Vietnamese Section

Quang Duc Homepage

   English Section 

qd.jpg (8936 bytes)

Từ Điển Phật Học


...... ... .

 

TỔ ĐÌNH MINH ĐĂNG QUANG

PHẬT HỌC TỪ ĐIỂN

BUDDHIST DICTIONARY
VIETNAMESE-ENGLISH

THIỆN PHÚC

 

H

 

Ha Bà Bà: Hahava or Ababa (skt)—Ðịa ngục  thứ tư trong tám địa ngục lạnh, nơi tội nhân chỉ có thể rên khẻ những âm thanh nầy (ha bà bà)—The fourth of the eight cold hells, in which the suferers can only utter these sounds.

Ha La La: Atata (skt)—Ðịa ngục thứ ba trong tám địa ngục lạnh, nơi tội nhân chỉ có thể rên khẻ những âm thanh “ha la la.”—The third of the eight cold hells, in which the suferers can only utter these sounds.

Ha Mật: Hami (skt)—Theo Eitel trong Trung Anh Phật Học Từ Ðiển, Ha Mật là một vương quốc và thành phố cổ ở Trung Á, nằm về phía đông bắc hồ Lop. Từ thời Hán đến Ðường được biết đến qua tên Y-Vũ, bây giờ được dân Turki-Mohammadans gọi là Kumul. Vì là địa điểm chính yếu cung cấp nước trong vùng trong hơn 1.500 năm, nên Ha Mật là một đầu cầu cho công cuộc bành trướng về phía Trung Á của các vương triều Trung Quốc—According to Eitel in The Dictionary of Chinese-English Buddhist Terms, Hami is an ancient kingdom and city in central Asia, northeast of lake Lop. From Han to T’ang times known as I-Wu, now called Kumul by Turki Mohammadans. For more than 1,500 years, owing to its location and supply of water, Hami was a bridge-head for the expansion and control of the outposts of the Chinese empire in Central Asia.   

Ha Trách Kiện Ðộ: Phép khiển trách thứ bảy trong hai mươi phép khiển trách chư Tăng Ni sai trái—The eleventh of the twenty rules for monks, dealing with rebuke and punishment of a wrongdoer.

:

1)      Bông lục bình lá nhỏ: A small-leaved water-lily.

2)      Tôm: Shrimp.

3)      Hà Mô: Con cóc—A frog.

4)      Sông: River—See Nhị Hà Ấn Ðộ.

5)      Thế nào: How—What.

Hà Da: Haya (skt)—Tên tiếng Phạn của Mã Ðầu Quan AÂm—Sanskrit name for the horse-head form of Kuan-Yin.

Hà Da Yết Lợi Bà: Hayagriva (skt)—Hạ Dã Hột Lợi Phạt—Tên của một vị Mã Ðầu Minh Vương hay Minh Vương Cổ Ngựa—Horse-neck, a form of Visnu, name of a Ming-Wang.

Hà Da Yết Lợi Bà Quan Thế AÂm Bồ Tát Thụ Pháp Ðàn: Kinh giải thích về đàn pháp của Ðức Mã Ðầu Quan AÂm, một quyển, không rõ ai đã dịch ra Hoa ngữ—Hayagriva-Dharma-Platform Sutra, explaining about the dharma which Horse-head Kuan-Yin expounded, one book and the translator was unknown.

Hà Da Yết Lợi Bà Tượng Pháp: Kinh nói về tượng pháp và đàn pháp của Mã Ðầu Quan AÂm—The sutra explaining about the dharma forming and dharma platform of Horse-head Kuan-Yin.

Hà Ðảm: Gánh vác trên vai—To carry, bear on the back or shoulder.

Hà La Hỗ La: Rahula (skt)—La Hầu La.

1)      Tên của con trai Phật Thích Ca Mâu Ni: Rahula, name of Sakyamuni’s son.

2)      Tên của một loài A-Tu-La: Name of a kind of asura.

Hà Lực Bì Ðà: Rigveda (skt)—Một trong bốn phần của kinh Vệ Ðà—One of the four divisions of Vedas.

Hà Mô Thiền: Loại thiền cóc nhái (cứng nhắc), không linh hoạt, nhảy múa vui đùa khi chỉ biết nửa vời chân lý—Frog samadhi, which causes one to leap with joy at half-truths.

Hà Sa: Hằng Hà Sa—Nhiều như cát sông Hằng—The sands of Ganges (vast in number).

Hà Tất: Tại sao lại cần phải như vậy?—Why should it necessarily be?

Hà Tiện: Misery—Stingy.

Hà Trạch Thần Hội Thiền Sư: Zen master  He-Ze-Shen-Hui—See Thần Hội Hà Trạch Thiền Sư.

Hà Trung: Tên của một ngôi chùa cổ ở Huế, Trung Việt. Chùa tọa lạc tại xã Vinh Hà, quận Phú Vang. Năm 1677, au khi khai sơn Thập Tháp Di Ðà ở Qui Nhơn, Tổ Nguyên Thiều ghé lại Huế và được lệnh chúa trở về Trung Quốc để thỉnh thêm danh Tăng và pháp khí. Trong số pháp khí có tượng Bồ Tát Quán AÂm, cở lớn hơn người thật. Tổ muốn đưa tượng nầy lên kinh đô Huế, nhưng khi thuyền chở ngang qua xã Hà Trung thì bị mắc cạn mà không cách gì đẩy nổi. Tổ nghĩ là do cơ duyên nên thỉnh tượng vào thờ tại chùa làng Hà Trung để thờ. Từ đó chùa làng Hà Trung trở thành danh lam quốc tự dưới thời chúa Nguyễn Phước Châu. Sau đó, Tổ Nguyên Thiều phụng mệnh chúa về trụ trì chùa Hà Trung. Rồi trải qua những năm cuối thế kỷ thứ 18, chùa đã bị hư hỏng tiêu điều. Dưới triều nhà Nguyễn, chùa đã được trùng tu. Hiện nay chùa được mang tên Phổ Thành. Người ta kể rằng chiếc đại hồng chung  của chùa vốn là chuông của chùa Phổ Thành bên làng Ngân Ðiền, huyện Gia Ðịnh, Phủ Thuận An, đúc năm 1762, không rõ cơ duyên nào mà trở thành pháp khí của chùa Hà Trung trên 100 năm qua. Vì vậy thay vì giữ tên Hà Trung thì người của những thế hệ sau nầy lại đổi tên chùa là Phổ Thành, tên được khắc trên chuông—Name of an ancient temple in Huế, Central Vietnam. The temple is located in Vinh Hà village, Phú Vang district. In 1677, after building Thập Tháp Di Ðà in Qui Nhơn, Patriarch Nguyên Thiều came to Huế and obeyed the order of the Lord, he travelled back to Kuang-Chou to invite more celebrated Chinese monks and obtain more ritual instruments. Among these ritual instruments, there was a stone statue of Avalokitesvara Bodhisattva, bigger than life size, which sat on a lotus pedestal also made of stone. The statue should have been bound for Huế Citadel, however, when passing by Hà Trung village, the shp got stuck and no efforts could free it. The Patriarch was convinced that this was a token of destiny. Thus, the patriarch decided to fix the statue in the village temple for worship. Since then, the village temple became a national temple during the reign of Lord Nguyễn Phước Châu. After that, patriarch Nguyên Thiều moved to stay at Hà Trung temple. Hà Trung temple fell into deteriorations in the years of the late 18th century. Then it was restored under the reign of the Nguyễn Dynasty. Now the temple name is Phổ Thành. It is said that the great bell of the temple formerly belonged to Phổ Thành temple at Ngân Ðiền village, Gia Ðịnh district,  Thuận An province. It was cast in 1762 for an unknown reason, the bell has been a ritual instruments of Hà trung Temple for the last 100 years. As a result, instead of keeping its old name, people of later generations renamed the temple Phổ Thành after the name given on the bell.   

Hà Tự Sanh: Thế thì việc ấy xãy đến như thế nào?—How does it thus happened?

Hà Tỵ Chỉ: See Avici in Sanskrit/Pali-Vietnamese Section.

Hả Dạ: Content-Satisfied.

Hả Giận: To give way to anger.

Hạ:

1)      Hina (p & skt)—Dưới thấp: Low—below—Inferior.

2)      Hạ giải: Vui mừng khi chấm dứt ngày an cư kiết hạ, chư Tăng Ni được các thí chủ cúng dường mừng tuổi hạ—To make offerings in congratulation.

3)      Mùa hè: Summer.

Hạ An Cư: See Hạ Tọa.

Hạ Bối Quán: Thiền quán theo lối Tịnh Ðộ. Theo Kinh Vô Lượng Thọ, những ai phạm phải tội ngũ nghịch và thập ác sẽ rơi vào các đường dữ của địa ngục; tuy nhiên, nếu khéo biết trì niệm hồng danh Phật A Di Ðà, họ vẫn được cứu độ. Họ vẫn thoát khỏi vô lượng kiếp luân hồi khổ sở và trong lúc lâm chung sẽ nhìn thấy Liên Hoa và bằng cách tưởng nghĩ đến một niệm Di Ðà sẽ được vãng sanh vào cõi nước Tịnh Ðộ của Ðức Phật A Di Ðà—A meditation of the Amitabha sect. According to the Infinite Life Sutra, those who have committed the five rebellious sins (ngũ nghịch)  and the ten evils (thập ác)  should have fallen into the lowest gati (be rebirth in the uninterrupted hells); however, if they invoke the name of Amitabha, they can still obtain salvation. They can still escape countless of reincarnation and suffering and on dying they will behold a lotus flower  and by response of a  single thought on the name of Amitabha, will enter the Pure Land of Amitabha.    

