TỔ ĐÌNH MINH ĐĂNG QUANG
PHẬT HỌC TỪ ĐIỂN
BUDDHIST DICTIONARY
VIETNAMESE-ENGLISH
THIỆN PHÚC
Te
Té: To fall—To tumble.
Tẻ Ngắt: Very sad.
Tẻ Nhạt: Dull.
Tế:
1) Biên
địa: A border.
2) Cúng
tế: Sacrifice—Sacrificial.
3) Giới
hạn: Limit.
4) Hy
sinh: Sacrifice.
5) Khu
vực: A region.
6) Nơi
giao tiếp: A juncture—To join on.
7) Tế độ:
To save—To aid—To bring about.
8) Vi tế:
Fine—Small—Minute—Careful—In detail.
9) Vượt
sông: To cross a stream.
Tế Bần: To help the poor.
Tế Chính Bổn Giác: Tên của một
đệ tử của Hòa Thượng Tế Lịch Chính Văn (see Tế Lịch Chính Văn). Ng i l
tăng cang chùa Thiên Mụ, đồng thời l trú trì chùa Quốc Ân. Năm 1837, Hòa
Thượng đã tiến h nh công cuộc trùng tu đại qui mô chùa Quốc Ân. Sau đó v o
năm 1842, ng i đã cùng với Hòa Thượng Liễu Thông Giám Huệ được vua Thiệu
Trị cấp cho 500 lạng bạc để ho n tất việc trùng tu chùa Quốc Ân. Không ai
rõ ng i thị tịch v o năm n o v ở đâu—Name of a disciple of Most Venerable
Tế Lịch Chính Văn. He was a royal-recognized monk of Thiên Mụ and headmonk
of Quốc Ân temple. In 1837, he started to rebuild Quốc Ân temple on a
large scale. Then in 1842, he and the new headmonk of Quốc Ân temple were
granted 500 ounces of silver from king Thiệu Trị to accomplish the
reconstruction of the temple. His whereabout and when he passed away were
unknown.
Tế Đ n: Altar.
Tế Độ:
1) Giúp
đỡ: To aid—To help—To relieve.
2) Đưa
chúng sanh qua biển luân hồi sanh tử để sang bờ Niết B n bên kia: To ferry
the livings across the sea of reincarnation to the shore of nirvana.
Tế Gia: Tế Hạ—Đệ tử của tông
Lâm Tế—The school, or disciples of Lin-Chi.
Tế Hạ: See Tế Gia.
Tế Hoạt Dục: Một trong sáu loại
sắc dục, ham muốn cái vẻ nuột n bóng bẩy xinh xắn của thân thể—One of the
six kinds of sensual attractions, sexual attraction through softness and
smoothness.
Tế Lịch Chính Văn: Tên của một
đệ tử của Hòa Thượng Trí Hải (see Trí Hải) ở tại chùa Quốc Ân v o khoảng
từ 1805 đến 1825. Năm 1822, Hòa Thượng được vua Minh Mạng cấp cho 500 lạng
bạc để trùng tu chùa Quốc Ân. Ng i thị tịch năm 1825, tháp mộ của ng i
được kiến lập uy nghi ngay trong sân chùa—Name of a disicple of Most
Venerable Trí Hải. He stayed at Quốc Ân temple from 1805 to 1825. In 1822,
king Minh Mạng granted 500 ounces of silver for him to rebuild the temple.
He passed away in 1825, his magnificent stupa was built in the garden of
the temple.
Tế Nhị: Subtle—Delicate.
Tế Sắc: Nét xinh xắn của nam
nữ—Refined appearance.
Tế Tâm: Còn gọi l “Tiểu Tâm,”
có nghĩa l cẩn thận—Carefully—In detail.
