Disagreement—Discord.
Thất Học: Illiterate.
Thất Hứa: To break (dishonour)
one’s word (promise).
Thất Hữu: See Thất Chủng Hữu in
Vietnamese-English Section.
Thất Hữu Y Phúc Nghiệp: The
seven grounds for a happy karma through benevolence to the needy:
1) Bố thí
cho khách và người lỡ bước: Almsgiving to visitors, travellers or
strangers.
2) Giúp
đỡ người bịnh: Bố thí cho người bịnh và giúp đở người hầu bịnh—Help the
sick and their nurses.
3) Trồng
cây và làm vườn cho tịnh xá: Bố thí vườn tược—Gifts of gardens and groves
to monasteries.
4) Thường
xuyên cung cấp thực phẩm cho chư Tăng Ni: Bố thí đồ ăn thường ngày—Regular
provision of food for the monks and the nuns.
5) Thường
xuyên cung cấp y áo cho chư Tăng Ni: Regular provision of clothes for the
monks and the nuns.
6) Thường
xuyên cung cấp thuốc men cho chư Tăng Ni: Regular provision of medicines
to the monks and the nuns.
7) Tùy
lúc bố thí: Practice Almsgiving whenever possible.
Thất Kế: To miscalculate.
Thất Kiện: To lose a lawsuit.
Thất Kiết Sử: Theo Kinh Phúng
Tụng trong Trường Bộ Kinh, có bảy kiết sử—According to the Sangiti Sutta
in the Long Discourses of the Buddha, there are seven fetters:
1) Ái
Kiết Sử: Anunaya (p)—Complaisance.
2) Sân
Kiết Sử: Resentment.
3) Kiến
Kiết Sử: Wrong views.
4) Nghi
Kiết Sử: Doubt.
5) Mạn
Kiết Sử: Conceit.
6) Hữu
Tham Kiết Sử: Fetter of craving for becoming.
7) Vô
Minh Kiết Sử: Fetter of ignorance.
Thất Kim Sơn: Bảy vòng núi vàng
bao quanh núi Tu Di—Seven concentric ranges around Sumeru.
1) Du
Kiệt Đà La : Yugamdhara.
2) Y Sa
Đa La: Isadhara.
3) Kiệt
Địa Lạt Già: Khadiraka.
4) Tô Đạt
Lê Xa Na: Sudarsana.
5) An
Thấp Phược Yết La: Asvakarna.
6) Tỳ Na
Đát Ca: Vinataka.
7) Ni Dân
Đạt La: Nemimdhara.
Thất Kinh:
Terrified—Terror-stricken.
Thất Kính: Disrespect.
Thất La Bà: Sravana (skt)—Sửu—A
constellation identified with the Ox, or 9 th Chinese constellation, in
the Aries and Sagittarius.
Thất La Mạt Ni La: Sramanera
(skt)—See Sa Di, Giới Sa Di.
Thất La Phạt Tất Để: Sravasti
or saravati (skt)—See Xá Vệ Quốc.
Thất La Phược Nã Ma Tẩy:
Sravana-masa (skt)—Tháng nóng nhất của mùa hè (từ 16 tháng 5 đến 15 tháng
6)—The hottest month of summer, July-August (from 16th of 5th month to
15th of 6th month).
** For more information,
please see Thập Nhị Nguyệt.
Thất Lạc: Lost.
Thất Lễ:
Discourteous—Impolite—Rude—Uncivil.
Thất Lợi: Sri (skt).
1) May
mắn: Fortunate—Lucky.
2) Thịnh
vượng: Prosperous.
3) Giàu
có: Wealth.
4) Sắc
đẹp: Beauty.
5) Tên
tắt của Ngài Văn Thù Thất Lợi (Sư Lợi)—An abbreviation for Manjusri.
Thất Lợi Cúc Đa: Srigupta
(skt)—Một người thù ghét Đức Phật, đã toan hại Phật bằng hầm lửa và một
loại thức uống độc—An enemy of Sakyamuni, whom he tried to destroy with a
pitfall of fire and a poisoned drink.
Thất Lợi Đề Bà: Srideva
(skt)—Tên của Đạo Hy, một nhà sư nổi tiếng của Trung Quốc—Name of
T’ao-His, a noted monk in China.
Thất Lợi La: Sarira (skt)—Xá
lợi—Relics.
** For more information,
please see Xá Lợi.
Thất Lợi La Đa: Srilabdha
(skt)—Một bình luận gia Phật Pháp nổi tiếng, người đã cống hiến tập bình
luận về Đại Thừa Khởi Tín Luận; người ta gọi ông là người giác ngộ của
vùng Bắc Ấn—A celebrated commentator, to whom is attributed the chief
commentary on the Awakening of Faith; he is called the enlighter of
northern India.
Thất Lợi Mật Đa La: Srimitra
(skt)—Một vị hoàng tử Ấn Độ, xuất gia rồi sang Trung Hoa khoảng những năm
317-322. Ngài đã dịch ba bộ kinh (không rõ tên kinh nào)—A prince of
India, who became a monk and translated three works in Nan-King around
317-322 A.D.
Thất Lợi Ngật Lật Đa Để:
Srikritati (skt)—Theo Eitel trong Trung Anh Phật Hoc Từ Điển, đây là tên
xưa của Kashgar—According to Eitel in The Dictionary of Chinese-English
Buddhist Terms, Srikritati was an ancient name of Kashgar.
Thất Lợi Sai Đán La: Sriksetra
(skt)—Theo Eitel trong Trung Anh Phật Học Từ Điển, Thất Lợi Sai Đán La là
tên một vương quốc Ấn Độ thời cổ, kinh đô có lẽ bây giờ là
Silhet—According to Eitel in The Dictionary of Chinese-English Buddhist
terms, Sriksetra was an ancient kingdom near the mouth of the
Brahmaputtra, capital probably is modern Silhet (Srihatta).
Thất Lợi Yết Bà: Srigarbha
(skt).
1) Kiết
Tường Thai: Fortune’s womb.
2) Danh
Hiệu của Visnu: An epithet of Visnu.
3) Thanh
kiếm: A sword.
4) Một
loại đá quý: A precious stone.
Thất Lộ: Lạc đường—To lose
one’s way.
Thất Lộc: To pass away—To die.
Thất Lực: Theo Kinh Phúng Tụng
trong Trường Bộ Kinh, có bảy lực—According to the Sangiti Sutta in the
Long Discourses of the Buddha, there are seven powers:
1) Tín
Lực: Power of faith.
2) Tinh
Tấn Lực: Power of energy.
3) Tàm
Lực: Power of moral shame.
4) Quý
Lực: Power of moral dread.
5) Niệm
Lực: Power of mindfulness.
6) Định
Lực: Power of concentration.
7) Tuệ
Lực: Power of wisdom.
Thất Ma Đát Lý: Saptamatr
(skt)—The seven divine mothers, or personified of the principal deities.
Thất Mạn: Theo Câu Xá Luận, có
bảy loại kiêu mạn—According to the Kosa Sastra, there are seven
pretensions or arrogances:
1) Mạn:
Mana (skt)—Khởi tâm kiêu mạn cho rằng mình hơn hay mình bằng
người—Asserting superiority over inferiors and equality with equals.
2) Quá
mạn: Ati-mana (skt)—Khởi tâm kiêu mạn cho rằng mình hơn những người bằng
mình, và cho rằng mình bằng hay coi thường những người hơn mình—The pride
which among equals regards self as superior and among superiors as equal
(superiority over equals and equality with superiors).
3) Mạn
quá mạn: Manati-mana (skt)—Khởi tâm kiêu mạn cho rằng mình hơn những người
hơn mình—Superiority over manifest superiors.
4) Ngã
mạn: Atma-mana (skt)—Khởi tâm kiêu mạn chấp có ta và có cái sở hữu của
ta—Egotism or overweening pride.