Hạ Căn: Lamakindriya (p)—Low (dull) capacities—Low spiritual faculty—Sanh ra với căn tánh kém cõi hay khả năng hiểu được Phật pháp rất thấp—Those born with base characters or of low capacity to understand dharma.

Hạ Chúng:

1)      Bảy chúng đệ tử đứng sau hàng Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni: The seven lower orders of disciples who are ranked below the monks and the nuns.

2)      Chúng Tỳ Kheo vào ngày an cư kiết hạ: The assembly of monks at the summer retreat.

Hạ Chủng: Gieo giống—To sow the seed—To preach—To teach. According to the Chinese Buddhism, there are three periods:

1)      Gieo: To sow the Buddha’s seed—When the seed of Budha’s teaching is sown in the heart.

2)      Quả thục: Chín—When it ripens.

3)      Thoát: When it is stripped or harvested (when one abandons all things).

Hạ Chuyển: Luân hồi đi xuống. Những hành động đi ngược lại Phật tánh gây nên luân hồi đi xuống—The downward turn in transmigration—Acts which are against the primal true, or Buddha-nature cause transmigration.

Hạ Ðẳng: Inferior rank.

Hạ Ðịa: Phần dưới của 52 cấp phát triển Bồ tát—The lower region or the lower half of the fifty-two grades of bodhisattva development.

Hạ Ðiền: Ploughing Festival.

Hạ Giọng: To lower one’s voice.

Hạ Giới: The lower  world—The human world.

Hạ Hóa: To save those below.

Hạ Hóa Chúng Sanh: Một trong những hạnh của một vị Bồ Tát: Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh—Below, to transform all beings, one of the great vows of a Bodhisattva: Above, to seek Bodhi; below, to transform all beings. 

Hạ Khẩu Thực: Một vị sư kiếm sống bằng cách cày cấy hay những phương pháp tà vạy khác. Một trong bốn cách sống tà mệnh của người xuất gia—A monk earns his living (livelihood) by bending down to cultivate the land. Oone of the four heterodox means of living of a monk.

1)      Tăng Ni làm việc kiếm sống: A monk or nun earns his or her living by bending down to cultivate the land.

2)      Bốc thuốc kiếm sống; tuy nhiên nếu bốc thuốc vì nhân đạo cứu người là đúng với lòng bi mẫn Phật dạy: Colect herbs for a living; however, collecting herbs to save human lives is in compliance with the Compassion which the Buddha had taught.

3)      Xem thiên văn: Một lối sống tà mạng khác là xem thiên văn—Another wrong way of earning a living is to look up and telling or guessing as in astrology.

4)      Nghênh Khẩu Thực (bói quẻ): Fortune-telling.  

Hạ La Ðà: Hrada (skt).

1)      Hồ: A lake—A pool.

2)      Tia sáng: A ray of light.

Hạ Lạp: Tuổi của Tăng Ni được tính bằng số an cư kiết hạ mà các vị đã trải qua—Sau kiết hạ an cư, chư Tăng Ni nào đã nhập hạ đều được tăng một tuổi đạo. Quyền đi trước của Tăng Ni trong đoàn tùy thuộc vào tuổi hạ lạp—The age of a monk as monk, the years of his ordination, or the years a person has been a monk are counted by the number of summer retreats passed. To receive one’s monastic age—To add to one’s monastic age on the conclusion of the summer retreat—The precedence of monks and nuns in the Order is determined by the number of summer retreats they have attended.

Hạ Liệt: Lamako (p)—Thấp kém—Tệ—Bad—Inferior—Low—Vile.

Hạ Liệt Thừa: The inferior and mean yana. 

Hạ Lưu:

1)      Low class.

2)      Downstream.

Hạ Mãn: See Hạ Mạt.

Hạ Mạt: Sự kết thúc của kỳ an cư kiết hạ, nhằm ngày rằm tháng bảy âm lịch—The end of the summer retreat, the 15th of the 7th month, lunar calendar.

Hạ Mình: To demean –To humble oneself—To condescend.

Hạ Nại Sa: Hamsa (skt)—Loài ngan hay ngỗng, cùng họ với loài vịt—A goose.

Hạ Ngục: To imprison—To put in prison.

Hạ Nguyên: The fifteen of the tenth moon.

Hạ Ngữ: Chỉ thị—To give instructions.

Hạ Phẩm: The lowest quality—Ba phẩm thấp nhất trong Cửu Phẩm Tịnh Ðộ của Ðức Phật A Di Ðà—The three lowest of the nine classes born in the Amitabha Pure Land:

1)      Hạ phẩm thượng sanh: Người vào phẩm cao nhứt của hạ phẩm, những người gây tội tạo nghiệp, nhưng không hủy báng kinh điển và vào cuối đời mà chịu niệm Hồng danh A Di Ðà Phật—One who enters the Pure Land of Amitabha in the highest of the three lowest classes (those who committed all sins and karma except dishonoring the sutras; however, at the end of life, the person clasps his hands and say NAMO AMITABHA, that person will be born in the Pure Land Precious Lake).

2)      Hạ phẩm trung sanh: Trung sanh của Hạ phẩm Tịnh Ðộ, những người phá giới, ăn cắp của Tăng chúng và lạm dụng giáo pháp; tuy nhiên vào cuối đời nghe được thần lực của Phật A Di Ðà mà tán thán bằng một niệm, sẽ được vãng sanh vào Hạ phẩm Trung sanh Tịnh Ðộ—One who enters the Pure Land of Amitabha in the middle of the three lowest classes (those who have broken all the commandments, even stolen from monks and abuse the law; however, at the end of life, the person hears of the great power of Amitabha and assents with but a thought, the person will be received into the paradise).

3)      Hạ phẩm hạ sanh: Phẩm thấp nhứt trong Hạ phẩm Tịnh Ðộ, những ai bị rơi vào những đường dữ, nhưng chịu niệm hồng danh Phật A Di Ðà sẽ được thoát khỏi vô lượng kiếp tái sanh  khổ sở, và vào cuối đời sẽ nhìn thấy Liên Hoa như ánh mặt trời, và chỉ bằng một niệm tán thán, người đó sẽ được vãng sanh vào Hạ Phẩm Hạ Sanh—One who enters the Pure Land of Amitabha in the lowest of the three lowest classes (those who should be fallen into the lowest gati because of their sins; however, by invoking the name of Amitabha they can escape countless ages of reincarnation and suffering, and on dying will behold a lotus flower like the sun, and by responding of a single thought, will enter the Pure Land).

Hạ Phẩm Hạ Sanh: Cấp thấp nhất trong Tịnh Ðộ—The lowest type of incarnated beings with corresponding to the karma—The lowest grade in the Pure Land.

Hạ Phương Thế Giới: This world.

Hạ Sĩ: A so-call disciple of Buddhism, but profits neither to self nor others.

Hạ Tam Ðồ: Ba đường dữ đi xuống (Ðịa ngục, ngạ quỷ, súc sanh)—The three lower path of the six destinations or gati (Hells, hungry ghosts and animals).

Hạ Thủ: Ngày đầu của kỳ an cư kiết hạ—The first day, or beginning, of the retreat.  

Hạ Thừa: The lower yana—Hinayana.

Hạ Tọa:

1)      Kỳ thiền định trong mùa an cư kiết hạ hay mùa mưa: The period of the summer retreat for meditation, known as varsas, the rains.

2)      Vị Tăng có ít hơn 10 năm hạ lạp: A monk or nun who has less than ten years of renunciation.

Hạ Trần: The lower gati, the hells, hungry ghosts, animals.

Hạ Trung: Giữa mùa hè, giữa kỳ an cư kiết hạ, hay kỳ hạn 90 ngày an cư kiết hạ—During the summer, the middle of the summer; the rainy season spent by the monks of India in retirement.

Hạ Tuần: The last ten days (decade) of a month.

Hạc: Con hạc—A crane—An egret.

Hạc Lặc Na: See Hạc Lặc Na Dạ Xa.

Hạc Lặc Na Dạ Xa: Haklenayasas or Padmaratna (skt)—The twenty-third patriarch—See Hai Mươi Tám Tổ Ấn Ðộ.

Hạc Lâm:

1)       Khu rừng Hạc Lâm, nơi Ðức Phật nhập diệt, ở giữa hai hàng cây Ta La, những cây nầy bỗng nở hoa trắng giống như những con hạc trắng nên có tên là “Hạc Lâm” (theo Kinh Niết Bàn thì khi Phật nhập Niết Bàn, rừng cây Sa La ở thành Câu Thi Na đều biến thành trắng giống như hạc trắng vậy)—Crane grove, a name for the place where Sakyamuni died, when the trees burst into white blossom resembling a flock of white cranes.   

2)       Hạc Lâm Tự: Tên của một tự viện nằm về phía bắc Ấn Ðộ—Crane-Garden Monastery, name of a monastery in northern India.

Hạc Mạt: Homa (skt)—See Hộ Ma.

Hạc Tát La: Hasara (skt)—Theo Eitel trong Trung Anh Phật Học Từ Ðiển, Hạc Tát La là tên của thủ phủ thứ nhì của Tsaukuta, có lẽ bây giờ là Assaia Hazareh, nằm giữa Ghuznee và Kandahar thuộc A Phú Hãn—According to Eitel in The Dictionary of Chinese-English Buddhist Terms, Hasara is the second capital of Tsaukuta, perhaps modern Assaia Hazareh, between Ghuznee and Kandahar in Afghanistan. 

