TỔ ĐÌNH MINH ĐĂNG QUANG
PHẬT HỌC TỪ ĐIỂN
BUDDHIST DICTIONARY
VIETNAMESE-ENGLISH
THIỆN PHÚC
Q
Qua:
1) Cái
Giáo: (mác—thương)—A spear.
2)
Dưa: Gourd—Melon.
Quá:
1) Lỗi:
Error—Transgression.
2) Quá
khứ: Past—Passed.
3) Vượt
qua: To pass.
Quá Ác: Dausthulya (skt)—Cùng
hung cực ác, khuynh hướng xấu, hay sự sai lầm—Surpassing evil; extremely
evil, evil tendency, or error.
Quá Chừng: Exceeding—Beyond
measure.
Quá Cố: Deceased.
Quá Dư: Exuberant.
Quá Đáng:
Unduly—Excessive—Exaggerated.
Quá Độ:
1) Không
điều độ: Immoderate.
2) Vượt
ra khỏi cảnh sanh tử: To pass from mortal life.
Quá Hạ: Cách gọi khác của an cư
kiết hạ—To pass the summer, or the summer retreat—See An Cư Kiết Hạ.
Quá Hạn: To exceed the limit.
Quá Hiện Vị: Quá khứ, hiện tại
v vị lai—Past, present, future.
Quá Khích: Extremist.
Quá Khứ: See Quá (2).
Quá Khứ Thánh Linh: Thần thức
của người quá vãng—The spirit of the departed.
Quá Khứ Thất Phật: The seven
past Buddhas—See Thất Phật.
Quá Khứ Thế:
1) Kiếp
quá khứ: The past age, or world.
2) Thời
quá khứ—The past—The past time
Quá Kỳ: Vượt quá thời hạn quy
định—Beyond the time.
Quá Lố: Excessive.
Quá Mạn: Một trong thất mạn—One
of the seven arrogances—See Thất Mạn (2).
Quá Mộc Kiều: Vượt qua độc mộc
kiều (thần thức của người quá vãng phải vượt qua để tái sanh)—To cross
over the single log bridge, i.e. only one string to the bow.
Quá Mức: See Quá lố.
Quá Sức: Beyond one’s strength.
Quá Tệ: Worse.
Quá Tin: To be over confident
on oneself.
Quá Tinh Tế: Exceedingly
subtle.
Quá Trớn: To overstep a limit.
Quá Vãng: To pass away—To die.
Quả: Phala (skt).
1) Trái
cây: Fruit.
2) Hậu
quả: Effect—Consequence.
3) Quả
báo: reward—Retribution—See Quả Báo.
4) Từ
“Quả” đối lại với “Nhân”: The term “consequence” or “effect” contrasts
with “cause,” or “Fruit” contrasts with “seed.”
5) Hết
thảy các pháp hữu vi l trước sau nối tiếp, cho nên đối với nguyên nhân
trước m nói thì các pháp sinh ra về sau l quả: The effect by causing a
further effect becomes also a cause—See Ngũ Quả.
Quả Báo: Retribution—Những hệ
quả của tiền kiếp. Những vui sướng hay đau khổ trong kiếp nầy l ảnh hưởng
hay quả báo của tiền kiếp. Thế cho nên cổ đức có nói: “Dục tri tiền thế
nhân, kim sanh thọ giả thị. Dục tri lai thế quả, kim sanh tác giả thị.” Có
nghĩa l muốn biết nhân kiếp trước của ta như thế n o, thì hãy nhìn xem
quả báo m chúng ta đang thọ lãnh trong kiếp nầy. Muốn biết quả báo kế
tiếp của ta ra sao, thì hãy nhìn v o những nhân m chúng ta đã v đang gây
tạo ra trong kiếp hiện tại. Một khi hiểu rõ được nguyên lý nầy rồi, thì
trong cuộc sống hằng ng y của người con Phật chơn thuần, chúng ta sẽ luôn
có khả năng tránh các điều dữ, l m các điều l nh—Consequences (requitals)
of one’s previous life—The pain or pleasure resulting in this life from
the practices or causes and retributions of a previous life. Therefore,
ancient virtues said: “If we wish to know what our lives were like in the
past, just look at the retributions we are experiencing currently in this
life. If we wish to know what retributions will happen to us in the
future, just look and examine the actions we have created or are creating
in this life.” If we understand clearly this theory, then in our daily
activities, sincere Buddhists are able to avoid unwholesome deeds and
practice wholesome deeds.
1) Quả
báo của ăn cắp vặt l nghèo n n khốn khó: The retributions of robber and
petty thieves are poverty and accute suffering.
2) Quả
báo của bỏn xẻn l cầu bất đắc: The retributions of being stingy are
frustrated desires.
3) Quả
báo của của việc phỉ báng l không lưỡi hay thối miệng: The retributions
of being slandering and harsh speech are tongueless and cankerous mouth.
4) Quả
báo của bần tiện tham lam l nghèo n n: The retribution of mean and greedy
is poverty.
5) Quả
báo của việc gây thù chuốc oán l bản thân bị hại: The retribution of
being creating hatred with others is to live an endangered life.
6) Quả
báo của việc mắng chưỡi kẻ ăn xin l chết đói giữa đường: The retribution
of being laughing at or scolding the beggar is to starve to death at the
road side.
7) Quả
báo của vị kỷ hại người l suốt đời canh cô (không ai muốn gần gủi mình):
The retribution of being benefitting oneself by bringing harmness to
others is to be life-long friendless.
8) Quả
báo của việc loan tin thất thiệt hại nguời l không còn ai tin mình về sau
nầy nữa: The retribution of bringing harm to others by spreading rumours
is to become distrust (mistrustful) forever.
9) Quả
báo của việc phỉ báng Tam Bảo l vĩnh viễn đi v o địa ngục vô gián: The
retribution of being slandering the Triratna (Buddha, Dharma and Sangha)
is to enter Avici forever.
Quả Báo Ba Đời: See Tam Quả Tứ
Nhân.
Quả Báo Độ: Tên khác của Thực
Báo Vô Chướng Ngại Độ, một trong Tứ Độ trong tông Thiên Thai—The realm of
reward, where bodhisattvas attain the full reward of their deeds, one of
the four realms according to the T’ien-T’ai Sect.
** For more information,
please see Tứ Độ.
Quả Báo Tứ Tướng: Quả báo tiền
kiếp trong tứ tướng sanh trụ dị diệt (sanh, gi , bịnh, chết)—Consequences
of one’s previous life in four forms of the present life:
1) Sanh:
Birth.
2) Gi :
Old age.
3) Bịnh:
Disease.
4) Chết:
Death.
** For more information,
please see Tứ Tướng
Quả Cảm: Courageous—Daring.
Quả Cực: Quả mãn cực
th nh—Fruition perfect, the perfect virtue or merit of
Buddha-enlightenment.
Quả Cực Pháp Thân: Pháp thân
quả mãn cực th nh—The dharmakaya of complete enlightenment.
Quả Danh: Quả Hiệu—Danh hiệu
của mỗi vị Phật chỉ sự giác ngộ của vị Phật ấy—Attainment-name, or
reward-name or title, i.e. of every Buddha, indicating his enlightenment.
Quả Duy Thức: Trí tuệ đạt được
do tư duy v quán sát cái lý của duy thức (tầm v tứ), bao gồm bốn thức
đầu trong bát thức—The wisdom attained from investigating and thinking
about philosophy, or Buddha-truth, i.e. of the sutras and Abhidharmas;
this includes the first four kinds of “only-consciousness.”
Quả Đầu: Quả Thượng—Tu nhân
được quả, đặc biệt l quả vị Giác Ngộ Bồ Đề—The condition of retribution,
especially the reward of bodhi or enlightenment.
** For more information,
please see Quả
Thượng.
Quả Đầu Phật: Bậc đã đạt được
quả vị Phật, một thuật ngữ của tông Thiên Thai—He who has attained the
Buddha-condition, a T’ien-T’ai term.
Quả Địa: Quả vị Phật, đối lại
với nhân địa hay nhân tu h nh—Resulting Buddhahood, in contrast with the
causal ground or fundamental cause, the state of practicing the
Buddha-religion—The stage of attainment of the goal of any disciplinary
course.
Quả Đoán: Decided—Determined.
Quả Đoạn:
1) Dứt bỏ
hoặc nghiệp: To cut off the fruit or results of former karma.
2) Bậc A
La Hán ở Hữu Dư Niết B n, tuy đã dứt bỏ được nhân đau khổ (tử phược),
nhưng chưa dứt bỏ được quả phược: The Arhat who has a “remnant of karma,”
though he has cut off the seed of misery, has not yet cut off its fruits.
Quả Đức: Quả đức của Niết b n
hay công đức của bậc quả thượng l Thường, Lạc, Ngã, Tịnh—The merits of
nirvana (Thường: Eternal, Lạc: Blissful, Ngã: Personal or Autonomous,
Tịnh: Pure).
** For more information,
please see Tứ Đức
(A).
Quả Giới Viên Hiện: Trong Phật
Giới, hay giới của các bậc Chánh Đẳng Chánh Giác, mọi việc đều hiện lên
một cách viên dung—In the Buddha-realm, i.e. of complete
bodhi-enlightenment, all things are perfectly manifest.
Quả Hải: Biển Bồ Đề hay giác
ngộ—The ocean of bodhi or enlightenment.
Quả Mãn: Công đức tròn đầy của
bậc quả thượng hay nhân tròn đầy th nh bậc chánh giác—The full or complete
fruition of merit—Perfect reward.
Quả Mạn Đ La: Kim Cang Mạn Đ
La, đối lại với Thai Tạng Giới Mạn Đ La—Vajradhatu mandala, in contrast
with Garbhadhatu mandala (nhân mạn đ la).
Quả Nhân: Những bậc tu h nh đã
chứng đắc quả thượng, thoát khỏi vòng luân hồi sanh tử, gồm có ba
bậc—Those who have obtained the fruit, i.e. escaped the chain of
transmigration:
1) Phật:
Buddha.
2) Bích
Chi Phật: Pratyeka-buddha.
3) A La
Hán: Arhat.
Quả Phận: The reward, e.g. of
ineffable nirvana, or dharmakaya.
Quả Phật Tánh: Quả Phật To n
Giác, một trong năm Phật tánh—The fruition of the Buddha-enlightenment,
its perfection, one of the five forms of the Buddha-nature—See Ngũ Phật
Tánh (B) (4).
Quả Phược: Khổ quả sinh tử trói
buộc không cho chúng ta giải thoát. Nghiệp nhân dẫn đến khổ quả đã trói
buộc ta, l tử phược—Retribution bond—The bitter fruit of transmigration
binds the individual so that he cannot attain release. This fruit produces
further seeds of bondage.
Quả Phược Đoạn: Cắt bỏ mọi trói
buộc tức l nhập v o Niết B n—Cutting off the ties of retribution,
entering nirvana, entering salvation.
Quả Quả: The fruit of fruit.
1) Niết
B n: Nirvana.
2) Bồ Đề
l quả, m cũng l kết quả của việc tu h nh nên gọi l quả quả: the
fruition of bodhi. Bodhi itself is a fruit; however, it is also the fruit
of a life-long cultivation.
Quả Quả Phật Tánh: The fruition
of that fruition, or the revelation of parinirvana—See Ngũ Phật Tánh (B)
(5).
Quả Quyết:
Determined—Decided—Resolute.
Quả Tang: Flagrant—To be caught
in the act or fact (red-handed).
Quả Thần: Môi của Phật đỏ như
trái của cây Bimba—Fruit lips, Buddha’s were “red like the fruit of the
Bimba tree.”
Quả Thật: Indeed—Truly—As a
matter of fact.
Quả Thục Thức: The
Alaya-vijnana (skt)—A Lại Da Thức hay T ng Thức—The storehouse or source
of consciousness, from which both subject and object are derived.
Quả Thượng: Nhờ công đức tu
h nh m chứng đắc được quả địa (quả địa nầy ở trên nhân vị trong lúc đang
tu) gọi l quả thượng—In the stage when the individual receives the
consequences of deeds done.
Quả Tiểu Thừa: Hai quả vị Thanh
văn v Duyên giác—Fruit of the two vehicles of Sravakayana and
Pratyeka-buddha.
Quả Tình: See Quả Thật.
Quả Trục: Quả đi theo (quả đi
theo nhân như hình với bóng)—The fruit follows (the fruit follows the
cause as the image and its shadow).
Quả Trục Nguyện: Sự chắc chắn
của việc phổ cứu, nguyện thứ hai mươi trong Tứ Thập Bát Nguyện của Phật A
Di Đ —The assurance of universal salvation, the twentieth of Amitabha’s
forty-eight vows.
** For more information,
please see Tứ Thập
Bát Nguyện (20).
Quả Tử:
1) Quả v
Nhân—Fruit and Seed.
2) Quả
sanh Nhân: Fruit produced seeds.
Quả Tướng: Quả thể tổng báo của
giới hữu tình, l một trong ba hình thức của A Lại Da
Thức—Reward—Retribution—Effect—One of the three forms of the
alaya-vijnana.
** For more information,
please see A Lại Da
Thức and
Alaya-vijnana.
Quả Vị: Vị của quả Phật, đối
lại với nhân vị—The stage of attainment, or reward as contrasted with the
cause-stage, i.e. deed.
** For more information,
please see Nhân Vị.
Quả Viên: Quả vị viên mãn, một
trong tám quả viên mãn của tông Thiên Thai—Fruit complete, i.e. perfect
enlightenment, one of the eight T’ien-T’ai perfection.
Quả Vô Sanh: The stage of
non-birth.
Quái:
1) Khiếm
khuyết: Impediment.
2) Nguyên
nhân của lo âu: Cause of anxiety.
3) Treo:
To hang—To suspend.
Quái Chân: Treo chân dung của
một vị tôn quý như Đức Phật—To hang up a picture of a Buddha.
Quái Dị: Strange—Peculiar.
Quái Đáp: Chỉ việc các vị sư
dừng lại một nơi n o đó để nghỉ ngơi—To dwell in a place.
Quái Đơn: Vị du Tăng ghé lại
chùa nghỉ qua đêm—One who hangs up all his possessions, i.e. a wandering
monk who stays for the night in a monastery.
Quái Kiệt: Man of exceptional
talent.
Quái Lạ: How strange.
Quái Lạc: Còn gọi l Quái La,
tên một loại áo c sa ngắn (do các thiền Tăng Trung Quốc chế ra)—A short
garment, or cover; a waistcoat.
Quái Ngại: A hindrance—An
impediment.
Quái Niệm: Lo lắng—To be
anxious about.
Quái Tích: Treo tích trượng
(khi các vị sư dừng lại nơi n o nghỉ chân)—To hang up one’s staff.
Quái Tử: Tên một loại áo c
sa—A peg for a garment.
Quan:
1) Áo
quan: A coffin.
2) Đóng
lại: To shut—To include.
3) Nơi bị
đóng kín: A closed place.
4) Quan
ải: Frontier—Barrier.
5) Quan
hệ: To involve.
6) Quan
chức: Official—Public.
7) Quan
ngại: To concern.
Quan Âm: Avalokitesvara
Bodhisattva—Bodhisattva of mercy—Goddess of mercy.
Quan Âm Đường: Pavilion of
Bodhisattva Avalokitesvara—Bodhisattva Avalokitesvara’s Hall—Pavilion of
Regarder of the Sounds.
Quan Âm Sắc Tứ Tự: Tên của một
ngôi chùa tọa lạc trong thị xã C Mau, tỉnh C Mau. Chùa còn gọi l chùa
Phật Tổ, được Hòa Thượng Tô Quang Xuân dựng lên v o giữa thế kỷ thứ 19.
Nguyên thủy chùa chỉ l một cái am nhỏ l m nơi tu h nh v phát thuốc cho
nhân dân trong vùng. Sau đó Hòa Thượng lên th nh Gia Định, tu ở chùa Kim
Chương v thị tịch ở đó. Năm 1842, vua Thiệu Trị đã sắc phong cho Hòa
Thượng v sắc tứ chùa Quan Âm. Ngôi chùa hiện tại đã được hai vị Hòa
Thượng Thiện Tường v Thiện Đức xây dựng v o năm 1936—Name of a temple
located in C Mau town, C Mau province. It is also called Phật Tổ Temple.
It was built in the middle of the nineteenth centur by Most Venerable Tô
Quang Xuân. At first it was only a small temple where he stayed and
worshipped Buddhism, and made prescription to cure the local people.
Later, he moved to Gia Định and stayed at Kim Chương Temple, with Buddhist
name “Trí Tâm” and passed away there. In 1842, King Thiệu Trị proclaimed
him Most Venerable, and offered the Royal Recognization to the temple. The
present temple was rebuilt by Most Venerable Thiện Tường and Most
Venerable Thiện Đức in 1936.
Quan Đại Thần: Minister.
Quan Đế:
1) Quan
Đế hay Quan Vân Trường: Kuan-Ti, the god of War, adeified hero of the
Three Kingdoms.
2) Vị Hộ
Pháp: A protector of Buddhism.
Quan Điểm:
Concepts—Opinions—Outlook—Point of view—Viewpoint.
Quan Điểm Chính: Central
concept.
Quan Điểm Thuần Lý: A rational
outlook.
Quan Nan: Bị rắc rối với pháp
luật—In danger from the law—Official oppression.
Quan Ngại: To obstruct—To
hinder.
Quan Niệm: Concept.
Quan Niệm Không Hữu Lý:
Irrational views .
Quan Sát: Observation.
Quan Sát Khách Quan: Objective
observation.
Quan Tâm: To pay attention to.
Quan Thế Âm: Avalokitesvara
(skt)—See Quán Thế Âm.
Quan Trọng Nhứt: Most
importantly.
Quán: Vipasyana or Vidarsana
(skt).
I.
1)
Đi xuyên qua: To pass through.
2)
Rửa: To wash—To sprinkle.
3)
Xỏ xâu: To thread—To string.
4)
Ngẫm nghĩ cẩn thận (tế tư): Contemplation—Examination—To look
into—To study—To contemplate—To contemplate and mentally enter into
truth—Contemplation can be used to dispel distractions and defilements. To
consider illusion and discern illusion or discerning the seeming from the
real:
a) Quán
tình thương triệt tiêu lòng sân hận: Contemplation on love to dispel
anger.
b) Quán
sự biết ơn v tâm hỷ triệt tiêu lòng ganh ghét: Contemplation on
appreciation and rejoicing in the good qualities of others can dispel the
problem of jealousy.
c) Quán
vô thường v niệm chết giúp giảm bớt sự tham ái: Contemplation on
impermanence and death awareness can reduce covetousness.
d) Quán
bất tịnh giúp giảm thiểu chấp thủ: Contemplation on the impurity can help
reduce attachment.
e) Quán
vô ngã v tánh không giúp triệt tiêu những tư tưởng xấu xa: Contemplation
on non-ego (non-self) and emptiness can help eliminate (eradicate)
completely all negative thoughts.
II. Two kinds of
contemplation:
1) Quán
sự: Contemplation or meditation on the external forms of the phenomenal.
2) Quán
lý: Contemplation or meditation on the real or underlying nature.
Quán Âm: See Quán Thế Âm.
Quán Chiếu: Lấy trí tuệ m soi
sáng hay chiếu kiến sự lý—To reflect—To be enlightened or to enlighten as
a result of insight (intelligent) contemplation.
** For more information,
please see Bát Bát
Nhã and Tam Bát Nhã.
Quán Chiếu Bát Nhã: Một trong
ba loại Bát Nhã, lấy trí tuệ quán chiếu cái lý thực tướng hay nhờ thiền
quán m giác ngộ được chân lý—One of the three kinds of Prajna, the prajna
or wisdom of meditative enlightenment on reality.
** For more information,
please see Bát Nhã
and Tam Bát Nhã.
Quán Chiếu “Khổ”:
1) To
reflect on suffering.
2) Quán
chiếu “khổ” l một trong những cửa ngõ quan trọng đi v o đại giác, vì nhờ
đó m chúng ta mới có khả năng chấm dứt mọi chấp trước, ham muốn v dục
vọng—Reflection on suffering is one of the most important entrances to the
great enlightenment; for with it, we are able to end all attachments,
aspirations and desires.
Quán Chiếu “Tỉnh Lặng”:
1)
Reflection on calmness or tranquility.
2) Quán
chiếu “Tỉnh Lặng” l một trong những cửa ngõ quan trọng đi v o đại giác,
vì nhờ đó m chúng ta không khuấy rối tâm mình—Reflection on calmness is
one of the most important entrances to the great enlightenment; for with
it, we do not disturb our mind.
Quán Chiếu “Vô Ngã”:
1)
Reflection on No-Self.
2) Quán
chiếu “Vô Ngã” l một trong những cửa ngõ quan trọng đi v o đại giác, vì
nhờ đó m chúng ta không lầm chấp v o cái ngã ảo huyền—Reflection on
“No-self” is one of the most important entrances to the great
enlightenment; for with it, we do not mistakenly attach to an illusive
self.
Quán Chiếu “Vô Thường”:
1) To
reflect on impermanence.
2) Quán
chiếu vô thường l một trong những cửa ngõ đi v o đại giác, vì nhờ đó m
chúng ta mới có khả năng thấy được bộ mặt thật của những dục vọng trong
nh lửa tam giới—Reflection on impermanence is one of the most important
entrances to the great enlightenment; for with it, we are able to reflect
and see the real face of all the desires of the triple world burning
house.
Quán Chúng Sanh: To contemplate
a living beings—Theo Kinh Duy Ma Cật, khi ng i Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát vâng
mệnh Phật đến thăm bệnh cư sĩ Duy Ma Cật—According to the Vimalakiriti
Sutra, Manjusri Bodhisattva obeyed the Buddha’s command to call on
Vimalakirti to enquire after his health:
·
Ng i Văn Thù Sư Lợi hỏi ông
Duy Ma Cật: “Bồ Tát quán sát chúng sanh phải như thế n o?”—Manjusri asked
Vimalakirti: “How should a Bodhisattva look at living beings?”
·
Ông Duy Ma Cật đáp: “Ví nh huyễn thuật thấy người huyễn của
mình hóa ra, Bồ Tát quán sát chúng sanh cũng như thế. Như người trí thấy
trăng dưới nước, thấy mặt trong gương, như ánh nắng dợn, như âm vang của
tiếng, như mây giữa hư không, như bọt nước, như bóng nổi, như lõi cây
chuối, như ánh điển chớp, như đại thứ năm, như ấm thứ sáu, như căn thứ
bảy, như nhập thứ mười ba, như giới thứ mười chín. Bồ Tát quán sát chúng
sanh cũng như thế. Như sắc chất cõi vô sắc, như mộng lúa hư, như thân kiến
của Tu Đ Ho n, như sự nhập thai của A Na H m, như tam độc của A la hán,
như tham giận phá giới của Bồ Tát chứng vô sanh pháp nhẫn, như tập khí
phiền não của Phật, như mù thấy sắc tượng, như hơi thở ra v o của người
nhập diệt tận định, như dấu chim giữa hư không, như con của thạch nữ (đ n
b không sanh đẻ), như phiền não của người huyễn hóa, như cảnh chiêm bao
khi đã thức, như người diệt độ thọ lấy thân, như lửa không khói. Bồ Tát
quán sát chúng sanh cũng như thế đó.”—Vimalakirti replied: “ A Bodhisattva
should look at living beings like an illusionist does at the illusory men
(he has created); and like a wise man looking at the moon’s reflection in
water; at his own face in a mirror; at the flame of a burning fire; at the
echo of a calling voice; at flying clouds in the sky; at foam in a liquid;
at bubbles on water; at the (empty) core of a banana tree; at a flash of
lightning; at the (non-existent) fifth element (beside the four that make
the human body); at the sixth aggregate (beside the five that make a
sentient being); at the seventh sense datum (beside the six objects of
sense); at the thirteenth entrance (ayatana-beside the twelve involving
the six organs and six sense date); at the nineteenth realm of sense
(beside the eighteen dhatus or fields of sense); at form in the formless
world; at the (non-existent) sprout of a charred grain of rice; at a body
seen by a srota-apanna (who has wiped out the illusory body to enter the
holy stream); at the entry of an Anagamin (or a non-returning Sravaka)
into the womb of a woman (for rebirth); at an arhat still preserving the
three poisons (of desire, anger and stupidity which he has eliminated for
ever); at a Bodhisattva realizing the patient endurance of the uncreate
who is still greedy, resentful and breaking the prohibitions; at a Buddha
still suffering from klesa (troubles); at a blind man seeing things; at an
adept who still breathes air in and out while in the state of nirvanic
imperturbability; at the tracks of birds flying in the air; at the progeny
of a barren woman; at the suffering of an illusory man; at a sleeping man
seeing he is awake in a dream; at a devout man realizing nirvana who takes
a bodily form for (another) reincarnation; and at a smokeless fire. This
is how a Bodhisattva should look at living beings.”
Quán Đảnh:
1) Điểm
đạo: Abhisekana or Murdhabhisikta (skt).
a) Quán
đảnh đệ tử bằng cách đặt tay hay rưới nước lên đầu đệ tử. Chư Phật quán
đảnh đệ tử bằng cách đặt tay lên đỉnh đầu của đệ tử. Tục lệ Ấn Độ nầy
thường thấy trong lễ phong vương, bằng cách rưới lên đầu tân vương nước từ
bốn bể, v nước từ những con sông trong lãnh địa của ông ta. Bên Trung
Quốc, người ta thường dùng nghi thức Phật Giáo cho các vị đại quan, cũng
như lễ thọ cụ túc giới cho chư Tăng Ni. Các thầy Mật Giáo dùng nghi thức
quán đảnh để điểm đạo cho đệ tử của mình, cho các cấp lãnh đạo, cũng như
trong các buổi đ n tr ng siêu độ (cầu nguyện sau khi xãy ra tai ương hay
chuẩn bị cho sự tái
sanh)—Baptism—Initiation—Head—Superintendent—Empowerment—Inauguration or
consecration by placing the hand on or sprinkling or pouring water on the
head. Every Buddha baptizes a disciple by laying a hand on his head. An
Indian custom on the investiture of a king, whose head was baptized with
water from the four seas and from the rivers in his domain. In China, it
is administered as a Buddhist rite chiefly to high personages and for
ordination purpose. Among the esoterics it is a rite especially
administered to their disciples; and they have several categories of
baptism, e.g. that of ordinary disciples, of teacher or preacher, of
leader, of office-bearer; also for special causes such as relief from
calamity, preparation for the next life, etc.
b) Quán
Đảnh Chân Ngôn—The ritual of anointment of the Shingon School: Theo Giáo
Sư Junjiro Takakusu trong Cương Yếu Triết Học Phật Giáo—According to Prof.
Junjiro Takakusu in The Essentials of Buddhist Philosophy:
·
Chân Ngôn tông có nghi quỹ quán đảnh (Abhiseka) cũng như
nghi quỹ đ n tr ng. Nơi sửa soạn lễ quán đảnh phải được trang ho ng bằng
mạn đ la của cả hai giới; v tất cả những nhu cầu lễ tiết phải được thực
hiện đầy đủ. Đôi khi các mạn đ la được nới rộng ra để th nh lập môi
trường h nh lễ. Do đó m nơi đây được gọi l mạn đ la. Chỉ khi n o nghi
thức được triệt để tuân h nh mới có thể đạt được linh nghiệm từ năng lực
gia trì của Phật. Theo truyền thuyết, Thiện Vô Úy v đồ đệ l Nhất H nh,
truyền thừa Thai Tạng giới, trong lúc Kim Cương Trí v đệ tử l Bất Không
giảng thuyết về Kim Cang giới. Thế nên ta phải nhận định rằng có đến hai
dòng truyền thừa, m mỗi dòng chỉ l một phần hay phiến diện: The Shingon
School has the ritual of anointment (Abhikesa) as well as the ordination
ceremony. The area of anointment must be decided with the Circles of the
two realms; all ritual requirements must be fulfilled. Sometimes the
Circles are spread out and thereby the ritual area is formed. So the area
is called “Circle.” Only the adequate performance of the ritual can make
the evoking of any enfolding power of Buddha effective. According to
tradition, Subhakarasimha and his pupil, I-Hsing, transmitted the Matrix
doctrine, while Vajrabodhi and his pupil, Amoghavajra, taught the Diamond
doctrine. Thus we must presume that there were two traditions of
transmission, both being only partial or one-sided.
