TỔ ĐÌNH MINH ĐĂNG QUANG
PHẬT HỌC TỪ ĐIỂN
BUDDHIST DICTIONARY
VIETNAMESE-ENGLISH
THIỆN PHÚC
Lu
Lu Mờ: To be on the
decline—To eclipse.
Lú: Dull-brained.
Lũ Lượt: In crowds.
Luân: Cakra
(skt)—Tra Yết La—Bánh xe—Wheel—Disc—Rotation—To revolve (v).
** For more information, please see Tam Luân, Ngũ Luân and Cửu Luân.
Luân Bảo: Bánh xe
báu của Chuyển Luân Thánh Vương, giúp ngài du hành các nơi để hàng phục
chúng sanh. Có bốn loại bằng vàng, bạc, đồng và sắt—A Cakravatin’s wheel,
either gold, silver, copper or iron, manifesting his rank and power:
1)
Kim Luân Vương: Cakravatin’s Gold Wheel.
2)
Ngân Luân Vương: Cakravatin’s Silver Wheel.
3)
Đồng Luân Vương: Cakravatin’s Copper Wheel.
4)
Thiết Luân Vương: Cakravatin’s Iron Wheel.
Luân Chuyển:
1)
Xoay vòng: To rotate.
2)
Luân Chuyển trong Ba Cõi Sáu Đường: Samsara (skt)—The turning of
the wheel—Transmigration in the three realms and six ways.
3)
Bánh Xe Luân Hồi: The wheel of transmigration.
4)
Vòng sanh Tử: The round of existence.
Luân Duyên: See
Luân Mãn.
Luân Đa Lợi Hoa:
1)
Một loại ngọc quí thanh tịnh: A precious pearl that purifies.
2)
Một loại hoa Luân Đa Lợi có mùi thơm: A specially fragrant flower.
Luân Đóa: Vành tai
tròn đầy, một trong những tướng hảo của Phật—Ears round and full, a mark
of a Buddha.
** For more information,
please see Tam Thập Nhị Hảo Tướng
Của Phật.
Luân Hoàn: To turn
around.
Luân Hồi:
Samsara—To revolve—To turn around the wheel of life.
Luân Hồi Là Niết Bàn,
Niết Bàn Là Luân Hồi: Reincarnation.
·
Luân là bánh xe hay cái vòng, hồi là trở lại; luân hồi là
cái vòng quanh quẩn cứ xoay vần: Reincarnation means going around as the
wheel turns around.
·
Thế giới nầy là Ta bà hay Niết bàn là hoàn toàn tùy thuộc
vào trạng thái tâm. Nếu tâm giác ngộ thì thế giới nầy là Niết bàn. Nếu tâm
mê mờ thì lập tức thế giới nầy biến thành Ta Bà—Whether the world is
Samsara or Nirvana depends entirely on our state of mind. If our mind is
enlightened, then this world is Nirvana; if our mind is unenlightened,
then this world is Samsara.
·
Với những ai biết tu thì ta bà là Niết Bàn, và Niết Bàn là
ta bà: For those who strive to cultivate, samsara is Nirvana, Nirvana is
samsara.
Luân Hồi Sanh Tử:
Samsara (p & skt)— The cycle of births and deaths (birth, deah, and
rebirth)—Luân hồi sanh tử trong đó chúng sanh cứ lập đi lập lại sanh tử tử
sanh tùy theo nghiệp lực của mình—The state of transmigration or samsara,
where beings repeat cycles of birth and death according to the law of
karma.
Luân Lưu: In
turn—By turns.
Luân Lý: Moral.
Luân Lý Phật: The
Buddha moral code
Luân Mãn: Luân
Duyên—Vành xe hay vỏ xe—A felly or tire.
Luân Phiên: In
turn—By turns—Alternate—To take turns (a rotation of duties).
Luân Phúc: Căm
xe—Wheel-spokes.
Luân Tạng: Luân
Tạng được xây giữa tầng tháp lớn với một cái trụ mở ra tám mặt, treo tất
cả các bộ kinh lên đó, và làm bánh xe xoay vòng xung quanh, mỗi vòng quay
là có công đức như đọc kinh (đây là phát kiến của Phó Đại Sĩ đời nhà
Lương)—Revolving scriptures—A revolving stand with eight faces,
representing the sacred canon—A praying wheel, the revolving of which
brings as much merit to the operator as if he had read the whole
scriptures.
Luân Tề: Trục hay
trung tâm bánh xe—The navel or hub of a wheel.
Luân Thường:
Morals.
Luân Tọa: Chỗ ngồi
của vị Chuyển Luân Thánh Vương hay Phật—The throne of a Cakravatin or a
Buddha.
Luân Tướng: Vầng
lọng trên đỉnh tháp, hoặc dưới chân của Chuyển Luân Thánh Vương hay Phật
(vòng lộng thường có chín tầng gọi là cửu luân)—The wheel sign, on the top
of a pagoda, or on the feet of a cakravartin or Buddha.
** For more information,
please see Cửu Luân.
Luân Vi Sơn:
Cakravala (skt)—Hai vòng núi đồng tâm tạo nên chu vi của thế giới—The
double concentric circles of mountains forming the periphery of a world.
Luân Viên Cụ Túc:
Mạn Đồ La như chiếc bánh xe (có đầy đủ vành, trục, nan hoa, tròn trịa đầy
đủ), nói về công đức viên mãn của chư Phật không một chút khiếm khuyết
(tập trung tất cả công đức chư Phật vào Mạn Đồ La để cho chúng sanh bước
vào Phổ Môn)—A complete Mandala showing the Buddhas and others,
symbolizing their works—A magic circle.
Luân Vương:
Cakravartin (skt).
1)
Tiếng Phạn là Chước Ca La Đại Cức Để Hạt La Xà hay Giá Ca Việt
La—C(h)akravartin (skt).
2)
Vị Chuyển Luân Vương vận chuyển luân bảo đi khắp nơi không trở ngại
để hàng phục bốn phương—A ruler of the wheels of whose chariot roll
everywhere without obstruction.
3)
Vị quốc vương tối thượng cai trị thế giới—An emperor, a sovereign
of the world, a supreme ruler.
4)
Đức Phật với giáo thuyết phổ cập và pháp giới của Ngài—A Buddha
whose truth and realm are universal (Buddha as universal spiritual king).
5)
Dấu hiệu của Luân Vương là một cái dĩa gồm bốn thứ theo thứ tự—The
symbol is the cakra or disc, which is of four kinds indicating the rank:
·
Kim Luân Vương: Gold cakra.
·
Ngân Luân Vương: Silver cakra.
·
Đồng Luân Vương: Copper cakra.
·
Thiết Luân Vương: Iron cakra.
**For more information, please see Luân Bảo.
Luận:
1)
(v)—To comment—To discuss—To discourse upon—To reason over.
2)
(n)—Sastra (skt)—Abhidharma—Upadesa—Discourses—Treatises on
dogma—Philosophy—Discussions—Commentaries.
3)
Luận Tạng: See Luận A Tỳ Đạt Ma Câu Xá in Vietnamese-English
Section, and Abhdharma in Sanskrit/Pali-Vietnamese Section.
Luận A Tỳ Đạt Ma Câu
Xaù: Abhidharmakosa-Bhasya-Sastra—Bộ Luận “Kho Tàng Pháp Bảo” được
Ngài Thế Thân soạn vào thế kỷ thứ năm sau Tây lịch. Đây là bộ luận quan
trọng nhất, giải thích đầy đủ về tông phái Nhất Thiết Hữu Bộ của Phật giáo
Tiểu Thừa, được Ngài Huyền Trang dịch sang Hoa ngữ—The sastra of “Treasure
Chamber of the Abhidharma” composed by Vasubandhu in the fifth century AD.
This is the most important compilation of the Sarvastivada (Hinayana)
teaching. It was translated into Chinese by Hsuan-Tsang.
Luận Án:
Dissertation—Thesis.
Luận Bàn: To
discuss—To comment.
Luận Biện Trung Biên:
Madhyantavibhaga Sastra—Bộ Luận được Ngài Thế Thân soạn về Đức Phật Di
Lặc—The sastra was composed by Vasubandhu on the Coming Buddha, Maitreya.
Luận Câu Xá:
Abhidharma Kosasastra.
Luận Cứu Cánh Nhất Thừa
Bảo tánh Luận: Ratnagotravibhagamahayanottara sastra—Bộ Luận Do Nặc Na
Ma Đề soạn về Như Lai tạng trong Phật giáo Đại Thừa—The sastra was
composed by Ratnamati on the Tathagatagarbha in Mahayana Buddhism.
Luận Du Già Sư Địa:
Yogacarabhumi Sastra—Bộ Luận được Ngài Di Lặc thuyết giảng và Ngài Huyền
Trang dịch, nói về giáo lý căn bản của phái Du Già hay Duy Thức—The sastra
was expounded by Maitreya and translated into Chinese by Hsuan-Tsang,
about the doctrine of the Yogacara or Vijnanavada.
Luận Duy Thức Nhị Thập:
Vimsatika Sastra—Bộ Luận được Ngài Thế Thân soạn về Giáo Lý Duy Thức—The
sastra was composed by Vasubandhu on the General Teaching of
Consciousness.
Luận Duy Thức Tam Thập
Tụng: Trimsika Sastra—Bộ Luận được Ngài Thế Thân soạn về 30 câu kệ của
giáo lý Duy Thức—The sastra was composed by Vasubandhu on the thirty
stanzas of the Teaching of Consciousness.
Luận Đại Thừa Khởi Tín
Luận: Mahayana-Sraddhotpada-Sastra, được Bồ tát Mã Minh soạn về lý
thuyết và thực hành tinh yếu trong trường phái Đại Thừa—The sastra was
composed by Asvaghosa, basic doctrines and practices in Mahayana.
Luận Đại Thừa tập Bồ
tát Học: Siksasamuccaya Sastra—Bộ luận nói về giáo lý để tu tập Bồ
Tát, được Ngài Pháp Xứng soạn—The sastra was composed by Dharmakirti about
the doctrine and practices for Bodhisattvas.
Luận Đại Thừa Thành
Nghiệp: Karmasiddhiprakarana sastra—Bộ Luận được Ngài Thế Thân soạn về
những hành vi của nhân loại—The sastra was composed by Vasubandhu on human
beings’ deeds.
Luận Đại Thừa Trang
Nghiêm: Mahayana-sutra-lamkara—Bộ Luận được Ngài Vô Trước soạn về
những câu kệ của Ngài Di Lặc—The sastra was composed by Asanga on
Maitreya’s gatha (metrical hymn).
Luận Đàm: To
converse.
Luận Điểm Phật Pháp:
From the view point (point of view) of the Dharma.
Luận Gia:
Sastra-writers—Interpreters—Philosophers.
Luận Giải: To
comment and explain.
Luận Khởi Tín Đại Thừa:
The treatise on the Awakening of Faith.
Luận Kim Cang Châm:
Vajrasuci Sastra—Luận được soạn bởi Ngài Pháp Xứng, phê phán nghiêm khắc
kinh Vệ Đà và địa vị tối thượng của Phạm Thiên—The sastra was composed by
Dharmakirti, seriously criticized about the Veda sutra and the supreme
position of Braham in Hinduism.
Luận Nghị: Upadesa
(skt)—Luận về bộ kinh thứ 12 trong số 12 bộ kinh Phật—Dogmatic treatises,
the twelve and the last section of the canon.
Luận Nhiếp Đại Thừa:
Mahayanasamgraha Sastra—Bộ Luận được Ngài Vô Trước soạn về Phật Giáo Đại
Thừa—The sastra was composed by Asanga on the Mahayana Buddhism.
Luận Nhơn Minh Nhập
Chánh Lý: Nyayapravesa Sastra—Bộ Luận được Ngài Do Thương Kiết La Chủ
soạn, nói về Luận Lý học—The sastra was composed by Sankarasvamin, written
on “Introduction to Logic.”
Luận Phật Địa Kinh:
Buddhabhumisutra-sastra—Bộ Luận chú giải về Kinh Phật Địa, được Ngài Thân
Quang Đẳng soạn và Ngài Huyền Trang dịch sang Hoa ngữ—The sastra explained
the Buddhabhumi Sutra, composed by Bandhuprabha. It was translated into
Chinese by Hsuan-Tsang.
Luận Sa Môn Bất Kính
Vương Giả: Ordained Buddhists do not have to honor royalty—Thời vua An
Đế nhà Tấn, vua xa giá từ Giang Lăng đến Giang Tây, quan Trấn Nam là Hà Vô
Kỵ yêu cầu Đại Sư Huệ Viễn đích thân xuống núi nghinh tiếp đức vua. Đại sư
lấy cớ đau yếu, khước từ không bái yết. Đến năm Nguyên Hưng thứ hai, quan
Phụ Chánh Hoàn Huyền lại gởi cho Đại sư Huệ Viễn một văn thơ, trong đó có
nhiều lý luận bắt buộc hàng Sa Môn phải lễ bái quốc vương. Đại sư soạn văn
thư phúc đáp và quyển “Sa Môn Bất Kinh Vương Giả Luận” gồm 5 thiên được
thành hình để hồi âm. Triều đình xem xong rất lấy làm nể trọng và phải
chấp nhận quan điểm của ngài—During the time of Emperor An Đế, the emperor
traveled from the Giang Lăng region to Jiang-Tsi; the Great General of the
North named Hà-Vô-Kỵ requested the Great Master to descend the mountain to
welcome the Emperor. The Great Master used the excuse he was ill and weak
to decline this request. Then the second year of Nguyên Hưng reign
period, Magistrate Hoàn Huyền once again sent the Greta Master another
document. In it this magistrate gave many reasons why Buddhist Monks must
bow and prostrate to the emperor. In response, the Great Master wrote a
letter and the book with five volumes titled “Ordained Buddhists Do Not
Have To Honor Royalty.” After the imperial court reviewed his writing,
they highly repsected im and had no choice but to honor his views.
**For more information,
please see Huệ Viễn.
Luận Sớ: Phần giảng
giải và phê bình Luận Tạng—Sastras with commentary.
Luận Sư: See Luận
Gia.
Luận Tạng:
Abhidharma-Pitaka (skt)—A Tỳ Đạt Ma Tạng—Ưu Bà Đề Xá Tạng (Upadesa)—Luận
Tạng là một trong ba tạng kinh điển. Luận Tạng bao gồm phần giải thích và
biện luận kinh điển hay những lời Phật dạy. Luận Tạng đầu tiên được mọi
người công nhận là của ngài Đại Ca Diếp, một đệ tử của Phật biên soạn,
nhưng mãi về sau nầy mới hoàn thành. Bộ Luận tạng Hoa Ngữ gồm ba
phần—Thesaurus of discussions or discourses, one of the three divisions of
the Tripitaka. It comprises the philosophical works. The first compilation
is accredited to Maha-Kasyapa, disciple of Buddha, but the work is of a
later period. The Chinese version is in three sections:
1)
Đại Thừa Luận: The Mahayana Philosophy.
2)
Tiểu Thừa Luận: The Hinayana Philosophy.
3)
Tống Nguyên Tục Nhập Tạng Chư Luận (960-1368 sau Tây Lịch): The
Sung and Yuan Addenda (960-1368 AD).
Luận Thành Duy Thức:
Vijnaptimatratasddhi-sastra—Bộ Luận do Ngài Hộ Pháp Đẳng soạn về Tông phái
Du Già và A Lại Da Thức—The sastra was composed by Dharmapala on the
explanation about Yogacara and Alaya Consciousness.
Luận Thập trụ Tỳ Bà Sa:
Dasabhumika-Vibhasa-Sastra—Bộ Luận bàn về Thập Địa Phẩm, một chương quan
trọng nhất trong Kinh Hoa Nghiêm, nói về hai giai đoạn đầu của quả vị Bồ
Tát, đã tạo ảnh hưởng rất lớn với sự phát triển của các trường phái Tịnh
Độ Trung Hoa. Cưu Ma La Thập dịch sang Hoa ngữ—The sastra was composed by
Nagarjuna, discussed and explained the course of the development (ten
stages) of a bodhisattva, one of the most important chapter in Avatamsaka
Sutra, was the doctrinal basic of the early Chinese Pure Land schools. It
was translated into Chinese by Kumarajiva.
Luận Thuyết:
Argumentation.
Luận Tông: Tông
phái Tam Luận—The Madhyamaka school of the San-Lun (Sanron)—The Abhidharma
or sastra school.
Luận Trí Độ: The
Perfection of Wisdom Treatise.
Luận Trung Quán:
Madhyamaka Sastra (skt)— The Treatise on the Middle way or the Guide-Book
of the School of the Middle Way—Bộ Trung Luận do Bồ Tát Long Thọ soạn,
nhấn mạnh vào giáo lý Trung Đạo, giáo lý căn bản của trường phái Trung
Quán của Phật giáo Đại thừa Ấn Độ. Theo Trung Quán, nghĩa chân thật của
Tánh Không là Phi Hữu hay không thực chất—The sastra was composed by
Nagarjuna. It stressed on the teaching of the Middle Way, the basic
teaching of the Madhyamika school of the Indian Mahayana Buddhism.
According to the Madhyamaka Sastra, the true meaning of Emptiness
(Sunyata) is non-existence, or the nonsubstantiveness.
Luận Vãng Sanh:
Rebirth Treatise—Commentary on the Longer Amitabha Sutra—Treatise on the
Pure Land.
Luật: Vinaya or
Uparaksa (skt)—Tiếng Phạn là Ưu Bà La Xoa hay Tỳ Ni, dịch là “luật” hay
“giới luật.” Tên khác của Ba La Đề Mộc Xoa, tức là những quy luật của cuộc
sống trong tự viện. Đây cũng là một trong ba tạng kinh điển. Người ta nói
Ngài Ưu Ba Ly đã kết tập đầu tiên—Disciplines—Law—Rule—Other name for
Pratimoksa, sila, and upalaksa. The discipline, or monastic rules; one of
the three divisions of the Canon, or Tripitaka, and said to have been
compiled by Upali—See Pratimoksa, and Vinaya in Sanskrit/Pali-Vietnamese
Section.
Luật Biến Đổi: The
law of transformation.
Luật Hành: Sự thi
hành giới luật—The discipline in practice, to act according to the rules.
Luật Lệ: Rules and
regulations.
Luật Nghi: Luật
pháp và quy tắc cho phép người Phật tử thuần thành hành động đúng trong
mọi hoàn cảnh (pháp điều tiết thân tâm để ngăn ngừa cái ác gọi là luật,
pháp giúp thích ứng với phép tác chân chính bên ngoài gọi là nghi)—Rules
and ceremonies, an intuitive apprehension of which, both written and
unwritten, enables devotees to practice and act properly under all
circumstances.
Luật Nghi Giới:
Phần đầu trong Tam Tụ Tịnh Giới—The first of the three collections of pure
precepts—See Tam Tụ Tịnh Giới (1).
Luật Nhơn Quả:
Karma law—The law of causality—Law of Cause and Effect.
Luật Nhân Quả Hiển
Nhiên Không Thể Nghi Ngờ Hay Nghĩ Bàn: The truth of the law of Cause
and Effect is self-evident, beyond doubt and inconceivable.
Luật Phái: Trường
phái Luật tông—The discipline branch or school—See Luật Tông.
Luật Pháp: The laws
or methods of the discipline; rules and laws.
Luật Sám: Phép sám
hối mà giới luật đã trình bày—Repentance and penance according to the
rules.
Luật Sư: Vị thầy
giỏi giải thích về giới luật, nghĩa là biết được sự hành trì của luật,
khéo giải thích khiến người nghe dễ hiểu và hành trì theo—Master and
teacher of the rules of the discipline.
Luật Tạng: Bộ tạng
Luật, một phần trong ba bộ kinh điển—The Vinaya-pitaka, one of the three
divisions of the Canon, or Tripitaka—See Vinaya in
Sanskrit/Pali-Vietnamese Section.
Luật Thiên Nhiên:
Natural Law.
Luật Thiền: Hai
tông phái Luật tông và Thiên tông—The two schools of Discipline and
Intuition.
Luật Thiện Kiến Tỳ Bà
Sa: Samantapasadika-Vinaya—Bộ Luật nói về những giới luật cho các Tăng
sĩ thuộc phái Thượng Tọa Bộ, được Ngài Tăng Già Bạt Đà La dịch ra Hán
tự—The Vinaya-Pitaka stressed on moral codes for the monks and nuns in the
Theravada. It was translated into Chinese by Samghabhadra.
Luật Thừa: Cỗ xe
giới luật, hay tông phái của giới luật. Giáo thuyết dạy về tu hành giải
thoát bằng cách hành trì giới luật, hay nương theo tạng luật để tu hành
giải thoát—The Vinaya-vehicle, the teaching which emphasizes the
discipline.
Luật Tông:
Vinayisme (skt)—The Vinaya school—Luật Tông là một nhánh Phật Giáo thoát
thai từ phái Hóa Địa Bộ (Mahishasaka) và trở thành một bộ phận lớn của
nhóm Sthavira, được sư Dharmagupta, người Tích Lan thành lập. Tuy nhiên,
có nhiều người cho rằng người đầu tiên sáng lập ra Luật Tông tại Ấn Độ
chính là ngài Ưu Ba Ly, một trong mười đệ tử lớn của Đức Phật. Ngài nổi
tiếng với tác phẩm Luật Tứ Phần. Luật tông phát triển nhiều nhất ở miền
nam Ấn Độ. Luật Tông là trường phái mà chủ thuyết dựa vào luật nghi tu
hành của cuộc sống trong tự viện, một trường phái Phật giáo lớn của Trung
Quốc và Nhật, nhấn mạnh đặc biệt việc tuân thủ nghiêm ngặt các qui tắc
được Luật tạng đề ra. Tại Trung Quốc, Luật tông được ngài Đạo Tuyên sáng
lập vào đời nhà Đường (theo tông nầy thì người ta chỉ cần tinh chuyên hành
trì giới luật là được giải thoát, vì giữ giới trì luật mà sanh định, nhờ
định mà sanh huệ). Văn bản chính yếu của phái nầy là “Tứ Phần Luật”
—Vinaya school, or Discipline school, or Dhammaguttika literally means
“protector of the teaching;” Buddhist school belonging to the larger
grouping of Sthaviras. Developed out of the Mahishasaka school. It was
founded by the Sinhalese monk Dhammagupta and was prevalent primarily in
Southern India. However, Buddhist scholars believe that the founder of the
school was Upali, one of the ten great disciples of the Buddha. He is
known as the author of the “The Discipline of Four Divisions.” Vinaya
School emphasizes the monastic discipline, a major school of Buddhism in
China and Japan that primarily stresses strict observance of the rules
laid down in the Vinaya-pitaka. The school was founded in China by
T’ao-Hsuan of the T’ang dynasty. The main text of this school is the Four
Parts of “Vinaya-Pitaka.”—See Luật Tứ Phần.
Luật Tứ Phần:
Dharmaguptaka-Vinaya—Bộ Luật Phật giáo, gồm 250 giới Tỳ Kheo và 348 giới
Tỳ Kheo Ni. Bộ Luật được các Ngài Phật Da Xá và Trúc Phật Niệm dịch sang
Hán tự—Buddhism vinaya contains 250rules for monks and 348 for nuns. It
was translated into Chinese by Buddhayasas and Chu-Fo-Nien—See Luật
Tông.
Luật Tướng: Pháp
tướng của giới luật—The discipline or its characteristics.
Luật Tỳ Kheo: Luật
dành riêng cho Tỳ Kheo trong tịnh xá, riêng biệt cho chư Tăng và chư
Ni—Monastic disciplinary text included in the Vinaya and preserved in
separate version for monks and nuns—For more information, please see
Pratimoksa in Pali/Sanskrit Section.
Luật Tỳ Kheo Ni:
See Pratimoksa in Pali/Sanskrit Section.
Lúc: Moment—When.
Lúc Ấy: At that
moment (juncture).
Lúc Đầu: At the
beginning.
Lục: Sat or Sad
(skt)—Sáu—Six.
Lục Ái Thân:
Tanha-kaya (p)—Theo Kinh Phúng Tụng trong Trường Bộ Kinh, có sáu ái
thân—According to the Sangiti Sutta in the Long Discourses of the Buddha,
there are six groups of craving:
1)
Sắc Ái: Craving for sights.
2)
Thanh Ái: Craving for sounds.
3)
Hương Ái: Craving for smella.
4)
Vị Ái: Craving for tastes.
5)
Xúc Ái: Craving for touches.
6)
Pháp Ái: Craving for mind-objects.
Lục Ba: The six
paramitas—See Lục Độ Ba La Mật.
Lục Ba La Mật: The
six paramitas—See Lục Độ Ba La Mật in Vietnamese-English Section.
Lục Ban Thần Túc:
Còn gọi là Lục Thoại (Thụy) hay sáu điềm lành xuất hiện khi Đức Phật
thuyết Kinh Pháp Hoa, vì do thần cảnh thông của Phật xuất hiện ra nên gọi
là thần túc—The six supernatural signs—See Lục Thoại.
Lục Báo: Six
retributions—Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, quyển Tám, Đức Phật đã nhắc nhở
ngài A Nan về Lục Báo như sau: “Ông A Nan! Chúng sanh vì lục thức tạo
nghiệp, bị chiêu lấy ác báo theo sáu căn ra.”—In the Surangama Sutra, book
Eight, the Buddha reminded Ananda about the six retributions as follows:
“Ananda! Living beings create karma with their six consciousnesses. The
evil retributions they call down upon themselves come from the six
sense-organs.”
1)
Kiến Báo—Retribution of Seeing:
a)
Kiến báo chiêu dẫn các nghiệp. Kiến nghiệp nầy giao kết thì lúc
chết, trước hết thấy lửa đầy mười phương. Thần thức của người chết nương
bay theo khói, sa vào địa ngục vô gián, phát hiện ra hai tướng—Retribution
of seeing, which beckons one and leads one to evil ends. The karma of
seeing intermingles, so that at the time of death one first sees a raging
conflaration which fills the ten directions. The deceased one’s spiritual
consciousness takes flight, but then falls. Riding on a wisp of smoke, it
enters the intermittent hell. There, it is aware of two appearances:
·
Một là thấy sáng thì có thể thấy khắp nơi các ác vật, sanh
ra sợ hãi vô cùng—One is a perception of brightness in which can be seen
all sorts of evil things, and it gives rise to boundless fear.
·
Hai là thấy tối, lặng lẽ chẳng thấy gì cả, sinh ra sợ hãi vô
cùng—The second one is a perception of darkness in which there is total
stillness and no sight, and it experiences boundless terror.
b)
Như vậy thấy lửa đốt—When the fire that comes from seeing burns:
·
Nơi thính căn, có thể làm những nước sôi trong chảo đồng:
The sense of hearing. It becomes cauldrons of boiling water and molten
copper.
·
Đốt nơi tỷ căn, có thể làm khói đen, hơi lửa: When it burns
the breath, it becomes black smoke and purple fumes.
·
Đốt nơi tri vị căn, có thể làm những viên sắt nóng: When it
burns the sense of taste, it becomes the scorching hot pellets and molten
iron gruel.
·
Đốt nơi xúc căn, có thể làm cái lò tro than nóng: When it
burns the sense of touch, it becomes white-hot ember and glowing coals.
·
Đốt nơi tâm căn, có thể sanh ra đống lửa, tung ra bay cả
không giới: When it burns the mind, it becomes stars of fire that shower
everywhere and whip up and inflame the entire realm of space.
2)
Văn Báo—Retribution of Hearing:
a)
Văn báo chiêu dẫn ác quả. Văn nghiệp nầy giao kết, lúc chết thấy
sóng chìm ngập trời đất, thần thức nương theo sóng trôi vào ngục vô gián.
Phát hiện ra hai tướng—Retribution of hearing, which beckons one and leads
one to evil ends. The karma of hearing intermingles, and thus at the time
of death onr first sees gigantic waves that dorwn heaven and earth. The
deceased one’s spiritual consciousness falls into the water and rides the
current into the unitermittent hell. There, it is aware of two sensations:
·
Một là nghe rõ, nghe nhiều tiếng ồn làm rối loạn tinh thần:
One is open hearing, in which it hears all sorts of noise and its
essential spirit becomes confused.
·
Hai là không nghe thấy gì, vắng lặng u trầm: The second is
closed hearing, in which there is total stillness and no hearing, and its
soul sinks into oblivion.
b)
Sóng nghe như thế chảy vào cái nghe làm thành sự trách phạt, gạn
hỏi. Chảy vào cái thấy làm thành sấm sét và các khí độc. Chảy vào hơi thở,
làm thành mưa sương, tưới các trùng độc khắp thân thể. Chảy vào vị làm
thành mủ huyết và những đồ uế tạp. Chảy vào xúc, làm thành súc sinh, ma
quỷ và phân. Chảy vào ý, làm thành sét và mưa đá phá hoại tâm phách: When
the waves from hearing flow into the hearing, they become scolding and
interogation. When they flow into the seeing, they become thunder and
roaring the evil poisonous vapors. When they flow into the breath, they
become rain and fog that is permeated with poisonous organisms that
entirely fill up the body. When they flow into the sense of taste, they
become pus and blood and every kind of filth. When they flow into the
sense of touch, they become animal and ghosts, and excrement and urine.
When they flow into the mind, they become lightning and hail which ravage
the heart and soul.
3)
Khứu Báo—Retribution of Smelling:
a)
Khứu báo chiêu dẫn ác quả, khứu nghiệp nầy giao kết, lúc chết thấy
độc khí đầy dẫy xa gần. Thần thức nương theo khí vào vô gián địa ngục.
Phát hiện ra hai tướng—The retribution of smelling, which beckons one and
leads one to evil ends. The karma of smelling intermingles, and thus at
the time of death one first sees a poisonous smoke that permeates the
atmosphere near and far. The deceased one’s spiritual consciousness wells
up out of the earth and enters the unintermittent hell. There, it is
aware of two sensations:
·
Một là thông khứu, bị các độc khí nhiễu loạn tâm thần: One
is unobstructed smelling, in which it is thouroughly infused with the
evil vapors and its mind becomes distressed.
·
Hai là tắc khứu, khí không thông, bức tức mà té xỉu xuống
đất: The second is obstructed smelling, in which its breath is cut off and
there is no passage, and it lies stifled and suffocating on the ground.
b)
Khi ngửi như thế xông vào hơi thở, làm thành nghẹt và thông. Xông
vào cái thấy làm thành lửa và đuốc. Xông vào cái nghe làm chìm, đắm, sôi,
trào. Xông vào vị, làm thành vị ương vị thối. Xông vào xúc làm thành nát,
rũ, thành núi đại nhục có trăm nghìn con mắt mà vô số trùng ăn. Xông vào
cái nghĩ làm thành tro nóng, chướng khí và cát bay mà đập nát thân thể:
When the vapor of smelling invades the breath, it becomes cross
examination and bearing witness. When it invades the seeing, it becomes
fire and torches. When it invades the hearing, it becomes sinking and
drowning, oceans, and bubbling cauldrons. When it invades the sense of
taste, it becomes putrid or rancid foods. When it invades the sense of
touch, it becomes ripping apart and beating to a pulp. It also becomes a
huge mountain of flesh which has a hundred thousand eyes and which is
sucked and fed upon by numberless worms. When in invades the mind, it
becomes ashes, pestilent airs, and flying sand and gravel which cut the
body to ribbons.
4)
Vi Báo—Retribution of Tasting:
a)
Vị báo chiêu dẫn ác quả. Vị nghiệp nầy giao kết, lúc chết thấy lưới
sắt phát ra lửa dữ, cháy rực khắp thế giới. Thần thức mắc lưới vào ngục vô
gián phát hiện ra hai tướng—The retribution of tasting, which beckons and
leads one to evil ends. This karma of tasting intermingles, and thus at
the time of death one first sees an iron net ablaze with a raging fire
that covers over the entire world. The deceased one’s spiritual
consciousness passes down through this hanging net, and suspended upside
down, it enters the uninterminttent hell. There, it is aware of two
sensations.
·
Một là hít khí vào, kết thành băng, thân bị nứt nẻ—One is a
sucking air which congeals into ice so that it freezes the flesh of his
body.
·
Hai là thở khí ra, bốc lên thành lửa dữ cháy tan cốt tủy—The
second a spitting blast of air which spwes out a raging fire that roasts
his bones and marrow to a pulp.
b)
Thứ vị nếm ấy trải qua cái nếm, làm thành sự thừa lĩnh, nhẫn chịu.
Trải qua cái thấy, làm thành vàng đá nóng đỏ. Trải qua cái nghe, làm thành
gươm đao sắc. Trải qua hơi thở, làm thành lồng sắt lớn trùm cả quốc độ.
Trải qua xúc, làm thành cung, tên, nỏ. Trải qua ý, làm thành thứ sắc nóng
bay trên hư không rưới xuống: When the tasting of flavors passes through
the sense of taste, it becomes what must be acknowledged and what must be
endured. When it passes through the seeing, it becomes burning metal and
stones. When it passes through the hearing, it becomes sharp weapons and
knives. When it passes through the sense of smell, it becomes a vast iron
cage that encloses the entire land. When it passes through the sense of
touch, it becomes bows and arrows, crossbows, and darts. When it passes
through the mind, it becomes flying pieces of molten iron that rain down
from out of space.
5)
Xúc Báo—Retribution of Touching:
a)
Xúc báo chiêu dẫn ác quả. Xúc nghiệp nầy giao kết, lúc chết thấy
núi lớn bốn phía họp lại, không có đường đi ra. Thần thức thấy thành lớn
bằng sắt, các rắn lửa, chó lửa, cọp, gấu, sư tử, những lính đầu trâu, quỷ
la sát đầu ngựa cầm thương đao, lùa người vào thành đến ngục vô gián. Phát
hiện ra hai tướng—The retribution of touching which beckons and leads one
to evil ends. The karma of touching intermingles, and thus at the time of
death one first sees huge mountains closing in on one from four sides,
leaving no path of escape. The deceased one’s spiritual consciousness then
sees a vast iron city. Fiery snakes and fiery dogs, wolves, lions,
ox-headed jail keepers, and horse-headed rakshasas brandishing spears and
lances drive it into the iron city toward the unintermittent hell. There,
it is aware of two sensations.
·
Một là xúc hợp lại, núi giáp lại ép thân thể, xương thịt
tuôn máu: One is touch that involves coming together, in which mountains
come together to squeeze its body until its flesh, bones, and blood are
totally dispersed.
·
Hai là xúc ly, gươm đao đâm chém vào người, tim gan tan nát:
The second is thouch that involves separation, in which knives and swords
attack the body, ripping the heart and liver to shreds.
b)
Thứ xúc ấy trải qua cái xúc, làm thành đường, quán, sảnh, án. Trải
qua cái thấy làm thành thiêu đốt. Trải qua cái nghe làm thành đập, đánh,
đâm, bắn. Trải qua hơi thở làm thành túi, đẫy, tra khảo, trói buộc. Trải
qua cái nếm làm thành kiềm, kẹp, chém, chặt. Trải qua cái ý, làm thành sa
xuống, bay lên, nấu, nướng: When this touching passes through the
sensation of touch, it becomes striking, binding, stabbing, and piercing.
When it passes through the seeing, it becomes burning and scorching. When
it passes through the hearing, it becomes questioning, investigating,
court examinations, and interrogation. When it passes through the sense of
smell, it becomes enclosurs, bags, beating, and binding up. When it passes
through the sense of taste, it becomes plowing, pinching, chopping, and
severing. When it passes through the mind, it becomes falling, flying,
frying, and broiling.
6)
Tư Báo—Retribution of Thinking:
a)
Tư báo chiêu dẫn ác quả. Tư nghiệp nầy giao kết, lúc chết thấy gió
dữ thổi hư nát quốc độ. Thần thức bị thổi bay lên hư không, theo gió rơi
vào ngục vô gián. Phát hiện ra hai tướng—The retribution of thinking,
which beckons and leads one to evil ends. The karma of thinking
intermingles, and thus at the time of death one first sees a foul wind
which devastates the land. The deceased one’s spiritual consciousness is
blown up into space, and then, spiraling downward, it rides that wind
straight into the unintermittent hell. There, it is aware of two
sensations.
·
Một là không biết, mê muội vô cùng, chạy mãi không thôi: One
is extreme confusion, which causes it to be frantic and to race about
ceaselessly.
·
Hai là không mê, biết cái khổ bị nấu, bị thiêu, đau đớn vô
cùng: The second is not confusion, but rather an acute awareness which
causes it to suffer from endless roasting and burning, the extreme pain of
which is difficult to bear.
b)
Cái nghĩ bậy đó kết cái nghĩ, làm thành phương hướng, xứ sở. Kết
cái thấy, làm thành nghiệp cảnh và đối chứng. Kết cái nghe, làm thành hòn
đá lớn chụm lại, làm băng, làm sương, đất. Kết hơi thở, làm thành xe lửa
lớn. Kết cái nếm, làm thành tiếng la, hét, khóc, than. Kết cái xúc, làm
thành thân lớn, thân nhỏ, và trong một ngày vạn lần chết đi sống lại, cúi
xuống, ngước lên: When this deviant thought combines with thinking, it
becomes locations and places. When it combines with seeing, it becomes
inspection and testimonies. When it combines with hearing, it becomes huge
crushing rocks, ice, and frost, dirt and fog. When it combines with
smelling, it becomes a great fiery car, a fiery boat, and a fiery jail.
When it combines with tasting, it becomes loud calling, wailing, and
regretful crying. When it combines with touch, it becomes sensations
large and small, where ten thousand births and ten thousand deaths are
endured every day, and of lying with one’s face to the ground.
Lục Bát Hoằng Thệ:
The forty-eight great or surpassing vows of Amitabha—See Tứ Thập Bát
Nguyện.