Hạc Tất Na: Hosna or Ghazna (skt)—Theo Eitel trong Trung Anh Phật Học Từ Ðiển của Giáo Sư Soothill, Hạc Tất Na là thủ phủ của Tsaukuta, bây giờ là Ghuznee, thuộc A Phú Hãn—According to Eitel in The Dictionary of Chinese-English Buddhist Terms, Ghazna is the capital of Tsaukuta , the present Ghuznee, or Ghazni in Afghanistan.

Hạc Thụ: See Hạc Lâm.

Hạc Uyển: See Hạc Lâm.

Hách Dịch: Authoritative.

Hạch Miệng: Oral examination.

Hạch Sách: To insist upon—To demand.

Hai Loại Bố Thí: Two kinds of donation or almsgiving:

1)      Thế gian: Ordinary alms.

2)      Xuất thế gian: Spiritual gifts.

Hai Loại Nhân Quả: See Nhị chủng nhân quả.

Hai Loại Thỏa Thích: Two kinds of pleasure—Theo Kinh Niệm Xứ, có hai loại thỏa thích—According to the Satipatthana Sutta, there are two kinds of pleasure.

1)      Thỏa Thích Thế Gian: Samisa sukha (p)—Pleasant worldly feeling.

2)      Thỏa Thích Siêu Thế Gian: Niramisa sukha (p)—Thỏa thích siêu thế gian cao quý hơn thỏa thích thế gian—Pleasant unworldly feeling, which is far superior to samisa sukha.

Hai Loại Vận Hành Của Tâm: Two kinds of functioning of the mind—Trong Nghiên Cứu Kinh Lăng Già, Thiền Sư D.T. Suzuki đã phân biệt hai loại vận hành của tâm—In The Studies of The Lankavatara Sutra, Zen Master D.T. Suzuki distinguished two kinds of functioning of the mind:

1)      Vận Hành Tùy Thuộc vào Tâm Phân Biệt: Còn gọi là sự phân biệt trí, được hàng nhị thừa nhận biết. Nó được gọi là Ứng Thân hay cái thân đáp ứng. Vì họ không biết rằng đây là do cái tâm sinh khởi hay chuyển thức  phóng chiếu ra, nên họ tưởng nó là cái gì ở bên ngoài họ, và khiến cho nó mang một hình tướng có thân thể mà không thể có một cái biết thông suốt về bản chất của nó: This functioning is dependent on the Individualizing Mind and is perceived  by the minds of the two-vehicle followers. It is known as Responding Body. As they do not know that this is projected by their Evolving Mind, they take it for something external to themselves, and making it assume a corporeal form, fail to have a thorough knowledge of its nature. 

2)      Vận Hành Tùy Thuộc Vào Nghiệp Thức: Ðây là loại vận hành xuất hiện với tâm Bồ Tát nào đã nhập vào con đường Bồ Tát tính cũng như đối với tâm của những vị đã đạt đến địa cao nhất. Loại nầy được gọi là Báo Thân. Cái thân có thể nhìn thấy được trong vô số hình tướng, mỗi hình tướng có vô số nét, và mỗi nét cao vời với vô số cách, và cái thế giới trong đó thân trú ngụ cũng được trang nghiêm  theo vô số thể cách. Vì thân thể hiện khắp mọi nơi nên nó không có giới hạn nào cả, nó có thể không bao giờ suy diệt, nó vượt khỏi mọi hoàn cảnh. Tùy theo yêu cầu của chúng sanh tín thủ. Nó không bị đoạn diệt cũng không biến mất. Những đặc điểm ấy của thân là những kết quả huân tập của những hành động thuần khiết như các đức hạnh toàn hảo hay Ba La Mật, và cũng là sự huân tập vi diệu vốn sẵn có trong Như Lai Tạng. Vì có được các tính chất vô lượng an lạc như thế nên nó được gọi là Báo Thân: This functioning is dependent on the Karma-consciousness, that is, it appears to the minds of those Bodhisattvas who have just entered upon the path of Bodhisattvahood as well as of those who have reached the highest stage. This is known as the Recompense Body. The body is visible in infinite forms, each form has infinite marks, and each mark is excellent in infinite ways, and the world in which the Body has its abode is also embellished in manners infinite varying. As the Body is manifested everywhere, it has no limitations whatever, it can never be exhausted, it goes beyond all the conditions of  determination. According to the needs of all beings it becomes visible and is always held by them, it is neither destroyed nor lost sight of. All such characteristics of the Body are the perfuming effect of the immaculate deeds such as the virtues of perfection and also the work of the mysterious perfuming innate in the Tathagata-garbha. As it is thus possession of immeasurably blissful qualities, it is called Recompense Body.       

Hai Lòng: Double-faced—Two-faced

Hai Lối Tu Hành: Two paths of cultivation—Theo Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận, có hai lối tu hành—According to The Commentary on the Ten Stages of Bodhisattvahood, there are two paths of cultivation.

(I)     Nan Hành Ðạo—The Difficult Path: Nan hành đạo là chúng sanh ở cõi đời ngũ trược ác thế nầy đã trải qua vô lượng đời chư Phật, cầu ngôi A Bệ Bạt Trí, thật là rất khó được. Nỗi khó nầy nhiều vô số như cát bụi, nói không thể xiết; tuy nhiên, đại loại có năm điều—The difficult path refers to the practices of sentient beings in the world of the five turbidities, who, through countless Buddha eras, aspire to reach the stage of Non-Retrogression. The difficulties are truly countless, as numerous as specks of dust or grains of sand, too numerous to imagine; however, there are basically five major kinds of difficulties:

1)      Ngoại đạo dẫy đầy làm loạn Bồ Tát pháp: Externalists are legion , creating confusion with respect to the Bodhisattva Dharma.

2)      Bị người ác hay kẻ vô lại phá hư thắng đức của mình: Evil beings destroy the practitioner’s good and wholesome virtues.

3)      Dễ bị phước báo thế gian làm điên đảo, có thể khiến hoại mất phạm hạnh: Worldly merits and blessings can easily lead the practitioner astray, so that he ceases to engage in virtuous practices.

4)      Dễ bị lạc vào lối tự lợi của Thanh Văn, làm chướng ngại lòng đại từ đại bi: It is easy to stray onto the Arhat’s path of self-benefit, which obstructs the Mind of great loving kindness and great compassion.

5)      Bởi duy có tự lực, không tha lực hộ trì, nên sự tu hành rất khó khăn; ví như người què yếu đi bộ một mình rất ư là khó nhọc, một ngày chẳng qua được vài dặm đường: Relying exclusively on self-power, without the aid of the Buddha’s power, make cultivation very difficult and arduous; it is like the case of a feeble, handicapped person, walking alone, who can only go so far each day regardless of how much effort he expends.   

(II)  Dị Hành Ðạo—The Easy Path:

a)      Dị hành đạo là chúng sanh ở cõi nầy nếu tin lời Phật, tu môn niệm Phật nguyện về Tịnh Ðộ, tất sẽ nhờ nguyện lực của Phật nhiếp trì, quyết định được vãng sanh không còn nghi. Ví như người nương nhờ sức thuyền  xuôi theo dòng nước, tuy đường xa ngàn dặm cũng đến nơi không mấy chốc. Lại ví như người tầm thường nương theo luân bảo của Thánh Vương có thể trong một ngày một đêm du hành khắp năm châu thiên hạ; đây không phải do sức mình, mà chính nhờ thế lực của Chuyển Luân Vương: The easy path of cultivation means that, if sentient beings in this world believe in the Buddha’s words, practice Buddha Recitation and vow to be reborn in the Pure Land, they are assisted by the Buddha’s vow-power and assured of rebirth. This is similar to a person who floats downstream in a boat; although the distance may be thousands of miles far away, his destination will be reached sooner or later. Similarly, a common being, relying on the power of a ‘universal mornach’ or a deity, can traverse the five continents in a day and a night, this is not due to his own power, but, rather, to the power of the monarch.

b)      Có kẻ suy theo lý mà cho rằng hạng phàm phu hữu lậu không thể sanh về Tịnh Ðộ và không thể thấy thân Phật. Nhưng công đức niệm Phật thuộc về vô lậu thiện căn, hạng phàm phu hữu lậu do phát tâm Bồ Ðề cầu sanh Tịnh Ðộ và thường niệm Phật, nên có thể phục diệt phiền não, được vãng sanh, và tùy phần thấy được thô tướng của Phật. Còn bậc Bồ Tát thì cố nhiên được vãng sanh, lại thấy tướng vi diệu của Phật, điều ấy không còn nghi ngờ chi nữa. Cho nên Kinh Hoa Nghiêm nói: “Tất cả các cõi Phật đều bình đẳng nghiêm tịnh, vì chúng sanh hạnh nghiệp khác nhau nên chỗ thấy chẳng đồng nhau.”: Some people, reasoning according to ‘noumenon,’ or principle may say that common beings, being conditioned, cannot be reborn in the Pure Land or see the Buddha’s body. The answer is that the virtues of Buddha Recitation are ‘unconditioned’ good roots. Ordinary, impure persons who develop the Bodhi Mind, seek rebirth and constantly practice Buddha Recitation can subdue and destroy afflictions, achieve rebirth and, depending on their level of cultivation, obtain vision of the rudimentary aspects of the Buddha (the thirty-two marks of greatness, for example). Bodhisattvas, naturally, can achieve rebirth and see the subtle, loftier aspects of the Buddha, i.e., the Dharma body. There can be no doubt about this. Thus the Avatamsaka Sutra states: “All the various Buddha lands ar equally purely adorned. Because the karmic practices of sentient beings differ, their perceptions of these lands are different.”

Hai Mặt: Double-faced—Two-faced.

Hai Món Ăn Tinh Thần: See Nhị Thực.

Hai Mươi Bốn Pháp Bất Tương Ưng Trong Duy Thức Học: The twenty-four Non-interactive Activity Dharmas:

1)      Ðắc: Prapti (skt)—Attainment.