Tế Tỉnh Đại Sư: Chi-Sun—Theo
Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong Liên Tông Thập Tam Tổ, Tế Tỉnh Đại Sư l
vị Tổ thứ 12 của Tịnh Độ Tông Trung Hoa. Ng i tự l Triệt Ngộ, hiệu Nạp
Đường, con nh họ Mã ở huyện Phong Nhuận. Người đời nh Thanh. Thuở còn
bé, ng i đã thông thuộc kinh sử. Sau khi xuất gia, lại đi tham học các
nơi, rộng suốt hai tông Tánh v Tướng. Chỗ sở đắc của ng i l môn Thập
Thừa Tam Quán của Kinh Pháp Hoa. Kế đó, ng i lại tham phỏng với Thiền Sư
Tụy Như Thuần ở Quảng Thông, tỏ ngộ thấu suốt, được đắc truyền “Tâm Pháp
Ấn.” Sau khi Thuần Sư về an dưỡng nơi chùa Vạn Thọ, thì ng i lên kế nhiệm
ở Quảng Thông, sách tiến h ng hậu lai tu học, tông phong rất thạnh. Bình
nhựt, ng i thường bảo rằng: “Ng i Vĩnh Minh nguyên l bậc Tông Tượng trong
chốn Thiền Môn m còn quy tầm về Tịnh Độ thay. Huống chi nay l thời kỳ
mạt pháp, chúng ta lại c ng phải nên tuân theo hơn nữa.” Do đó nên ng i
chuyên tu tịnh nghiệp, chủ trương liên tông. Mỗi ng y đại sư hạn chế thời
gian dạy chúng hoặc tiếp khách nội trong khoảng một cây hương m thôi,
ngo i ra chỉ chuyên tâm niệm Phật. Đại sư thường dạy rằng:
“Thật vì
Sanh Tử,
Phát lòng
Bồ Đề.
Dùng Tín,
Nguyện sâu,
Trì danh
hiệu Phật.”
Mười sáu chữ nầy chính l
cương tông của pháp môn Tịnh Độ vậy. Niên hiệu Gia Khánh thứ 15, v o
tháng hai, đại sư dự biết trước ng y lâm chung chẳng còn bao xa, nên đi từ
giả những người ngoại hộ (những người lo việc cơm nước cho chư Tăng) m
căn dặn rằng: “Duyên hư huyễn chẳng bền lâu, giờ sống thừa nên hối tiếc.
Các vị nên cố gắng niệm Phật, ắt ng y kia sẽ cùng gặp nhau nơi cõi Liên
Bang. Đến ng y mồng hai tháng chạp, đại sư cảm chút bệnh nhẹ. Khi ng i
đang ngồi chí tâm niệm Phật, bỗng thấy có vô số tr ng phan, bảo cái từ
phương Tây bay tới, liền nhìn các môn đồ m nói rằng: “Cảnh Tịnh Độ đã
hiện, ta sắp về cõi Tây Phương.” Nói xong bảo đại chúng luân phiên nhau
trợ niệm. Sang ng y 17, v o giờ Thân, ng i nói với đại chúng rằng: “Hôm
qua tôi thấy ba vị Đại Sĩ Văn Thù, Quán Âm, v Thế Chí Bồ Tát quang lâm
đến. Hiện giờ lại được Đức Phật tự thân tiếp dẫn nữa. Tôi đi đây!” Đại
chúng nghe nói niệm Phật c ng thêm chí thiết. Đại sư ngồi thẳng, chắp tay
hướng về Tây, bảo: “Xưng một câu hồng danh, thấy một phần tướng hảo.” Dứt
lời, ng i kiết ấn m thị tịch. Lúc ấy tất cả đại chúng đều nghe được mùi
hương lạ ngạt ng o, bay tỏa khắp nơi. Quan t i của ng i để hở nấp bảy ng y
m dung sắc vẫn tươi y như lúc sống. Lúc tr tỳ, được hơn 100 hạt xá lợi
m u sắc sáng chói lóng lánh. Đại sư hưởng thọ 70 tuổi, Tăng lạp
49—According to Most Venerable Thích Thiền Tâm in The Thirteen Patriarchs
of Pureland Buddhism, Great Master Chi-Sun was the twelfth Patriarch of
Chinese Pureland Buddhism. His self-given name was Ch’e-Wu with Dharma
name Nạp Đường. His family name was Mã from Phong Nhuận district. He lived
during the Ch’ing Dynasty. From childhood he already mastered the sutra
teachings. After being ordained as a Bhiksu, he traveled abroad to learn
more about Buddhism and broadly learned both schools of Theory and
Practice. The Dharma Door he penetrated most deeply was the “Ten Vehicles
and the Three Ways of Spiritual Penetration” taught in the Dharma Flower
Sutra. Next, he studied with Zen Master Tụy Như Thuần in the Quang Thông
region. He became awakened and attained enlightenment as he received
approval from his master for fully grasping the essence of this particular