·
Tuy nhiên, sự khám phá mới đây của giáo sư Tucci về
Tattvasamgraha ở Tây Tạng, v của giáo sư Ono về cuốn Vajra-Sekhara ở Nhật
đã khiến cho những truyền thuyết cũ không còn đứng vững nữa, bởi vì quyển
Vajra-sekhara trình b y trong Ngũ Bộ Tâm Quán được giữ bí mật tại tự viện
Mii ở Ômi v Shorenin, Kyoto. Ngũ Bộ l Phật, Liên Hoa, Đa Bảo, Kim Cương,
v Kiết Ma. Đây nguyên l các bộ phận của Kim Cang giới; rõ r ng l ngay
từ đầu chúng ta đã có bản kinh về Kim Cương giáo thuyết do Thiện Vô Úy
mang đến. Thực sự chúng l dòng truyền thừa của Thiện Vô Úy. Từ đó, chúng
ta nhận thấy rằng v o thời của Thiện Vô Úy, cả hai giáo thuyết về Kim
Cương v Thai Tạng đã có mặt ở Trung Quốc. Bản của Tucci bằng Phạn ngữ v
của Ono l bản giải thích bằng tranh ảnh, nếu không có nó thì khó m theo
dõi nguyên bản Sanskrit. Những người nghiên cứu Mật giáo có thể hy vọng
được hỗ trợ thực tế nhờ khảo cứu các bản văn nầy: However, the recent
discovery of the Tattva-sangraha in Tibet by Professor Tucci and the
Vajra-sekhara in Japan by Professor Ono make the old traditions entirely
untenable, because the Vajra-sekhara represented in the Five Assemblies
was kept in secret in the Mii Monastery in Ômi and Shorenin in Kyoto. The
Five Assemblies are Buddha, Padma, Ratna, Vajra and Karma. These being
originally the divisions of the Diamond Realm, it is clear that we had
from the beginning the text of the ‘Diamond’ doctrine brought by
Subhakarasimha. They were actually the transmission by Subhakarasimha.
From this it will be seen that at the time of Subhakarasimha both the
‘Diamond’ and ‘Matrix’ doctrines were existing in China. Tucci’s text is
Sanskrit and Ono’s is pictorial explanation without which a perusal of
Sanskrit original often becomes impossible. Students of mysticism may
expect a real contribution from the study of these texts.
2) Quán
Đảnh Bồ Tát: Một nghi thức rưới nước lên đầu một vị Bồ Tát, khi vị ấy sắp
bước v o giai đoạn cuối cùng đến Phật quả—Ceremonial sprinkling of water
on a bodhisattva’s head, is said to be done when a bodhisattva is about to
enter the ultimate state and become Buddha.
3) Quán
Đảnh Đại Sư (561-632)—Kuan-Ting Great Master (561-632): Quán Đảnh l vị tổ
thứ năm của tông Thiên Thai. Ba tác phẩm lớn của ng i Trí khải đều do Quán
Đảnh tập th nh to n vẹn—Kuan-Ting is the fifth patriarch of the T’ien-T’ai
School. The three great works of Chih-I are all compilations of
Kuan-Ting.
Quán Đảnh Tam Muội: Tam muội
đạt được trong thiền quán—The samadhi of the summit of contemplation (the
peak whence all the samadhis may be surveyed).
Quán Đảnh Trụ: Thập trụ của một
vị Bồ Tát khi vị nầy đã được Phật thọ ký (xức dầu quán đảnh) th nh
Phật—The tenth stage of a Bodhisattva when he is anointed by the Buddha as
a Buddha.
Quán Đạo:
1) Thấu
triệt giáo pháp: To know the doctrine thoroughly.
2) Thiền
Quán: Contemplation—Meditation—Insight.
Quán Đạt: Đạt được chân lý qua
thiền quán—To penetrate to reality through contemplation.
Quán Đảnh: See Abhisheka in
Sanskrit/Pali-Vietnamese Section.
Quán Giác: Awakening—Awareness.
1) Quán:
Examination or study.
2) Giác:
Awakening or awareness.
Quán Giải: Quán niệm v giải lý
được chân lý—To contemplate and expound the ultimate reality.
Quán H nh:
1) Quán
lý ở tâm rồi đích thân thực h nh đúng theo lý đó—Contemplation and
accordant action.
2) Pháp
Quán Sát H nh Pháp của Tâm: Method of contemplating.
Quán H nh Ngũ Phẩm Vị: The
T’ien-T’ai five stages of meditation and action.
Quán H nh (Hạnh) Phật: See Quán
H nh Tức Phật and Lục Tức Phật.
Quán H nh Tức Phật: Quán v
h nh như Phật. Đây l giai đoạn thứ ba của Lục Tức Phật. Vị Bồ Tát đã đạt
được ngũ phẩm Phật Địa—To contemplate and act as a Buddha. The third of
the six stages of Bodhisattva developments. Any Bodhisattva or disciples
who have attained to the fifth stage of Bodhisattvahood.
** For more information,
please see Lục Tức
Phật.
Quán Hoa: Chuỗi hoa, lời kệ
tụng trong kinh gọi l “Quán Hoa” hay chuỗi hoa (lời văn trong kinh gọi l
“Tán Hoa” hay hoa rời)—A string of flowers, a term for the gathas in
sutras, i.e. the prose recapitulated in verse.
Quán Huệ: Trí tuệ quán sát thấu
hiểu được chân lý—The wisdom which penetrates to ultimate reality.
Quán Không: Quán chiếu vạn hữu
giai không hay không tướng của các pháp—To contemplate (regard) all things
as unreal (no fundamental reality.
Quán Lạp: H ng năm cứ đến ng y
Hạ Mãn, tức rằm tháng bảy âm lịch, các tự viện đều cử h nh nghi thức “quán
lạp” hay tắm Phật—The washing of the Buddha’s image at the end of the
monastic year, or the end of summer, usually the 15th of the seventh lunar
month.
Quán Môn:
1) Thiền
quán l một trong hai môn giáo quán để thấu triệt chân lý: Contemplation
or meditation as one of the two methods of entry into the truth.
2) Thiền
quán cũng còn l một trong sáu “Diệu Môn” cho người tu Phật: Contemplation
or meditation is also one of the six wonderful strategies or doors for
Buddhist cultivators.
** For more information,
please see Lục Diệu
Môn.
Quán Môn Thập Pháp Giới: To
contemplate on the ten dharma realms—See Thập Pháp Giới.
Quán Niệm: Nhìn v o sự vật để
quán tưởng—To look into (things) and think over—To contemplate and ponder.
Quán Niệm Niệm Phật: See Quán
Tưởng Niệm Phật.
Quán Pháp: Contemplation of
mind-objects.
(A) Phép quán
niệm chân lý ở tâm—Methods of contemplation (obtaining of insight into
truth).
(B) Theo Kinh
Niệm Xứ, Đức Phật dạy về ‘quán pháp’ như sau—According to the
Satipatthanasutta, the Buddha taught about ‘contemplation of mind-objects’
as follows:
1)
Năm Triền Cái—The Five Hindrance: Nầy các Tỳ Kheo, thế n o l Tỳ
Kheo sống quán niệm pháp trên các pháp? Nầy các Tỳ Kheo, ở đây Tỳ Kheo
sống quán niệm pháp trên các pháp đối với năm triền cái (năm món ngăn
che). V nầy các Tỳ Kheo, thế n o l các Tỳ Kheo sống quán niệm pháp trên
các pháp đối với năm triền cái? Vị Tỳ Kheo sống quán niệm pháp trên các
nội pháp; hay sống quán niệm pháp trên các ngoại pháp; hay sống quán niệm
pháp trên cả nội pháp lẫn ngoại pháp. Hay vị ấy sống quán niệm tánh sanh
khởi trên các pháp; hay sống quán niệm tánh diệt tận trên các pháp. Hay
sống quán niệm tánh sanh diệt trên các pháp. “Có pháp đây, vị ấy an trú
chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. V vị ấy
sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Nầy các Tỳ
Kheo, như vậy l Tỳ Kheo sống quán niệm pháp trên các pháp—And how,
Bhikkhus, does a Bhikkhu abide contemplating mind-objects as mind-objects?
Here a Bhikkhu abides contemplating mind-objects as mind-objects in terms
of the five hindrances. And how does a Bhikkhu abide contemplating
mind-objects as mind-objects in terms of the five hindrances? A Bhikkhu
abides contemplating mind-objects as mind-objects internally, or he abides
contemplating mind-objects as mind-objects externally, or he abides
contemplating mind-objects as mind-objects both internally and externally.
Or else he abides contemplating in mind-objects their arising factors, or
he abides contemplating in mind-objects their vanishing factors, or he
abides contemplating in mind-objects both their arising and vanishing
factors. Or else mindfulness that ‘there are mind-objects’ is simply
established in him to the extent necessary for bare knowledge and
mindfulness. And he abides independent, not clinging to anything in the
world. That is how a Bhikkhu abides contemplating mind-objects as
mind-objects in terms of the five hindrances.
a)
Nầy các Tỳ Kheo, ở đây nội tâm Tỳ Kheo có ái dục, vị ấy ý thức rằng
nội tâm của mình đang có ái dục. Khi nội tâm không có ái dục, vị ấy ý thức
rằng nội tâm của mình không có ái dục. V với ái dục chưa sanh nay sanh
khởi, vị ấy ý thức được sự đang sanh khởi ấy. Khi một niệm ái dục đã sanh,
vị ấy ý thức được sự đã sanh khởi ấy. Khi ái dục đang được đoạn diệt,
tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy ý thức như vậy—Here, there being
sensual desire in him, a Bhikkhu understands: “There is sensual desire in
me;” or there being no sensual desire in him, he understands: “There is no
sensual desire in me;” and he also understands how there comes to be the
arising of unarisen sensual desire, and how there comes to be the
abandoning of arisen sensual desire, and how there comes to be the future
non-arising of abandoned sensual desire.
b)
Khi nội tâm có sân hận, vị ấy ý thức rằng nội tâm mình đang có sân
hận. Khi nội tâm không có sân hận, vị ấy ý thức rằng nội tâm mình đang
không có sân hận. Khi một niệm sân hận chưa sanh nay bắt đầu sanh khởi, vị
ấy ý thức được sự bắt đầu sanh khởi ấy. Khi một niệm sân hận đã sanh khởi,
nay được đoạn diệt, vị ấy ý thức được sự đoạn diệt ấy. Khi một niệm sân
hận đã được đoạn diệt v tương lai không còn sanh khởi nữa, vị ấy ý thức
được như vậy—There being ill-will in him, a Bhikkhu understands: “There is
ill-will in me;” or there being no ill-will in him, he understands: “There
is no ill-will in me;” and he also understands how there comes to be the
arising of unarisen ill-will, and how there comes to be the abandoning of
arisen ill-will, and how there comes to be the future non-arising of
abandoned ill-will.
c)
Khi nội tâm có hôn trầm thụy miên (mê muội v buồn ngủ), vị ấy ý
thức được sự hôn trầm thụy miên ấy. Khi nội tâm không có hôn trầm thụy
miên, vị ấy ý thức được nội tâm của mình đang không có hôn trầm thụy miên.
Khi hôn trầm v thụy miên chưa sanh nay bắt đầu sanh khởi, vị ấy ý thức
được sự đang sanh khởi ấy. Khi hôn trầm v thụy miên đã sanh nay được đoạn
diệt, vị ấy ý thức được sự đang đoạn diệt ấy. Khi hôn trầm v thụy miên đã
được đoạn diệt v tương lai không thể sanh khởi nữa, vị ấy ý thức được
điều đó—There being sloth and torpor in him, a Bhikkhu understands: “There
are sloth and torpor in me;” or there being no sloth and torpor in him, he
understands: “There are no sloth and torpor in me;” and he also
understands how there comes to be the arising of unarisen sloth and
torpor, and how there comes to be the abandoning of arisen sloth and
torpor, and how there comes to be the future non-arising of abandoned
sloth and torpor.
d)
Khi nội tâm có trạo hối (sự dao động bất an v hối hận), vị ấy ý
thức rằng mình đang có dao động bất an v hối hận. Khi nội tâm không có
dao động bất an v hối hận, vị ấy ý thức rằng nội tâm mình đang không có
sự dao động bất an v hối hận. Khi dao động bất an v hối hận sanh khởi,
vị ấy ý thức rằng nội tâm mình đang sanh khởi dao động bất an v hối hận.
Khi dao động bất an v hối hận đã sanh nay được đoạn diệt, vị ấy ý thức
được sự đoạn diệt ấy. Với dao động bất an v hối hận đã được đoạn diệt,
tương lai không còn sanh khởi nữa, vị ấy ý thức được như vậy—There being
restlessness and remorse in him, a Bhikkhu understands: “There are
restlessness and remorse in me;” or there being no restlessness and
remorse in him, he understands: “There are no restlessness and remorse in
me;” and he also understands how there comes to be the arising of
unarisen restlessness and remorse, and how there comes to be the
abandoning of arisen restlessness and remorse, and how there comes to be
the future non-arising of abandoned restlessness and remorse.
e)
Khi nội tâm có nghi, vị ấy ý thức được nội tâm của mình đang có
nghi. Khi nội tâm không có nghi, vị ấy ý thức được nội tâm mình đang không
có nghi. Khi nội tâm với nghi chưa sanh nay đang sanh khởi, vị ấy ý thức
được sự sanh khởi ấy. Với nghi đã sanh nay được đoạn diệt, vị ấy ý thức
được sự đoạn diệt ấy. Với nghi đã được đoạn diệt, tương lai không sanh
khởi nữa, vị ấy ý thức được như vậy—There being doubt in him, a Bhikkhu
understands: “There is doubt in me;” or there being no doubt in him, he
understands: “There is no doubt in me;” and he also understands how there
comes to be the arising of unarisen doubt, and how there comes to be the
abandoning of arisen doubt, and how there comes to be the future
non-arising of abandoned doubt.
2)
Lại nữa, nầy các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo sống quán niệm pháp trên các pháp
đối với ngũ uẩn. Nầy các Tỳ Kheo, thế n o l Tỳ Kheo sống quán pháp trên
các pháp đối với năm thủ uẩn? Nầy các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo quán chiếu như sau:
Again, Bhikkhus, a Bhikkhu abides contemplating mind-objects as
mind-objects in terms of the five aggregates affected by clinging. And how
does a Bhikkhu abide contemplating mind-objects as mind-objects in terms
of the five aggregates affected by clinging? Here a Bhikkhu understands:
a)
Đây l sắc (hình thể), đây l sắc tập (sự phát sinh ra hình thể),
đây l sắc diệt—Such is material form, such its origin, such its
disappearance.
b)
Đây l thọ, đây l thọ tập, đây l thọ diệt—Such is feeling, such
its origin, such its disappearance.
c)
Đây l tưởng, đây l tưởng tập, đây l tưởng diệt—Such is
perception, such its origin, such its disappearance.
d)
Đây l h nh, đây l h nh tập, đây l h nh diệt—Such are the
formations, such their origin, such their disappearance.
e)
Đây l thức, đây l thức tập, đây l thức diệt—Such is
consciousness, such its origin, such its disappearance.
3)
Lại nữa, nầy các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo sống quán niệm pháp trên các pháp
đối với sáu nội ngoại xứ. Nầy các Tỳ Kheo, thế n o l Tỳ Kheo sống quán
pháp trên các pháp đối với sáu nội ngoại xứ?—Again, Bhikkhus, a Bhikkhu
abides contemplating mind-objects as mind-objects in terms of the six
internal and external bases. And how does a Bhikkhu abide contemplating
mind-objects as mind-objects in terms of the six internal and external
bases?
a)
Vị ấy ý thức về mắt v đối tượng của mắt l hình sắc v về những
r ng buộc tạo nên do mắt v hình sắc. Vị ấy ý thức về những r ng buộc chưa
sanh nay đang phát sanh. Vị ấy ý thức về những r ng buộc đã phát sanh nay
được đoạn diệt. Vị ấy ý thức về những r ng buộc đã được đoạn diệt, tương
lai không sanh khởi nữa—Here a Bhikkhu understands the eye, he understands
forms, and he understands the fetter that arises dependent on both; and he
understands how there comes to be the arising of the unarisen fetter, and
how there comes to be the future non-arising of the abandoning fetter.
b)
Vị ấy ý thức về tai v đối tượng của tai l âm thanh v về những
r ng buộc tạo nên do tai v âm thanh. Vị ấy ý thức về những r ng buộc chưa
sanh nay đang sanh khởi. Vị ấy ý thức về những r ng buộc đã sanh, nay đang
được đoạn diệt. Vị ấy ý thức về những r ng buộc đã được đoạn diệt, tương
lai không còn sanh khởi nữa—Here a Bhikkhu understands the ear, he
understands sounds, and he understands the fetter that arises dependent on
both; and he understands how there comes to be the arising of the unarisen
fetter, and how there comes to be the future non-arising of the abandoning
fetter.
c)
Vị ấy ý thức về lổ mũi v đối tượng của mũi l mùi hương v những
r ng buộc tạo nên do lổ mũi v mùi hương. Vị nầy ý thức về những r ng buộc
chưa phát sanh nay đang sanh khởi. Vị ấy ý thức về những r ng buộc đã phát
sanh v đang được đoạn diệt. Vị ấy ý thức về những r ng buộc đã được đoạn
diệt, tương lai không còn sanh khởi nữa—Here a Bhikkhu understands the
nose, he understands odours, and he understands the fetter that arises
dependent on both; and he understands how there comes to be the arising of
the unarisen fetter, and how there comes to be the future non-arising of
the abandoning fetter.
·
Vị ấy ý thức về cái lưỡi v
đối tượng của lưỡi l vị nếm v những r ng buộc tạo nên do cái lưỡi v vị
nếm. Vị ấy ý thức về những r ng buộc chưa phát sanh nay đang phát sanh. Vị
ấy ý thức về những r ng buộc đã phát sanh nay đang được đoạn diệt. Vị ấy ý
thức về những r ng buộc đã được đoạn diệt, tương lai không còn sanh khởi
nữa— Here a Bhikkhu understands the tongue, he understands flavours, and
he understands the fetter that arises dependent on both; and he
understands how there comes to be the arising of the unarisen fetter, and
how there comes to be the future non-arising of the abandoning fetter.
d)
Vị ấy ý thức về thân v đối tượng của thân l sự xúc chạm. Vị ấy ý
thức về những r ng buộc chưa sanh khởi nay đang được sanh khởi. Vị ấy ý
thức về những r ng buộc đã sanh khởi đang được đoạn tận. Vị ấy ý thức về
những r ng buộc đã được đoạn diệt, tương lai không còn sanh khởi nữa—Here
a Bhikkhu understands the body, he understands tangibles, and he
understands the fetter that arises dependent on both; and he understands
how there comes to be the arising of the unarisen fetter, and how there
comes to be the future non-arising of the abandoning fetter.
e)
Vị ấy ý thức về đối tượng của ý l tư tưởng v về những r ng buộc
tạo nên do ý l tư tưởng. Vị ấy ý thức về những r ng buộc chưa sanh khởi
nay đang sanh khởi. Vị ấy ý thức về những r ng buộc đã sanh khởi đang được
đoạn diệt. Vị ấy ý thức về những r ng buộc đã đoạn diệt, tương lai không
còn sanh khởi nữa—Here a Bhikkhu understands the mind, he understands
mind-objects, and he understands the fetter that arises dependent on both;
and he understands how there comes to be the arising of the unarisen
fetter, and how there comes to be the future non-arising of the abandoning
fetter.
4)
Lại nữa, nầy các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo sống quán niệm pháp trên pháp đối
với thất giác chi. Nầy các Tỳ Kheo, thế n o l Tỳ Kheo sống quán pháp trên
pháp đối với thất giác chi?—Again, Bhikkhus, a Bhikkhu abides
contemplating mind-objects as mind-objects in terms of the seven
enlightenment factors. And how does a Bhikkhu abide contemplating
mind-objects as mind-objects in terms of the seven enlightenment factors?
a)
Khi nội tâm có niệm giác chi (yếu tố chánh niệm), vị ấy ý thức l
mình có chánh niệm. Vị ấy quán chiếu rằng tâm mình đang có chánh niệm. Khi
không có chánh niệm, vị ấy ý thức rằng tâm mình không có chánh niệm. Vị ấy
ý thức về chánh niệm chưa sanh khởi nay đang sanh khởi. Vị ấy ý thức về
chánh niệm đã phát sanh nay đang th nh tựu viên mãn—Here, there being the
mindfulness enlightenment factor in him, a Bhikkhu understands: “There is
the mindfulness enlightenment factor in me;” or there being no mindfulness
enlightenment factor in him, he understands: “There is no mindfulness
enlightenment factor In me;” and also understands how there comes to be
the arising of the unarisen mindfulness enlightenment factor, and how the
arisen mindfulness enlightenment factor comes to fulfilment by
development.
b)
Khi nội tâm có trạch giác chi (giám định đúng sai thiện ác). Vị ấy
ý thức l mình đang có sự phân định đúng sai thiện ác. Vị ấy quán chiếu
rằng tâm mình đang có sự giám định đúng sai thiện ác. Khi không có sự giám
định, vị ấy ý thức l mình đang không có sự giám định. Vị ấy ý thức về một
sự giám định chưa sanh nay đang sanh khởi. Vị ấy ý thức về một sự giám
định đã sanh khởi nay đang th nh tựu viên mãn—Here, there being the
investigation-of-states enlightenment factor in him, a Bhikkhu
understands: “There is the investigation-of-states enlightenment factor in
me;” or there being no investigation-of-states enlightenment factor in
him, he understands: “There is no investigation-of-states enlightenment
factor in me;” and also understands how there comes to be the arising of
the unarisen investigation-of-states enlightenment factor, and how the
arisen investigation-of-states enlightenment factor comes to fulfilment by
development.
c)
Khi nội tâm có tinh tấn giác chi, vị ấy ý thức l mình đang có sự
tinh chuyên. Vị ấy quán chiếu rằng tâm mình đang có sự tinh chuyên. Khi
nội tâm không có sự tinh chuyên, vị ấy ý thức rằng tâm mình không có sự
tinh chuyên. Vị ấy ý thức về một sự tinh chuyên chưa sanh khởi nay đang
sanh khởi. Vị ấy ý thức về sự tinh chuyên đã sanh khởi nay đang đi đến
th nh tựu viên mãn— Here, there being the energy enlightenment factor in
him, a Bhikkhu understands: “There is the energy enlightenment factor in
me;” or there being no energy enlightenment factor in him, he understands:
“There is no enegy enlightenment factor in me;” and also understands how
there comes to be the arising of the unarisen energy enlightenment
factor, and how the arisen energy enlightenment factor comes to fulfilment
by development.
d)
Khi nội tâm có hỷ giác chi, vị ấy ý thức l mình đang có an vui. Vị
ấy quán chiếu rằng tâm mình đang an vui. Khi nội tâm không có an vui, vị
ấy ý thức l mình đang không có an vui. Vị ấy ý thức về niềm an vui chưa
sanh khởi, nay đang sanh khởi. Vị ấy ý thức về niềm an vui đã sanh khởi,
nay đang đi đến th nh tựu viên mãn—Here, there being the rapture
enlightenment factor in him, a Bhikkhu understands: “There is the rapture
enlightenment factor in me;” or there being no rapture enlightenment
factor in him, he understands: “There is no rapture enlightenment factor
in me;” and also understands how there comes to be the arising of the
unarisen rapture enlightenment factor, and how the arisen rapture
enlightenment factor comes to fulfilment by development.
e)
Khi nội tâm có khinh an giác chi, vị ấy ý thức tâm mình đang có
khinh an (nhẹ nhõm). Vị ấy quán chiếu rằng tâm mình đang có khinh an. Khi
nội tâm không có khinh an, vị ấy ý thức rằng nội tâm mình không có sự
khinh an. Vị ấy ý thức về sự khinh an chưa sanh khởi, nay đang sanh khởi.
Vị ấy ý thức về sự khinh an đã sanh khởi, nay đang đi đến th nh tựu viên
mãn—Here, there being the tranquility enlightenment factor in him, a
Bhikkhu understands: “There is the tranquility enlightenment factor in
me;” or there being no tranquility enlightenment factor in him, he
understands: “There is no tranquility enlightenment factor In me;” and
also understands how there comes to be the arising of the unarisen
tranquility enlightenment factor, and how the arisen tranquility
enlightenment factor comes to fulfilment by development.
f)
Khi nội tâm có định giác chi, vị ấy ý thức l mình đang có định.
Khi nội tâm không có định, vị ấy ý thức l mình đang không có định. Khi
định chưa sanh khởi, nay đang sanh khởi, vị ấy ý thức như vậy. Khi định đã
sanh khởi, nay đang đi đến th nh tựu viên mãn, vị ấy cũng ý thức như
vậy—Here, there being the concentration enlightenment factor in him, a
Bhikkhu understands: “There is the concentration enlightenment factor in
me;” or there being no concentration enlightenment factor in him, he
understands: “There is no concentration enlightenment factor In me;” and
also understands how there comes to be the arising of the unarisen
concentration enlightenment factor, and how the arisen concentration
enlightenment factor comes to fulfilment by development.
g)
Khi nội tâm có xả giác chi, vị ấy ý thức l mình đang buông xả. Vị
ấy quán chiếu l tâm mình có buông xả. Khi nội tâm không có sự buông xả,
vị ấy ý thức l tâm mình đang không có sự buông xả. Vị ấy ý thức về sự
buông xả chưa sanh khởi, nay đang sanh khởi. Vị ấy ý thức về sự buông xả
đã sanh khởi, nay đang đi đế sự th nh tựu viên mãn—Here, there being the
equanimity enlightenment factor in him, a Bhikkhu understands: “There is
the equanimity enlightenment factor in me;” or there being no equanimity
enlightenment factor in him, he understands: “There is no equamity
enlightenment factor In me;” and also understands how there comes to be
the arising of the unarisen equanimity enlightenment factor, and how the
arisen equanimity enlightenment factor comes to fulfilment by development.
5)
Lại nữa, n y các Tỳ Kheo, vị Tỳ Kheo sống quán niệm pháp trên các
pháp đối với Tứ Diệu Đế. N y các Tỳ Kheo, thế n o l Tỳ Kheo sống quán
pháp trên các pháp đối với bốn sự thật cao quý? Nầy các Tỳ Kheo, ở đây Tỳ
Kheo ý thức: “Khi sự kiện l đau khổ, vị ấy quán niệm đây l đau khổ. Khi
sự kiện l nguyên nhân tạo th nh đau khổ, vị ấy quán niệm đây l nguyên
nhân tạo th nh sự đau khổ. Khi sự kiện l sự chấm dứt khổ đau, vị ấy quán
chiếu đây l sự chấm dứt khổ đau. Khi sự kiện l con đường đưa đến sự chấm
dứt khổ đau, vị ấy quán niệm đây l con đường dẫn đến sự chấm dứt khổ
đau.”—Again, Bhikkhus, a Bhikkhu abides contemplating mind-objects as
mind-objects in terms of the Four Noble Truths. And how does a Bhikkhu
abide contemplating mind-objects as mind-objects in terms of the Four
Noble Truths? Here a Bhikkhu understands as it actually is: “This is
suffering;” he understands as it actually is: “This is the origin of
suffering;” he understands as it actually is: “This is the cessation of
suffering;” he understands as it actually is: “This is the way leading to
the cessation of suffering.”
*** For more information,
please see Quán
Tâm, Lục Quán Pháp,
and Chỉ Quán.
Quán Phật:
1) Tắm
Phật: Dục Phật—Lễ tắm Phật trong ng y Phật Đản. Đây l một công việc có
nhiều phước đức v được thực hiện với nhiều nghi thức—To wash the image or
statue of the Buddha during the Buddha’s Birthday, usually with scented
water, which is a work of great merit and done with much ceremony.
2) Quán
niệm hồng danh của Phật: To meditate or contemplate upon Buddha.
3) Theo
Kinh Duy Ma Cật, chương mười hai, phẩm Thấy Phật A Súc, Đức Thế Tôn hỏi
Duy Ma Cật rằng: “Ông nói ông muốn đến đây để thấy Như Lai thì lấy chi
quán sát?”—According to the Vimalakirti Sutra, Chapter Twelve, Seeing
Aksobhya Buddha, the Buddha asked Vimalakirti: “You spoke of coming here
to see the Tathagata, but how do you see Him impartially?”