Lục Bất Cung Kinh Pháp:
Six kinds of disrespect—See Sáu Không Cung Kính Pháp.
Lục Bộ Đại Thừa Kinh:
Sáu bộ kinh mà Đại Sư Từ Ân đã chọn cho Pháp Tướng tông—The six works
chosen by master Tz’u-En as authoritative in the Dharmalaksana school.
1)
Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh: The Flower Adornment Sutra.
2)
Giải Thâm Mật Kinh:
3)
Như Lai Xuất Hiện Công Đức Trang Nghiêm Kinh:
4)
A Tỳ Đạt Ma Kinh: Abhidharma Sutra.
5)
Lăng Già Kinh: Lankavatara Sutra.
6)
Đại Thừa Mật Nghiêm Kinh: Kinh Hậu Nghiêm.
Lục Cảnh: Sáu cảnh
đối lại với lục căn nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý là cảnh trí, âm thanh,
vị, xúc, ý tưởng cũng như thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác, xúc
giác và tâm phân biệt—The six objects—The six objective fields of the six
senses of sight, sound, smell, taste, touch and idea or thought; rupa,
form and colour, is the field of vision; sound of hearing, scent of
smelling, the five flavours of tasting, physical feeling of touch, and
mental presentation of discernment.
Lục Căn:
(A)
Nghĩa của Lục Căn—The meanings of the six senses—Sáu căn—The six
organs (faculties)—The six roots of sensations—The six indriyas:
1)
Mắt: Eye.
2)
Tai: Ear.
3)
Mũi: Nose.
4)
Lưỡi: Tongue.
5)
Thân: Body.
6)
Ý: Mind.
** For more information, please see Lục
Cảnh—Lục Nhập—Lục Tình—Lục Trần—Lục Xứ.
(B)
Lục Căn là những đối tượng của Thiền Tập—The six senses are objects
of meditation practices—Theo Tỳ Kheo Piyananda trong Những Hạt Ngọc Trí
Tuệ Phật Giáo, bạn phải luôn tỉnh thức về những cơ quan của giác quan như
mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và sự tiếp xúc của chúng với thế giới bên ngoài.
Bạn phải tỉnh thức về những cảm nghĩ phát sinh do kết quả của những sự
tiếp xúc ấy—According to Bikkhu Piyananda in The Gems Of Buddhism Wisdom,
you must always be aware of the sense organs such as eye, ear, nose,
tongue and body and the contact they are having with the outside world.
You must be aware of the feelings that are arising as a result of this
contact.
·
Mắt đang tiếp xúc với sắc: Eye is now in contact with forms
(rupa).
·
Tai đang tiếp xúc với thanh: Ear is now in contact with
sound.
·
Mũi đang tiếp xúc với mùi: Nose is now in conatct with
smell.
·
Lưỡi đang tiếp xúc với vị: Tongue is now in contact with
taste.
·
Thân đang tiếp xúc với sự xúc chạm: Body is now in contact
with touching.
·
Ý đang tiếp xúc với những vạn pháp: Mind is now in contact
with all things (dharma).
Lục Căn Công Đức:
Công năng thành tựu của lục căn—The powers of the six senses (the
achievement by purification of their interchange of function).
Lục Căn Ngũ Dụng:
Dùng một căn thay thế cho căn khác, hoặc là chỉ dùng một căn để thay thế
cho tất cả các căn khác, đây là Phật lực—Substitution of one of the organ
for another, or the use of one organ to do the work of all the others,
which is a Buddha’s power.
Lục Căn Nhân: Theo
A Tỳ Đàm của tông Câu Xá, có sáu căn nhân trong thuyết nhân quả—According
to the Abhidharma of the Kosa School, there are six chief causes in the
Theory of Causal Relation.
1)
Năng Tác Nhân: Karana-hetu (skt)—Năng tác nhân là yếu tố dẫn đạo
trong sự phát sinh một hậu quả—The active cause as the leading factor in
the production of an effect.
2)
Câu Hữu Nhân: Sahabhu-hetu (skt)—Câu hữu nhân là loại nhân mà trên
hai yếu tố luôn luôn cùng hành sự với nhau—The co-existent cause, more
than two factors always working together.
3)
Đồng Loại Nhân: Sabhaga-hetu (skt)—Là loại nhân trợ giúp những nhân
khác cùng loại với nó—The similar-species cause, a cause helping other
causes of its kind.
4)
Tương Ưng Nhân: Saprayukta-hetu (skt)—Là loại nhân xuất hiện bất cứ
lúc nào, từ bất cứ động lực nào, đối với bất cứ sự kiện nào, trong bất cứ
cơ hội nào, và trong bất cứ trường hợp nào—The concomitant cause,
appearing at any time, from any motive, with regard to any fact, on any
occasion and in any environment.
5)
Biến Hành Nhân: Sarvatgrata-hetu (skt)—Là nhân luôn luôn liên hệ
với những tà kiến, hoài nghi hay vô minh, tạo ra tất cả những sai lầm của
con người—The universally prevalent cause, a cause always connected with
wrong views, doubts or ignorance which produces all the errors of men.
6)
Dị Thục Nhân: Vipaka-hetu (skt)—Là nhân tạo ra kết quả của nó trong
một đời sống khác, như khi những thưởng phạt nhận lãnh được trong trong
đời kế tiếp sau khi chết—The cause ripening in a different life, a cause
which produces its effect in a different life, as when retributions are
obtained in the life after death.
Lục Căn Nhân Tứ Trợ
Duyên: Bảy mươi lăm pháp trong A Tỳ Đàm của Câu Xá Tông, dù phân ly,
đều liên kết nhau trong thế giới hiện thực. Hiện tượng nầy được cắt nghĩa
bằng lý thuyết tương quan nhân quả hay thuyết về mười nhân, trong đó có
sáu căn nhân và bốn trợ duyên—The seventy-five elements mentioned in the
Abhidharma of the Kosa School, though separate from one another, are found
linked together in the actual world. This phenomenon is explained by the
theory of causal relation or combination, sometimes called the Doctrine of
the Ten Causes, in which six Chief Causes (hetu) and four Sub-causes
(pratyaya) are assumed.
(A)
Lục Căn Nhân—The Six Chief Causes—See Lục Căn Nhân.
(B)
Tứ Trợ Duyên: The Four Sub-causes—See Tứ Trợ Duyên.
Lục Căn Ô Nhiễm:
Six impure faculties—See Lục Căn Thanh Tịnh.
Lục Căn Sám Hối:
Sám hối tội lỗi của lục căn—A penitential service over the sins of the six
senses.
Lục Căn Thanh Tịnh:
Sáu căn thanh tịnh nghĩa là tiêu trừ tội cấu từ vô thủy để phát triển sức
mạnh vô hạn (như trường hợp Đức Phật). Sự phát triển tròn đầy nầy làm cho
mắt có thể thấy đươc vạn vật trong Tam thiên Đại thiên thế giới, từ cảnh
trời cao nhất xuống cõi địa ngục thấp nhứt, thấy tất cả chúng sanh trong
đó từ quá khứ, hiện tại, vị lai, cũng như nghiệp lực của từng cá nhân—Six
pure faculties—The six organs and their purification in order to develop
their unlimited power and interchange (in the case of Buddha). This full
development enables the eye to see everything in a great chiliocosm from
its highest heaven down to its lowest hells and all the beings past,
present, and future with all the karma of each.
Lục Căn Thanh Tịnh Vị:
Trạng thái lục căn thanh tịnh mà tông Thiên Thai đã định nghĩa trong Thập
Tín Vị của Biệt Giáo hay Tương Tự Tức của Viên Giáo—The state of the
organs thus purified is defined by T’ien-T’ai as the semblance stage in
the Perfect teaching.
Lục Cấu: Theo Câu
Xá Luận có sáu điều làm ô uế tịnh tâm—According to the Kosa Sastra, there
are six things that defile the pure mind:
1)
Não (phiền muộn): Vexation.
2)
Siểm (nịnh nọt): Flattery.
3)
Kiêu (khi lờn người khác): Arrogance.
4)
Cuồng (Dối gạt người khác): Exaggeration.
5)
Hận: Hatred.
6)
Hại (làm hại người khác): Malice.
Lục Cấu Pháp: See
Lục Cấu.
Lục Chấn: See Lục
Chủng Chấn Động.
Lục Chúng: The six
kinds of bhiksus—See Lục Quần Tỳ Kheo.
Lục Chúng Sanh:
(A)
Lục chúng sanh được ví với sáu con vật—The six creatures are
compared with the six animals:
1)
Chó: A dog.
2)
Chim: A bird.
3)
Rắn: A snake.
4)
Linh Cẩu: A hyena.
5)
Cá Sấu: A crocodile (sisumara).
6)
Khỉ: A monkey.
(B)
Lục chúng sanh hay lục căn, chúng giống như những con thú hoang bị
nhốt và lúc nào cũng muốn thoát ra. Chỉ khi nào chúng được thuần hóa thì
chúng mới được hạnh phúc. Cũng như thế chỉ khi nào sáu căn được thuần
lương bởi chân lý Phật, thì chừng đó con người mới thật sự có hạnh
phúc—The six senses or six organs of sense. They are likened to six wild
creatures in confinement and always struggling to escape. Only when they
are domesticated will they be happy. So is it with the six senses and the
taming power of Buddha-truth.
Lục Chủng Ấn: The
six seals or proofs—B La Mật.
Lục Chủng Câu Sinh Hoặc:
Sáu loại mê hoặc thông thường với chúng sanh—The six deceivers common to
all the living:
1)
Tham: Greed.
2)
Sân: Anger.
3)
Vô Minh: Si—Ignorance.
4)
Hôn trầm: Torpor.
5)
Nghi hoặc: Doubt.
6)
Bất Chánh Kiến: Tà kiến—Incorrect views.
Lục Chủng Chánh Hành:
Sáu loại thực hành chánh đáng—The six kinds of proper practice.
1)
Từ 1 đến 5 cũng giống như trong Ngũ Chánh Hạnh: From 1 to 5 are the
same as in the five proper kinds of practice—See Ngũ Chánh Hạnh.
6) Cúng Dường: Making
offerings.
Lục Chủng Chấn: See
Lục Chủng Chấn Động.
Lục Chủng Chấn Động:
Ba loại sáu thứ chấn động—The six earthquakes or earth-shakings of which
there are three categories:
(I)
Sáu thời chấn động theo Kinh Trường A Hàm—Earthquakes in the six
periods of a day, according to the Long Agama Sutra:
1)
Lúc Phật nhập thai: At the Buddha’s conception.
2)
Lúc Phật xuất thai: At the Buddha’s birth.
3)
Lúc Phật thành đạo: At the Buddha’s enlightenment.
4)
Lúc Phật chuyển Pháp Luân: At the Buddha’s first preaching.
5)
Lúc thiên ma khuyến thỉnh Ngài sống: When Mara besought him to
live.
6)
Lúc Phật nhập Niết Bàn: At the Buddha’s Nirvana.
(II)
Sáu phương chấn động theo Kinh Đại Bát Nhã. Khi Thế Tôn nhập sư tử
du hý tam muội, thì sáu loại chấn động nổi lên—Earthquakes in six
directions, according to the Maha-Prajna Sutra. The six different kinds of
shaking of the chiliocosm, or universe, when the Buddha entered into the
samadhi of joyful wandering:
1)
Đông vọt lên thì Tây chìm xuống: East rose and West sank.
2)
Tây vọt lên thì Đông chìm xuống: West rose and east sank.
3)
Nam vọt lên thì Bắc chìm xuống: South rose and North sank.
4)
Bắc vọt lên thì Nam chìm xuống: North rose and South sank.
5)
Bốn bên vọt lên thì chính giữa chìm xuống: Surroundings (borders)
rose the centre (middle) sank.
6)
Chính giữa vọt lên thì bốn bên chìm xuống: Centre (middle) rose and
surroundings (borders) sank.
(III)
(A)
Sáu tướng chấn động, theo Kinh Hoa Nghiêm—Six laksanas or marks of
earthquake, according to the Avatamsaka Sutra:
1)
Động: Shaking.
2)
Khởi: Rising.
3)
Dũng: Waving.
4)
Chấn: Reverberating.
5)
Giác: Khuấy động—Arousing.
6)
Hống: Roaring.
(B)
Sáu tướng chấn động, theo Kinh Bát Nhã—Six laksanas or marks of
earthquake, according to the Maha-Prajna Sutra:
1)
Động: Shaking.
2)
Khởi: Rising.
3)
Chấn: Reverberating.
4)
Kích: Khua đập—Beating.
5)
Hống: Roaring.
6)
Nứt ra: Cracking.
Lục Chủng Khảo: Six
types of testing condition—Khảo là những ảnh hưởng diễn biến của nghiệp
thiện ác, nhưng chúng có sức thầm lôi cuốn hành giả làm cho bê trễ sự tu
trì. Khi mới tu ai cũng có lòng hảo tâm, nhưng lần lượt bị những duyên
nghiệp bên ngoài, nên một trăm người đã rớt hết chín mươi chín. Cổ đức
nói: “Tu hành nhứt niên Phật tại tiền, nhị niên Phật tại Tây Thiên, tam
niên vấn Phật yếu tiền.” Nghĩa là ‘sự tu hành năm đầu Phật như ở trước
mặt, năm thứ hai Phật đã về tây, sang năm thứ ba ai muốn hỏi đến Phật hay
bảo niệm Phật, phải trả tiền mới chịu nói tới, hoặc niệm qua ít câu.’ Theo
Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong Niệm Phật Thập Yếu, có sáu loại
khảo—Testing conditions are the fluctuating effects of good and bad karma,
which have the power to influence the practitioner and retard his
cultivation. When first taking up cultivation, every practitioner has a
seed of good intentions. However, as they encounter karmic conditions, one
after another, both internal and external, ninety-nine cultivators out of
a hundred will fail. The ancients had a saying: “In the first year of
cultivation, Amitabha Buddha is right before eyes; the second year, He has
already returned to the West; by the time the third year rolls around, if
someone inquires about Him or requests recitation, payment is required
before a few words are spoken or a few versess recited.” According to Most
Venerable Thích Thiền Tâm in The Pure Land Buddhism in Theory and
Practice, there are six types of testing conditions:
1)
Nội Khảo: Internal Testing Conditions—Có người trong lúc tu tập,
bỗng khởi lên những tâm niệm tham lam, giận hờn, dục nhiễm, ganh ghét,
khinh mạn, ngi ngờ, hoặc si mê dễ hôn trầm buồn ngủ. Những tâm niệm ấy đôi
khi phát hiện rất mãnh liệt, gặp duyên sự nhỏ cũng dễ cau có bực mình.
Nhiều lúc trong giấc mơ, lại thấy các tướng thiện ác biến chuyển. Trong
đây những tình tiết chi ly không thể tả hết được. Gặp cảnh nầy hành giả
phải ý thức đó là công năng tu hành nên nghiệp tướng phát hiện. Ngay lúc
ấy nên giác ngộ các nghiệp tướng đều như huyễn, nêu cao chánh niệm, thì tự
nhiên các tướng ấy sẽ lần lượt tiêu tan. Nếu không nhận thức rõ ràng, tất
sẽ bị nó xoay chuyển làm cho thối đọa. Tiên đức bảo: “Chẳng sợ nghiệp khởi
sớm, chỉ e giác ngộ chậm” chính là điểm nầy. Có người đang lúc dụng công,
bỗng phát sanh tán loạn mỏi nhọc khó cưỡng nổi. Ngay khi ấy nên đứng lên
lễ Phật rồi đi kinh hành, hoặc tạm xả lui ra ngoài đọc một vài trang sách,
sửa năm ba cành hoa, chờ cho thanh tịnh sẽ trở vào niệm Phật lại. Nếu
không ý thức, cứ cưỡng ép cầu cho mau nhứt tâm, thì càng cố gắng lại càng
loạn. Đây là sự uyển chuyển trong lúc dụng công, ví như thế giặc quá mạnh
tợ nước tràn, người chủ soáy phải tùy cơ, nên cố thủ chớ không nên ra
đánh. Có vị tu hành khi niệm Phật, bỗng thấy cô tịch như bản đàn độc điệu
dễ sanh buồn chán, thì không ngại gì phụ thêm trì chú, quán tưởng, hoặc
tụng kinh—During cultivation, some people suddenly develop thoughts of
greed, anger, lust, jealousy, scorn or doubt. They may also suffer
delusion, leading to drowsiness and sleep. These thoughts sometimes arise
with great intensity, making the practitioner feel annoyed and upset over,
at times, trivial matters. Sometimes auspicious and evil events alternate
in his dreams. The specific details of these events are too numerous to be
described. Faced with these occurences, the practitioner should realize
that these karmic marks have appeared as a consequence of his cultivation.
He should immediately understand that all karmic occurences and marks are
illusory and dream-like; he should foster right thought and they will
disappear one after another. Otherwise, he will certainly be swayed, lose
his concentration and retrogress. The ancients used to say in this
respect: “Do not fear an early manifestation of evil karma, fear only a
late Awakening.” Sometimes the practitioner, in the midst of intense
cultvation, suddently becomes confused and weary, which is a state
difficult to fight off. At that very moment, he should arise and bow to
the Buddhas or circumambulate the altar. Or else, he may take a temporary
break, read a few pages of a book or rearrange some flowers, waiting for
his mind to calm down before returning to the altar to resume recitation.
Otherwise, the more he tries to focus his mind, the more scattered it
becomes. This is a case of flexibility in cultivation. It is similar to
the situation of a commander-in-chief facing an invading army as powerful
as a river overflowing its banks. In such a situation, the general should
stay on the defensive, consolidating his position, rather than charging
into battle. Some practitioners suddenly feel solitary and isolated when
reciting the Buddha’s name like a single-note musical piece, and grow
melancholy and bored. In such cases, they should not hesitate to add
mantra or sutra recitation or visualization to their practice.
2)
Ngoại Khảo: External Testing Conditions—Đây là những chướng cảnh
bên ngoài làm duyên khó khăn thối đọa cho hành giả. Những chướng cảnh nầy
là sự nóng bức, ồn ào, uế tạp, hoặc chỗ quá rét lạnh, hay nhiều trùng kiến
muỗi mòng. Gặp cảnh nầy cũng nên uyển chuyển, đừng chấp theo hình thức,
chỉ cầu được an tâm. Chẳng hạn như ở cảnh quá nóng bức, chẳng ngại gì mặc
áo tràng mỏng lễ Phật, rồi ra ngoài chỗ mát mà trì niệm, đến khi xong lại
trở vào bàn Phật phát nguyện hồi hướng. Hoặc gặp chỗ nhiều muỗi, có thể
ngồi trong màn thưa mà niệm Phật. Như ở miền bắc Trung Hoa vì thời tiết
quá lạnh, các sư khi lên chánh điện tụng kinh, cũng phải mang giày vớ và
đội mủ cẩn thận. Có hàng Phật tử vì nhà nghèo, làm lụng vất vả, đi sớm về
khuya, hoặc nợ nần thiếu hụt, rách rưới đói lạnh, vợ yếu con đau, không có
chỗ thờ cúng trang nghiêm. Trong những hoàn cảnh nầy sự tu tập thật ra rất
khó, phải có thêm sự nhẫn nại cố gắng, mới có thể thành công được. Hoặc có
người vì nhiều chướng nghiệp, lúc không tu thì thôi, khi sắp vào bàn Phật
lại nhức đầu chóng mặt và sanh đủ chứng bệnh, hay có khách viếng thăm và
nhiều việc bất thường xãy đến. Gặp những cảnh như thế, phải cố gắng và
khéo uyển chuyển tìm phương tu hành. Sự cố gắng uyển chuyển tùy trường hợp
sai biệt mà ứng dụng chớ không thể nói hết ra được. Nên nhớ gặp hoàn cảnh
bất đắc dĩ, phải chú trọng phần tâm, đừng câu nệ phần tướng, mới có thể
dung thông được. Cõi Ta Bà ác trược vẫn nhiều khổ lụy, nếu không có sức cố
gắng kham nhẫn, thì sự tu hành khó mong thành tựu—These are external
obstacles creating difficult conditions which can make the practitioner
retrogress. These obstacles include heat, noise, dirt and pollution,
freezing weather, or an outbreak of mosquitoes and other insects. When
faced with these conditions, the cultivator should be flexible and not
become attached to forms and appearances. He should just seek tranquility
and peace of mind. For instance, in sweltering heat, he should not mind
donning a light robe to bow to the Buddhas, and then retiring to a shady
spot outdoors to recite the Buddha’s name. At the end of the session, he
can return to the altar to make his vows and transfer the merit. If the
practitioner happens to be living in a mosquito-infested area, he can sit
inside a net while reciting the Buddha’s name. As in northern China where
the weather can be freezing, monks and nuns must dress carefully in socks,
shoes and hats when going to the Buddha hall to recite sutras. As another
example, some destitude laymen, living from hand to mouth, going to work
early and coming home late, pursued by creditors, tattered, hungry and
cold, with sickly wives and malnourished children, can hardly afford a
decent place to practice. In such situations, cultivation is truly
difficult. In order to succeed, the practitioner should redouble his
efforts and have more patience and endurance. Other people, with heavy
karmic obstructions, do not experience outward occurences as long as they
do not cultivate, but as soon as they are ready to bow before the altar,
they develop headaches, grow dizzy, and are afflicted with all kinds of
ailments. Or else, they may receive sudden visitors or encounter unusual
events. Faced with these occurences, the practitioner should redouble his
efforts and find ways to cultivate flexibly. These ways depend on
circumstances; they cannot all be described. One point, however, should
always be kept in mind: when faced with difficult circumstances, pay
attention to the mind, and do not cling to appearances and forms. The
evil, turbid Saha World has always been full of suffering and tears.
Without perseverance and forbearance, it is very difficult to succeed in
cultivation.
3)
Nghịch Khảo: Testing Conditions caused by Adverse
Circumstances—Trên đường đạo, nhiều khi hành giả bị nghịch cảnh làm cho
trở ngại. Có người bị cha mẹ, anh em hay vợ chồng con cái ngăn trở hoặc
phá hoại không cho tu. Có vị thân mang cố tật đau yếu mãi không lành. Có
kẻ bị oan gia luôn theo đuổi tìm cách mưu hại. Có người bị vu oan giá họa,
khiến cho ngồi tù chịu tra khảo hoặc lưu đày. Có vị bị sự tranh đua ganh
ghét, hoặc bêu rêu nhiều tiếng xấu xa, làm cho khó an nhẫn. Điều sau nầy
lại thường xãy ra nhiều nhứt. Những cảnh ngộ như thế đều do sức nghiệp.
Lời xưa từng nói: “Hữu bất ngu chi dự, hữu cầu toàn chi hủy,” nghĩa là ‘có
những tiếng khen, những vinh dự bất ngờ, không đáng khen mà được khen; và
có những sự kiện thật ra không đáng khinh chê, lại diễn thành cảnh khinh
hủy chê bai trọn vẹn.’—Practitioners on the path of cultivation are at
times impeded by adverse circumstances. Some are prevented from
cultivating or frustrated in their practice by parents, brothers and
sisters, wives, husbands or children. Others suddenly develop a chronic
disease, from which they never completely recover. Still others are
continually pursued by oponents and enemies looking for ways to harm them.
Others are slandered or meet misfortunes which land them in prison,
subject to torture, or they are sent into exile. Others, again, victims of
jealous competition or calumny, lose all peace of mind. This last
occurrence is the most frequent. Such cases occur because of the power of
evil karma. The ancients had a saying: “There are instances of sudden
praise and unexpected honors which are underserved, and other instances,
not deserving of blame, which create major opportunities for censure and
contempt.”
4)
Thuận Khảo: Testing Conditions caused by “Favorable
Circumstances”—Có người không gặp cảnh nghịch mà lại gặp cảnh thuận, như
cầu gì được nấy, nhưng sự thành công đều thuộc duyên ràng buộc chớ không
phải giải thoát. Có vị khi phát tâm muốn yên tu, bỗng cảnh danh lợi sắc
thanh chợt đến, hoặc nhiều người thương mến muốn theo phụng sự gần bên.
Thí dụ người xuất gia khi phát tâm tu, bỗng có kẻ đến thỉnh làm tọa chủ
một ngôi chùa lớn; hoặc như người tại gia, thì có thơ mời làm tổng, bộ
trưởng, hay một cuộc làm ăn mau phát tài. Đây là những cảnh thuận theo
duyên đời quyến rủ người tu, rồi dẫn lần đến các sự phiền toái khác làm
mất đạo niệm. Người ta chết vì lửa thì ít, mà chết vì nước lại nhiều, nên
trên đường tu cảnh thuận thật ra đáng sợ hơn cảnh nghịch. Cảnh nghịch đôi
khi làm cho hành giả tỉnh ngộ, dễ thoát ly niệm tham nhiễm, hoặc phẫn chí
lo tu hành. Còn cảnh thuận làm cho người âm thầm thối đạo lúc nào không
hay, khi bừng tỉnh mới thấy mình đã lăn xa xuống dốc. Người xưa nói: “Việc
thuận tốt được ba. Mê lụy người đến già.” Lời nầy đáng gọi là một tiếng
chuông cảnh tỉnh. Thế nên duyên thử thách của sự thuận khảo rất vi tế,
người tu cần phải lưu ý—Some practitioner do not encounter adverse
circumstances, but on the contrary, meet with favorable circumstances,
such as having their wishes and prayers fulfilled. However, such successes
belong to the category of ‘binding’ conditions, rather than conditions
conducive to liberation. Thus, just as some practitioners set their minds
to peaceful cultivation, they suddenly encounter opportunities leading to
fame and fortune, ‘beautiful forms and enchanting sounds.’ Or else, family
members, relatives and supporters seek to follow and serve them on their
retreats. For example, a monk who has made up his mind to cultivate in
earnest may suddenly be requested to become the abbot of a large temple
complex. Or else, a layman may unexpectedly receive a letter inviting him
to become a minister heading such and such a government department, or
offering him a chance to participate in a business venture which promises
a quick profit. These instances, all of which are advantageous under
mundane circumstances, are seductive to the cultivator, and maygradually
lead to other complications. Ultimately, he may forget his high
aspirations and retrogress. As the saying goes, more lives are lost in a
flood than in a fire. Thus, on the path of cultivation, favorable
circumstances should be feared more than unfavorable ones. Unfavorable
events sometimes awaken the practitioner, making it easier for him to
escape thoughts of attachment and redouble his efforts in cultivation.
Favorable events, on the other hand, may make him quietly retrogress,
without being aware of it. When he suddenly awakens, he may discover that
he has slipped far down the slope. The ancients have said: “Even two or
three favorable circumstances may cause one to be deluded until old age.”
This saying is trully a ringing bell to wake cultivators up. Therefore,
challenge of favorable events is very subtle, practitioners need to pay
close attention to them.
5)
Minh Khảo: Testing Conditions of a Clear, Explicit Nature—Đây là sự
thử thách rõ ràng trước mắt mà không tự tỉnh ngộ. Chẳng hạn như một vị tài
đức không bao nhiêu, nhưng được người bưng bợ khen là nhiều đức hạnh, tài
năng, có phước lớn, rồi sanh ra tự kiêu tự đắc, khinh thường mọi người,
làm những điều càn dở, kết cuộc bị thảm bại. Hoặc có một vị đủ khả năng
tiến cao trên đường đạo, nhưng bị kẻ khác gàn trở, như bảo ăn chay sẽ bị
bệnh, niệm Phật trì chú nhiều sẽ bị đổ nghiệp, hay gặp nhiều việc không
lành, rồi sanh ra e dè lo sợ, thối thất đạo tâm. Hoặc có những cảnh tự
mình biết nếu tiến hành thì dễ rước lấy sự lỗi lầm thất bại, nhưng vì tham
vọng hay tự ái, vẫn đeo đuổi theo. Hoặc đối với các duyên bên ngoài, tuy
biết đó là giả huyễn nhưng không buông bỏ được, rồi tự chuốc lấy sự buồn
khổ vào tâm. Kẻ dễ dãi nhẹ dạ thường hay bị phỉnh gạt. Khi chưa diệt được
tham vọng thì dễ bị người khác dùng tiền tài, sắc đẹp hoặc danh vị lôi
cuốn. Cho đến nếu còn tánh nóng nảy tất dễ bị người khích động, gánh lấy
những việc phiền phức vào thân. Đây là những cạm bẫy của cả đời lẫn đạo,
xin nêu ra để cùng nhau khuyên nhắc, nếu không dè dặt những điểm đó, sẽ
vướng vào vòng chướng nghiệp. Đối với những duyên thử thách như thế, hành
giả phải nhận định cho sáng suốt, và sanh lòng quả quyết tiến theo đường
lối hợp đạo mới có thể thắng nó được—These are clear ‘testing conditions’
which occur right before the practitioner’s eyes, without his realizing
their implications. For instance, a monk of relatively mediocre talents
and virtues becomes the object of adulation, praised for great merit,
virtue and talent. He then develops a big ego and looks down on everyone;
giving rise to thoughtless action resulting in his downfall. Or else we
have the case of a layman with the potential to progress far along th Way.
However, he is blocked and opposed by others, who advise him, for example,
that vegetarianism will make him sick, or that overly diligent mantra and
Buddha Recitation will ‘unleash his evil karma,’ causing him to encounter
many untoward events. He then develops a cautious, anxious attitude,
retrogressing in his determination to achieve the Way. There are also
circumstances in which the practitioner realizes that to advance further
is to invite failure and defeat, yet, out of ambition or pride, he
continues all the same. Or else, even though the cultivator knows that
external circumstances are illusory and dream-like, he cannot let go of
them, and thus brings great suffering upon himself. The easy-going and
credulous are often duped. When they have not eliminated greed, it is easy
for others to deceive them with money, sex and fame. It also applies to
those who have a temper and too much pride. Easily aroused, they bring a
great deal of trouble and anguish upon themselves. These are trappings and
the pitfalls of the outside world, which are also encounterd within the
Order. I bring them up here as a warning to fellow cultivators. If they
are not careful, they will become entangled in the cycle of obstructing
karma. The practitioner should develop a clear understanding of these
adverse condition and resolve to progress along a path consonant with the
Way. Only then will he be able to overcome these obstacles.
6)
Ám Khảo: Silent, Hidden Testing Conditions—Điều nầy chỉ cho sự thử
thách trong âm thầm không lộ liểu, hành giả nếu chẳng khéo lưu tâm, tất
khó hay biết. Có người ban sơ tinh tấn niệm Phật, rồi bởi gia kế lần sa
sút, làm điều chi thất bại việc ấy, sanh lòng lo lắng chán nãn trễ bỏ sự
tu. Có vị công việc lại âm thầm tiến triển thuận tiện rồi ham mê đeo đuổi
theo lợi lộc mà quên lãng sự tu hành. Có kẻ trước tiên siêng năng tụng
niệm, nhưng vì thiếu sự kiểm điểm, phiền não ở nội tâm mỗi ngày tăng thêm
một ít, lần lượt sanh ra biếng trễ, có khi đôi ba tháng hay một vài năm
không niệm Phật được một câu. Có người tuy sự sống vẫn điều hòa đầy đủ,
nhưng vì thời cuộc bên ngoài biến chuyển, thân thể nhà cửa nay đổi mai
dời, tâm mãi hoang mang hướng ngoại, bất giác quên bỏ sự trì niệm hồi nào
không hay—This refers to silent challenges, inconspicuous in nature. If
the practitioner is not skillful in taking notice, they are very difficult
to recognize and defeat. Some people, who may have recited the Buddha’s
name diligently in the beginning, grow worried and discouraged by
deteriorating family finances or repeated failures in whatever they
undertake, and abandon cultivation. Others see their affairs quietly
progressing in a favorable way; they then become attached to profit and
gain, forgetting all about the way. Others diligently engage in Budha and
Sutra Recitation at the beginning, but because they fail to examine
themselves, the afflictions within their minds increase with each passing
day. They then grow lethargic and lazy, to the point where they do not
recite a single time for months, or even years. Still others, although
their lives are progressing normally, see their living conditions
continuously fluctuating with changing external circumstances. With their
minds always in confusion and directed toward the outside, they
unwittingly neglect recitation or abandon it together.
Lục Chủng Khổ hạnh
Ngoại Đạo: See Lục Khổ hạnh.
Lục Chủng Ngoại Đạo:
The six kinds of ascetics—See Lục Khổ Hạnh and Lục Khổ Hạnh Ngoại Đạo.
Lục Chủng Nhân: See
Lục Nhân.
Lục Chủng Phiền Não:
See Lục Đại Phiền Não.
Lục Chủng Quyết Định:
Theo Đại Thừa Trang Nghiêm Luận, đây là sáu loại quyết định hay tăng
thượng lực của Bồ tát tu Lục Độ—The six kinds of certainty resulting from
observance of the six paramitas:
1)
Tài thành quyết định: Do lực bố thí mà được đại tài hay của cải
lớn—The certainty of wealth.
2)
Sinh thắng quyết định: Do lực trì giới nhất định thường được sanh
vào nhà quý thắng (Sát Đế Lợi, Bà La Môn, trưởng giả…)—The certainty of
rebirth in honourable families.
3)
Bất thối quyết định: Do lực nhẫn nhục các thiện pháp đã tu nhất
định chẳng bao giờ bị lùi mất—The certainty of no retrogression to lower
conditions.
4)
Tu tập quyết định: Nhờ luôn tu tập thiện pháp nhất định sẽ không
bao giờ gián đoạn—The certainty of progress in practice.
5)
Định nghiệp quyết định: Do định lực thiền định mà thành tựu chính
định nghiệp vĩnh viễn chẳng bị mất—The certainty of unfailingly good
karma.
6)
Vô công dụng quyết định: Do trí huệ lực, chẳng thêm công hành vẫn
trụ được nơi chân lý và trí tuệ—The certainty of effortless abode in truth
and wisdom.
Lục Chủng Tâm: Sáu
loại tâm—Six kinds of mind—See Tâm.
Lục Chủng Thiện Xảo
Phương Tiện: Theo Bồ Tát Địa Trì Kinh, có sáu loại phương tiện thiện
xảo—According to the Bodhisattva Practicing Ground Sutra, there are six
able devices of Bodhisattvas:
1)
Tùy Thuận Xảo Phương Tiện: Thuận theo căn cơ chúng sanh mà răn dạy,
khiến họ tin tưởng ưa thích; thuyết pháp rất sâu mà dễ hiểu cho mọi
người—Preaching deep truths in simple form to lead on people gladly to
believe.
2)
Lập Yếu Xảo Phương Tiện: Hứa cho chúng sanh tài sản ruộng nương (xe
Hưu, xe Trâu) mà họ mong muốn, để dần dần khiến họ thực hành thiện
pháp—Promising people every good way of realizing their desires, of
wealth.
3)
Dị Tướng Xảo Phương Tiện: Khi họ chẳng tòng thuận thì làm ra vẻ
giận dữ quở trách khiến họ phải sợ mà sữa đổi—Showing a threatening aspect
to the disobedient to induce reform.
4)
Bức Bách Xảo Phương Tiện: Đối với những kẻ phạm giới thì có hình
thức trừng phạt khiến họ lìa bỏ ác pháp—Rebuking and punishing people with
a like object.
5)
Báo Ân Xảo Phương Tiện: Cho tài vật để họ sinh tâm cúng dường bố
thí—Granting wealth to induce grateful offerings and almsgiving.
6)
Thanh Tịnh Xảo Phương Tiện: Từ trên cõi trời giáng sinh, rồi xuất
gia học đạo, thành vô thượng Bồ Đề, khiến chúng sanh đều tín lạc và thanh
tịnh—Descending from heaven, leaving home, attaining, and leading to joy
and purity.
Lục Chủng Thực Phẩm:
Six kinds of food—See Lục Trần.
Lục Chủng Tính: Sáu
loại chủng tính—Six germ-natures or roots of Bodhisattva development:
1)
Từ 1 đến 5 thì giống như trong Ngũ Chủng Tính: From 1 to 5 are the
same as in the five germ-natures—See Ngũ Chủng Tính.
6) Diệu Giác Tính: Giác ngôn viên mãn vi
diệu—The Buddha stage of a wonderful enlightenment.
Lục Chủng Trụ: Sáu
loại trụ vị của Bồ tát—The six bodhisattva-stages in the Bodhisattvabhumi
Sutra (Bồ Tát Địa Trì Kinh):
1)
Chủng tính trụ: The attainment of the Buddha-seed—See Thập Trụ.
2)
Giải hành trụ: The attainment of discernments and practices in the
ten necessary activities of a bodhisattva (see Thập Hạnh Bồ Tát).
3)
Tịnh tâm trụ: The attainment of purity by attaining reality (see Sơ
Địa trong Thập địa Bồ Tát).
4)
Hành đạo tích trụ: The attainment of progress in riddance of
incorrect thinking from the second to the seventh stages of Bodhisattva
(see Thập địa Bồ Tát).
5)
Quyết định trụ: Attainment of powers of correct decision and
judgment in the eight and nine stages of Bodhisattva (see Thập Địa Bồ
Tát).
6)
Cứu cánh trụ: Giai đoạn đạt được Bồ tát toàn thiện trong Thập địa
Bồ Tát, nhưng chưa tới Phật địa—Attainment of the perfect
bodhisattva-stage in the ten stages of bodhisattva, but not including the
Buddha-stage.
Lục Chủng Xảo Phương
Tiện: The six able devices of Bodhisattvas—See Lục Chủng Thiện Xảo
Phương Tiện.
Lục Cốc: The six
cereals:
1)
Nếp: Glutinous rice.
2)
Gạo: Ordinary rice.
3)
Đậu: Beans.
4)
Lúa mì: Wheat.
5)
Lúa mạch: Millet.
6)
Ngô: Corn.