2)      Mạng căn: Jivitendriya (skt)—Life faculty.

3)      Chúng đồng phận: Nikaya-Sabhaga (skt)—Generic Similarity.

4)      Dị sanh tánh: Visabhaga (skt)—Dissimilarity.

5)      Vô tưởng định: Asamjnisamapatti  (skt)—No-thought samadhi.

6)      Diệt tận định: Nirodha-samapatti (skt)—Samadhi of extinction.

7)      Vô tưởng báo: Asamjnika (skt)—Reward of  No-Thought.

8)      Danh thân: Namakaya (skt)—Bodies of nouns.

9)      Cú thân: Padakaya (skt)—Bodies of sentences.

10)  Văn thân: Vyanjanakaya (skt)—Bodies of phonemes.

11)  Sanh: Jati (skt)—Birth.

12)  Trụ: Sthiti (skt)—Dwelling.

13)  Lão: Jara (skt)—Aging.

14)  Vô thường: Anityata (skt)—Impermanence.

15)  Lưu chuyển: Pravritti (skt)—Revolution.

16)  Ðịnh dị: Pratiniyama (skt)—Distinction.

17)  Tương ưng: Yoga (skt)—Interaction.

18)  Thế tốc: Java (skt)—Speed.

19)  Thứ đệ: Anukrama (skt)—Sequence.

20)  Thời: Kala (skt)—Time.

21)  Phương: Desha (skt)—Direction.

22)  Số: samkhya (skt)—Numeration.

23)  Hòa hiệp tánh: Samagri (skt)—Combination.

24)  Bất hòa hiệp tánh: Anyathatva (skt)—Discontinuity. 

Hai Mươi Bốn Phiền Não Phụ: Theo Tam Thập Tụng của Ngài Thế Thân, có hai mươi bốn tùy phiền não—According to Vasubandhu’s Trimsika, there are twenty-four secondary afflictions.

1)      Phẫn: Krodha (skt)—Bất nhẫn hay sự nóng giận—Impatience or anger.

2)      Sân: Upanada (skt)—Sự sân hận—Hatred or resentment.

3)      Phú: Mraksha (skt)—Sự che dấu—Hypocrisy or concealment.

4)      Não: Pradasa (skt)—Lời nói gây ra phiền não cho người—Stinging talk or worry.

5)      Tật: Irshya (skt)—Sự đố kỵ hay ganh ghét—Envy or jealousy.

6)      Xan: Matsarya (skt)—Sự keo kiết bỏn xẻn—Stinginess.

7)      Cuống: Maya (skt)—Lời nói lừa dối—Deceit or manipulation.

8)      Siểm: Sathya (skt)—Sự nịnh nọt—Duplicity or undully flattering.

9)      Kiêu Mạn: Mada and Mana (skt)—Sự kiêu mạn—Arrogance or conceitedness.

10)  Hại: Vihimsa (skt)—Gây tổn hại cho người khác—Hurting others or destructive.

11)  Vô Tâm: Ahri (skt)—Sự không hổ thẹn—Shamelessness, self-shameless, or have no shame of self.

12)  Vô Quý: Atrapa (skt)—Sự khinh suất—Recklessness, or have no shame around other people.

13)  Hôn Trầm: Styanam (skt)—Sự trì trệ—Torpidity or drowsiness.

14)  Trạo Cử: Uddhava (skt)—Sự chao đảo—Fluctuations, or instability of mind and body.

15)  Bất Tín: Asraddha (skt)—Sự không tin—Unbelief or faithlessness.

16)  Giải Ðãi: Kausidya (skt)—Sự biếng nhác—Indolence or laziness.

17)  Phóng Dật: Pramada (skt)—Sự buông lung—Thoughtlessness, uninhibitedness, or lack of self-mastery.

18)  Thất Niệm: Mushitasmritita (skt)—Sự mất chánh niệm—Senselessness.

19)  Tán Loạn: Vikshepa (skt)—Trạng thái tán loạn không ổn định—Uncollected state or unsteadiness.

20)  Bất Chánh Kiến: Asamprajanya (skt)—Sự hiểu biết không đúng—Inaccuracy of knowledge, or do not understand in a proper manner.

21)  Ác Tác: Kaukritya (skt)—Sự làm ác—Evil doing.

22)  Thụy Miên: Middha (skt)—Sự buồn ngũ hay mê trầm—Drowsiness.

23)  Tầm: Vitarka (skt)—Sự truy tầm nghiên cứu—Investigation.

24)  Tứ: Vicara (skt)—Sự suy nghĩ hay dò xét—Reflection.

Hai Mươi Bốn Tâm Ðẹp Cõi Dục Giới: Theo A Tỳ Ðạt Ma Luận (Vi Diệu Pháp), có hai mươi bốn tâm  đẹp—According to the Abhidharma, there are twenty-four Sense-Sphere Beautiful Consciousnesses:

(A)  Tám Loại Tâm Thiện—Eight Sense-Sphere Consciousness:

1)      Tâm không bị xúi dục, đồng phát sanh cùng thọ hỷ, liên hợp với tri kiến: Consciousness that accompanied by joy, associated with knowledge, unprompted.

2)      Tâm bị xúi dục, đồng phát sanh cùng thọ hỷ, liên hợp với tri kiến: Consciousness that accompanied by joy, associated with knowledge, prompted.

3)      Tâm không bị xúi dục, đồng phát sanh cùng thọ hỷ, không liên hợp với tri kiến: Consciousness that accompanied by joy, dissociated from knowledge, unprompted.

4)      Tâm bị xúi dục, đồng phát sanh cùng thọ hỷ, không liên hợp với tri kiến: Consciousness that accompanied by joy, dissociated from knowledge, prompted.

5)      Tâm không bị xúi dục, đồng phát sanh cùng thọ xả, liên hợp với tri kiến: Consciousness that accompanied by equanimity, associated with knowledge, unprompted.

6)      Tâm bị xúi dục, đồng phát sanh cùng thọ xả, liên hợp với tri kiến: Consciousness that accompanied by equanimity, associated with knowledge, prompted.

7)      Tâm không bị xúi dục, đồng phát sanh cùng thọ xả, không liên hợp với tri kiến: Consciousness that accompanied by equanimity, dissociated from knowledge, unprompted.

8)      Tâm bị xúi dục, đồng phát sanh cùng thọ xả, không liên hợp với tri kiến: Consciousness that accompanied by equanimity, dissociated from knowledge, prompted.

(B)  Tám loại Tâm Quả Dục Giới—Eight kinds of Sense-Sphere Resultant Consciousness:

9)      Tâm không bị xúi dục, đồng phát sanh cùng thọ hỷ, liên hợp với tri kiến: Consciousness that accompanied by joy, associated with knowledge, unprompted.

10)  Tâm bị xúi dục, đồng phát sanh cùng thọ hỷ, liên hợp với tri kiến: Consciousness that accompanied by joy, associated with knowledge, prompted.

11)  Tâm không bị xúi dục, đồng phát sanh cùng thọ hỷ, không liên hợp với tri kiến: Consciousness that accompanied by joy, dissociated from knowledge, unprompted.

12)  Tâm bị xúi dục, đồng phát sanh cùng thọ hỷ, không liên hợp với tri kiến: Consciousness that accompanied by joy, dissociated from knowledge, prompted.

13)  Tâm không bị xúi dục, đồng phát sanh cùng thọ xả, liên hợp với tri kiến: Consciousness that accompanied by equanimity, associated with knowledge, unprompted.

14)  Tâm bị xúi dục, đồng phát sanh cùng thọ xả, liên hợp với tri kiến: Consciousness that accompanied by equanimity, associated with knowledge, prompted.

15)  Tâm không bị xúi dục, đồng phát sanh cùng thọ xả, không liên hợp với tri kiến: Consciousness that accompanied by equanimity, dissociated from knowledge, unprompted.

16)  Tâm bị xúi dục, đồng phát sanh cùng thọ xả, không liên hợp với tri kiến: Consciousness that acompanied by equanimity, dissociated from knowledge, prompted.

(C)  Tám Loại Tâm Hành—Eight kinds of Sense-Sphere Functional Consciousness:

17)  Tâm không bị xúi dục, đồng phát sanh cùng thọ hỷ, liên hợp với tri kiến: Consciousness that accompanied by joy, associated with knowledge, unprompted.

18)  Tâm bị xúi dục, đồng phát sanh cùng thọ hỷ, liên hợp với tri kiến: Consciousness that accompanied by joy, associated with knowledge, prompted.

19)  Tâm không bị xúi dục, đồng phát sanh cùng thọ hỷ, không liên hợp với tri kiến: Consciousness that accompanied by joy, dissociated from knowledge, unprompted.

20)  Tâm bị xúi dục, đồng phát sanh cùng thọ hỷ, không liên hợp với tri kiến: Consciousness that accompanied by joy, dissociated from knowledge, prompted.

21)  Tâm không bị xúi dục, đồng phát sanh cùng thọ xả, liên hợp với tri kiến: Consciousness that accompanied by equanimity, associated with knowledge, unprompted.

22)  Tâm bị xúi dục, đồng phát sanh cùng thọ xả, liên hợp với tri kiến: Consciousness that accompanied by equanimity, associated with knowledge, prompted.

23)  Tâm không bị xúi dục, đồng phát sanh cùng thọ xả, không liên hợp với tri kiến: Consciousness that accompanied by equanimity, dissociated from knowledge, unprompted.

24)  Tâm bị xúi dục, đồng phát sanh cùng thọ xả, không liên hợp với tri kiến: Consciousness that accompanied by equanimity, dissociated from knowledge, prompted.