·
Duy Ma Cật thưa: “Như con
quán thực tướng của thân, thân Phật cũng thế. Con quán Như Lai đời trước
không đến, đời sau không đi, hiện tại không ở; không quán sắc, không quán
sắc như, không quán sắc tánh; không quán thọ, tưởng, h nh, thức, không
quán thức như, không quán thức tánh; không phải tứ đại sinh, cũng không
như hư không; sáu nhập không tích tập, mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, tâm đã
vượt qua; không ở ba cõi, đã lìa ba cấu; thuận ba môn giải thoát; có đủ ba
minh, cùng ngang vô minh, không một tướng, không khác tướng, không có tự
tướng, không có tha tướng, không phải không tướng, không phải chấp tướng;
không bờ bên nầy, không bờ bên kia, không giữa dòng m hóa độ chúng sanh;
quán tịch diệt cũng không diệt hẳn; không đây, không kia, không nương nơi
đây, không nương nơi kia; không thể dùng trí m hiểu được, không thể dùng
thức m biết được; không tối không sáng; không danh không tướng; không
mạnh không yếu; không phải sạch không phải nhơ; không ở phương sở, không
lìa phương sở; không phải hữu vi, không phải vô vi; không b y không nói;
không bố thí, không bỏn xẻn; không giữ giới, không phạm giới; không nhẫn
không giận; không tinh tấn không giải đãi; không định không loạn; không
trí không ngu; không thực không dối; không đến không đi; không ra không
v o; bặt đường nói năng; không phải phước điền, không phải không phước
điền; không phải xứng cúng dường, không phải không xứng cúng dường; không
phải thủ, không phải xả; không phải có tướng, không phải không tướng; đồng
với chân tế bình đẳng như pháp tánh; không thể cân, không thể lường, qua
các sự cân lường, không lớn không nhỏ; không phải thấy, không phải nghe,
không phải giác, không phải tri; lìa các kiết phược, bình đẳng các trí,
đồng với chúng sanh; đối các pháp không phân biệt; tất cả không tổn thất,
không trược không não, không tác không khởi, không sanh không diệt, không
sợ không lo, không mừng không chán, không đã có, không sẽ có, không hiện
có, không thể lấy tất cả lời nói phân biệt chỉ b y được. Bạch Thế Tôn!
Thân Như Lai như thế, con quán cũng thế, nếu người n o quán theo đây gọi
l chánh quán, quán khác gọi l t quán.”—Vimalakirti replied: “Seeing
reality in one’s body is how to see the Buddha. I see the Tathagata did
not come in the past, will not go in the future, and does not stay in the
present. The Tathagata is seen neither in form (rupa, the first
aggregate) nor in the extinction of form nor in the underlying nature of
form. Neither is He seen in responsiveness (vedana), conception (sanjna),
discrimination (samskara) and consciousness (vijnana) (i.e. the four other
aggregates), their extinction and their underlying natures. The Tathagata
is not created by the four elements (earth, water, fire and air), for He
is (immaterial) like space. He does not come from the union of the six
entrances (i.e. the six sense organs) for He is beyond eye, ear, nose,
tongue, body and intellect. He is beyond the three worlds (of desire,
form and formlessness) for He is free from the three defilements (desire,
hate and stupidity). He is in line with the three gates to nirvana and
has achieved the three states of enlightenment (or three insights) which
do not differ from (the underlying nature of ) unenlightenment. He is
neither unity nor diversity, neither selfness nor otherness, neither form
nor formlessness, neither on this shore (of enlightenment) nor in
mid-stream when converting living beings. He looks into the nirvanic
condition (of stillness and extinction of worldly existence) but does not
dwell in its permanent extinction. He is neither this nor that and cannot
be revealed by these two extremes. He cannot be known by intellect or
perceived by consciousness. He is neither bright nor obscure. He is
nameless and formless, being neither strong nor weak, neither clean nor
unclean, neither in a given place nor outside of it, and neither mundane
nor supramundane. He can neither be pointed out nor spoken of. He is
neither charitable nor selfish; he neither keeps nor breaks the precepts;
is beyond patience and anger, diligence and remissness, stillness and
disturbance. He is neither intelligent nor stupid, and neither honest nor
deceitful. He neither comes nor goes and neither enters nor leaves. He
is beyond the paths of word and speech. He is neither the field of
blessedness nor its opposite, neither worthy nor unworthy of worship and
offerings. He can be neither seized nor released and is beyond ‘is’ and
‘is not’. He is equal to reality and to the nature of Dharma (Dharmata)
and cannot be designated and estimated, for he is beyond figuring and
measuring. He is neither large nor small, is neither visible nor audible,
can neither be felt nor known, is free from all ties and bondage, is equal
to the All-knowledge and to the (underlying) nature of all living beings,
and cannot be differentiated from all things. He is beyond gain and loss,
free from defilement and troubles (klesa), beyond creating and giving rise
(to anything), beyond birth and death, beyond fear and worry, beyond like
and dislike, and beyond existence in the past, future and present. He
cannot be revealed by word, speech, discerning and pointing.
“World Honoured One, the body of the
Tathagata being such, seeing Him as above-mentioned is correct whereas
seeing Him otherwise is wrong.”
Quán Phật Tam Muội: Nhứt tâm
quán tưởng tướng mạo hình sắc của Phật (th nh tựu được tam muội nầy thì
thấy Phật hiện đến)—A samadhi on the characteristic marks of a Buddha.
Quán Sanh Diệt: Knowledge of
comtemplation of rise and fall.
(A) Theo
Thanh Tịnh Đạo, các đặc tính không thể hiện rõ khi một vật không được chú
ý đến, bởi thế, có cái gì khuất lấp chúng. Trước hết, đặc tính vô thường
không trở nên rõ rệt bởi vì khi sanh v diệt không được chú ý, thì đặc
tính ấy bị che lấp bởi tính tương tục. Đặc tính khổ không hiện rõ vì khi
sự bức bách liên tục không được chú ý, thì đặc tính nầy bị che lấp bởi các
dáng điệu uy nghi. Đặc tính vô ngã không hiện rõ, vì khi sự phân tích
th nh các giới không được tác ý, thì đặc tính nầy bị che lấp bởi tính
nguyên vẹn. Nhưng khi sự tương tục bị gián đoạn do phân biệt sinh diệt,
thì đặc tính vô thường trở nên rõ rệt trong thực chất của nó. Khi các dáng
điệu được tác ý l bị áp bức liên tục, thì đặc tính khổ hiện rõ trong thực
chất của nó. Khi sự phân biệt th nh các giới được thực hiện đối với cái vẻ
nguyên vẹn, thì đặc tính vô ngã hiện rõ trong thực chất nó: According to
the Path of Purification, the characteristics fail to become apparent when
something is not given attention and so something conceals them. Firstly,
the characteristic of impermanence does not become apparent because, when
rise and fall are not given attention, it is concealed by continuity. The
characteristic of pain does not become apparent because, when continuous
oppression is not given attention, it is concealed by the postures. The
characteristic of not self does not become apparent because, when
resolution into the various elements is not given attention, it is
concealed by compactness. However, when continuity is disrupted by
discerning rise and fall, the characteristic of impermanence becomes
apparent in its true nature. When the postures are exposed by attention to
continuous oppression, the characteristic of pain becomes apparent in its
true nature. When the resolution of the compact is effected by resolution
into elements, the characteristic of not-self becomes apparent in its true
nature.
(B) Trong
Phân Biệt Xứ nói tóm tắt như sau: “Đặc tính vô thường rõ rệt khi một cái
đĩa rớt xuống vỡ toang; đặc tính khổ rõ rệt khi một ung nhọt xuất hiện
trên cơ thể. Nhưng đặc tính vô ngã không rõ rệt. Dù chư Phật có xuất hiện
hay không, các đặc tính vô thường v khổ vẫn được biết đến, nhưng nếu
không có chư Phật ra đời thì không có lý vô ngã được công bố. Trong Luận
về Kinh Trung Bộ 22: In the commentary to the Ayatana-Vibhanga we find:
“Impermanence is obvious, as when a saucer falls and breaks; pain is
obvious, as when a boil appears in the body; the characteristic of
not-self is not obvious; whether Perfect Ones arise or do not arise the
characteristics of impermanence and pain are made known but unless there
is the arising of a Buddha, the characteristic of not-self is not is not
made known. Again, in the commentary to Majjima Nikaya Sutta 22:
1) Sau
khi hiện hữu nó trở th nh không, bởi thế nó l vô thường. Nó vô thường vì
bốn lý do: vì sinh diệt, vì biến dị, vì tính chất tạm thời, v vì không có
chuyện trường cửu. Theo Thanh Tịnh Đạo, khi sự tương tục bị gián đoạn,
nghĩa l khi sự tương tục bị phơi b y ra do quán sát sự đổi khác của các
pháp, khi chúng nối nhau sanh khởi. Vì không phải qua sự liên kết của các
pháp m đặc tính vô thường trở nên rõ rệt cho một người chánh quán sinh
diệt, m chính l qua sự gián đoạn của chúng: Having been, it is not,
therefore it is impermanent; it is impermanent for four reasons, that is,
in the sense of the state of rise and fall, of change, of temporariness,
and of denying permanence. According to the Path of Purification, when
continuity is disrupted means when continuity is exposed by observing the
perpetual otherness of state as they go on occuring in succession. For it
is not through the connectedness of state that the characteristic of
impermanence becomes apparent to one who rightly observes rise and fall,
but rather the characteristic becomes more thoroughly evident through
their disconnectedness, as if they were iron darts.
2) Nó l
khổ vì sự bức bách theo bốn ý nghĩa: thiêu đốt, khó chịu nổi, l căn đế
của khổ, v ngược với lạc. Khi các uy nghi được phơi b y, có nghĩa l khi
nỗi khổ nội tại ẩn nấp trong các uy nghi lộ ra. Vì khi cơn đau khởi lên
nơi một uy nghi, thì uy nghi khác đã được áp dụng, l m cho hết đau. V như
vậy, dường như khuất lấp sự khổ. Nhưng khi đã biết chân chánh rằng, nỗi
khổ trong mỗi uy nghi được di chuyển bằng cách thay thế uy nghi khác, thì
sự khuất lấp cái khổ tiềm ẩn trong các uy nghi được lộ rõ, vì rõ r ng các
h nh liên tục bị tr n ngập bởi đau khổ: It is painful on account of the
mode of oppression; it is painful for four reasons, that is, in the sense
of burning, of being hard to bear, of being the basis for pain, and of
opposing pleasure. According to the Path of Purification, when the
postures are xposed, means when the concealment of the pain that is
actually inherent in the postures is exposed. For when pain arises in a
posture, the next posture adopted removes the pain, as it were, concealing
it. But once it is correctly known how the pain in any posture is shifted
by substituting another posture for that one, then the concealment of the
pain that is in them is exposed because it has become evident that
formations are being incessantly overwhelmed by pain.
3) Nó vô ngã vì không chịu được một năng
lực n o tác động lên nó, v vì bốn lý do: trống rỗng, không sở hữu chủ,
không sáng tạo chủ, v vì đối lại với ngã. Sự phân tích cái khối nguyên
vẹn l phân th nh đất, nước, lửa, gió; hoặc xúc, thọ, vân vân. Khi phân
tích th nh các giới đã được thực hiện l khi cái có vẻ nguyên vẹn như một
khối hay như một nhiệm vụ duy nhất, đã được phân tích ra. Vì khi các pháp
sắc, vô sắc sinh khởi củng cố cho nhau, như danh v sắc, thì khi ấy ta
hiểu lầm có một khối nguyên vẹn do không thể nhận ra các h nh bị bức bách.
Cũng thế ta nhận lầm có một nhiệm vụ duy nhất trong khi thực sự các pháp
có nhiệm vụ khác nhau. Cũng vậy, ta lầm cho rằng có một đối tượng duy
nhất, trong khi mỗi tâm pháp đều có đối tượng riêng của nó. Khi phân tích
th nh các giới như vậy, chúng phân tán như bọt dưới b n tay nén lại. Chúng
chỉ l pháp sinh khởi do nhiều duyên, trống rỗng. Với cách ấy, đặc tính vô
ngã trở nên rõ rệt: It is not-self on account of the mode of
insusceptibility to the exercise of power; it is not-self for four
reasons, that is, in the sense of voidness, of having no owner-master, of
having no Overlord, and of opposing self: Resolution of the compact is
effected by resolving what appears compact in this way. The earth element
is one, the water element is another, etc., distinguishing each one; and
in this way, contact is one, feeling is another, etc, distinguishing each
one. When the resolution of the compact is effected, means that what is
compact as a mass and what is compact as a function or as an object has
been analyzed. For when material and immaterial states have arisen
mutually steadying each other, mentality and materiality, for example,
then, owing to misinterpreting that as a unity, compactness of mass is
assumed through failure to subject formations to pressure. And likewise
compactness of function is assumed when, although definite differences
exist in such and such states’ functions, they are taken as one. And
likewise compactness of object is assumed when, although differences exist
in the ways in which states that take objects make them their objects,
those objects are taken as one. But when they are seen after resolving
them by means of knowledge into these elements, they disintegrate like
froth subjected to compression by the hand. They are mere states occuring
due to conditions and void. In this way the characteristic of the not-self
becomes more evident.
Quán Sát: Pravicaya or
Vibhavana (skt)—Investigation—Meditation on and inquiry into—Clear
perception.
** For more information,
please see Ngũ
Niệm Môn.
Quán Sát Chánh Hạnh: Quán sát
về Tây Phương Tịnh Độ, một trong năm chánh hạnh đảm bảo vãng sanh Tây
Phương Cực Lạc—Meditation on the Pure Land, one of the five proper courses
to ensure the bliss of the Pure Land.
** For more information,
please see Ngũ
Chánh Hạnh.
Quán Sát Môn: Một trong ngũ
niệm môn của Tịnh Độ tông, l pháp môn quán tưởng về tướng trang nghiêm
của cõi Tịnh Độ Cực Lạc—Contemplation of the joys of Amitabha’s Pure Land,
one of the five devotional gates of the Pure Land sect.
** For more information,
please see Ngũ
Niệm Môn.
Quán Sát Pháp Nhẫn: Một trong
nhị nhẫn, quán pháp chư pháp thể tính chẳng sinh chẳng diệt, an nhiên nhẫn
chịu v tâm chẳng động—Physical and mental patience or endurance—One of
the two kinds of patience, imperturbable examination of or meditation in
the law of all things.
Quán Sát Trí: Pravicayabuddhi
(skt)—Cái trí thấy suốt v o tự tính của hiện hữu l cái trí vượt khỏi tứ
cú hay bốn mệnh đề của sự phân biệt—The intellect that sees into the
self-nature of existence which is beyond the fourfold proposition of
discrimination—For more information, please see Tứ Cú Phân Biệt in
Vietnamese-English Section.
Quán Sổ Tức: Ana or Anapana
(skt).
(A) Breathing
meditation—Ana có nghĩa l thở ra—Ana means exhaling; pana (skt) có nghĩa
l thở v o—Pana means inhaling. Theo Kinh Nhập Tức Xuất Tức Niệm, thế n o
l tu tập Nhập Tức Xuất Tức Niệm để được công đức lớn?—According to the
Anapanasatisutta, how is mindfulness of breathing developed and
cultivated, so that it is of great fruit and great benefit?—Đây l phương
pháp Thiền Quán căn bản cho những người sơ cơ. Nếu chúng ta không thể thực
h nh những hình thức thiền cao cấp, chúng ta nên thử quán sổ tức. Thiền Sổ
Tức hay tập trung v o hơi thở v o thở ra qua mũi. Chỉ tập trung tâm v o
một việc l hơi thở, chẳng bao lâu sau chúng ta sẽ vượt qua sự lo ra v
khổ não của tâm—This is the basic meditation method for beginners. If we
are unable to engage in higher forms of meditation, we should try this
basic breathing meditation—Meditation or concentration on normal
inhalations and exhalations of breath through our nostrils. Just focus our
mind on one thing: breathing, we will soon overcome a lot of distractions
and unhappy states of mind. Try to calm the body and mind for
contemplation by counting the breathing. Ở đây, nầy các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo
đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nh trống, v ngồi kiết
gi , lưng thẳng v trú niệm trước mặt. Chánh niệm, vị ấy thở vô; chánh
niệm vị ấy thở ra—Here a Bhikkhu, gone to the forest or to the root of a
tree or to an empty hut, sits down; having folded his legs crosswise, set
his body erect, and established mindfulness in front of him, ever mindful
he breathes in, mindful he breathes out.
1) Thở vô
d i, vị ấy biết mình đang thở vô d i. Hay thở ra d i, vị ấy biết mình đang
thở ra d i. Hay thở vô ngắn, vị ấy biết mình đang thở vô ngắn. Hay thở ra
ngắn, vị ấy biết mình đang thở ra ngắn. Vị ấy tập: “Cảm giác to n thân,
tôi sẽ thở vô.” Vị ấy tập: “An tịnh to n thân tôi sẽ thở vô.” Vị ấy tập:
“An tịnh to n thân, tôi sẽ thở ra.”—Breathing in long, he understands: “I
breathe in long;” or breathing out long, he understands: “I breathe out
long.” Breathing in short, he understands: “I breathe in short;” or
breathing out short, he understands: “I breathe out short.” He trains
thus: “I shall breathe in experiencing the whole body of breath;”
he trains thus: “I shall breathe out experiencing the whole body of
breath.” He trains thus: “I shall breathe in traqilizing the bodily
formation;” he trains thus: “I shall breathe out tranquilizing the bodily
formation.”
2) Vị ấy
tập: “Cảm giác hỷ thọ, tôi sẽ thở vô.” Vị ấy tập: “Cảm giác hỷ thọ,
tôi sẽ thở ra.” Vị ấy tập: “Cảm giác lạc thọ, tôi sẽ thở vô.” Vị ấy tập:
“Cảm giác lạc thọ, tôi sẽ thở ra.” Vị ấy tập: “Cảm giác tâm h nh, tôi sẽ
thở vô.” Vị ấy tập: “Cảm giác tâm h nh, tôi sẽ thở ra.” Vị ấy tập: “Cảm
giác an tịnh tâm h nh, tôi sẽ thở vô.” Vị ấy tập: “Cảm giác an tịnh tâm
h nh, tôi sẽ thở ra.”—He trains thus: “I shall breathe in experiencing
rapture;” he trains thus: “I shall breathe out experiencing rapture.”
He trains thus: “I shall breathe in experiencing pleasure;” he trains
thus: “I shall breathe out experiencing pleasure.” He trains thus: “I
shall breathe in experiencing the mental formation;” he trains this: “I
shall breathe out experiencing the mental formation.” He trains thus: “I
shall breathe in tranquilizing the mental formation;” he trains thus: “I
shall breathe out tranquilizing the mental formation.”
3) Vị ấy
tập: “Cảm giác về tâm, tôi sẽ thở vô.” Vị ấy tập: “Cảm giác về tâm,
tôi sẽ thở ra.” Vị ấy tập: “Với tâm hân hoan, tôi sẽ thở vô.” Vị ấy tập:
“Với tâm hân hoan, tôi sẽ thở ra.” Vị ấy tập: “Với tâm định tĩnh, tôi sẽ
thở vô.” Vị ấy tập: “Với tâm định tĩnh, tôi sẽ thở ra.” Vị ấy tập: “Với
tâm giải thoát, tôi sẽ thở vô.” Vị ấy tập: “Với tâm giải thoát, tôi sẽ thở
ra.”—He trains thus: “I shall breathe in experiencing the mind;” he
trains thus: “I shall breathe out experiencing the mind.” He trains thus:
“I shall breathe in gladdening the mind;” he trains thus: “I shall breathe
out gladdening the mind.” He trains thus: “I shall breathe in
concentrating the mind;” he trains thus: “I shall breathe out
concentrating the mind.” He trains thus: “I shall breathe in liberating
the mind;” he trains thus: “I shall breathe out liberating the mind.”
4) Vị ấy
tập: “Quán vô thường, tôi sẽ thở vô.” Vị ấy tập: “Quán vô thường,
tôi sẽ thở ra.” Vị ấy tập: “Quán ly tham, tôi sẽ thở vô.” Vị ấy tập: “Quán
ly tham, tôi sẽ thở ra.” Vị ấy tập: “Quán đoạn diệt, tôi sẽ thở vô.” Vị ấy
tập: “Quán đoạn diệt, tôi sẽ thở ra.” Vị ấy tập: “Quán từ bỏ, tôi sẽ thở
vô.” Vị ấy tập: “Quán từ bỏ, tôi sẽ thở ra.”—He trains thus: “I shall
breathe in contemplating impermanence;” he trains thus: “I shall
breathe out contemplating impermanence.” He trains thus: “I shall breathe
in contemplating fading away;” he trains thus: “I shall breathe out
contemplating fading away.” He trains thus: “I shall breathe in
contemplating cessation;” he trains thus: “I shall breathe out
contemplating cessation.” He trains thus: “I shall breathe in
contemplating relinquishment;” he trains thus: “I shall breathe out
contemplating relinquishment.”
(B) V như
thế n o, nầy các Tỳ Kheo, l nhập tức xuất tức niệm được tu tập? Như thế
n o l m cho sung mãn, khiến bốn niệm xứ được viên mãn?—And how,
Bhikkhus, does mindfulness of breathing, developed and cultivated, fulfil
the four foundations of mindfulness?
1) Khi
n o, nầy các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo thở vô d i, vị ấy biết l mình đang thở vô
d i. Hay khi thở ra d i, vị ấy biết l mình đang thở ra d i. Hay thở vô
ngắn, vị ấy biết l mình đang thở vô ngắn. Hay thở ra ngắn, vị ấy biết l
mình đang thở ra ngắn. Vị ấy tập: “Cảm giác to n thân, tôi sẽ thở
vô.” Vị ấy tập: “Cảm giác to n thân, tôi sẽ thở ra.” Vị ấy tập: “An tịnh
thân h nh, tôi sẽ thở vô.” Vị ấy tập: “An tịnh thân h nh, tôi sẽ thở ra.”
Trong khi tùy quán thân thể trên thân thể, n y các Tỳ Kheo, vị Tỳ Kheo
trú, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời. Nầy các Tỳ
Kheo, đối với các thân, Ta đây nói l một, tức l thở vô thở ra. Do vậy,
nầy các Tỳ Kheo, trong khi tùy quán thân thể trên thân thể, vị Tỳ Kheo
trú, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời—Bhikkhus,
on whatever occasion a Bhikkhu, breathing in long, understands: “I breathe
in long;” or breathe out long, understands: “I breathe out long;”
breathing in short, understands: “I breathe in short;” breathing out
short, understands: “I breathe out short.” He trains thus: “I shall
breathe in experiencing the whole body of breath;” he trains thus:
“I shall breathe out experiencing the whole body of breath;” he trains
thus: “I shall breathe in tranquilizing the bodily formation;” he trains
thus: “I shall breathe out tranquilizing the bodily formation.” On that
occasion, a Bhikkhu abides contemplating the body as a body, ardent, fully
aware, and mindful, having put away covetousness and grief for the world.
I say that this is a certain body among the bodies, namely, in-breathing
and out-breathing. That is why on that occasion a Bhikku abides
contemplating the body as a body, ardent, fully aware, and mindful, having
put away covetousness and grief for the world.
2) Khi
n o, nầy các vị Tỳ Kheo, vị Tỳ Kheo nghĩ về cảm giác hỷ thọ:
Bhikkhus! On whatever occasion a Bhikkhu thinks about ‘experiencing
rapture’:
a) Vị ấy
tập: “Cảm giác hỷ thọ, tôi sẽ thở vô.”—He trains thus: “I shall breathe in
experiencing rapture.”
b) Vị ấy
tập: “Cảm giác hỷ thọ, tôi sẽ thở ra.”— He trains thus: “I shall breathe
out experiencing rapture.”
c) Vị ấy
tập: “Cảm giác lạc thọ, tôi sẽ thở vô.”—He trains thus: “I shall breathe
in experiencing pleasure.”
d) Vị ấy
tập: “Cảm giác lạc thọ, tôi sẽ thở ra.”—He trains thus: “I shall breathe
out experiencing pleasure.”
e) Vị ấy
tập: “Cảm giác tâm h nh, tôi sẽ thở vô.”—He trains thus: “I shall breathe
in experiencing the mental formation.”
f) Vị
ấy tập: “Cảm giác tâm h nh, tôi sẽ thở ra.”— He trains thus: “I shall
breathe out experiencing the mental formation.”
g) Vị ấy
tập: “An tịnh tâm h nh, tôi sẽ thở vô.”—He trains thus: “I shall breathe
in tranquilizing the mental formation.”
h) Vị ấy
tập: “An tịnh tâm h nh, tôi sẽ thở ra.”—He trains thus: “I shall breathe
out tranquilizing the mental formation.”
Trong
khi tùy quán thọ trên các thọ, nầy các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo trú, nhiệt tâm,
tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời. Nầy các Tỳ Kheo, đối với
các thọ, Ta đây nói l một, tức l thở vô thở ra. Do vậy, nầy các Tỳ Kheo,
trong khi tùy quán thọ trên các thọ, vị Tỳ Kheo trú, nhiệt tâm, tỉnh giác,
chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời—On that occasion, a Bhikhu abides
contemplating feelings as feelings, ardent, fully aware, and mindful,
having put away covetousness and grief for the world. I say that this is a
this is a certain feeling among the feelings, namely, giving close
attention to in-breathing and out-breathing. This is why on that occasion
a Bhikkhu abides contemplating feelings as feelings, ardent, fully aware,
and mindful, having put away covetousness and grief for the world.
3) Khi
n o, nầy các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo nghĩ về cảm giác tâm: Bhikkhus, on
whatever occasion, thinks of the ‘experiencing the mind.’
a) Vị ấy
tập: “Cảm giác tâm, tôi sẽ thở vô.” A Bhikkhu trains thus: “I shall
breathe in experiencing the mind.”
b) Vị ấy
tập: “Cảm giác tâm, tôi sẽ thở ra.”—He trains thus: “I shall breathe out
experiencing the mind.”
c) Vị ấy
tập: “Với tâm hân hoan, tôi sẽ thở vô.”—A Bhikkhu trains thus: “I shall
breathe in gladdening the mind.”
d) Vị ấy
tập: “Với tâm hân hoan, tôi sẽ thở ra.”—A Bhikkhu trains thus: “I shall
breathe out gladdening the mind.”
e) Vị ấy
tập: “Với tâm Thiền định, tôi sẽ thở vô.”— A Bhikkhu trains thus: A
Bhikkhu trains thus: “I shall breathe in gladdening the mind.”
f) Vị
ấy tập: “Với tâm Thiền định, tôi sẽ thở ra.”—A Bhikkhu trains thus: “I
shall breathe out concentrating the mind.”
g) Vị ấy
tập: “Với tâm giải thoát, tôi sẽ thở vô.”—He trains thus: A Bhikkhu trains
thus: “I shall breathe in liberating the mind.”
h) Vị ấy
tập: “Với tâm giải thoát, tôi sẽ thở ra.”—He trains thus: A Bhikkhu trains
thus: “I shall breathe out liberating the mind.”
Trong
khi tùy quán tâm trên tâm, nầy các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo trú, nhiệt tâm, tỉnh
giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời. Nầy các Tỳ Kheo, sự tu tập nhập
tức xuất tức niệm không thể đến với kẻ thất niệm, không có tỉnh giác. Do
vậy, nầy các Tỳ Kheo, trong khi tùy quán tâm trên tâm, vị Tỳ Kheo trú,
nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời—On that occasion
a Bhikkhu abides contemplating mind as mind, ardent, fully aware, and
mindful, having put away covetousness and grief for the world. I do not
say that there is the development of mindfulness of breathing for one who
is forgetful, who is not fully aware. That is why on that occasion a
Bhikkhu abides contemplating mind as mind, ardent, fully aware, and
mindful, having put away covetousness and grief for the world.
4) Khi
n o nầy các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo nghĩ về ‘quán vô thường’: Bhikkhu, on
whatever occasion, a Bhikkhu thinks about ‘contemplation of
impermanence’:
a) Vị ấy
tập: “Quán vô thường, tôi sẽ thở vô.”—He trains thus: “I shall breathe in
contemplating impermanence.”
b) Vị ấy
tập: “Quán vô thường, tôi sẽ thở ra.”—He trains thus: “I shall breathe out
contemplating impermanence.”
c) Vị ấy
tập: “Quán ly tham, tôi sẽ thở vô.”—He trains thus: “I shall breathe in
contemplating fading away.”
d) Vị ấy
tập: “Quán ly tham, tôi sẽ thở ra.”—He trains thus: “I shall breathe out
contemplating fading away.”
e) Vị ấy
tập: “Quán đoạn diệt, tôi sẽ thở vô.”—He trains thus: “I shall breathe in
contemplating cessation.”
f) Vị
ấy tập: “Quán đoạn diệt, tôi sẽ thở ra.”— He trains thus: “I shall breathe
out contemplating cessation.”
g) Vị ấy
tập: “Quán từ bỏ, tôi sẽ thở vô.”—He trains thus: “I shall breathe in
contemplating relinquishment.”
h) Vị ấy
tập: “Quán từ bỏ, tôi sẽ thở ra.”— He trains thus: “I shall breathe out
contemplating relinquishment.”