5) Tăng
thượng mạn: Adhi-mana (skt)—Khởi tâm kiêu mạn khi chưa chứng đắc Thánh đạo
mà cho là chứng đắc—Vaunting assertion of possessing the truth.
6) Ti
mạn: Una-mana (skt)—Ti Hạ Mạn—Khởi tâm kiêu mạn cho rằng người cực kỳ tài
giỏi chỉ hơn mình chút ít thôi—Vaunting one’s inferiority or flase
humility. The pride of regarding self as little inferior to those who far
surpass one.
7) Tà
mạn: Mithya-mana (skt)—Khởi tâm kiêu mạn cho rằng mình có đạo đức, kỳ thật
mình chẳng có đạo đức gì—Vaunting lack of virtue for virtue.
Thất Mẫu Thiên: Seven divine
mothers.
Thất Miên: Mất
ngủ—Sleeplessness—Insomnia.
Thất Minh: Blind.
Thất Mùa: To lose crop—To have
a poor crop.
Thất Nạn: The seven
calamities—Seven disasters:
(A)
1) Nạn
bởi mặt trời mặt trăng lỗi độ: Sun and moon losing their order
(eclipses)—Too early monsoon or too late monsoon.
2) Nạn
bởi các vì sao lỗi độ: Unlucky stars—Constellations irregular.
3) Nạn
lửa cháy: Fire.
4) Nạn
lụt: Flood.
5) Nạn
giông bão: Wind-storms—Violent storms.
6) Nạn
hạn hán: Drought.
7) Nạn
giặc cướp: Rebellion, invasion and robbers—Hateful bandits anf thieves.
(B)
1) Nạn
lửa: Fire.
2) Nạn
nước: Water.
3) Nạn
giông bão: Violent or wind storms.
4) Nạn
gươm đao: Knives and staves.
5) Nạn
quỷ dữ: Vengeful ghosts.
6) Nạn
gông cùm: Yokes, chains and fetters.
7) Nạn
giặc cướp: Hateful bandits and thieves.
Thất Nghi: Improper.
Thất Nghịch: Thất nghịch
tội—The seven rebellion acts or deadly sins:
1) Làm
thân Phật chảy máu: Shedding a Buddha’s blood.
2) Thí
phụ: Giết cha—Killing father.
3) Thí
mẫu: Giết mẹ—Killing mother.
4) Thí
Tăng: Giết Tỳ kheo—Killing a monk.
5) Thí A
xà lê: Giết Thầy dạy đạo—Killing a master (teacher).
6) Phá
kiết ma: Subverting or disrupting monks.
7) Thí
A-la-hán: Killing an Araht.
Thất Ngôn: To speak in vain—To
waste one’s words.
Thất Nhân Tâm: Unpopular.
Thất Nhật: Bảy ngày trong một
tuần—Seven days in a week:
1) Chủ
Nhật: Ravivara (skt)—Sunday.
2) Thứ
Hai: Somavara (skt)—Monday.
3) Thứ
Ba: Mangalavara (skt)—Tuesday.
4) Thứ
Tư: Budhavara (skt)—Wednesday.
5) Thứ
Năm: Brhaspativara (skt)—Thursday.
6) Thứ
Sáu: Sukravara (skt)—Friday.
7) Thứ
Bảy: Sanivara (skt)—Saturday.
Thất Như Lai: The seven
Tathagatas:
1) A Di
Đà: Amitabha.
2) Cam Lộ
Vương: Kanlu Wang.
3) Quán
Âm: Kuan Yin.
4) Diệu
Sắc Thân:
5) Bảo
Thắng: Ratnasambhava.
6) Li Bố
Úy:
7) Quảng
Bác Thân: Đa Bảo—Prabhutaratna.
Thất Niệm: Distraction—To lose
the train of thought or meditation—Loss of memory—Wandering mind.
Thất Pháp: See Thất Bất Khả Tỵ
in Vietnamese-English Section.
Thất Pháp Tài: Bảy cách làm
giàu trong chánh pháp—The seven riches or seven ways of becoming rich in
the Law:
1) Tín:
Faith.
2) Tấn:
Zeal.
3) Giới:
Moral restraint.
4) Tàm
quí: Shame.
5) Văn:
Obedient hearing of the Law.
6) Xả:
Abnegation or abandonment.
7) Định
huệ: Wisdom arising from meditation.
Thất Pháp Bất Tịnh Quán: Seven
Types of Meditation on Impurity—Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong Tịnh
Độ Thập Nghi Hoặc Vấn Luận, hành giả tu tịnh độ muốn quyết định được sanh
về Tây Phương Cực Lạc, cần nên luôn tập tu hạnh yễm ly bằng cách quán bảy
pháp bất tịnh. Thân mình đã thế, thân người khác lại cũng như vậy. Nếu
thường quán sát bảy điều bất tịnh nầy, đối với các thân nam nữ mà người
đời cho rằng xinh đẹp, cũng sanh niệm yễm ly và lửa ái dục lần lần tiêu
giảm—According to Most Venerable Thích Thiền Tâm in the Pure Land
Buddhism, if a Pure Land practitioner wishes to be assured of rebirth, he
or she should perfect the practice of disgust of the five desires by
engaging in the seven types of meditation on impurity. Our own bodies
being impure, the bodies of others are likewise. If we constantly meditate
on these seven impurities, we will gradually develop disgust toward those
male and female forms which ordinary people judge handsome and beautiful.
Thus the flames of lust will gradually diminish.
1) Chủng
tử bất tịnh—The impure seed: Thân nầy do nơi nghiệp dâm dục, từ hạt giống
tham ái mà sanh—This body is born from the karma of lust and attachment.
2) Thọ
sanh bất tịnh—The impure birth: Mầm sanh khởi của bản thân do một điểm
tinh huyết của cha mẹ hòa hợp trong khi gần gủi—The fetus is a combination
of father’s sperm and mother’s egg in sexual intercourse.
3) Trụ xứ
bất tịnh: Thai thân ở trong tử cung nhơ nhớp, nằm dưới ruột non, trên ruột
già—The fetus in impure, dirty area of the womb, under the small
intestines and above the large intestines.
4) Thực
đạm bất tịnh: Khi còn ở trong thai, huyễn thân lại thọ dụng huyết phần của
người mẹ—As a fetus, the body drinks the mother’s blood.
5) Sơ
sanh bất tịnh: Khi đã đủ tháng ngày, thai thân đầu hướng về sản môn, ra
khỏi mình người mẹ cùng một lúc với máu mủ, sự hôi nhơ dẫy đầy—Once ready
to be born, the fetus emerges from the womb with pus and blood gushing
forth and foul odors in profusion.
6) Cử thể
bất tịnh: Trong lớp da ngoài che đậy thân nầy là tất cả sự hôi nhơ của các
chất, thịt, xương, máu, đàm, đại, tiểu, vân vân—Inside a thin layer of
skin, the body contains nothing but flesh, bones, blood, sputum, urine,
and stool, etc.
7) Cứu
cánh bất tịnh: Đến khi chết rồi, thân nầy là một đống thịt sình thúi rã
rời, mặc cho giòi tửa bò lan hoặc quạ diều tha mổ—After death, the body
swelling up and rotting away, with flesh and bones disarray, feeding
feelers and crows.
Thất Phật: Bảy vị cổ Phật—The
seven ancient Buddhas:
(A) Ba vị
Phật trong thời quá khứ Trang Nghiêm Kiếp—Three Buddhas in the past
glorious kalpa:
1) Tỳ Bà
Thi Phật: Vipasyin Buddha (Universally Preaching).
2) Thi
Khí Phật: Sikhin Buddha (Fire).
3) Tỳ Xá
Phù Phật: Visyabhu Buddha (All Benevolent).
(B) Bốn vị
Phật trong thời Hiền Kiếp—Four Buddhas in the present or Bhadra kalpa:
4)
Ca-la-ca-tôn (Câu Lưu Tôn) Phật: Krakucchanda Buddha (present kalpa—Gold
Wizard).