Hai Mươi Cha Mẹ Và Quyến Thuộc Của Một Vị Bồ Tát: Theo Thiền Sư D.T. Suzuki trong Thiền Luận Tập III, chư Bồ Tát có hai mươi cha mẹ và quyến thuộc—According to Zen Master D.T. Suzuki in Essays in Zen Buddhism, Book III, Bodhisattvas have twenty parents and relatives:

1)      Bát Nhã là mẹ: Paramita (skt)—Prajna is his mother.

2)      Phương tiện là cha: Upaya (skt)—Skilful means is his father.

3)      Bố thí là người nuôi nấng: Dana (skt)—Charity is his wet nurse.

4)      Trì giới là người trông nom: Sila (skt)—Morality is his supporter.

5)      Nhẫn nhục là đồ trang sức: Ksanti (skt)—Patience is his decoration.

6)      Tinh tấn là người thủ hộ: Virya (skt)—Strenuousness or energy is his nurse.

7)      Thiền định là người tắm rữa: Dhyana (skt)—Meditation is his cleaner.

8)      Thiện hữu tri thức là người dạy dỗ: Good friends are his instructors.

9)      Các Bồ Ðề phần là bạn đồng hành: All factors of enlightenment are his companions.

10)  Các Bồ tát là anh em: All Bodhisattvas are his brothers.

11)  Bồ Ðề tâm là nhà cửa: Bodhicitta (skt)—The Bodhicitta is his home.

12)  Ði đúng theo chánh đạo là cách hành xử tại nhà: To conduct himself in accordance with the truth is his family manners.

13)  Các trụ địa là chỗ ở: Bhumi (skt)—The Bhumis are his residence.

14)  Các pháp nhẫn là gia tộc: The Kshantis are his family members.

15)  Các nguyện là gia giáo: The vows are his family motto.

16)  Thực hành công hạnh là gia nghiệp: To promote deeds of devotion is his family legacy.

17)  Khiến kẻ khác chấp nhận Ðại Thừa là gia vụ: To make others accept Mahayana is his family business.

18)  Ðược thọ ký trong một đời nữa là số phận của ngài như vị thái tử nối nghiệp trong vương quốc chánh pháp: To be anointed after being bound for one more birth is his destiny as crown prince in the kingdom of Dharma. 

19)  Các Ba La Mật là con thuyền Bát Nhã đưa ngài đáo bỉ ngạn Giác Ngộ: Paramitas are the Prajna Boat which conveys him to another shore of Enlightenment.

20)  Thành tựu trí tuệ viên mãn của Như Lai là nền tảng của gia quyến thanh tịnh của ngài:  To arrive at the full knowledge of Tathagatahood forms the foundation of his pure family relationship.

Hai Mươi Ðiều Khó: Trong Kinh Tứ Thập Nhị Chương, Ðức Phật dạy: “Có hai mươi đều khó mà chúng sanh thường gặp phải”—In the Sutra of Forty-Two Sections, the Buddha taught: “There are twenty difficulties people always encounter”:

1)      Nghèo mà phát tâm bố thí là khó: Nghèo khổ mà muốn thực hành bố thí quả là khó, bởi nghèo khổ dù muốn bố thí, nhưng ngặt vì có lòng mà thiếu sức, nếu gắng gượng bố thí tất cả ảnh hưởng đến sự sống của của mình nên phải hy sinh lớn lao—It is difficult to give when one is poor (it is hard for a poor man to be generous). It is difficult to practice charity when we are poor and destitute because under such conditions, even if we have the will, we lack the means. To force ourselves to practice charity must entail sacrifices.

2)      Giàu sang và có quyền thế mà phát tâm tu hành là khó: Giàu sang mà chịu học đạo tu hành là khó, bởi giàu sang tuy có sức bố thí, song lại bị cảnh dục lạc lôi cuốn, khó buông bỏ thân tâm để tu hành—It is difficult to study the Way when one has power and wealth (it is hard for a rich and powerful man to learn the way). It is difficult to study the Dharma when we are wealthy and eminent, because under such favorable circumstances, we may have the means, but we are pulled away by opportunities for enjoyment and self-gratification.

3)      Từ bỏ thế tục để đương đầu với tử thần là điều khó (xả thân cầu đạo là khó): It is difficult to abandon life and face the certainty of death (it is hard to seek Enlightenment at the cost of self-sacrifice).

4)      Gặp được kinh Phật là điều khó: It is difficult to encounter the Buddha sutras (it is hard to hear the teaching of Buddha).

5)      Ðược sanh ra vào thời có Phật là điều khó: Sanh gặp đời Phật là khó, như Ðại Trí Ðộ Luận nói: “Ở nước Xá Vệ gồm chín trăm ngàn dân mà chỉ có một phần ba trong số người nầy được gặp thấy Phật, một phần ba số người tuy nghe danh tin tưởng nhưng không thấy gặp, và một phần ba số người hoàn toàn không được nghe biết cũng không được thấy. Ðức Phật ở tại xứ nầy giáo hóa trước sau hai mươi lăm năm, mà còn ba ức người không thấy gặp nghe biết, thì những kẻ sanh nhằm đời Phật nhưng ở cách xa, hoặc sanh trước hay sau khi Phật ra đời, tất cả cơ duyên gặp Phật hoặc nghe Phật Pháp là điều không phải dễ. Tuy không gặp Phật mà y theo Phật pháp tu hành, thì cũng như gặp Phật. Nếu không theo lời Phật dạy, dù ở gần Phật, vẫn là xa cách. Khi xưa Ðề Bà Ðạt Ða là em họ của Ðức Phật cũng như Tỳ Kheo Thiện Tinh làm thị giả cho Phật hai mươi năm, vì không giữ đúng theo đường đạo, nên kết cuộc bị đọa vào địa ngục. Bà lão ở phía đông thành Xá Vệ, sanh cùng ngày cùng giờ với Phật, nhưng vô duyên nên không muốn thấy Phật. Thế cho nên thấy được Phật, nghe được pháp, y theo lời dạy phụng hành, phải là người có nhiều căn lành phước đức nhân duyên—It is difficult to be born at the time of a Buddha (while the Buddha is in the world). The difficulty of being born during the lifetime of a Buddha is mentioned in the Perfection of Wisdom Treatise as follows: “In the town of Sravasti, north of India, out of a total population of nine hundred thousand, only one-third had actually seen and met Sakyamuni Buddha, another one-third had heard His Name and believed in Him but had not actually seen or met Him, while the remaining one-third had not seen, heard or even learned of His existence. Sakyamuni Buddha taught in Sravasti for some twenty-five years, yet a full one-third of the town’s population were completely unaware of His existence. Is it any wonder, then, that those who were born during Sakyamuni Buddha’s time but did not reside in Sravasti, or those who happened to be born before or after His time, would find it difficult to learn of Him or hear the Dharma. However, even though we may not be able to meet Sakyamuni Buddha, cultivating according to the Dharma is tantamount to meeting Him. On the other hand, if we do not follow His teaching, even while near Him, we are still far away. Thus, Devadatta, Sakyamuni Buddha’s very own cousin, as well as Bhikshu Sunaksatra who attended the Buddha personally for twenty years, both descended into the hells because they strayed from the Path. There is also the case of an old woman in the eastern quarterof Sravasti who was born at exactly the same moment as Sakyamuni Buddha, yet, because she lacked causes and conditions, wished neither to see nor to meet Him. Thus, not everyone can see the Buddhas and listen to the Dharma. Extensive good roots, merits, virtues and favorable conditions are required.

6)      Chống lại được với tham dục là điều khó: It is difficult to resist lust and desire .

7)      Thấy được việc mà không phải bỏ công tìm cầu là điều khó: It is difficult to see good things and not seek them.

8)      Bị sỉ nhục mà không sanh tâm tức giận là điều khó: It is difficult to be insulted and not become angry (It is hard not to get angry when one is insulte).

9)      Có quyền thế mà không lạm dụng là điều khó: It is difficult to have power and not abuse it.

10)  Tiếp xúc với sự việc mà không bị vướng mắc là điều khó: It is difficult to come in contact with things and have no attachment to them or no thoughts of them (It is hard not to be disturbed by external conditions and circumstances).

11)  Quảng học Phật pháp là điều khó: It is difficult to be greatly learned in the Dharma (It is hard to apply onself to study widely and thoroughly).

12)  Bỏ được tự mãn và cống cao ngã mạn là điều khó: It is difficult to get rid of self-satisfaction and pride (It is hard to keep onself humble).

13)  Không khinh thường người sơ cơ (chưa học Phật pháp) là điều khó: It is difficult not to slight those who have not yet studied the Dharma.

14)  Tu tập cho tâm được thanh tịnh là điều khó: It is difficult to practice equanimity of mind (It is hard to keep the mind pure against instincts of the body).

15)  Không nhàn đàm hý luận là chuyện khó: It is difficult not to gossip.