Zen Tradition. Therefore, after Master Thuần retired to the Ten-Thousand
Life Temple, he assumed the headmaster position to guide Buddhists of the
future generations to learn and to cultivate Buddhism. Under his
direction, this Zen tradition flourished. Each day the Great Master often
said: "Originally Great Master Yung-Ming, the Sixth Patriarch of Chinese
Pureland Buddhism, was a highly important figure in Zen Buddhism and yet,
eventually, he turned to Pureland. In this Dharma Ending Age, it has
become even more necessary for us to follow this path. Thus, he began to
focus on cultivating pure karma mainly practicing the Lotus School
Pureland Buddhism. Each day he limited the amount of time he taught his
disciples or visited with guests to approximately the time it takes for an
incense stick to burn. Otherwise, he focused his time to practice Buddha
Recitation. He often taught:
“Because
of Life-Death,
Develop
the Bodhi Mind,
Use
Faith, deep Vow,
Maintain
Reciting Buddha’s Name.”
These sixteen words define
the essence of the Pureland Dharma Door. During February of the fifteenth
year of the Gia Khánh reign period, he realized the day of his death was
near. He went and bade farewell to all those who had supported him on his
cultivated path advising them: “Life’s destinies are like illusions and so
fleeting. Treasure the time you have left and give your best efforts to
practice Buddha Recitation; perhaps one day we will meet again in the
Lotus Pureland.” Then on December 12th of that year, he came down with a
minor illness. As he sat in single-minded Buddha Recitation, he suddenly
saw infinite numbers of long flowing flags and heavenly parasols from the
West flying toward him; he looked at his disciples and said: “The Pureland
Realm has appeared, I will soon go West.” He then told the great assembly
to aid his Buddha Recitation by joining him in recitation. During the
monkey hours of the seventeenth, he said to the great assembly: “Yesterday
I was visited the three Greatly Enlightened Majusri, Avalokitesvara, and
Mahasthamaprapta Maha-Bodhisattvas. Currently Buddha has appeared to
rescue and deliver me. I am leaving now. ” Hearing this, the great
assembly recited Buddha’s name more sincerely and wholeheartedly. He put
his palms together to face the West, then said: “With each virtuous name
chanted, a Buddha glorious image will be seen.” After speaking, he
immediately entered a deep samadhi state and passed away. At that time,
the great assembly sensed an extraordinary incense lingering in the air
throughout the area. The Great Master was placed in an open casket for
seven days but his appearance remained fresh as if he were still alive.
After he was cremated, he left behind 100 Caris with radiant colors
reflecting clearly. The Great Master was 70 years old with a Dharma Age of
49.
Tế Tứ Tướng: Bốn tướng vi tế
sanh trụ dị diệt—The four finite states-See Tứ Tướng.
Tế Văn: Văn tế đọc v đốt tại
đám ma—The prayer or statement read and burnt at a funeral.
Tế Ý Thức: Ý thức vi tế, còn
gọi l tế tâm, tức l nhận thức vi tế về sự sống chết, tiếp nối nhau
không đứt đoạn (theo Luận Th nh Duy Thức, về chuyện sống chết, Hữu Dư Bộ
có nhận thức vi tế, h nh tướng nương theo nhau, không thể l m đứt đoạn
được, đây l thức thứ tám)—The vijnana of detailed, unintermitting
attention.
Tề:
1) Bằng
phẳng: Even—Level.
2) Cùng
một lúc: At the same time.
3) Ho n
to n: Complete—Perfect.