5) Trong
khi tùy quán pháp trên pháp, nầy các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo trú, nhiệt tâm, tỉnh
giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời. Vị ấy, do đoạn trừ tham ưu, sau
khi thấy với trí tuệ, khéo nhìn sự vật với niệm xả ly. Do vậy, nầy các Tỳ
Kheo, trong khi tùy quán pháp trên các pháp, vị Tỳ Kheo trú, nhiệt tâm,
tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời—On that occasion a Bhikkhu
abides contemplating mind-objects as mind-objects, ardent, fully aware,
and mindful, having put away covetousness and grief for the world. Having
seen the wisdom the abandoning of covetousness and grief, he closely looks
on with equanimity. That is why on that occasion a Bhikkhu abides
contemplating mind-objects as mind-objects, ardent, fully aware, and
mindful, having put away covetousness and grief for the world.
6) Nhập
tức xuất tức niệm, nầy các Tỳ Kheo, được tu tập như vậy l m cho sung mãn
như vậy, khiến cho bốn niệm xứ được viên mãn—Bhikkhus, that is how
mindfulness of breathing, developed and cultivated, fulfils the four
foundations of mindfulness.
(C) V Bốn
niệm xứ, nầy các Tỳ Kheo, tu tập như thế n o, l m cho sung mãn như thế
n o, khiến cho thất giác chi được viên mãn?—An how, Bhikkhus, do
the four foundations of mindfulness, developed and cultivated, fulfil the
seven enlightenment factors?
1) Nầy
các Tỳ Kheo, trong khi tùy quán thân trên thân, Tỳ Kheo trú, nhiệt tâm,
tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời, trong khi ấy, niệm không
hôn mê của vị ấy được an trú. Trong khi niệm không hôn mê của vị ấy cũng
được an trú, nầy các Tỳ Kheo, trong khi ấy niệm giác chi được bắt
đầu khởi lên với Tỳ Kheo, trong khi ấy, Tỳ Kheo tu tập niệm giác chi.
Trong khi ấy niệm giác chi được Tỳ Kheo tu tập đi đến viên mãn—Bhikkhus,
on whatever occasion a Bhikkhu abides contemplating the body as a body,
ardent, fully aware, and mindful, having put away covetousness and grief
for the world, on that occasion unremitting mindfulness is established in
him. On whatever occasion unremitting mindfulness is established in a
Bhikkhu, on that occasion the mindfulness enlightenment factor is
aroused in him, and he develops it, and by development, it comes to
fulfilment in him.
2) Nầy
các Tỳ Kheo, trong khi trú với chánh niệm như vậy, Tỳ Kheo với trí tuệ suy
tư, tư duy, thẩm sát pháp ấy. Nầy các Tỳ Kheo, trong khi trú với chánh
niệm như vậy, Tỳ Kheo với trí tuệ suy tư, tư duy, thẩm sát pháp ấy, trong
khi ấy trạch pháp giác chi được bắt đầu khởi lên với Tỳ Kheo. Trong khi
ấy, Tỳ Kheo tu tập trạch pháp giác chi. Trong khi ấy trạch pháp giác
chi được Tỳ Kheo tu tập đi đến viên mãn—Abiding thus mindful, he
investigates and examines that state with wisdom and embarks upon a full
inquiry into it. On whatever occasion, abiding thus mindful, a Bhikkhu
investigates and examines that state with wisdom embarks upon a full
inquiry into it. On that occasion, the investigation-of-states
enlightenment factor is aroused in him, and he develops it, an by
development it comes to fulfilment in him.
3) Nầy
các Tỳ Kheo, trong khi trú với chánh niệm như vậy, Tỳ Kheo với trí tuệ suy
tư, tư duy, thẩm sát pháp ấy, sự tinh tấn không thụ động bắt đầu khởi lên
với vị Tỳ Kheo. Nầy các Tỳ Kheo, trong khi Tỳ Kheo với trí tuệ suy tư, tư
duy, thẩm sát pháp ấy, sự tinh tấn không thụ động được bắt đầu khởi lên
với Tỳ Kheo ấy. Trong khi ấy tinh tấn giác chi được Tỳ Kheo tu tập
đi đến viên mãn—In one who investigates and examines that state with
wisdom and embarks upon a full inquiry into it, tireless energy is
aroused. On whatever occasion, tireless energy is aroused in a Bhikkhu who
investigates and examines that state with wisdom embarks upon a full
inquiry into it. On that occasion, the energy enlightenment factor
is aroused in him, and he develops it, an by development it comes to
fulfilment in him.
4) Hỷ
không liên hệ đến vật chất được khởi lên nơi vị tinh tấn tinh cần. Nầy các
Tỳ Kheo, trong khi hỷ không liên hệ đến vật chất khởi lên nơi Tỳ Kheo tinh
tấn tinh cần, trong khi ấy hỷ giác chi bắt đầu khởi lên trong vị Tỳ Kheo.
Trong khi ấy hỷ giác chi được vị Tỳ Kheo tu tập đi đến viên mãn—In
one who arouses energy, worldly rapture arises. On whatever occasion,
unworldly rapture arises in a Bhikkhu who has aroused energy, on that
occasion, the rapture enlightenment factor is aroused in him, and
he develops it, an by development it comes to fulfilment in him.
5) Thân
của vị ấy được tâm hoan hỷ trở th nh khinh an, tâm cũng được khinh an.
Nầy các Tỳ Kheo, trong khi Tỳ Kheo với ý hoan hỷ được thân khinh an, được
tâm cũng khinh an, trong khi ấy, khinh an giác chi bắt đầu khởi lên nơi Tỳ
Kheo. Trong khi ấy, khinh an giác chi được Tỳ Kheo tu tập. Trong
khi ấy, khinh an giác chi được Tỳ Kheo l m cho đi đến sung mãn—In one who
is rapturous, the body and mind becometranquil. On whatever occasion, the
body and mind become tranquil in a Bhikkhu who is rapturous, on that
occasion, the tranquility enlightenment factor is aroused in him,
and he develops it, an by development it comes to fulfilment in him.
6) Một vị
có thân khinh an, an lạc, tâm vị ấy được định tĩnh. Nầy các Tỳ Kheo, trong
khi Tỳ Kheo có thân khinh an, an lạc, tâm vị ấy được định tĩnh, trong khi
ấy định giác chi bắt đầu khởi lên nơi vị Tỳ Kheo nầy. Trong khi ấy định
giác chi được Tỳ Kheo tu tập. trong khi ấy định giác chi được Tỳ Kheo
l m cho đi đến sung mãn—In one whose body is tranquil and who feels
pleasure, the mind becomes concentrated. On whatever occasion, the mind
become concentrated in a Bhikkhu who is tranquil and feels pleasure, on
that occasion, the concentration enlightenment factor is aroused in
him, and he develops it, an by development it comes to fulfilment in him.
7) Vị ấy
với tâm định tĩnh như vậy, khéo nhìn sự vật với ý niệm xả ly. Nầy các Tỳ
kheo, trong khi Tỳ Kheo l m với tâm định tĩnh như vậy, khéo nhìn sự vật
với ý niệm xả ly, trong khi ấy xả giác chi được Tỳ Kheo tu tập. trong khi
ấy xả giác chi được vị Tỳ Kheo l m cho đi đến sung mãn—He closely
looks on with equanimity at the mind thus. On whatever occasion, a Bhikkhu
closely looks on with equanimity at the mind thus, on that occasion,
the equanimity enlightenment factor is aroused in him, and he develops
it, an by development it comes to fulfilment in him.
Quán Sứ: Tên của một ngôi chùa
cổ, tọa lạc trong quận Ho n Kiếm, th nh phố H Nội, Bắc Việt Nam. Xưa kia
thuộc địa phận thôn An Tập, huyện Thọ Xương, Thăng Long th nh. Theo Đại
Nam Nhất Thống Chí, v o thời nh Lê, các nước Chiêm Th nh, Siêm, v Ai Lao
thường gửi sứ thần đến triều cống. Nh vua cho xây một ngôi chùa dùng l m
nơi trú ngụ cho các sứ thần nầy vỉ các nước nầy rất sùng đạo Phật, vì thế
m chùa có tên l chùa Quán Sứ. Chùa đã trải qua nhiều thay đổi. Năm 1934,
Tổng Hội Phật Giáo Bắc Phần ra đời, đặt trụ sở tại chùa. Chùa đã được xây
dựng lại theo bản thiết kế của hai kiến trúc sư Nguyễn Ngọc Ngoạn v
Nguyên Xuân Tùng do Tổ Sư Vĩnh Nghiêm duyệt xét b o năm 1941. Chánh Điện
trong chùa được trang trí trang nghiêm. Các pho tượng đều khá lớn v thếp
v ng lộng lẫy. Lá cờ Phật giáo thế giới lần đầu tiên được treo tại Việt
Nam tại chùa Quán Sứ nhân ng y lễ Phật Đản năm 1951 (Phật lịch 2495)—Name
of an ancient temple, located in Ho n Kiếm district, Hanoi City, North
Vietnam. At first, it belonged to An Tập village, Thọ Xương district,
Thăng Long ancient citadel. According to Đại Nam Nhất Thống Chí, in the Lê
dynasty (1428-1788), Champa, Siam, Laos, all sent their envoys to Vietnam
to offer the tributes. The King had a temple built as the residence for
the envoys, because these above countries are devout Buddhists. The
temple, therfore, was named Quán Sứ to distinguish it from other temples.
Quán Sứ Temple has been changed many times. In 1934, the North Vietnam
Buddhist Sangha Association was founded and the temple was chosen its
headquarter. It was rebuilt, following a plan drawn out by the two
architects Nguyễn Ngọc Ngoạn and Nguyễn Xuân Tùng, with the acceptance of
Patriarch Vĩnh Nghiêm in 1941. The Main Hall is solemnly decorated. The
statues are pretty big and splendidly lacquered in red and gild colours.
For the first time in Vietnam, the flag of the World Buddhist Association
was hung at Quán Sứ Temple in 1951for celebrating the Buddha’s Holy
Birthday.
Quán Tại Tát Đỏa: Kuan-Yin
Bodhisattva—See Quán Thế Âm and Avalokitesvara.
Quán Tâm: Citta-nupassana (p).
(A) Quán sát
tâm tính. Tâm l chủ muôn pháp, không có một sự n o ở ngo i tâm
cả—Contemplation of the mind—Mental contemplation, contemplation of all
things as mind.
(B) Theo Kinh
Niệm Xứ, Đức Phật dạy về ‘quán tâm’ như sau—Accroding to the
Satipatthanasutta, the Buddha taught about ‘contemplation of mind’ as
follows:
1)
Nầy các Tỳ Kheo, như thế n o l Tỳ Kheo sống quán niệm tâm thức nơi
tâm thức? Nầy các Tỳ Kheo, mội khi nơi tâm thức có tham dục, vị ấy ý thức
rằng tâm thức của mình đang có tham dục. Mỗi khi tâm thức không có tham
dục, vị ấy ý thức rằng tâm thức của mình không có tham dục. Mỗi khi trong
tâm thức mình có sân hận, vị ấy ý thức rằng tâm thức của mình đang có sân
hận. Mỗi khi tâm thức của mình không có sân hận, vị ấy ý thức rằng tâm
thức của mình đang không có sân hận. Mỗi khi tâm thức mình có si mê, vị ấy
ý thức rằng tâm thức của mình đang si mê. Mỗi khi tâm thức của mình không
có si mê, vị ấy ý thức rằng tâm thức của mình đang không có si mê. Mỗi
khi tâm thức mình có thu nhiếp, vị ấy ý thức rằng tâm thức của mình đang
có thu nhiếp. Mỗi khi tâm thức mình tán loạn, vị ấy ý thức rằng tâm thức
của mình đang tán loạn. Mỗi khi tâm thức mình trở th nh khoáng đạt, vị ấy
ý thức rằng tâm thức của mình đang trở th nh khoáng đạt. Mỗi khi tâm thức
mình trở nên hạn hẹp, vị ấy ý thức rằng tâm thức của mình đang trở nên hạn
hẹp. Mỗi khi tâm thức mình đạt đến trạng thái cao nhất, vị ấy ý thức rằng
tâm thức của mình đang đạt đến trạng thái cao nhất. Mỗi khi tâm thức mình
không đạt đến trạng thái cao nhất, vị ấy ý thức rằng tâm thức mình không
đạt đến trạng thái cao nhất. Mỗi khi tâm thức mình có định, vị ấy ý thức
rằng tâm thức của mình đang có định. Mỗi khi tâm thức mình không có định,
vị ấy ý thức rằng tâm thức của mình đang không có định. Mỗi khi tâm thức
mình giải thoát, vị ấy ý thức rằng tâm thức của mình đang giải thoát. Mỗi
khi tâm thức mình không có giải thoát, vị ấy ý thức rằng tâm thức của mình
đang không có giải thoát—And how, Bhikkhus, doeas a Bhikhu abide
contemplating mind as mind? Here a Bhikhu understands mind affected by
lust as mind affected by lust, and mind unaffected by lust as mind
unaffected by lust. He understands mind affected by hate as mind affected
by hate, and mind unaffected by hate as mind unaffected by hate. He
understands mind affected by delusion as mind affected by delusion, and
mind unaffected by delusion as mind unaffected by delusion. He understands
contracted mind as contracted mind, and distracted mind as distracted
mind. He understands exalted mind as exalted mind, and unexalted mind as
unexalted mind. He understands surpassed mind as surpassed mind, and
unsurpassed mind as unsurpassed mind. He understands concentrated mind as
concentrated mind, and unconcentrated mind as unconcentrated mind. He
understands liberated mind as liberated mind, and unliberated mind as
unliberated mind.
2)
Như vậy vị ấy sống quán niệm tâm thức trên nội tâm; hay sống quán
niệm tâm thức trên cả nội tâm lẫn ngoại tâm. Hay vị ấy sống quán niệm tánh
sanh khởi trên tâm thức; hay sống quán niệm tánh diệt tận trên tâm thức.
Hay sống quán niệm tánh sanh diệt trên tâm thức. “Có tâm đây, vị ấy an trú
chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. V vị ấy
sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Nầy các Tỳ
Kheo, như vậy l Tỳ Kheo sống quán niệm tâm thức trên các tâm thức—In this
way he abides contemplating mind as mind internally, or he abides
contemplating mind as mind externally, or he abides contemplating mind as
mind both internally and externally. Or else he abides contemplating in
mind its arising factors, or he abides contemplating in mind its vanishing
factors, or he abides contemplating in mind both its arising and vanishing
factors. Or else mindfulness that ‘there is mind’ is simply established in
him to the extent necessary for bare knowledge and mindfulness. And he
abides independent, not clinging to anything in the world. That is how a
Bhikkhu abides contemplating mind as mind.
Quán Tẩy: Tắm rửa tượng Phật,
thường được tổ chức trong ng y Khánh Đản—To wash a Buddha’s image, usually
done during the Buddha’s Birthday.
Quán Thân Bất Tịnh:
Contemplation on the impure body—Theo Kinh Niệm Xứ, Đức Phật dạy—According
to the Satipatthanasutta, the Buddha taught:
1)
N y các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo quan sát thân nầy, từ gót chân trở lên v
từ đỉnh tóc trở xuống, bao bọc bởi một lớp da v chứa đầy những vật bất
tịnh khác nhau. Trong thân nầy: “Đây l tóc, lông, móng, răng, da, thịt,
gân, xương, thận, tủy, tim, gan, ho nh cách mô, lá lách, phổi, ruột, m ng
ruột bụng, phân, mật, đ m, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, nước
miếng, nước mủ, nước ở khớp xương, nước tiểu.” N y các Tỳ Kheo, cũng như
một bao đồ, hai đầu trống đựng đầy các loại hạt như gạo, lúa, đậu xanh,
đậu lớn, mè, gạo đã xay rồi. Một người có mắt, đổ các hột ấy ra v quan
sát: “Đây l hột gạo, đây l hột lúa, đây l đậu xanh, đây l đậu lớn, đây
l mè, đây l hột lúa đã xay rồi.” Cũng vậy, nầy các Tỳ Kheo, một Tỳ Kheo
quan sát thân nầy dưới từ b n chân trở lên trên cho đến đảnh tóc, bao bọc
bởi da v chứa đầy những vật bất tịnh khác nhau. Trong thân nầy: “Đây l
tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, tủy, thận, tim, gan, ho nh
cách mô, lá lách, phổi, ruột, m ng ruột, bụng, phân, mật, đ m, mủ, máu, mồ
hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, nước miếng, nước mủ, nước ở khớp xương, nước
tiểu.”—Bhikkhus, a Bhikkhu reviews this same body up from the soles of the
feet and down from the top of the hair, bounded by skin, as full of many
kinds of impurity thus: “In this body there are head-hairs, body-hairs,
nails, teeth, skin, flesh, sinews, bones, bone-marrow, kidneys, heart,
liver, diaphragm, spleen, lungs, large intestines, small intestines,
contents of the stomach, feces, bile, phlegm, pus, blood, sweat, fat,
tears, grease, spittle, snot, oil of the joints, and urine.” Just as
though there were a bag with an opening at both ends full of many sorts of
grain, such as hill rice, red rice, beans, peas, millet, and white rice,
and a man with good eyes were to open it and review it thus: “This is hill
rice, this is red rice, these are beans, these are peas, this is millet,
this is white rice;” so too, a Bhikkhu reviews this same body… as full of
many kinds of impurity thus: “In this body there are head-hairs… and
urine.”
2)
Lại nữa, nầy các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo quan sát thân nầy về các vị trí
các giới v sự sắp đặt các giới: “Trong thân nầy có địa đại, thủy đại, hỏa
đại, v phong đại.” Nầy các Tỳ Kheo, như một người đồ tể thiện xảo, hay đệ
tử của một người đồ tể giết một con bò, ngồi cắt chia từng phần tại ngã tư
đường. Cũng vậy, nầy các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo quán sát thấy thân nầy về vị trí
các giới: “Trong thân nầy có địa đại, thủy đại v phong đại.”—Again,
Bhikkhus, a Bhikkhu reviews this same body, however it is placed, however
disposed, as consisting of elements thus: “In this body there are the
earth element, the water element, the fire element, and the air element.”
Just as though a skilled butcher or his apprentice had killed a cow and
was seated at the crossroads with it cut up into pieces; so too, a Bhikkhu
reviews this same body… as consisting of elements thus: “In this body
there are the earth element, the water element, the fire element, and the
air element.”
3)
Lại nữa, nầy các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo như thấy một thi thể bị quăng bỏ
trong nghĩa địa một ng y, hai ng y, ba ng y, thi thể ấy trương phồng lên,
xanh đen lại, nát thối ra. Tỳ Kheo quán niệm- thân thể ấy như sau: ‘Thân
nầy tánh chất l như vậy, bản tánh l như vậy, không vượt khỏi tánh chất
ấy.”—Again, Bhikkhus, as though he were to see a corpse thrown aside in a
charnel ground, one, two, or three days dead, bloated, livid, and oozing
matter, a Bhikkhu compares this same body with it thus: “This body too is
of the same nature, it will be like that, it is not exempt from that
fate.”
4)
Lại nữa, nầy các Tỳ Kheo, ỳ Kheo như thấy một thi thể bị quăng bỏ
trong nghĩa địa, bị các lo i quạ ăn, hay bị các lo i diều hâu ăn, hay bị
các chim kên kên ăn, hay bị các lo i chó ăn, hay bị các lo i giả can ăn,
hay bị các lo i dòi bọ rúc rỉa. Tỳ Kheo quán chiếu sự thực ấy v o thân thể
của chính mình: “Thân nầy tánh chất l như vậy, bản chất l như vậy, không
vượt khỏi tánh chất ấy.”—Again, as though he were to see a corpse thrown
aside in a charnel ground, being devoured by crows, hawks, vultures, dogs,
jackals, or various kinds of worms, a Bhikkhu compares this same body with
it thus: “This body too is of the same nature, it will be like that, it is
not exempt from that fate.”
5)
Nầy các Tỳ Kheo, lại nữa, Tỳ Kheo như thấy một thi thể bị quăng bỏ
trong nghĩa địa, với các bộ xương còn liên kết với nhau, còn dính thịt v
máu, còn được nối liền bởi các đường gân…, với các bộ xương còn liên kết
với nhau, không còn dính thịt, nhưng còn dính máu, còn được các đường gân
cột lại với nhau…, với các bộ xương không còn dính thịt, không còn dính
máu, không còn được các đường gân cột lại với nhau, chỉ còn có xương không
dính lại với nhau, rãi rác chỗ nầy chỗ kia. Ở đây l xương tay, ở đây l
xương chân, ở đây l xương ống, ở đây l xương bắp vế, ở đây l xương
mông, ở đây l xương sống, ở đây l xương đầu. Tỳ Kheo ấy quán niệm thân
ấy như sau: “Thân nầy tánh chất l như vậy, bản tánh l như vậy, không
vượt khỏi tánh tánh chất ấy.”—Again, as though he were to see a corpse
thrown aside in a charnel ground, a skeleton with flesh and blood, held
together with sinews… a fleshless skeleton smeared with blood, held
together with sinews… a skeleton without flesh and blood, held together
with sinews.. disconnected bones scattered in all directions, here a
hand-bone, there a foot-bone, here a shin-bone, there a thigh-bone, here a
hip-bone, there a back-bone, here a rib-bone, there a breast-bone, here an
arm-bone, there a shoulder-bone, here a neck-bone, there a jaw-bone, here
a tooth, there the skull, a Bhikkhu compares this same body with it thus:
“This body too is of the same nature, it will be like that, it is not
exempt from that fate.”
6)
Lại nữa, nầy các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo như thấy một thi thể bị quăng bỏ
trong nghĩa địa, chỉ còn to n xương trắng m u vỏ ốc…, chỉ còn một đống
xương lâu hơn ba năm…, chỉ còn l xương thối trở th nh bột. Tỳ Kheo ấy
quán niệm thân ấy như sau: “Thân nầy tánh chất l như vậy, bản tánh l như
vậy, không vượt khỏi tánh tánh chất ấy.”—Again, Bhikkhus, as though he
were to see a corpse thrown aside in a charnel ground, bones bleached
white, the color of shells… bones heaped up, more than a year old… bones
rotted and crumbled to dust, a Bhikkhu compares this same body with it
thus: “This body too is of the same nature, it will be like that, it is
not exempt from that fate.”
7)
Như vậy vị ấy sống quán niệm thân thể trên nội thân; hay sống quán
niệm thân thể trên ngoại thân; hay sống quán niệm thân thể trên cả nội
thân lẫn ngoại thân. Hay vị ấy sống quán niệm tánh sanh khởi trên thân
thể; hay sống quán niệm tánh diệt tận trên thân thể. Hay sống quán niệm
tánh sanh diệt trên thân thể. “Có thân đây, vị ấy an trú chánh niệm như
vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. V vị ấy sống không
nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Nầy các Tỳ Kheo, như vậy
l Tỳ Kheo sống quán niệm thân thể trên thân thể—In this way he abides
contemplating the body as a body internally, or he abides contemplating
the body as a body internally, or he abides contemplating the body as a
body both internally and externally. Or else he abides contemplating in
the body its arising factors, or he abides contemplating in the body its
vanishing factors, or he abides contemplating in the body both its
arising and vanishing factors. Or else mindfulness that ‘there is a body’
is simply established in him to the extent necessary for bare knowledge
and mindfulness. And he abides independent, not clinging to anything in
the world. That too is how a Bhikkhu abides contemplating the body as a
body.
*** For more information,
please see Seven
types of
contemplation on the impure
body.
Quán Thất: Căn phòng l m lễ
quán đảnh của Mật Giáo—The building in which the esoterics practice the
rite of baptism.
Quán Thế: To be the ace during
the lifetime.
Quán Thế Âm: Avalokitesvara
(skt)—Quán Âm—Quan Âm—Quán Thế Tự Tại—Quán Tự Tại.
(A) Tên của
một ngôi chùa nổi tiếng tọa lạc trong quận Phú Nhuận, th nh phố S i Gòn,
Nam Việt Nam. Chùa được xây v o năm 1922 v được trùng tu lại từ năm 1964
đến 1969. Chùa l di tích cuối cùng của Bồ Tát Thích Quảng Đức (vị Pháp
thiêu thân)—Name of a famous pagoda located in Phú Nhuận district, Saigon
City, South Vietnam. The pagoda was built in 1922 and rebuilt from 1964 to
1969. It is the last memento of Thích Quảng Đức Bodhisattva (burnt himself
for the sake of Buddhism).
(B) Theo
Eitel trong Trung Anh Phật Học Từ Điển của Giáo Sư Soothill, chúng sanh
khổ não m nhất tâm xưng danh ng i, tức thời ng i quán sát âm thanh của họ
(tầm thanh) v độ cho họ được giải thoát. Khởi thủy tượng của ng i l
tượng nam, nhưng bây giờ thì thường l tượng nữ. Nghĩa xác thực của Quán
Âm chưa được xác định. Quán Âm l bộ Tam Thánh với Phật A Di Đ , thường
đứng bên trái của Phật Di Đ , nhưng có đến ba mươi ba hình thức khác nhau
của ng i Quán Thế Âm, có thể l một con chim, một tịnh bình, một nh nh
liễu, một viên ngọc ma ni, hay ng n mắt ng n tai, vân vân; khi l m người
trợ giúp những em bé thì ng i bồng trên tay một đức trẻ. Đảo Phổ Đ l
trung tâm chính thờ phượng Đức Quán Âm bên T u, nơi đó ng i l người bảo
hộ những kẻ khổ đau hoạn nạn, đặc biệt l những người đi biển. Phẩm 25
trong Kinh Pháp Hoa l phẩm Phổ Môn nói về công hạnh của Đức Quán Thế Âm.
Thỉnh thoảng người ta lầm ng i Quán Âm với Phật A Di Đ hay Phật Di
Lặc—Regarder of the world’s sounds or cries—Goddess of Mercy—According to
Eitel in The Dictionary of Chinese-English Buddhist Terms, Avalokitesvara
is one who contemplates the world’s sounds, originally represented as a
male, the images are now generally those of a female figure. The meaning
of the term is in doubt. Kuan-Yin is one of the triad of Amitabha, is
represented on his left, and is also represented as crowned with Amida;
but there are as many as thirty-three different forms of Kuan-Yin,
sometimes with a bird, a vase, a willow wand, a pearl, a thousand eyes and
hands, etc. and when as bestower of children, carrying a child. The island
of P’u-T’o (Potala) is the chief center of Kuan-Yin worship, where she is
the protector of all in distress, especially of those who go to sea.
Chapter 25 of the Lotus Sutras devoted to Kuan-Yin, and is the principal
scriptures of the cult. Kuan-Yin is sometimes confounded (bị lầm lẫn) with
Amitabha and Maitreya.
(C) Những
danh hiệu của Ng i Quán Thế Âm—Various titles of Avalokitesvara
Bodhisattva:
1) Quán
Âm: See Quán Thế Âm.
2) Quán
Tại Tát Đỏa: Kuan-Yin Bodhisattva.
3) Quán
Thế Âm: Regarder or Observer of the world’s sounds, or cries (sounds that
enlighten the world).
4) Quán
Thế Tự Tại: See Quán Tự Tại.
5) Quán
Tự Tại: The Sovereign Beholder, not associated with sounds or cries.
6) Quang
Thế Âm: See Quán Thế Âm.
** For more information,
please see
Avalokitesvara in
Sanskrit/Pali-Vietnamese
Section.
Quán Thế Âm Bồ Tát:
Avalokitesvara (skt)—Vị Bồ Tát được Phật tử Bắc tông thờ phượng—Kuan Shi
Yin Bodhisattva—A Bodhisattva worshipped by the northern Buddhists.
** For more information, please see Quán Thế
Âm in Vietnamese-English Section and
Avalokitesvara in Sanskrit/Pali-Vietnamese
Section.
Quán Thế Âm Mẫu: Tara (skt)—The
sakti, or female energy of the masculine Avalokitesvara.
Quán Thế Tự Tại: Sovereign
Regarder (not associated with sounds or cries)—See Quán Thế Âm.
Quán Thế Âm Viên Thông: Trong
Kinh Thủ Lăng Nghiêm, quyển Sáu, Đức Phật hỏi ng i Quán Thế Âm về viên
thông v ng i Quán Thế Âm đã bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Tôi từ căn tai
tu tam muội viên chiếu, duyên tâm, tự tại, bởi tu để tiếng động v o căn
tai, v o rồi mất…, để được tam ma địa, th nh tựu Bồ Đề. Bạch Thế Tôn! Đức
Phật kia khen tôi khéo được pháp môn viên thông. Trong đại hội của Ng i,
tôi được thọ ký l Quán Thế Âm. Bởi tôi quán nghe cả mười phương đều viên
minh, nên tên Quán Thế Âm khắp cả mười phương thế giới—In th Surangama
Sutra, book Six, the Buddha asked Avalokitesvara Bodhisattva about perfect
penetration, and Avalokitesvara Bodhisattva reported to the Buddha as
follows: “World Honored One! From the gateway of ear, I obtained perfect
and illumining samadhi. The conditioned mind was at ease, and therefore I
entered the appearance of the flow, and obtaining samadhi, I accomplished
Bodhi. World Honored One! That Buddha, the Thus Come One, praised me as
having obtained well the Dharma-door of perfect penetration. In the great
assembly he bestowed a prediction upon me and the name, Kuan-Shih-Yin.