16)  Gặp được thiện hữu tri thức là điều khó: Nay Ðức Phật đã nhập diệt, các bậc thiện tri thức thay thế Ngài ra hoằng dương đạo pháp, nếu thân cận nghe lời khuyên dạy tu hành của quý ngài, tất cũng được giải thoát. Nhưng kẻ căn lành sơ bạc, gặp thiện tri thức cũng khó. Dù có duyên được thấy mặt nghe pháp, song nếu không hiểu nghĩa lý, hoặc chấp hình thức bên ngoài mà chẳng chịu tin theo, thì cũng vô ích. Theo Kinh Phạm Võng và Hoa Nghiêm, muốn tìm cầu thiện tri thức, đừng câu nệ theo hình thức bên ngoài; như chớ chấp người đó trẻ tuổi, nghèo nàn, địa vị thấp, hoặc dòng dõi hạ tiện, tướng mạo xấu xa, các căn chẳng đủ, mà chỉ cầu người thông hiểu Phật pháp, có thể làm lợi ích cho mình. Lại đối với bậc thiện tri thức chớ nên tìm cầu sự lầm lỗi, bởi vị đó có khi mật hạnh tu hành, vì phương tiện hóa độ, hoặc đạo lực tuy cao song tập khí còn chưa dứt, nên mới có hành động như vậy—It is difficult to meet good knowing advisor (It is hard to find good friends). Although Sakyamuni Buddha has now entered Nirvana, good spiritual advisors are taking turns preaching the Way in His stead. If we draw near to them and practice according to their teachings, we can still achieve liberation. Nevertheless, those who possess only scant and shallow roots must find it difficult to meet good spiritual advisors. Even when they do so and hear the Dharma, if they do not understand its meaning, or merely grasp at appearances and forms, refusing to follow it, no benefit can possibly result. According to the Brahma Net and Avatamsaka Sutras, we should ignore appearances and external forms when seeking a good spiritual advisors. For example, we should disregard such traits as youth, poverty, low status or lack of education, unattractive appearance or incomplete features, but should simply seek someone conversant with the Dharma, who can be of benefit to us. Nor should we find fault with good spiritual advisors for acting in certain ways, as it may be due to a number of reasons, such as pursuing a secret cultivation practice or following an expedient teaching. Or else, they may act the way they do because while their achievements may be high, their residual bad habits have not been extinguished. If we grasp at forms and look for faults, we will forfeit benefits on the path of cultivation.

17)  Thấy được tự tánh mà tu tập là điều khó: It is difficult to see one’s own Nature and study the Way.

18)  Cứu độ chúng sanh theo đúng hoàn cảnh của họ là điều khó: It is difficult to save sentient beings with means appropriate to their situations.

19)  Thấy sự việc mà không bị cảm xúc là điều khó: It is difficult to see a state and not be moved by it (It is hard not to argue about right and wrong).

20)  Hiểu và thực hành đúng theo chánh pháp là điều khó: It is difficult to have a good understanding of skill-in-means and apply to it well (It is hard to find and learn a good method).  

Hai Mươi Quyến Thuộc Của Chư Bồ Tát: Theo Thiền Sư D.T. Suzuki trong Thiền Luận Tập III, chư Bồ Tát có hai mươi cha mẹ và quyến thuộc—According to Zen Master D.T. Suzuki in Essays in Zen Buddhism, Bodhisattvas have twenty parents and relatives—See Hai Mươi Cha Mẹ Và Quyến Thuộc Của Chư Bồ Tát.

Hai Mươi Sáu Ðặc Tính Của Chư Bồ Tát Trong Chúng Hội Hoa Nghiêm: Twenty-six characteristics of Bodhisattvas in the Gandavyuha Assembly.

            Họ biết rằng chư pháp như huyễn: They know that all dharmas are like Maya. 

            Họ biết chư Phật như ảnh: They know that all Buddhas are like shadows. 

            Họ biết hết thảy loài thọ sinh như mộng: They know that all existence with its rise and fall is like a dream.

            Họ biết hết thảy nghiệp báo như bóng trong gương: They know that all forms of karma are like images in a mirror.

            Họ biết hết thảy các pháp khởi lên như quáng nắng: They know that the rising of all things is like fata-morgana.

            Họ biết hết thảy thế gian đều như hóa: They know that the worlds are mere transformations.

            Họ đã thành tựu mười năng lực: They are all endowed with the ten powers.

            Họ đã thành tựu trí huệ: They are all endowed with knowledge.

            Họ đã thành tựu tối thắng: They are all endowed with dignity.

            Họ đã thành tựu quyết tín của Như Lai, khiến họ có thể cất tiếng rống của sư tử: They are all endowed with faith of the Tathagata, which enable them to roar like lions.

            Họ đã vào sâu trong biển cả của biện tài vô tận: They have deeply delved into the ocean of inexhaustible eloquence.

            Họ đã chứng đắc tri kiến giảng thuyết chánh pháp cho hết thảy chúng sanh: They all have acquired the knowledge of how to explain the truths for all beings.

            Họ đã hoàn toàn tự tại đối với hành vi của mình nên có thể du hành khắp thế giới không trở ngại như đi giữa hư không: They are complete masters of their conduct so that they move about in the world as freely as in space.

            Họ đã chứng đắc các năng lực kỳ diệu của một vị Bồ Tát: They are in possession of all the miraculous powers belonging to a Bodhisattva.

            Sự dũng mãnh và tinh tấn của họ có thể phá vỡ đội quân Ma vương: Their strength and energy will crush the army of Mara.

            Trí lực của họ quán triệt từ quá khứ, hiện tại đến vị lai: Their knowledge power penetrates into the past, present, and future.

            Họ biết rằng tất cả các pháp đều như hư không, họ thực hành hạnh không chống đối, không chấp trước các pháp: They know that all things are like space, they practice non-resistance, and are not attached to them. 

            Dù họ siêng năng không mệt mỏi vì lợi ích của mọi người, nhưng biết rằng khi dùng nhất thiết trí để quán sát, các pháp vốn không từ đâu đến: Though they work indefatigably for others, thay know that when things are observed from the point of view of all-knowledge, nobody knows whence they come.

            Dù họ nhận thấy có một thế giới khách quan, họ biết rằng hiện hữu của thế giới vốn là bất khả đắc: Though they recognize an objective world, they know that its existence is something unobtainable.

            Bằng trí tuệ tối thắng, họ tự hiện thân vô cùng tự tại: They enter into all the worlds by means of incorruptible knowledge.

            Họ thác sanh vào tất cả các thế giới, hóa hiện đủ loại hình tướng: They are born in all the worlds, take all forms.

            Trong tất cả thế giới, họ tự hiện thân vô cùng tự tại: In all the worlds they reveal themselves with the utmost freedom.

            Họ biến đổi cảnh vi tế thành cảnh quảng đại, biến đổi cảnh rộng lớn thành cảnh vi tế: They transform a small area into an extended tract of land, and the latter again into a small area.

            Ngay trong một niệm diện kiến hết thảy chư Phật: All the Buddhas are revealed in one single moment of their thought.

            Họ được thần lực của chư Phật gia hộ: The powers of all the Buddhas are added on to them.

            Trong chớp mắt họ thấy hết cả vũ trụ mà không chút lẫn lộn, và ngay trong một sát na;  và họ có thể du hành khắp tất cả mọi thế giới: They survey the entire universe in one glance and are not all confused; and they are able to visit all the worlds in one moment.

Hai Mươi Sự Khác Biệt Giữa Thanh Văn Và Bồ Tát: Theo Thiền Luận của Thiền Sư D.T. Suzuki, tập III, có hai mươi sự khác biệt giữa Thanh Văn và Bồ Tát—According to The Essays in Zen Buddhism, book III, there are twenty differences between Sravakas and Bodhisattvas:

            Vì phước giữa Thanh Văn và Bồ Tát không đồng: Because the stock of merit is not the same.

            Vì Thanh Văn đã không thấy, đã không tự mình tu tập các công đức của Phật: Because the Sravakas have not seen, and disciplined themselves in the virtues of the Buddha.

            Vì Thanh Văn không chứng thực quan niệm rằng vũ trụ dẫy đầy các quốc độ của Phật trong mười phương thế giới, mỗi quốc độ đều có một hoạt cảnh vi diệu của hết thảy chư Phật: Because Sravakas have not approved the notion that the universe is filled with Buddha-lands in all the ten directions where there is a fine aray of all Buddhas.

            Vì Thanh Văn không ca ngợi những thị hiện kỳ diệu được diễn xuất bởi chư Phật: Because Sravakas have not given praise to the various wonderful manifestattions put forward by the Buddhas.

            Vì Thanh Văn không khởi tâm mong cầu Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác có thể chứng đắc ngay giữa luân hồi: Because Sravakas have not awakened the desire after Supreme Enlightenment attainable in the midst of transmigration.

            Vì Thanh Văn không khuyến dẫn kẻ khác ôm ấp lòng mong cầu Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác: Because Sravakas have not induced others to cherish the desire after Supreme Enlightenement.

            Vì Thanh Văn không thể kế tục gia nghiệp Như Lai: Because Sravakas have not been able to continue the Tathagata-family.

            Vì Thanh Văn không bảo hộ hết thảy chúng sanh: Because Sravakas have not taken all beings under their protection.

            Vì Thanh Văn không khuyên kẻ khác thực thi các Ba La Mật của Bồ Tát: Because Sravakas have not advised others to practice the Paramitas of the Bodhisattva.

            Vì khi còn lăn lộn trong vòng sống chết Thanh Văn đã không khuyến dụ kẻ khác tìm cầu con mắt trí tuệ tối thắng: Because while yet in the transmigration of birth and death, Sravakas have not pesuaded others to seek for the most exalted wisdom-eye.

            Vì Thanh Văn đã không tu tập tất cả phước nghiệp để làm nảy sinh nhất thiết trí: Because Sravakas have not disciplined themselves in all the stock of merit from which issues all-knowledge.

            Vì Thanh Văn không hoàn thành tất cả phước nghiệp để thành tựu Phật Quả: Because Sravakas have not perfected all the stock of  merit which makes the appearance of the Buddha possible. 

            Vì Thanh Văn không làm tăng trưởng quốc độ của Phật bằng cách tìm cầu trí tuệ biến hóa: Because Sravakas have not added the enhencement of the Buddha-land by seeking for the knowledge of transformation.