5) Câu Na
Hàm Mâu Ni Phật: Kanakamuni Buddha (present kalpa—Golden Wizard).
6) Ca
Diếp Phật: Kasyapa Buddha (Drinking Brightness).
7) Thích
Ca Mâu Ni Phật: Sakyamuni Buddha (present kalpa—Benevolence and Serenity).
Thất Phật Dược Sư: The seven
healing Buddhas.
Thất Phật Thông Giới: Sakyamuni
Buddha and six legendary Buddhas who preceded him—See Thất Phật in
Vietnamese-English Section.
Thất Phi Diệu Pháp: Asaddhamma
(p)—Theo Kinh Phúng Tụng trong Trường Bộ Kinh, có bảy phi diệu
pháp—According to the Sangiti Sutta in the Long Discourses of the Buddha,
there are seven wrong practices:
1) Ở đây
vị Tỳ Kheo bất tín: Here a monk who lacks faith.
2) Ở đây
vị Tỳ Kheo vô tàm: Here a monk who lacks moral shame.
3) Ở đây
vị Tỳ Kheo vô quý: Here a monk who lacks moral dread.
4) Ở đây
vị Tỳ Kheo thiểu văn: Here a monk who has little learning.
5) Ở đây
vị Tỳ Kheo giải đãi: Kusito (p)—Here a monk who is slack.
6) Ở đây
vị Tỳ Kheo thất niệm: Mutthassati (p)—Here a monk who is unmindful.
7) Ở đây
vị Tỳ Kheo liệt tuệ: Here a monk who lacks wisdom.
** For more information,
please see Thất
Diệu Pháp.
Thất Phu: Coarse person.
Thất Sách: Impolitic.
Thất Sắc: To turn pale
(white)—To blench—To blanch.
Thất Sứ Giả: Klesas (skt)—Bảy
sứ giả của ác đạo—The seven messengers or agents that cause sentient
beings to go down to the evil paths:
1) Ái
dục: Desire.
2) Sân
hận: Anger.
3) Vướng
mắc: Clinging or attachment.
4) Cống
cao ngã mạn: Pride or arrogance.
5) Vô
minh: Ignorance or unenlightenment.
6) Tà
kiến: Wrong views.
7) Nghi
hoặc: Doubts.
Thất Sự Tùy Thân: Bảy món tùy
thân—The seven appurtenances of a monk:
1) Tam y:
The three garments.
2) Nhứt
bát: A bowl.
3) Lư
hương: Censer.
4) Bàn
chải: A duster or fly-brush.
5) Ghế
đẩu: A stool.
6) Giấy
vệ sinh: Hygienic paper.
7) Đồ để
rửa ráy: Material for washing.
Thất Tai Nạn: See Thất Nạn in
Vietnamese-English Section.
Thất Tăng: Pháp hội tự viện gồm
bảy vị Tăng—An assembly of a monastery fraternity, usually composed of
seven monks:
(A)
1) Trú
nguyện Sư: Invoker.
2) Đạo
Sư: Leader.
3) Phạm
Âm Sư: Master of sacred words.
4) Chủ tế
Sư: Intoner or leader of the chanting.
5) Tán
hoa Sư: Flower-scatterer.
6) Đường
Đạt Sư: Distributor of Missals.
7) Tích
Trượng Sư: Shaker of the rings on the metal staff.
(B)
1) Giảng
Sư: Expounder.
2) Độc
Sư: Reader.
3) Trú
nguyện Sư: Invoker.
4) Tam Lễ
Sư: Director of the three ceremonies.
5) Chủ Tế
Sư: Intoner or leader of the chanting.
6) Tán
Hoa Sư: Flower Scattered.
7) Đường
Đạt Sư: Distributor of missals.
Thất Tăng Pháp Hội: An assembly
of a monasterial fraternity—See Thất Tăng.
Thất Tăng Tề: An endowment for
a complete monastic fraternity of seven monks.
Thất Tâm Giới: The seven realms
perception:
1) Tâm
nhãn: Perception produced by eye.
2) Tâm
thiệt: Perception produced by tongue.
3) Tâm
thính: Perception produced by ear.
4) Tâm
tỷ: Perception produced by nose.
5) Tâm
thân: Perception produced by body.
6) Tâm
tưởng: Perception produced by mind.
7) Tâm ý:
Perception produced by thought.
Thất Thanh:
1) Tiếng
kêu sợ hãi: To cry or shout with horror.
2) Tắt
tiếng: To lose one’s voice.
Thất Thánh:
(A) Theo Đại
Thừa, thất Thánh hay bảy bước đi vào kiến đạo (trí huệ không sai
phạm)—According to the Mahayana, seven sacred graces or seven grades or
steps in virtue preceding the entry into faultless wisdom.
(B) Theo
trường phái Câu Xá của Tiểu Thừa, thất Thánh là bảy sự phát triển để đi
đến Thánh thiện—According to Kosa School of Hinayana, the seven sacred
graces are seven developments of holiness.
1) Tín:
Faith.
2) Giới
(Trì giới): Observance of the commandments.
3) Văn
(Nghe pháp): Hearing instruction.
4) Tàm:
Shame for self.
5) Quí:
Shame for others.
6) Xả:
Renunciation.
7) Huệ:
Wisdom.
Thất Thánh Giác: See Thất Bồ Đề
Phần and Thất Giác Chi in Vietnamese-English Section.
Thất Thánh Tài: Ariya-dhanani
(p)—Bảy tài sản.
(A) Bảy tài
sản của bậc Thánh Nhân—Seven Treasures of Enlightened Beings:
1) Tín:
Đức tin—Faithfulness.
2) Tấn:
Tinh tấn—Vigor.
3) Tàm
quý: Hổ với bên ngoài và thẹn với bên trong—Shamefulness.
4) Đa
văn: Học nhiều hiểu rộng—Broad knowledge.
5) Xả:
Không chấp giữ trong tâm—Forgiveness or Abandonment.
6) Định:
Tâm không dao động—Concentration or Samadhi.
7) Huệ:
Trí huệ—Wisdom.
(B) Theo Kinh
Phúng Tụng trong Trường Bộ Kinh, có thất thánh tài—According to the
Sangiti Sutta in the Long Discourses of the Buddha, there are seven Ariyan
treasures:
1) Tín
Tài: The treasure of Faith.
2) Giới
Tài: The treasure of morality.
3) Tàm
Tài: Hiri (p)—The treasure of moral shame.
4) Quý
Tài: Ottappa (p)—The treasure of moral dread.
5) Văn
Tài: Suta (p)—The treasure of learning.
6) Thí
Tài: Caga (p)—The treasure of renunciation.
7) Tuệ
Tài: Wisdom.
Thất Thánh Vị: See Thất Thánh
in Vietnamese-English Section.
Thất Thắng Sự: Bảy loại vô
thượng—The seven surpassing qualities of a Buddha:
1) Phật
thân: Buddha’s body (his body with thirty-two signs and eighty-four marks.
2) Phật
pháp: Buddha’s dharma or universal law—His way of universal mercy.
3) Phật
huệ: Buddha’s wisdom.
4) Phật
Toàn: Buddha’s perfection—His perfect insight or doctrine.
5) Thần
lực: His supernatural powers.
6) Khả
năng đoạn khổ giải thoát: His ability to overcome hindrance and attain
Deliverance.
7) Niết
Bàn: His abiding place (Nirvana).
Thất Thập Ngũ Giới Chúng Học (Tăng):
Sikkka-karaniya (skt)—Sekhiyadhamma (p)—Tiếng Phạn
gọi là Thức Xoa Ca La Ni—Theo Luật Tạng, Thức Xoa Ca La Ni là một trăm
giới cần học trong sinh hoạt hằng ngày—According to the Vinaya Pitaka,
Sikkka-karaniya includes one hundred rules of conduct which are connected
with daily activities.