Quán Thể: Nature of
visualization.
Quán Thiền: Quán sát v thiền
định—Contemplation and meditation—To sit in abstract trance.
Quán Thông: To understand
(penetrate) thoroughly.
Quán Thụ (Thọ):
(A) Quán cây
Trí Tuệ như Đức Phật Thích Ca khi th nh đạo rồi thì từ tòa Kim Cương trở
dậy quán cây Bồ Đề (Ng i nói rằng ta mới ngồi ở đạo tr ng cũng đã từng
quán thụ hay quán cây Bồ Đề)—To contemplate the tree of knowledge, as
Sakyamuni is said to have after his enlightenment.
(B) Theo Kinh
Niệm Xứ, Đức Phật dạy về ‘quán cảm thọ’ như sau—According to the
Satipatthanasutta, the Buddha taught about the ‘contemplation of feeling’
as follows:
1)
Nầy các Tỳ Kheo, như thế n o l Tỳ Kheo sống quán niệm cảm thọ trên
các cảm thọ? Nầy các Tỳ Kheo, ở đây Tỳ Kheo khi cảm giác lạc thọ, vị ấy ý
thức rằng: “Ta đang có một cảm thọ khoái lạc.” Mỗi khi có một cảm thọ đau
khổ, vị ấy ý thức rằng: “Ta đang có một cảm thọ đau khổ.” Mỗi khi có một
cảm thọ không khoái lạc cũng không đau khổ, vị ấy ý thức rằng: “Ta đang có
một cảm thọ không khoái lạc cũng không đau khổ.” Khi có một cảm thọ khoái
lạc vật chất, vị ấy ý thức rằng: “Ta đang có một cảm thọ khoái lạc vật
chất.” Khi có một cảm thọ khoái lạc tinh thần, vị ấy ý thức rằng: “Ta đang
có một cảm thọ khoái lạc tinh thần.” Khi có một cảm thọ khổ đau vật chất,
vị ấy ý thức rằng: “Ta đang có một cảm thọ khổ đau vật chất.” Khi có một
cảm thọ khổ đau tinh thần, vị ấy ý thức rằng: “Ta đang có một cảm thọ khổ
đau tinh thần.” Khi có một cảm thọ vật chất không khoái lạc cũng không khổ
đau, vị ấy ý thức rằng: “Ta đang có một cảm thọ vật chất không khoái lạc
cũng không đau khổ.” Khi có một cảm thọ tinh thần không khoái lạc cũng
không khổ đau, vị ấy ý thức rằng: “Ta đang có một cảm thọ tinh thần không
khoái lạc cũng không khổ đau.”—And how, Bhikkhus, does a Bhikkhu abide
contemplating feelings as feelings? Here, when feeling a pleasant feeling,
a Bhikkhu understands: “I feel a pleasant feeling;” when feeling a painful
feeling, he understands: “I feel a painful feling;” when feeling a
neither-painful-nor-pleasant feeling, he understands: “I feel a
neither-painful-nor-pleasant feeling.” When feeling a worldly pleasant
feeling, he understands: “I feel a worldly pleasant feling;” when feeling
an unworldly pleasant feling, he understands: “I feel an unworldly
pleasant feeling;” when feeling a worldly painful feeling, he understands:
“I feel a worldly painful feeling;” when feeling an unworldly painful
feeling, he understands: “I feel an unworldly painful feeling;” when
feeling a worldly neither-painful-nor pleasant feeling, he understands: “I
feel a worldly neither-painful-nor-pleasant feeling;” when feeling an
unworldly neither-painful-nor-pleasant feeling, he understands: “I feel an
unworldly neither-painful-nor-pleasant feeling.”
2)
Như vậy vị ấy sống quán niệm cảm thọ trên các nội thọ; hay sống
quán niệm cảm thọ trên các ngoại thọ; hay sống quán cảm thọ thể trên cả
nội thọ lẫn ngoại thọ. Hay vị ấy sống quán niệm tánh sanh khởi trên các
thọ; hay sống quán niệm tánh diệt tận trên các thọ. Hay sống quán niệm
tánh sanh diệt trên các thọ. “Có thọ đây, vị ấy an trú chánh niệm như vậy,
với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. V vị ấy sống không nương
tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Nầy các Tỳ Kheo, như vậy l Tỳ
Kheo sống quán niệm cảm thọ trên các cảm thọ—In this way he abides
contemplating feelings as feelings internally, or he abides contemplating
feelings as feelings externally, or he abides contemplating feelings as
feelings both internally and externally. Or else he abides contemplating
in feelings their arising factors, or he abides contemplating in feelings
their vanishing factors, or he abides contemplating in feelings both their
arising and vanishing factors. Or else mindfulness that ‘there is feeling’
is simply established in him to the extent necessary for bare knowledge
and mindfulness. And he abides independent, not clinging to anything in
the world. That is how a Bhikkhu abides contemplating feelings as
feelings.
Quán Trí: Trí tuệ đạt được qua
thiền định—Wisdom obtained from contemplation.
Quán Triệt: To penetrate
thoroughly
Quán Tuệ: Đem trí tuệ quán chân
lý, hay lấy trí tuệ quán sát thấu hiểu được chân lý—The wisdom which
penetrates to ultimate reality.
Quán Tứ Niệm Xứ: To meditate
upon the Body, Feelings, Mind and Dharma—To contemplate the four
contemplations:
1) Quán
thân bất tịnh—To contemplate that the body is not sanitary: Vì điên đảo
mộng tưởng m đa số chúng ta đều cho rằng thân nầy quý báu hơn hết. Nên
thân nầy cần phải được ăn ngon mặc đẹp. Chính vì vậy m chúng ta vật lộn
với cuộc sống hằng ng y. Đời sống hằng ng y không còn l nơi an ổn nữa, m
trở th nh đấu trường của tham, sân, si, mạn, nghi, t kiến, sát, đạo, dâm,
vọng, tỵ hiềm, ganh ghét v vô minh. Từ đó ác nghiệp được từ từ kết tạo.
Người tu chân thuần phải quán thân từ mắt, tai, mũi, lưỡi, miệng, hậu môn,
vân vân đều l bất tịnh. Khi ngồi chúng ta nên quán tưởng thân nầy l bất
tịnh, được bao phủ bởi một cái túi da nhơ nhớp, bên trong như thịt, mỡ,
xương, máu, đ m, v những chất thừa thải m không một ai dám đụng tới.
Thân nầy, nếu không được tắm rữa bằng nước thơm dầu thơm v x bông thơm,
thì chắc chắn không ai dám tới gần. Hơn nữa, thân nầy đang hoại diệt từng
phút từng giây. Khi ta ngừng thở thì thân nầy l cái gì nếu không phải l
cái thây ma? Ng y đầu thì thây ma bắt đầu đổi m u. V i ng y sau đó thây
thảy ra mùi hôi thúi khó chịu. Lúc nầy, dù l thây của một nữ tú hay nam
thanh lúc còn sanh thời, cũng không ai dám đến gần. Người tu Phật nên quán
thân bất tịnh để đối trị với tham ái, ích kỷ, v kiêu ngạo, vân vân. Một
khi ai trong chúng ta cũng đều hiểu rằng thân nầy đều giống nhau cho mọi
lo i thì chúng ta sẽ dễ thông hiểu, kham nhẫn v từ bi hơn với mình v với
người. Sự phân biệt giữa người gi , người phế tật, v các chủng tộc khác
sẽ không còn nữa—Due to illusions, most of us think that our body is more
valuable than any thing else. So it needs be provided with better foods
and expensive clothes. Therefore, the ‘struggle for life’ has come into
play. Life is no longer a peaceful place, but a battle field with greed,
hatred, envy, arrogance, doubt, wrong views, killing, stealing, sexual
misconduct, lying. Evil karma is gradually formed as a result. Earnest
Buddhists should view the body (eye, ear, skin, hair, nose, tongue, mouth,
anus, etc) is unclean (Quán thân bất tịnh) which covered with a bag of
skin, inside are flesh, fat, bone, blood, mucus and waste matters of which
no one wishes to touch. The body itself, if not being washed frequently
with fragrant water and soap, no one wants to stay close to it. In
addition, it is prone to decay minute after minute, second after second.
If we stop breathing, what is the body called if not a corpse? During the
first day, its color is changing. A few days later, it becomes bluish and
produces offensive odor. At this time, even if that disintegrated body
once was the most beautiful woman or a handsome man, no one wants to be
close to it. Earnest Buddhist should always contemplate that the body is
unclean. This contemplation is designed to cure greed, attachment,
selfishness, and arrogance. Also, when people realize that they are
physically and biologically the same, they would easily understand,
tolerate and compassionate among themselves and others. The discrimination
against the aging, people with disabilities, and the other race would be
diminished.
2) Quán
rằng cảm thọ l đau khổ—To view all the feelings are painful: Có ba loại
cảm thọ l vui sướng, khổ đau v trung tính; tuy nhiên, Phật dạy mọi cảm
thọ đều đau khổ vì chúng vô thường, ngắn ngủi, không nắm bắt được, v do
đó chúng l không thật, ảo tưởng. Hơn nữa, khi chúng ta nhận của ai cái gì
thì lẽ đương nhiên l chúng ta phải l m cái gì đó để đền trả lại. Rất có
thể chúng ta phải trả giá cao hơn cho những gì m chúng ta đã nhận. Tuy
nhiên, sự nhận về phần vật chất vẫn còn dễ nhận ra để đề phòng hơn l sự
cảm thọ tinh thần, vì cảm thọ l một hình thức thọ nhận m phần đông chúng
ta đều vướng bẫy. Nó rất vi tế, nhưng hậu quả t n phá của nó thật l khốc
liệt. Thường thì chúng ta cảm thọ qua sáu căn. Thí dụ như khi nghe ai nói
xấu mình điều gì thì mình lập tức nổi trận lôi đình. Thấy cái gì có lợi
thì mình bèn ham muốn. Tham sân l hai thứ thống trị những sinh hoạt hằng
ng y của chúng ta m chúng ta không t i n o kiểm soát chúng được nếu chúng
ta không có tu. Quán thọ thị khổ dần dần giúp chúng ta kiểm soát được
những cảm thọ cũng như thanh tịnh tâm của chúng ta, kết quả sẽ l m cho
chúng ta có được an lạc v tự tại—There are three kinds of feelings:
pleasures, pain and neutral ones; however, according to Buddha’s teaching,
all feelings are painful because they are impermanent, transcient,
ungraspable, and therefore, they are unreal, illusive and deceptive. (Quán
thọ thị khổ). Furthermore, when you accept something from others,
naturally, you have to do something else for them in return. It might cost
you more than what you have accepted. However, we can easily refuse
material things, but the hardest thing to escape is our own feelings.
Feeling is a form of acceptance that most of us could easily be trapped.
It is very subtle, but its effect is so destructible. We usually feel
whatever conveyed to us by the six senses. For example, hearing someone
bad-mouth on us, we feel angry at once. Seeing something profitable, we
readily feel greedy. After all, if we don’t cultivate, greed and angry are
two uncontrollable agents which dominate and overwhelm our daily
activities. To contemplate all the feelings are painful will gradually
assist us to keep the feelings under control as well as to purify our
mind; and as a result, provide us the joy and peace.
3) Quán
thấy tâm ngắn ngủi vô thường—To view the mind is transcient or
impermanent: Nhiều người cho rằng tâm họ không thay đổi vì thế cho nên họ
luôn chấp v o những gì họ nghĩ v tin rằng đó l chân lý. Rất có thể một
số cũng thấy tâm mình luôn thay đổi, nhưng họ không chấp nhận m cứ lờ đi.
Người tu Phật nên quán sát tâm thiện, tâm ác của ta đều l tướng sanh diệt
vô thường không có thực thể. Tất cả các loại tâm sở tướng nó chợt có chợt
không, chợt còn chợt mất thì l m gì có thật m chấp l tâm mình. Trong khi
ngồi thiền định, người ta sẽ có cơ hội nhận ra rằng tâm nầy cứ tiếp tục
nhẩy nhót còn nhanh hơn cả những hình ảnh trên m n ảnh xi nê. Cũng chính
vì vậy m thân không an vì phải luôn phản ứng theo những nhịp đập của dòng
suy tưởng. Cũng chính vì vậy m con người ta ít khi được tĩnh lặng v
chiêm nghiệm được hạnh phúc thật sự. Phật tử thuần th nh nên luôn nhớ rằng
tâm không phải l một thực thể của chính nó. Nó thay đổi từng giây. Chính
vì thế m Phật đã dạy rằng tâm của ph m phu như con vượn chuyền cây, như
gió, như điển chớp hay như giọt sương mai trên đầu cỏ. Pháp quán nầy giúp
cho h nh giả thấy được mọi sự mọi vật đều thay đổi từ đó có khả năng dứt
trừ được bệnh chấp tâm sở l thật của ta—Most people think that their mind
is not changed; therefore, they attach to whatever they think. They
believe that what they think reflects the truth. Probably some of them
would discover that their mind is changing, but they refuse to accept it.
Buddhist practitioners should always contemplate their wholesome and
unwholesome minds, they are all subject to rising and destroying. They
have no real entity. In sitting meditation, one will have the chance to
recognize the facts that the mind keeps jumping in a fast speed as
pictures on a movie screen. The body, therefore, always feels restless and
eager to react on the thinking pulses. That is why people are rarely calm
down or experiencing true happiness. Earnest Buddhists should always
remember that the mind does not have any “real entity” to itself. It
changes from second to second. That’s why the Buddha viewed the mind of an
ordinary person is like a swinging monkey, the wind, lightning or a drop
of morning dew (Quán tâm vô thường). This contemplation helps the
practitioners see that everything is changed so that the practitioners
will have the ability to eliminate attachment to what they think.
4) Quán
pháp vô ngã—To view the Dharma is without-self: Quán pháp không có tự
tánh. Mọi vật trên đời, vật chất hay tinh thần, đều tùy thuộc lẫn nhau để
hoạt động hay sinh tồn. Chúng không tự hoạt động. Chúng không có tự tánh.
Chúng không thể tự tồn tại được. Thân thể con người gồm h ng tỷ tế b o
nương tựa v o nhau, một tế b o chết sẽ ảnh hưởng đến nhiều tế b o khác.
Cũng như vậy, nh cửa, xe cộ, đường xá, núi non, sông ngòi đều được kết
hợp bởi nhiều thứ chứ không tự tồn. Do vậy, mọi vật trên đời nầy đều l sự
kết hợp của nhiều vật khác. Chẳng hạn như nếu không có chất bổ dưỡng,
nước, v không khí thì thân thể nầy chắc chắn sẽ ốm o gầy mòn v cuối cùng
sẽ bị hoại diệt. Chính vì vậy m Đức Phật dạy rằng vạn pháp vô ngã, không,
v vô thường. H nh giả n o thường quán pháp vô ngã thì những vị ấy sẽ trở
nên khiêm nhường v đáng mến hơn—Everything in the world, either physical
or mental, is depend upon each other to function or survive. They are not
free from one another or free to act on their owns, on their own will.
They do not have a "self.” They are not capable of being self-existed. A
human body is composed of billions of cells that depend on one another;
one cell dies will effect so many other cells. Similarly, a house, a car,
a road, a mountain, or a river all are compounded, not being self-existed.
Everything, therefore, is a combination of other things. For instance,
without nutritious foods, water, and fresh air, this body will certainly
be reduced to a skeleton and eventually disintegrated. Thus the Buddha
taught: “All existents are selfless, empty, and impermanent.”
Practitioners who always contemplate ‘the dharma is without-self,’ they
should become more humble and likable.
Quán Tự Tại:
Sarvayogavasavartin (skt)—Ở cảnh sự lý vô ngại, đạt quán tự tại (không có
quan hệ với tầm thanh cứu khổ). Đức Phật được xem như l bậc “Quán Tự
Tại.”—One who contemplates at ease—Reality Observant Bodhisattva—Sovereign
Regarder (beholder), not associated with sounds or cries. The Buddha is
regarded as Sarvayogavasavartin.
** For more information, please see
Avalokitesvara in Sanskrit/Pali-Vietnamese Section and Quán Thế Âm
in Vietnamese-English Section.
Quán Tự Tại Bồ Tát: Bodhisattva
of Free Reflection—Bodhisattva Avalokitesvara—See Quán Thế Âm in
Vietnamese-English Section and Avalokitesvara in Sanskrit/Pali-Vietnamese
Section.
Quán Tự Tâm Sở Hiện Cố: Do bởi
sự thông hiểu rằng thế giới l biểu hiện của chính cái tâm mình—By
thoroughly comprehending that the world is the manifestation of one’s own
mind.
Quán Tưởng: Contemplation—See
Thiền.
(I) Ý
nghĩa của quán tưởng—The meanings of contemplation.
1) Quán
tưởng l phương pháp Phật tử áp dụng hằng ng y, luyện cả thân tâm, đem lại
sự hòa hợp giữa tinh thần v vật chất, giữa con người v thiên nhiên:
Contemplation is the daily practice of Buddhist adepts for training the
body and mind in order to develop a balance between Matter and Mind,
between man and the universe.
2) Quán
tưởng v niệm hồng danh một vị Phật trong tâm, đặc biệt l Phật A Di Đ —To
contemplate—To focus—To visualze—To meditate and think—To contemplate
Buddha, especially Amitabha, in the mind and repeat his name.
3) Quán
tưởng l tập trung tư tưởng để quan sát, phân tích v suy nghiệm một vấn
đề, giúp cho thân an v tâm không loạn động, cũng như được chánh niệm.
Quán tưởng không phải l chuyện đơn giản. Thật vậy, trong thế giới máy móc
hiện đại hôm nay, cuộc sống cuồng loạn l m tâm trí chúng ta luôn bị loạn
động với biết bao công chuyện hằng ng y khiến cho chúng ta mệt mỏi về thể
xác lẫn tinh thần, nên việc l m chủ thân mình đã khó, m l m chủ được tâm
mình lại c ng khó hơn: Contemplation can fundamentall be defined as the
concentration of the mind on a certain subject, aiming at realizing a
tranquil body, and an undisturbed mind as a way to perform right
mindfulness. Contemplation is not a simple matter. In the world today,
based on mechanical and technological advances, our life is totally
distrubed by those daily activities that are very tiresome and distressing
for mastering; thus, the body is already difficult and if we want to
master the mind, it is even more difficult.
(II) Trước
khi quán tưởng—Before contemplation: See Thiền Định (IV).
(III)
Những phương pháp quán tưởng—Methods of contemplation:
1) Ngũ
đình tâm quán: Five-fold procedures for quieting the mind—See Ngũ Đình Tâm
Quán.
2) Tứ
Niệm Xứ: Four types of Buddhist meditation for eradicating illusions and
attaining enlightenment—See Tứ Niệm Xứ.
(IV)
Những lời Phật dạy về “Quán Tưởng” trong Kinh Pháp Cú—The Buddha’s
teachings on “Contemplation” in the Dharmapada Sutra:
1) Đệ tử
Kiều Đáp Ma, phải luôn tự tỉnh giác, vô luận ng y hay đêm, thường niệm
tưởng Phật Đ —The disciples of Gotama are always well awake. Those who
always contemplate the Enlightened One by day and night (Dharmapada 296).
2) Đệ tử
Kiều Đáp Ma, phải luôn tự tỉnh giác, vô luận ng y hay đêm, thường niệm
tưởng Đạt Ma—The disciples of Gotama are always well awake. Those who
always contemplate the Dharma by day and night (Dharmapada 297).
3) Đệ tử
Kiều Đáp Ma, phải luôn tự tỉnh giác, vô luận ng y hay đêm, thường niệm
tưởng Tăng gi —The disciples of Gotama are always awake. Those who always
contemplate the Sangha by day and night (Dharmapada 298).
4) Đệ tử
Kiều Đáp Ma, phải luôn tự tỉnh giác, vô luận ng y hay đêm, thường niệm
tưởng sắc thân—The disciples of Gotama are always awake. Those who always
contemplate the body by day and night (Dharmapada 299).
5) Đệ tử
Kiều Đáp Ma, phải luôn tự tỉnh giác, vô luận ng y hay đêm, thường vui điều
bất sát—The disciples of Gotama are always awaken. Those who always
contemplate delight in harmlessness or compassion by day and night
(Dharmapada 300).
6)
Đệ tử Kiều Đáp Ma, phải luôn tự tỉnh giác, vô luận ng y hay đêm,
thường ưa tu thiền quán—The disciples of Gotama are always awaken. Those
who always contemplate delight in meditation by day and night (Dharmapada
301).
7) Không
có trí huệ thì không có thiền định, không có thiền định thì không có trí
tuệ. Người n o gồm đủ thiền định v trí tuệ thì gần đến Niết b n—There is
no concentration in one who lacks wisdom, nor is there wisdom in him who
lacks concentration. He who has both concentration and wisdom is near
Nirvana (Dharmapada 372).
Quán Tưởng Niệm Phật: Quán
tưởng Đức Phật A Di Đ m niệm thầm hồng danh ng i, đối lại với niệm ra
bằng lời—To contemplate Buddha, especially Amitabha, in the mind and
repeat his name silently, in contrast with repeating his name loudly .
Quán Tượng: Diễn tả voi bằng
cách cảm biết thay vì nhìn thấy, như trường hợp một nguời mù rờ voi (chỉ
đúng ngay lúc đó m thôi, chứ không phải l chân lý)—To describe an
elephant from feeling rather than seeing it, as a blind man does (from
feeling it, i.e. immediate and correct knowledge).
Quán Tượng Niệm Phật: Một trong
bốn loại niệm Phật, niệm hình tượng hóa thân của Đức Phật A Di Đ trong
tâm mình, hoặc nhìn hình tượng m niệm hồng danh ng i—One of the four
kinds of contemplation of the Buddha, to contemplate the image of Amitabha
Buddha and repeat his name.
Quán Vô Lượng Thọ Kinh: Phật
Thuyết Quán Vô Lượng Thọ Kinh—Quán Kinh—Một Kinh Đại Thừa quan trọng, liên
hệ tới Phật A Di Đ v trường phái Tịnh Độ (có nhiều luận cho bộ kinh
nầy)—The Sutra of Contemplation of Infinite Life. An important Mahayana
sutra relating to Amitabha Buddha and the Pure Land (there are numerous
commentaries on it).
Quán Xuyến: Have a good grasp
of worldly affairs.
Qu n: To leave the corpse in a
temporary shelter prior to burial.
Quản:
1) Ống: A
pipe—A tube.
2) Quản
ngại: To mind.
3) Quản
trị: To control—To rule.
Quản Đắc: Being able to
control.
Quản Giáo: To look after—To
instruct—To take care of.
Quản Huyền Giảng: Ống, dây, v
giảng l ba thứ đi cùng với nhau trong nghi lễ bên Ấn Độ—Pipes, strings,
and preaching, and accompanied service in India.
Quản Lý: To administer.
Quản Thúc: To confine.
Quang:
Prabha—Light—Brightness—There are two kinds:
1) Phật
quang: The true light of the Buddha.
2) Ma
quang: Mara’s delusive light.
Quang Âm: Light and
shadow—Passing time.
Quang Âm Thiên: Abhasvara
(skt)—Quang Âm Thiên hay Cực Quang Tịnh Thiên, l cõi trời thứ ba trong đệ
nhị thiền thiên thuộc sắc giới. Tại cõi trời nầy dứt mọi âm thanh, lúc
muốn nói thì dùng tịnh quang l m ngôn ngữ, nên gọi l Quang Âm. Thời đại
hỏa tai hủy diệt cõi sơ thiền thiên của sắc giới thì chúng sanh ở hạ giới
đều tập hợp tất cả v o cõi trời nầy. Chờ tới sau khi thế giới tái th nh,
buổi ban đầu của th nh kiếp, từ cõi trời nầy nổi lên những áng mây v ng,
trút mưa lũ xuống để tạo ra thế giới từ sơ thiền thiên xuống tới địa ngục.
Khi thế giới đã th nh rồi thì chúng sanh ở cảnh trời nầy phúc bạc, dần dần
phải đi xuống cõi dưới, thậm chí cho tới địa ngục đều thấy chúng
sanh—Light and sound or Light-sound heavens, also styled the heaven of
utmost light and purity, the third of the second dhyana heavens, in which
inhabitants converse by light instead of words; they recreate the universe
from the hells up to and including the first dhyana heavens after it has
been destroyed by fire during the final series of cataclysms; but they
gradually diminish in power and are reborn in lower states. The three
heavens of the second dhyana are:
1) Thiểu
Quang Thiên: Minor-Light Heaven.
2) Vô
Lượng Quang Thiên: Infinite-Light Heaven.
3) Quang
Âm Thiên: Light and Sound Heaven.
Quang Bảo:
1) Sư Phổ
Quang ở chùa Đại Từ Ân bên Trung Quốc thời nh Đường, tác giả của bộ 30
quyển Câu Xá Luận Ký—A noted monk named Pu-Kuang of Ta-Tzu-Ên monastery
under the T’ang dynasty, who was the author of the Record of Kosa Sastra,
30 books.
2) Sư
Pháp Bảo cũng tại Đại Từ Ân Tự đời Đường, cùng thời với sư Phổ Quang—A
noted monk named Fa-Pao who lived in the same monastery and under the same
period with monk Pu-Kuang.
Quang Bối: Circle of light
behind the Buddha.
Quang Cảnh:
Spectacle—View—Aspect—Outlook.
Quang Chiếu Như Lai Tướng:
Vairocana-rasmi-pratimandita-dhvaja—Một vị Bồ Tát đệ tử của Đức Phật Thích
Ca Mâu Ni, m tiền thân l Tịnh Đức Phu Nhân—A Bodhisattva, disciple of
Sakyamuni, who was in a former life Vimaladatta.
Quang Diệm Vương Phật:
1) Đức
Phật có danh hiệu Quang Diệm Vương vì ánh sáng của Đức Phật ấy soi sáng
nhất: The royal Buddha of shining flames, or flaming brightness.
2) Đức
danh của Đức Phật A Di Đ : Amitabha with his virtues.
Quang Dũng Thiền Sư: Zen Master
Kuang-Yong in Nan-Ta 850-938—Thiền sư Quang Dũng Nam Tháp sanh năm
850 tại Phong Th nh (bây giờ thuộc tỉnh Giang Tây). Sư rất thông minh v
tinh thông Tứ Thư Ngũ Kinh lúc 13 tuổi. Ông l đệ tử của Thiền Sư Ngưỡng
Sơn Huệ Tịch, v l thầy của thiền sư Ba Tiêu Huệ Thanh. V o năm 19 tuổi
sư thọ cụ túc giới—Zen Master Nan-Ta-Kuang-Yong was born in 850 in
Feng-Cheng (now in Jiang-Xi Province). He was clever, mastering the
Confucian classics at the age of thirteen. He was a disciple of
Yang-Shan-Hui-Chi, and master of Pa-Chiao-Hui-Ch’ing. At ninetieen, he
underwent ordination.
·
Sư sang miền Bắc yết kiến Lâm Tế, lại trở về hầu Ngưỡng Sơn.
Ngưỡng Sơn hỏi: “Ngươi đến l m gì?” Sư thưa: “Đảnh lễ ra mắt Hòa Thượng.”
Ngưỡng Sơn hỏi: “Thấy Hòa Thượng chăng?” Sư thưa: “Dạ thấy.” Ngưỡng Sơn
nói: “Hòa Thượng sao giống in lừa.” Sư thưa: “Con thấy Hòa Thượng cũng
chẳng giống Phật.” Ngưỡng Sơn hỏi: “Nếu chẳng giống Phật thì giống cái
gì?” Sư thưa: “Nếu con phải so sánh Hòa Thượng với cái gì đó, thì Hòa
Thượng n o có khác lừa?” Ngưỡng Sơn ngạc nhiên nói: “Ph m Thánh cả hai đều
quên, tình hết, thể hiện b y, ta lấy đây nghiệm xét người, hai mươi năm
không ngờ vực. Con nên gìn giữ đó.” Ngưỡng Sơn thường chỉ sư bảo với
người: “Kẻ nầy l nhục thân Phật.”—When Kuang-Yong return from a trip to
visit Lin-Ji, Yang-Shan said: “Why have you come?” Kuang-Yong said: “To
pay respects to the master.” Yang-Shan said: “Do you still see me?”
Kuang-Yong said: “Yes.” Yang-Shan said: “When I observe the master, you
don’t look like a Buddha.” Yang-Shan said: “If I don’t look like a Buddha,
then what do I look like?” Kuang-Yong said: “If I must compare you to
something, then how do you differ from a donkey?” Yang-Shan cried out
excitedly: “He’s forgotten both ordinary and sacred! The passions are
exhausted and the body is revealed. For twenty years I’ve tested them in
this way and no one has gotten it. Now this disciple has done it!”