            Vì Thanh Văn không thâm nhập cảnh giới được quán sát với con mắt Phật: Because Sravakas have not entered into the realm which is surveyed by the Bodhisattva-eye.

            Vì Thanh Văn đã không tìm cầu phước nghiệp để làm nảy sinh sở kiến vô tỷ vượt ngoài thế giới nầy: Because Sravakas have not sought the stock of merit which produces an incomparable insight going beyond this world.

            Vì Thanh Văn không phát nguyện thiết lập Bồ Tát Ðạo: Because Sravakashave not made any of the vows constituting Bodhisattvahood.

            Vì Thanh Văn không tùy thuận với tất cả những gì phát xuất từ năng lực gia trì của Phật: Because Sravakas have not conformed themselves to all that is the product of the Tathagata’s sustaining power. 

            Vì Thanh Văn không nhận biết rằng tất cả các pháp là như huyễn và Bồ Tát như mộng: Because Sravakas have not realized that all things are like Maya and the Bodhisattvas are like a dream.

            Vì Thanh Văn không đạt được những hoan hỷ phấn khởi của Bồ Tát: Beause Sravakas have not attained the most exhilarating excitements (prativega-vivardhana) of the Bodhisattva.

            Vì Thanh Văn không chứng được tất cả trạng thái tâm linh kể trên, trong con mắt trí tuệ của Phổ Hiền mà hàng Thanh Văn Duyên Giác coi như xa lạ: Because Sravakas have not realized all these spiritual states belonging to the wisdom-eye of Samantabhadra to which Sravakas and Pratyekabuddhas are strangers.  

Hai Mươi Tám Ðiều Lợi Trong Việc Cúng Dường Hình Tượng Ngài Ðịa Tạng: Theo Kinh Ðịa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện, Ðức Phật bảo ngài Hư Không Tạng Bồ Tát: “Lắng nghe! Lắng nghe cho kỹ! Ta sẽ vì ông mà nói rõ việc ấy cho. Trong đời sau, người thiện nam cùng thiện nữ nào thấy hình tượng của ngài Ðịa Tạng Bồ Tát  và nghe kinh nầy, cho đến đọc tụng, dùng hương hoa, đồ ăn món uống, y phục, vật báu mà bố thí cúng dường ngợi khen chiêm lễ thời kẻ ấy được hai mươi tám điều lợi ích như sau đây—According to the Earth Store Bodhisattva’s Original Vows Sutra, the Buddha told Empty Space Treasure Bodhisattva: “Listen attentively! Listen attentively! I shall enumerate them and describe them to you. If there are good men or women in the future who see Earth Store Bodhisattva’s image, or who hear this sutra or read or recite it; who use incense, flowers, food and drink, clothing, or gems as offerings; or if they praise , gaze upon, and worship him, they will benefit in twenty-eight ways:

            Các hàng trời rồng thường hộ niệm—Gods and dragons will be mindful of them and protect them.

            Quả lành càng ngày càng thêm lớn—The fruits of their goodness will increase daily.

            Chứa nhóm nhân vô thượng của các bậc Thánh—They will accumulate superior causes of Sagehood.

            Mãi không còn thối thất đạo Bồ Ðề—They will not retreat from Bodhi.

            Ðồ mặc món ăn dồi dào đầy đủ—Their food and drink will be abundant.

            Những bệnh tật không đến được nơi thân—Epidemics will not touch them.

            Khỏi những tai nạn về lửa và nước—They will not encounter disasters of fire and water.

            Không bị hại bởi nạn trộm cướp—They will not have any difficulties with thieves or armed robbers.

            Người khác thấy đến liền sanh lòng cung kính—They will be respected by all who see them.

            Các hàng quỷ thần theo hộ trì—They will be aided by ghosts and spirits.

            Ðời sau thân nữ sẽ chuyển thành thân nam—Women will be reborn as men.

            Ðời sau sẽ làm con gái hàng Vương Giả, Ðại Thần—If born as women, they will be daughters of kings and ministers.

            Thân tướng xinh đẹp—They will have handsome features.

            Phần nhiều được sanh về cõi trời—They will often be born in the heavens.

            Hoặc làm bậc vua chúa—They may be emperors or kings.

            Có trí sáng biết rõ việc trong những đời trước—They will know their past lives.

            Có mong cầu chi cũng đều được toại ý—They will attain whatever they seek.

            Quyến thuộc an vui—Their families will be happy.

            Các tai vạ bất ngờ đều dứt sạch—All disasters will be eradicated.

            Các nghiệp về ác đạo đều trừ hẳn—They will eternally be apart from bad karmic paths.

            Ði đến đâu cũng đều không bị sự trở ngại—They will always arrive at their destination.

            Ðêm nằm chiêm bao an ổn vui vẻ—At night their dreams will be peaceful and happy.

            Những người thân tộc đã chết có tội thời được khỏi khổ—Their deceased ancestors will leave suffering behind.

            Nếu về đời trước có phước thời được thọ sanh về cõi vui sướng—And they will receive the blessings from their past lives to aid their rebirth.

            Các bậc Thánh ngợi khen—They will be praised by the sages.

            Căn tánh lanh lợi thông minh—They will be intelligent and they will have sharp faculties.

            Giàu lòng từ mẫn—They will have magnanimous, kind and sympathetic (compassionate) hearts.

            Rốt ráo thành Phật—They will ultimately realize Buddhahood.

Hai Mươi Tám Tầng Trời: twenty-eight divine realms.

Hai Mươi Tám Tổ Ấn Ðộ: Theo trường phái Thiền, thì nhà Thiền không truyền bằng giáo pháp mà bằng Tâm truyền Tâm. Có 28 vị Tổ tại  Ấn Ðộ—According to the Zen sect, men who inherited and passed on teaching of Sakyamuni which was not expounded in words but transmitted from mind to mind. There are twenty eight Indian Patriarchs:

3)      Ma Ha Ca Diếp: Mahakashyapa—Ông sanh ra trong một gia đình Bà-la-môn, ngoại ô của thành Vương Xá, một trong mười đại đệ tử của Phật, người ta nói ông là một trong những đệ tử vượt trội các đệ tử khác về mặt buông xả và hạnh đầu đà. Sau khi Phật nhập diệt, Ðại Ca Diếp đã nối tiếp Phật hướng dẫn Tăng đoàn. Ông cũng là người chủ tọa hội đồng kiết tập kinh điển đầu tiên—He was born into a Brahmin family, on the outskirts of Rajagrha, one of the Buddha’s great disciples. He was said to be foremost among the ten great disciples in non-attachment, and foremost at the practice of austerity. After the Buddha’s death, Mahakasyapa succeeded the Buddha as a leader of Buddhist Order. He also presided the First Council at Rajagrha.     

4)      A Nan: Ananda—Ông là anh em cùng cha khác mẹ với Phật, là một trong mười đại đệ tử của Phật. Ông còn là thị giả của Phật. Ông có một trí nhớ tuyệt hảo đến độ trong lần đầu kết tập kinh đển, ông đã nhớ lại và trùng tụng tam tạng kinh điển—He was the Buddha’s half brother, one the the Buddha’s ten great disciples. He served as the Buddha’s attendant. He had excellent memory that he was able to remember and reciting the Buddha’s discourses (Tripirtaka) at the first Council.

5)      Thương Na Hòa Tu: S(h)anavasa or Shanakavasa.

6)      Ưu Ba Cúc Ða: Upagupta—Người sanh ra trong giai cấp Thủ Ðà La (giai cấp hạ tiện nhất trong xã hội Ấn Ðộ), gia nhập Tăng đoàn lúc 17 tuổi. Ngài nổi tiếng như một vị Phật, dưới triều vua A Dục, và là thầy của vua A Dục, ngài đã trở thành vị tổ thứ tư của Ấn Ðộ, 100 năm sau ngày Phật nhập Niết Bàn—A Sudra by birth, who entered upon monastic life when 17 years of age. He was renowned as almost a Buddha, lived under king Asoka, and teacher of Asoka, and is reputed as the fourth patriarch, 100 years after the nirvana. 

7)      Ðề Ða Ca: Dhitaka or Dhritaka (skt)—Theo Eitel trong Trung Anh Phật Học Từ Ðiển, Ðề Ða Ca, tổ thứ năm tại Ấn Ðộ, không được Phật Giáo Nam Truyền biết đến, sanh trưởng tại xứ Ma Kiệt Ðà, đệ tử của Ưu Ba Cúc Ða. Ông đến xứ Madhyadesa nơi đây ông làm lễ quy y thọ giới cho Micchaka và 8.000 đệ tử—According to Eitel in The Dictionary of Chinese-English Buddhist Terms, Dhrtaka,  the fifth patriarch “Unknown to Southern Buddhists, born in Magadha, a disciple of Upagupta, went to Madhyadesa where he converted the heretic Micchaka and his 8,000 followers.

8)      Di Già Ca: Mikkaka—Micchaka or Michchhaka—Theo Eitel trong Trung Anh Phật Học Từ Ðiển, Di Già Ca là một cư dân thuộc trung bộ Ấn Ðộ, hoằng hóa vùng Bắc Ấn, rồi đến Ferghana nơi mà ông đã chọn Bà Tu Mật làm tổ thứ bảy. Ông thị tịch bằng lửa tam muội của chính mình—According to Eitel in The Dictionary of Chinese-English Buddhist Terms, Mikkaka, a native of Central India, who laboured in Northern India transported himself to Ferghana where he chose Vasumitra as his successor. He died by the fire of samadhi of his own.