Lục Cung Kính Pháp:
Six kinds of respect—See Sáu Cung Kính Pháp.
Lục Cúng Cụ: Sáu
món dành trong việc cúng kiến hay sáu món mà Thiền Lâm dâng để cúng
Phật—The six articles for worship:
(A)
Theo Phật Giáo Đại Thừa—According to The Mahayana Buddhism:
1)
Hoa: Flowers.
2)
Lư hương: A censer.
3)
Nến (Đèn): Lamp or candles.
4)
Thang (Nước nóng): Hot water.
5)
Quả (Trái cây): Fruits.
6)
Trà: Tea.
(B)
Theo Trung Anh Phật Học Từ Điển của Giáo Sư Soothill—According to
The Dictionary of Chinese Budhist Terms composed by Professor Soothill:
1)
Hoa: Flowers.
2)
Hương (đồ bôi): Unguents.
3)
Nước: Water.
4)
Nhang: Incense.
5)
Thức ăn: Food.
6)
Đèn: Light.
Lục Diện Tôn: See
Lục Túc Tôn.
Lục Diệu Hạnh: See
Lục Hạnh Quán.
Lục Diệu Môn: Sáu
phương cách hay cửa ngõ kỳ diệu cho người tu Phật—Six wonderful strategies
or doors for Buddhist cultivators:
1)
Sổ Tức Môn: Phương pháp đếm hơi thở điều hòa thân tâm. Bạn có thể
đếm từ một đến mười hay ngược lại (đây là một trong những phương pháp
trọng yếu giúp ta định tĩnh)—Meditation by counting one’s breaths. You van
count from one to ten or vise-versa.
2)
Tùy Tức Môn: Phương pháp theo dõi hay nương theo hơi thở (lắng tâm
theo hơi thở, biết mình đang thở vào, biết mình đang thở ra)—Meditation by
following one’s breaths.
3)
Chỉ Môn hay Tập Trung Tâm Ý: Tập trung vào chỉ quán để lắng tâm
tĩnh lặng (đã quán sổ tức và tùy tức, hành giả phải cố gắng tu tập chỉ
quán)—Meditation by concentrating the mind.
4)
Quán Tưởng Môn: Quán tưởng vào một đề mục để trí tuệ sáng suốt và
dứt trừ điên đảo mộng tưởng—Meditation by contemplating on any object to
obtain wisdom and to eliminate delusions.
5)
Hoàn Môn: Quay về chiếu rọi vào trong cái tâm năng quán của chính
mình—Meditation by returning to the mind.
6)
Tịnh Môn: Tâm thanh tịnh hay không dính mắc vào đâu, nghĩa là vọng
động không sanh khởi (biết rõ mình chẳng trụ, chẳng đắm, nhờ đó sự sáng
suốt chân thực khai phát và cắt đứt mọi phiền não)—Meditation by pacifying
the mind.
Lục Dụ: Sáu thì dụ
về mộng huyễn—Six illustrations of unreality in the Diamond Sutra:
1)
Mộng: A dream.
2)
Huyễn: A phantom.
3)
Bào: A bubble.
4)
Ảnh: A shadow.
5)
Sương Mai: Dew.
6)
Điển Chớp: Lightning.
Lục Dục: Sáu
dục—The six sensual attractions:
1)
Sắc Dục: Colour.
2)
Hình Mạo Dục: Form.
3)
Uy Nghi Tư Thái Dục: Carriage.
4)
Ngữ Ngôn Âm Thanh Dục: Voice or Speech.
5)
Tế Hoạt Dục: Softness or Smoothness.
6)
Nhân Tướng Dục: Features.
Lục Dục Ngũ Trần:
The six desires and the five gunas (dusts)—See Lục Dục, and Ngũõ Trần.
Lục Dục Thiên: Sáu
cõi trời Dục Giới (vẫn còn trong cảnh sắc dục). Đây là những cõi trời mà
chúng sanh trong đó vẫn còn chấp trước vào luyến ái thân mật từ thấp đến
cao. Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Đức Phật đã nhắc ngài A Nan về sáu cõi
trời, hình dù khỏi động, nhưng tâm tích hãy còn giao kết, gọi là Trời Dục
Giới—Six Desire Heavens or Heavens of Desires (they are still in the
region of sexual desire). These are Heavens in which the Heavenly beings
are still attached to intimate relations from low to high. In the
Surangama, the Buddha reminded Ananda about the six heavens, although they
have transcended the physical in these six heavens, the traces of their
minds still become involved:
1)
Tứ Thiên vương Thiên: Catur-maha-rajakayika (skt)—Catumaharajika
(p).
a)
The Heaven of the four kings—Tứ Đại Thiên Vương là cảnh giới thấp
nhất, nơi bốn vị Thiên Vương canh giữ bốn phương an trú với quần thần—The
Four Heavenly Great Kings, the lowest realm, where guardian gods of the
four quarters dwell with their followers.
b)
Có bốn vị thiên vương là Trị Quốc, Quảng Mục, Tăng Trưởng và Đa
Văn. Cõi trời nầy ở giữa đường lên núi Tu Di—The Heaven of the four Kings.
It is described as half-way up Mount Sumeru.
c)
Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, quyển Tám, Đức Phật đã nói với ngài A
Nan về Tứ Thiên Vương như sau: “A Nan! Những người ở thế gian, không cầu
thường trụ, chưa bỏ được ân ái thê thiếp, tâm không chạy theo tà dâm, lòng
yên lặng, sáng sủa, sau khi chết, sanh gần mặt trời mặt trăng. Gọi là Trời
Tứ Thiên Vương.”—In the Surangama Sutra, book Eight, the Buddha explained
to Ananda about the Heaven of the four kings as follows: “Ananda! There
are many people in the world who do not seek what is eternal and who
cannot renounce the kindness and love they feel for their wives, but they
have no interest in deviant sexual activity and so develop a purity and
produce light. When their life ends, they draw near the sun and moon and
are among those born in the heaven of the four kings.
2)
Đao Lợi Thiên: Trayastrimsha (skt)—Tavatimsa (p).
a)
Cõi trời ba mươi ba tầng, cảnh giới của ba mươi ba vị trời, nơi đó
Đế Thích là Thiên Chủ—The Thirty-Three Heavens, the realm of the
thirty-three gods, where Sakka is the Lord, or King of gods.
b)
Tam Thập Tam Thiên hay cõi Trời Ba Mươi Ba Tầng, cảnh trời thắng
diệu tuyệt vời không sao kể xiết. Cõi trời nầy ở ngay đỉnh núi Tu
Di—Trayastrimsha or the Trayastrimsha Heaven. It is described as at the
summit of Mount Sumeru.
c)
Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Đức Phật nói: “Những người ít dâm dục,
mà lúc tịnh cư, chưa được hoàn toàn trong sạch. Sau khi chết, vượt khỏi
mặt trời, mặt trăng, ở đỉnh nhân gian. Gọi là Đao Lợi Thiên.”: In the
Surangama Sutra, the Buddha said, “Those whose sexual love for their wives
is slight, but who have not yet obtained the entire flavor of dwelling in
purity, transcend the light of sun and moon at the end of their lives, and
reside at the summit of the human realm. They are among those born in the
Tryastrimsha Heaven.”
** Bốn cõi trời còn lại tọa lạc giữa núi Tu
Di và những trời Phạm Giới—The rest four Heavens are located between Mount
Sumeru and the Brahmalokas.
3)
Tô Dạ Ma Thiên: Dạ Ma Thiên hay Tu Diệm Ma Thiên—Suyama (skt)—Yama
(p).
a)
Dạ Ma Thiên là cõi trời diệt khổ của hội chúng Thiên Dạ Ma—Yama is
the heaven that destroys pains, the realm of the Yama gods.
b)
Cõi Trời Khoái Lạc—The Suyama Heaven.
c)
Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Đức Phật nói: “Những người thỉnh thoảng
có gặp cảnh dục, tạm thời có giao, qua rồi tâm không nhớ nghĩ đến nữa. Ở
trong đời, động ií tĩnh nhiều. Sau khi chết, được rỡ ràng an trụ trong hư
không. Ánh sáng mặt trời mặt trăng chiếu lên chẳng tới, tự chói sáng. Gọi
là trời Tu Diệm Ma.”—In the Surangama Sutra, the Buddha said: “Those who
become temporarily involved when they meet with desire but who forget
about it when it is finished, and who, while in the human realm, are
active less and quiet more, abide at the end of their lives in light and
emptiness where the illumination of sun and moon does not reach. These
beings have their own light, and they are among those born in the Suyama
Heaven.”
4)
Đâu Suất Thiên: Tushita (skt)—Tusita (p).
a)
Trời Hỷ Túc hay vui mừng thỏa mãn—The Tushita Heaven.
b)
Đâu Suất Thiên là cõi trời hoan lạc dành cho chư Thiên an trú trong
hạnh phúc—Tusita is the heaven of delight, for happy dwellers.
c)
Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Đức Phật dạy: “Những người thường
thường yên tĩnh. Có cảnh dục đến chưa thể dứt hẳn. Sau khi chết, sanh lên
trên nữa, không tiếp hạ giới cảnh nhân thiên. Đến kiếp hoại, ba tai họa là
nước, lửa, gió không tới được. Gọi là Trời Đâu Suất.”—In the Surangama
Sutra, the Buddha said: “Those who are quiet all the time, but who are not
yet able to resist when stimulated by contact, ascend at the end of their
lives to a subtle and ethereal place; they will not be drawn into the
lower realms. The destruction of the realms of humans and gods and the
obliteration of kalpas by the three disasters will not reach them, for
they are among those born in the Tushita Heaven.”
5)
Lạc Biến Hóa Thiên: Nirmanarati (skt)—Nimmanarati (p).
a)
Cõi trời hay thích biến hóa, còn gọi là Hóa Lạc Thiên: The
transformation of Bliss Heaven.
b)
Hóa Lạc là cõi trời của chư Thiên tìm lạc thú ở công trình sáng tạo
của chính mình—The realm of the devas who delight in creation of their
own.
c)
Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Đức Phật dạy: “Những người không có dâm
dục tâm, đối với sự dục thấy vô vị không thiết. Lúc chết, sanh lên cảnh
siêu việt biến hóa. Gọi là Trời Lạc Biến Hóa.”—In the Surangama Sutra, the
Buddha said: “Those who are devoid of desire, but who will engage in it
for the sake of their partner, even though the flavor of doing so is like
the flavor of chewing wax, are born at the end of their lives in a place
of transcending transformations. They are among those born in the Heaven
of Bliss by Transformation.”
6)
Tha Hóa Tự Tại Thiên: Parinimmita-vasavati (p).
a)
Cõi trời có thể khiến tự tại biến hóa từ sự hỷ lạc của người khác
hay từ công trình sáng tạo của người khác—The heaven of devas who delight
or gain the comfort from others’ bliss (Comfort Gained From The
Transformation of Others’ Bliss), or delight in others’ creation.
b)
Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Đức Phật dạy: “Những người không có tâm
thế gian, mà làm việc ở thế gian. Siêu việt không làm sự giao. Lúc chết
siêu xuất cảnh biến hóa và không biến hóa. Gọi là Tha Hóa Tự Tại
Thiên.”—In the Surangama Sutra, the Buddha said: “Those who have no kind
of worldly thoughts while doing what worldly people do, who are lucid and
beyond such activity while involved in it, are capable at the end of their
lives of entirely transcending states where transformations may be
present and may be lacking. They are among those born in the Heaven of the
Comfort from others’ transformations.”
Lục Dục Tứ Thiền:
Lục dục thiên của dục giới và Tứ thiền thiên của sắc giới. Tứ thiền là
thanh tịnh thiên nơi đã lìa bỏ hẳn dâm dục—The six heavens where sexual
desire continues, and the four dhyana heavens of purity above them free
from such desire.
Lục Đại: Lục
Giới—Sad-dhatavah (skt)—The six great or fundamental things or elements:
1)
Địa Giới: Địa Đại—Đất—Earth element.
2)
Thủy Giới: Thủy Đại—Nước—Water element.
3)
Hỏa Giới: Hỏa Đại—Lửa—Fire element.
4)
Phong Giới: Phong Đại—Gió—Wind or Air element.
5)
Không Giới: Không Đại—Hư không—Space element.
6)
Thức Giới: Thức Đại—Tâm Thức—Mind or Perception.
Lục Đại Hữu Tình:
Chúng hữu tình quan hệ trực tiếp với lục đại—The animate are connected
directly with the six great or fundamental things—See Lục Đại.
Lục Đại Pháp Tánh
(Tính): Có hai mặt tướng và tánh. Những thứ mà mắt của phàm phu trông
thấy được chỉ là sự tướng của nhau, còn những thứ mà Thánh trí nhìn thấy
mới chính là pháp tính nhất vị bình đẳng của lục đại—The unity in variety
of the six elements and their products. Ordinary eyes see only the
differentiated forms or appearances, the sage or philosopher sees the
unity.
Lục Đại Phiền Não:
Sáu phiền não lớn—The six great klesa, passion or distressers:
1)
Tham Phiền Não: Raga (skt)—Phiền não gây ra bởi tham ái hay muốn có
(nhiễm trước thành tính rồi sinh ra khổ nghiệp)—Afflictions caused by
desire or desire to have—See Tham Ái.
2)
Sân Phiền Não: Pratigha (skt)—Phiền não gây ra bởi sân hận (do căm
ghét mà thành tính, dựa vào bất an và ác hành mà tạo thành
nghiệp)—Afflictions caused by resentment or anger.
3)
Si Phiền Não: Mudhaya (skt)—Phiền não gây ra bởi si mê (mê muội mờ
ám về sự lý mà thành tính, dựa vào những nghi hoặc mà tác thành
nghiệp)—Afflictions caused by stupidity or ignorance.
4)
Mạn Phiền Não: Mana (skt)—Phiền não gây ra bởi kiêu ngạo (do thói
cậy mình tài hơn người mà thành tính và sanh ra khổ nghiệp) —Afflictions
caused by pride or self-conceit.
5)
Nghi Phiền Não: Vicitiksa (skt)—Phiền não gây ra bởi nghi hoặc (do
ngờ vực về chân lý mà thành tính, từ đó ngăn cản tín tâm rồi hành động tà
vạy mà thành nghiệp)—Afflictions caused by doubt.
6)
Ác Kiến Phiền Não: Drishti (skt)—Phiền não gây ra bởi ác kiến hay
tà kiến (do ác kiến suy nghĩ đảo điên mà thành tính, ngăn cản thiện kiến
rồi hành động tà vạy gây ra ác nghiệp)—Afflictions caused by False views.
** For more information,
please see Tứ Đại
Phiền Não.
Lục Đại Quán: Pháp
quán tưởng về lục đại—Meditation on the six elements.
1)
Hiển giáo quán lục đại là không thật, là bất tịnh—The exoteric cult
believes that they are unreal and unclean.
2)
Mật giáo cho rằng lục đại ở Phật thế nào thì ở chúng sanh cũng thế
ấy, nên họ chủ trương quán lục đại một cách viên dung vô ngại—The esoteric
cult believes that the Buddha and human elements are of the same substance
and interchangeable.
Lục Đại Tặc: See
Lục Đại.
Lục Đại Thần: Sáu
vị thần kiểm soát lục đại; mỗi vị kiểm soát một đại—The spirits of the six
elements; each element controlled by a specific spirit:
1)
Thần Đất: Vị Thần kiểm soát địa đại—The Earth Spirit who controls
the earth.
2)
Thần Nước: Vị Thần kiểm soát thủy đại—The Water Spirit who controls
the water.
3)
Thần Lửa: Vị Tần kiểm soát hỏa đại—The Fire Spirit who controls the
fire.
4)
Thần Gió: Vị Thần kiểm soát phong đại—The Wind Spirit who controls
the wind.
5)
Thần Hư Không: Vị Thần kiểm soát hư không đại—The Space Spirit who
controls the space.
6)
Thần Tâm Thức: Vị Thần kiểm soát thức đại—The Mind Spirit who
controls the mind.
Lục Đại Vô Ngại:
Lục Đại Thể Đại—Tự tính của lục đại là thông dung vô ngại—Lục đại vô ngại
tuy gồm chung cho cả Hiển và Mật giáo, nhưng luận về lục đại thì Mật giáo
cho rằng tự tính của lục đại vô ngại bình đẳng, nên lục đại của Phật và
lục đại của chúng sanh thông dung với nhau mà không gián cách, phàm phu
luôn tìm cách gián cách nên khởi lên vọng kiến phân biệt bỉ, thử, ta,
người, nầy, nọ—The six elements unimpeded, or interactive—The six elements
in their greater substance, or whole. The doctrine of the esoteric cult of
transubstantiation, or the free interchangeability of the six Buddha
elements with the human, like with like, whereby yoga becomes possible,
such as the Buddha elements entering the possessing the human elements,
for both are of the same elemental nature.
Lục Đáo Bỉ Ngạn:
Sáu Ba La Mật đưa chúng sanh qua bờ giác ngộ—The six things that ferry one
to the other shore—See Lục Độ Ba La Mật in Vietnamese-English Section.
Lục Đạo: Lục
Thú—Sáu đường luân hồi của chúng sanh (chúng sanh tạo các nghiệp khác nhau
rồi bị nghiệp lực thúc đẩy, dẫn dắt đến sáu loại đầu thai, qua lại trong
sáu nẻo, sanh rồi tử, tử rồi sanh, như bánh xe xoay vần, không bao giờ
dừng nghỉ, hoặc vào địa ngục, hoặc làm quỷ đói, hoặc làm súc sanh, hoặc A
Tu La, hoặc làm người, hoặc làm trời, Đức Phật gọi đó là luân chuyển trong
lục đạo)—Six paths—The six ways or conditions of sentient existence—Six
miserable states (sentient beings revolve in the cycle of Birth and Death,
along the six paths, life after life. These are paths of hell-dwellers,
hungry ghosts, animals, titanic demons or asuras, human beings and
celestials):
(A)
Hạ Tam Đồ hay ba đường dữ: Tri-Akusala (skt)—The three lower gatis,
or three evil paths:
1)
Địa Ngục Đạo: Naraka-gati (skt)—Hells—Tiếng Phạn là Naraka, nghĩa
là lãnh đủ mọi sự khổ não, không an vui. Đây là cảnh giới địa ngục—The
state of being in Hell.
·
Đây là điều kiện sống thấp nhất và khốn khổ nhất—This is the
lowest and most miserable condition of existence.
·
Chúng sanh (A-Lại-Da thức) bị đọa vào địa ngục vì những hành
vi độc ác làm nhiều điều tội lỗi hại người hại vật (loại nầy ở chỗ tối
tăm, bị tra tấn thường xuyên do tội hành nghiệp chiêu cảm). Trong cõi địa
ngục thì sự khổ không có bút mực nào mà tả cho xiết—Sentient being
(alaya-consciousness) is condemned to stay in Hell due to his worse karma.
In the hellish path, the sufferings there are so great that no words can
describe them.
·
See Địa Ngục.
2)
Ngạ Quỷ Đạo: Preta-gati (skt)—Tiếng Phạn là Preta. Đây là cảnh giới
ngạ quỷ, nơi tái sanh của những kẻ tham lam, ích kỷ và dối gạt (trong các
loài quỷ thì quỷ đói chiếm đa số. Các loài quỷ chịu quả báo không đồng, kẻ
nào có chút ít phước báo thì được sanh nơi rừng núi, gò miếu; loài không
có phước báo thì thác sanh vào những chỗ bất tịnh, ăn uống thất thường, bị
nhiều nỗi khổ sở. Chúng sanh độc ác bị tái sanh vào ngạ quỷ, thấy suối
nước như thấy máu mủ, cổ nhỏ như cây kim, bụng ỏng như cái trống chầu, có
khi đồ ăn vừa vào đến miệng, đã trở thành than hồng, không thể nào nuốt
được, chịu đại khổ não suốt đời cùng kiếp). Ở cõi ngạ quỷ chúng sanh thân
thể xấu xa hôi hám, bụng lớn như cái trống, cồ nhỏ như cây kim, miệng phục
ra lửa mỗi khi nuốc thức ăn, và chịu cảnh đói khát trong muôn ngàn
kiếp—The state of hungry ghosts—Starved ghosts realm where greedy, selfish
and deceitful souls are reborn. In the path of hungry ghosts, beings have
ugly, smelly bodies, with bellies as big as drums and throats as small as
needles, while flames shoot out of their mouths. They are subject to
hunger and thirst for incalculable eons.
3)
Súc Sanh Đạo: Tiryagyoni-gati (skt)—Tiếng Phạn là Tiryagyoni, nghĩa
là loài chúng sanh sanh ra để bị người đời hành hạ và ăn thịt. Đây là cảnh
giới súc sanh, nơi tái sanh của những kẻ si mê, sa đọa, tửu sắc, bài bạc,
đối trá và tà dâm (trên từ rồng, thú, cầm, súc; dưới đến thủy tộc và loài
côn trùng, không bao giờ đi thẳng được như con người hay chư Thiên. Loài
nầy thường giết hại và ăn thịt lẫn nhau, đồng loại thì ỷ mạnh hiếp yếu.
Ngoài ra, chúng còn bị con người sai sử chuyên chở và đánh đập). Cõi bàng
sanh như loài trâu, bò, lừa, ngựa bị sự khổ chở kéo nặng nề. Loài dê, heo,
vịt, gà, thì bị sự khổ về banh da xẻ thịt làm thức ăn cho loài người. Các
loài khác thì chịu sự khổ về ngu tối, nhơ nhớp, giết hại và ăn uống lẫn
nhau—Animality—The state of animals—Animals’ realm reserved for those
souls who are dull-witted, depraved, or have committed fornication. The
path of animals, such as buffaloes, cattle, donkeys and horses, is subject
to heavy toil. Other domestic animals, such as goats, pigs, chicken and
ducks, are subject to be killed to make food for human beings. Still other
animals suffer from stupidity, living in filth, and killing one another
for food.
(B)
Thượng Tam Đồ hay ba đường lành:Tri-Kusala (skt)—The three upper
gatis, or three good paths—Trong ba đường lành nầy thì hai đường người
trời rất khó được sanh vào, trong khi bị đọa vào a-tu-la và hạ tam đồ thì
lại dễ dàng và thông thường—Among the three upper gatis, rebirth in the
celestial or human paths is difficult, while descend into Asura path and
other three lower gatis is easy and common:
4)
A-Tu-La Đạo: Asura-gati (skt)—Tiếng Phạn gọi là Asura, nghĩa là
tánh tình xấu xa, cũng có nghĩa là phước báo không bằng chúng sanh ở hai
cõi người và trời. Đây là cảnh giới của những chúng sanh xấu ác, hay giận
dữ, tánh tình nóng nảy, thích bạo động hay gây gỗ, và si mê theo tà giáo
(chúng sanh trong cảnh giới nầy cũng có phước báo, nhưng lại bị tham vọng,
dối trá, kiêu mạn, là quả của những tiền nghiệp lấn lướt, nên tâm thường
hay chứa đầy tức giận và chấp trước)—The state of angry demons—Asuras’
realm where those who are wicked, hot-tempered, violent or are initiated
into paganism (the path of asuras is filled with quarrelling and
acrimonious competition).
5)
Nhân Đạo: Manusya-gati (skt)—Cảnh giới của con người, hay thế giới
của chúng ta, nơi mà những chúng sanh nào thọ trì ngũ giới sẽ được tái
sanh vào (cõi nầy chúng sanh khổ vui lẫn lộn, tuy nhiên, thường bị cảnh
khổ sở thiếu thốn, đói khát, lạnh nóng, sợ sệt, vân vân. Bên cạnh đó lại
phải bị những lo âu sợ sệt về sanh, lão, bệnh, tử, chia ly, thương ghét.
Khổ thì có tam khổ như khổ khổ, hoại khổ, hành khổ; hoặc ngũ khổ như sanh
khổ, già khổ, bệnh khổ, chết khổ, khổ vì phạm các tội mà bị trói buộc;
hoặc bát khổ như sanh, già, bệnh, chết, ái biệt ly, oán tắng hội, cầu bất
đắc, ngũ ấm thạnh suy. Tuy cũng có những niềm vui, nhưng đây chỉ là niềm
vui tạm bợ, vui để chờ buồn chờ khổ. Chúng sanh sanh vào cõi người, mà lại
gặp được Phật pháp thì theo lời Phật dạy là một đại hạnh, vì đây là cơ hội
ngàn năm một thuở cho cuộc tu giải thoát)—The state of human-beings—Our
earth, place where those who keep the basic five precepts are reborn.
6)
Thiên Đạo: Deva-gati (skt)—Tiếng Phạn gọi là “Deva,” có nghĩa là
sáng suốt, thanh tịnh, tự tại hay tối thắng. Thiên đạo hay cảnh giới chư
thiên là nơi tái sanh của những chúng sanh nào giữ tròn năm giới, thực
hành thập thiện nghiệp, và tránh thập ác (người sanh lên cõi trời thân
được sáng suốt, vui nhiều hơn khổ, sự ăn mặc, cung điện, nhà cửa đều được
sung sướng tốt đẹp, không thiếu thốn về vật chất). Cõi trời tuy vui vẻ hơn
nhân gian, nhưng cũng còn tướng ngũ suy và những điều bất như
ý—Celestials—The state of gods—Gods’ realm is reserved to those who
observe the five basic commandments and have practiced the Ten Meritorious
Action and abstained to do the Ten Evil Deeds. Although the celestial path
is blessed with more happiness than our world, it is still marked by the
five signs of decay and the things that go against our wishes.
Lục Đạo Ca Đà Kinh:
Hai bộ kinh nói về Lục đạo—The two Sutras dealing with the six ways of
rebirth.
Lục Đạo Năng Hóa Bồ Tát:
Bồ Tát có thể thay đổi vận mệnh của sáu đường sanh tử—Bodhisattvas who can
change the lot of those in the six paths (gati)—See Lục Địa Tạng.
Lục Đạo Nhân Quả:
The six states through which we pass according to the law of cause and
effect—See Lục đạo in Vietnamese-English Section.
Lục Đạo Phật Bồ Tát:
The Buddhas and Bodhisattvas of the six gati, such as the six Ti-Tsang—See
Lục Địa Tạng.
Lục Đạo Tứ Sanh:
trong lục đạo có bốn loại chúng sanh hay bốn loại tái sanh—The four modes
of the six rebirths or six gati:
1)
Thai sanh: Sanh bằng tử cung—Womb.
2)
Noãn Sanh: Sanh bằng trứng—Egg.
3)
Thấp Sanh: Sanh nơi ẩm thấp—Moisture.
4)
Hóa Sanh: Tự hóa ra—Transformation.
Lục Đạo Tứ Thánh:
Sáu đường sanh tử và bốn nẻo Thánh—The six ways of rebirth and the four
holy ways of rebirth:
(A)
Lục Đạo: The six gati—See Lục Đạo.
(B)
Tứ Thánh—The four holy ways of rebirth:
1)
Thanh Văn: Sravakas.
2)
Duyên Giác: Pratyeka-buddhas.
3)
Bồ tát: Bodhisattvas.
4)
Phật: Buddhas.
Lục Đạo Xoay Vần Không
Mối Hở, Vô Thường Ập Đến Vạn Duyên Buông: Born and reborn endlessly in
the six realms, when impermanence surges we must let go everything.
Lục Đế: Lục cú
nghĩa pháp do Thắng Luận Sư (một trường phái ngoại đạo) đặt ra—The six
logical categories of the Vaisesika philosophy (one of the heretic sects):
1)
Thực: Bản thể—Dravya (skt)—Substance.
2)
Đức: Thuộc tính—Guna (skt)—Quality.
3)
Nghiệp: Tác dụng—Karman (skt)—Motion of activity.
4)
Hữu: Samanya (skt)—Generality.
5)
Dị Đồng: Visesa (skt)—Particularity.
6)
Hòa Hợp: Samavaya (skt)—Inherence.
Lục Địa Tạng: Sáu
vị Bồ tát hóa thân của Ngài Địa Tạng trong nhóm Địa Tạng của Thai Tạng
Giới, mỗi vị kiểm soát một trong sáu đường sanh tử—Six Bodhisattvas in the
Ti-Tsang group of the Garbhadhatu, each controlling one of the six ways of
sentient existence:
1)
Đầu Đà Địa Tạng: Bồ tát Địa Tạng trong địa ngục tay cầm tràng phan
hình đầu người—Transformation body of Ti-Tsang Bodhisattva who deals with
rebirth in the hells.
2)
Bảo Châu Địa Tạng: Vị hóa thân của Bồ Tát Địa Tạng trong cõi ngạ
quỷ, tay cầm ngọc bảo châu—Transformation body of Ti-Tsang Bodhisattva
who deals with rebirth in the realm of hungry ghosts.
3)
Bảo Ấn Địa Tạng: Vị hóa thân của Bồ tát Địa tạng trong cõi súc
sanh, duỗi tay kết bảo ấn Như Ý—Transformation body of Ti-Tsang
Bodhisattva who deals with rebirth in the realm of animals.
4)
Trì Địa Tạng: Vị hóa thân của Bồ tát Địa Tạng trong cõi A Tu La,
hai tay thường nâng quả đất (biểu tượng của sự nâng đỡ)—Transformation
body of Ti-Tsang Bodhisattva who deals with rebirth in the realm of
Asuras.
5)
Trừ Cái Chướng Địa Tạng: Vị hóa thân của Bồ Tát Địa Tạng trong cõi
người, trừ tám món khổ che lấp nhân loại—Transformation body of Ti-Tsang
Bodhisattva who deals with rebirth in the realm of human beings.
6)
Nhật Quang Địa Tạng: Vị hóa thân của Bồ Tát Địa Tạng trong cõi
trời, dùng ánh sáng soi rọi khiến cõi nhân thiên trừ được phiền
não—Transformation body of Ti-Tsang Bodhisattva who deals with the realm
of devas.
Lục Điểm Tái Sanh:
Theo Kinh A Hàm thì Phật dạy rằng phàm một người khi đã chết thì thân thể
trở nên lạnh giá vì hỏa đại đã tắt mất. Tuy nhiên, sau khi tắt thở rồi,
nhưng trong thân thể cũng vẫn còn một chỗ nóng tối hậu trước khi hoàn toàn
trở nên lạnh giá. Nơi nào Thần Thức thoát ra sau cùng thì nơi đó là nơi
còn ấm sau cùng trong thân thể, và có sáu nơi tiêu biểu cho sáu đường tái
sanh, hoặc nóng nơi đỉnh đầu, nóng ở mắt, nóng nơi ngực, nóng nơi bụng,
nóng nơi đầu gối, hoặc nóng nơi hai lòng bàn chân. Thỉnh thoảng điểm nóng
nầy vẫn còn nóng đến bốn năm tiếng đồng hồ sau khi chết. Có sáu điểm nóng
tối hậu tiêu biểu cho sự tái sanh nơi lục đạo—The Buddha taught in the
Agama sutra that once death arrives, the body will turn cold because the
‘great fire’ has already burned out. Even so, after all breathing has
ceased, in the body there is one last warm spot before the entire body
turns cold. The last warm spot represents the place where the conciousness
of the deceased escaped the mortal body, and these warm spots may be at
the crown of the head, the eye, the chest, the stomach, the knee, or the
soles of both feet. Sometimes this warm spot will remain for as long as
four to five hours after the person has died. There are six places in the
body that represent the six paths of rebirth:
1)
Đảnh Thánh—The crown (warm spot) stands for Sainthood or Corwn
Enlightenment: Khi một người đã chết được vài giờ, khắp thân thể chỗ nào
cũng giá lạnh như băng, nhưng vẫn còn điểm nóng trên đỉnh đầu, nghĩa là
thần thức của người nầy do nơi đỉnh đầu mà xuất ra khỏi thân xác, tức là
người ấy tái sanh vào cõi Thánh. Nói cách khác, khi thần thức của người
chết xuất ra từ nơi đỉnh đầu, chúng ta biết chắc là thần thức của người ấy
được siêu thoát về nơi Thánh cảnh—When the body of the deceased (a person
who has died for three or four hours) is completely cold except for the
crown. That means the spirit of the dead has left the body by the way of
the crown and the person has been reborn in the realm of saint. In other
words, if the spirit left the body through the crown of the head, we are
absolutely certain the spirit of the person who has just died has attained
liberation to the enlightened realm.
2)
Mắt sanh Thiên: Khi điểm nóng sau cùng trên thân thể là hai mắt và
trán thì thần thức của người ấy đã sanh về cõi trời—When the person’s eyes
and forehead are the last to remain warm, the spirit of that person has
been reborn in the celestial (heaven) realms.
3)
Tim Người: Khi điểm nóng sau cùng nơi tim, là thần thức của người
ấy đã sanh lại cõi người—When the person’s heart is the last to remain
warm, the spirit of that person has been reborn back among human beings.
4)
Bụng Ngạ quỷ: Khi điểm nóng sau cùng trong thân thể là bụng, thì
thần thức của người ấy đã sanh làm ngạ quỷ—When the person’s belly is the
last to remain warm, the spirit of that person has been reborn among
hungry ghosts.
5)
Đầu gối Bàng sanh: Khi điểm nóng sau cùng trong thân thể là đầu
gối, thì thần thức của người ấy đã tái sanh vào loại bàng sanh (thú)—When
the person’s knees are the last to remain warm, the spirit of that person
has been reborn among animals.
6)
Lòng bàn chân Địa ngục: Khi điểm nóng sau cùng trong thân là lòng
bàn chân, thì thần thức của người ấy đã bị đọa vào địa ngục—When the
person’s soles of the feet are the last to remain warm, the spirit of that
person has been fallen in the hell.
Lục Độ: See Lục Độ
Ba La Mật.
Lục Độ Ba La Mật:
Six virtues of perfection—Ba La Mật, theo Phạn nhữ, có nghĩa là đáo bỉ
ngạn. Sáu Ba La Mật đưa chúng sanh qua biển sanh tử để đi đến Niết bàn.
Sáu giai đoạn hoàn thiện tinh thần của chư Bồ tát trong tiến trình thành
Phật. Chẳng những Lục độ Ba La Mật là đặc trưng cho Phật Giáo Đại Thừa
trong nhiều phương diện, mà chúng còn gồm những cơ bản đạo đức chung cho
tất cả các tôn giáo. Lục độ bao gồm sự thực tập và sự phát triển khả dĩ
cao nhất. Vì vậy, thực hành sáu Ba La Mật sẽ giúp hành giả vượt bờ mê qua
đến bến giác—Six Paramitas—According to the Sanskrit language, Paramita
means crossing-over. Six Paramitas mean the six things that ferry one
beyond the sea of mortality to nirvana. Six stages of spiritual perfection
followed by the Bodhisattva in his progress to Buddhahood. The six virtues
of perfection are not only characteristic of Mahayana Buddhism in many
ways, they also contain virtues commonly held up as cardinal by all
religious systems. They consist of the practice and highest possible
development. Thus, practicing the six paramitas will lead the practitioner
to cross over from the shore of the unenlightened to the dock of
enlightenment:
1)
Đàn Na Ba La Mật hay Bố thí Ba la mật: Dana-paramita
(skt)—Charity—Đây không chỉ có nghĩa là cho đi thứ gì mà người ta có thừa;
nó còn bao gồm cả việc thí xả thân mệnh mình cho chính nghĩa. Đàn na bao
gồm tài thí, pháp thí và vô úy thí. Bố thí Ba la Mật được dùng để diệt trừ
xan tham, bỏn xẻn—Charity does not merely mean to give away what one has
in abundance, but it involves even the giving-up of one’s whole being for
a cause. Charity, or giving, including the bestowing of the truth and
courage giving on others—The path of giving. Giving Paramita is used to
destroy greed, selfishness, and stinginess.
1a) Đối nghịch lại với Bố Thí là bỏn xẻn keo
kiết: The opposite of Charity is Meanness.
1b) Quả báo của Bố Thí là Phước: The reward
stimulated by Dana is Enrichment.
2)
Thi La Ba La Mật hay Trì giới Ba la mật: Sila-paramita
(skt)—Discipline—Trì giới hạnh thanh tịnh nghĩa là thực hành tất cả các
giới răn của đạo Phật, hay tất cả những thiện hạnh dẫn tới chỗ toàn thiện
đạo đức cho mình và cho tất cả mọi người. Trì giữ giới hạnh thanh tịnh.
Trì giới Ba La Mật được dùng để diệt trừ phạm giới và hủy báng Phật
Pháp—Pure observance of precepts (keeping the commandments, upholding the
precepts, the path of keeping precepts, or moral conduct, etc) is the
practicing of all the Buddhist precepts, or all the virtuous deeds that
are conducive to the moral welfare of oneself and that of others.
Maintaining Precept Paramita is used to destroy violating precepts and
degrading the Buddha-Dharma.
2a) Đối nghịch lại với Trì Giới là Quỷ Quyệt
Phá Giới: The opposite of Keeping the Commandments is Wickedness.
2b) Quả báo mang lại do trì giới là sự Toàn
Hảo (Cụ Sắc): The reward from Keeping the Commandments is Perfection in
all things.
3)
Sằn Đề hay Nhẫn nhục Ba La Mật: Ksanti-paramita (skt)—Patience—Nhẫn
nhục đôi khi cũng được gọi là nhẫn nại, nhưng nhẫn nhục thì đúng nghĩa
hơn. Vì rằng nó không chỉ là sự kiên nhẫn chịu những bệnh hoạn của xác
thịt, mà nó là cảm giác về sự vô nghĩa, vô giới hạn, và xấu ác. Nói cách
khác, nhẫn nhục là nín chịu mọi sự mắng nhục của các loài hữu tình, cũng
như những nóng lạnh của thời tiết. Nhẫn nhục Ba la mật được dùng để diệt
trừ nóng giận và sân hận—Humility is sometomes rendered patience, but
humility is more to the point. Rather than merely enduring all sorts of
ills of the body, it is the feeling of unworthiness, limitlessness, and
sinfulness. In other words, humility or patience, or forebearance under
insult of other beings as well hot and cold weather—The path of endurance.