4) Nhất
tề: giống nhau—Uniform—Alike—Altogether.
5) Tỉnh
lặng: To tranquilize—To equalize.
Tề An Thiền Sư: Zen master
Qi-An—Thiền sư Tề An sanh năm 750 tại Hải Môn, đệ tử của Thiền sư Mã
Tổ—Zen master Xi-An was born in 750 in Hai-Men, was a disciple of Ma-Tsu.
·
Có vị Tăng đến hỏi: “Thế n o l bổn thân Phật Tỳ Lô Giá Na?”
Sư bảo: “Đem cái bình đồng kia đến cho ta.” Vị Tăng liền lấy tịnh bình đem
lại. Sư bảo: “Đem để lại chỗ cũ.” Vị Tăng đem bình để lại chỗ cũ rồi, bèn
hỏi lại câu trước. Sư bảo: Phật xưa đã quá khứ lâu rồi.”—A monk asked:
“What is the true body of Vairocan Buddha?” Qi-An said: “Bring me that
pitcher of pure water.” The monk brought him the pitcher. Qi-An then said:
“Now put it back where it was before.” The monk returned the bottle to its
former position. The he asked his previous question again. Qi-An said:
"The ancient Buddhas are long gone.”
·
Có vị giảng sư đến tham vấn. Sư hỏi: “Tọa chủ chứa chất sự
nghiệp gì?” Giảng sư đáp: “Giảng Kinh Hoa Nghiêm.” Sư hỏi: “Có mấy thứ
pháp giới?” Vị giảng sư nói: “Nói rộng thì có thứ lớp không cùng, nói lược
có bốn thứ pháp giới.” Sư dựng đứng cây phất tử , hỏi: “Cái nầy l pháp
giới thứ mấy?” Giảng sư trầm ngâm lựa lời để đáp: “Sư bảo: “Suy m biết,
nghĩ m hiểu l kế sống nh quỷ, ngọn đèn cõi dưới trời quả nhiên mất
chiếu.”—A scholar monk came to visit Zen Master Qi-An. Qi-An asked him:
“What do you do?” The monk said: “I expound the Flower Garland Sutra.”
Qi-An said: “How many different Dharma realms. But they can be reduced to
four types.” Qi-An held his whisk upright and said: “What type of Dharma
realm is this?” The monk sank into reflection. Qi-An said: “Knowing by
thinking, resolving through consideration, these are the startegies of a
devil house. A single lamp, when it’s put beneath the sun, it really isn’t
bright.”
·
Sư gọi thị giả: “Đem cái quạt tê ngưu lại đây.” Thị giả
thưa: “Rách rồi.” Sư nói: “Nếu quạt đã rách, trả con tê ngưu lại cho ta!”
Thị giả không đáp được. Đầu Tử trả lời dùm thị giả nói: “Con không ngại
đem con tê lại cho sư, nhưng con e rằng nó chưa mọc đủ sừng.”—Qi-An called
to his attendant, saying: “Bring me the rhinoceros fan.” The attendant
said: “It’s broken.” Qi-An said: “If the fan is broken, then bring me the
rhinoceros.” The attendant didn’t answer. T’ou-Tzi answered on behalf of
the attendant, saying: “I don’t mind to bring the rhinoceros, but I’m
afraid that he doesn’t have all his horns.
·
Thiền sư Pháp Không đến thưa hỏi những nghĩa lý trong kinh,
mỗi mỗi sư đều đáp xong. Sư bèn bảo: “Từ Thiền Sư lại đến giờ, bần đạo
thảy đều không được l m chủ nhơn.” Pháp Không thưa: “Thỉnh Hòa Thượng l m
chủ nhơn lại.” Sư bảo: “Ng y nay tối rồi hãy về chỗ cũ nghỉ ngơi, đợi sáng
mai sẽ đến.” Sáng sớm hôm sau, sư sai sa Di đi mời Thiền sư Pháp Không.