1) Cái
chăn phải vận từ nịch lưng tới nửa ống chân, chứ không được xăn, để phủ
trùm rún và hai đầu gối. Nếu ai để chăn xăng lên hay lòng thòng ra ngoài,
dù phía trước hay phía sau, đều bị phạm tội Thức Xoa Ca La Ni: A monk
should wear the inner robe all round for covering the circle of the navel
and the circles of the knees. Whoever out of disrespect dresses with an
inner robe hanging down in front or behind, there is an offence of
wrong-doing.
2) Bộ áo
ba cái phải mặc cho có thứ lớp: A monk should wear the upper robe even all
round (whoever out of disrespect puts on an upper robe hanging down in
front or behind, there is an offence of wrong-doing).
3) Chẳng
nên đi vào nhà cư sĩ mà không mặc áo che mình: A monk should not, out of
disrespect, having uncovered the body, go among the houses.
4) Chẳng
nên ngồi trong nhà cư sĩ mà không mặc áo che mình: A monk should not, out
of disrespect, sit down among the house without proper clothes.
5) Chẳng
nên đi vào nhà cư sĩ mà múa tay: A monk should not go fidgeting amidst the
houses (making play with hand or foot).
6) Chẳng
nên ngồi trong nhà cư sĩ mà múa tay: A monk should not sit fidgeting in
inhabited areas (making play with hand or foot in the houses).
7) Chẳng
nên đi vào nhà cư sĩ mà mắt trông bên nầy, bên kia. Mắt vị ấy chỉ nên nhìn
xuống và xa về phía trước chỉ khoảng bề ngang một luống cày: A monk should
not go among the houses with eyes glanced around. He should go amidst the
houses with eyes cast down looking only a plough’s distance ahead.
8) Chẳng
nên ngồi trong nhà cư sĩ mà mắt trông bên này, bên kia. Mắt vị ấy chỉ nên
nhìn xuống và xa về phía trước khoảng bề ngang một luống cày: A monk
should not sit down in the houses with eyes glanced around. He should sit
down amidst the houses with eyes cast down looking only a plough’s
distance ahead.
9) Chẳng
nên đi vào nhà cư sĩ mà lật áo lên tới vai: A monk should not go among the
houses with robes lifted up to the shoulders, either on one side or on
both (if out of disrespect having lifted up the robe on one side or on
both, there is an offence of wrong-doing).
10) Chẳng nên
ngồi trong nhà cư sĩ mà lật áo lên tới vai: A monk should not sit down
amidst the houses with robes lifted up to the shoulders, either on one
side or on both.
11) Chẳng nên
cười cợt khi đi vào nhà cư sĩ: A monk should not go into the houses with
loud laughter.
12) Chẳng nên
cười cợt khi ngồi trong nhà cư sĩ: A monk should not sit down in the
houses with loud laughter.
13) Chẳng nên
ngồi trong nhà cư sĩ mà gây ra tiếng động dù là tiếng động nhỏ: With
little noise will I go sit down amidst the houses, is a training to be
observed. One should go sit down amidst the houses with little noise.
14) Chẳng nên
ngồi trong nhà cư sĩ mà bất kính gây nên tiếng động lớn: Whoever out of
disrespect, making a loud noise, a great noise, goes sits down amidst the
houses, there is an offence of wrong-doing.
15) Chẳng nên
đi vào nhà cư sĩ mà lay chuyển thân mình: A monk should not go amidst the
houses swaying the body. He should hold the body straight.
16) Chẳng nên
ngồi trong nhà cư sĩ mà lay chuyển thân mình: A monk should not sit down
amidst the houses sway the body. He should hold the body straight.
17) Chẳng nên
ngồi trong nhà cư sĩ mà lay động đôi tay: Not swaying the arms will I go
sit down amidst the houses, is a training to be observed. One should not
go sit down amidst the houses swaying the arms. One should go sit down
holding the arms straight.
18) Chẳng nên
vì bất kính mà lay động đôi tay lúc ngồi trong nhà cư sĩ: Whoever out of
disrespect, the arms swaying , goes sits down amidst the houses bending
the arms, there is an offence of wrong-doing.
19) Chẳng nên
ngồi trong nhà cư sĩ mà đầu lắc lia (đầu nên giữ thẳng): Not swaying the
head will I go sit down amidst the houses, is a training to be observed.
One should not go sit down amidst the houses swaying the head. One should
go sit down holding the head straight.
20) Chẳng nên
vì bất kính mà đầu lắc lia lúc ngồi trong nhà cư sĩ: Whoever out of
disrespect, the head swaying , goes sits down amidst the houses bending
the head, there is an offence of wrong-doing.
21) Chẳng nên
đi vào nhà cư sĩ mà chắp tay sau lưng hay chống nạnh: A monk should not
enter any lay people’s houses with the arms placed on the hips, or with
the hands on both sides and the elbows turned outwards (akimbo).
22) Chẳng nên
ngồi trong nhà cư sĩ mà chắp tay sau lưng hay chống nạnh: A monk should
not sit down in lay people’s houses with the arms akimbo (arms place on
the hips, or hands on both sides and elbows turned outwards).
23) Chẳng nên
choàng khăn cổ khi ngồi trong nhà cư sĩ: One should not go sit down
muffled up amidst the houses.
24) Chẳng nên
bất kính vừa ngồi vừa mặc y áo trong nhà cư sĩ: Whoever out of disrespect
goes sits down amidst the houses, having dressed himself, including his
head, in the upper robe, there is an offence of wrong-doing.
25) Chẳng nên
ngồi chồm hổm trong nhà cư sĩ: A monk should not crouch down on the heels
(sit arms akimbo) in the lay people’s houses.
26) Chẳng nên
ngồi chống tay lên cằm trong nhà cư sĩ: One should not sit down amidst the
houses lolling. Whoever out of disrespect sits down amidst the houses
lolling, there is an offence of wrong-doing.
27) Phải để ý
khi lãnh cơm: A monk should accept almsfood attentively. Whoever out of
disrespect accepts almsfood inattentively, as though desirous of throwing
it away, there is an offence of wrong-doing.
28) Chẳng nên
ngó quanh ngó quẩn khi nhận thực vật cúng dường (chỉ nên ngó thẳng vào
bát): One should accept almsfood thinking of the bowl. Whoever out of
disrespect accepts almsfood, looking about here and there, there is an
offence of wrong-doing.
29) Chẳng nên
nhận quá nhiều cà ri (món ăn đặc biệt của Ấn Độ): Almsfood with equal
curry should be accepted. Whoever out of disrespect accepts too much
curry, there is an offence of wrong-doing.
30) Chẳng nên
xới cơm lên che khuất đồ ăn đặng lãnh thêm nữa: A monk should not hide
(cover up) sauce and curries with rice out of desire to get more. One
should accept almsfood at an even level. Whoever out of disrespect accepts
heaped-up almsfood, there is an offence of wrong-doing.
31) Lãnh cơm
và đồ ăn đủ rồi, phủ cái bát lại, vừa ăn vừa quán tưởng. Những ai bất
kính, ăn đồ khất thực mà không quán tưởng là phạm tội: After accepting
enough alms-food, a monk should cover the bowl; then he should sit
straight up, eat and contemplate at the same time. Whoever out of
disrespect eats almsfood inattentively, there is an offence of
wrong-doing.
32) Chẳng nên
bất kính vừa ăn vừa ngó quanh quẩn (chỉ nên nhìn thẳng vào bát): One
should eat almsfood thinking of the bowl. Whoever out of disrespect eats
almsfood looking about here and there, there is an offence of wrong-doing.
33) Chẳng nên
lựa chỗ thọ thực (chỉ nên thọ thực trên đường đi khất thực mà thôi): One
should eat almsfood on continuous alms-tour. Whoever out of disrespect
eats almsfood, having chosen here and there, there is an offence of
wrong-doing.
34) Chỉ nên
ăn vừa phải cà ri (món ăn đặc biệt của Ấn Độ): Almsfood with equal curry
should be eaten. Whoever out of disrespect eats too much curry, there is
an offence of wrong-doing.