Yang-Shan would always point Kuang-Yong and say to people: “This disciple
is a living Buddha.”
·
Có vị Tăng hỏi: “Văn Thù l thầy bảy Đức Phật, Văn Thù có
thầy chăng?” Sư đáp: “Gặp duyên liền có.” Vị Tăng hỏi: “Thế n o l thầy
Văn Thù?” Sư dựng đứng cây phất tử chỉ đó. Tăng thưa: “Cái ấy l phải
sao?” Sư ném cây phất tử khoanh tay—A monk asked Zen master Kuang-Yong:
“Manjushri was the teacher of seven Buddhas. Did Manjushri have a teacher
or not?” Kuang-Yong said: “Manjushri was subject to conditions, and
therefore had a teacher.” The monk said: “Who was manjushri’ teacher?”
Kuang-Yong help up his whisk. The monk said: “Is that all?” Kuang-Yong put
down the whisk and clasped his hands.
·
Có vị Tăng hỏi: “Thế n o l diệu dụng một câu?” Sư đáp:
“Nước đến th nh hồ.” Vị Tăng hỏi: Chơn Phật ở tại chỗ n o?” Nói ra không
tướng, cũng chẳng tại nơi khác—A monk asked: What is a sentence of mystic
function?” Kuang-Yong said: “The water comes and the ditch fills up.” The
monk asked: Where does the real Buddha reside?” Kuang-Yong said: “It
doesn’t appear in words, nor anywhere else, either.”
·
Không rõ sư thị tịch năm n o—His date of death was unknown.
Quang Điệu: Shinning.
Quang Đãng: Clear.
Quang Đoan: Tia sáng cát tường
được Phật phóng ra từ giữa hai bộ lông m y của Ng i trước khi Ng i khai
pháp—The auspicious ray sent from between the Buddha’s eyebrows before a
revelation (khai pháp).
Quang Đức Quốc: Avabhasa
(skt)—Vương quốc ánh sáng (của đức hạnh) nơi Đức Ma Ha Ca Diếp tái sanh
như một vị Phật dưới tên Quang Minh Phật—The kingdom of light and virtue
(glorious virtue), in which Mahakasyapa (Ma ha ca diếp) is to be reborn as
a Buddha, under the name of Rasmiprabhasa (Quang Minh Phật).
Quang Giáng: Thế Tôn giáng thế,
thí dụ như Phật hay Bồ Tát được thờ phượng giáng trần—The honoured one
descends, i.e. the Buddha or Bodhisattva who is worshipped descends.
Quang H o: Sợi lông m y trắng
tỏa ánh h o quang, giữa chỗ giao nhau của hai lông m y Đức Phật, có sợi
lông trắng d i xoắn lại th nh một búi nhỏ luôn tỏa ra ánh sáng. Đây l một
trong ba mươi hai tướng hảo của Phật—The urna or curl between the Buddha’s
eyebrows whence streams light that reveals all worlds, one of the
thirty-two characteristics of a Buddha.
Quang Hoa: Glorious.
Quang Huy: bright light.
Quang Ký: Trước tác của Phổ
Quang Pháp Sư đời Đường—A work of Pu-Kuang in the T’ang dynasty—See Quang
Bảo (1).
Quang Lãng: Light wave.
Quang Minh: Prabha (skt)—Light
(bright and clear)—Illumination—To illuminate—T here are two kinds:
1) Sắc
quang minh: Physical light.
2) Trí
huệ quang minh (tâm quang minh): Wisdom or mental light.
Quang Minh Chánh Đại: Clear and
upright.
Quang Minh Chân Ngôn: Đ La Ni
m một khi trì niệm, h nh giả sẽ có được sự sáng suốt v huy ho ng của chư
Phật, v mọi tội lỗi đều phải quay đi—A dharani by whose repetition the
brightness or glory of Buddha may be obtained, and all retribution of sin
be averted.
Quang Minh Đại Phạm:
Jyotisprabha (skt)—The great illustrious Brahman.
Quang Minh Đại Sư: Tên của tự
viện v cũng l danh hiệu vua Đường Cao Tông ban cho sư Thiện Đạo:
Kuang-Ming Tzu, temple and title of Shan-T’ao, a noted monk of the T’ang
dynasty (under T’ang Kao-Tsung).
Quang Minh Đ n: The fire altar.
Quang Minh Độ: Tên gọi tắt của
Vô Lượng Quang Minh Độ, l đức danh của cõi Tây Phương Cực Lạc—The glory
land or the Paradise of Amitabha.
Quang Minh Phật: See Quang Đức
quốc.
Quang Minh Sơn: Trụ xứ hay nơi
trụ của Đức Quán Âm, l tên gọi khác của Potala—The shining hill, or
monastery, a name for the abode of Kuan-Yin, said to be in India, and
called Potala.
Quang Minh Tâm Điện: Chỗ trụ xứ
của Đức Đại Nhật Như Lai ở Kim Cang Giới (Trí môn hay Bất Hoại Kim Cang
Quang Minh Tâm Điện)—The temple of the bright or shining heart; the seat
of Vairocana, the sun Buddha, in the Vajradhatu mandala.
Quang Minh Vô Tế: Imeasurable
illumination.
Quang Minh Vương: Một trong 25
vị Bồ Tát cùng với Phật A Di Đ tiếp dẫn những người lâm chung m niệm
hồng danh Phật—Shining heart bodhisattva, one of the twenty five
Boshidattvas who, with Amitabha, welcomes to the Western Paradise the
dying who call on Buddha.
Quang Mục Nữ: Người con gái mắt
to v sáng, tiền thân của Ng i Địa Tạng Vương Bồ Tát—The bright-eyed
(wide-eyed) daughter, a former incarnation of Ksitigarbha (Địa Tạng).
Quang Nguyên: Light source.
Quang Phổ: Spetrum.
Quang Phục: To restore.
Quang Thái: Bright.
Quang Thế Âm: See Quán Thế Âm
Bồ Tát.
Quang Thống: Luật sư Tuệ Quang
v o thế kỷ thứ sáu, người đã từ chức quan “Thống” của triều đình để xuất
gia—A Vinaya-monk named Hui-Kuang, the sixth century, who resigned the
high office of the general supervisor and left home to become a monk.
Quang Tọa: Prabha-mandala
(skt)—H o quang v bảo tọa của một vị Phật—The halo and throne of a
Buddha, or the halo behind the throne of an image (a halo throne).
Quang Tộ Trí Môn Thiền Sư: Zen
master Kuang-Zuo-Zhi-Men—Thiền sư Quang Tộ Trí Môn, quê ở Triết Giang, l
đệ tử v người nối Pháp của Hương Lâm Trừng Viễn, v l thầy của Tuyết Đậu
Trùng Hiển. Ông l một trong những thiền sư đầu tiên dùng thơ ca ngợi
những câu châm ngôn hay lời dạy của các thầy thời xưa, đây l một nghệ
thuật m sau nầy học trò của ông l Tuyết Đậu còn vượt trội hơn ông
nữa—Zen master Kuang-Zuo Zhi-Men was from Zhe-Jiang Province, was a
disciple and dharma successor of Xiang-Lin-Chen-Yuan, and the master of
Hsueh-T’ou-Ch’ung-Hsien. He was one of the first masters of Ch’an
tradition to celebrate the words of the old masters in poetic form, and
art at which his disciple Hsueh-T’ou was even better than his teacher.
·
Sư thượng đường dạy chúng: “Một pháp nếu có, pháp thân rơi
tại ph m phu; muôn pháp nếu không, Phổ Hiền mất cảnh giới ấy. Chính khi ấy
Văn Thù nhằm chỗ n o xuất đầu? Nếu đã xuất đầu chẳng được thì con sư tử
lông v ng lưng bị gãy. Hân hạnh được một b n cơm, chớ đợi gạo gừng
tiêu.”—Kuang-Zuo entered the hall and addressed the monks, saying: “If
there is one Dharma, then Vairocana becomes a commoner. If the ten
thousand dharmas are lacking, then Samantabhadra loses his realm. Just
when it is like this, Majushri has nowhere to show his head, and if he
can’t show his head, then the golden-haired lion is cut in two. If you
enjoy a bowl of food, don’t eat the spicy meat cakes.”
·
Tên tuổi của Trí Môn được nhắc đến trong những thí dụ 21 v
90 của Bích Nham Lục—Chih-Men appears in examples 21 and 90 of the
Pi-Yen-Lu.
·
Thí dụ thứ 90 của Bích Nham Lục cho chúng ta thấy Trí Môn v
lối vấn đáp của ông với đệ tử. Một nh sư hỏi Trí Môn: “Vật thể của sự
khôn ngoan l gì?” Trí Môn đáp: “Có sao Kim mang trong mình nó trăng
sáng.” Nh sư hỏi: “Hiệu quả của sự khôn ngoan l gì?” Trí Môn đáp: “Con
thỏ cái chờ lũ thỏ con.”—Example 90 of the Pi-Yen-Lu shows us Master
Chih-Men in a conversation with his disciples as followed: A monk asked
Chih-Men, “What is the wisdom body?” Chi-Men said, “The Venus mussel bears
the bright moon in it.” The monk asked, “And what is the effect of
wisdom?” Chih-Men said, “The female hare gets pregnant.”
·
Trí Môn có đến ba mươi đệ tử kế thừa Pháp. Ông thị tịch năm
1031—Chih-Men had 30 dharma successors. He passed away in 1031.
Quang Trạch: Quang Trạch l tên
của một tự viện bên Trung Quốc nơi m ng i Pháp Vân đã viết bộ luận về
Kinh Pháp Hoa hồi đầu thế kỷ thứ sáu—Kuang-Zhai, name of the temple in
China where where Fa-Yun wrote his commentary on the Lotus Sutra early in
the sixth century.
Quang Trạch Tứ Giáo: See Tứ
Giáo.
Quang Trạch Tứ Thừa: Ng i Quang
Trạch chia Nh Lửa Tam Giới ra l m Tứ Thừa, được trường phái Thiên Thai
thừa nhận—Kuang-Zhai made a division of four yanas from the Burning House
parable, which adopted by the T’ien-T’ai:
1) Xe Dê
chỉ Thanh Văn Thừa: The goat cart representing the Sravaska.
2) Xe
Hươu chỉ Duyên Giác Thừa: The deer cart representing the Pratyeka-buddha.
3) Xe
Trâu chỉ Bồ Tát Tiểu Thừa: The ox-cart representing Hinayana Bodhisattva.
4) Xe
Trâu Trắng lớn chỉ Bồ Tát Đại Thừa: The great white ox-cart representing
the Mahayana Bodhisattva.
** For more information,
please see Tứ Giáo.
Quang Tụ Phật Đảnh: Một trong
năm vị Phật Đảnh—One of the five dhyani-Buddhas.
Quang Tuyến: Ray.
Quang Tướng Tự: Tự viện nằm
trên đỉnh núi Nga Mi, thuộc huyện Nga Mi, tỉnh Tứ Xuyên, nơi m Phổ Hiền
Bồ Tát đã đạt đạo vô thượng—The monastery at the top of O-Mei-Shan, in
Omei district, Szech-Wan province, where P’u-Hsien (Samantabhadra) is
supreme.
Quang Vinh: Glorious.
Quang Võng Đồng Tử:
Jaliniprabhakumara (skt)—Một trong tám đồng tử có lưới chiếu sáng, theo
hầu cạnh Ng i Văn Thù—The youth with the shining net, one of the eight
attendants on Manjusri.
Quáng: Blinded.
Qu ng Cổ: To wear around the
neck.
Qu ng Vai: To wear around the
shoulders.
Qu ng Xiên: To talk nonsense
Quảng:
1) Rộng
rãi: Vipula
(skt)—Broad—Wide—Extensive—Spacious—Extended—Enlarged—Expanded.
2)
Vaipulya (skt)—See Phương Quảng.
Quảng Bá: To spread—To
broadcast.
Quảng Bác: Đọc nhiều học
rộng—Wide and spacious, extensively read, very learned.
Quảng Bác Thân: Một thân của
Đức Phật Tỳ Lô Giá Na bao trùm khắp cả hư không—The one body fills space,
Vairocana.
Quảng Bác Thân Như Lai: Đức
Phật Tỳ Lô Giá Na—Vairocana Buddha.
Quảng Cáo: To advertise—To make
something public.
Quảng Chiếu Huệ Giác Thiền Sư:
Zen Master Kuang-Zhao-Hui-Jue—Thiền sư Quảng Chiếu, quê ở Tây Lạc, l đệ
tử của Thiền sư Phần Dương. Cha l m Thái Thú Ho nh Dương (nay l một th nh
phố thuộc miền nam tỉnh Hồ Nam), rồi mất ở đó, sư phò linh cửu cha về xứ.
Sau khi mai táng cha xong, ông đã xuất gia tại chùa Dược Sơn—Zen master
Kuang-Zhao-Hui-Jue, came from Xi-Luo, was a disciple of Fan-Yang. His
father was a governor of Heng-Yang (a city in southern Hunan Province) .
His father died there, and Kuang-Zhao, fulfilling his filial obligation,
carried his father’s casket back to their native home. After burying his
father, he left home to become a monk at Yueh-Shan Temple.
·
Một vị Tăng hỏi sư: “Cái gì l Phật?” Sư đáp: “Đầu đồng,
trán sắt.” Vị Tăng hỏi: “L nghĩa gì?” Sư đáp: “Chim mỗ, cá vẫy vùng.”—A
monk asked Kuang-Zhao: “What is Buddha?” Kuang-Zhao said: “Copper head,
iron forehead.” The monk said: “What does that mean?” Kuang-Zhao said:
“Bird beak, fish gills.”
·
Vị Tăng hỏi: “Sen l cái gì trước khi trồi lên mặt nước?” Sư
đáp: “Mèo đội nón giấy.” Một người lại hỏi: “Sau khi sen trồi khỏi nước l
cái gì?” Sư đáp: “Chó thấy roi l chạy.”—A monk asked: “How is it before
the lotus comes out of the water?” Kuang-Zhao said: “The cat wears a paper
hat.” The person asked: “How about after the lotus comes out of the
water?” Kuang-Zhao said: “The dog runs when it sees the whip.”
·
Một hôm sư thượng đường dạy chúng: “Thấy, nghe, hiểu biết
đều l nhơn sanh tử. Thấy nghe hiểu biết chính l gốc giải thoát. Thí như
sư tử nh o lộn không nhất định đứng ở Nam Bắc Đông Tây. Cả thảy các ngươi
nếu l chẳng biết, đâu những cô phụ ông gi Thích Ca—One day, Kuang-Zhao
entered the hall and addressed the monks, saying: “Hearing about
enlightenment and wisdom, these are the cause of life and death. Hearing
about enlightenment and wisdom, that itself is the root of liberation.
It’s as if a lion were staggering around in every direction with no place
to live. If you don’t understand, don’t let yourself forsake old
Sakyamuni! Hey!”
Quảng Đại: Rộng lớn—Broad and
great.
Quảng Đại Bao Dung:
Generosity.
Quảng Đại Hội: Trung tâm nơi
hội họp của những con người quảng đại bao dung, một từ ngữ đặc biệt nói về
cõi nước A Di Đ —The centre where vast virtues meet, a term for Amitabha.
Quảng Đại Trí: Trí huệ rộng lớn
của Như Lai l không thể đo lường, không thể nghĩ b n—The vast wisdom of
Buddha beyond measure.
Quảng Đức: Great favour.
Quảng Giáo: Quảng Giáo l giai
đoạn m Đức Phật nói rộng về giới luật cho giáo đo n của Ng i, Ng i dạy
bảo nhất nhất đều phải tuân theo giới luật, đối lại với “Lược Giáo” hay
giai đoạn 12 năm đầu sau khi Phật th nh đạo, Ng i chỉ nói một cách tóm
lược về giáo pháp của Ng i như “chư ác mạc tác, chúng thiện phụng h nh, tự
tịnh kỳ ý, thị chư Phật giáo,” cũng như những phép tu h nh cho đệ tử. Tuy
nhiên, có quá nhiều người l m sai trái, nên Đức Phật bèn nói “Quảng
Giáo”—Full or detailed teaching by the Buddha about the duties of the
order, in contrast with general or summarized teaching; the detailed
teaching resulting from errors which had crept in among his disciples.
Quảng Hạnh: Great deed—Vast
deed—Extensive deed.
Quảng Hiệp: Rộng v hẹp—Broad
and narrow.
Quảng Huệ: Vipulaprajna
(skt)—See Quảng Tuệ.
Quảng Hương: Tên một ngôi gi
lam nổi tiếng trong quận Gò Vấp, th nh phố S i Gòn, Nam Việt Nam. Chùa
được Hòa Thượng Trí Thủ xây năm 1958. Đây l chi nhánh của Phật Học Viện
Nha Trang. Bên phải Chánh điện có đại hồng chung nặng 330 kí lô, đúc tại
Phật Học Viện Nha Trang năm 1966. Trên chuông có khắc b i văn ghi lại lịch
sử của chùa m Hòa Thượng Trí Thủ đã ghi lại v o ng y 31 tháng 3 năm
1966—Name of a famous pagoda in Gò Vấp district, Saigon City, South
Vietnam. It was built in 1958 by Most venerable Trí Thủ. It has been the
school of basic Buddhist Studies for Monk students. A 330 kilogram great
bell cast at Nha Trang Institute of Buddhist Studies in 1966 is hung on
the right of the Main Hall. On the bell there is a text written by Most
Venerable Trí Thủ on March 31, 1966, telling us the history of the
monastery. On the right, in the back of the monastery, stands a stupa and
stele commemorating Most Venerable Trí Thủ.
Quảng Kết Thiện Duyên: To
strengthen affinity with others.
Quảng Lượng: Generosity.
Quảng Mục Thiên Vương:
Virupaksa (skt)—Tiếng Phạn l Tỳ Lưu Bát Xoa, vị thiên vương có ba mắt xấu
xa. Tên của một trong bốn vị Thiên Vương, vị nầy l vị trời thủ hộ phương
tây (Ng i trụ về phương tây của núi Tu Di, v dùng tịnh nhãn để quan sát
chúng sanh trong cõi Diêm Phù Đề)—The wide ugly-eyed (diversely eyed)
Maharaja, with three eyes, one who has deformed eyes. Name of one of the
four Maharajas, he who guards the west.
Quảng Nghiêm Th nh: Vaisali
(skt)—Tỳ Xá Ly, một th nh rộng rãi trang nghiêm tại vùng trung Ấn Độ—Broad
ornate city, in Central India.
Quảng Nghiêm Thiền Sư: Zen
Master Quảng Nghiêm (1121-1190)—Thiền sư Việt Nam, quê ở Đan Phượng, Bắc
Việt. Ng i mồ côi cha mẹ từ lúc nhỏ. Sau khi cha mẹ mất, ng i theo học
Phật pháp với cậu l thầy Bảo Nhạc. Khi thầy Bảo Nhạc thị tịch, ng i gặp
v trở th nh đệ tử của Thiền sư Trí Thiền. Ng i l pháp tử đời thứ 11 dòng
Thiền Vô Ngôn Thông. Ng i thị tịch năm 1190, thọ 69 tuổi— A Vietnamese Zen
master from Đan Phượng, North Vietnam. He lost his parents when he was
very young. After his parents passed away, he studied Buddha Dharma with
master Bảo Nhạc, his uncle on the mother side. After his master passed
away, he met and became a disciple of Zen master Trí Thiền. He was the
dharma heir of the eleventh generation of the Wu-Yun- T’ung Zen Sect. He
passed away in 1190, at the age of 69.
Quảng Quả Thiên: Brhatphala
(skt)—Tên cõi trời thứ ba trong tám cõi trời đệ tứ thiền sắc giới (Đệ Tứ
Thiền Thiên l cõi trời tối thắng m ph m phu được sanh v o. Từ cõi trời
nầy trở lên năm cõi trời thì gọi l Ngũ Tịnh Cư Thiên m chỉ riêng bậc
Thánh mới được sanh v o)—The twelfth Brahmaloka, the realm of form; name
of the third heaven of the eight heavens of the fourth dhyana realm of
form where there are great fruit, or abundant merits.
Quảng Tế: Tên của một ngôi chùa
cổ ở Huế, Trung Việt. Chùa tọa lạc tại phía đông triền đồi Quảng Tế, về
phía tây bắc Đ n Nam Giao. Năm 1807, vị Tiền Quân Đô Đốc Phủ Chưởng Phủ Sự
tước phong Lương T i Hầu Trần Văn Năng dựng lên một thảo am, lấy địa danh
gọi tên chùa l Quảng Tế. Sau khi xây chùa một thời gian, đại sư Tánh Linh
Quang Hiển đã được cử trông coi chùa. Năm 1844, Hòa Thượng Hải Nhu, tăng
cang chùa Thiên Mụ, cùng với thí chủ Bùi Tín Tại đã kiến thiết chùa, mở
rộng qui mô, đổi tranh lợp ngói. Năm 1894, Hòa Thượng Thanh Trí, với sự hỗ
trợ của b Thánh Cung, vợ vua Đồng Khánh, tiến h nh trùng tu chùa, đúc một
đại hồng chung nặng 230 cân. Năm 1989, Thầy Chơn Hương đã xây cổng Tam
Quan l m cho cảnh chùa thêm vẻ uy nghi—Name of an ancient temple in Huế,
Central Vietnam. The temple is situated on the east side of Quảng Tế hill,
which is northwest of the Altar to Heaven. In 1807, Lương T i Hầu Trần Văn
Năng built a thatched temple on the east side of Quảng Tế hill and named
it after the land. Sometime after the temple was built, the senior monk
named Tánh Linh Quang Hiển took charge of the temple. In 1844, Most
Venerable Hải Nhu, the royal-recognized monk of Thiên Mụ temple with lay
person named Bùi Tín Tại rebuilt the temple, enlarged the structure and
replaced thatched with tiles for the roof. In 1894, Most Venerable Thanh
trí, with the help from Thánh Cung, wife of king Đồng Khánh, undertook the
reconstruction. A great-sized bell, 230 pounds was contributed to the
temple by the royal family. In 1989, Venerable Chơn Hương constructed an
old-style three-entrance gate giving the temple a more impressive
appearance.
Quảng Trí: Extensive
knowledge—Immense learning.
Quảng Trí Thiền Sư: Zen master
Quảng Trí—Thiền sư Việt Nam, quê ở Thăng Long, Băc Việt. Năm 1059, ng i
xuất gia l m đệ tử của Thiền sư Thiền Lão tại núi Tiên Du. Ng i trở th nh
Pháp tử đời thứ bảy dòng Thiền Vô Ngôn Thông. Chẳng bao lâu sau tiếng tăm
của ng i lan rộng v nhiều đệ tử đến với ng i. Về sau ng i trụ tại chùa
Quán Đảnh trên núi Không Lộ. Hầu hết cuộc đời ng i, ng i đã chấn hưng v
hoằng hóa Phật giáo tại Bắc Việt. Ng i thị tịch năm 1091—A Vietnamese Zen
master from Thăng Long, North Vietnam. He left home in 1059 to become a
disciple of Zen master Thiền Lão in Tiên Du. He became the Dharma heir of
the seventh generation of the Wu-Yun-T’ung Zen Sect. His reputation soon
spread all over North Vietnam and he had a lot of followers. Later, he
stayed at Quán Đỉnh Temple on Mount Không Lộ. He spent most of his life to
revive and expand Buddhism in North Vietnam. He passed away in 1091.
Quảng Trường Thiệt: Lưỡi to v
d i, một trong 32 tướng hảo của Như Lai, có thể che kín mặt, tới chân tóc
nơi trán (theo Đại Trí Độ Luận, có người hỏi Phật:”Như Đức Thế Tôn, l bậc
Đại Đức đáng kính trọng, nhưng vì sao lưỡi lại to d i như tướng khinh
tiện?” Phật đáp: “Tướng lưỡi như vậy thì lời nói ắt chân thực, như xưa
Phật thè chiếc lưỡi to d i, che kín mặt cho tới tận chân tóc nơi trán, v
nói với vị B La Môn rằng: ‘Nh ngươi xem trong kinh sách có người n o
lưỡi như vậy lại nói lời t vọng không?’” Vị B La Môn nói: “Người n o m
lưỡi thè ra che kín mũi đã không nói lời hư vọng, huống hồ l người m
lưỡi che kín cả mặt tới tận chân tóc nơi trán. Lòng ta tin rằng Đức Phật
tất không nói lời hư vọng.”—A broad and long tongue, one of the thirty-two
marks of a Buddha, big enough to cover his face; it is also one of the
marvels in the Lotus Sutra.
** For more information,
please see Tam Thập
Nhị Hảo Tướng Của
Phật.
Quảng Tu Cúng Dường: Broad
cultivation and making abundant offerings—Đây l hạnh nguyện thứ ba trong
Phổ Hiền Thập Hạnh Nguyện. Quảng tu cúng dường l khởi lòng tín giải rất
sâu, đem đồ cúng dường thượng diệu m cúng dường pháp hội của chư Phật.
Tuy nhiên, trong các thứ cúng dường, pháp cúng dường l quý hơn cả. Pháp
cúng dường l tu h nh đúng theo lời Phật dạy để cúng dường, l m lợi ích
cho chúng sanh để cúng dường, chịu khổ thế cho chúng sanh để cúng dường,
nhiếp thọ chúng sanh để cúng dường, siêng năng tu tập căn l nh để cúng
dường, không thối chuyển Bồ Tát hạnh để cúng dường, chẳng rời tâm Bồ đề để
cúng dường—This is the third of the ten conducts and vows of Samantabhadra
Bodhisattva. Broad cultivation and making abundant offerings means to have
deep belief and understanding in the Buddha teachings and to make
offerings of superb and wonderful gifts. However, of all offerings, the
gift of dharma is supreme. Dharma offerings mean offering of cultivation
according to the teachings, the offering of benefitting all living beings,
the offering which gathers in all living beings, the offering of standing
in for all beings to undergo their suffering, the offering of diligently
cultivating good roots, the offering of not forsaking the deeds of
Bodhisattvas, and the offering of not renouncing the Bodhi-mind.
Quảng Tuệ: Vipulaprajna or
Vipulamati (skt)—Trí tuệ rộng lớn, danh hiệu của Đức Phật, có trí tuệ rộng
lớn có thể chuyển hóa được chúng sanh mọi lo i—Vast wisdom, an epithet of
a Buddha, one able to transform all beings.
Quanh Co: Winding.
Quanh Năm: Throughout the
year.
Quanh Quẩn: To beat about the
bush.
Quát: To shout (scold) loudly.
Quay Cuồng: To turn round and
round—To be in a whirl.
Quay Gót: To turn back.
Quay Trở Lại: See Quay Về.
Quay Về: To return—To go back.
Quắc Thước: Vigorous.
Quăng Bỏ: To throw away.
Quăng Xuống: To throw down.
Quẳng Gánh Lo Âu: To throw away
the burden of anxiety.
Quân:
1) Quân
bình: Balance—Equal.
2) Anh
(nói theo kiểu quý phái): Prince—Noble—Ideal man.
3) Quân
Đội: An army—Military—Martial.
Quân Bình: To balance
Quân Đề: Kun-Ti (Ch).
a) Người
ta nói đây l một đệ tử thuần th nh của Ng i Xá Lợi Phất: Said to be a
devoted disciple of Sariputra.
b) Một
trong những thị giả của Ng i Văn Thù: One of the attendants on Manjusri.
Quân Đề Đồng Tử: See Quân Đề
(b).
Quân Đồ: Kunda (skt)—Lò lửa,
dùng l m phép Hộ Ma trong Mật Giáo—A hole in the ground, or a brazier, or
a fire-pot, for the fire at the fire altar; the homa or fire altar in the
esoteric sects in fire-worship.
Quân Đồ Lợi: Kundalin
(skt)—Thủy bình hình tròn như chiếc nhẫn—A ring-shaped vase or bottle.
Quân Đồ Lợi Minh Vương: Amrta
(skt).
1) Một
trong ngũ đại minh vương, Cam Lộ Minh Vương—One of the five Ming-Wang, the
ambrosia king.
2) Dạ Xoa
trong hình thức trừ ma: Also known as Yaksa in his firece form of queller
of demons.
Quân Na: Kunda (skt).
1) See
Quân Đồ.
2) Một
loại hoa, có lẽ l hoa l i: a kind of flower, perhaps jasmine.
Quân Sư Phụ: King master and
father.
Quân Tr Lợi Minh Vương:
Kundali-raja (skt)—See Quân Đồ Lợi Minh Vương.
Quân Trì: Kundi or Kundika
(skt)—Quân Trì Ca—Vận Trì.