Tolerance Paramita is used to destroy anger and hatred.
3a) Đối nghịch lại với Nhẫn Nhục là Nóng Giận
và Sân Hận: The opposite of Patience is Anger and Hatred.
3b) Quả báo mang lại do Nhẫn Nhục Năng Lực:
The reward from Patience is Power.
4)
Tì Lê Gia hay Tinh tấn Ba La Mật: Virya-paramita
(skt)—Devotion—Tinh tấn là kiên trì thể hiện động lực chí thiện. Đời sống
của các vị tu theo Phật giáo Đại Thừa là một cuộc đời hăng say tột bực,
không chỉ trong đời sống hiện tại mà cả trong đời sống tương lai và những
cuộc đời kế tiếp không bao giờ cùng tận. Tinh tấn còn có nghĩa là luôn
khích lệ thân tâm tiến tu năm Ba La Mật còn lại. Tinh tấn Ba la mật được
dùng để diệt trừ các sự giải đãi—Devotion or Striving means a constant
application of oneself to the promotion of good. The Mahayanists’ life is
one of utmost strenuousness not only in this life, but in the lives to
come, and the lives to come may have no end. Virya also means energy or
zeal (earnestness—Diligence—Vigour—The path of endeavor) and progress in
practicing the other five paramitas. Vigor Paramita is used to destroy
laziness and procrastination.
4a) Đối nghịch lại với Tinh Tấn là Giãi Đãi:
The opposite of Zeal or Progress is Sloth.
4b) Quả báo mang lại do Tinh Tấn là Thọ Mệnh:
The reward from Zeal is Long Life.
5)
Thiền Na hay Thiền Định Ba La Mật: Tịnh lự—Dhyana-paramita
(skt)—Meditation—Thiền định có nghĩa là tư duy, nhựng không theo nghĩa tư
duy về một phương diện đạo đức hay một cách ngôn triết học; nó là việc tu
tập tĩnh tâm. Nói khác đi, thiền định là luôn tu theo pháp tư duy để đình
chỉ sự tán loạn trong tâm. Thiền định Ba la mật được dùng để diệt trừ sự
tán loạn và hôn trầm—Dhyana means meditation, not in the sense of
meditating on a moral maxim or a philosophical saying, but the
disciplining of oneself in tranquillization. In other words, Dhyana
(meditation—Contemplation—Quiet thoughts—Abstraction—Serenity) means the
path of concentration of mind to stop the scattered mind. Meditation
Paramita is used to destroy chaos and drowsiness.
5a) Đối nghịch với Thiền Định là Tán Tâm hay
tâm tán loạn: The opposite of Meditation or Contemplation is Distracted
Mind.
5b) Quả báo mang lại do Thiền Định là An
Tịnh: The reward from Meditation is Peace or calmness.
6)
Bát Nhã hay Trí huệ Ba La Mật: Prajna-paramita (skt)—Wisdom—Bát Nhã
là trí tuệ siêu việt, yếu tố giác ngộ. Nó là trực giác thông đạt mọi pháp
để chứng đạt chân lý, hay để nhìn vào chân lý cứu cánh của vạn hữu, nhờ đó
mà người ta thoát ra ngoài triền phược của hiện hữu và trở thành tự chủ
lấy mình. Bát Nhã hay Trí huệ Ba la mật được dùng để diệt trừ sự hôn ám
ngu si—Prajna (Wisdom—Knowledge—Real Wisdom—The path of wisdon) means
transcendental knowledge. This is what constitutes enlightenment; it is an
intuition into the power to discern reality or truth, or into the ultimate
truth of things, by gaining which one is released from the bondage of
existence, and becomes master of one’s self. Wisdom Paramita is used to
destroy ignorance and stupidity.
6a) Đối nghịch lại với Trí Huệ là Vô Minh hay ngu si: The opposite of
Wisdom is Ignorance.
6b) Quả báo mang lại do Trí Huệ là sự biện biệt chân lý: The reward from
Wisdom is discrimination or powers of exposition of the truth.
** For more information, please see Thập Độ Ba La Mật.
Lục Độ Quả Báo: Sáu
quả báo thâu thập được do sự tu tập Lục Ba La Mật—The rewards stimulated
by the six paramitas—See Lục Ba La Mật (b).
Lục Độ Vạn Hạnh:
Six Paramitas and ten thousand conducts:
(A)
Lục Độ: Six Paramitas—Lục độ Ba La Mật hay Lục Đáo Bỉ ngạn của chư
Đại Bồ Tát—Six Ways or six Paramitas (crossing over) of
Maha-Bodhisattvas—See Lục Độ Ba La Mật.
(B)
Vạn Hạnh: Ten Thousand Conducts—Tất cả vạn hạnh mà một vị Bồ Tát
cần phải tu tập để diệt trừ si mê và đạt thành quả vị Phật—All the
practices a Bodhisattva must cultivate in order to eliminate ignorance and
attain Buddhahood.
Lục Độ Vô Cực: Sáu
phương tiện vô biên đưa chúng sanh ra khỏi biển luân hồi sanh tử—The six
infinite means of crossing the sea of mortality—See Lục Độ Ba La Mật.
Lục Đục:
Disagreement—Discord—Dissension.
Lục Đức: Sáu đặc
tánh của từ Bạt Già Phạm, cũng là một trong những danh hiệu của Phật—The
six charateristics of a Bhagavat, which is one of a Buddha’s titles:
1)
Tự Tại: Sovereign.
2)
Cực Thịnh (Huy hoàng): Glorious.
3)
Đoan Nghiêm: Majestic.
4)
Danh Tiếng: Famous.
5)
Cát Tường (tốt lành): Propitious.
6)
Tôn Quý (cao quý): Honoured.
Lục Giải Nhứt Vong:
Khi mà sự trói buộc của sáu căn không còn nữa thì luân hồi sanh tử cũng tự
nhiên biến mất và Niết bàn hiển lộ—When the six knots are untied the unity
disappears. The six knots represent the six organs causing mortality, the
cloth or cord tied in a series of knots represents nirvana.
Lục Giới: Six
elements—See Lục Đại.
Lục Giới Tụ: Thân
chúng sanh do lục đại giả hợp mà thành—The human body which is composed of
the six elements.
Lục Hạnh:
(A)
Tu hành Lục Độ—The practice of the six paramitas—See Lục Độ Ba La
Mật.
(B)
Lục Khổ Hạnh Ngoại Đạo: Sáu lối tu khổ hạnh của ngoại đạo—The six
austerities of the six kinds of heretics—See Lục Khổ Hạnh.
Lục Hạnh Quán: Sáu
đối tượng thiền quán. Bằng thiền quán chúng ta có thể vượt qua mọi ảo
tưởng dục vọng—The six subjects in meditation. By meditations on the
distasteful and the delight, delusions and passions may be overcome:
(A)
The three lower practices or distasteful matters:
1)
Thô tục lỗ mãng: Coarseness.
2)
Khổ: Suffering.
3)
Chướng: Resistance.
(B)
The three higher practices delight matters:
4)
Tịnh: Calm.
5)
Diệu: Mystic.
6)
Ly: Free.
Lục Hằng Trú:
Satata-vihara (p)—Theo Kinh Phúng Tụng trong Trường Bộ Kinh, có sáu hằng
trú—According to the Sangiti Sutta in the Long Discourses of the Buddha,
there are six stable states:
1)
Ở đây vị Tỳ Kheo, mắt thấy sắc, không có hoan hỷ, không có ưu
phiền, an trú xả, chánh niệm, giác tỉnh: Here a monk , on seeing an object
with the eye, is neither pleased (sumano) nor displeased (dummano), but
remains equable (upekhako), mindful and clearly aware.
2)
Ở đây vị Tỳ Kheo, tai nghe tiếng, không có hoan hỷ, không có ưu
phiền, an trú xả, chánh niệm, tỉnh giác: Here a monk, on hearing a sound
with the ear, is neither pleased nor displeased, but remains equable,
mindful and clearly aware.
3)
Ở đây vị Tỳ Kheo, mũi ngửi hương, không có hoan hỷ, không có ưu
phiền, an trú xả, chánh niệm, tỉnh giác: Here a monk, on smelling a smell
with the nose, is neither pleased nor displeased, but remains equable,
mindful and clearly aware.
4)
Ở đây vị Tỳ Kheo, lưỡi nếm vị, không có hoan hỷ, không có ưu phiền,
an trú xả, chánh niệm, tỉnh giác: Here a monk, on tasting a flavour with
the tongue, is neither pleased nor displeased, but remains equable,
mindful and clearly aware.
5)
Ở đây vị Tỳ Kheo, thân xúc chạm, không có hoan hỷ, không có ưu
phiền, an trú xả, chánh niệm, tỉnh giác: Here a monk, on touching a
tangible object with the body, is neither pleased not displeased, but
remains equable, mindful and clearly aware.
6)
Ở đây vị Tỳ Kheo, ý nhận thức pháp, không có hoan hỷ, không có ưu
phiền, an trú xả, chánh niệm, tỉnh giác: Here a monk, on cognising a
mental object with the mind, is neither pleased nor displeased, but
remains equable, mindful and clearly aware.
Lục Hòa: See Lục
Hòa Kính.
Lục Hòa Hợp: Sáu
hòa hợp—Sự hòa hợp giữa sáu căn với sáu trần—The six unions of the six
sense organs with the six objects of the senses:
1)
Mắt phải hòa hợp với vật thấy: The eye is in union with the object
seen.
2)
Tai phải hòa hợp với âm thanh nghe: The ear is in union with the
sound heard.
3)
Mũi phải hòa hợp với mùi ngữi: The nose is in union with the smell
smelt.
4)
Lưỡi phải hòa hợp với vị được nếm: The tongue is in union with the
taste tasted.
5)
Thân phải hòa hợp với vật tiếp xúc: The body is in union with the
thing touched.
6)
Ý phải hòa hợp với điều suy nghĩ: The mind is in union with the
thought.
Lục Hòa Kính Pháp:
Theo Kinh Đại Bát Niết Bàn và Kinh Phúng Tụng trong Trường Bộ Kinh, có
sáu điểm sống chung hòa hợp trong tự viện—According to the Mahaparinibbana
Sutta and Sangiti Sutta, there are six points of reverent harmony or unity
in a monastery or convent—Sixfold rules of conduct for monks and nuns in a
monastery:
1)
Giới Hòa Đồng Tu: Precept concord.
a)
Luôn cùng nhau giữ giới tu hành—Moral unity in observing the
commandments (Always observing precepts together).
b)
Vị Tỳ Kheo, trước mặt hay sau lưng, không phá giới, không vi phạm,
mà kiên trì tuân hành, không có tỳ vết, làm cho con người được giải thoát,
được người tán thán, không uế tạp và hướng đến thiền định: A monk who, in
public and in private, keeps persistently, unbroken and unaltered those
rules of conduct that are spotless, leading to liberation, praised by the
wise, unstained and conducive to concentration.
2)
Thân Hoà Đồng Trụ: Living concord.
a)
Cùng một thân luôn cùng nhau lễ bái trong an tịnh—Bodily unity in
form of worship (Always living together in peace).
b)
Vị Tỳ Kheo thành tựu từ ái nơi thân nghiệp, trước mặt hay sau lưng
đối với các vị đồng phạm: A monk who, in public and in private, shows
loving-kindness to their fellows in acts of body.
3)
Kiến Hòa Đồng Giải: Idea concord.
a)
Cùng nhau bàn luận và lý giải giáo pháp (cùng chung kiến
giải)—Doctrinal unity in views and explanations (Always discussing and
obsorbing the dharma together).
b)
Vị Tỳ Kheo sống đời được chánh kiến hướng dẫn, chơn chánh đoạn diệt
khổ đau, vị ấy sống thành tựu với chánh kiến như vậy với các vị đồng phạm
hạnh, trước mặt và sau lưng: A monk who, in public and in private,
continues in that noble view that leads to liberation, to the utter
destruction of suffering.
4)
Lợi Hòa Đồng Quân: Beneficial concord.
a)
Cùng nhau chia đều những lợi lạc vật chất về ăn, mặc, ở và thuốc
men (hay chia đều nhau về lợi, hành, học, thí)—Economic unity in community
of goods, deeds, studies or charity.
b)
Đối với các đồ vật cúng dường một cách hợp pháp, cho đến đồ vật
nhận trong bình bát, đều đem chia đồng chứ không giữ riêng: They share
with their virtuous fellows whatever they receive as a rightful gift,
including the contents of their alms-bowls, which they do not keep to
themselves.
5)
Khẩu Hòa Vô Tranh: Speech concord.
a)
Cùng nhau tán tụng kinh điển hay nói những lời hay ý đẹp, chứ không
bao giờ tranh cãi—Oral unity in chanting (never arguing).
b)
Vị Tỳ Kheo, trước mặt hay sau lưng, thành tựu từ ái nơi khẩu nghiệp
đối với các vị đồng phạm: A monk who, in public and in private, shows
loving-kindness to their fellows in acts of speech.
6)
Ý Hòa Đồng Duyệt: Thinking concord.
a)
Cùng nhau tín hỷ phụng hành giáo pháp nhà Phật—Mental unity in
faith (Always being happy).
b)
Vị Tỳ Kheo, trước mặt hay sau lưng, thành tựu từ ái nơi ý nghiệp
đối với các vị đồng phạm: A monk who, in public or in private, shows
loving-kindness to their fellows in acts of thought.
** Phật tử Việt Nam, xin xem thêm chi tiết
trong Bộ “Phật Học Phổ Thông” khóa II, bài thứ chín, trang 137—For
Vietnamese Buddhist believers, please see more detail in “Phật Học Phổ
Thông” Volume II, Chapter 9, Page 137.
Lục Huệ: Sáu loại
trí huệ—The six kinds of wisdom:
1)
Văn Huệ: Trí huệ mở ra do được nghe hiểu về chân lý trung đạo—The
wisdom of hearing and apprehending the truth of the middle way—See Thập
Trụ.
2)
Tư Huệ: Trí huệ mở ra do tư duy về chân lý trung đạo—The wisdom of
thought—See Thập Hạnh.
3)
Tu Huệ: Nhờ tu tập chân lý trung đạo mà được tu huệ—Wisdom of
observance—See Thập Hồi Hướng.
4)
Vô Tướng Huệ: Trí huệ mở ra do chứng được lý trung đạo, lìa nhị
biên—The wisdom of neither extreme—See Thập Địa.
5)
Chiếu Tịch Huệ: Còn gọi là Tịch Chiếu Huệ, hay trí huệ của Bồ tát ở
Đẳng Giác Vị đã quán triệt thực tánh và thực tướng của Niết Bàn—The wisdom
of understanding of nirvana. Buddha-wisdom which comprehends nirvana
reality and its functioning.
6)
Tịch Chiếu Huệ: Trí huệ ở ngôi vị Phật chiếu khắp chúng sanh (từ
cái thể của trung đạo mà khởi lên cái dụng của trung đạo)—The wisdom
(associated with Buddha-fruition) of making nirvana illuminate all
beings—See Phât Quả.
Lục Kết: Theo Kinh
Lăng Già, dây vải kết thành sáu vòng và sáu nút liên tục. Vải tượng trưng
cho sự đồng nhất và những nút tượng trưng cho sự dị biệt—According to the
Lankavatara Sutra, a cloth or cord tied in six consecutive double loops
and knots. The cloth represents the fundamental unity, the knots the
apparent diversity.
Lục Khổ Hạnh: Lục
Khổ Hạnh Ngoại Đạo—Sáu lối tu khổ hạnh của ngoại giáo—The six heretics of
the six austerities which are referred to as outsiders’:
1)
Tự Ngã Ngoại Đạo: Lối khổ hạnh tự giảm ăn uống hoặc nhịn đói của
ngoại đạo—Self-starvation.
2)
Đầu Uyên Ngoại Đạo: Sống nơi hang đá trơ trọi hay tự gieo mình vào
vực thẳm mà chết—Naked cave-dwelling or throwing oneself down precipices.
3)
Phó Hỏa Ngoại Đạo: Thường dùng năm thứ lửa nóng để thiêu nướng thân
mình, hay tự dùng lửa để hành xác—Self-immolation, or self-torturing by
fire.
4)
Tự Tọa Ngoại Đạo: Ngồi lõa thể trước công chúng, chẳng kể nóng lạnh
mưa gió—Sitting naked in public.
5)
Tịch Mặc Ngoại Đạo: Loại ngoại đạo thề nguyền thường ở giữa nơi tha
ma mộ địa, lẳng lặng chẳng nói—Dwelling in silence among graves. Ascetics
who vowed to silence who dwell among tombs or in solitude.
6)
Ngưu Cẩu Ngoại Đạo: Loại trì ngưu giới cẩu giới, sống như thú
vật—Living as animals.
Lục Khổ Hạnh Ngoại Đạo:
The six austerities of the six heretics among outsiders—See Lục Khổ Hạnh.
Lục Kiếm: Sáu thanh
kiếm hay sáu mũi tên, chẳng hạn như sáu căn, được định nghĩa như sáu phẩm
chất của sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp—The six swords or arrows, i.e.
the six senses which are defined as the qualities of sight, sound, smell,
taste, touch and mind.
Lục La Hán:
1)
Sáu vị La hán—The six arhats.
2)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và năm vị đệ tử đầu tiên của Ngài trong
vườn Lộc Uyển—Sakyamuni and his first five disciples in the Deer Park.
Lục Luân: Sáu luân
vương, mỗi vị trị vì một phương—The six kinds of cakravarti, or wheel
kings, each allotted to one of the six positions:
1)
Thiết Luân cho Thập Tín Vị: The iron-wheel king to the ten faiths
of a Bodhisattva.
2)
Đồng Luân cho Thập Trụ: The copper-wheel king to the ten grounds.
3)
Ngân Luân (bánh xe bạc) cho Thập Hành: The silver-wheel king to the
ten necessary activities of a bodhisattva.
4)
Kim Luân cho Thập Hồi Hướng: The gold-wheel king to the ten kinds
of dedication.
5)
Lưu Ly Luân cho Thập Địa: The crystal-wheel king to the ten stages.
6)
Ma Ni Luân cho Đẳng Giác: The pearl-wheel king to the wonderful
enlightenment.
Lục Luận: The six
vedangas (skt)—Lục Luận Ngoại Đạo—Sáu bộ luận ngoại đạo, gồm bốn bộ Vệ Đà
và sáu bộ luận—Works which are regarded as auxiliary to and even in some
sense as part of the Veda, their objects being to secure the proper
pronunciation and correctness of the text and the right employment of the
Mantras of sacrifice as taught in the Brahmanas.
1)
Thức Xoa Luận: Giải thích 64 năng pháp—Siksa Sastra.
2)
Tỳ Già La Luận: Giải thích các pháp âm thanh—Vyakarana Sastra.
3)
Kha Thích Ba Luận: Giải thích tên tuổi, nhân duyên của các thiên
tiên từ xưa đến nay—Kalpa Sastra.
4)
Thụ Để Sa Luận: Giải thích về các pháp thiên văn, địa lý và toán
số—Jyotisa Sastra.
5)
Xiển Đà Luận: Giải thích tiên thiên ngũ thông—Chandas sastra.
6)
Ni Lộc Đa Luận: Giải thích nhân duyên đặt tên cho mọi vật—Nirukta
Sastra.
Lục Ly Hợp Thích:
Sat-samasa (skt)—Sáu cách giải thích những chữ kép—The six interpretations
of compound terms, considered in their component parts or together:
1)
Trì Nghiệp Thích: Đồng y thích—Karmadharaya (skt)—Nghĩa dẫu hai mà
thể là một nên đồng tùy thuộc lẫn nhau như trong hai chữ “Đại Thừa,” thì
hai chữ “Đại” và “Thừa” cùng quan trọng và thiết yếu như nhau để làm thành
chữ “Đại Thừa” với nghĩa đặc biệt của nó—The equality of dependence of
both terms, such as in Mahayana, “great” and “vehicle,” both equally
essential to Mahayana with its specific meaning.
2)
Y Chủ Thích: Y Sĩ Thích—Tatpurusa (skt)—Chứa đựng một từ chánh, như
trong chữ “nhãn thức,” thì “nhãn” là từ chánh hay là sở y, còn “thức” là
pháp năng y—Containing a principal term, such as in “Eye-perception,”
where the “eye” is the qualifying term.
3)
Hữu Tài Thích: Đa Tài Thích—Bahuvrihi (skt)—Chỉ sự sở hữu, như
người thế gian thì có của thế gian, còn người tu hành thì có sự giác
ngộ—The sign of possession, such as worldly people have wealth, but
cultivator is he who has enlightenment..
4)
Tương Vi Thích: Dvandva (skt)—Hai thể trái nhau nhưng tập hợp mỗi
thứ riêng biệt của mỗi thể mà thành một, như đặt “giáo” và “quán” thành
một mà thành “giáo quán”—Placing two separate ideas into one, such as
placing teaching and meditation into one.
5)
Lân Cận Thích: Avyayibhava (skt)—Một danh từ kép hay từ ngữ liên hệ
đến nơi chốn, như đem chữ “niệm” đặt trước chữ “xứ” để tạo thành chữ “niệm
xứ”—An adverbial compound or a term resulting from neighbouring
association, such as placing “remembering” in front of “place” to make it
“remembering place.
6)
Đái Số Thích: Dvigu (skt)—Danh từ có liên hệ đến số lượng như “ngũ
uẩn”—A numerative term, such as five skandhas (pancaskandha).
Lục Nan: Sáu điều
khó—Six difficult things:
1)
Ngộ Phật Thế Nan: Sanh ra nhằm thời có Phật là khó—To be born in
the Buddha-age.
2)
Văn Chánh Pháp Nan: Nghe được chánh pháp là khó—To hear the true
Buddha-law.
3)
Sanh Thiện Tâm Nan: Sanh được thiện tâm là khó—To beget a good
heart.
4)
Sanh Trung Quốc Nan: Được sanh ra trong xứ trung tâm là khó—To be
born in the central kingdom.
5)
Đắc Nhân Thân Nan: Được thân người là khó—To be in human form.
6)
Toàn Căn Nan: Được đầy đủ các căn là khó—To be perfect.
Lục Ngoại Xứ:
Bahirani-ayatanani (p)—Theo Kinh Phúng Tụng trong Trường Bộ Kinh, có sáu
ngoại xứ—According to the Sangiti Sutta in the Long Discourses of the
Buddha, there are six external sense-spheres:
1)
Sắc Xứ: Rupayatanam (p)—Sight-object.
2)
Thanh Xứ: Sound-sense-sphere.
3)
Hương Xứ: Smell-sense-sphere.
4)
Vị Xứ: Taste-sense-sphere.
5)
Xúc Xứ: Phottabbayatanam (p)—Tangible object.
6)
Pháp Xứ: Dhammayatanam (p)—Mind-object.
Lục Nhân:
(A)
Sáu nhân sanh ra các pháp hữu vi. Pháp hữu vi sanh ra đều do sự hòa
hợp của nhân và duyên—The sixfold division of causes of all conditioned
things. Every phenomenon depends upon the union of the primary cause and
conditional or environmental cause. There are six kinds:
1)
Năng tác nhân: Karanahetu (skt)—Lý do hiện hữu của mọi sự vật có
thể có. Năng tác nhân có hai loại—The reason that makes the existence of
anyhing possible. Effective causes of two kinds:
a)
Dữ lực nhân: Empowering cause.
b)
Bất chướng nhân: Non-resistant cause, as space does not resist.
2)
Câu hữu nhân: Sahabhuhetu—Tứ đại cùng thay phiên nhau làm nhân
duyên. Luật hỗ tương, tức là tình trạng hỗ tương ảnh hưởng làm điều kiện
cho nhau—Co-operative causes, as the four elements in nature, not one of
which can be omitted. The law of mutuality, that is, the state of being
mutually conditioned.
3)
Đồng loại nhân: Sabhagahetu—Luật gieo gì gặt nấy—The law that like
produces like (causes of the same kind as the effect, good producing good,
etc).
4)
Tương ưng nhân: Samprayuktahetu—Luật tương ứng hay phối hợp—The law
of association (mutual responsive or associated causes, i.e. mind and
mental conditions, subject with object).
5)
Biến hành nhân: Sarvatragahetu (skt)—Luật tổng quát có thể áp dụng
vào một số đặc tính tâm thức làm căn bản chung cho các đặc tính khác, hay
tà kiến là nhân ảnh hưởng mọi hành động—The law of generality, which is
applicable to certain mental qualities making the common ground for
others, or universal or omnipresent cause of illusion, as of false views
affecting every act.
6)
Dị thục nhân: Vipakahetu—Quả mang lại khác với nhân. Đây là luật
báo ứng hay kết quả—Differential fruition, i.e. the effect different from
the cause, as the hells are from evil deeds. This is the law of
retribution, or fruition.
(B)
Sáu ngôi nhân địa—See Lục Vị (B).
(C)
Theo Kinh Lăng Già—According to the Lankavatara Sutra:
1)
Thường Hữu Nhân: Bhavishayaddhetu (skt)—Sự khả hữu của một sự vật
trở thành nguyên nhân cho các sự vật khác—The possibility of anything
becoming cause to others.
2)
Tương Tục Nhân: Sambandha-hetu (skt)—Sự tùy thuộc lẫn nhau—Mutual
dependence.
3)
Tướng Nhân: Lakshana-hetu (skt)—Tính tương tục không gián đoạn của
các tướng trạng—Uninterrupted continuity of signs.
4)
Năng Tác Nhân: Karana-hetu (skt)—Nhân tố tạo thành quyền lực tối
cao như một đại vương—A causal agency that wields supreme power like a
great king.
5)
Hiển Liễu Nhân: Vyanjana-hetu (skt)—Điều kiện trong đó các sự vật
được biểu hiện như là được ánh sáng chiếu rọi—The condition in which
things are manifested as if illuminated by a light.
6)
Quán Đãi Nhân: Upeksha-hetu (skt)—Luật về sự gián đoạn—The law of
discontinuation.
Lục Nhẫn: Six kinds
of enduance.
1)
Tín Nhẫn: Faith patience—See Tín Nhẫn.
2)
Pháp Nhẫn: Ability to bear external hardships—See Pháp Nhẫn.
3)
Tu Nhẫn: Ability to bear endurance during practicing—See Tu Nhẫn.
4)
Chánh Nhẫn: Right patience—See Chánh Nhẫn.
5)
Vô Cấu Nhẫn: Undefiled endurance—See Vô Cấu Nhẫn.
6)
Nhất Thiết Trí Nhẫn: Nhất thiết trí nhẫn của một một vị
Phật—Omniscient endurance, that of a Buddha.
Lục Nhập:
Sadayatana (skt).
(A)
Sáu chỗ xâm nhập hay căn nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý—The six
entrances or locations, both the organ and the sensation (eye, ear, nose,
tongue, body, mind; sight, hearing, smell, taste, touch, and
perception)—See The six senses.
(B)
Một trong những mắc xích trong thập nhị nhơn duyên—One of the links
in the chain of causation.
(C)
Theo Kinh Thủ Lăng Nghiêm, quyển Ba, Đức Phật đã nhắc ngài A Nan về
Lục Nhập như sau: “Ông A Nan! Vì sao bản tính của Lục Nhập là Như Lai
tạng?”—According to the Surangama Sutra, book Three, the Buddha reminded
Ananda about the six entrances as follows: “Ananda! Why do I say the six
entrances have their origin in the wonderful nature of true suchness, the
treasury of the Thus Come One?”
1)
Nhãn Nhập—The Eye-Entrance.
a)
Ông A Nan! Tôi đã từng nói, con mắt bị mệt mỏi trông thấy các hoa
đốm lăng xăng. Mắt lành thấy rõ hư không không có hoa. Hoa đốm nhảy nhót ở
hư không là do mắt bệnh. Hoa đốm và bệnh, đều trong phạm vi của hư không
và mắt lành. Vậy có thể nói, con mắt và trần cảnh của chúng sanh đều ở
trong phạm vi của Bồ Đề: Ananda! Although the eye’s staring causes
fatigue, the eye and the fatigue originate in Bodhi. Staring gives rise to
the characteristic of fatigue.
·
Nhân hai vọng trần tối và sáng, phát ra cái thấy nơi bề
trong, để thu nạp các trần tượng đó, gọi là tính thấy: Because a sense of
seeing is stimulated in the midst of the two false, defiling objects of
light and dark, defiling appearances are taken in; this is called the
nature of seeing.
·
Rời hai cái trần sáng tối kia, tính thấy đó không có thể:
Apart from the two defiling objects of light and dark, this seeing is
ultimately without substance.
b)
Đúng thế ông A Nan, tính thấy đó không từ nơi sáng hay nơi tối đến,
không ở mắt ra, cũng chẳng ở hư không sinh. Vì sao?—Thus, Ananda, you
should know that seeing does not come from light or dark, nor does it
come forth from the sense organ, nor is it produced from emptiness. Why?
·
Nếu từ sáng tới, khi tối liền theo sáng diệt, đáng lẽ không
thấy tối: If it came from light, then it would be extinguished when it is
dark, and you would not see darkness.
·
Nếu từ tối tới, khi sáng liền theo tối diệt, đáng lẽ không
thấy sáng: If it came from darkness, then it would be extinguished when it
is light, and you would not see light.
·
Nếu từ con mắt sinh ra, hẳn không có sáng tối, như thế cái
thấy vốn không có tự tính: Suppose it came from the sense organ, which is
obviously devoid of light and dark, a nature of seeing such as this would
have no self-nature.
·
Nếu do hư không mà ra, nhìn phía trước thấy các vật, quay
trở lại đáng lẽ thấy con mắt. Vả lại nếu hư không tự thấy, còn có liên lạc
gì với cái nhập của ông?—Suppose it came forth from emptiness. When it
looks in front of you, it sees the shapes of the defiling dust; turning
around, it would see your sense-organ. Moreover, if it were emptiness
itself which sees, what connection would that have with your entrance?
c)
Vậy nên biết rằng nhãn nhập hư vọng, vốn chẳng phải tính nhân duyên
hay tính tự nhiên: Therefore, you should know that the eye enance is empty
and false, since it neither depends upon causes and conditions for
existence nor is spontaneous in nature.
2)
Nhĩ Nhập—The ear entrance:
a)
Ông A Nan! Ví dụ có người lấy hai ngón tay bịt chặt lỗ tai, nghe
tiếng trong đầu ù-ì. Tai và tiếng đó đều ở trong phạm vi của Bồ Đề:
Ananda! Consider, for example, a person who suddenly stops up his ears
with two fingers. Because the sense-organ of hearing has become fatigued,
a sound is heard in his head. However, both the ears and the fatigue
originate in Bodhi.
·
Nhân hai vọng trần động và yên tĩnh phát ra cái nghe nơi bề
trong, để thu nạp các trần tượng ấy, gọi là tính nghe: Because a sense of
hearing is stimulated in the midst of the two false, defiling objects of
movement and stillness, defiling appearances are taken; this is called the
nature of hearing.
·
Rời hai cái trần động tĩnh kia, tính nghe đó không thể có:
Apart from the two defiling objects of movement and stillness, this
hearing is ultimately without substance.
b)
Đúng thế ông A Nan, tính nghe đó không từ nơi động tĩnh đến, không
phải từ tai ra, chẳng ở hư không sinh. Vì sao?: Thus, Ananda, you know
that hearing does not come from movement and stillness; nor does it come
from the sense-organ, nor is it produced from emptiness. Why?
·
Nếu từ tĩnh lại, khi động liền theo tĩnh diệt, đáng lẽ không
biết động: If it came from stillness, it would be extinguished when there
is movement, and you would not hear movement.
·
Nếu từ động tới, khi tĩnh liền theo động diệt, đáng lẽ không
biết tĩnh: If it came from movement, then it would be extinguished when
there is stillness, and you would not be aware of this stillness.
·
Nếu từ lỗ tai sinh ra, hẳn không có động, tĩnh, như thế cái
nghe vốn không có tự tính: Suppose it came from the sense-organ, which is
obviously devoid of movement and stillness: a nature of hearing such as
this would have no self-nature.
·
Nếu do hư không mà ra, thì hư không đã thành tính nghe, tức
không phải là hư không. Vả lại, nếu hư không nghe được, còn có liên lạc gì
với cái nhập của ông?: Suppose it came from emptiness; emptiness would
then become hearing and would no longer be emptiness. Moreover, would it
have with your entrance?
c)
Vậy nên biết rằng nhĩ nhập hư vọng, vốn chẳng phải tính nhân duyên
hay tính tự nhiên: Therefore, you should know that the ear-entrance is
empty and false, since it neother depends upon causes and conditions for
existence, nor is spontaneous in nature.
3)
Tỷ Nhập—The nose entrance:
a)
Ông A Nan! Ví như có người bịt chặt hai lỗ mũi. Bịt lâu mũi nhọc và
cảm thấy lạnh. Nhân cảm xúc phân biệt thông, nghẹt, trống, đặc, cho đến
các mùi thơm thúi. Mũi và cái nhọc ấy đều ở trong phạm vi của Bồ Đề:
Ananda! Consider, for example, a person who inhales deeply through his
nose. After he has inhaled for a long time it becomes fatigued, and then
there is a sensation of cold in the nose. Because of that sensation, there
are the distinctions of penetration and obstruction, of emptiness and
actuality, and so forth, including all fragrant and stinking vapors.
However, both the nose and the fatigue originate in Bodhi.
·
Nhân hai vọng trần thông và tắc phát ra cái ngửi nơi bề
trong, để thu nạp các trần tượng, gọi là tính ngửi: Because a sense of
smelling is stimulated in the midst of the two false, defiling objects of
penetration and obstruction, defiling appearances are taken in; this is
called the nature of smelling.
·
Rời hai cái trần thông, tắc kia, tính ngửi đó không thể có:
Apart from the two defiling objects of penetration and obstruction, this
smelling is ultimately without substance.
b)
Tính ngửi đó không từ nơi thông, hay tắc lại, không phải từ mũi ra,
cũng chẳng ở hư không sinh. Vì sao?: You should know that smelling does
not come from penetration and obstruction, nor does it come forth from the
sense-organ, nor is it produced from emptiness. Why?
·
Nếu từ thông lại, khi tắc tính ngửi phải diệt mất, đáng lẽ
không biết tắc: If it came from penetration, the smelling would be
extinguished when there is obstruction, and then how could it experience
obstruction?
·
Nếu nhân cái tắc mà có, khi thông không thể ngửi được, sao
lại biết mùi thơm thúi?: If it existed because of obstruction, then where
there is penetration there would be no smelling; in that case, how would
the awareness of fragrance, stench, and other such sensations come into
being?
·
Nếu từ lỗ mũi sinh ra, hẳn không có thông tắc, như thế cái
ngửi vốn không có tự tính: Suppose it came from the sense organ, which is
obviously devoid of penetration and obstruction. A nature of smelling such
as this would have no self-nature.
·
Nếu do hư không mà ra, đáng lẽ cái ngửi ấy quay lại ngửi
được mũi ông. Cái hư không có tính ngửi thì còn có liên lạc gì với cái
nhập của ông?: Suppose it came from emptiness; smelling itself would turn
around and smell your own nose. Moreover, if it were emptiness itself
which smelled, what connection would it have with your entrance?
c)
Vậy ông nên biết rằng tỷ nhập hư vọng, vốn chẳng phải tính nhân
duyên hay tính tự nhiên: Therefore, you should know that the nose-entrance
is empty and false, since it neither depends upon causes and conditions
for existence nor is spontaneous in nature.
4)
Thiệt Nhập—The tongue entrance:
a)
Ông A Nan! Ví như có người lấy lưỡi liếm mép, liếm mãi thành mỏi
mệt. Người ốm thấy đắng, người khỏe thấy ngọt. Do vị ngọt và vị đắng, mới
rõ có thiệt căn. Lúc bình thường chỉ thấy vị nhạt. Lưỡi và cái mỏi mệt ấy
đều ở trong phạm vi của Bồ Đề: Ananda! Consider, for example, a person who
licks his lips with his tongue. His excessive licking causes fatigue. If
the person is sick, there will be a bitter flavor; a person who is not
sick will have a subtle sweet sensation. Sweetness and biterness
demonstrate the tongue’s sense of taste. When the organ is inactive, a
sense of tastelessness prevails. However, both the tongue and the fatigue
originate in Bodhi.
·
Nhân hai cái vọng trần ngọt và nhạt phát ra cái nếm nơi bề
trong, để thu nạp các trần tượng ấy, gọi là tính nếm: Because of the two
defiling objects of sweetness and bitterness, as well as tastelessness,
stimulate a recognition of taste which in turn draws in these defiling
sensations, it becomes what is known as a sense of taste.
·
Rời hai cái trần ngọt và nhạt kia, tính nếm đó không thể có:
Apart from the two defiling objects of sweetnes and bitternes and apart
from tastelessness, the sense of taste is originally without a substance.
b)
Đúng thế, ông A Nan, tính nếm đó không từ nơi ngọt đắng lại, ,
không từ lưỡi ra, cũng chẳng sinh từ hư không. Vì sao?: Thus, Ananda, you
should know that the perception of sweetness, bitterness, and
tastelessness does not come from sweetness or bitterness, nor does it
exist because of tastelessness, nor does it arise from the sense organ,
nor is it produced from emptiness. Why?
·
Nếu từ ngọt đắng lại, khi nhạt tính nếm phải diệt, đáng là
không biết nhạt: If it came from sweetness and bitterness, it would cease
to exist when tastelessness was experienced, so how cold it recognize
tastelessness?