Pháp Không đến, sư nhìn Sa Di bảo: “Bậy! Ông sa Di nầy không hiểu việc,
dạy mời Thiền sư Pháp Không, lại mời cái người giữ nh đến.” Pháp Không
chẳng đáp được—A Zen master named Fa-Kong came to visit Qi-An and inquired
about some ideas expressed in the Buddhist sutras. Qi-An answered each
question in turn. When they had finished, Qi-An said: “Since the master
arrived here, I haven’t been able to play the host.” Fa-Kong said: “I
invite the master to take the role of host.” Qi-An said: “It’s late today,
so let’s go back to our quarters and take a rest. Tomorrow come here
again.” Fa-Kong then went back to his room. The next morning, Qi-An sent a
novice monk to invite Fa-Kong for another meeting. When Fa-Kong arrived,
Qi-An looked at the novice monk and said: “Aiee! This novice can’t do
anything! I told him to go get Zen master Fa-Kong. Instead he went and got
this temple maintenance man!” Fa-Kong was speechless.
·
Viện chủ Pháp Hân đến tham vấn. Sư hỏi: “Ông l ai?” Pháp
Hân đáp: “Pháp Hân.” Sư nói: “Tôi không biết ông.” Pháp Hân không đáp
được—The temple director named Fa-Xin, came to see Qi-An (when he was
ill). Qi-An said: “Who are you?” The temple director said: “Fa-Xin.” Qi-An
said: “I don’t know you.” Fa-Xin couldn’t respond.
·
Sau sư bệnh, ngồi an nhiên thị tịch. Vua ban hiệu “Ngộ Không
Thiền Sư”—Later, the master became ill and he calmly passed away in 839.
He received the posthumous title “Zen Master Enlightened Emptiness.”
Tề Chỉnh: Neatly attired.
Tề Duyên Thân: See Tề Nghiệp
Thân.
Tề Nghiệp Thân:
1) Thân
cuối cùng khi đã chấm dứt hết mọi tiền nghiệp: The final body which brings
to an end all former karma.
2) Thân
Phật đã rũ sạch tiền nghiệp v nhập niết b n: The final body or the body
of a Buddha which brings to an end all former karma before entering
nirvana.
Tề Thuyết Tề Văn: Nói v nghe
cùng một lúc—Speaking and hearing together, or at the same time.
Tệ Bạc: Ungrateful—Bad.
Tệ Đoan: Corrupt practices.
Tệ Lậu: Very bad.
Tệ Tập: Bad habits.
Tệ Thi: Pesi (skt)—Bế Thi—Tỳ La
Thi—Tỳ Thi—Thai nhi thời kỳ thứ ba trong năm thời kỳ, cái thai đến ng y
thứ 37, kết lại th nh hòn thịt—The embryo in the third of its five stages,
a thirty-seven days’ foetus, a lump of flesh.
Tệ Tục: Vicious customs.
Tên Giả: False name.
Tên Thật: Real name.
Tên Tuổi: Name and age.
Tết Nguyên Đán: Lunar New Year.
---o0o---
Mục Lục Tự điển Phật Học
Việt-Anh
|
A
|
Ba |
Be |
Bi |
Bo |
Bu
| Ca
| Ch
| Co |
Cu
|
D
|
Đa
| Đe |
Đi |
Đo |
Đu
|
| E
|
G
|
Ha |
He |
Hi |
Ho |
Hy
|
I
| K
| La |
Le |
Li |
Lo |
Lu |
Ly
|
|
Ma
| Me |
Mi |
Mo |
Mu, My
|Na
| Ne |
Ng |
Nh
| Ni
| No
| Nu
|
| O
| Pha |
Phe
| Phi |
Pho |
Phu
| Q
| R
| S
| Ta |
Te |Tha
| Thă, Thâ |
| The |
Thi |
Tho |
Thu |
Ti |
To |
Tr |
Tu |
Ty
| U
| V
| X
| Y|
---o0o---
Mục Lục |
Việt-Anh | Anh -Việt |
Phạn/Pali-Việt
| Phụ Lục
---o0o---
Trình b y: Minh Hạnh & Thiện Php
Cập nhật: 3-24-2006