1) Chiếc
bình trong tay của Đức Quán Âm: The vase in Kuan-Yin’s hand—An asecetic’
water bottle.
2) Một
trong 18 vật dụng của Tỳ Kheo: One of the eighteen utensils of Bhikkhus.
Quấn Quít: To hang about
(around).
Quần:
1) Cái
quần: Nivasana (skt)—A skirt, a kind of garment, especially an under
garment.
2) Một
đ n—A flock (of sheep)—A crowd—A herd.
Quần Chúng: The public.
Quần Hữu: Các cõi hiện hữu (có
quả báo v chúng sanh thụ quả báo), một trong tam hữu hay cửu hữu—All that
exists, one of the three stages of mortal existence or nine stages or
conditions in which sentient beings enjoy to dwell.
** For more information,
please see Tam Hữu,
and Cửu Hữu in
Vietnamese-English
Section.
Quần Loại: Tất cả chủng loại
chúng sanh, đặc biệt l những chúng sanh hữu tình—All classes of living
beings, especially the sentient.
Quần Manh: Những gì mới lú mầm
chưa th nh thục, ví với những chúng sanh mới phát tâm đạo, chưa phát
triển, hãy còn bị vô minh che lấp minh tâm—All the shoots, sprouts, or
immature things, i.e. all the living as ignorant and undeveloped.
Quần Mê: Chỉ chung những chúng
sanh hãy còn mê mờ điên đảo—All the deluded; all delusions.
Quần Nghi Luận: Answers to
Doubts and Skepticism Commentary—Đây l quyển luận giải tỏa các mối nghi
ngờ của Phật tử về pháp môn niệm Phật, được viết bởi một vị Tổ Tịnh Độ—A
commentary which provides explanations and clarifications to Buddhists’
doubts and skepticism of the Pureland Buddhism, written by a Pureland
Patriarch.
Quần Quật: To work hard all day
long without rest.
Quần Sinh: Tất cả chúng sanh,
đặc biệt l những chúng sanh hữu tình—All the living , especially all
living, conscious beings.
Quần Thoa: Woman.
Quẩn Bách: To be in financial
difficulties
Quẩn Trí: To become senseless
Quẫn Trí: To get stuck in
something that the mind becomes senseless—To become senseless.
Quầng (H o Quang): Halo.
Quất: To whip.
Quật:
1) Cái
hang: Guha (skt)—A cave.
2) Đ o
lên: To dig.
3) Nổi
bật—Distinguished—Sừng sửng—Lofty.
Quật Cụ La: Nhang của phương
tây (An Tức hương)—A kind of western incense.
Quật Cường: To refuse to submit
or yield to.
Quật Đa: Chữ viết tắt của Ưu Ba
Cúc Đa—An abbreviation for Upagupta—See Hai Mươi Tám Tổ Ấn Độ (4).
Quật Luân: Đảo Côn Luân (có lẽ
l Côn Sơn) thuộc Việt Nam ở biển Đông—Polo Condre of Vietnam in the South
China Sea.
Quật Ngoại: See Quật Nội.
Quật Nội: Phái Trong Hang.
Trong xứ Ma Kiệt Đ có ngọn núi Nam Sơn, cách ngọn Nam Sơn về phía bắc có
một hang đá lớn. Sau khi Đức Phật nhập diệt, ng i Ca Diếp chủ trì cuộc kết
tập Tam tạng kinh điển trong hang đá nầy. Đồng thời bên ngo i cách hang đá
chừng 20 dậm, lại có một số khác tập hợp lại để kết tập Ngũ Tạng. Do đó m
có hai phái trong hang v ngo i hang. Trong hang l Thượng Tọa Bộ, ngo i
hang gọi l Đại chúng bộ—“Within the cave,” the assembly of the elder
disciples, after Sakyamuni's’death, in the cave near Magadha, when,
according to tradition, Kasyapa presided over the compiling of the
Tripitaka; while at the same time, the disciples “outside the cave"
compiled another canonknown as Pancapitaka. To this separation is
ascribed, without evidence, the formation of the two schools of the
Mahasthavirah and Mahasanghika.
Quật Sơn: Núi Kỳ X Quật hay
núi Linh Thứu—Vulture Peak—See Grdhrakuta in Sanskrit/Pali-Vietnamese
Section.
Quây Quần: To gather together
(around) —To cluster.
Quấy: To be wrong.
Quấy Nhiễu: To bother—To
disturb—To trouble—To discommode—To annoy.
Quấy Rầy: See Quấy Nhiễu.
Quấy Rối: To harass—To
trouble—To disturb.
Quen: To be acquainted with—To
be accustomed to—To be used to.
Quen Biết: To know—To be
acquainted with someone.
Quen Chịu: To be (get—become)
accustomed to.
Quen Cực Khổ: To be accustomed
to.
Quen L m: To be (get)
accustomed to doing something.
Quen Sơ: To be slightly
acquainted with.
Quen Thân: To know well.
Quen Thuộc: To be familiar
(acquainted with).
Quen Việc: To be accustomed to
and familiar (well acquainted) with the work.
Quét Sạch: To brush aside.
Quê Nh : Birthplace—Homeland.
Quế Sâm Thiền Sư: Thiền Sư Quế
Lâm ở Viện La Hán sanh năm 867, quê ở Thường Sơn. Từ thuở nhỏ đã ăn chay
v nói những lời hay ho lạ thường. Sư xuất gia v thọ cụ túc giới với đại
sư Vô Tướng tại chùa Vạn Tuế—Zen master Kui-chen was born in 867 from an
ancient Chang-Shan. It is said that from early childhood he could speak
very well and would not eat meat. He left home to become a monk and
received full ordination at Wan–Sui Temple, under a teacher named
Wu-Xiang.
·
Lúc đầu sư học Luật rất nghiêm, nhưng về sau sư tuyên bố
rằng nếu chỉ giữ không phá luật không thôi, không phải thật sự xuất gia,
nên sư ra đi tìm học với thiền tông—At first he closely followed the
teachings of the Vinaya, but later declared that just guarding against
breaking the vows and adhering to the precepts did not equal true
renunciation. He then set off to explore the teachings of the Zen school.
·
Sau sư đến Huyền Sa yết kiến Đại Sư Tông Nhất, vừa nghe một
câu khai phát liền rỗng suốt không ngờ—He arrived at Hsuan-Sha’s place.
Hsuan-Sha, who is said to have brought Kui-Chen erase all his doubts and
to attain full awakening.
·
Một hôm Huyền Sa hỏi sư: “Tam giới duy tâm, ngươi biết thế
n o?” Sư chỉ cái ghế dựa hỏi lại Huyền Sa: “Hòa Thượng kêu cái ấy l gì?”
Huyền Sa đáp: “Ghế dựa.” Sư thưa: “Hòa Thượng không biết tam giới duy
tâm.” Huyền Sa bảo: “Ta bảo cái ấy l tre gỗ, ngươi kêu l gì?” Sư thưa:
“Con cũng gọi l tre gỗ.” Huyền Sa lại bảo: “Tận đại địa tìm một người
hiểu Phật pháp cũng không có.” Sư do đây c ng được khích lệ thêm—One day,
Hsuan-Sha questioned Kui-Chen, saying: “In the three realms, there is only
mind. How do you understand this?"”Kui-Chen pointed to a chair and said:
“What does the master call that?” Hsuan-Sha said: “A chair.” Kui-Chen
said: “Then the master can’t say that in the three worlds there is only
mind.” Hsuan-Sha said: “I say that it is made from bamboo and wood. What
do you say it’s made from?” Kui-Chen said: “I also say it’s made from
bamboo and wood.” Hsuan-Sha said: “I’ve searched across the great earth
for a person who understands the Buddhadharma, but I haven’t found one.”
·
Huyền Sa bảo chúng: “Mặc dù Quế Sâm t ng ẩn trong chúng,
nhưng tiếng tăm vang xa—Hsuan-Sha told the monks: “Although Kui-Chen did
not aspire to a leading position in the Buddhist community, his reputation
as an adept nevertheless spread widely.
·
Một vị Tăng hỏi: “Thế n o l một câu của La Hán?” Sư đáp:
“Ta nói với ngươi, liền th nh hai câu.”—A monk asked: “What is Luo-Han’s
single phrase?” Kui-Chen said: “If I tell you it will turn into two
phrases.”
·
Sư thượng đượng dạy chúng: “Tông môn huyền diệu chỉ l thế
ấy sao? Hay riêng có chỗ kỳ đặc? Nếu riêng có chỗ kỳ đặc, các ông hãy nên
xem cái gì? Nếu không, chẳng nên đem hai chữ bèn cho l Tông Thừa. Thế n o
l hai chữ? Nghĩa l Tông Thừa v Giáo Thừa. Các ông vừa nói đến Tông thừa
liền th nh Tông thừa, nói đến Giáo thừa liền th nh Giáo thừa. Chư Thiền
đức! Phật pháp tông thừa nguyên lai do miệng các ông an lập danh tự, l m
lấy nói lấy bèn th nh. Lẽ ấy cần phải nhằm trong đó nói bình nói thật, nói
viên nói thường. Thiền đức! Các ông gọi cái gì l bình thật? Nắm cái gì
l m viên thường? Kẻ h nh khất nh bên cần phải biện r nh, chớ để chôn vùi;
được một ít thanh sắc danh tự chứa trong đầu tâm, nói ta hội giải khéo hay
giản biện. Các ông biết cái gì? Ghi nhớ được danh tự ấy, giản biện được
thanh sắc ấy. Nếu chẳng phải thanh sắc danh tự, các ông l m sao ghi nhớ
giản biện? Gió thổi thông reo cũng l thanh, tiếng ếch nhái, chim, quạ,
kêu cũng l thanh, sao chẳng trong ấy lắng nghe để giản trạch đi. Nếu
trong ấy có hình thức ý tứ cùng các Thượng Tọa. Chớ lầm! Hiện nay thanh
sắc dẫy đầy, l đến nhau hay chẳng đến nhau? Nếu đến nhau, thì linh tánh
kim cang bí mật của ông nên có hoại diệt. Vì sao có như thế? Vì thanh xỏ
lủng lỗ tai ông, sắc đâm đui con mắt ông, duyên thì lấp mất huyễn vọng của
ông, c ng chẳng dễ d ng vậy. Nếu chẳng đến nhau, thì chỗ n o được thanh
sắc? Biết chăng? Đến nhau, chẳng đến nhau thử biện r nh xem?—Kui-Chen
entered the hall and addressed the monks, saying: “If you want to come
face-to-face with the essential mystery of our order, here it is! There’s
no other special thing. If it is something else, then bring it forth and
let’s see it. If you can’t show it, then forget about it. You can’t just
recite a couple of words and then say that they are the vehicle of our
school. How could that be? What two words are they? They are known as the
‘essential vehicle.’ They are the ‘teaching vehicle.’ Just when you say
‘essential vehicle,’ that is the essential vehicle. Speaking the words
‘teaching vehicle’ is itself the teaching vehicle. Worthy practitioners
of Zen, our school’s essential vehicle, the Buddhadharma, comes from and
is realized through nothing other than the names and words from your own
mouths! It is just what you say and do. You come here and use words like
‘tranquility,’ ‘reality,’ ‘perfection,’ or ‘constancy.’ Worthy
practitioners! What is this that you call ‘tranquil’ or ‘real’?What is
that’s ‘perfect’ or ‘constant’? Those of you here on a pilgrimage, you
must test the principle of what I’m saying. Let’s be open about it. You’ve
stored up a bunch of sounds, forms, names, and words inside your minds.
You prattle that ‘I can do this’ or ‘I’m good at figuring out that,’ but
actually what can I do? What can you figure out? All that you’re
remembering and holding on to is just sounds and forms. If it weren’t all
sounds and forms, names and words, then how would you remember them or
figure them out? The wind blows and the pine makes a sound. A frog or a
duck makes a sound. Why don’t you go and listen to those things and figure
them out? If everywhere there are meaningful sounds and forms, then how
much meaning can be ascribed to this old monk? There’s no doubt about it.
Sounds and forms assault us every moment. Do you directly face them or
not? If you face them directly then your diamond-solid concept of self
will melt away. How can this be? Because these sounds penetrate your ears
and these forms pierce your eyes, you are overwhelmed by conditions. You
are killed by delusion. There isn’t enough room inside of you for all of
these sounds and forms. If you don't face them directly then how will you
manage all of these sounds and forms? Do you understand? Face them or not
face them. See yourself.
·
Sư dừng giây phút, lại nói: “Viên thường bình thật ấy l
người gì? Nói thế n o? Chưa phải l kẻ ở trong thôn Ho ng Di thì biết nói
thế n o? Đó l các vị Thánh xưa b y chút ít giúp đỡ hiển phát. Thời nay
không hiểu phải quấy, liền cho l to n thật, nói ta riêng có tông phong
huyền diệu. Phật Thích Ca không chót lưỡi, chẳng giống với các ông có chút
ít bèn chỉ hông chỉ ngực. Nếu luận về tội sát, đạo, dâm, tuy nặng m vẫn
còn nhẹ, vì có khi hết. Kẻ nầy chê bai Bát Nhã l m mù mắt chúng sanh, v o
địa ngục A Tỳ, nuốt ho n sắt nóng chớ bảo l thong thả. Do đó, cổ nhơn
nói: ‘Lỗi tại hóa chủ, chẳng can hệ việc ông.’ Trân trọng!”—After a pause,
Kui-Chen continued: “’Perfection.’ ‘Constancy.’ ‘Tranquility.’ ‘Reality.’
Who talks like this? Normal people in the village don’t talk like this.
Its just some old sages that talk this way and a few of their wicked
disciples that spread it around. So now, you don’t know good from bad, and
you are absorbed in ‘perfection’ and ‘reality.’ Some say I don’t possess
the mysterious excellence of our order’s style. Sakyamuni didn’t have a
tongue! Not like you disciples here who are always pointing at your own
chests. To speak about killing, stealing, and lewdness is to speak of
grave crimes, but they are light by comparison. It’s unending, this
vilification of nirvana, this blinding the eyes of beings, this falling in
the Avici Hell and swallowing hot iron balls without relief. Therefore the
ancients said: ‘When the transgression is transformed into the host, it no
longer offends.’ Take care!”
·
Sư thị tịch năm 928, được vua ban hiệu “Chơn Ứng Đại Sư.”—He
died in 928. After death, he received the posthumous title “Zen Master
True Response.”
Quên Dĩ Vãng: Let bygones be
bygones—To forget the past.
Quên Lãng: Bị Quên lãng—Buried
and forgetten.
Quên Mất Bồ Đề Tâm M Tu H nh Các Thiện
Pháp Đó L Ma Nghiệp: Trong Kinh Hoa Nghiêm, Đức Phật đã dạy
rằng: “Quên mất Bồ đề tâm trong khi tu h nh các thiện pháp, đó l ma
nghiệp.” Một thí dụ cụ thể l nếu chúng ta không vì Bồ đề tâm m bố thí
thì cái bố thí ấy có thể vì danh vì lợi hay vì muốn được khen tặng, vân
vân, đó l cách cách h nh xử của lo i ma—In Avatamsaka Sutra, the Buddha
taught: “To neglect the Bodhi Mind when practicing good deeds is the
action of demons.” A concrete example is that if we neglect our Bodhi mind
suring we give charity; the charity may be made for fame, benefits or
praise, and so on; such conduct is the conduct of the demons.
Quên Mình: To sacrifice
oneself—To forget oneself for the sake of others.
Qui Tỉnh Thiền Sư: Zen master
Kui-Xing—Thiền sư Qui Tỉnh, quê ở Quí Châu, l đệ tử của Thiền sư Thủ
Sơn—Zen master Kui-Xing was born in Ji-Chou, was a disciple of Zen master
Shou-Shan.
·
Một hôm Thủ Sơn đưa cái lược tre lên hỏi: “Gọi l lược tre
thì xúc chạm, chẳng gọi lược tre thì trái mất, gọi l cái gì?” Sư bèn chụp
cái lược ném xuống đất nói: “L cái gì?” Thủ Sơn bảo: “Mù.” Sư nhơn lời
n y hoát nhiên đốn ngộ—One day Shou-Shan held up a bamboo comb and asked:
“If you call it a bamboo comb, you commit an offense. If you don’t call it
a bamboo comb, then you have turned away from what you see. What do you
call it?” Shou-Shan said: “Blind.” At these words Kui-Xing suddenly
experienced unsurpassed awakening.
·
Sư khai đường, có vị Tăng hỏi: “Tổ Tổ tương truyền Tổ ấn,
nay thầy được pháp nối người n o?” Sư đáp: “Cõi trong thiên tử, bờ ngo i
tướng quân.”—When Kui-Xing began teaching, a monk asked him: “All the
Patriarchs have one after the other passed on the ancestral seal. Whose
heritage have you now attained?” Kui-Xing said: “At the center of the
realm, an emperor. Beyond the frontier, a general.”
·
Sư thượng đường dạy chúng: “Tông sư huyết mạch hoặc ph m
hoặc Thánh, Long Thọ, Mã Minh, thiên đường, địa ngục, vạc dầu sôi, lò than
đỏ, ngưu đầu, ngục tốt, sum la vạn tượng, nhật nguyệt tinh thần, phương
khác, cõi nầy, hữu tình vô tình.”—Zen master Kui-Xing entered the hall and
addressed the monks, saying: “The blood and marrow of the teachers of our
school; what is mundane and holy; Long-Su and Ma-Ming (names of famous
Buddhists of earlier times); heaven and hell; the scalding cauldron and
furnace embers (tortures of hell); the ox-headed jailers (demons in hell);
the myriad phenomena of the universe; heavenly bodies; all things of the
earth; animate and inanimate…”
·
Sư lấy tay vẽ một lằn rồi nói: “Đều v o tông nầy. Trong tông
nầy cũng hay giết người, cũng hay tha người. Giết người phải được đao giết
người; tha người phải được câu tha người. Cái gì l đao giết người, câu
tha người? Ai nói được bước ra đối chúng nói xem? Nếu nói không được l cô
phụ bình sanh. Trân trọng!”—Kui-Xing drew a circle in the air with his
hand and then continued: “All of them enter this essential teaching.
Within this teaching people can be killed and they can be given life.
Those who die endure the killing knife. Those who live must attain the
life-giving phrase. What are the killing knife and the life-giving phrase?
Can you answer me? Come out of the congregation and we’ll test you. If you
can’t speak, then you’ve betrayed your life! Take care!
·
Có vị Tăng thưa hỏi về cây bá của Triệu Châu. Sư bảo: “Ta
chẳng tiếc nói với ngươi, m ngươi có tin không?” Tăng thưa: “Lời nói của
Hòa Thượng quý trọng con đâu dám chẳng tin.” Sư bảo: “Ngươi lại nghe giọt
mưa rơi trước thềm chăng?” Vị Tăng ấy hoát nhiên ngộ, thốt ra tiếng:
“Chao!” Sư hỏi: “Ngươi thấy đạo lý gì?” Vị Tăng l m b i tụng đáp:
“Thiềm đầu thủy đích
Phân minh lịch lịch
Đả phá c n khôn
Đương hạ tâm tức.”
(Giọt mưa trước thềm, r nh rẽ rõ r ng
Đập nát c n khôn, Liền đó tâm dứt).
A monk asked: “What is the meaning of
Zhao-Chou’s cypress tree in the garden?”
Kui-Xing said: “I won’t refuse to tell you,
but will you believe me or not?” The
monk said: “How could I not believe the
master’s weighty
words? Kui-Xing said:
“Can you hear the water dripping from the
eaves?” The monk was suddenly enlightened. He unconsciously exclaimed:
“Oh!” Kui-Xing said: “What principle have you observed?” The monk then
composed a verse:
“Water drips from the eaves,
So clearly,
Splitting open the Universe,
Here the mind is extingushed.”
Quí: Thấy mắc cở cho
người—Shame for others.
Quơû: To reprimand—To rebuke—To
scold—To blame.
Quở Mắng: See Quở.
Quở Phạt: To reprimand with
punishment.
Quở Trách: To rebuke—To scold.
Quốc: Xứ sở—A country—A nation.
Quốc Ân: Tên của một ngôi chùa
cổ ở Huế. Chùa tọa lạc tại phía tây bắc núi Ngự Bình, trong thôn Phước
Quả, phường Trường An. Nguyên chùa có tên l Vĩnh Ân do Hòa Thượng Siêu
Bạch Nguyên Thiều, một du tăng Trung Hoa khai sơn v o khoảng năm 1683. Năm
năm sau, chúa Nguyễn Phước Thái công nhận l quốc tự v đặt tên lại l
Quốc Ân. Năm 1805, công chúa Long Th nh hiến 300 lạng bạc để trùng tu. Năm
1842, vua Thiệu Trị lại cấp cho chùa 500 lạng bạc để ho n chỉnh như chúng
ta thấy ng y nay—Name of an old temple in Huế. It is located at northwest
of Ngự Bình Hill, in Phước Quả hamlet, Trường An precint. Its original
name was Vĩnh An. The temple was built in 1683 by Most Venerable Siêu Bạch
Nguyên Thiều, a wandering Chinese monk. Five years later, Lord Nguyễn
Phước Thái recognized it as a national temple and renamed it Quốc Ân. In
1805, Princess Long Th nh, an elder sister of king Gia Long, had it
rebuilt with 300 ounces of silver. In 1842, king Thiệu Trị granted 500
ounces of silver to accomplish its reconstruction as we can see it today.
Quốc Độ: Nơi ở của các chúng
hữu tình—A country—Native land—Abode of a race, or races.
Quốc Độ Thân: Đức Tỳ Lô Giá Na
ứng theo căn cơ của chúng sanh m hiện ra quốc độ cho họ nương v o—The
Buddha as Buddhaksetra, or abode of the living; the world as the body of
Vairocana.
Quốc Độ Thế Gian: Theo Kinh Hoa
Nghiêm thì đây l cảnh giới m chúng sanh dựa v o để sinh tồn, một trong
ba loại thế gian—According to the Flower Adornment Sutra, one of the three
worlds, the world of countries on which people depend on for existence—See
Tam Thế Gian (2).
Quốc Giáo: National religion.
Quốc Họa: National disaster
(calamity).
Quốc Hồn: National soul
(spirit).
Quốc Kế Dân Sinh: National
economy and the livelihood of the people.
Quốc Nạn: See Quốc họa.
Quốc Sư: Ông thầy của cả nước,
thường l một vị Tăng (trong các quốc gia Phật giáo)—Imperial
Teacher—Imperial preceptor or preceptor of the State, usually a Buddhist
monk.
Quốc Sử: National history.
Quốc Sự: National affair.
Quốc Tăng Chính: Văn phòng Tăng
Thống—National superintendent of the clergy, an office which at one time
existed.
Quốc Túy: National
characteristics or spirit.
Quốc Vương: Quốc vương hay Thái
tử, người được phước báo cao trong hiện tại nhờ tiền kiếp tu trì thập
thiện—A king or a prince—One who has attained to his present high estate
consequent on keeping all the ten commandments in a previous incarnation.
Quy:
1) Con
rùa: Turtle—Tortoise.
2) Quy
h ng: To give oneself up to—To surrender.
3) Quy
phục: To commit oneself to.
4) Trở
về: To return.
Quy Chế: Rule—Status.
Quy Củ: Norm—Method—Standard.
Quy Định: To define—To
stipulate.
Quy H ng: To yield—To give
in---To surrender.
Quy Hồi: To return—To come
back.
Quy Kính: Trở về quy mệnh v
kỉnh lễ Đức Như Lai—To turn to reverence, put one’s trust in and worship
the Buddha.
Quy Luật: Regulation—Statute
and law.
Quy Mạng: Namas, Namah, or Namo
(skt)—Nam Mô—Quy mệnh hay về nương—Devotion-of-life bow.
1) Thân
mệnh nương theo Đức Phật: To entrust one’s life, or to devote one’s life
to the Buddha, etc.
2) Quy
thuận theo giáo mệnh hay lời dạy của Phật: To obey Buddha’s teaching.
3) Căn
mệnh quy nguyên như Đức Phật đã từng quy nguyên vậy: To cultivate the
Buddha’s way, hoping one day we can enter nirvana as did the Buddha.
Quy Mạng Thập Phương Kim Cang Phật:
Take refuge in the Diamond Buddha of the ten directions.
Quy Mạng Tỳ Lô Xá Na Phật: Take
refuge in Vairocana Buddha.
Quy Mao: Lông rùa (hay sừng
thỏ), được ví với những chuyện không thể xãy ra được—The hair on a
tortoise, i.e. the non-existent.
Quy Mao Thố Giác: Lông rùa sừng
thỏ, ví với những việc không thể xãy ra được—The hair on a tortoise and
the horn of a rabbit, i.e. the non-existent.
Quy Nguyên: Quy Bổn—Quy
Chân—Quy Hóa—Quy Tịch—Ra khỏi cõi sanh diệt để trở về cội nguồn chân như
tịch tĩnh (nhập niết b n)—To return to one’s origin, enter nirvana, i.e.
to die.
Quy Ngưỡng: Kính ngưỡng v tin
tưởng v o—To turn to in expectancy or adoration, put trust in.
Quy Nguỡng Tông: Một dòng Thiền
được sáng lập bởi ng i Bách Trượng Ho i Hải—A Zen sect established by
Pai-Ch’ang-Huai-Hai—See Bách Trượng Ho i Hải.
Quy Nhập: Quay lại để đi v o
đường đạo—To turn to and enter, e.g. a religion.
Quy Nông: Tên của một ngôi chùa
cổ tọa lạc trong quận Châu Th nh tỉnh Tr Vinh, Nam Việt Nam. Chùa được
xây dựng từ lâu, nhưng không ai biết được xây v o năm n o. Chùa được trùng
tu v o năm 1900—Name of and ancient temple, located in Châu Th nh
district, Tr Vinh province, South Vietnam. It was built a long time ago,
but no one knows the time. It was rebuilt in 1900.
Quy Phật:
1) Trở
th nh Phật tử: To become a Buddhist.
2) Vãng
sanh Cực Lạc: To go to the Pure Land after passing away.
Quy Phục: To submit—To yield—To
give in—To surrender.
Quy T ng Lục: Chuyện ví dụ về
con rùa dấu sáu chi trong mai khi thấy cáo vì sợ cáo vồ lấy ăn thịt, trong
khi con cáo thấy rùa bèn rú lên, nên cuối cùng rùa thụt v o mai, cáo không
ăn được nên phải chết đói—The parable of the tortoise and the jackal, the
tortoise hiding its six vulnerable parts, symbolizing the six senses, the
jackal wailing and starving to death.
Quy Tắc: Regulation—Rule.
Quy Tiên: To pass away—To
die—To go to the paradise.
Quy Tính:
1) Thu
nhiếp sự tướng hữu vi để trở về với thực tướng chân như—To turn from the
world of phenomena to that of eternal reality.
2) Từ bỏ
đời sống vật chất để trở về đới sống tâm linh (vốn l bổn tính của vạn
hữu): to devote oneself to the spiritual rather than the material.
Quy Tội: To shift away the
blame upon someone.
Quy Tục: Ho n tục—To return to
lay life.
Quy Tư: Kucha (skt)—Câu
Chi—Khưu Tư—Một vương quốc v th nh phố cổ nằm về mạn đông của Trukestan.
Được ghi nhận l sinh quán của Ng i Cưu Ma La Thập—An ancient kingdom and
city in eastern Turkestan. It is recorded as the native place of
Kumarajiva.
Quy Y: To turn to and rely on,
or believe in Buddhism.
(I) Nghĩa
của Quy-Y—The meanings of Taking Refuge: Tin v o Phật giáo v về nương nơi
ba ngôi Tam Bảo. Được nhận l m đệ tử tại gia sau nghi thức sám hối v lập
lại những lời một vị Tăng về quy y—To take refuge in the Triratna—An
admission of a lay disciple, after recantation of his previous wrong
belief and sincere repetition to the abbot or monk of the Three Refuges.
** For more information, please see Tam
Quy-Y in Vietnamese-English Section.
(II) Những
lời Phật dạy về Quy-Y trong Kinh Pháp Cú—The Buddha’s teachings on Taking
Refuge in the Dharmapada Sutra:
1) Vì sợ
hãi bất an m đến quy-y thần núi, quy-y rừng cây, quy-y miễu thờ thọ
thần—Men were driven by fear to go to take refuge in the mountains, in the
forests, and in sacred trees (Dharmapada 188).
2) Nhưng
đó chẳng phải l chỗ nương dựa yên ổn, l chỗ quy-y tối thượng, ai quy-y
như thế khổ não vẫn còn nguyên—But that is not a safe refuge or no such
refuge is supreme. A man who has gone to such refuge, is not delivered
from all pain and afflictions (Dharmapada 189).