·
Nếu từ nhạt ra, khi ngọt tính nếm phải mất, sao lại biết
ngọt đắng?: If it arose from tastelessness, it would vanish when the
flavor of sweetness was tasted, so how could it perceive the two flavors,
sweet and bitter?
·
Nếu từ lưỡi sinh ra, hẳn không có ngọt, nhạt và đắng, như
thế tính nếm vốn không có tự tính: Suppose it came from the tongue which
is obviously devoid of defiling objectssweetness and bitternes and of
tastelessness. An essence of tasting such as this would have no
self-nature.
·
Nếu do hư không mà ra, , thì hư không có tính nếm, chứ không
phải miệng ông. Hư không mà biết nếm, thì còn có liên lạc gì với cái nhập
của ông?: Suppose it came from emptiness; the sense of taste would be
experienced by emptiness instead of by the mouth. Suppose, moreover, that
it was emptiness itself which tasted, what connection would that have with
your entrance?
c)
Vậy nên biết thiệt nhập hư vọng, vốn chẳng phải tính nhân duyên hay
tính tự nhiên: Therefore, you should know that the tongue entrance is
empty and false, since it neither depends upon causes and conditions for
existence, nor is it spontaneous in nature.
5)
Thân Nhập—The body entrance:
a)
Ông A nan! Ví như có người lấy một bàn tay lạnh úp vào bàn tay
nóng. Nếu lạnh nhiều thì nóng theo thành lạnh. Nếu nóng nhiều thì lạnh trở
lại thành nóng. Biết nóng lạnh khi chạm tay, thì cái biết đó vẫn có từ khi
chưa chạm tay. Thân và cái cảm giác đó, đều ở trong phạm vi của Bồ Đề:
Ananda! Consider, for example, a person who touches his warm hand with his
cold hand. If the cold is in excess of warmth, the warm hand will become
cold; if the warmth is in excess of the cold, his cold hand will become
warm. So the sensation of warmth and cold is felt through the contact and
separation of the two hands. Fatiguing contact results in the
interpenetration of warmth and cold. However, both the body and the
fatigue originate in Bodhi.
·
Nhân hai vọng trần ly và hợp phát ra cái cảm giác nơi bề
trong, để thu nạp các trần tượng ấy, gọi là tính biết khi sờ mó: Because a
physical sensation is stimulated in the midst of the two defiling objects
of separation and union, defiling appearances are taken in; this is called
the awareness of sensation.
·
Rời hai cái trần ly hợp, thích và không thích kia, tính biết
đó không thể có: Apart from the two sets of defiling objects of separation
and union, and pleasantness and unpleasantness, the awareness of sensation
is orginally without a substance.
b)
Đúng thế, ông A Nan, tính biết đó không từ ly, hợp mà lại, chẳng
phải từ thích, không thích mà có, không từ thân ra, cũng chẳng ở hư không
sinh. Vì sao?: Thus, Ananda, you should know that this sensation does not
come from separation and union, nor does it exist beause of pleasantness
and unpleasantness, nor does it arise from the sense organ, nor is it
produced from emptiness. Why?
·
Nếu từ hợp mà có, khi ly tính biết phải diệt, đáng lẽ không
biết khi ly hay chưa tiếp xúc: If it arose when there was union, it would
disappear when there was separation, so how could it sense the separation?
·
Đối với thích và không thích, cũng như vậy: The two
characteristics of pleasantness and unpleasantness are the same way.
·
Nếu từ thân mà ra, hẳn không có ly hợp, thích và không
thích. Như thế tính biết nhờ sờ mó, vốn không có tự tính: Suppose it came
from the sense organ, which is obviously devoid of the four
characteristics of union, separation, pleasantness, and unpleasantness; an
awareness of physical sensation such as this would have no self- nature.
·
Nếu do hư không mà ra, thì hư không có tính biết, còn có
liên lạc gì với cái nhập của ông?: Suppose it came from emptiness; the
awareness of sensations would be experienced by emptiness itself, what
connection would that have with your entrance?
c)
Vậy nên biết rằng thân nhập hư vọng, vốn chẳng phải tính nhân duyên
hay tính tự nhiên: Therefore, you should know that the body-entrance is
empty and false, since it neither depends upon causes and conditions for
existence, nor is spontaneous in nature.
6)
Ý Nhập—The mind entrance:
a)
Ông A Nan! Ví như có người mệt mỏi ngủ thiếp đi, ngủ đã thức dậy,
thấy trần cảnh thì nhớ, khi không nhớ gọi là quên. Các thứ điên đảo, sinh,
trụ, dị, diệt, tập quen thu nạp vào bề trong, không lẫn lộn nhau, gọi là ý
tri căn. Ý và cái mỏi mệt đó, đều ở trong phạm vi của Bồ Đề: Ananda!
Consider, for example, a person who becomes so fatigued that he goes to
sleep. Having slept soundly, he awakens and tries to recollect what he
experienced while asleep. He recalls some things and forgets others. Thus,
his upsidedownness goes through production, dwelling, change, and
extinction, which are taken in and returned to a center habitually, each
following the next without ever being over taken. This is known as the
mind organ or intellect. The mind and fatigue are both Bodhi.
·
Nhân hai cái vọng trần sinh và diệt, tập khởi cái biết bên
trong, để thu nạp các nội trần. Các cái thấy, nghe đi ngược vào trong mà
không đến nơi, gọi là tính hay biết: The two defiling objects of
production and extinction stimulate a sense of knowing which in turn
grasps these inner sense data, reversing the flow of seeing and hearing.
Before the flow reaches the ground it is known as the faculty of
intellect.
·
Rời hai cái trần thức ngủ, sinh diệt kia, tính hay biết đó
không thể có: Apart from the two sets of dwelling objects of waking and
sleeping and of production and extinction, the faculty of intellect is
originally without substance.
b)
Đúng thế ông A Nan, tính hay biết đó không từ thức ngủ tới, không
từ sinh diệt mà có, không ở ý căn ra, cũng chẳng ở hư không sinh. Vì sao?:
Thus, Ananda, you should know that the faculty of intellect does not come
from waking, sleeping, production, or extinction, nor does it arise from
the sense organ, nor is it produced from emptiness. Why?
·
Nếu từ thức mà có, khi ngủ liền diệt theo, lấy cái gì gọi là
ngủ: If it came from waking, it would disappear at the time of sleeping,
so how could it experience sleep?
·
Như chắc khi sinh là có, khi diệt tức là không, còn chi mà
biết là diệt: If it came from production, it would cease to exist at the
time of extinction, so how could it undergo extinction?
·
Như nhân cái diệt mà có, khi sinh tức không có diệt nữa, lấy
gì mà biết là sinh: If it came from extinction it would disappear at the
time of production, so how could it know about production?
·
Nếu từ ý căn mà ra, thì hai tướng thức ngủ theo nhau mà
khai, mà hợp trong thân. Rời hai cái thể đó, tính biết kia giống như hoa
đốm giữa hư không, không có tự tính: Suppose it came from the sense-organ;
waking and sleeping cause only a physical opening and closing
respectively. Apart from these two movements, the faculty of intellect is
as unsubstantial as flowers in space, because it is fundamentally without
a self-nature.
·
Nếu do hư không mà sinh, thì hư không có tính biết, còn có
liên lạc gì với cái nhập của ông?: Suppose it came from emptiness; the
sense of intellect would be experienced by emptiness instead of by the
mind. Then what connection would that have with your entrance?
c)
Vậy nên biết rằng ý nhập hư vọng, vốn chẳng phải tính nhân duyên
hay tính tự nhiên: Therefore, you should know that the mind entrance is
empty and false, since it neither depends upon causes and conditions for
existence, nor is spontaneous in nature.
** For more information, please see Lục
Cảnh and Lục Xứ.
Lục Nhiễm Tâm: Sáu
thứ nhiễm tâm trong Khởi Tín Luận—The six mental taints of the Awakening
of Faith (Khởi Tâm Luận). Dù bản chất tâm là thanh tịnh không ô nhiễm, vô
minh làm tâm ô nhiễm qua sáu thứ sau đây—Though mind-essence is by nature
pure and without stain, the condition of ignorance or innocence permits of
taint or defilement corresponding to the following six phrases:
1)
Chấp tương ưng nhiễm: Chấp nhiễm cho rằng cái “dường như” là cái
“thật.” Đây là giai đoạn cuối của Bích Chi Phật Địa (Thanh Văn và Duyên
Giác) hay Tín Trụ Địa của Bồ Tát—The taint interrelated to attachment, or
holding the seeming for the real—The final stage of sravakas and
pratyeka-buddha—The stage of faith of bodhisattvas.
2)
Bất đoạn tương ưng nhiễm: Nhiễm chấp dẫn đến những nguyên nhân của
khổ lạc—Ly Cấu Địa—The taint interrelated to the persisting attraction of
the cause of pain and pleasure—The stage of purity.
3)
Phân biệt trí tương ưng nhiễm: The taint interrelated to the
“particularizing intelligence” which discerns things within and without
this world—The stage of spirituality.
4)
Hiện sắc bất tương ưng nhiễm: The non-interrelated or primary taint
(ignorant mind as yet hardly discerning subject from object, of accepting
an external world—The stage of emancipation from the material.
5)
Năng kiến tâm bất tương ưng nhiễm: The non-interrelated or primary
taint of accepting a perceptive mind—The stage of emancipation from mental
effort.
6)
Căn bổn nghiệp bất tương ưng nhiễm: The non-interrelated or primary
taint of accepting the idea of primal action or activity in the
absolute—The highest bodhisattva stage, entering the Buddhahood.
Lục Như: The six
“likes.”—See Lục Dụ.
Lục Niệm: The six
thoughts to dwell upon—See Lục Niệm Pháp.
Lục Niệm Pháp:
Anussati-tthanani (p)—Sáu niệm pháp—The six thoughts to dwell upon or six
objects of recollection:
(A)
1)
Niệm Phật: The Buddha.
2)
Niệm Pháp: The Law.
3)
Niệm Tăng: The Order.
4)
Niệm Giới: The Commandments or morality.
5)
Niệm Thí: The Almsgiving or renunciation.
6)
Niệm Thiên: The Heaven (deva) with its prospective joys.
(B)
Niệm sáu chữ “Nam Mô A Di Đà Phật”—The six recitations refer to the
six syllables or words of “Na-mo A-mi-tabha Buddha.”
** For more information,
please see Mười Đề
Mục Suy Niệm.
Lục Niệm Xứ: Sáu
niệm xứ—The six stages of the six thoughts to dwell upon—See Lục Niệm
Pháp.
Lục Niên Khổ Hạnh:
Sáu năm khổ hạnh của Đức Phật Thích Ca trước khi thành đạo—The six years
of sakyamuni’s austerities before his enlightenment.
Lục Nội Xứ:
Ajjhattikani ayatanani (p)—Theo Kinh Phúng Tụng trong Trường Bộ Kinh, có
sáu nội xứ—According to the Sangiti Sutta in the Long Discourses of the
Buddha, there are six internal sense-spheres:
1)
Nhãn Xứ: Eye-sense-sphere.
2)
Nhĩ Xứ: Ear-sense-sphere.
3)
Tỷ Xứ: Nose-sense-sphere.
4)
Thiệt Xứ: Tongue-sense-sphere.
5)
Thân Xứ: Kayayatanam (p)—Body-sense-sphere.
6)
Ý Xứ: Manayatanam (p)—Mind-sense-sphere.
Lục Phàm: Six
realms of Samsara—See Lục phàm Tứ Thánh.
Lục Phàm Tứ Thánh:
Sáu phàm bốn Thánh. Theo tông Thiên Thai, mười cõi nầy tương dung tương
nhiếp lẫn nhau, mỗi cõi mang trong nó chín cõi còn lại kia. Tỷ dụ như nhân
giới sẽ bao hàm cả chín cõi khác, từ Phật cho đến địa ngục, và mỗi một
trong mười cảnh vực kia cũng vậy. Ngay cả cảnh giới của chư Phật cũng bao
gồm bản chất của địa ngục và các cõi khác, bởi vì một Đức Phật dù ở Ngài
không còn bản chất của địa ngục, nhưng vì để cứu độ cúng sanh trong cõi
nầy, nên cũng có địa ngục ngay trong tâm của Ngài. Trong ý nghĩa nầy Phật
giới cũng bao gồm cả chín cõi khác—Six realms of the samsara (existence)
and four realms of the saints—Six stages of rebirth for ordinary people,
as contrasted with the four saints. These ten realms are mutually immanent
and mutually inclusive, each one having in it the remaining nine realms.
For example, the realm of men will include the other nine from Buddha to
Hell, and so will any of the ten realms. Even the realm of Buddhas
includes the nature of hell and all the rest, because a Buddha, though not
helish himself, intends to save the depraved or hellish beings, and
therefore also has hell in his mind. In this sense, the realm of the
Buddhas, too, includes the other nine realms:
(A)
Lục phàm: Sáu nẻo luân hồi hay sáu thế giới của chúng sanh mê
mờ—Tất cả chúng sanh trong sáu nẻo nầy đều phải chịu sanh tử luân chuyển
không ngừng theo luật nhân quả, sanh vào nẻo nào tùy theo những hành động
trong kiếp trước quyết định. Trong Phật giáo, các nẻo nầy được miêu tả
bằng các tai họa hay các phần của bánh xe sanh tử. Bánh xe nầy do các hành
động phát sanh từ vô minh của ta về chân tánh cuộc sinh tồn, do các nghiệp
lực từ quá khứ vô thủy thúc đẩy, do sự thèm muốn khoái lạc của các thức
giác của chúng ta, và sự bám víu của chúng ta vào những khoái lạc nầy tiếp
tục làm nó xoay vần, đưa đến sự quay vòng bất tận của sinh tử và tái sanh
mà chúng ta bị trói buộc trong ấy—Six realms of the samsara or the realms
of the unenlightened. All creatures in these realms are tied to the
ceaseless round of birth-and-death, that is, to the law of causation,
according to which existence on any one of these planes are determined by
antecedent actions. In Buddhism these planes are depicted as the spokes or
segments of the “wheel of life.” This wheel is set in motionby actions
stemming from our basic ignorance of the true nature of existence and by
karmic propensities from an incalculable past, and kept revolving by our
craving for the pleasures of the senses and by our clinging to them, which
leads to an unending cycle of births, deaths, and rebirths to which we
remain bound.
1)
Realm of hells: Địa Ngục tượng trưng cho tham sân si, những loài bị
hành tội ở cõi thấp nhất—Symbolizing ignorance, greed and aggression.
Depraved men or “hellish beings” who are in the lowest stage.
2)
Quỷ—Ghost:
a)
Realm of Hungry Ghosts: Pretas (skt)—Ngạ Quỷ, những loài đã chết
hay các quỷ đói—Symbolizing greed. Departed beings, otherwise called
“hungry spirits.”
b)
A Tu La: Asura (skt)—Những quỷ thần hiếu chiến. Dù một phần thuộc
Thiên giới, nhưng chúng được đặt vào cõi thấp hơn—Fighting spirits, though
partially heavenly, they are placed in the lower realm.
3)
Súc Sanh: Realm of Animals--Những loài có bản chất mê muội, bao gồm
tất cả các loài vật—Beasts—Symbolizing ignorance or innocent in nature,
including the whole animal kingdom.
4)
Realm of Titans (Asuras): A-Tu-La—Fighting demons—Symbolizing
aggression.
5)
Nhân: Realm of Humans (Men)—Nhơn giới có bản chất trung hòa—Human
beings, neutral in nature—Symbolizing social virtue.
6)
Thiên Giới: Realm of Celestials (Devas)—Mặc dù là siêu nhân, nhưng
những chúng sanh nầy không thể giác ngộ viên mãn nếu không có giáo thuyết
của Phật—Heavenly beings, though superhuman in nature they cannot get
perfectly enlightened without the teaching of the Buddha—Symbolizing
meditation abstractions.
(B)
Tứ Thánh: Bốn cõi Thánh là cõi mà nơi đó chúng sanh đã giác ngộ, đã
biết sự an lạc bên trong và sự tự do sáng tạo bởi vì bằng tri thức họ đã
chiến thắng vô minh và mê hoặc, họ đã thoát khỏi sự nô lệ vào các nghiệp
lực phát sinh từ hành động mê lầm trong quá khứ và bây giờ không còn gieo
những hạt giống mà chúng sẽ kết trái trong hình thức trói buộc mới của
nghiệp. Song giác ngộ không làm gián đoạn luật nhân quả. Khi người giác
ngộ tự cắt ngón tay mình, nó cũng chảy máu, khi người ấy ăn phải thức ăn
xấu thì dạ dày vẫn đau. Người giác ngộ không thể chạy trốn được hậu quả
của các hành động do chính mình tạo ra. Sự khác biệt là vì người đã giác
ngộ chấp nhận, tức đã thấy rõ nghiệp của mình và không còn bị trói buộc
nữa mà di động tự do bên trong nghiệp—Four Saints or the realms of the
enlightened—The four realms of enlightened existence, sometimes called the
“four holy states.” Unlike those in the lower six realms, the nelightened
know the joy of inward peace and creative freedom because, having overcome
their ignorance and delusion through knowledge, they are freed from
enslavement to karmic propensities arising from past delusive actions, and
no longer sow seeds which will bar fruit in the form of new karmic
bondage. Enlightenment, however, does not suspend the law of cause and
effect. When the enlightened man cuts his finger it bleeds, when he eats
bad food his stomach aches. He too cannot escape the consequences of his
actions. The difference is that because he accepts, that is, he sees into
his karma he is no longer bound by it, but moves freely witihn it.
1)
Duyên giác: Một vị Phật tự giác ngộ, không giảng dạy cho kẻ khác—A
Buddha for himself, not teaching others—See Pratyeka-buddha in
Sanskrit/Pali-Vietnamese Section.
2)
Thanh Văn: Đệ tử trực tiếp của Phật—A direct disciple of the
Buddha—See Sravaka, and Sravakayana in Sanskrit/Pali-Vietnamese Section.
3)
Bồ Tát: Một vị Phật tương lai—A would-be Buddha—See Bodhisattva,
and Bồ Tát.
4)
Phật: The realm of Buddhas—Một vị Phật không ở trong vòng mười cõi
thế gian nầy, nhưng vì Ngài thị hiện giữa loài người để giảng dạy giáo lý
của mình nên Ngài được kể vào đó—A Buddha is not inside the circle of ten,
but as he advents among men to preach his doctrine he is now partially
included in it—See Buddha, and Phật.
Lục Pháp: Sáu giới
cấm của một Thức Xoa Ma Na—The six prohibition rules for a female
devotee—See Lục Pháp Giới.
Lục Pháp Giới: Sáu
giới pháp của Thức Xoa Ma Na—The six prohibition rules for a female
devotee:
1)
Bất Dâm: Chẳng dâm dục cũng chẳng chạm vào người nam—Not indelicacy
of contact with a male.
2)
Bất Đạo: Chẳng trộm đạo—Not purloining for cash.
3)
Bất Sát: Không giết hại sinh vật—Not killing animals.
4)
Bất Cuống Ngữ: Không nói lời dối trá—Not telling untruthfulness.
5)
Bất Phi Thời Thực: Chẳng ăn sau ngọ—Not having food after midday
meal.
6)
Bất Ẩm Tửu: Không uống rượu—Not drinking wine or beer.
Lục Phiền Não: See
Lục Đại Phiền Não.
Lục Phủ: The six
internal organs.
Lục Phương: Six
directions:
1)
Phương Đông: East.
2)
Phương Tây: West.
3)
Phương Nam: South.
4)
Phương Bắc: North.
5)
Phương Trên: Above.
6)
Phương Dưới: Below.
Lục Phương Hành Trì:
Cultivation in six directions—Theo Kinh Thi Ca La Việt, tín đồ đạo Bà La
Môn mỗi sáng thường hay tắm rữa sạch sẽ rồi lễ lạy sáu phương, để cầu sanh
về cõi sướng; Đức Phật đã nhân đó thuyết kinh Lễ Lục Phương cho
họ—According to the Sagalaka Sutra, the brahman morning act of bathing and
paying homage in the six directions; observing the “well-born” do this;
the Buddha is said to have given the discourse in the Worship in the Six
Directions Sutra:
1)
Phương Đông cần được hiểu là cha mẹ: The East denotes mother and
father.
a)
Này gia chủ tử, có năm trường hợp, người con phải phụng dưỡng cha
mẹ như phương Đông—There are five ways in which a son should minister to
his mother and father as the Eastern direction.
·
Được nuôi dưỡng, tôi sẽ nuôi dưỡng lại cha mẹ: He should
think having been supported by them, I will support them.
·
Tôi sẽ làm bổn phận đối với cha mẹ: I will perform their
duties for them.
·
Tôi sẽ gìn giữ gia đình và truyền thống: I will keep up the
family tradition.
·
Tôi bảo vệ tài sản thừa tự: I will be worthy of my heritage.
·
Tôi sẽ làm tang lễ khi cha mẹ qua đời: After my parents’
deaths, I will distribute gifts on the their behalf.
b)
Này gia chủ tử, được con phụng dưỡng như vậy, cha mẹ có lòng thương
tưởng đến con theo năm cách—There are five ways in which the parents, so
ministered to by their son as Eastern direction, will reciprocate:
·
Ngăn chận con làm điều ác: They will restrain him from evil.
·
Khuyến khích con làm điều thiện: They will support him in
doing good.
·
Dạy con nghề nghiệp: They will teach him some skill.
·
Cưới vợ xứng đáng cho con: They will find him a suitable
wife.
·
Đúng thời trao của thừa tự cho con: In due time, they will
hand over his inheritance to him.
c)
Này gia chủ tử, được con phụng dưỡng như phương Đông theo năm cách
như vậy, cha mẹ có lòng thương tưởng đến con theo năm cách. Như vậy phương
Đông được che chở, được trở thành an ổn và thoát khỏi các sự sợ hãi: In
this way the Eastern direction is covered, making it at peace and free
from fear.
2)
Phương Nam cần được hiểu là sư trưởng: The South denotes teachers.
a)
Này gia chủ tử, có năm cách, đệ tử phụng dưỡng các bậc sư trưởng
như phương Nam—There are five ways in which pupils should minister to
their teachers as the Southern direction:
·
Đứng dậy để chào: By rising to greet them.
·
Hầu hạ thầy: By serving them.
·
Hăng hái học tập: By being attentive.
·
Tự phục vụ thầy: By waiting on them.
·
Chú tâm học hỏi nghề nghiệp: By mastering the skills they
teach.
b)
Này gia chủ tử, được đệ tử phụng dưỡng như phương Nam theo năm cách
như vậy, các bậc sư trưởng có lòng thương tưởng đến các đệ tử theo năm
cách—There are five ways in which their teachers, thus ministered to by
their pupils as the Southern direction, will reciprocate:
·
Huấn luyện đệ tử những gì mình đã được khéo huấn luyện: They
will give thorough instruction.
·
Dạy cho bảo trì những gì mình được khéo bảo trì: Make sure
they have grasped what they should have duly grasped.
·
Dạy cho thuần thục các nghề nghiệp: Given them a thorough
grounding in all skills.
·
Khen đệ tử với các bạn bè quen thuộc: Recommend them to
their friends and colleagues.
·
Bảo đảm nghề nghiệp cho đệ tử về mọi mặt: Provide them with
security in all directions.
c)
Này gia chủ tử, như vậy là bậc sư trưởng được đệ tử phụng dưỡng
như phương Nam theo năm cách và sư trưởng có lòng thương tưởng đến đệ tử
theo năm cách. Như vậy phương Nam được che chở, được trở thành an ổn và
thoát khỏi các sự sợ hãi: In this way the Southern direction is covered,
making it at peace and free from fear.
3)
Phương Tây cần được hiểu là vợ con: The West denotes wife and
children.
a)
Này gia chủ tử, có năm cách, người chồng phải đối xử với vợ như
phương Tây—There are five ways in which a husband should minister to his
wife as the Western direction:
·
Kính trọng vợ: By honouring her.
·
Không bất kính đối với vợ: By not disparaging her.
·
Trung thành với vợ: By not being unfaithful to her.
·
Giao quyền hành cho vợ: By giving authority to her.
·
Sắm đồ nữ trang cho vợ: By providing her with adornments.
b)
Này gia chủ tử, được chồng đối xử như phương Tây theo năm cách như
vậy, người vợ có lòng thương tưởng chồng theo năm cách—There are five ways
in which a wife, thus ministered to by her husband as the Western
direction, will reciprocate:
·
Thi hành tốt đẹp bổn phận của mình: By properly organizing
her work.
·
Khéo tiếp đón bà con: By being kind to the relatives.
·
Trung thành với chồng: By not being unfaithful.
·
Khéo gìn giữ tài sản của chồng: By protecting husband’s
property.
·
Khéo léo và nhanh nhẹn làm mọi công việc: By being skillful
and diligent in all she has to do.
c)
Này gia chủ tử, người vợ được người chồng đối xử như phương Tây
theo năm cách và người vợ có lòng thương tưởng chồng theo năm cách. Như
vậy phương Tây được che chở, được trở thành an ổn và thoát khỏi các sự sợ
hãi: In this way the Western direction is covered, making it at peace and
free from fear.
4)
Phương Bắc cần được hiểu là bạn bè: The North denotes friends and
companions.
a)
Này gia chủ tử, có năm cách vị thiện nam tử đối xử với bạn bè như
phương Bắc—There are five ways in which a man should minister to his
friends and companions as the Northern direction:
·
Bố thí: By giving alms.
·
Ái ngữ: By kindly words.
·
Lợi hành: By looking after their welfare.
·
Đồng sự: By treating them like himself.
·
Không lường gạt: By keeping his words.
b)
Này gia chủ tử, được vị thiện nam tử đối xử như phương Bắc theo năm
cách như vậy, bạn bè cũng có lòng thương kính vị thiện nam tử theo năm
cách—There are five ways in which friends and companions, thus
administered to by a man as the Northern direction, will reciprocate:
·
Che chở nếu vị thiện nam tử phóng túng: By looking after him
when he is inattentive.
·
Bảo trì tài sản của vị thiện nam tử nếu vị nầy phóng túng:
By looking after his property when he is inattentive.
·
Trở thành chỗ nương tựa khi vị thiện nam tử gặp nguy hiểm:
By being a refuge when he is afraid.
·
Không tránh xa khi vị thiện nam tử gặp khó khăn: By not
deserting him when he is in trouble.
·
Kính trọng gia đình của vị thiện nam tử: By showing concern
for his children.
c)
Như vậy các bạn bè được vị thiện nam tử đối xử như phương Bắc theo
năm cách, và bạn bè cũng có lòng thương tưởng vị thiện nam tử theo năm
cách. Như vậy phương Bắc được che chở, được trở thành an ổn và thoát khỏi
các sự sợ hãi: In this way the Northern direction is covered, making it
at peace and free from fear.
5)
Phương Dưới cần được hiểu là tôi tớ, lao công: The Nadir denotes
servants and helpers.
a)
Này gia chủ tử, có năm cách một vị Thánh chủ nhân đối xử với hạng
nô bộc như phương Dưới—There are five ways in which a master should
minister to his servants and workpeople as the Nadir direction:
·
Giao công việc đúng theo sức của họ: By arranging their work
according to their strength.
·
Lo cho họ ăn uống và tiền lương: By supplying them with food
and wages.
·
Điều trị cho họ khi bệnh hoạn: By looking after them when
they are ill.
·
Chia xẻ các mỹ vị đặc biệt cho họ: By sharing special
delicacies with them.
·
Thỉnh thoảng cho họ nghỉ phép: By letting them off work at
the right time.
b)
Này gia chủ tử, các hàng nô bộc được Thánh chủ nhân đối xử như
phương Dưới với năm cách kia, có lòng thương đối với vị chủ nhân theo năm
cách như sau—There are five ways in which servants and workpeople, thus
ministered to by their master as the Nadir, will reciprocate:
·
Dậy trước khi chủ thức dậy: They will get up before him.
·
Đi ngủ sau khi chủ đi ngủ: They will go to bed after him.
·
Tự bằng lòng với các vật đã cho: Take only what they are
given.
·
Khéo làm các công việc: Do their work properly.
·
Đem lại danh tiếng tốt đẹp cho chủ: Be bearer of his praise
and good repute.
c)
Này gia chủ tử, các hàng nô bộc được các vị Thánh chủ nhân đối xử
như phương Dưới với năm cách, họ cũng có lòng thương đối với Thánh chủ
nhân theo năm cách. Như vậy phương Dưới được che chở, được trở thành an ổn
và thoát khỏi các sự sợ hãi: In this way the Nadir is covered, making it
at peace and free from fear.
6)
Phương Trên cần được hiểu là Sa Môn, Bà La Môn: The Zenith denotes
ascetics and Brahmins.
a)
Này gia chủ tử, có năm cách vị thiện nam tử đối xử với các vị Sa
Môn, Bà La Môn như phương Trên—There are five ways in which a man should
minister to ascetics and Brahmins as the Zenith:
·
Có lòng từ trong hành động về thân: By kindness in bodily
deed.
·
Có lòng từ trong hành động về khẩu: By kindness in speech.
·
Có lòng từ trong hành động về ý: By kindness in thought.
·
Mở rộng cửa để đón các vị ấy: By keeping an open house for
them.
·
Cúng dường các vị ấy các vật dụng cần thiết: By supplying
their bodily needs.
b)
Này gia chủ tử, các vị Sa Môn, Bà La Môn được vị thiện nam tử đối
xử như phương Trên theo năm cách như vậy, cũng có lòng thương vị thiện nam
tử theo năm cách sau đây—The ascetics and Brahmins , thus ministered to by
him as the Zenith, will reciprocate in six ways:
·
Ngăn không cho họ làm điều ác: They will restrain him from
evil.
·
Khuyến khích họ làm điều thiện: They will encourage him to
do good.
·
Thương xót họ với tâm từ bi: They will be benevolently
compassionate toward him.
·
Dạy họ những điều chưa nghe: They will teach him what he has
not heard.
·
Làm cho thanh tịnh điều đã được nghe: They will help him
purify what he has heard.
·
Chỉ bày con đường đưa đến cõi Trời: They will point out to
him the way to Heaven.
c)
Này gia chủ tử, các vị Sa Môn, Bà La Môn được thiện nam tử đối xử
như phương Trên với năm cách, cũng có lòng thương thiện nam tử theo năm
cách. Như vậy phương Trên được che chở, được trở thành an ổn và thoát khỏi
các sự sợ hãi: In this way the Zenith is covered, making it at peace and
free from fear.
Lục Phương Hộ Giới:
See Kinh Lễ Lục Phương.
Lục Phương Hộ Minh:
See Kinh Lễ Lục Phương.
Lục Phương Hộ Niệm:
Lục Phương Hộ Minh—Lục Phương Hộ Giới—The praisees of Amitabha proclaimed
by the Buddhas of the six directions—See Kinh Lễ Lục Phương.
Lục Phương Lễ:
Người tu theo đạo Bà La Môn mỗi sáng thường hay tắm rữa sạch sẽ rồi lễ lạy
sáu phương, để cầu sanh về cõi sướng; Đức Phật đã nhân đó thuyết kinh Lễ
Lục Phương cho họ—The brahman morning act of bathing and paying homage in
the six directions; observing the “well-born” do this; the Buddha is said
to have given the discourse in the Worship in the Six Directions Sutra—See
Kinh Lễ Lục Phương in Appendix 1.
Lục Phương Lễ Kinh:
Kinh Lễ Lục Phương—Thi Ca La Việt Lục Phương Lễ Kinh—The Worship in the
Six Directions Sutra—See Kinh Lễ Sáu Phương in Appendix A 1b.
Lục Quán Âm: The
six kinds of Kuan-Yin—See Avalokitesvara and Lục Địa Tạng.
Lục Quán Pháp: Theo
trường phái Thiên Thai, có sáu quán pháp—According to the T’ien-T’ai Sect,
there are six kinds of contemplation or six kinds of Kuan-Yin:
1)
Đại bi: Most pitiful.
2)
Đại từ: Most merciful.
3)
Sư tử vô úy: Of lion-courage.
4)
Đại quang phổ chiếu: Of universal light.
5)
Thiên nhân trượng phu: Leaders among gods and men.
6)
Đại phạm thâm viễn: The most omnipresent Brahma.
** Mỗi phẩm chất của Bồ Tát có công năng
diệt trừ chướng ngại trong sáu đường địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, a-tu-la,
nhân và thiên—Each of this Bodhisattva’s six qualities (pitiful, merciful,
lion-courage, universal light, leader among gods and men, brahma) breaks
the hindrances respectively of the hells, pretas, animals, asuras, men,
and devas.
Lục Quần Tỳ Kheo:
Vào thời Đức Phật còn tại thế có sáu nhóm Tỳ Kheo xấu, kết đảng làm những
chuyện trái với uy nghi. Giới luật mà Phật chế định ra phần nhiều duyên
vào hành động của sáu nhóm tỳ kheo nầy mà đặt ra—The six common herd
bhiksus, to whose improper or evil conduct is attributed the laying down
of many of the laws by Sakyamuni. The generally accepted list indicating
Nanda, Upananda, Asvaka, Punarvasu, Chanda, and Udayin.
Lục Quần Tỳ Kheo Ni:
Ngoài nhóm lục quần tỳ kheo ra, còn có lục quần tỳ kheo ni, cũng có tên
giống như nhóm tỳ kheo—Beside the six common herd bhiksus, there were also
the six common hed bhiksunis whose names were just the same as that of the
bhiksus’.
Lục Quyết Định: Six
kinds of certainty—See Lục Chủng Quyết Định.
Lục Quyết Trạch Phần
Tưởng: Nibbedha-bhagiya-sanna (p)—Theo Kinh Phúng Tụng trong trường Bộ
Kinh, có sáu quyết trạch phần tưởng—According to the Sangiti Sutta in the
Long Discourses of the Buddha, there are six perceptions conducive to
penetration:
1)
Vô Thường Tưởng: The perception of impermanence.
2)
Khổ Tưởng Trên Vô Thường: The perception of suffering in
impermanence.
3)
Vô Ngã Tưởng trên Khổ: The perception of impersonality in
suffering.
4)
Đoạn Tưởng: The perception of abandoning.
5)
Vô Tham Tưởng: The perception of dispassion.
6)
Diệt Tưởng: The perception of cessation.
Lục Sanh Loại:
Abhijatiyo (p)—Theo Kinh Phúng Tụng trong Trường Bộ Kinh, có sáu loại
sanh—According to the Sangiti Sutta in the Long Discourses of the Buddha,
there are six species.
1)
Có người hắc sanh và sống trong hắc pháp: Here one born in dark
conditions, lives a dark life.
2)
Có người hắc sanh và sống tạo bạch pháp: One born in dark
conditions lives a bright life.
3)
Có người hắc sanh và sống tạo Niết Bàn: One born in dark conditions
attains Nibbana, which is neither dark nor bright: Attains Nibbana, which
is neither dark nor bright.
4)
Bạch sanh sống tạo hắc pháp: One born in bright conditions lives a
dark life.
5)
Bạch sanh sống tạo bạch pháp: One born in bright conditions lives a
bright life.
6)
Bạch sanh sống tạo Niết Bàn (Phi Hắc Pháp phi bạch pháp): One born
in bright conditions attains Nibbana which is neither dark nor bright.
Lục Song Nhất Viên:
Sáu cửa sổ một con vượn—Sáu căn được ví như sáu cửa sổ và tâm thức được ví
với con vượn leo vào leo ra sáu cửa sổ nầy)—Six windows and one monkey
climbing in and out these six windows. This is compared to the six organs
of sense and the active mind which is thinking unceasingly.
Lục Súc: Sáu loại
gia súc—The six domestic animals:
1)
Ngựa: Horse.
2)
Trâu bò: Ox (buffalo).
3)
Dê: Goat.
4)
Gia cầm: Fowl.
5)
Chó: Dog.
6)
Heo:Pig.
Lục Suy: Hấp lực
của lục căn hay lục trần cũng là sáu tên giặc hay lục tặc làm cho chúng
sanh suy giảm tiêu hao—The six ruiners or the attractions of the six
senses—See Lục Trần and Lục Tặc.
Lục Sư: The six
tirthikas or heterodox teachers—See Lục Sư Ngoại Đạo.
Lục Sư Ngoại Đạo:
Chỉ sáu vị sư ngoại đạo ở Ấn Độ vào thời Đức Phật còn tại thế. Sáu vị nầy
luôn tìm cách kình chống với Đức Phật—The six heretical masters—The six
tirthikas or heterodox teachers in India at the time of the Buddha. These
six always sought to rival Buddha:
1)
Phú Lan Na Ca Diếp: Purana-Kasyapa (skt)—Người cho rằng không có
tính không, phủ nhận hậu quả của hành động tốt xấu (không có đạo nghĩa vua
tôi hay cha con)—Purana Kasyapa, who negated the effects of action, good
or evil.
2)
Mạt Già lê Câu Xa Lê: Maskari-Gosaleputra (skt)—Người phủ nhận luật
nhân quả, cho rằng sướng khổ là tự nhiên chứ không do nhân
duyên—Maskarin-Gosaliputra, who taught a theory of randomness, negating
causality.
3)
San Xà Da Tì La Hiền Tử: Sanjaya-Vairatiputra (skt)—Người cho rằng
chẳng cần tu hành, cứ trải qua số kiếp hết khổ thì đến
sướng—Sanjaya-Vairatiputra, who was agnostic in refusing to maintain any
opinion about anything.
4)
A Kỳ Đa Xí Xá Khâm Bà La: Ajita-Kesakambala (skt)—Người chủ trương
mọi thứ đều đoạn diệt, cuối cùng chỉ còn lại tứ đại, nên tu hành khổ hạnh,
để cho mọi thứ nóng bức thiêu đốt thân thể mà giải
thoát—Ajita-Kesakambala, who taught a more extreme nihilism regarding
everything except the four main elements.