35) Món nào
xúc trước thì ăn trước: A monk should eat the alms-food working down from
the top without making exceptions (choosing or selecting foods). One
should eat almsfood not having chosen from the top. Whoever out of
disrespect eats almsfood having chosen from the top, there is an offence
of wrong-doing.
36) Chẳng nên
che lấp cà ri để được nhận thêm: One should not cover up the curry or the
condiment with conjey, desiring something more. Whoever out of disrespect
covers up the curry or the condiment with conjey, desiring something more,
there is an offence of wrong-doing.
37) Chẳng nên
hỏi canh ngon, hoặc món lạ, trừ khi đau yếu phải tùy món cần dùng: A monk
should not ask for sauce and/or rice for his own appetizing unless he is
sick.
38) Chẳng nên
thấy vị khác lãnh đồ ăn mà sanh lòng thèm muốn. Chẳng nên nhìn sang bát
của người khác có ý thèm thuồng, nếu không là phạm tội: A monk should not
look enviously at another’s bowl. One should not look at others’ bowls
captious-mindedly. Whoever out of disrespect looks at others’ bowls
captious-mindedly, there is an offence of wrong-doing.
39) Chẳng nên
ăn miếng lớn: When eating alms-food, a monk should not make up too large a
mouthful. Whoever out of disrespect makes up too large a mouthful, there
is an offence of wrong-doing.
40) Chẳng nên
cho vào miệng miếng ăn dài (nên làm tròn miếng ăn trước khi cho vào
miệng): One should make up a piece of food into a round. Whoever out of
disrespect makes up a long piece of food, there is an offence of
wrong-doing.
41) Chẳng nên
há miệng lớn, mà đút đồ ăn (chẳng nên há miệng trước khi miếng đồ ăn được
đưa đến miệng): A monk should not open the mouth till the mouthful is
brought to it. Whoever out of disrespect opens the mouth when the
mouthful is not brought close, there is an offence of wrong-doing.
42) Chẳng nên
cho nguyên bàn tay với thức ăn tay vào miệng khi đang ăn: One should not
put the whole hand into the mouth while eating. Whoever out of disrespect
puts the whole hand into the mouth while eating, there is an offence of
wrong-doing.
43) Chẳng nên
nói chuyện, khi ngậm một miệng đồ ăn: A monk should not talk with the
mouth full (talk with a mouthful in the mouth). Whoever out of disrespect
talks with a mouthful in the mouth, there is an offence of wrong-doing.
44) Chẳng nên
lấy cơm vò viên, mà thảy vào miệng: When eating alms-food, a monk should
not make up a round mouthful (eat tossing up balls of food). Whoever out
of disrespect eats tossing up balls of food, there is an offence of
wrong-doing.
45) Chẳng nên
ăn trám vàm đến nỗi rớt ra: A monk should not eat scattering rice or lumps
of boiled rice about. Whoever out of disrespect eats breaking up the
mouthfuls, there is an offence of wrong-doing.
46) Chẳng nên
đưa đồ ăn má bên này, qua má bên kia như khỉ: A monk should not eat
stuffing out the cheeks like a monkey (stuffed the cheek on one side or on
both). Whoever out of disrespect eats, having stuffed cheek on one side or
on both, there is an offence of wrong-doing.
47) Chẳng nên
quơ tay trong khi ăn: A monk should not eat shaking the hand about.
Whoever out of disrespect eats shaking the hands about, there is an
offence of wrong-doing.
48) Chẳng nên
để cơm rời rạc mà cho vào miệng (tránh bị đổ tháo): One should not eat
scattering lumps of boiled rice. Whoever out of disrespect eats scattering
lumps of boiled rice, there is an offence of wrong-doing.
49) Chẳng nên
lè lưỡi ra, hay lấy lưỡi liếm: A monk should not eat put out the tongue,
or eat licking or wiping, either the hand or the bowl.
50) Chẳng nên
nút đồ ăn trong khi ăn hay nút môi chùn chụt: A monk should not suck the
alms-food loudly, or smack the lips loudly.
51) Chẳng nên
nhai lớn tiếng hay phát ra tiếng gió: A monk should not eat making loud
sound or noise, or making a hissing sound.
52) Chẳng nên
liếm tay khi đang ăn: One should not eat licking the fingers.
53) Chẳng nên
liếm chén khi ăn: One should not eat licking the bowl.
54) Chẳng nên
liếm môi khi đang ăn: One should not eat licking the lips.
55) Chẳng nên
cầm bình uống nước mà chẳng rửa tay: A monk should not accept a
drinking-water pot or cup with the hands soiled with food.
56) Chẳng nên
tạt nước rửa bát với cơm cặn lợn cợn ra sân của thí chủ: A monk should not
throw out amidst the houses, rinsings of the bowl with lumps of boiled
rice (bowl washing water which has rice grains in it).
57) Chẳng nên
vị tình thuyết pháp cho kẻ vô lễ, cầm dù: A monk should not teach Dharma
to someone (with disrespect) with an umbrella or a sunshade in his hand
who is not sick.
58) Chẳng nên
vị tình thuyết pháp cho kẻ vô lễ, không đau bệnh mà cầm gậy: A monk should
not teach Dharma to someone (with disrespect) with a stick (staff) in his
hand and who is not sick.
59) Chẳng nên
vị tình thuyết pháp cho kẻ vô lễ, cầm dao: A monk should not teach Dharma
to someone (with disrespect) with a knife in his hand.
60) Chẳng nên
vị tình thuyết pháp cho kẻ vô lễ, cầm giáo: A monk should not teach Dharma
to someone (with disrespect) with a spear (lance) in his hand.
61) Chẳng nên
vị tình thuyết pháp cho kẻ vô lễ, đi guốc: A monk should not teach Dharma
to someone (with disrespect) mounted on clogs (wooden shoes).
62) Chẳng nên
vị tình thuyết pháp cho kẻ vô lễ, đi dép: A monk should not teach Dharma
to someone (with disrespect) wearing sandals who is not sick.
63) Chẳng nên
vị tình thuyết pháp cho kẻ vô lễ, cỡi ngựa, đi kiệu: A monk should not
teach the law to someone (with disrespect) in a vehicle who is not sick.
Whoever out of disrespect teaches Dhamma to someone in a vehicle and who
is not ill, there is an offence of wrong-doing.
64) Chẳng nên
vị tình thuyết pháp cho kẻ vô lễ, nằm trên giường hay nằm dưới đất trong
khi mình ngồi: A monk should not sit to teach Dharma to someone (with
disrespect) lying on a bed and who is not ill, or even lying on the
ground.
65) Chẳng nên
vị tình thuyết pháp cho kẻ vô lễ, ngồi trong khi mình đứng: A monk should
not teach Dharma, standing, to someone (with disrespect) sitting down, and
who is not sick
a) Chẳng
nên vị tình thuyết pháp cho kẻ vô lễ, ngồi trên ghế trong khi mình ngồi
dưới đất (ngồi chỗ tốt trong khi mình ngồi chỗ xấu): A monk should not sit
down on the ground to teach Dharma to someone (with disrespect) sitting on
a seat and who is not ill.
b) Chẳng
nên vị tình thuyết pháp cho kẻ vô lễ, ngồi chỗ cao trong khi mình ngồi chỗ
thấp: A monk should not teach Dharma, having sat down on a low seat, to
someone (with disrespect) sitting on a high seat and who is not ill.
66) Chẳng nên
vị tình thuyết pháp cho kẻ vô lễ che đầu: A monk should not teach the law
to someone (with disrespect) with head covered (with a turban on his head)
and who is not sick.
67) Chẳng nên
vị tình thuyết pháp cho kẻ vô lễ dùng khăng quấn đầu: A monk should not
teach Dharma to someone (with disrespect) wearing a head wrapping (whose
head muffled up) and who is not sick.
68) Khi mình
ngồi dưới đất, chẳng nên vị tình thuyết pháp cho kẻ không có bệnh mà vô lễ
ngồi trên ghế: Having sat down on the ground, dhamma should not be taught
to someone (with disrespect) siting on a seat and who is not ill.