3) Trái
lại, quy-y Phật, Pháp, Tăng, phát trí huệ chơn chánh—On the contrary, he
who take refuge in the Buddhas, the Dharma and the angha, sees with right
knowledge (Dharmapada 190).
4) Hiểu
thấu bốn lẽ mầu: biết khổ, biết khổ nhân, biết khổ diệt v biết tám chi
Thánh đạo, diệt trừ hết khổ não—With clear understanding of the four noble
truths: suffering, the cause of suffering, the destruction of suffering,
and the eighfold noble path which leads to the cessation of suffering
(Dharmapada 191).
5)
Đó l chỗ quy-y an ổn, l chỗ quy-y tối thượng. Ai quy-y
được như vậy mới giải thoát khổ đau—That is the secure refuge, the supreme
refuge. He who has gone to that refuge, is released from all suffering
(Dharmapada 192).
Quy Y Ngũ Giới: Nghi thức để
trở th nh một Phật tử tại gia—The ceremony which makes the recipient an
upasaka (Ưu b tắc—Male disciple) or upasika (Ưu b di—Female disciple).
Quy Y Pháp: Quy-y thọ
pháp—Harman-saranam-gacchami (skt)—Về nương với Phật Pháp—To take refuge
in the Dharma or to take refuge in the Dharma and receiving the law.
Quy Y Phật: Buddham-saranam
(skt)— Về nương với Phật— To take refuge in the Buddha.
Quy Y Tam Bảo:
(I) Ý
nghĩa của quy-y—The meanings of Taking Refuge:
1) Về
nương với Phật, Pháp, Tăng. Người th nh tâm quy y Tam Bảo sẽ không còn sa
v o các đường dữ nữa. Hết kiếp người sẽ được sanh v o các cõi trời—To take
refuge in the Triratna, or to commit oneself to the Triratna, i.e. Buddha,
Dharma, Sangha (Buddha, his Truth, and his Order)—To trust the Triratna
(Buddha—Dharma—Sangha)—Those who sincerely take refuge in Buddha, Dharma
and Sangha shall not go to the woeful realm. After casting human life
away, they will fill the world of heaven.
2) Đãõ l
Phật tử thì phải quy-y ba ngôi Tam Bảo Phật Pháp Tăng, nghĩa l cung kính
nương về với Phật, tu theo giáo pháp của Ng i, cũng như tôn kính Tăng Gi .
Phật tử thệ nguyện không quy y thiên thần quỷ vật, không thờ t giáo,
không theo tổn hữu, ác đảng. Quy y l trở về nương tựa. Có nhiều loại
nương tựa. Khi con người cảm thấy bất hạnh, họ tìm đến bạn bè; khi âu lo
kinh sợ họ tìm về nương nơi những niềm hy vọng ảo huyền, những niềm tin vô
căn cứ; khi lâm chung họ tìm nương tựa trong sự tin tưởng v o cảnh trời
vĩnh cửu. Đức Phật dạy, không chỗ n o trong những nơi ấy l những nơi
nương tựa thật sự cung ứng cho ta trạng thái thoải mái v châu to n thật
sự. Đối với người Phật tử thì chuyện quy-y Tam Bảo l chuyện cần thiết. Lễ
quy-y tuy l một hình thức tổ chức đơn giản, nhưng rất quan trọng đối với
Phật tử, vì đây chính l bước đầu tiên trên đường tu học để tiến về hướng
giải thoát v giác ngộ. Đây cũng l cơ hội đầu tiên cho Phật tử nguyện
tinh tấn giữ ngũ giới, ăn chay, tụng kinh niệm Phật, tu tâm, dưỡng tánh,
quyết tâm theo dấu chân Phật để tự giúp mình ra khỏi sanh tử luân hồi—Any
Buddhist follower must attend an initiation ceremony with the Three Gems,
Buddha, Dharma, and Sangha, i.e., he or she must venerate the Buddha,
follow his teachings, and respect all his ordained disciples. Buddhists
swear to avoid deities and demons, pagans, and evil religious groups. A
refuge is a place where people go when they are distressed or when they
need safety and security. There are many types of refuge. When people are
unhappy, they take refuge with their friends; when they are worried and
frightened they might take refuge in false hope and beliefs. As they
approach death, they might take refuge in the belief of an eternal heaven.
But, as the Buddha says, none of these are true refuges because they do
not give comfort and security based on reality. Taking refuge in the Three
Gems is necessary for any Buddhists. It should be noted that the
initiation ceremony, though simple, is the most important event for any
Buddhist disciple, since it is his first step on the way toward liberation
and illumination. This is also the first opportunity for a disciple to
vow to diligently observe the five precepts, to become a vegetarian, to
recite Buddhist sutras, to cultivate his own mind, to nurture himself with
good deeds, and to follow the Buddha’s footsteps toward his own
enlightenment.
i) Quy-y Phật l về nương tựa nơi Phật
Bảo, l vững lòng tu tập, tin tưởng để có thể trở nên giác ngộ như Đức
Phật: To take refuge in the Buddha is a confident acceptance of the fact
that one can become fully enlightened just as the Buddha.
ii)
Quy-y Pháp l về nương tựa nơi Pháp bảo, l học hiểu Tứ Diệu Đế, l đặt
trọn cuộc sống của mình trên con đường Bát Chánh Đạo: To take refuge in
the Dharma means understanding the Four Noble Truths and basing one’s life
on the Noble Eight fold Path.
iii) Quy-y
Tăng l về nương nơi Tăng bảo, l tìm sự hỗ trợ, hướng dẫn tu học Bát
Chánh Đạo từ các vị chân tu: To take refuge in the Sangha means looking
for support, inspiration and guidance from all who walk the Noble eight
fold Path.
(II) Nghi
thức quy-y—The Buddhist Initiation Ceremony:
1) Khung
cảnh lễ quy-y—The place for the Buddhist Initiation Ceremony: Nghi thức
quy-y nên tổ chức đơn giản, tùy theo ho n cảnh mỗi nơi. Tuy nhiên, khung
cảnh lễ cần phải trang nghiêm, trên l điện Phật, dưới có Thầy chứng tri,
chung quanh có sự hộ niệm của chư Tăng ni, các Phật tử khác, v thân bằng
quyến thuộc: The initiation ceremony must be simple, depend on the
situation of each place. However, it must be solemn. It is led by Buddhist
Master who would grace it by standing before the altar decorated with the
Buddha’s portrait, with the assistance of other monks and nuns, relatives,
and friends.
2) Về
phần bản thân của vị Phật tử quy-y cần phải trong sạch, quần áo chỉnh tề
m giản dị: As for the initiated, he must be clean and correctly dressed.
3) Lễ
quy-y—The Buddhist Initiation Ceremony: Đến giờ quy-y, theo sự hướng dẫn
của Thầy truyền trao quy-giới, phát nguyện tâm th nh, ba lần sám hối cho
ba nghiệp được thanh tịnh—Under the guidance of the Master, he must recite
three times the penance verses in order to cleanse his karmas.
i) Đệ tử xin suốt đời quy-y Phật, nguyện
không quy-y Thiên thần, quỷ vật: As a Buddhist disciple, I swear to follow
in Buddha’s footsteps during my lifetime, not in any god, deity or demon.
ii) Đệ
tử xin suốt đời quy-y Pháp, nguyện không quy-y ngoại đạo t giáo: As a
Buddhist disciple, I swear to perform Buddhist Dharma during my lifetime,
not pagan, heretic beliefs or practices.
iii) Đệ tử
xin quy-y Tăng, nguyện không quy-y tổn hữu ác đảng: As a Buddhist
disciple, I swear to listen to the Sangha during my lifetime, not evil
religious groups.
4) Đức
Phật đã nói, “Ta l Phật đã th nh, các người l Phật sẽ th nh.” Ý nói
trong chính chúng ta tiềm ẩn Phật tánh chưa được xuất hiện, nên khi ta đã
quy-y Tam Bảo bên ngo i, chúng ta cũng phải quy-y Tam Bảo trong tâm của
chúng ta, vì vậy chúng ta phải nguyện: The Buddha had said: “I am a
realized Buddha, you will be the Buddha to be realized,” meaning that we
all have a Buddha-nature from within. Therefore, after having taken the
initiation with the Three Gems, we must repeat the above vows, addressing
this time the inner Buddha, Dharma, and Sangha.
i) Đệ tử nguyện xin tự quy-y Phật (nghĩa
l Phật trong tâm): As a Buddhist disciple, I vow to take refuge in the
inner Buddha
ii) Đệ
tử nguyện xin tự quy-y Pháp (nghĩa l Pháp trong tâm): As a Buddhist
disciple, I vow to take refuge in the inner Dharma.
iii) Đệ tử
nguyện xin tự quy-y Tăng (nghĩa l Tăng trong tâm): As a Buddhist
disciple, I vow to take refuge in the inner Sangha.
** For more information,
please see Tam
Quy-Y in
Vietnamese-English Section.
Quy Y Tăng:
Sangham-saranam-gacchami—Take refuge in the Sangha.
Quy Y Thọ Pháp: See Quy Y Pháp.
Quý:
1) Đắc
giá: Dear—Precious.
2) Hổ
thẹn: Hổ thẹn vì việc l m xấu của người (đối với việc xấu mình l m m
không ai biết, tuy nhiên bản thân mình cảm thấy xấu hổ thì gọi l “T m.”
Đối với việc xấu mình l m m người khác thấy, mình thấy xấu hổ thì gọi l
“Quý” hay hổ thẹn)—Ashamed for the misdeeds of others.
3) Quý
trọng: To esteem—To reverence.
4) Tôn
quý: Honourable.
Quý Báu: Precious—Valuable.
Quý Khách: Honoured guests.
Quý Mến: To esteem.
Quý Nhân: Noble
person—Distinguished person.
Quý Phái: Aristocracy—Nobility.
Quý Tiện: Dear and cheap—Noble
and vile—Noble and base—Your and my.
Quý Tộc: Nobility—Aristocracy.
Quý Trọng: To esteem—To Admire
and respect. .
Quý Tử: Precious son.
Quý Tướng: Appearance (face) of
a noble person.
Quý Vật: Valuable things.
Quỳ: To go down on one’s
knees—To kneel.
Quỳ Bái: Quỳ lạy hay kỉnh lễ—To
kneel and worship, or pay respect.
Quỳ Hương: Một hình thức phạt
m người bị phạt phải quỳ cho đến khi t n một cây hương. Một v i loại
nhang cháy hết phải mất mấy giờ đồng hồ—A form of punishment where on has
to kneel until the incense burned out. Some incense takes several hours
before it burned out completely.
Quỳ Lô: Quỳ để dâng hương—To
kneel and offer incense.
Quỷ:
(I) Nghĩa
của quỷ—The meanings of preta:
1) Ma
quỷ: Preta (skt)—Tiếng Phạn l Lệ Tiết Đa, trước kia dịch l quỷ đói, nay
chỉ dịch l quỷ—Demon—Evil being—Disembodied spirit—Dead
person—Ghost—Devil—Departed—See Ngạ Quỷ.
2) Trục:
An axle.
3) Luật
lệ: A rule.
(II) Phân
loại quỷ (theo nghĩa #1)—Categories of pretas (according to the meaning of
#1):
A1) Tam Chủng Quỷ—Three
kinds of demons:
1) Cự
Khẩu Quỷ: Quỷ có miệng bốc lửa như ngọn đuốc—Ghosts with mouths like
burning torches.
2) Châm
Hầu Quỷ: Quỷ có cuống họng nhỏ như cây kim—Demons with throats no bigger
than needles.
3) Xú
Quỷ: Quỷ có hơi thở hôi thối—Demons with vile breath.
A2) Tam chủng quỷ—Other
three
classifications of demons:
1) Châm
Mao Quỷ: See Quỷ (4).
2) Xú Mao
Quỷ: See Quỷ (5).
3) Anh
Quỷ: See Quỷ (6).
A3) Tam chủng quỷ
khác—Other three
classifications of
demons:
1) Hy Từ
Quỷ: See Quỷ (7).
2) Hy Thí
Quỷ: See Quỷ (8).
3) Đại
Thế Quỷ: See Quỷ (9).
B) Cửu
Quỷ: Chín loại quỷ—Nine classes of demons—See Cửu Quỷ.
Quỷ Ám: Bị quỷ ám—To be
possessed by the devil.
Quỷ Bịnh: Bị ma quỷ ám v o
người m th nh bệnh—Sickness caused by demons or ghosts.
Quỷ Dục: The evil demon of
lust.
Quỷ Đạo: Đường quỷ, còn gọi l
Quỷ Thú. Trong lục đạo có hai loại quỷ—The way or destiny of yaksas,
raksasas and hungry ghosts, to follow devilish ways. There are two ways of
ghosts in the six ways:
1) Ngạ
quỷ: Hungry ghosts—See Ngạ Quỷ.
2) A Tu
La: Asuras—See A Tu La.
Quỷ Hỏa: Lửa của lo i
quỷ—Spirit lights.
Quỷ Kế: Wicked (evil) scheme.
Quỷ Kiến: Cái thấy biết của
lo i quỷ, ví với t giáo—Demon views, i.e. heterodox teaching.
Quỷ Lục: Tờ trát bằng sắt ghi
tội ở phủ Diêm Vương—The iron records, containing the sins of men in
Yama’s office in Hades.
Quỷ Môn: Cửa quỷ, cửa Đông Bắc
của nh ở v th nh quách, l nơi m quỷ có thể đến v đi—The northeast
corner of the house, through which the spirits can come and go.
Quỷ Phạm: Rule—Mode.
Quỷ Phạm Sư: Acarya (skt)—A X
Lê—Giáo thọ—A teacher of rules, disciplines, morals.
Quỷ Pháp Giới: Một trong mười
pháp giới chúng sanh, thế giới của lo i quỷ—The region or realm of demons,
one of the ten regions of existence—See Thập Giới (2).
Quỷ Quyệt:
Cunning—Crafty—Foxy—Clever.
Quỷ Th nh: Tên khác của th nh
C n Thát B (lầu do hơi nước biến th nh)—The demon-city, that of
Gandharvas.
Quỷ Thần:
1) Quỷ v
thần, từ dùng để gọi chung những người chết, cùng với quỷ, vá bát bộ Thần
như Thiên, Long, vân vân—Ghosts and spirits, a general term which includes
the spirits of the dead, together with demons, and the eight classes of
spirits, such as devas, nagas, etc—See Thiên Long Bát Bộ.
2)
a) Quỷ
diễn dịch cái gây nên sự ghê sợ: Preta is interpreted as “Causing fear.”
b) Thần
diễn dịch sự uy nghi mạnh mẽ: Spirits are interpreted as “Potent and
powerful.”
Quỷ Thần Thực Thời: Giờ ăn của
quỷ thần, thường về ban đêm hay chạng vạng tối—The time when the spirits
and ghosts feed, i.e. at night.
Quỷ Thuật: Magic.
Quỷ Thực Thời: See Quỷ Thần
Thực Thời.
Quỷ Tiên: Pretas or malevolent
rsis—Ghost genii.
Quỷ Trì: Biết luật v giữ luật
không sai chạy—A rule and its observance, to know the rule and hold it
without confusion with other rules or doctrines.
Quỷ Tử Mẫu: Hariti (skt)—Tiếng
Phạn gọi l Ha Lê Đế, l người đ n b thề ăn hết con nít trong th nh Vương
Xá, đã tái sanh l m Nữ La Sát, v sanh ra 500 con, rồi sau đó b tuần tự
mỗi ng y ăn mỗi đứa. Tuy nhiên sau nầy b quy-y với Đức Phật v đắc lực hộ
trì chư Tăng Ni cũng như tứ chúng, nhất l những người đ n b trong thời
kỳ sanh đẻ. Người ta thường thấy hình của b trong các ni viện—A woman
who has vowed to devour all the babies at Radjagriha, was reborn as
Rakshasi, and gave birth to 500 children, one of which she was to devour
every day. However, she was converted by Sakyamuni Buddha, she entered a
convent and became a protectress of Buddhism. Her image is to be seen in
all nunneries.
Quỷ Tử Mẫu Thần: Nữ Dạ Xoa ăn
thịt người—A Raksasi who devours men.
Quỷ Vương Ác Độc: The Ghost
King Evil Poison.
Quỷ Vương Ác Mục: Evil-Eyed
Ghost King.
Quỷ Vương Bạch Hổ: The White
Tiger Ghost King.
Quỷ Vương Chủ Cầm: The Lord of
Birds Ghost King.
Quỷ Vương Chủ Hao: The Bad News
Ghost King.
Quỷ Vương Chủ Hiểm: The Lord of
Danger Ghost King.
Quỷ Vương Chủ Họa: The Lord of
Calamities Ghost King.
Quỷ Vương Chủ Mạng: The Lord of
Life Ghost King.
Quỷ Vương Chủ Mị: The Lord of
Mountain Spirit Ghost King.
Quỷ Vương Chủ Sản: The Lord of
Birth Ghost King.
Quỷ Vương Chủ Súc: The Lord of
Domestic Animals Ghost King.
Quỷ Vương Chủ T i: The Lord of
Wealth Ghost King.
Quỷ Vương Chủ Tật: The Lord of
Sickness Ghost King.
Quỷ Vương Chủ Thú: The Lord of
Beasts Ghost King.
Quỷ Vương Chủ Thực: The Lord of
Food Ghost King.
Quỷ Vương Đa Ác: The Many-Evils
Ghost King.
Quỷ Vương Đại Tranh: The Great
Argument Ghost King.
Quỷ Vương Đạm (Dã) Thú: The
Ghost King Animal Eater—The one who eats tigers and other large beasts.
Quỷ Vương Đạm Huyết:
Blood-eating Ghost King.
Quỷ Vương Đạm Tinh Khí: Pisaci
(skt)— Essence-and-Energy-Eating Ghost King— Ghost King who eats the
essential energies of both people and plants—Đạm Tinh Khí Quỷ Vương l vua
quỷ người ăn tất cả tinh khí của người v cây cỏ. Người đã giết nhưng
không nhường những thịt kiếm được cho vợ mình, không cho ngay cả máu để
uống. Đã đối đãi với vợ con như vậy, chúng ta có thể tưởng tượng nó đối xử
với người khác như thế n o. Nó cực kỳ bỏn xẻn v kết quả l nó ăn tất cả
những bất tịnh nhục—The Ghost king who got his position because he liked
to kill but would not give the flesh of any animals he killed to his wife.
He would not even give her the blood to drink. Since he treated his own
wife this way, you can imagine how he treated other people. He extremely
stingy, and as a result, he has to eat the most unclean things.
Quỷ Vương Điển Quang: The
Lightning Flash Ghost King.
Quỷ Vương Huyết-Hổ: The Blood
Tiger Ghost King.
Quỷ Vương Lang Nha: The
Wolf-Tooth Ghost King.
Quỷ Vương Ngũ Mục: The Five-Eye
Ghost King.
Quỷ Vương Phi Thân: Flying Body
Ghost King.
Quỷ Vương Phụ Thạch: The Rock
Bearer Ghost King.
Quỷ vương Phúc Lợi: Thần T i,
nhưng trong Phật giáo, ông được liệt v o quỷ vương—The Blessings and
Profit Ghost King—Who is actually the spirit of wealth, but in Buddhism,
he is classified as a ghost king.
Quỷ Vương Tam Mục: The
Three-Eye Ghost King.
Quỷ Vương Tán-Ương: The Ghost
King who Brings Disasters.
Quỷ Vương Thiên Nhãn: The Ghost
King Thousand Eyes.
Quỷ Vương Thực Noãn: The Womb
and Egg-Eating Ghost King—The one who is responsible for miscarriages and
premature stillbirths.
Quỷ Vương Truyền Bịnh: The
Sickness-Spreading Ghost King—Quỷ vương chạy vòng vòng truyền bịnh v dịch
tật cho chúng sanh—The one who runs about spreading diseases and
encouraging epidemics.
Quỷ vương Tụ Độc: The
Poison-Gathering Ghost King—Người l hóa thân của Bồ Tát, người đã cứu
chúng sanh bằng cách gom góp hết tất cả những độc hại của ph m nhân—The
beneficial ghost king, he is really a transformation body of a
Bodhisattva. He rescues living beings by gathering the poison which they
have contracted.
Quỷ Vương Tứ Mục: The Four-Eye
Ghost King.
Quỷ Vương Từ Tâm: The
Kindhearted Ghost King—One who leads other ghosts to resolve their
thoughts on enlightenment.
Quỷ Vương Tỳ Xá Da: Pisaca
(skt)—A type of evil god that sucks blood and eats phlegm—Lo i quỷ dữ
chuyên hút máu v ăn tinh khí—See Quỷ vương Đạm Tinh Khí in
Vietnamese-English Section.
Quỷ Vương Vô Độc: The
Poisonless Ghost King.
Quỷ Vương Xích Hổ: The Crimson
Tiger Ghost King.
Quỹ:
1) Cái
tủ: A cupboard—A bureau.
2) Ngân
quỹ: Funds—Treasure.
Quỹ Đầu: Người giữ cửa tiệm—A
storekeeper.
Quỵ:
1) Quỳ
gối: To kneel.
2) Té
quỵ: To fall on one’s knees.
Quyên: To subscribe to a
charity—To collect money for a charity purpose.
Quyên Góp: Fund raising.
Quyên Tiền: To subscribe
money—To take up a collection.
Quyên Trợ: To subscribe money.
Quyến Dụ: To lure—To attract—To
seduce—To entice.
Quyến Luyến: To attach—To love.
Quyến Rũ: To Allure—To lure—To
enchant—To seduce—To attract.
Quyến Thuộc: B con dòng họ,
đặc biệt nói về quyến thuộc của chư Thiên hay chư
Phật—Relatives—Family—Retinue, retainers, especially the rtinue of a god,
Buddha, etc.
Quyền:
1) Quyền
hạn: Authority—Power.
2) Quyền
(tạm): Conditional—Diferential—Temporary—Functional.
3) Trong
kinh điển Phật, quyền được dùng như phương tiện tạm thời, đối lại với
thực: In Buddhist scriptures, it is used like expediency or temporary; it
is adversative of “true” or “permanent.”
Quyền Bất Khả Xâm Phạm: Freedom
from arrest.
Quyền Bi: Lòng đại bi của chư
Phật khởi lên đối với chúng sanh—Pity in regard to beings in time and
sense, arising from the Buddhas.
Quyền Biến: To adapt (adjust)
oneself to.
Quyền Biểu Quyết: Deliberation
voice.
Quyền Cao: Supreme authority.
Quyền Đại Thừa: Những trường
phái “Thông” v “Biệt” giáo trong Đại thừa (Pháp Tướng v Tam Luận), đối
lại với Thực Đại Thừa như những tông Hoa Nghiêm v Thiên Thai, chủ trương
hết thảy chúng sanh đều có khả năng th nh Phật—The temporal or partial
schools of Mahayana, in contrast with the schools which taught universal
Buddhahood, e.g. Hua-Yen and T’ien-T’ai schools.
Quyền Giả: Một vị Phật hay Bồ
Tát mang tạm thân trần tục để cứu độ chúng sanh—A Buddha or a Bodhisattva
who has assumed a temporary form in order to aid beings—See Quyền Hóa.
Quyền Giáo: Còn gọi l Thiên
Giáo hay giáo pháp phương tiện tạm thời, chuẩn bị cho thực giáo. Một từ
phân biệt của tông Thiên Thai v Hoa Nghiêm, coi ba giáo Tạng, Thông v
Biệt l quyền giáo, chuẩn bị cho Viên giáo hay Thực giáo—Knowledge of the
realtive—Temporal, expedient, or functional teaching, preparatory to the
perfect teaching, a distinguishing term of the T’ien-T’ai and Hua-Yen,
i.e. the teachings of the three previous periods of pitaka, general, and
different, teachings which were regarded as preparatory to their own.
** For more information,
please see Thiên
Giáo in
Vietnmaese-English Section.
Quyền Hạn: Within competence
(authority).
Quyền Hiện: Tạm thời phương
tiện hiện ra để cứu độ chúng sanh—Temporary manifestation for saving
beings—See Quyền Hóa.
Quyền Hóa: Quyền Giả—Hóa
Giả—Phật lực hay Bồ Tát lực có thể tự hóa th nh bất cứ thân trần tục n o
để cứu độ chúng sanh—The power of Buddhas and Bodhisattvas to transform
themselves into any kind of temporal body in order to aid beings.
Quyền Lợi: Right—Interest.
Quyền Lực: Power and influence.
Quyền Lý: Partial or incomplete
truth.
Quyền Môn: Những tông phái nhấn
mạnh đến việc dùng phương tiện để cứu độ chúng sanh—The sects which
emphasize temporary methods or expedients for saving beings.
Quyền Mưu: Những phương tiện
tạm thời thích hợp với nhu cầu cứu độ chúng sanh—Temporary plans, methods
suited to immediate needs—See Quyền Phương Tiện.
Quyền Năng: Power and capacity.
Quyền Phương Tiện: Quyền mưu
nhất thời của chư Phật v chư Bồ Tát, dùng phương tiện để cứu độ chúng
sanh—Expedients of Buddhas and bodhisattvas for saving all beings.
Quyền Quý: Noble.
Quyền Thế: Power and
influence—Authority.
Quyền Thực: Quyền pháp v thực
pháp—Temporal and real.
1) Quyền:
Pháp tạm thời thích ứng với nghi
cơ—Conditional—Functional—Temporary—Provisional.
2) Thực:
Pháp cứu cánh bất biến—Fundamental—Absolute—Real—Perfect.
Quyền Thực Bất Nhị Môn: Quyền
v thực không hai, m l bổ khuyết cho nhau—The two divisions of
provisional and the perfect, are not two but complementary.
Quyền Thực Nhị Trí: Thực trí v
quyền trí (Phật pháp chẳng ra khỏi quyền thực nhị trí)—The knowledge or
wisdom of reality and that of relative—See Thực Trí, and Quyền Trí.
Quyền Tích: Temporary traces,
evidences of the incarnation of a Buddha in human form.
Quyền Trí: Phật trí hiện tượng,
ngược với Phật trí tuyệt đối hay thực trí (thông đạt về thực tướng của chư
pháp)—Buddha-wisdom of the phenomenal, in contrast with knowledge of the
fundamental or absolute.
** For more information,
please see Thực Trí.
Quyền Tuyệt Đối: Absolute
power.
Quyền Tự Quyết: Right of
self-determination.
Quyền Uy: Authority.
Quyền Ưu Tiên: Priority.
Quyết Chí: To resolve—To
determine.
Quyết Chí Tu H nh: To determine
to cultivate the dharma.
Quyết Định: To be determined—To
make up one’s mind—Fixed and settled—To decide.
Quyết Liễu: Decided.
Quyết Lòng: See Quyết Chí.
Quyết Nghi: Giải quyết những
nghi hoặc—To resolve doubts—Doubts solved.
Quyết Tâm: Resolute mind.
Quyết Tâm Sắt Đá: Adamantine
determination.
Quyết Thắng: To resolve to win.
Quyết Tình: To be determined
to.
Quyết Trạch: Quyết đoán v lựa
chọn (chỉ có Thánh đạo mới giúp được ta quyết đoán ho i nghi v biện biệt
Tứ Đế)—Deciding and choosing (only Holy Way or Buddhism can help us decide
doubts and distinguish the Four Noble Truths).
Quyết Tử Vì Lý Tưởng: To
decide to die for a good cause.
Quyết Tử Vì Sự Tồn Vong Của Đạo Pháp:
To decide to die for the survival of the (one’s) religion.
Quyết Ý: See Quyết Chí.
Quýnh: To be overjoyed—To be
excited with joy.
Quỳnh Chi Ngọc Diệp: Jade
branches and leaves (talk of imperial descendants).
Quỵt: To refuse to pay.
Quỵt Nợ: To refuse to pay a
debt.
---o0o---
Mục Lục Tự điển Phật Học
Việt-Anh
|
A
|
Ba |
Be |
Bi |
Bo |
Bu
| Ca
| Ch
| Co |
Cu
|
D
|
Đa
| Đe |
Đi |
Đo |
Đu
|
| E
|
G
|
Ha |
He |
Hi |
Ho |
Hy
|
I
| K
| La |
Le |
Li |
Lo |
Lu |
Ly
|
|
Ma
| Me |
Mi |
Mo |
Mu, My
|Na
| Ne |
Ng |
Nh
| Ni
| No
| Nu
|
| O
| Pha |
Phe
| Phi |
Pho |
Phu
| Q
| R
| S
| Ta |
Te |Tha
| Thă, Thâ |
| The |
Thi |
Tho |
Thu |
Ti |
To |
Tr |
Tu |
Ty
| U
| V
| X
| Y|
---o0o---
Mục Lục |
Việt-Anh | Anh -Việt |
Phạn/Pali-Việt
| Phụ Lục
---o0o---
Trình b y: Minh Hạnh & Thiện Php
Cập nhật: 3-24-2006