5)
Ca La Cưu Đà Ca Chiên Diên: Kakuda-Katyayana (skt)—Người chủ trương
theo vật chất, không có người giết, cũng không có kẻ bị giết, mà chỉ có sự
chuyển hóa của những yếu tố vật chất mà thôi (cho rằng pháp vừa hữu tướng
vừa vô tướng. Nếu ai hỏi hữu thì đáp vô, mà ai hỏi vô thì đáp
hữu)—Kakuda-Katyayana, who taught a materialism in which there was no such
things as killer or killed, but only transformations of elements.
6)
Ni Kiện Đà Nhã Đề Tử: Nirgrantha-Jnatiputra (skt)—Người cho rằng
sướng, khổ, phúc, tội “có lẽ” đều do đời trước, ắt phải đền bồi, chứ chẳng
phải do tu hành đời nay mà quyết định được—Nirgrantha-Jnatiputra, known as
Mahavira, the founder of Jainism, who taught the doctrine of
interdeterminism, considering all things in term of “maybe.”
Lục Sứ Giả: Six
messenges—See Lục Địa Tạng.
Lục Sự Thành Tựu:
Sáu điều khiến cho một vị Bồ tát giữ tròn lục Ba La Mật—The six things
which enable a bodhisattva to keep perfectly the six paramitas:
1)
Cúng dường: Cúng dường để thành tựu đàn độ—Worshipful offerings.
2)
Hành trì giới luật: Học và hành trì giới giới luật đề thành tựu
giới độ—Study and practice the moral duties.
3)
Bi mẫn: Bi mẫn để thành tựu nhẫn độ—Pity.
4)
Tinh tấn hành trì thiện pháp: Siêng năng làm điều thiện để thành
tựu tiến độ—Zeal in goodness.
5)
Ở nơi cô liêu: Ở nơi cô liêu để thành tựu thiền độ—Isolation.
6)
Pháp lạc: Vui học Phật pháp để thành tựu trí độ—Delight in the law.
Lục Tài: Lục
Xúc—Tâm sở của xúc tương ứng với lục thức mà nảy sanh—The six decisions or
concepts formed through the mental contact of the six senses.
Lục Tặc: sáu tên
giặc cướp. Sáu căn được ví với sáu tên mối lái cho giặc cướp, cướp đoạt
hết công năng pháp tài hay thiện pháp. Sáu tên giặc kia mà đến thì lục căn
sung sướng vui mừng. Cách đề phòng duy nhứt là đừng a tòng với chúng—The
six cauras or robbers, such as the six senses, the six sense organs are
the match-makers, or medial agents of the sic robbers. The six robbers are
also likened to the six pleasures of the six sense organs. The only way to
prevent them is by not acting with them:
1)
Mắt đừng nhìn sắc đẹp: The eye avoiding beauty.
2)
Tai đừng nghe tiếng du dương: The ear avoiding melodious sound.
3)
Mũi đừng ngữi mùi thơm: The nose avoiding fragrant scent.
4)
Lưỡi đừng nếm vị ngon: The tongue avoiding tasty flavour.
5)
Thân đừng xúc chạm êm ái: The body avoiding seductions.
6)
Ý nên kềm giữ tư tưởng: The mind should always control thoughts.
** For more information,
please see Lục Căn
and Lục Đại.
Lục Tâm: Chúng ta
phần nhiều chỉ tu theo hình thức, mà ít chú trọng đến chỗ khai tâm, thành
thử lửa tam độc vẫn cháy hừng, không hưởng được hương vị thanh lương giải
thoát mà Đức Phật đã chỉ dạy. Muốn cho lòng Bồ Đề phát sanh một cách thiết
thực. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong Niệm Phật Thập Yếu, chúng ta
nên suy tư quán sát để phát tâm theo sáu yếu điểm sau đây—Most of us
merely engage in external forms of cultivation, while paying lip service
to “opening the mind.” Thus, the fire of greed, anger and delusion
continue to flare up, preventing us from tasting the pure and cool flavor
of emancipation as taught by the Buddhas. According to Most Venerable
Thích Thiền Tâm in The Pure Land Buddhism in Theory and Practice, we
should pose the question of “How can we awaken the Bodhi Mind” or we
should ponder and meditate on the following six points to develop a true
Bodhi Mind.
1)
Giác Ngộ Tâm: Chúng sanh thường chấp sắc thân nầy là ta, tâm thức
có hiểu biết, có buồn giận thương vui là ta. Nhưng thật ra, sắc thân nầy
giả dối, ngày kia khi chết đi nó sẽ tan về với đất bụi, nên thân tứ đại
không phải là ta. Tâm thức cũng thế, nó chỉ là thể tổng hợp về cái biết
của sáu trần là sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp. Ví dụ như một người
trước kia dốt, nay theo học chữ Việt, tiếng Anh, khi học thành, có cái
biết về chữ Việt tiếng Anh. Lại như một kẻ chưa biết Ba Lê, sau có dịp
sang Pháp du ngoạn, thu thập hình ảnh của thành phố ấy vào tâm. Khi trở về
bản xứ có ai nói đến Ba Lê, nơi tâm thức hiện rõ quang cảnh của đô thị ấy.
Cái biết đó trước kia không, khi lịch cảnh thu nhận vào nên tạm có, sau bỏ
lãng không nghĩ đến, lần lần nó sẽ phai lạt đến tan mất hẳn rồi trở về
không. Cái biết của ta khi có khi không, hình ảnh nầy tiêu hình ảnh khác
hiện, tùy theo trần cảnh thay đổi luôn luôn, hư giả không thật, nên chẳng
phải là ta. Cổ đức đã bảo: “Thân như bọt tụ, tâm như gió. Huyễn hiện vô
căn, không tánh thật.” Nếu giác ngộ thân tâm như huyễn, không chấp trước,
lần lần sẽ đi vào cảnh giới “nhơn không” chẳng còn ngã tướng. Cái ta của
ta đã không, thì cái ta của người khác cũng không, nên không có “nhơn
tướng.” Cái ta của mình và người đã không, tất cái ta của vô lượng chúng
sanh cũng không, nên không có “chúng sanh tướng.” Cái ta đã không, nên
không có bản ngã bền lâu, không thật có ai chứng đắc, cho đến cảnh chứng
thường trụ vĩnh cửu của Niết Bàn cũng không, nên không có “thọ giả tướng.”
Đây cần nên nhận rõ, cũng không phải không có thật thể chân ngã của tánh
chân như thường trụ, nhưng vì Thánh giả không chấp trước, nên thể ấy thành
không. Nhơn đã không thì pháp cũng không, vì sự cảnh luôn luôn thay đổi
sanh diệ, không có tự thể. Đây lại cần nên nhận rõ chẳng phải các pháp khi
hoại diệt mới thành không, mà vì nó hư huyễn, nên đương thể chính là
không, cả “nhơn” cũng thế. Cho nên cổ đức đã bảo: “Cần chi đợi hoa rụng,
mới biết sắc là không.” (Hà tu đãi hoa lạc, nhiên hậu thỉ tri không). Hành
giả khi đã giác ngộ “Nhơn” và “Pháp” đều không, thì giữ lòng thanh tịnh
trong sáng không chấp trước mà niệm Phật. Dùng lòng giác ngộ như thế mà
hành đạo, mới gọi là phát Bồ Đề Tâm—The Enlightened Mind—Sentient beings
are used to grasping at this body as “me,” at this discriminating
mind-consciousness which is subject to sadness and anger, love and
happiness, as “me.” However, this flesh-and-blood body is illusory;
tomorrow, when it dies, it will return to dust. Therefore, this body, a
composite of the four elements (earth, water, fore, and air) is not “me.”
The same is true with our mind-consciousness, which is merely the
synthesis of our perception of the six “Dusts” (form, sound, fragance,
taste, touch, and dharmas). For example, a person who formerly could not
read or write, but is now studying Vietnamese or English. When his studies
are completed, he will have knowledge of Vietnamese or English. Another
example is a person who had not known Paris, but who later on had the
opportunity to visit France and absorb the sights and sounds of that city.
Upon his return, if someone were to mention Paris, the sights of that
metropolis would appear clearly in his mind. That knowledge formerly did
not exist; when the sights and sounds entered his subconscious, they
“existed.” If these memories were not rekindled from time to time, they
would gradually fade away and disappear, returning to the void. This
knowledge of ours, sometimes existing, sometimes not existing, some images
disappearing, other images arising, always changing following the outside
world, is illusory, not real. Therefore, the mind-consciousness is not
“me.” The ancients have said: “The body is like a bubble, the mind is like
the wind; they are illusions, without origin or True Nature.” If we truly
realize that body and mind are illusory, and do not cling to them, we will
gradually enter the realm of “no-self,” escaping the mark of self. The
self of our self being thus void, the self of others is also void, and
therefore, there is no mark of others. Our self and the self of others
being void, the selves of countless sentient beings are also void, and
therefore, there is no mark of sentient beings. The self being void, there
is no lasting ego; there is really no one who has “attained
Enlightenment.” This is also true of Nirvana, ever-dwelling, everlasting.
Therefore, there is no mark of lifespan. Here we should clearly
understand: it is not that eternally dwelling “True Thusness” has no real
nature or true self; it is because the sages have no attachment to that
nature that it becomes void. Sentient beings being void, objects (dharmas)
are also void, because objects always change, are born and die away, with
no self-nature. We should clearly realize that this is not because
objects, upon disintegration, become void and non-existent; but, rather,
because, being illusory, their True Nature is empty and void. Sentient
beings, too, are like that. Therefore, ancient have said: “Why wait until
flowers fall to understand that form is empty.” The practitioner, having
clearly understood that beings and dharmas are empty, can proceed to
recite the Buddha’s name with a pure, clear and bright mind, free from all
attachments. Only when he cultivates in such an enlightened frame of mind
he be said to have “develop the Bodhi Mind.”
2)
Bình Đẳng Tâm: Trong khế kinh, Đức Phật khuyên dạy: “Tất cả chúng
sanh đều có Phật tánh, đều là cha mẹ đời quá khứ và chư Phật đời vị lai.”
Chư Phật thấy chúng sanh là Phật, nên dùng tâm bình đẳng đại bi mà tế độ.
Chúng sanh thấy chư Phật là chúng sanh, nên khởi lòng phiền não phân biệt
ghét khinh. Cũng đồng một cái nhìn, nhưng lại khác nhau bởi mê và ngộ. Là
đệ tử Phật, ta nên tuân lời Đức Thế Tôn chỉ dạy, đối với chúng sanh phải
có tâm bình đẳng và tôn trọng, bởi vì đó là chư Phật vị lai, đồng một Phật
tánh. Khi dùng lòng bình đẳng tôn kính tu niệm, sẽ dứt được nghiệp chướng
phân biệt khinh mạn, nảy sanh các đức lành. Dùng lòng bình đẳng như thế mà
hành đạo, mới gọi là phát Bồ Đề tâm—The Mind of Equanimity—In the sutras,
Sakyamuni Buddha stated: “All sentient beings possess the Buddha Nature;
they are our fathers and mothers of the past and the Buddhas of the
future.” The Buddhas view sentient beings as Buddhas and therefore
attempt, with equanimity and great compassion, to rescue them. Sentient
beings view Buddhas as sentient beings, engendering afflictions,
discrimination, hatred and scorn. The faculty of vision is the same; the
difference lies in whether we are enlightened or not. As disciples of the
Buddhas, we should follow their teachings and develop a mind of equanimity
and respect towards sentient beings; they are the Buddhas of the future
and are all endowed with the same Buddha Nature. When we cultivate with a
mind of equanimity and respect, we rid ourselves of the afflictions of
discrimination and scorn, and engender virtues. To cultivate with such a
mind is called “developing the Bodhi Mind.”
3)
Tâm Từ Bi: Ta cùng chúng sanh sanh đều sẳn đủ đức hạnh, tướng hảo
trí huệ của Như Lai, mà vì mê chân tánh, khởi hoặc nghiệp nên phải bị luân
hồi, chịu vô biên sự thống khổ. Nay đã rõ như thế, ta phải dứt tâm ghét
thương phân biệt, kởi lòng cảm hối từ bi tìm phương tiện độ mình cứu
người, để cùng nhau được an vui thoát khổ. Nên nhận rõ từ bi khác với ái
kiến. Ái kiến là lòng thương yêu mà chấp luyến trên hình thức, nên kết quả
bị sợi dây tình ái ràng buộc. Từ bi là lòng xót thương cứu độ, mà lìa
tướng, không phân biệt chấp trước; tâm nầy thể hiện dưới đủ mọi mặt, nên
kết quả được an vui giải thoát, phước huệ càng tăng. Muốn cho tâm từ bi
được thêm rộng, ta nên từ nỗi khổ của mình, cảm thông đến các nỗi khổ khó
nhẫn thọ hơn của kẻ khác, tự nhiên sanh lòng xót thương muốn cứu độ, niệm
từ bi của Bồ Đề tâm chưa phát bỗng tự phát sanh. Trong Kinh Hoa Nghiêm,
ngài Phổ Hiền đã khai thị: “Đại Bồ Tát với lòng đại bi có mười cách quán
sát chúng sanh không nơi nương tựa mà khởi đại bi. Quán sát chúng sanhtánh
chẳng điều thuận mà khởi đại bi, quán sát chúng sanh nghèo khổ không căn
lành mà khởi đại bi. Quán sát chúng sanh ngủ say trong đêm dài vô minh mà
khởi đại bi. Quán sát chúng sanh làm những điều ác mà khởi đại bi. Quán
sát chúng sanh đã bị ràng buộc, lại thích lao mình vào chỗ ràng buộc mà
khởi đại bi. Quán sát chúng sanh bị chìm đắm trong biển sanh tử mà khởi
đại bi. Quán sát chúng sanh vương mang tật khổ lâu dài mà khởi đại bi.
Quán sát chúng sanh không ưa thích pháp lành mà khởi đại bi. Quán sát
chúng sanh xa mất Phật pháp mà khởi đại bi…” Đã phát tâm đại bi tất phải
phát đại Bồ Đề tâm thề nguyền cứu độ. Thế thì lòng đại bi và lòng đại Bồ
Đề dung thông nhau. Cho nên phát từ bi tâm tức là phát Bồ Đề tâm. Dùng
lòng đại từ bi như thế mà hành đạo, mới gọi là phát Bồ Đề tâm—Mind of
Compassion—We ourselves and all sentient beings already possess the
virtues, embellishment and wisdom of the Buddhas. However, because we are
deluded as to our True Nature, and commit evil deeds, we resolve in Birth
and Death, to our immense suffering. Once we have understood this, we
should rid ourselves of the mind of love-attachment, hate and
discrimination, and develop the mind of repentance and compassion. We
should seek expedient means to save ourselves and others, so that all are
peaceful, happy and free of suffering. Let us be clear that compassion is
different from love-attachment, that is, the mind of affection, attached
to forms, which binds us with the ties of passion. Compassion is the mind
of benevolence, rescuing and liberating, detached from forms, without
discrimination or attachment. This mind manifests itself in every respect,
with the result that we are peaceful, happy and liberated, and possess
increased merit and wisdom. If we wish to expand the compassionate mind,
we should, taking our own suffering as starting point, sympathize with the
even more unbearable misery of others. A benevolent mind, eager to rescue
and liberate, naturally develops; the compassionate thought of the Bodhi
Mind arises from there. As the Bodhisattva Samantabhadra taught in the
Avatamsaka Sutra: “Great Bodhisattvas develop great compassion by ten
kinds of observations of sentient beings: they see sentient beings have
nothing to rely on for support; they see sentient beings are unruly; they
see sentient beings lack virtues; they see sentient beings are asleep in
ignorance; they see sentient beings do bad things; they see sentient
beings are bound by desires; they see sentient beings drowning in the sea
of Birth and Death; they see sentient beings have no desire for goodness;
they see sentient beings have lost the way to enlightenment.” Having
developed the great compassionate mind, we should naturally develop the
Great Bodhi Mind and vow to rescue and liberate. Thus the great
compassionate mind and the great Bodhi Mindinterpenetrate freely. That is
why to develop the compassionate mind is to develop the Bodhi Mind. Only
when we cultivate with such great compassion can we be said to have
“developed the Bodhi Mind.”
4)
Hoan Hỷ Tâm: Đã có xót thương tất phải thể hiện lòng ấy qua tâm
hoan hỷ. Lòng tùy hỷ trừ được chướng tật đố nhỏ nhen. Lòng hỷ xả giải được
chướng thù báo phục. Bởi tâm Hoan Hỷ không ngoài sự giác ngộ mà thể hiện,
nên đó chính là lòng Bồ Đề. Hoan hỷ có hai thứ—The Mind of Joy—Having a
benevolent mind, we should express it through a mind of joy. The rejoicing
mind can destroy the affliction of mean jealousy. The “forgive and forget”
mind can put an end to hatred, resentment, and revenge. Because the mind
of joy cannot manifest itself in the absence of Enlightenment, it is that
very Bodhi Mind. This mind is of two kinds: a rejoicing mind and a mind of
“forgive and forget.”
a)
Tùy Hỷ là khi thấy trên từ chư Phật, Thánh nhân, dưới cho đến các
loại chúng sanh, có làm được công đức gì , dù là nhỏ mọn cũng vui mừng
theo. Và khi thấy ai được sự phước lợi, hưng thạnh thành công, an ổn, cũng
sanh niệm vui vẻ mừng dùm—A rejoicing mind means that we are glad to
witness meritorious and virtuous acts, however, insignificant, performed
by anyone, from the Buddhas and saints to all various sentient beings.
Also, whenever we see anyone receiving gain or merit, or prosperous,
successful and at peace, we are happy as well, and rejoice with them.
b)
Hỷ xả là dù có chúng sanh làm những điều tội ác, vong ân, khinh
hủy, hiểm độc, tổn hại cho người hoặc cho mình, cũng an nhẫn vui vẻ mà bỏ
qua. Sự vui nhẫn nầy nếu xét nghĩ sâu, thành ra không thật có nhẫn, vì
tướng người, tướng ta và tướng não hại đều không. Nên Kinh Kim Cang dạy:
“Như Lai nói nhẫn nhục Ba La Mật, tức chẳng phải nhẫn nhục Ba La Mật, đó
gọi là nhẫn nhục Ba La Mật.”—A “forgive and forget” mind means that even
if sentient beings commit nefarious deeds, show ingratitude, hold us in
contempt and denigrate us, are wicked, causing harm to others or to
ourselves, we calmly forbear, gladly forgiving and forgetting their
transgressions. This mind of joy and forbearance, if one dwells deeply on
it, does not really exist, because there is in truth no mark of self, no
mark of others, no mark of annoyance or harm. As stated in The Diamond
Sutra: “The Tathagata teaches likewise that the Perfection of Patience is
not the Perfection of Patience; such is merely a name.”
5)
Sám Nguyện Tâm: Trong kiếp luân hồi, mọi loài hằng đổi thay làm
quyến thuộc lẫn nhau. Thế mà ta vì mê mờ lầm lạc, từ kiếp vô thỉ đến nay,
do tâm chấp ngã muốn lợi mình nên làm tổn hại chúng sanh, tạo ra vô lượng
vô biên ác nghiệp. Thậm chí đến chư Phật, Thánh nhơn, vì tâm đại bi đã ra
đời thuyết pháp cứu độ loài hữu tình, trong ấy có ta, mà đối với ngôi Tam
Bảo ta lại sanh lòng vong ân hủy phá. Ngày nay giác ngộ, ta phải hổ thẹn
ăn năn, đem ba nghiệp chí thành sám hối. Đức Di Lặc Bồ Tát đã lên ngôi bất
thối, vì muốn mau chứng quả Phật, mỗi ngày còn lễ sám sáu thời. Vậy ta
phải đem thân nghiệp kính lễ Tam Bảo, khẩu nghiệp tỏ bày tội lỗi cầu được
tiêu trừ, ý nghiệp thành khẩn ăn năn thề không tái phạm. Đã sám hối, phải
dứt hẳn tâm hạnh ác, không còn cho tiếp tục nữa, đi đến chỗ tâm và cảnh
đều không, mới là chân sám hối. Lại phải phát nguyện, nguyện hưng long
ngôi Tam Bảo, nguyện độ khắp chúng sanh để chuộc lại lỗi xưa và đền đáp
bốn ân nặng (ân Tam Bảo, ân cha mẹ, ân sư trưởng, ân thiện hữu tri thức,
và ân chúng sanh). Có tâm sám nguyện như vậy tội chướng mới tiêu trừ, công
đức ngày thêm lớn, và mới đi đến chỗ phước huệ lưỡng toàn. Dùng lòng sám
nguyện như thế mà hành đạo, mới gọi là phát Bồ Đề tâm—The Mind of
Repentance and Vows—In the endless cycle of Birth and Death, all sentient
beings are at one time or another rlated to one another. However, because
of delusion and attachment to self, we have, for countless eons, harmed
other sentient beings and created an immense amount of evil karma. The
Buddhas and the sages appear in this world out of compassion, to teach and
liberate sentient beings, of whom we are a part. Even so, we engender a
mind of ingratitude and destructiveness toward the Triple Jewel (Buddha,
Dharma, Sangha). Now that we know this, we should feel remorse and repent
the three evil karmas. Even the Maitreya Bodhisattva, who has attained
non-retrogression, still practices repentance six times a day, in order to
achive Buddhahood swiftly. We should use our bodies to pay respect to the
Triple Jewel, our mouth to confess our transgression and seek expiation,
and our minds to repent sincerely and undertake not to repeat them. Once
we have repented, we should put a complete stop to our evil mind and
conduct, to the point where mind and objects are empty. Only then will
there be true repentance. We should also vow to foster the Triple Jewel,
rescue and liberate all sentient beings, atone for our past
transgressions, and repay the "fo“r great debts," w”ich are the debt to
the triple Jewel, the debt to our parents and teachers, the debt to our
spiritual friends, and finally the debt we owe to all sentient beings.
Through this repentant mind, our past transgressions will disappear, our
virtues will increase with time, leading us to the stage of perfect merit
and wisdom. Only when we practice with such a repentant mind can we be
said to have “developed the Bodhi Mind.”
6)
Bất Thối Tâm: Dù đã sám hối phát nguyện tu hành, nhưng nghiệp hoặc
ma chướng không dễ gì dứt trừ, sự lập công bồi đức thể hiện sáu độ muôn
hạnh không dễ gì thành tựu. Mà con đường Bồ Đề đi đến quả viên giác lại xa
vời dẫy đầy gay go chướng nạn, phải trải qua hằng sa kiếp, đâu phải chỉ
một hai đời? Ngài Xá Lợi Phất trong tiền kiếp chứng đến ngôi lục trụ, phát
đại Bồ Đề tâm tu hạnh bố thí. Nhưng khi chịu khổ khoét một con mắt cho
ngoại đạo, bị họ không dùng liệng xuống đất rồi nhổ nước dãi, lấy chân chà
đạp lên trên, ngài còn thối thất Đại thừa tâm. Thế thì ta thấy sự giữ vững
tâm nguyện là điều không phải dễ! Cho nên hành giả muốn được đạo tâm không
thối chuyển, phải lập thệ nguyện kiên cố. Thề rằng: “Thân nầy dầu bị vô
lượng sự nhọc nhằn khổ nhục, hoặc bị đánh giết cho đến thiêu đốt nát tan
thành tro bụi, cũng không vì thế mà phạm điều ác, thối thất trên bước
đường tu hành.” Dùng lòng bất thối chuyển như thế mà hành đạo, mới gọi là
phát Bồ Đề tâm—The Mind of no Retreat—Although a practitioner may have
repented his past transgressions and vowed to cultivate, his habitual
delusions and obstructions are not easy to eliminate, nor is the
accumulation of merits and virtues through cultivation of the six
paramitas and ten thousand conducts necessarily easy to achieve. Moreover,
the path of perfect Enlightenment and Buddhahood is long and arduous, full
of hardship and obstructions over the course of untold eons. It is not the
work of one or two life spans. For example, the Elder Sariputra, one of
the main disciples of Sakyamuni Buddha, had reached the sixth abode of
Bodhisattvahood in one of his previous incarnations and had developed the
Bodhi Mind practicing the Paramita of Charity. However, when an
externalist (non-Buddhist) asked him for one of his eyes and then, instead
of using it, spat on it and crushed it with his foot, even Sariputra
became angry and retreated from the Mahayana mind. We can see, therefore,
that holding fast to our vows is not an easy thing! For this reason, if
the practitioner wishes to keep his Bodhi Mind from retrogressing, he
should be strong and frim in his vows. He should vow thus: “Although this
body of mine may endure immense suffering and hardship, be beaten to death
or even reduced to ashes, I shall not, in consequence, commit wicked deeds
or retrogress in my cultivation.” Practicing with such a non-retrogressing
mind is called “developing the Bodhi Mind.”
** For more information,
please see Tâm (II)
(E).
Lục Tế: Theo Trí Độ
Luận, có sáu thứ chướng tế che đậy mất sáu Ba La Mật hay tịnh
tâm—According to the Maha-Prajna-Sastra, there are six sins that smother
the six paramitas or the pure mind.
1)
Xan Tham: Tham lam bỏn xẻn—Grudging.
2)
Phá Giới: Commandment-breaking.
3)
Sân Nhuế: Nóng nảy giận dữ—Anger.
4)
Liên Niệm: Thương nhớ luyến ái gia đình—Family attachment.
5)
Tán Loạn: Confused thoughts or scattered mind.
6)
Ngu Si: Ignorance or stupidity.
Lục Thành Bộ:
Sannagarikah (skt)—Mật Lâm Sơn Bộ—Một trong hai mươi tông phái Tiểu Thừa,
có quan hệ với Độc Tử Bộ—One of the twenty Hinayana sects, connected with
Vatsiputtriyah.
Lục Thành Tựu: Sáu
loại thành tựu, thường mở đầu các kinh—Six perfections found in the
opening phrase of each sutra:
1)
Tín Thành Tự: Lấy chữ “Như Vậy” làm tín thành tựu— “Thus” implies
perfect faith.
2)
Văn Thành Tựu: Lấy hai chữ “Ngã Văn” hay “Tôi nghe” làm văn thành
tựu—“I Have Heard” implies perfect hearing.
3)
Thời Thành Tựu: Lấy hai chữ “Nhất Thời” hay “một thuở” làm thời
thành tựu—“Once” implies the perfect time.
4)
Chủ Thành Tựu: Lấy chữ “Phật” chỉ rõ vị chủ thuyết pháp làm chủ
thành tựu—“the Buddha” implies the perfect lord or master.
5)
Xứ Thành Tựu: Lấy các chữ như “Tại núi Kỳ Xà Quật” làm xứ thành
tựu—“on Mount Grdhrakuta” implies the perfect place.
6)
Chúng Thành Tựu: Lấy các chữ “Đại Tỳ Kheo Chúng” làm chúng thành
tựu—“with the great assembly of bhiksus” implies the perfect assembly.
Lục Thân: Sáu người
thân nhứt—The six closest relatives—The six immediate relations:
1)
Cha: Father.
2)
Mẹ: Mother.
3)
Anh em trai: Elder or younger brothers.
4)
Chị em gái: Elder or younger sisters.
5)
Vợ hay chồng: Wife or husband.
6)
Con cái: Children.
Lục Thần Thông: The
six transcendental or magical powers—See Lục Thông.
Lục Thập: Sasti
(skt)—Sáu mươi—Sixty.
Lục Thập Nhị Kiến:
Sáu mươi hai loại kiến giải—The sixty-two views:
(A)
Theo Kinh Đại Bát Nhã—According to the Maha-Prajna Sutra:
(I)
(20) Năm uẩn duyên với bốn trạng thái làm thành hai mươi kiến
giải—The five skandhas under four considerations of time, considered as
time past, whether each of the five has had permanence, impermanence,
both, and neither:
1)
Bốn kiến giải của Sắc—Four views of Form:
a)
Sắc là thường: Form is permanent.
b)
Sắc là vô thường: Form is impermanent.
c)
Sắc là cả thường lẫn vô thường: Form is both permanent and
impermanent.
d)
Sắc là không (phi) thường cũng không (phi) vô thường: Form is
neither permanent nor impermanent.
2)
Bốn kiến giải của Thọ—Four views of Sensation:
a)
Thọ là thường: Sensation is permanent.
b)
Thọ là vô thường: Sensation is impermanent.
c)
Thọ là cả thường lẫn vô thường: Sensation is both permanent and
impermanent.
d)
Thọ là phi thường phi vô thường: Sensation is neither permanent nor
impermanent.
3)
Bốn kiến giải của Tưởng—Four views of perception:
a)
Tưởng là thường: Perception is permanent.
b)
Tưởng là vô thường: Perception is impermanent.
c)
Tưởng là cả thường lẫn vô thường: Perception is both permanent and
impermanent.
d)
Tưởng là phi thường phi vô thường: Perception is neither permament
nor impermanent.
4)
Bốn kiến giải của Hành—Four views of Volition or Mental formation:
a)
Hành là thường: Mental formation is permanent.
b)
Hành là vô thường: Mental formation is impermanent.
c)
Hành là cả thường lẫn vô thường: Mental formation is both permanent
and impermanent.
d)
Hành là phi thường phi vô thường: Mental formation is neither
permanent nor impermanent.
5)
Bốn kiến giải của Thức—Four views of consciousness:
a)
Thức là thường: Consciousness is permanent.
b)
Thức là vô thường: Consciousness is impermanent.
c)
Thức là cả thường lẫn vô thường: Consciousness is both permanent
and impermanent.
d)
Thức là phi thường phi vô thường: Consciousness is neither
permanent nor impermanent.
(II) Năm uẩn duyên với tứ biên làm thành hai
mươi kiến giải—Five skandhas under the four considerations to their space
or extension, considered as present time, whether each is finite,
infinite, both, or neither to make
another 20 views:
1)
Bốn kiến giải của sắc—Four views of Form:
a)
Sắc là hữu biên: Form is finite.
b)
Sắc là vô biên: Form is infinite.
c)
Sắc là cả hữu lẫn vô biên: Form is both finite and infinite.
d)
Sắc phi hữu phi vô biên: Form is neither finite nor infinite.
2)
Bốn kiến giải của Thọ—Four views of Sensation:
a)
Thọ hữu biên: Sensation is finite.
b)
Thọ vô biên: Sensation is infinite.
c)
Thọ hữu lẫn vô biên: Sensation is both finite and infinite.
d)
Thọ phi hữu phi vô biên: Sensation is neither finite nor infinite.
3)
Bốn kiến giải của Tưởng—Four views of Perception:
a)
Tưỡng hữu biên: perception is finite.
b)
Tưởng vô biên: Perception is infinite.
c)
Thọ là hữu lẫn vô biên: Perception is both finite and infinite.
d)
Thọ phi hữu phi vô biên: Perception is neither finite nor infinite.
4)
Bốn kiến giải của Hành—Four views of Volition or Mental formation:
a)
Hành hữu biên: Volition is finite.
b)
Hành vô biên: Volition is infinite.
c)
Hành cả hữu lẫn vô biên: Volition is both finite and infinite.
d)
Hành phi hữu phi vô biên: Volition is neither finite nor infinite.
5)
Bốn kiến giải của Thức—Four views of Consciousness:
a)
Thức hữu biên: Consciousness is finite.
b)
Thức vô biên: Consciousness is infinite.
c)
Thức cả hữu lẫn vô biên: Consciousness is both finite and infinite.
d)
Thức phi hữu phi vô biên: Consciousness is neither finite nor
infinite.
(III)Năm uẩn duyên với bốn chuyển làm thành
hai mươi kiến giải—Five skandhas under the four considerations to their
destination to make another 20 views:
1)
Bốn kiến giải của Sắc—Four views of Form:
a)
Sắc như khứ (sắc kể như mất): Form is gone.
b)
Sắc chẳng như khứ (sắc kể như chẳng mất): Form is not gone.
c)
Sắc như khứ chẳng như khứ (sắc kể như mất mà cũng kể như chẳng
mất): Form is both gone and not gone.
d)
Sắc phi như khư phi chẳng như khứ (sắc chẳng kể như mất, chẳng kể
như chẳng mất): Form is neither gone nor not gone.
2)
Bốn kiến giải của Thọ—Four views of sensation:
a)
Thọ như khứ: Sensation is gone.
b)
Thọ chẳng như khứ: Sensation is not gone.
c)
Thọ như khứ chẳng như khứ: Sensation is both gone and not gone.
d)
Thọ phi như khứ phi chẳng như khứ: Sensation is neither gone nor
not gone.
3)
Bốn kiến giải của Tưởng—Four views of Perception:
a)
Tưởng như khứ: Perception is gone.
b)
Tưởng chẳng như khứ: Perception is not gone.
c)
Tưởng như khứ chẳng như khứ: Perception is both gone and not gone.
d)
Tưởng phi như khứ phi chẳng như khứ: Perception is neither gone nor
not gone.
4)
Bốn kiến giải của Hành—Four views of Volition or mental formation:
a)
Hành như khứ: Volition is gone.
b)
Hành chẳng như khứ: Volition is not gone.
c)
Hành như khứ chẳng như khứ: Volition is both gone and not gone.
d)
Hành phi như khứ phi chẳng như khứ: Volition is neither gone nor
not gone.
5)
Bốn kiến giải của Thức—Four views of consciousness:
a)
Thức như khứ: Consciousness is gone.
b)
Thức chẳng như khứ: Consciousness is not gone.
c)
Thức như khứ chẳng như khứ: Consciousness is both gone and not
gone.
d)
Thức phi như khứ phi chẳng như khứ: Consciousness is neither gone
nor not gone.
(IV)Đồng Nhất thân tâm: Unity of body and
mind.
(V) Dị Biệt thân tâm: Difference of body and
mind.
(B)
Theo tông Thiên Thai, có 62 ngã kiến—According to the T’ien-T’ai
scet, there are sixty-two views on personality.
1)
Bốn kiến giải của sắc—Four views of Form or Rupa as its basis and
consider each of the five skandhas under four aspects.
a)
Sắc là Ngã: Rupa, the organized body, as the ego.
b)
Lìa Sắc vẫn có Ngã: The ego as apart from the rupa.
c)
Sắc là lớn, ngã là nhỏ; ngã trụ trong sắc: Rupas as the greater,
the ego the smaller or inferior, and the ego as dwelling in the rupa.
d)
Ngã là lớn, sắc là nhỏ; sắc trụ trong ngã: The ego as the greater,
rupa the inferior, and the rupa in the ego.
** Cùng một tiến trình như vậy với Thọ,
Tưởng, Hành Thức trong hiện tại, quá khứ và vị lai sẽ làm thành 60 kiến
giải—The same process applies to Sensation, Perception, Volition, and
Consciousness in the present, past and future to make 60 views.
2)
Đoạn Kiến: Impermanence.
3)
Thường Kiến: Permanence.
Lục Thí: Sáu thí dụ
hay dẫn dụ—The six metaphors—See Lục Chúng Sanh.
Lục Thiên: The six
devalokas, the heavens with sense organs above Sumeru, between Brahmalokas
and the earth—See Lục Dục Thiên.
Lục Thiên Tụ: Six
kinds of wrong-doing.
1-5) See Ngũ Thiên Tụ.
6)
Thâu Lan Gia: Sthulatyaya (skt)—Tội đáng đọa địa ngục, nhưng có thể
tha được vì chỉ là những tư tưởng chưa làm ra hành động—Sins deserving
hells which may be forgiven; however, thoughts not developed in action
yet.
Lục Thọ: sáu thọ từ
sáu căn—The six vedanas—The six receptions or senasations from the six
organs—See Thọ and Lục Căn.
Lục Thọ Thân:
Vedana-kaya (p)—Theo Kinh Phúng Tụng trong Trường Bộ Kinh, có sáu thọ
thân—According to the Sangiti Sutta in the Long Discourses of the Buddha,
there are six groups of feeling:
1)
Nhãn xúc sở sanh thọ: Cakkhu-samphassaja-vedana (p)—Feeling based
on eye-contact.
2)
Nhĩ xúc sở sanh thọ: Feeling based on ear-contact.
3)
Tỷ xúc sở sanh thọ: Feeling based on nose-contact.
4)
Thiệt xúc sở sanh thọ: Feeling based on tongue-contact.
5)
Thân xúc sở sanh thọ: feeling based on body-contact.
6)
Ý xúc sở sanh thọ: Feeling based on mind-contact.
Lục Thoại: Sáu điềm
kiết tường khi Phật thuyết kinh Pháp Hoa—The six auspicious indications
attributed to the Buddha as a preliminary to his delivery of the Lotus
Sutra:
1)
His opening address on the infinite.
2)
Phật tam ma địa: His samadhi.
3)
Mưa hoa: The rain of flowers.
4)
Mặt đất run chuyển: The earthquake.
5)
The delight of the beholders.
6)
Phật phóng quang: The Buddha-ray.
Lục Thời: Sáu thời,
ba thời ban ngày, ba thời ban đêm—The six “hours” or periods in a day and
night:
1)
Sáng: Morning.
2)
Trưa: Noon.
3)
Chiều: Evening.
4)
Chập Tối (đầu hôm): Night.
5)
Nửa đêm: Midnight.
6)
Bình minh (tảng sáng): Dawn.
Lục Thời Bất Đoạn:
Ngày sáu thời tu hành không gián đoạn—The six daily periods of
unintermitting devotions.
Lục Thời Lễ Tán (Tụng):
Ngày đêm sáu thời lễ tán Đức Phật A Di Đà—The six daily periods of
workship and of ceremonial.
Lục Thời Sám Hối Lục
Căn: Sáu thời sám hối tội lỗi lục căn—The six daily periods of
penitential services over the sins of the six senses.
Lục Thời Sám Hối Tội
Lỗi: The six daily periods of penitential services over the sins.