69) Khi mình
ngồi ghế thấp, chẳng nên vị tình thuyết pháp cho kẻ không có bệnh mà vô lễ
ngồi trên ghế cao: Dhamma should not be taught, having sat down on a low
seat, to someone (with disrespect) sitting on a high seat and who is not
ill.
70) Khi mình
đứng, chẳng nên vô tình thuyết pháp cho kẻ không có bệnh mà vô lễ ngồi: A
monk should not teach Dhamma, standing, to someone (with disrespect) who
is sitting down and who is not ill.
71) Chẳng nên
vị tình thuyết pháp cho kẻ vô lễ, đi trước mà mình đi sau: A monk should
not teach Dharma, going or walking behind, to someone (with disrespect)
going or walking in front and who is not ill.
72) Chẳng nên
vị tình thuyết pháp cho kẻ vô lễ, đứng ở giữa đường mà mình đứng ở bên
đường: A monk should not teach Dharma, standing beside (at the side of) a
path, to someone (with disrespect) standing on a path (in the middle of
the path).
73) Khi đứng
chẳng nên tự tiện khạc nhổ: One must not ease or spit oneself standing if
not ill. Whoever out of disrespect eases or spits himself standing if not
ill, there is an offence of wrong-doing.
74) Nếu chẳng
phải bệnh, chẳng nên tự tiện khạc nhổ vào cây xanh: A monk should not ease
himself or spit, if not ill, on green corn.
75) Nếu
chẳng phải bệnh, chẳng nên tự tiện khạc nhổ xuống nước: A monk should not
ease himself or spit in the water.
Thất Thập Ngũ Pháp: Bảy Mươi
Lăm Pháp của Câu Xá tông, được chia làm năm nhóm—The seventy five dharmas
of the Abhidharma Kosa, divided into five groups:
1) 11 Sắc
pháp: Material—Rupati 11.
2) 1 Tâm
pháp: Mind or Cittam 1.
3) 46 Tâm
sở hữu pháp: 46 Citta-samprayuktasamskarah.
4) 14 Tâm
bất tương ưng hành pháp: 14 Non-mental Citta-viprayuktasamskarah.
5) 3 Vô
Vi tướng pháp: Three unconditioned or non-phenomenal
elements—Asamskrta-dharma.
** For more information,
please see Bảy Mươi Lăm Pháp của Tông Câu Xá.
Thất Thập Nhị Thiên: The
seventy-two devas.
Thất Thập Nhị Tuế: Tuổi 72,
tuổi mà Đức Phật nổi tiếng khi đã thuyết Kinh Pháp Hoa—The age 72, at
which Buddha is reputed to have preached the Lotus Sutra.
Thất Thập Tam Tôn: Trong Mạn Đà
La của trường phái Mật Tông, có bẩy mươi ba vị Tôn Quý—The Diamond world
Mandala of the esoteric sect, containing seventy-three honoured ones.
Thất Thất Kỵ: Ngày lễ thứ 49
cho người chết—The seventh seven day of the masses for the dead.
Thất Thất Nhựt: Bốn mươi chín
ngày—The period of forty nine days after death.
Thất Thất Nhựt Kỵ: The seventh
seventh of the masses for the dead.
Thất Thất Nhựt Tề: Lễ “Tuần”
cho người chết, cứ bảy ngày một lần trong bảy tuần. Trong thời gian nầy,
trạng thái của người chết là trạng thái “thân trung ấm.” Vào cuối ngày thứ
49, sự xét đoán về đầu thai bắt đầu. Nếu làm đúng lễ, gia đình có thể hộ
niệm giúp người chết vượt qua những hiểm địa để đạt đến cảnh giới sung
sướng—Masses for the dead on every seventh day for seven times. During
this period, the deceased is in the antarabhava or intermediate state
(thân trung ấm). At the end of forty nine days, judgment having been made,
the deceased enters upon the next state. By observing the proper rites,
his family may aid him in overcoming his perils and attaining to a happy
destiny.
Thất Thế: To lose one’s
influence.
Thất Thểu: To stagger—To
totter.
Thất (Sắc) Thiên: Bảy Tầng Trời
Sắc Giới—Seven Heavens in the Form Realm:
(A)
1) Tịnh
Cư Thiên: The Heavens of Pure Dwelling.
2) Phạm
Thiên: The Brahma Heavens.
3) Tha
Hóa Thiên: The Heavens of Others’ Transformation.
4) Tha
Hóa Tự Tại Thiên: The Heavens of Comfort from Transformation.
5) Đâu
Suất Thiên: The Tushita Heaven.
6) Tô Dạ
Ma Thiên: Suyama Heaven.
7) Đao
Lợi Thiên: The Heaven of the Thirty-Three.
(B)
1) Phạm
Thiên: The Brahma Heaven.
2) Tịnh
Cư Thiên: Năm cõi trời Tịnh Cư—The five Pure Dwelling Heavens—Heavens of
No-Return.
3) Vô
tưởng Thiên: The No Thought Heaven.
4) Nhứt
Thiền Thiên: The First Dhyana Heaven.
5) Nhị
Thiền Thiên: The Second Dhyana Heaven.
6) Tam
Thiền Thiên: The Third Dhyana Heaven.
7) Tứ
Thiền Thiên: The Fourth Dhyana Heaven.
Thất Thiên Tụ: Seven kinds of
wrong doing of monks and nuns.
1-5) See Lục Thiên Tụ,
ngoại trừ Đột Cát La
Tội—From one to 5
see Lục Thiên Tụ,
except Đột Cát La
(Duskrta).
6) Đột
Cát La về thân: Duskrta (skt)—Light sins, errors, or faults in action.
7) Đột
Cát La về khẩu: Light sins, errors, or faults on speech.
Thất Thiện: Bảy điều thiện tối
thắng trong Phật pháp—The seven excellences claimed for the Buddha’s
teaching:
1) Hợp
thời: Right timing or seasonable.
2) Hợp
nghĩa: Right meaning.
3) Hợp
ngữ: Right expression.
4) Độc
pháp: Uniqueness.
5) Cụ
túc: Completeness.
6) Thích
nghi thanh tịnh: Pure adaptability.
7) Phạm
hạnh: Noble objective of nirvana.
Thất Thú: Seven gati or states
of sentient beings:
1) Địa
ngục: Narakagati (skt)—Hells.
2) Ngạ
quỷ: Preta (skt)—Hungry ghosts.
3) Súc
sanh: Tiryagyoni (skt)—Animals.
4)
A-tu-la: Asuras (skt)—Demons of higher order.
5) Nhơn:
Manusya (skt)—Humans.
6) Phi
Nhơn: Non-Humans.
7) Thiên:
Devas (skt)—Gods—A genius or higher spiritual being.
Thất Thú Ma La: Sisumara
(skt)—Con cá sấu—A crocodile.
Thất Thù Diệu Sự: Bảy sự thù
diệu—Middasa-vatthuni (p)—Theo Kinh Phúng Tụng trong trường Bộ Kinh, có
bảy sự thù diệu—According to the Sangiti Sutta, there are seven grounds
for commendations:
1) Ở đây
vị Tỳ Kheo tha thiết hành trì học pháp, và khát vọng hành trì học pháp
trong tương lai: Here a monk who is keenly anxious to undertake the
training, and wants to persist in this.
2) Ở đây
vị Tỳ Kheo tha thiết quán pháp và khát vọng quán pháp trong tương lai:
Here a monk who is keenly anxious to make a close study of the Dhamma, and
wants to persist in this.
3) Ở đây
vị Tỳ Kheo tha thiết điều phục các dục vọng và khát vọng điều phục các dục
vọng trong tương lai: Here a monk who is keenly anxious to get rid of
desires, and wants to persist in this.
4) Ở đây
vị Tỳ Kheo tha thiết sống an tịnh và khát vọng sống an tịnh trong tương
lai: Here a monk who tries to find solitude, and wants to persist in this.
5) Ở đây
vị Tỳ Kheo tha thiết sống tinh tấn và khát vọng sống tinh tấn trong tương
lai: Here a monk who arouses energy, and wants to persist in this.
6) Ở đây
vị Tỳ Kheo tha thiết quán sát tự niệm và khát vọng quán sát tự niệm và
khát vọng quán sát tự niệm trong tương lai: Sati-nepakke (p)—Here a monk
who develops mindfulness and discrimination, and wants to persist in this.
7) Ở đây
vị Tỳ Kheo tha thiết với kiến giải và khát vọng hiểu biết sở kiến trong
tương lai: Here a monk who develops penetrative insight, and wants to
persist in this.
Thất Thức Trú: Theo Kinh Đại
Duyên và Kinh Phúng Tụng trong Trường Bộ Kinh, có bảy thức trú—According
to the Mahanidana sutta and the Sangiti Sutta in the Long Discourses of
the Buddha, there are seven stations of consciousness:
1) Thức
Trú Thứ Nhất—The first station of consciousness: Có loại hữu tình, thân
sai biệt và tưởng sai biệt, như loài người, một số chư Thiên và một số
thuộc đọa xứ—There are beings different in body and different in
perception, such as human beings, some evas and some states of woe.
2) Thức
Trú Thứ Nhì—The second station of consciousness: Có loại hữu tình thân sai
biệt nhưng tưởng đồng loại, như Phạm Thiên chúng vừa mới sanh lần đầu tiên
(hay do tu sơ thiền)—There are beings different in body and alike in
perception, such as the devas of Brhama’s retinue, born there (on account
of having attained) the first jhana.
3) Thức
Trú Thứ Ba—The third station of consciousness: Có loại hữu tình thân đồng
loại, nhưng tưởng sai biệt, như chư Quang Âm Thiên—There are beings alike
in body and different in perception, such as the Abhassara Devas.
4) Thức
Trú Thứ Tư—The fourth station of consciousness: Có loại hữu tình thân đồng
loại và tưởng đồng loại, như chư Thiên cõi trời Biến Tịnh—There are beings
alike in body and alike in perception, such as the Subhakinna devas.
5) Thức
Trú Thứ Năm—The fifth station of consciousness: Có loại hữu tình vượt khỏi
mọi tưởng về sắc, điều phục mọi tưởng về sân, không tác ý đến các tướng
sai biệt, chứng Không Vô Biên Xứ—There are beings who have completely
transcended all perception of matter, by the vanishing of the perception
of sense-reactions and by non-attention to the perception of variety;
thinking: “Space is infinite,” they have attained to the Sphere of
Infinite Space.
6) Thức
trú Thứ Sáu—The sixth station of consciousness: Có loại hữu tình vượt khỏi
hoàn toàn Không Vô Biên Xứ, nghĩ rằng: “Thức là vô biên,” và chứng Thức Vô
Biên Xứ—There are beings who, by transcending the Sphere of Infinite
Space, thinking: “Consciousness is infinite,” have attained to the Sphere
of Infinite Consciousness.
7) Thức
Trú Thứ Bảy—The seventh station of consciousness: Có loại hữu tình vượt
khỏi hoàn toàn Thức Vô Biên Xứ, nghĩ rằng: “Không có vật gì cả,” và chứng
Vô Sở Hữu Xứ—There are beings who, having transcended the Sphere of
Infinite Consciousness, thinking: “There is nothing,” have attained to the
Sphere of No-Thingness.
Thất Thường: Irregular.
Thất Thượng Nhân Pháp:
Sappurisa-dhamma (p)—Theo Kinh Phúng Tụng trong Trường Bộ Kinh, có bảy
thượng nhân pháp—According to the Sangiti Sutta, there are seven qualities
of the true man:
1) Tri
Pháp: Knower of the Dhamma.
2) Tri
Nghĩa: Atthannu (p)—Knower of the meaning.
3) Tự
tri: attannu (p)—Knower of self.
4) Tri
Lượng: Mattannu (p)—Knower of moderation.
5) Tri
Thời: Knower of the right time.
6) Tri
Chúng: Parisannu (p)—Knower of groups.
7) Tri
Nhân: Knower of persons.
Thất Tín: To break one’s
promise.
Thất Tinh: The seven brilliant
ones—Mặt trời, mặt trăng cùng với năm hành tinh liên hệ với lửa, nước,
mộc, kim khí và đất—The sun and moon together with the five planets which
are connected with fire, water, wood, metal and earth:
1) Thái
dương: Aditya (skt)—Sun.
2) Mặt
Trăng: Soma (skt)—Moon (thái âm).
3) Hỏa
tinh: Angaraka (skt)—Mars.
4) Thủy
tinh: Budha (skt)—Mercury.
5) Mộc
tinh: Brhaspati (skt)—Jupiter.
6) Kim
tinh (Thái Bạch): Sukra (skt)—Venus.
7) Thổ
tinh: Sanaiscara (skt)—Saturn.
Thất Tình: The seven emotions:
1) Vui:
Joy—Happiness—Pleasure.
2) Buồn:
Sorrow—Grief.
3)
Thương: Love.
4) Ghét:
Hate.
5) Tham
vọng: Desire.
6) Sân
hận: Anger.
7) Sợ
hãi: Fear.
Thất Tối Thắng: Bảy tối
thắng—The seven perfections:
1) An trụ
tối thắng: Perfect rest in the bodhisattva nature.
2) Y chỉ
tối thắng: Perfect reliance on or holding fast to the great bodhi (awaken
mind).
3) Ý quả
tối thắng: Perfect resultant aim in pity for all.
4) Sự
nghiệp tối thắng: Perfect in constant performance.
5) Xảo
tiện tối thắng: Perfect in able device (for spiritual presentation).
6) Hồi
hướng tối thắng: Perfect direction towards the highest bodhi.
7) Thanh
tịnh tối thắng: Perfect purity and peace.
Thất Tội: See Thất Nghịch in
Vietnamese-English Section.
Thất Tông Nhật Bản: The seven
Japanese Sects.
1) Luật
Tông: Ritsu—Risshu—Vinaya.
2) Pháp
Tông: Hosso—Dharmalakshana.
3) Tam
Luân Tông: Sanron—San-Lun.
4) Hoa
nghiêm Tông: Kegon—Hua-Yen.
5) Thiên
Thai Tông: Tendai—T’ien-T’ai.
6) Chân
Ngôn Tông: Shingon.
7) Thiền
Tông: Zen.
Thất Tri: Bảy điều biết—The
seven knowings:
1) Biết
pháp: To know the Law.
2) Biết
nghĩa: To know its meaning.
3) Biết
thời biết việc: To know the times and all duties.
4) Biết
điều tiết: To know moderation.
5) Biết
mình: To know oneself.
6) Biết
người: To know the different classes of people.
7) Biết
người như những cá nhân: To know people as individuals.
Thất Trị: Seven forms of
punishment for monks—See Thất Tụ.
Thất Trung: Unfaithful.
Thất Trùng Hàng Thọ: Seven rows
of trees—The seven avenues of gem trees in Paradise.
Thất Trùng La Võng: Seven tiers
of netting.
Thất Trùng Lan Thuẩn: Seven
tiers of railings.
Thất Tụ: Bảy loại tội lỗi của
Tăng chúng—The seven kinds of wrong-doing:
1) Ba La
Di: Parajika (skt)—See Ngũ Tụ (1).
2) Tăng
Tàn: Sanghavasesa (skt)—See Ngũ Tụ (2).
3) Thân
Lan Gia: Sthulatyaya (skt)—See Lục Tụ (3).
4) Ba Dật
Đề: Prayascitta (skt)—See Ngũ Tụ (3).
5) Đề Xá
Ni: Ba La Đề Xá Ni—Pratidesaniya (skt)—See ngũ Tụ (4).
6) Đột
Cát La: Ác Tác—Duskrta (skt)—See Ngũ Tụ (5).