Lục Thời Tam Muội:
See Lục Thời Thiền Định.
Lục Thời Thiền Định:
The six daily periods of meditation.
Lục Thô: The six
coarser stages—See Lục Thô Tướng.
Lục Thô Tướng: Theo
Khởi Tín Luận, có sáu loại thô tướng sanh ra bởi si mê—According to the
Awakening of Faith, there are six coarser stages arising from the three
finer stages which in turn are produced by original unenlightened
condition of ignorance.
1)
Trí Tướng: Ý thức do cảnh giới mê chấp mà chẳng biết đó là huyễn
giả lại sanh tâm thích hay không thích khởi lên từ trạng thái tinh
thần—Knowledge or consciousness of like and dislike arising from mental
conditions.
2)
Tương Tục Tướng: Dựa vào sự phân biệt của trí tướng mà có ý thức về
khổ lạc (đau khổ và vui sướng)—Consciouness of pain and pleasure resulting
from the knowledge or consciousness, causing continuous responsive memory.
3)
Chấp Thủ Tướng: Đối vời cảnh khổ lạc chẳng biết đó là hư huyễn lại
sanh niềm chấp thủ—Attachment or clinging arising from consciouness of
pain or pleasure, or retention of memories of past joys and sorrows as if
they were reality and not illusions.
4)
Kế Danh Tự Tướng: Gắn tên cố định cho những thứ huyễn hão giả danh
nên sanh khổ đau phiền não—Assigning names according to the seeming and
unreal with fixation of ideas.
5)
Khởi Nghiệp Tướng: Hậu quả của các thứ nghiệp thiện ác—The
consequent activity with all the variety of deeds.
6)
Nghiệp Hệ Khổ Tướng: Bị buộc vào nghiệp thiện ác mà cảm khổ quả
sanh tử—The suffering resulting from being tied to deeds and their karma
consequences.
Lục Thông: Abhijna
or Sadabhijna (skt)—Sáu thần thông mà chư Phật hay chư A La Hán đạt được
qua tứ thiền—Six miraculous or transcendental powers—Six magical
penetrations—Six superknowledges—Six supernatural or universal powers
acquired by a Buddha, also by an arhat through the fourth degree of
dhyana:
1)
Thiên Nhãn Thông: Divyacaksus (skt)— Ability to see all
forms—Clairvoyance—Deva-eye—Deva-vision—Divine sight—Penetration of the
Heavenly Eye—Khả năng thấy được tất cả mọi thứ trong sắc giới. Khả năng
thấy cái mà mình muốn thấy—Instantaneous view of anything anywhere in the
form realm. Power to see what one wills to see anywhere.
2)
Thiên Nhĩ Thông: Divyasrotra (skt)— Clairaudience—Deva-Ear—Divine
hearing—Penetration of the Heavenly Ear—Khả năng nghe mọi âm thanh. Khả
năng nghe và hiểu mọi ngôn ngữ—Ability to hear all sounds (ability to hear
any sound anywhere). Power to hear and understand all languages.
3)
Tha Tâm Thông: Paracitta-jnana (skt)— Mental telepathy—Tha Tâm Trí
Thông hay khả năng đọc được tư tưởng của người khác mà các bậc giác ngộ
đạt được cao hay thấp tùy theo sự thành đạt của bậc ấy—Penetration into
others’ minds or thoughts—Ability to know the thoughts of others or power
to read thoughts, or knowledge of the minds of all living beings—Ability
(power) to know the thoughts of all other minds which enlightened beings
have to a greater or lesser extent depending on their spiritual
achievements.
4)
Thần Túc Thông: Rddhi-saksatkriya-jnana (skt)—Penetration of
spiritual fulfillment (fulfillment of the spirit)—Psychic travel—Khả năng
đi bất cứ đâu và làm bất cứ thứ gì tùy ý—Ability (power) to be anywhere
and to do anything at will, or power to appear at will in any place and to
have absolute freedom to do anything.
5)
Túc Mạng Thông: Purvanivasanusmrti-jnana (skt)—Khả năng biết được
quá khứ vị lai của mình và người—Knowledge of past and future of self and
others or ability to penetrate into past and future lives of self and
others (knowledge of all forms of former existences of self and others).
6)
Lậu Tận Thông: Asravaksaya-jnana (skt)—Ability to end
contamination—Power to deliver of the mind from all passions—Penetration
of the exhaustion (extinction) of outflows—Khả năng chấm dứt nhiễm trược
và đưa tâm đến chỗ giải thoát khỏi mọi dục vọng—Supernatural consciousness
of the waning of vicious propensities, and the deliverance of mind from
passions, or insight into the ending of the stream of transmigration.
Lục Thú: Sáu nẻo
luân hồi sanh tử—The six directions of reincarnation—See Lục Đạo.
Lục Thú Luân Hồi Kinh:
Kinh do Bồ Tát Mã Minh biên soạn—The Sutra on the six Directions of
Reincarnation, composed by Asvaghosa Bodhisattva.
Lục Thuật: Sáu loại
ngoại đạo trong thời Phật còn tại thế—The six kinds of heretics in India
at the time of the Buddha—See Lục Khổ Hạnh.
Lục Thuyền: Sáu
chiếc thuyền hay sáu Ba La Mật đưa chúng sanh đáo bỉ ngạn vượt bờ sanh
tử—The six boats or the six paramitas for ferrying to the bank beyond
mortality—See Lục Độ Ba La Mật.
Lục Thức: Six
conceptions (consciousnesses)—The perceptions and discernings of the six
organs of sense:
1)
Nhãn thức: Sight consciousness.
2)
Nhĩ thức: Hearing consciousness.
3)
Tỷ thức: Scent consciousness.
4)
Thiệt thức: Taste consciousness.
5)
Thân thức: Body consciousness.
6)
Ý thức: Mana (skt)—Mind consciousness—See Ý Thức.
** For more information,
please see Bát Thức.
Lục Thức Thân:
Vinnana-kaya (p)—Six groups of consciousness—See Lục Thức.
Lục Tiển: The six
arrows. These six senses are compared to the six senses—See Lục Kiếm.
Lục Tín: Theo Hòa
Thượng Thích Thiền Tâm trong Liên Tông Thập Tam Tổ, trong phần Tín Hạnh
Nguyện, thầy đã nhấn mạnh về Tín là tin ở nơi sáu điều—According to Most
Venerable Thích Thiền Tâm in The Thirteen Patriarchs of Pureland Buddhism,
he emphasized that to have Faith is to believe in the following six
elements:
1)
Tự Tin—Self-Faith: Sao gọi là tự tin hay tin nơi chính mình? Tin
nơi chính mình tức là tin tất cả đều do nơi Tâm của mình tạo ra. Vì thế
nếu mình niệm Phật, ắt sẽ được Phật tiếp dẫn không sai—What is self-faith
or faith in one’s self ? This is to have faith that everything is created
within one’s mind; therefore, if a practitioner recites Buddha, then,
absolutely, Buddha will receive him or her.
2)
Tha Tin—Faith in others: Sao gọi là tha tin hay tin ở nơi người?
Tin nơi người là tin Đức Phật Thích Ca không bao giờ nói dối, Phật A Di Đà
chẳng thệ nguyện suông. Cho nên nều như y theo pháp môn Tịnh Độ mà hành
trì, tất cảm được Đức A Di Đà Thế Tôn tiếp dẫn sanh về Cực Lạc: What is
faith in others? This is to have faith that Sakyamuni Buddha would never
speak falsely and Amitabha Buddha did not make empty vows. Therefore, if
cultivators practice according to Pureland teachings, then Amitabha Buddha
will deliver them to the Ultimate World.
3)
Tin Nhân—Faith in causation: Sao gọi là tin nhân? Tin nhân tức là
tin rằng niệm Phật chính là nhân vãng sanh giải thoát—What is it to have
faith in causation? This is to believe that reciting Buddha is the action
or cause for gaining rebirth and enlightenment.
4)
Tin Quả—Faith in effect: Sao gọi là tin quả? Tin quả tức là tin
rằng sự vãng sanh và thành Phật là kết quả của công hạnh tu niệm Phật—What
is it to believe in effect? To believe in effect means to believe that in
the matter of gaining rebirth and attaining Buddhahood as the end result,
or the consequence of reciting Buddha.
5)
Tin Sự—Faith in practice: Sao gọi là tin sự? Tin sự tức là tin rằng
cảnh giới Tây Phương Cực Lạc và tất cả sự tướng ở nơi cõi ấy đều có thật.
Cõi nầy có thật như sự có thật của cõi Ta Bà nầy vậy—What is it to have
faith in practice? To faith faith in practice means to believe in the
existence of the Western Pureland and that the forms and characteristics
in the Ultimate Bliss World that the Buddha spoke of it in the sutras are
all true. It exists just as this Saha World really exists.
6)
Tin Lý—Faith in theory: Sao gọi là tin lý? Tin lý tứ là tin điều
“Lý tín duy tâm,” nghĩa là một chơn tâm của mình bao trùm hết cả mười
phương quốc độ của chư Phật—What is it to have faith in theory? This is to
believe that “all theories are within the mind;” thus, the mind
encompasses all the infinite Buddha Lands in the ten directions.
Lục Tình: Sáu tình
khởi lên từ sáu căn—The six emotions arising from the six organs of sense:
1)
Nhãn Tình: Tình khởi lên từ nhãn căn hay mắt—Emotions arising from
the eyes.
2)
Nhĩ Tình: Tình khởi lên từ nhĩ căn hay tai—Emotions arising from
the ears.
3)
Tỹ Tình: Tình khởi lên từ tỹ căn hay mũi—Emotions arising from the
nose.
4)
Thiệt Tình: Tình khởi lên tứ thiệt căn hay lưỡi—Emotions arising
from the tongue.
5)
Thân Tình: Tình khởi lên từ thân căn—Emotions arising from the
body.
6)
Ý Tình: Tình khởi lên từ ý căn—Emotions arising from the mind.
Lục Tổ Huệ Năng:
The Sixth Patriarch Hui-Neng—See Hui-Neng and Huệ Năng.
Lục Tổ Pháp Bảo Đàn
Kinh: Kinh Pháp Bảo Đàn của Lục Tổ Huệ Năng—The Platform Sutra of the
Sixth Patriarch’s Dharma-Treasure—See Kinh Pháp Bảo Đàn in
Vietnamese-English Section.
Lục Tổ Thiền Trung Hoa:
Sáu tổ dòng Thiền Trung Hoa—Six Chinese Patriarchs:
1)
Nhứt Tổ Bồ Đề Đạt Ma: Bodhidharma—The First Patriarch in China—The
founder of the Chinese Zen—See Bồ Đề Đạt Ma.
2)
Nhị Tổ Huệ Khả: The Second Patriarch Hue-Ke (468-543 AD)—See Huệ
Khả.
3)
Tam Tổ Tăng Xán: The Third Patriarch Seng Tsan ( ? – 606 AD).
4)
Tứ Tổ Đạo Tín: The fourth Patriarch Tao Hsin (580-651)—See Đạo Tín.
5)
Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn: The fifth Patriarch Hung-Jen ((601-675)—See
Hoằng Nhẫn.
6)
Lục Tổ Huệ Năng: Vị tổ thứ sáu, người đã nhận y bát từ ngũ tổ Hoằng
Nhẫn, hoằng hóa về phương nam, nên còn gọi là dòng thiền phương nam—The
Sixth Patriarch Hui-Neng, who received the transmission from Hung-Jen
(fifth patriarch). Hui Neng propagated Zen in the Southern part of China;
therefore, his lineage is called the southern school of Zen.
Lục Tội Nhân: Sáu
loại gây tội—The six kinds of offender—Giống như trong Ngũ Nghịch thêm vào
tội giết hay làm hại Thầy Tổ—They are similar to the five grave sins, plus
the sin of killing or hurting teacher or master—See Ngũ Nghịch (A).
Lục Tông Đại Thừa Nhật
Bản: The six Mahayana schools in Japan.
1)
(from 1 to 4) Bốn tông phái đầu cũng giống bốn tông phái đầu của
Trung Hoa—The first four sects are the same as the first four schools of
the six schools in China—See Lục Tông Trung Hoa.
5) Thiên Thai Tông: The
T’ien-T’ai Sect or
Tendai Sect.
6) Chân Ngôn Tông: The
Shingon Sect.
Lục Tông Trung Hoa:
Sáu tông phái ở Trung Hoa—The six schools in China:
1)
Tam Luận Tông: Giáo thuyết Tam Luận Tông dựa theo Tam Luận—The
Three-Sastra Sect, based on the Madhyamika-Sastra.
2)
Pháp Tướng Tông: Dharmalaksana Sect.
3)
Hoa Nghiêm Tông: Giáo thuyết Hoa Nghiêm Tông dựa trên bộ Kinh Hoa
Nghiêm—Avatamsaka Sect, based on the Buddha-Avatamsaka-Sutra.
4)
Luật Tông: Giáo thuyết Luật Tông dựa trên bộ Luật Tạng—Vinaya or
Discipline Sect, based on the Vinaya-Pitaka.
5)
Thành Thật Tông: Giáo thuyết Thành Thật Tông dựa trên bộ Thành Thật
Luận-Satyasiddhi Sect, based on the Satyasiddhi Sastra.
6)
Câu Xá Tông: Giáo thuyết Câu Xá Tông dựa trên bộ Câu Xá
Luận—Abhidharma-Kosa Sect, based on the Abhidharma-Kosa Sastra.
Lục Trai Nhựt: Sáu
ngày ăn chay trong tháng (mồng 8, 14, 15, 23, 29 và 30). Trong những ngày
nầy Tứ Thiên vương ghi lại tất cả phẩm hạnh, đồng thời ma quỷ cũng đang
bận bịu việc quấy rối nhân thiên, nên việc giữ gìn trai giới là điều cần
thiết, không nên ăn quá ngọ. Trí Độ Luận diễn tả những ngày nầy là những
ngày nguy hiểm, vì vào những ngày nầy theo cổ tục thì có lệ cắt thịt ném
vào lửa—The six monthly posadha or fast days (8th, 14th, 15th, 23rd, 29th,
and 30th ). They are the days on which the Four Maharajas (Tứ Thiên Vương)
take note of human conduct and when evil demons are busy to go around to
disturb deva and men, so that great care is required and consequently
nothing should be eaten after noon. The Maha-Prajna Sastra describes these
days as evil or dangerous days, and says they arose from an ancient custom
of cutting off the flesh and casting it into the fire.
Lục Tránh Căn:
Vivada-mulani (p)—Theo Kinh Phúng Tụng trong Trường Bộ Kinh, có sáu tránh
căn—According to the Sangiti Sutta in the Long Discourses of the Buddha,
there are six roots of contention:
1)
Ở đây vị Tỳ Kheo PHẪN NỘ VÀ UẤT HẬN, sống không cung kính, không
tùy thuận vị Đạo Sư; không cung kính, không tùy thuận Pháp; không cung
kính, không tùy thuận Tăng; không thành tựu đầy đủ các Học Pháp, nên vị ấy
khởi lên tranh luận giữa chư Tăng. Tranh luận như vậy khiến chúng sanh
không hạnh phúc, không an lạc; khiến chư Thiên và loài người không hạnh
phúc, mà đau khổ. Nếu các vị thấy được tránh căn nơi các vị hay nơi người
khác, các vị phải cố gắng đoạn trừ. Nếu các vị không thấy tránh căn, hãy
gìn giữ đừng cho các tránh căn ấy có cơ hội làm hại trong tương lai: Here
a monk who is angry and bears ill-will, he is disrespectful and
discourteous to the Teacher, the Dhamma, and the Sangha, and does not
finish his Training. He stirs up contention within the Sangha, which
brings woe and sorrow to many, with evil consequences, misfortune and
sorrow for devas and humans. Should you discover such a root of contention
among yourselves or among others, you should strive to get rid of just
that root of contention. . If you find no such root of contention, then
you should work to prevent its overcoming you in the future.
2)
Ở đây vị Tăng CHE DẤU và GIẢ DỐI—Here a monk is full DECEITFUL and
MALICIOUS (the rest remains the same as in Lục Tránh Căn 1).
3)
Ở đây vị Tỳ Kheo TẬT ĐỐ và XAN THAM—Here a monk is ENVIOUS and MEAN
(the rest remains the same as in Lục Tránh Căn 1).
4)
Ở đây vị Tỳ Kheo LỪA ĐẢO và LƯỜNG GẠT—Here a monk is CUNNING and
DECEITFUL (the rest remains the same as in Lục Tránh Căn 1).
5)
Ở đây vị Tỳ Kheo ÁC DỤC và TÀ KIẾN—Here a monk is full of evil
desires and WRONG VIEWS (the rest remains the same as in Lục Tránh Căn 1).
6)
Ở đây vị Tỳ Kheo CHẤP TRƯỚC SỞ KIẾN, kiên trì gìn giữ rất khó rời
bỏ—Here a monk is opinionated, obstinate and tenacious (the rest remains
the same as in Lục Tránh căn 1).
Lục Trần (Lục Cảnh):
Sáu trần sanh ra bởi sáu căn và sáu đối tượng của căn là sắc, thinh,
hương, vị, xúc và pháp—Six gunas—Six dusts—The six sense objects—Six
objects (inherent qualities produced by the objects and organs of sense,
i.e. sight or visible objects, sounds, smell, taste, touch, and idea,
thought, or mental objects).
Lục Trụ: Trụ thứ
sáu trong thập trụ—Six abodes (dwelling) in the ten abodes—See Thập Trụ.
Lục Trước Tâm: Sáu
loại tâm chấp trước—The six bonds or the mind of the six bonds:
1)
Tâm tham trước: Greedy mind.
2)
Tâm ái trước: Mind of sensual love—Mind attached to love.
3)
Tâm sân trước: Mind full of hate.
4)
Tâm nghi trước: Mind full of doubt.
5)
Tâm dục trước: Mind full of lust.
6)
Tâm mạn trước: Mind full of pride.
Lục Trần Thuyết Pháp:
Đức Phật vin vào chỗ lục trần để thuyết Phật pháp—The Buddha made use of
the six gunas or qualities produced by objects to preach his law.
Lục Tụ: Sáu loại
tội lỗi của Tăng chúng—The six kinds of wrong-doing:
1)
Ba La Di Tội: Parajika (skt)—See Ngũ Tụ (1).
2)
Tăng Tàn: Sanghavasesa (skt)—See Ngũ Tụ (2).
3)
Thâu Lan Già Tội: Sthulatyaya (skt)—Đại chướng thiện đạo, phạm vào
hai tội Ba La Di và Tăng Tàn nhưng chưa thành nên được xếp dưới hai tội
đó—Associated with the prarajika and sanghavasesa sins; however, only
implying thought, but not yet developed in action.
4)
Ba Dật Đề Tội: Prayascitta (skt)—See Ngũ Tụ (3).
5)
Ba La Đề Xà Ni Tội: Pratidessaniya (skt)—See Ngũ Tụ (4).
6)
Đột Cát La: Duskrta (skt)—See Ngũ Tụ (5).
Lục Túc Luận: Theo
Giáo Sư Junjiro Takakusu trong Cương Yếu Triết Học Phật Giáo, Lục Túc Luận
là bộ luận viết về Phát Trí Luận của Ca Đa Diễn Ni Tử—According to Prof.
Junjiro Takakusu in the Essentials of Buddhist Philosophy, the Six Legs is
the commentary on the Source of Knowledge (Jnana-prasthana).
1)
Phẩm Loại Túc Luận, được viết bởi ngài Thế Hữu: Prakarana-pada
(skt)—Category-leg, written by Vasumitra.
2)
Thức Thân Túc Luận, được viết bởi ngài Đề Bà Thiết Ma: Vijnana-kaya
(skt)—Consciousness-body, written by Devasarman.
3)
Pháp Uẩn Túc Luận, được viết bởi ngài Xá Lợi Phất: Dharma-skandha
(skt)—Element-group, written by Sariputra.
4)
Thi Thiết Túc Luận, được viết bởi ngài Mục Kiền Liên:
Prajnapti-pada (skt)—World-system, written by Maudgalyayana.
5)
Giới Thân Túc Luận, được viết bởi ngài Phú Lâu Na: Dhata-kayapada
(skt)—Mental-element-body, written by Purna.
6)
Tập Dị Môn Túc Luận, được viết bởi ngài Đại Câu Thi La:
Sangiti-paryayapada (skt)—Rehearsal-reading, written by Mahakausthila.
Lục Túc Tôn: Một
trong ngũ Minh Vương, vị hộ pháp cho Phật A Di Đà, là tái sanh của ngài
Văn Thù Sư Lợi, có sáu đầu, sáu mặt, sáu tay, sáu cẳng; cỡi bò—The
six-legged Honoured One, one of the five firece guardians of Amitabha. The
one who has six heads, six faces, six arms, and six legs; rides on an ox;
and is an incarantion of Manjusri.
Lục Túc Tôn Kim Cang:
Six-legged Honoured One—An emanation of Manjusri, who is an Emanation of
Amitabha.
Lục Tuệ: The six
kinds of wisdom—See Lục Huệ.
Lục Tư Thân:
Sancetana-kaya (p)—Theo Kinh Phúng Tụng trong Trường Bộ Kinh, có sáu tư
thân—According to the Sangiti Sutta in the Long Discourses of the Buddha,
there are six groups of volition:
1)
Săc Tư: Volition based on sights.
2)
Thanh Tư: Volition based on sounds.
3)
Hương Tư: Volition based on smells.
4)
Vị Tư: Volition based on tastes.
5)
Xúc Tư: Volition based on touches.
6)
Pháp Tư: Volition based on mind-objects.
Lục Tự Danh Hiệu:
Sáu chữ danh hiệu của Đức Phật A Di Đà—Six characters of Amitabha Buddha.
Lục Tự Di Đà: Sáu
chữ Nam Mô A Di Đà Phật—Six characters of Amitabha Buddha.
Lục Tự Đà La Ni:
See Lục Tự Văn Thù.
Lục Tự Hà Lâm Pháp:
Phép sáu chử Quán Âm khi ở giữa sông—Six words connected with the six
forms of Kuan-Yin when in the middle of a river.
Lục Tự Quán Âm: Lục
Tự Chương Cú hay Lục Tự Pháp trong trường phái Chân Ngôn gắn liền với sáu
hình thức của Bồ tát Quán Âm—The esoteric (Shingon) six words connected
with the six forms of Kuan-Yin.
Lục Tự Tại Vương:
Sáu căn cũng chính là sáu kẻ cai trị chúng sanh—The six sovereign rulers
or the six senses—See Lục Căn.
Lục Tự Văn Thù: Sáu
chữ Đà La Ni của Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát (Án, Phạ, Kẹ, Đạm, Nạp, Mạc)—The
six-word dharani of Manjusri.
Lục Tức: See Lục
Tức Phật.
Lục Tức Phật: Sáu
giai đoạn phát triển của Bồ Tát được nói rõ trong Thiên Thai Viên Giáo,
đối lại với sáu giai đoạn phát triển hay Lục Vị của Biệt Giáo—The six
stages of Bodhisattva developments as defined in the T’ien-T’ai Perfect or
Final Teaching, in contrast with the ordinary six developments as found in
the Differentiated or Separated School (see Lục Vị):
(I)
Ngoại Phàm—External or Common to all:
1)
Lý Tức Phật: Mỗi chúng sanh đều sẳn có Phật
tánh—Theoretical—Realization that all beings are of Buddha-nature.
2)
Danh Tự Tức Phật: Từ trong danh tự mà lý giải thông suốt, tất cả
những ai nghe và tín thọ phụng hành đều có thể thành Phật—First step in
practical advance—The apprehension of terms, that those who only hear and
believe are in the Buddha-law and potentially Buddha.
(II) Nội Phàm—Internal for
all:
3)
Quán hạnh Tức Phật: Chẳng những lý giải mà còn thiền quán và y giáo
phụng hành—Advance beyond terminology to meditation, or study and
accordant action.
4)
Tương Tự Tức Phật: Đem thực chứng đến gần chân lý tương tự như ở
giai đoạn vô lậu thực sự (dựa vào quán lực tương tự mà phát chân trí và
thấy tánh Phật—Semblance stage, or approximation of truth and its
progressive experiential proof.
5)
Phần Chơn Tức Phật: Cái chơn trí lần hồi mở ra, vén từng bức màn vô
minh, tâm trí càng sáng tỏ thêm, lần lần đi đến chỗ sáng suốt hoàn toàn,
được phần nào tốt phần đó—The real wisdom is gradually opened, the screen
of ignorance is gradually rolled up, the mind is clearer and clearer to
totally clear.
6)
Cứu Cánh Tức Phật: Phá trừ tất cả vô minh và phiền não để đạt tới
toàn giác—Destroy all ignorance and delusions to attain Perfect
enlightenment (Fruition of holiness).
Lục Tướng: Theo
tông Hoa Nghiêm, vạn hữu có sáu tướng—Taccording to the Avatamsaka School,
everything (dharma) has six characteristics:
1)
Tổng Tướng: Whole or Universality—Do năm uẩn họp thành. Tổng tướng
là toàn thể của những bộ phận đặc biệt—Consisting of five aggregates.
Universality is the total of special parts.
2)
Biệt Tướng: Parts or Speciality—Những bộ phận đặc biệt tạo thành
một toàn bộ hay. Các căn bản của các loại người khác nhau đều có riêng
“đặc dị tính” theo nghĩa đặc trưng hay năng lực độc nhất. Mọi người đều có
đôi mắt, nhưng không có đôi mắt nào có cùng năng lực như nhau
cả—Speciality is the special parts constituting the whole. The organs of
different human beings have ‘speciality’ in the sense of unique character
or power. All have eyes, but not all eyes have the same power.
3)
Đồng Tướng: Unity or Similarity—Tất cả các biệt tướng đều có năng
tính một sinh thể có thể tiết điệu đồng đều như nhau khi tạo thành một
toàn bộ. Các căn đều như nhau, đều là căn, trong nghĩa cộng đồng liên hệ
trong một căn thể—Similarity means that all specialities have the capacity
of being equally harmonious in constituting the whole. All organs are
similar as organs, or in the sense of co-relation in one organism.
4)
Dị Tướng: Diversity—Những biệt tướng, dù thể tính của chúng có tiết
điệu với nhau, vẫn giữ nguyên những sắc thái riêng biệt của mình. Mỗi căn
đều có ‘sai biệt tính’ ví nó có một quan hệ đặc biệt đối với toàn
thể—Diversity means that specialities, in spite of their being mutually
harmonious, keep their special features. Each organ also possesses
‘diversity’ since it has a special relation to the whole.
5)
Thành Tướng: Entirety or Integration—Những biệt tướng, dù chúng đặc
biệt, vẫn tạo thành tổng tướng bằng cách kết hợp nhau thành một. Tất cả
các căn cùng tác động chung để hoàn thành một đơn thể toàn
diện—Integration means that specialities, though they are special, make up
Universality by uniting themselves. All organs work together to complete
the whole unitary being.
6)
Hoại Tướng: Fractions or Differentiation—Những biệt tướng, dù chúng
kết hợp thành tổng tướng, vẫn không đánh mất những sắc thái riêng biệt của
mình. Mỗi quan năng trong vị trí riêng biệt của nó thi hành nhiệm vụ đặc
thù của nó—Differentiation means that specialities, though they make up
universality, do not lose their own special features. Each organ, being in
its own special position, performs its own differentiating function.
Lục Tưởng Thân:
Sanna-kaya (p)—Theo Kinh Phúng Tụng trong Trường Bộ Kinh, có sáu tưởng
thân—According to the Sangiti Sutta in the Long Discourses of the Buddha,
there are six groups of perception:
1)
Sắc Tưởng: Rupa-sanna (p)—Perception of sights.
2)
Thanh Tưởng: Perception of sounds.
3)
Hương tưởng: Perception of smell.
4)
Vị Tưởng: Perception of taste.
5)
Xúc Tưởng: Perception of touch.
6)
Pháp tưởng: Dhamma-sanna (p)—Perception of mind-objects.
Lục Vạn Tạng: Sáu
vạn câu kệ mà Đề Bà Đạt Đa đã học thuộc từ kinh Phật cũng không cứu nổi tự
thân sa vào A Tỳ địa ngục—The sixty thousand verses of the Buddha-law
which Devadatta could recite, an ability which did not save him from
falling to the Avici Hell.
Lục Vật: Sáu vật mà
Tỳ Kheo phải có—The six things which a monk must have:
(I) Tam Y—Three robes or
garments:
1)
Tăng Già Lê: Đại y hay áo cửu điều (chín mảnh)—Sanghati (skt)—The
nine-patched robe.
2)
Uất Đa La Tăng: Trung y hay áo thất điều (bảy mảnh)—Uttara-sanghati
(skt)—The stole of seven pieces or seven-patched robe.
3)
An Đà Hội: Hạ y hay áo ngũ điều (năm mảnh)—Antara-vasaka (skt)—The
skirk of inner garment of five pieces.
(II) Tam Vật—Three things:
4)
Thiết Đa La: Bát sắt—Patra (skt)—begging bowl.
5)
Ni Sư Đàn: Vải lót ngồi hay ghế đẩu nhỏ—Nisidana (skt)—A stool.
6)
Túi lọc nước: A water strainer.
Lục Vị:
(A)
Sáu vị—The six tastes or flavours:
1)
Cay: Acrid—Hot.
2)
Đắng: Bitter.
3)
Ngọt: Sweet.
4)
Lạt: Insipid.
5)
Mặn: Salt.
6)
Chua: Sour.
(B)
Sáu ngôi vị hay giai đoạn trong tiến trình phát triển Bồ Tát đạo
trong Thiên Thai Biệt Giáo—The six ordinary developments found in the
T’ien-T’ai Differentiated or Separated School:
1)
Thập Tín Vị: Ten grades of Bodhisattva faith—See Thập Tín Tâm.
2)
Thập trụ Vị: Ten grounds—See Thập Trụ.
3)
Thập Hồi Hướng Vị: See Ten Kinds of Dedications.
4)
Thập Địa Vị: Ten Stages of Bodhisattva—See Thập Địa Bồ Tát.
5)
Đẳng Giác vị: The fifty-first stage in the fifty-two stages towards
the Buddha-bhumi.
6)
Phật Địa Vị: Buddha-bhumi or Buddha stage—See Phật Địa.
Lục Vọng: Lục
Vong—Chỉ sáu căn là những kẻ dẫn dắt chúng sanh đến chỗ mê lầm—The six
misleaders, the six senses—See Lục Căn.
Lục Vô Thường Lục Thí:
See Lục Dụ.
Lục Vô Thượng:
Anuttariyani (p)—Theo Kinh Phúng Tụng trong trường Bộ Kinh, có sáu vô
thượng—According to the Sangiti Sutta in the Long Discourses of the
Buddha, there are six unsurpassed things:
1)
Kiến Vô Thượng: Unsurpassed sights.
2)
Văn Vô Thượng: Unsurpased things heard.
3)
Lợi Đắc Vô Thượng: Unsurpassed gains.
4)
Học Giới Vô Thượng: Unsurpassed trainings.
5)
Hành Vô Thượng: Pari-cariyanuttariyam (p)—Unsurpassed forms of
service.
6)
Ức Niệm Vô Thượng: Unsurpassed objects of recollection.
Lục Xuất Ly Giới:
Nissaraniya-dhatuyo (p)—Theo Kinh Phúng Tụng trong Trường Bộ Kinh, có sáu
xuất ly giới—According to the Sangiti Sutta in the Long Discourses of the
Buddha, there are six elements making for deliverance:
1)
Tu Tập Từ Tâm Giải Thoát—Having developed the emancipation of the
heart through LOVING-KINDNESS: Ở đây vị Tỳ Kheo nói như sau: “Ta đã tu tập
từ tâm giải thoát, làm cho sung mãn, làm cho thành cỗ xe, làm thành căn cứ
an trú, chất chứa và khéo léo tinh cần. Tuy vậy sân tâm vẫn ngự trị tâm
ta.” Vị ấy cần phải được bảo như sau: “Chớ có như vậy, chớ nói như vậy,
Đại Đức! Chớ có hiểu lầm Thế Tôn, vu khống Thế Tôn như vậy không tốt. Thế
Tôn không nói như vậy.” Những lời nói của vị nầy là vô căn cứ và không thể
nào như vậy được. Ai tu tập từ tâm giải thoát, làm cho sung mãn, làm thành
cỗ xe, làm thành căn cứ, an trú, chất chứa và khéo léo tinh cần, sân tâm
không thể nào ngự trị và an trú nơi kẻ ấy được—Here a monk might say “I
have developed the emancipation of the heart by LOVING-KINDNESS (metta),
expanded it, made it a vehicle and a base, established, worked well on it,
set it well in train. And yet ill-will still grips my heart. He should be
told :No! Do not say that!Do not misrepresent the Blessed Lord, it is not
right to slander him thus, for he would not have said such a thing! Your
words are unfounded and impossible. If you develop the emanicipation of
the heart through loving-kindness, ill-will has no chance to envelop your
heart. This emancipation through loving kindness is a cure for
ill-will.
2)
Tu Tập Bi Tâm Giải Thoát—Emancipation of heart through compassion:
Ở đây vị Tỳ Kheo nói như sau: “Ta đã tu tập tâm bi giải thoát, tuy vậy hại
tâm vẫn ngự trị tâm ta.”—Here a monk might say: “I have developed the
emanicipation of the heart through compassion (karuna), and yet cruelty
still grips my heart.” (the rest remains the same as in Lục Xuất Ly Giới
1).
3)
Tu Tập Hỷ Tâm Giải Thoát—Emancipation of the heart through
sympathetic joy (mudita): Ở đây vị Tỳ Kheo nói như sau: “Ta đã tu tập hỷ
tâm giải thoát, tuy vậy bất lạc tâm vẫn ngự trị tâm ta.”—Here a monk might
say: “I have developed the emancipation of the heart through sympathetic
joy,… and yet aversion (prati) still grips my heart.” (threst remains the
same sa in Lục Xuất Ly Giới 1).
4)
Tu Tập Xả Tâm Giải Thoát—Emancipation of the heart through
equanimity: Ở đây vị Tỳ Kheo nói: “Ta đã tu tập xẻ tâm giải thoát, tuy vậy
tham tâm vẫn ngự trị tâm ta.”—Here a monk might say: “I have developed the
emancipation of the heart through equanimity (upeka,…, and yet lust (rago)
grips my heart.”
5)
Tu Tập Vô Tướng Tâm Giải Thoát—The signless emancipation of the
heart: Ở đây vị Tỳ Kheo nói: “Ta đã tu tập vô tướng tâm giải thoát, tuy
vậy tâm ta vẫn chạy theo các tướng.”—Here a monk might say: “I have
developed the signless emancipation of the heart, and yet my heart still
hankers after signs (nimittanusari-hoti).” (the rest remains the same as
in Lục Xuất Ly Tướng 1).
6)
Tu Tập Khước Từ Sự Ngạo Mạn “tôi có mặt,” mà mũi tên do dự nghi ngờ
được giải thoát—The emancipation of the heed to the idea: ‘I am this,’
means the emancipation of doubts, uncertainties, and problems: Ở đây vị Tỳ
Kheo nói: “Quan điểm ‘tôi có mặt,’ ‘tôi bị từ khước,’ ‘tôi là cái nầy,’
không được tôi chấp nhận, tuy vậy mũi tên nghi ngờ do dự vẫn ám ảnh an trú
trong tôi.”—Here a monk might say: “The idea ‘I am is repellent to me, I
pay no heed to the idea: I am this.” Yet doubts, uncertainties and
problems still grip my heart.” (the rest remains the same as in Lục Xuất
Ly Giới 1).
Lục Xúc: See Lục
Tài.
Lục Xúc Thân:
Phassa-kaya (p)—Theo Kinh Phúng Tụng trong Trường Bộ Kinh, có sáu xúc
thân—According to the Sangiti Sutta in the Long Discourses of the Buddha,
there are six groups of contacts:
1)
Nhãn Xúc: Eye-contact.
2)
Nhĩ Xúc: Ear-contact.
3)
Tỷ Xúc: Nose-contact.
4)
Thiệt Xúc: Tongue-contact.
5)
Thân Xúc: Body-contact.
6)
Ý Xúc: Mano-samphasso (p)—Mind-contact.
Lục Xứ: Sadayatana
(skt)—Sáu nơi sinh thức, một trong mười hai nhân duyên. Chúng chính là Lục
căn hay Lục Nhập—The six places or abodes of perception or sensation, one
of the nidanas. They are the six organs of sense, but this term is also
used for the six entrances—See Lục Căn, Lục Cảnh, and Lục Nhập.
Lục Y: Sáu giác
quan hay sáu chỗ để nhận biết—The six senses on which one relies or from
which knowledge is received:
1)
Mắt: Eyes.
2)
Tai: Ears.
3)
Mũi: Nose.
4)
Lưỡi: Tongue.
5)
Thân: Body.
6)
Ý: Mind.
** For more information,
please see
Lục Tình.
Lui: To move
back—To step back—To draw back.
Lui lại: See Lui.
Lui tới: To
frequent.
Lui về: To go
back—To return.
Lùi: To step
back—To draw back
Lủi: To slip away.
Lủi Thủi:
Lonely—Lonesome—Alone—Lone.
Lum Khum: Curved
back due to old age.
Lụm Cụm: To walk in
a shaky way due to old age.
Lún: To subside—To
sink—To fall in.
Lung: Cái lồng—A
cage.
Lung Đầu: Bộ giàn
trùm ln đầu ngựa (dùng để điều khiển và chế ngự con ngựa)—Blinkers for a
horse’s head.
Lung Tung: In
confusion—In disorder.
Lúng Túng:
1)
To embarrass—To perplex.
2)
Awkward—Clumsy.
Lủng Củng:
Disagreement.
Lũng Đoạn: To
monopolize.
Luống Tuổi: To be
past the middle age.
Lũy: Chất chồng—To
accumulate.
Lũy Chướng: The
hindrances of many vaxations, responsibilities, or affairs.
Lũy Hình: The body
as involved in the distresses of life.
Lũy Kiếp: Nhiều
kiếp lập đi lập lại chồng chất lên nhau (cứ mỗi thời kỳ thế giới thành lập
rồi hoại diệt là một kiếp)—Repeated or many kalpas.
Lũy Thất Trai: Còn
gọi là Trai Nhất, là tuần trai đầu tiên cho người quá vãng (cứ bảy ngày là
một thất trai, cứ thế cho hết 49 ngày mới thôi. Tại Việt Nam có nơi còn
làm Tuần 100 ngày)—The sevenfold repetition of masses for the dead.
Luyến: To be fond
of, hanker after—To cleave to.
Luyến Ái: Ái
mộ—Tham luyến—Trong Tứ Thánh Đế, Phật Thích Ca đã dạy rằng luyến ái là căn
cội của khổ đau. Từ luyến ái nẩy mầm sầu khổ và sợ hãi. Người nào thoát
khỏi luyến ái thì sẽ không còn sầu khổ sợ hãi nữa. Càng luyến ái thì càng
khổ đau—Attachment—In the Four Noble Truths, Buddha Sakyamuni taught that
attachment to self is the root cause of suffering. From attachment
(craving) springs grief and fear. For him who is wholly free from
attachment, there is no grief and much less fear—The more attachments one
has, the more one suffers.
Luyến Mộ: See
Luyến.
Luyện: Huấn
luyện—To drill—To exercise—To practice—To train.
Luyện Điển: Luyện
điển là lối tu luyện của tà đạo—To practice the “Balancing of body energy
currents.” This is the way of heterodex practice.
Luyện Hành: Tu hành
bằng giới luật của tôn giáo—Religious training or discipline.
Luyện Ma: Mài
dũa—Ba điều kiện để duy trì sự tiến bộ của Bồ Tát—To drill and grind.
Three Bodhisattva conditions for maintaining progress:
1)
Theo học và lắng nghe những vị đã đạt được giác ngộ: The fixing of
attention on those who have attained enlightenment.
2)
Luôn luôn theo dõi hay quán sát mục tiêu của chính mình:
Examination of one’s own purpose.
3)
Nhận thức được khả năng của người để luôn giữ được tánh khiêm cung
từ tốn: To be humble by the realization of the power or ability at work in
others.
Luyện Nhã: Aranya
(skt)—Tên gọi tắt của từ A Luyện Nhã—Hermitage—See A Luyện Nhã.
Lư :
1)
Cây lau: Reeds—Rushes.
2)
Lò sưởi: A stove—Fireplace.
3)
Lư Hương: Incense burner—Censer.
4)
Cái chòi: A hut—A shelter.
5)
Con Lừa: Khara (skt)—An ass—Donkey.
Lư Diệp Đạt Ma:
Chiếc thuyền bằng lá cây lau mà người ta nói Tổ Bồ Đề Đạt Ma đã dùng nó để
vượt sông Dương Tử—Bodhidharma and his rush-leaf boat in which he is said
to have crossed the Yangtse River.
Lư Đàn: A
fire-altar.
Lư Đồng: Bronze
incense burner.
Lư Hương: See Lư.
Lư Nhang: See Lư.
Lư Niên: Năm con
Lừa, ý nói không có kỳ hạn nào vì con lừa không có tên trong 12 con giáp
(vô hội kỳ)—Donkey Year, without date or period because the ass does not
appear in the list of cyclic animals.
Lư Thần: Kharostha
(skt)—
1)
Môi lừa: Kondey lips.
2)
Tên của một hiền triết nổi tiếng về khoa chiêm tinh—Name of a sage
celebrated for his astronomical knowledge.
Lư Xá Na: Locana
(skt).
1)
Chiếu sáng: Illuminating.
2)
Báo thân, một trong tam thân Phật: One of the forms of the Trikaya,
similar to the sambhogakaya.
3)
Đức Tỳ Lô Giá Na: Vairocana Buddha.
Lữ Khách: Traveler.
Lự: Gạn lọc—To
strain—To filter.
Lự La: Lộc Thủy
Đái—Túi lọc nước—A filtering bag, or cloth.
Lự Trí Tâm: See
Duyên Lự Tâm.
Lừa: To deceive—To
cheat—To swindle.
Lừa Đảo: See Lừa.
Lừa Đảo Và Gạt Gẫm Hàng
Bạch Y: Swindle and deceive the white-robed.
Lửa Dục: The fire
of desire.
Lửa Giận: Access of
anger .
Lửa Mừng: Bonfire.
Lửa Tam Độc Vẫn Hừng
Hực Cháy Trong Ta: Fires of the three poisons are still faring up
uncessantly in us.
Lửa Tam Muội: Fire
of samadhi—The fire that consumed the body of Buddha when he entered
nirvana.
Lửa Tham, Sân, Si Đốt
Cháy Hết Rừng Công Đức: The fire of greed, anger and illusion burns up
all the forest of merits and virtues.
Lửa Tình: The
ardour of passion.
Lựa: To choose—To
select.
Lựa Chọn: To make
choices.
Lực : Bala—Power—Strength.
Lực Ba La Mật:
The virya-paramita.
Lực Giả Pháp Sư:
A monk who degrades himself by becoming a fighter, a boxer or a slave.
Lực Sĩ:
Vira (skt)—A strong or mighty man.
Lực Sinh:
Power-born—One who is born from the truth—A monk.
Lực Vô Úy:
Power of fearlessness.
Lưng:
Back.
Lưng Chừng:
Half-way.
Lưng Còm:
Hunch-backed--Humpbacked.
Lừng Khừng:
Hesitating—Undecided—Wavering.
Lừng Lẫy:
Famous—Celebrated—Well-known.
Lững Lờ:
Wavering—Undecided.
Lững Thững:
To walk slowly.
Lược:
1)
Lược ra: To mark off—To define.
2)
Tóm lược: To
summarize in general—To outline—To sketch.
Lược Bày:
To expose briefly.
Lược Giáo:
Những lời dạy tổng quát của Đức Phật cho đệ tử trong 12 năm đầu sau khi
Ngài thành đạo (trong 12 năm đầu hoằng hóa, về giới luật thì Đức Phật chỉ
nói một cách khái quát về “chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành, tự tịnh
kỳ ý, thị chư Phật giáo,” chứ Ngài không nói chi tiết về giới luật; tuy
nhiên, vì có quá nhiều người làm trái pháp, nên sau đó Ngài nói về “Quảng
Giáo,” tức chế ra giới luật rõ ràng và chi tiết)—General or summarized
teaching during his first 12 years after his enlightenment.
Lược Giới:
Giáo thuyết của Đức Phật trong giai đoạn 12 năm sau ngày Phật thành
đạo—The first period of general moral law, before the detailed
commandments became necessary, i.e. the first twelve years of the Buddha’s
ministry.
Lược Yếu: Sơ lược
những điểm quan trọng—An outline of the important points.
Lưới Đế Châu:
Jewelled nets.
Lưới Quang Minh:
Net of lights.
Lưới Tình:
Love net—Armorous net.
Lưới Trời:
Heaven’s net—Divine justice.
Lười: Lazy.
Lưỡi: Tongue.
Lưỡi Rắn: Tongue of
a snake.
Lườm: To look
askance at someone.
Lượm: To gather—To
pick up—To take up—To collect.
Lươn Lẹo: Crooked.
Lương:
Tốt—Good—Virtuous—Beneficial.
Lương Bằng: Good
friend.
Lương Bí: Vị Tăng
đời Đường, người đã trợ giúp ngài Bất Không Tam Tạng Pháp Sư dịch bộ Kinh
Nhân Vương—Liang-Pi (Pên), the T’ang monk who assisted Amogha in the
translation of the Jên-Wang Ching.
Lương Bôn: See
Lương Bí.
Lương Dân:
Law-abiding citizens—Good citizens.
Lương Duyên: Happy
marriage.
Lương Dược: Good
medicine.
Lương Giới Động Sơn
Thiền Sư: Thiền sư Lương Giới Động Sơn sanh năm 807 sau Tây Lịch tại
Hội Kê, nay thuộc tỉnh Triết Giang. Thuở nhỏ theo thầy tụng kinh Bát Nhã
đến câu “Vô nhãn nhĩ tỷ thiệt thân…” Sư chợt hỏi thầy: “Con có mắt, tai,
mũi…Cớ sao trong kinh lại nói là không?” Thầy kinh ngạc trả lời: “Ta chẳng
phải là thầy của ngươi.” Thế rồi thầy gửi Lương Giới đến tham học với
thiền sư Linh Mặc ờ núi Vũ Tiết. Sư thọ cụ túc giới năm 21 tuổi—Zen master
Liang-Jie-Tung-Shan was born in 807 A.D. in Hui-Ji, in modern Zhe-Jiang
province. As a youth, he followed his teacher to recite the Heart Sutra
and came upon the words “No eyes, no ears, no nose, no tongue, no body…”
He asked his teacher: “I have eyes, ears, a nose, and so on. So why does
the sutra say there is none?” The teacher was so surprised and reportedly
dumbfounded at the insight revealed by Liang-Jie’s question, and replied
to him: “I can’t be your teacher.” He then sent the young Liang-Jie to
study under Zen master Ling-Mo at Mount Wu-Tzie. At the age of
twenty-one, Liang-Jie received full ordination.
·
Sư du phương, trước yến kiến Thiền sư Nam Tuyền Phổ Nguyện.
Gặp ngày kỵ trai Mã Tổ, Nam Tuyền hỏi chúng: “Cúng trai Mã Tổ có đến hay
chăng?” Cả chúng đều không đáp được. Sư bước ra thưa: “Đợi có bạn liền
đến.” Nam Tuyền bảo: “Chú nhỏ nầy tuy là hậu sanh rất dễ dũa gọt.” Sư
thưa: “Hòa thượng chớ đè nén kẻ lành để nó trở thành nghịch
tặc.”—Liang-Jie first went to see Zen master Nan-Xuan-Pu-Yuan. At that
time the congregation was preparing a feast for the following day in
honour of Nan-Xuan’s late master, Ma-Tzu. Nan-Xuan asked the congregation:
“Tomorrow we will have Ma-Tzu’s feast, but will Ma-Tzu come or not?” The
monks were unable to answer. Liang-Jie then stepped forward and said: “If
he has a companion, he will come.” When Nan-Xuan heard this, he approved
and said: “Though this child is young, he has a gem worthy of polishing.”
Liang-Jie said: “Master, don’t crush something good into something bad.”
·
Kế đến sư tham vấn với thiền sư Qui Sơn. Sư thưa: “Được nghe
Quốc Sư Huệ Trung nói ‘vô tình thuyết pháp’ con chưa thấu hiểu chỗ vi
diệu ấy?” Qui Sơn bảo: “Có nhớ những gì Quốc Sư nói chăng?” Sư thưa: “Con
nhớ.” Qui Sơn nói: “Vậy thì lập lại xem sao!” Sư nói: “Có một vị Tăng hỏi
Quốc Sư, ‘Thế nào là tâm của chư Phật?’ Quốc Sư trả lời, ‘Một miếng ngói
tường.’ Sư hỏi, ‘Một miếng ngói tường? Có phải miếng ngói tường là vô tình
hay không?’ Qui Sơn đáp, ‘Đúng vậy.’ Vị Tăng hỏi tiếp, ‘Như vậy nó có thể
thuyết pháp không?’ Quốc Sư đáp, ‘Miếng ngói ấy thuyết pháp một cách rõ
ràng không vấp váp.’ Vị Tăng hỏi, ‘Tại sao con lại không nghe được?’ Quốc
sư bảo, ‘Tự ngươi không nghe được, nhưng không có nghĩa là người khác
không nghe được.’ Vị Tăng lại hỏi, ‘Như vậy ai nghe được?’ Quốc Sư đáp,
‘Các bậc Thánh nhân nghe được.’ Vị Tăng lại nói, ‘Vậy Thầy có nghe được
không?’ Quốc Sư đáp, ‘Ta không nghe được. Nếu ta nghe được thì ta đã đồng
là Thánh rồi còn gì! Làm gì ngươi có thể nghe ta thuyết pháp.’ Vị Tăng
hỏi, ‘Như vậy tất cả chúng sanh không thể hiểu được những lời thuyết nầy.’
Quốc Sư nói, ‘Ta vì phàm phu mà thuyết pháp, chớ không vì Thánh mà
thuyết.’ Vị Tăng nói, ‘Như vậy sau khi nghe được rồi thì sao?’ Quốc Sư
đáp, ‘Sau khi chúng sanh đã nghe hiểu rồi thì họ đâu còn là phàm phu
nữa.’—Next, Liang-Jie studied with Kui-Shan. One day he said: “I’ve heard
that National teacher Hui-Zhong taught that inanimate beings expound
Dharma. I don’t understand this clearly.” Kui-Shan said: “Do you remember
what he said or not?” Liang-Jie said: “I remember.” Kui-Shan said: “Please
repeat it!” Liang-Jie said: “A monk asked the National Teacher, ‘What is
the mind of the ancient Buddhas?’ The National Teacher responded, ‘A wall
tile.’ The monk said, ‘A wall tile? Isn’t a wall tile inanimate?’ The
National Teacher said, ‘Yes.’ The monk asked, ‘And it can expound the
Dharma?’ The National Teacher said, ‘It expounds it brilliantly, without
letup.’ The monk said, ‘Why can’t I hear it?’ The National Teacher said,
‘You yourself may not hear it. But that doesn’t mean others can’t hear
it.’ The monk said, ‘Who are the people who can hear it?’ The National
teacher said, ‘All the holy ones can hear it.’ The monk said, ‘Can the
master hear it or not?’ The National teacher said, ‘I cannot hear it. If I
could hear it I would be the equal of the saints. Then you could not hear
me expound the Dharma.’ The monk said, ‘All beings can’t understand that
sort of speech.’ The National Teacher said, ‘I expound Dharma for the sake
of beings, not for the sake of the saints.’ The monk said, ‘After beings
hear it, then what?’ The National teacher said, ‘Then they are not
sentient beings.”—Later Liang-Jie went to see Yun-Yan and related to the
master the story about the National Teache and asked Yun-Yan: “Who can
hear inanimate things expound Dharma?” Yun-Yan asked him: “What is
inanimate can hear it?” Liang-Jie asked: “Can the master hear it or not?”
Yun-Yan said: “If I could hear it, then you could not hear me expound
Dharma.” Liang-Jie said: “Why couldn’t I hear you?” Yun-Yan held up his
whisk and said: “Can you still hear me or not?” Liang-Jie said: “I can’t
hear you.” Yun-Yan said: “When I expound Dharma you can’t hear me. So how
could you hear it when inanimate things proclaim it?” Liang-Jie said:
“What scripture teaches about inanimate things expounding Dharma?” Yun-Yan
said: “Haven’t you seen that in the Amitabha Sutra it says, ‘The lakes and
rivers, the birds, the forests, they all chant Buddha, they all chant
Dharma’?” Upon hearing this, Liang-Jie experienced a great insight. He
then wrote a verse:
“How
incredible!
How
incredible!
Inanimate things proclaiming Dharma is
inconceivable.
It
can’t be known if the ears try to hear it,
But
when the eyes hear it, then it may be
known.”
·
Sau đó sư làm thêm bài kệ thứ nhì:
“Không
môn hữu lộ nhân giai đáo,
Đao giả
phương tri chỉ thú trường.
Tâm địa
nhược vô nhàn thảo mộc,
Tự nhiên
thân thượng phóng hào quang.”
Later he wrote the
second verse:
“There is a
way to the gateless gate, everybody can come,
Once you
arrive there, you’ll know how wonderful it is.
If your mind
is clear of idle weeds,
Your body will
automatically emit
halo.”
·
Động Sơn hỏi Vân Nham: “Con còn dư tập chưa hết.” Vân Nham
hỏi: “Ngươi từng làm gì?” Sư thưa: “Thánh Đế cũng chẳng làm.” Vân Nham
hỏi: “Được hoan hỷ chưa?” Sư thưa: “Hoan hỷ thì chẳng không, như trong
đống rác lượm được hòn ngọc sáng.”—T’ung Shan asked Yun-Yan: “Are there
other practices I haven’ completed ?” Yun-Yan said: “What were you doing
before you came here?” T’ung-Shan said: “I wasn’t practicing the Noble
Truths.” Yun-Yan said: “Were you joyous in this nonpractice?” T’ung-Shan
said: “It was not without joy. It’s like sweeping excrement into a pile
and then picking up a precious jewel from within it.”
·
Sư từ biệt Vân Nham để đi nơi khác. Vân Nham hỏi: “Đi nơi
nào?” Sư thưa: “Tuy lìa Hòa Thượng mà chưa định chỗ ở?” Vân Nham hỏi:
“Phải đi Hồ Nam chăng?” Sư thưa: “Không.” Vân Nham hỏi: “Phải đi về quê
chăng?” Sư thưa: “Không.” Vân Nham hỏi: “Bao lâu trở lại?” Sư thưa: “Đợi
Hòa Thượng có chỗ thì trở lại.” Vân Nham bảo: “Từ đây một phen đi khó được
thấy nhau.” Sư thưa: “Khó được chẳng thấy nhau.” Sắp đi, sư lại thưa: “Sau
khi Hòa Thượng trăm tuổi, chợt có người hỏi ‘Tả được hình dáng của thầy
chăng?’ Con phải đáp làm sao?” Vân Nham lặng thinh hồi lâu, bảo: “Chỉ cái
ấy.” Sư trầm ngâm giây lâu. Vân Nham bảo: “Xà lê Lương Giới thừa đương
việc lớn phải xét kỹ. Sư vẫn còn hồ nghi. Sau sư nhơn qua suối nhìn thấy
bóng, đại ngộ ý chỉ trước, liền làm một bài kệ:
“Thiết kỵ tùng tha
mích, điều điều dữ ngã sơ
Ngã kim độc tự vãng,
xứ xứ đắc phùng cừ.
Cừ kim chánh thị ngã,
ngã kim bất thị cừ
Ưng tu nhậm ma
hội,Phương đắc khế như
như.”
(Rất kỵ tìm nơi khác,
xa xôi bỏ lảng ta
Ta nay riêng tự đến,
chỗ chỗ đều gặp va
Va nay chính là ta,
ta nay chẳng phải va
Phải nên biết như
thế, mới mong hợp như
như).
As
T’ung-Shan prepared to leave Yun-Yan, Yun-Yan said: “Where are you going?”
T’ung-Shan said: “Although I’m leaving the master, I don’t know where I’ll
end up.” Yun-Yan said: “You’re not going to Hu-Nan?” T’ung-Shan said: “No,
I’m not.” Yun-Yan said: “Are you returning home?” T’ung-Shan said: “No.”
Yun-Yan said: “Sooner or later you’ll return.” T’ung-Shan said: “When the
master has an abode, then I’ll return.” Yun-Yan said: “If you leave, it
will be difficult to see one another again.” T’ung-Shan said: “It is
difficult to not see one another.” Just when T’ung-Shan was about to
depart, he said: “If in the future someone happens to ask whether I can
describe the master’s truth or not, how should I answer them?” After a
long pause, Yun-Yan said: “Just this is it.” T’ung-Shan sighed. Then
Yun-Yan said: “Worthy Liang, now you have taken on this great affair, you
must consider it carefully.” T’ung-Shan continued to experience doubt.
Later as he crossed a stream he saw his reflection in the water and was
awakened to Yun-Yan’s meaning. He then composed this verse:
“Avoid
seeking elsewhere, for that’s far from the self.
Now I travel
alone, everywhere I meet it.
Now it’s exactly
me, now I’m not it.
It must thus be
understood to merge with
thusness.”
·
Một hôm nhân ngày thiết trai cúng kỵ Vân Nham, có vị Tăng
hỏi: “Hòa Thượng ở chỗ Tiên Sư được chỉ dạy gì?” Sư đáp: “Tuy ở trong ấy
mà chẳng nhờ Tiên Sư chỉ dạy.” Tăng hỏi: “Đã chẳng nhờ chỉ dạy, lại thiết
trai cúng dường làm gì, như vậy là đã chấp nhận giáo chỉ của Vân Nham rồi
vậy?” Sư bảo: “Tuy nhiên như thế, đâu dám trái lại tiên Sư.” Tăng hỏi:
“Hòa Thượng trước yết kiến Nam Tuyền tìm được manh mối, vì sao lại thiết
trai cúng dường Vân Nham?” Sư đáp: Ta chỉ trọng Tiên Sư đạo đức, cũng
chẳng vì Phật pháp,--T’ung-Shan hosted a feast of commemoration on the
anniversary of Yun-Yan’s death. A monk asked: “When you were at Yun-Yan’s
place, what teaching did he give you?” T’ung-Shan said: “Although I was
there, I didn’t receive any teaching.” The monk asked: “But you are
holding a commemorative feast for the late teacher. Doesn’t that show you
approve his teaching?” T’ung-Shan said: “Half approve. Half not approve.”
The monk said: “Why don’t you completely approve of it?” T’ung-Shan said:
“If I completely approved, then I would be disloyal to my late teacher.”
·
Sư bệnh, sai sa di báo tin Vân Cư hay. Sư dặn Sa di: “Nếu
Vân Cư hỏi Hòa Thượng an vui chăng?” Ngươi chỉ nói xong phải đứng xa, e y
đánh ngươi. Sa di lãnh mệnh đi báo tin, nói chưa dứt lời đã bị Vân Cư đánh
một gậy. Có vị Tăng hỏi: “Hòa Thượng bệnh lại có cái chẳng bệnh chăng?”
Sư đáp: “Có.” Tăng thưa: “Cái chẳng bệnh lại thấy Hòa Thượng chăng?” Sư
bảo: “Lão Tăng xem y có phần.” Tăng thưa: “Khi lão Tăng xem chẳng thấy có
bệnh.” Sư lại hỏi Tăng: “Lìa cái thân hình rỉ chảy nầy, ngươi đến chỗ nào
cùng ta thấy nhau?” Tăng không đáp được. Sư bèn làm bài kệ:
“Học giả
hằng sa vô nhất ngộ
Quá tại
tầm tha thiệt đầu lộ
Dục đắc
vong hình dẫn tung tích
Nỗ lực
ân cần không lý bộ.”
(Kẻ học
hằng sa ngộ mấy người
Lỗi tại
tầm y trên đầu lưỡi
Muốn
được quên thân bặt dấu vết
Nỗ lực
trong không bước ấy ngươi).
T’ung-Shan became ill. He instructed a novice monk to go and speak to
T’ung-Shan’s Dharma heir, Zen master Yun-Zhu. T’ung-Shan told the novice:
“If he asks whether I’m resting comfortably, you are to tell him that the
lineage of Yun-Yan is ending. When you say this you must stand far away
from himbecause I’m afraid he’s going to hit you.” The novice monk did as
T’ung-Shan instructed him and went and spoke to Yun-zhu. Before he could
finish speaking Yun-Zhu hit him. The novice monk said nothing further. A
monk asked: “When the master is not well, is there still someone who is
well or not?" ”'T’ung-Shan said: "There is.” The monk asked: “Can the one
who’s not ill still see the master or not?” T’ung-Shan said: “I can still
see him.” The monk asked: “What does the master see?” T’ung-Shan said:
“When I observe him, I don’t see any illness.” T’ung-Shan then said to the
monk: “When you leave the skin bag, you inhabit, where will you go and see
me again?” The monk didn’t answer. T’ung-Shan the recited a verse:
“Students as numerous as sands in the Gangs but more are awakened.
They
err by searching for the path in another person’s mouth.
If you
wish to forget form and not leave any traces,
Wholehartedly strive to walk in emptiness.”
·
Sư sai cạo tóc tắm gội xong, đắp y bảo chúng đánh chuông,
giã từ chúng ngồi yên mà tịch. Đại chúng khóc lóc mãi không dứt. Sư chợt
mở mắt bảo: “Người xuất gia tâm chẳng dính mắc nơi vật, là tu hành chân
chánh. Sống nhọc thích chết, thương xót có lợi ích gì?” Sư bảo chủ sự sắm
trai ngu si để cúng dường. Chúng vẫn luyến mến quá, kéo dài đến ngày thứ
bảy. Khi thọ trai, sư cũng tùng chúng thọ. Thọ trai xong, sư bảo chúng:
“Tăng Già không việc, sắp đến giờ ra đi, chớ làm ồn náo.” Sư vào trượng
thất ngồi yên mà tịch. Bấy giờ là tháng ba năm 869, đời nhà Đường. Sư thọ
63 tuổi, 42 tuổi hạ. Vua phong sắc là “Ngộ Bổn Thiền Sư.”—T’ung-Shan then
had his attendants help him shave his head, bathe and get dressed. He then
had the bell rung to summon the monks so that he could bid them farewell.
He appeared to have passed away and the monks began wailing piteously
without letup. Suddenly T’ung-Shan opened his eyes and said to them:
“Homeless monks aren’t attached to things. That is their authentic
practice. Why lament an arduous life and pitiful death?” T’ung-Shan then
instructed the temple director to organize a “delusion banquet.” The monks
adoration for T’ung-Shan was unending. Seven days later the food was
prepared. T'u’g-Shan had a final meal with the congregation. He then said:
"D“n't’make a big deal about it. When I pass away, don't’go carrying on
about it.” T’ung-Shan then returned to his room, and sitting upright,
passed away. It was the third month in 869. He was sixty-three years of
age, he’d been an ordained monk for forty-two years. T’ung-Shan received
the posthumous name “Enlightened Source.”
Lương Hảo:
Good—Excellent.
Lương Hoàng Sám:
Lương Vũ Đế khi còn làm thứ sử Ung Châu, phu nhân của ngài là Hy Thị tánh
tình hung ác, sau khi mất hóa thành một con mãng xà luôn về báo mộng cho
vua biết. Nhà vua liền cho lập đàng tràng siêu độ, mời chư Tăng làm lễ sám
hối. Nhờ đó mà Hy Thị được sanh về cõi trời, từ trên không trung cảm tạ
nhà vua rồi bay đi—The litany of Liang-Wu-Ti for his wife, who became a
large snake, or drago, after her death, and troubled the emperor’s dreams.
After the litany was performed, she became a devi, thanked the emperor and
departed.
Lương Hữu: See
Lương bằng.
Lương Mẫu: Good
mother.
Lương Nhân: See
Lương dân.
Lương Nhẫn: Vị sáng
lập ra giáo phái Viên Thông Niệm Phật tại Nhật—Liang-Jen, founder of the
Japanese named “Universally Penetrating via Praying to the Buddha.”
Lương Nhật: A good
or an auspicious day.
Lương Pháp: Good
method.
Lương Phước Điền:
The field of blessedness, cultivated by offerings to Buddha, the Law, and
the Order.
Lương Tâm:
Conscience.
Lương Tâm Nhân Loại:
The conscience of humanity.
Lương Thiện:
Honest—good.
Theo Kinh Pháp Cú, câu
263, Đức Phật dạy—According to the Dharmapada Sutra, verse 263, the Buddha
taught: “Chỉ nhờ trừ diệt tận gốc lòng sân hận, mới là người lương
thiện—Only he who eradicates hatred, is indeed called good-natured.”
Lương Tri:
Instinct.
Lương Tử: Good son.
Lương Y: Good
physician
Lường Gạt Giả Dối:
Fraud and deceit.
Lưỡng:
1)
Hai: Một cặp—Cả hai—Two—A couple—Both.
2)
Một lượng: An ounce—A tael.
Lưỡng Bộ: See Lưỡng
Giới.
Lưỡng Bộ Mạn Đà La:
Mạn Đà La của Kim Cương Giới và Thai Tạng Giới. Tất cả pháp môn Mật giáo
đều chia làm hai bộ Kim Cương và Thai Tạng (Thai Tạng Giới là pháp môn
thuộc chúng sanh vốn có đầy đủ lý tính, phối hợp với lý, phối hợp với
nhân. Kim cương Giới là pháp môn thuộc chư Phật mới thành quả tướng, phối
hợp với trí, phối hợp với quả) —Mandala of the two sections, i.e. dual
powers of the two groups symbolizing the Vajradhatu and Garbhadhatu.
Lưỡng Cấu Như Như:
The two kinds of Bhutatathata.
1)
Hữu Cấu Chân Như: Tại Triền Chân Như—The contaminated Bhutatathata.
2)
Vô Cấu Chân Như: Xuất Triền Chân Như—Uncontaminated Bhutatathata
(Buddha-nature).
Lưỡng Diện:
Double-faced—Two-faced.
Lưỡng Dực: Hai cánh
Định và Tuệ—The two wings of meditation (định) and wisdom (huệ).
Lưỡng Giới: Two
sections or two classes.
Lưỡng Hà: Hai con
sông—The two rivers.
1)
Ni Liên Thiền: Nơi Phật thành đạo—The Nairanjana River, where the
Buddha attained enlightenment.
2)
Bạt Đề: Nơi Phật nhập Niết Bàn—The Hiranyavati River, where the
Buddha entered Nirvana.
Lưỡng Kiên Thần:
Hai vị thần trên hai vai của mỗi người—The two recording spirits of every
person.
1)
Đồng Danh Thần: The spirit of the same name.
2)
Đồng Sinh Thần: Đồng Tọa Thần—The spirit who was born at the same
time (with the person).
Lưỡng Nan: A
difficult and perplexing situation—Dilemma.
Lưỡng Quyền: Hai
quyền thừa Thanh Văn và Duyên Giác, đối lại với Thực Thừa hay Nhất Thừa Bồ
Tát của Phật Giáo Đại Thừa—The two temporary vehicles, Sravaka and
Pratyeka-buddha, as contrasted with the completed Bodhisattva doctrine of
Mahayana.
Lưỡng Quyển Kinh:
Hai quyển Kinh—The two sutras.
Lưỡng Tài: The two
rewards or talents from previous incarnations:
1)
Nội tài: The inner or bodily personal conditions.
2)
Ngọai tài: The external (wealth or poverty).
Lưỡng Tam Muội: Two
kinds of samadhi—See Nhị Chủng Định.
Lưỡng Thiệt: Một
trong mười ác nghiệp, ăn nói lật lọng, đổi trái làm phải, đổi mặt ra
trái—Double-tongued, one of the ten forms of evil conduct.
**For more information,
please see Thập Ác
Nghiệp.
Lưỡng Thử: Hai con
chuột, một trắng một đen, ví với ngày và đêm, thiện và ác—The two rats,
white and black mice, compared with day and night, wholesome and
unwholesome.
Lưỡng Toàn: Tài đức
vẹn toàn—Perfect in both talent and virtue.
Lưỡng Túc Tôn:
1)
Bậc tôn quý giữa Trời và người, hay giữa những chúng sanh hai
chân—The most honored among men and devas, or among two-footed beings.
2)
Tôn hiệu của Đức Phật: An honoured title of the Buddha.
3)
Lưỡng Túc—Two prongs:
·
Giới và Định: The commandments and Meditation.
·
Phước và Huệ: Blessing and Wisdom.
·
Quyền và Thực: Relative and Absolute teachings.
·
Tiểu Thừa và Đại Thừa: Hinayana and Mahayana.
·
Thiền và Hành: Meditation and Action.
Lượng:
1)
See Tông Nhân Dụ.
2)
Cân lượng: Tael (gold).
3)
Đo lường: Pramana (skt)—Measure—Capacity—Length—Ability—To measure.
4)
Rộng lượng: Generous.
5)
Số lượng: Quantity.
Lượng Cả: Generous.
Lượng Đẳng Thân:
Thân tướng của Như Lai ngang bằng với lượng của tất cả các pháp hữu vi và
vô vi—The immanence of the Tathagata in al things, phenomenal and
noumenal.
Lượng Quả: Kết quả
cuối cùng mà Pháp Tướng tông cho rằng cái tâm năng duyên, duyên theo cảnh
sở duyên mà biết được—Conditioned by various external objects, diferent
types of consciousness arise (alabana-pratyaya). The Dharmalaksana held
that the percipient mind is conditioned by existing things, and when the
two are in conjunction the ultimate consequence of any action may be
known.
Lượng Quang:
Brilliant.
Lượng Thứ: To
excuse—To forgive—To pardon.
Lượng Tình: To
examine the situation and to forgive (excuse).
Lượng Xét: To
examine and to judge.
Lướt Qua: To pass
lightly over.
Lượt: Turn—Time.
Lượt Thượt:
Dragging.
Lưu:
1)
Chảy (nước) hay lan rộng ra: Flow—Spread.
2)
Lưu giữ: To keep—To detain.
3)
Lưu truyền: To hand down.
4)
Nổi trôi: To float—To wander.
Lưu Chi: An
abbreviation for Bodhiruci—See Bodhiruci in Sanskrit/Pali-Vietnamese
Section.
Lưu Chú:
1)
Để ý đến: To pay attention to.
2)
Tuôn chảy không ngừng: Continuous flow—Ceaseless.
Lưu Chuyển: Samsara
(skt)—Lưu chuyển có nghĩa là liên tục khởi dậy không ngừng, chỉ nhân quả
của các pháp hữu vi liên tục mà sinh ra (tất cả phàm phu gây tội tạo
nghiệp thiện ác, cảm thọ quả lạc khổ đều trong luân hồi trong sáu
nẻo)—Transmigration, flowing and returning, flowing back again.
Lưu Chuyển Chân Như:
Một trong hai loại chân như, dù lưu chuyển trong sinh tử, song thực tính
của chân như thì chân thực như thường—One of the two kinds of
bhutatathata, or absolute, in transmigratory forms.
Lưu Chuyển Môn: Từ
nầy đối lại với “tịch diệt môn” hay niết bàn (các nghiệp vô minh phiền não
từ vô thủy đến nay, gây nghiệp thiện ác, khiến cảm thọ quả lạc khổ)—The
way of transmigration, as contrasted with that of nirvana (Diệt môn).
Lưu Danh: To leave
a good name.
Lưu Di Ni: See
Lumbini in Sanskrit/Pali-Vietnamese Section, and Lâm Tì Ni in
Vietnamese-English Section.
Lưu Dụng: To
maintain someone (a retired) in his or her post.
Lưu Đày: To
exile—To deport—To banish.
Lưu Hành: To
circulate—To propagate.
Lưu Kệ Phó Chúc Cho Đại
Chúng: A Patriarch leave a gatha to the assembly.
Lưu Khách: To keep
one’s guest.
Lưu Lạc: Wandering.
Lưu Lai: Trôi nổi
không ngừng, từ vô thủy chúng sanh đã trôi nổi trong biển đời sanh tử
không ngừng cho đến hôm nay—Flowed or floated down; that which has come
down from the past.
Lưu Lai Sanh Tử: Do
bởi vô minh mà luân hồi sanh tử không ngừng—Transmigration which has come
down from the state of primal ignorance.
Lưu Luyến: To be
attached to (fond of).
Lưu Ly: Lapis
lazuli.
Lưu Manh:
Scoundrel.
Lưu Nã:
Runna-pandakas (skt)—Bất nam—Castrated males.
Lưu Nan: Ma chướng
che mất thiện nghiệp—The difficulty of one’s good deeds being hindered by
evil spirits.
Lưu Sa:
1)
Sự lưu chuyển của cát (vì gió thổi): Flowing or shifting sands.
2)
Vùng đại sa mạc ở Mông Cổ: Desert regions in Mongolia.
Lưu Tâm: To pay
attention to—To mind.
Lưu Thông: Chảy đi
khắp nơi không chướng ngại—Spread abroad; permeate; flowing through, or
everywhere, without effective hindrances.
Lưu Thủy:
1)
Nước chảy: Flowing water.
2)
Tên của Đức Phật Thích Ca trong một tiền kiếp: Name of a former
incarnation of Sakyamuni.
Lưu Truyền: To hand
down—To hand on to posterity.
Lưu Trữ: To
preserve—To conserve.
Lưu Tương: Nước
đồng sôi, hay những hòn sắt nóng chảy trong địa ngục—Liquid broth of
molten copper, or grains of red-hot iron in one of the hells.
Lưu Tỳ Ni: See
Lumbini in Sanskrit/Pali-Vietnamese Section, and Lâm Tì Ni in
Vietnamese-English Section.
Lưu Vong: Exile.
Lưu Xá Na: Locana
or Vairocana (skt)—Còn viết là Lô Giá Na, Lô Thác Na, Tỳ Lô Giá Na, đây là
pháp thân của Phật Tỳ Lô Xá Na—Often regarded as the body of bliss of
Vairocana.
Lưu Ý: To alert.
Lưu Ý Đến: To draw
attention to.
---o0o---
Mục Lục Tự điển Phật Học
Việt-Anh
|
A
|
Ba |
Be |
Bi |
Bo |
Bu
| Ca
| Ch
| Co |
Cu
|
D
|
Đa
| Đe |
Đi |
Đo |
Đu
|
| E
|
G
|
Ha |
He |
Hi |
Ho |
Hy
|
I
| K
| La |
Le |
Li |
Lo |
Lu |
Ly
|
|
Ma
| Me |
Mi |
Mo |
Mu, My
|Na
| Ne |
Ng |
Nh
| Ni
| No
| Nu
|
| O
| Pha |
Phe
| Phi |
Pho |
Phu
| Q
| R
| S
| Ta |
Te |Tha
| Thă, Thâ |
| The |
Thi |
Tho |
Thu |
Ti |
To |
Tr |
Tu |
Ty
| U
| V
| X
| Y|
---o0o---
Mục Lục |
Việt-Anh | Anh -Việt |
Phạn/Pali-Việt
| Phụ Lục
---o0o---
Trình bày: Nhị
Tường
Cập nhật: 1-4-2006