7) Đột
Cát La: Ác Thuyết hay lời nói ác độc—Sins, errors or faults in speech.
Thất Túc: Trượt chân—To lose
one’s footing—To stumble over.
Thất Tung: To lose the trail.
Thất Tùy Miên: Anusaya (p)—Theo
Kinh Phúng Tụng trong Trường Bộ Kinh, có bảy tùy miên. Do chúng ăn sâu nên
gọi là tùy miên, chúng là cái nhân cho tham dục, v.v., sanh đi sanh lại
mãi—According to the Sangiti Sutta in the Long Discourses of the Buddha,
there are seven latent proclivities or underlying tendencies, or inherent
tendencies. For it is owing to their inveteracy that they are called
inherent tendencis (anusaya) since they inhere (anusenti) as cause for the
arising of greed for sense desire, etc., again and again:
1) Dục Ái
Tùy Miên: Kama-raga (p)—Sensous greed—The underlying tendency to sensual
lust—The inherent tendency to greed for sense desire.
2) Sân
Tùy Miên: Patigha (p)—Resentment—The underlying tendency to aversion—The
inherent tendency to resentment.
3) Kiến
Tùy Miên: Wrong views—The underlying tendency to views—The inherent
tendency to false view.
4) Nghi
Tùy Miên: Doubt—The underlying (inherent) tendency to doubt (uncertainty).
5) Mạn
Tùy Miên: Conceit—The underlying (inherent) tendency to conceit (pride).
6) Hữu
Tham Tùy Miên: Bhava-raga (p)—Craving for becoming—The underlying tendency
to lust for existence (becoming).
7) Vô
Minh Tùy Miên: Ignorance—The underlying tendency to ignorance.
Thất Tử: Bẩy loài con cái của
Phật—Trong Kinh Niết Bàn, Đức Phật dạy: “Cha mẹ thương con cái đồng đều
thế nào thì Phật cũng thương chúng sanh tội lỗi thế ấy.”—The Buddha’s
seven kinds of sons. In the Nirvana Sutra, the Buddha taught: “The parents
love their sons equally, so does the Buddha especially care for the
sinners.”:
1) Nhơn:
Mankind.
2) Thiên:
Deva.
3) Thanh
Văn: Sravaka.
4) Duyên
Giác: Pratyeka-buddha.
7) (3) Tam chủng Bồ
Tát: Three kinds of
Bodhisattvas.
Thất Tưởng: Theo Kinh Phúng
Tụng trong Trường Bộ Kinh, có bẩy thức—According to the Sangiti Sutta in
the Long Discourses of the Buddha, there are seven perceptions:
1) Vô
Thường Tưởng: Perception of impermanence.
2) Vô
Ngã Tưởng: Perception of Not-Self.
3) Bất
Tịnh Tưởng: Asubhasanna (p)—Perception of foulness.
4) Hoạn
Nạn Tưởng: Perception of danger.
5) Đoạn
Tưởng: Perception of abandonment.
6) Ly
Tham Tưởng: Perception of dispassion.
7) Diệt
Tưởng: Perception of cessation.
Thất Ước: To break one’s
promise.
Thất Vi: Vi trần nhỏ nhứt có
thể thấy được (thường được kết hợp bởi bảy nguyên tử)—The smallest visible
particle (usually composed of seven atoms).
Thất Vọng: Despair—To lose
hope—Disappointed.
Thất Vô Thượng Đạo: See Thất
Tối Thắng Sự in Vietnamese-English Section.
Thất Ý: See Thất Vọng.
THẬT
Thật: True—Truthful.
Thật Bao La: Exceedingly vast
Thật Thà: Honest—Candid.
Thật Tướng Luận:
Phenomenalism—Quan niệm cho rằng thế giới tiềm tàng trong một khoảnh khắc
của tư tưởng, là triết học nội tại thể, thì hiện tượng và tác động của tâm
là một. Ta có thể gọi là “Hiện tượng luận,” nhưng theo thuật ngữ, nên gọi
là “Thật tướng luận,” mỗi hiện tượng tâm hay vật, tự biểu lộ lý tánh hay
bản tánh của chính nó—The concept that the world is immanent in one moment
of thought is the philosophy of immanence, phenomena being identical with
conscious action. It may be called ‘phenomenology,’ each phenomenon,
matter or mind, expressing its own principle or nature.
Thật Tướng Niệm Phật: Real mark
Buddha-recitation.
THÂU
Thâu:
1) Rút
lui (thâu lại): To withdraw.
2) See
Thâu Đạo.
3) Thâu
nhận: To receive—To gather—To collect.
Thâu Bà: Tháp—Stupa.
Thâu Cốt: To collect the bones
or relics after cremation.
Thâu Đạo: Trộm đạo—To rob—To
steal (one of the ten sins).
Thâu Lạn Giá Da: Sthulatyaya
(skt)—Sự vi phạm trầm trọng, một trong những vi phạm lớn của Tăng Ni (tội
bị đuổi khỏi giáo đoàn)—A great transgression, one of the major
transgressions of a monk or nun.
Thâu Ngắn: To cut short.
Thâu Thần Nhập Diệt: Gathered
up his vital energy and expired on the spot.
Thấu Đáo: Thoroughly.
Thấu Hiểu: To understand
thoroughly.
Thấu Lý: See Thấu Hiểu.
Thấu Nhĩ: Thấu âm—Auditory
clairvoyance—The ability to hear very distant sounds.
Thấu Suốt: To penetrate
Thấu Thị: Visual
clairvoyance—Ability to see very distant things.
Thấu Triệt: To know (ins and
outs of) thoroughly.
THAY
Thay Đổi: Change.
Thay Đổi Không Ngừng: Constant
change.
Thấy: To see
Thấy Đau: To feel pain.
Thấy Lỗi Người Thì Dễ, Thấy Lỗi Mình Khoù:
Easy seen are others’ faults; hard indeed to see one’s own faults—The
Buddha taught that we should not evade self-responsibility for our own
actions by blaming them on circumstances or unluckiness.
Thấy Ma: To see a ghost.
Thấy Như Thực: Yathabhutam
(skt)—Thấy vật gì rõ ràng như thực—To perceive things as they are.
Thấy Tánh Thành Phật: To see
one’s nature is to achieve Buddhahood.
Thấy Trước: To see in advance
or beforehand—To foresee.
Thầy: Acariya
(p)—Teacher—Master.
Thầy Bói: Fortune-teller.
Thầy Bùa Phép: Charlatans and
quacks.
Thầy (của) Trời Người: Teacher
of Gods and Humans—See Thiên Nhân Sư.
Thầy Pháp:
Magician—Wizard--Sorcerer.
Thầy Tâm Linh: Acariyupajjhaya
or Upajjhaya (p)—A spiritual master.
Thầy Tổ: Patriarches and
Teachers.
Thầy Tu: Monk.
---o0o---
Mục Lục Tự điển Phật Học
Việt-Anh
|
A
|
Ba |
Be |
Bi |
Bo |
Bu
| Ca
| Ch
| Co |
Cu
|
D
|
Đa
| Đe |
Đi |
Đo |
Đu
|
| E
|
G
|
Ha |
He |
Hi |
Ho |
Hy
|
I
| K
| La |
Le |
Li |
Lo |
Lu |
Ly
|
|
Ma
| Me |
Mi |
Mo |
Mu, My
|Na
| Ne |
Ng |
Nh
| Ni
| No
| Nu
|
| O
| Pha |
Phe
| Phi |
Pho |
Phu
| Q
| R
| S
| Ta |
Te |Tha
| Thă, Thâ |
| The |
Thi |
Tho |
Thu |
Ti |
To |
Tr |
Tu |
Ty
| U
| V
| X
| Y|
---o0o---
Mục Lục |
Việt-Anh | Anh -Việt |
Phạn/Pali-Việt
| Phụ Lục
---o0o---
Trình bày: Nhị
Tường
Cập nhật: 1-4-2006