9)      Bà Tu Mật: Vasumitra—Một cư dân vùng Bắc Ấn, sanh ra vào cuối thế kỷ thứ nhất sau Tây lịch. Ông là người đã tổ chức Ðại hội Kết tập Kinh điển lần thứ tư tại vương quốc Kaniska—A native of Northern Indian state of Gandhara, born at the end of the first century AD. He is said to  have organized the Fourth Council in the Kingdom of Kaniska.

10)  Phật Ðà Nan Ðề: Buddhanandi.

11)  Phật Ðà Mật Ða: Buddhamitra.

12)  Hiếp Tôn Giả: Bhikshu Pars(h)va or Parshwa—Là một cư dân vùng Trung Ấn. Ông là người chủ tọa Ðại hội kiết tập kinh điển lần thứ tư—A native of Central India. He is also said to have presided over the Fourth Council.  

13)  Phú Na Dạ Xa: Punyayas(h)as—Một cư dân của vương quốc cổ Kosala, dòng dõi nhà họ Cồ Ðàm, sanh ra tại Pataliputra, hoằng hóa vùng Varanasi. Ông chính là người đã quy y cho Mã Minh Bồ Tát—A native of the ancient Indian state of Kosala, descendant of Gautama family, born in Pataliputra, laboured in Varanasi and converted Asvaghosa.

14)  Mã Minh: Asvaghosha—Cư dân của thành Xá Vệ. Ông là tác giả của quyển Buddha carita (Tiểu Sử Ðức Phật)—A native of Sravasti. He was the author of the Buddha Carita, a biography of the Buddha. 

15)  Ca Tỳ Ma La: Bhikshu Kapimala—Là một cư dân của xứ Ma Kiệt Ðà, vùng trung Ấn. Thoạt đầu ông là thủ lãnh của trên 3000 ngoại đạo, nhưng sau khi gặp Ngài Mã Minh, ông đã chứng được chân lý, và sau nầy đem Phật pháp truyền bá khắp miền Tây Ấn—A native of central Indian state of Magadha. It is said that at first he led a group of three thousand non-Buddhists, but later he met Asvaghosha, realized the truth, and spread the Dharma through the West of India. 

16)  Long Thọ: Nagarjuna—Tên Việt Nam là Long Thọ hay Long Thắng. Long Thọ sống vào khoảng thế kỷ thứ nhì hay thứ ba trước Tây lịch. Ông sanh ra trong một gia đình Bà la môn ở miền Nam Ấn. Ông xuất gia và trở thành một Tỳ kheo của trường phái Tiểu Thừa, nhưng sau đó ông đã du hành đến Tuyết Sơn và tu học theo trường phái Ðại Thừa—Vietnamese name is Long Thọ or  Long Thắng. Nagarjuna lived in the second or third century AD. He was born into a Brahmin family in Southern India. When he became a monk he first studied Hinayana canon, but later he travelled to the Himalaya and learned the teachings of Mahayana.

17)  Ca Na Ðề Bà: Aryadeva or Kanadeva (skt)—Sở dĩ gọi là Kanadeva vì ông chỉ có một mắt. Kana theo Phạn ngữ là một mắt. Ông còn được gọi là Aryadeva. Ông sống tại miền Nam Ấn vào khoảng thế kỷ thứ ba trước Tây lịch. Người ta kể rằng ông bị một người ngoại đạo ám hại—He was called Kanadeva because he had only one eye. The Sanskrit “Kana” means one-eyed. He was also called Aryadeva. He lived in Southern India in the third century and is said to have been killed by a non-Buddhist.

18)  La Hầu La Da: Arya Rahulata—Vốn là một cư dân của thành Ca Tỳ La Vệ, mà bây giờ là Nepal—A native of Kapilavastu, in present day Nepal.

19)  Tăng Già Nan Ðề: Samghanandi—Vốn là cư dân của thành Vương Xá, kinh đô của vương quốc cổ Kosala—A native of the city of Sravasti, the capital of the ancient state of Kosala.

20)  Tăng Già Da Xá: Dà Da Xá Ða—Samgayashas  or Gayasata (skt).

21)  Cưu Ma La Ða: Kumarata.

22)  Xà Dạ Ða: Jayata (skt)—Vốn là cư dân vùng Bắc Ấn, thầy dạy của ngài Thế Thân Bồ Tát—A native of Northern India, teacher of Vasubandhu.

23)  Bà Tu Bàn Ðầu: Vasubandhu—Thế Thân Bồ Tát, sanh tại Purusapura (gần Peshawar bây giờ), kinh đô của Gandhara (bây giờ là một phần của A Phú Hản)—He was born in the fifth century in Purusapura (close to present-day Peshawar), the capital of Gandhara (now is part of Afghanistan).

**   For more information, please see Thiên 

       Thân in Vietnamese-English Section. 

24)  Ma Nô La: Manorhita or Manura—Con Vua xứ  Nadai, trở thành Tăng sĩ năm 30 tuổi—The son of the King of Nadai, became a monk at the age of 30.

**   For more information, please see Mạt Nô

       Hạt Lạt Tha.

25)  Hạc Lặc Na: Haklena or Haklenayasas or Padmaratna (skt)—Sanh ra trong một gia đình Bà-la-môn, trong xứ của vua Tokhara. Ông đã truyền bá đạo Phật vào vùng Trung Ấn—He was born into a Brahmin family in a place said to be of king Tokhara. He spreaded the Buddha’s Teachings in Central India.

26)  Sư Tử Tỳ Kheo: Aryasimha or Bhikshu Simha—Sanh ra trong một gia đình Bà-la-môn ở Trung Ấn. Ông là người đã truyền bá Phật giáo về phía Bắc Ấn Ðộ. Người ta kể rằng ông đã bị vua xứ Kashmira hành quyết—He was born into a Brahmin family in Central India. He spreaded the Buddha’s Teachings in the Northern India. It is said that he was executed by the king of Kashmira. 

27)  Bà Xá Tư Ða: Vasiasita or Baysyasita—Là một cư dân của vùng Tây Ấn, hoằng hóa vùng Trung Ấn. Người ta nói ông mất khoảng năm 325 sau Tây Lịch—A native of Western India, who laboured in Central India. The date of his death is given as 325 A.D.

28)  Bất Như Mật Ða: Punyamitra—Một cư dân của vùng Bắc Ấn—A native of Northern India.

29)  Bát Nhã Ða La: Prajnatara—Sanh ra trong một gia đình Bà La môn ở vùng Ðông Ấn—He was born into a Brahmin family in Eastern India.

30)  Bồ Ðề Ðạt Ma: Bodhidharma—Ông là con trai thứ ba của một vị vua miền Nam Ấn. Sau khi kế tục Tổ Bát Nhã Ða La, ông đã du hành bằng đường biển sang Tàu (502) và trở thành vị Tổ đầu tiên ở đây—He was the third son of a Southern Indian king. After having succeeded Master Prajnatara, he sailed to China ((502) and became the Buddhist Patriarch there—See Bồ Ðề Ðạt Ma.  

Hai Nghĩa: Double meaning.

Hai Pháp Cơ Bản Về Các Thiện Pháp: Theo Tương Ưng Bộ Kinh, Phẩm Ambapali, có hai pháp cơ bản về các thiện pháp—According to The Connected Discourses of the Buddha, Chapter Ambapali, there are two starting points of wholesome states:

            Giới Khéo Thanh Tịnh: Virtue that is well purified.

3)      Y cứ trên giới: Based upon virtue.

4)      An trú trên giới: Established upon virtue.

            Tri Kiến Chánh Trực: View that is straight. 

Hai Sắc Thái Của Ðời Sống Phật Tử: Two aspects of the Buddhist life—Theo Kinh Hoa Nghiêm, có hai sắc thái của đời sống Phật tử—According to the Avatamsaka Sutra, there are two aspects of the Buddhist life:

            Phát Bồ Ðề tâm hay làm trổi dậy khát vọng mong cầu giác ngộ tối thượng: Raising the desire for supreme enlightenment—Phát Bồ Ðề tâm trong Phạn ngữ là “Bodhicittapada,” nói cho đủ là “Anuttarayam-Samyaksambodhi-cittam-utpadam,” tức là phát khởi “Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác Tâm.” Trong Kinh Hoa Nghiêm, Ðức Phật dạy: “Trong thế gian nầy ít ai có thể nhận biết một cách sáng tỏ Phật Pháp Tăng là gì; ít ai thành tín bước theo Phật Pháp Tăng; ít ai có thể phát tâm vô thượng bồ đề; tu hành Bát Nhã lại càng ít nữa. Tinh tấn tu hành Bát Nhã cho đến địa vị Bất Thối Chuyển và an trụ trong Bồ Tát Ðịa lại càng ít hơn gấp bội.”—The Sanskrit phrase for ‘the desire for enlightenment’ is ‘bodhicittotpada,” which is the abbreviation of ‘Anuttarayam-samyaksambodhi-cittam-utpadam,’ that is, ‘to have a mind raised to supreme enlightenment.’ In the Avatamsaka Sutra, the Buddha taught: “There are only a few people in this world who can clearly perceive what the Buddha, Dharma, and Sangha are and faithfully follow them; fewer are those who can raise their minds to supreme enlightenment; fewer still are those who practice prajnaparamita; fewer and fewer still are those  who, most steadfastly practicing prajnaparamita and finally reaching the stage of no-turning back, abide in the state of Bodhisattvahood.     

            Thực hành đạo Bồ Tát, tức là hạnh của Bồ Tát Phổ Hiền. Thiện Tài Ðồng Tử (Sudhana) sau khi đã phát tâm dưới sự chỉ dẫn của Ngài Văn Thù, từ đó về sau cuộc hành hương của ông hoàn toàn nhắm vào việc hỏi thăm cách thức thực hành hạnh Bồ Ðề (bodhicarya). Cho nên ngài Văn Thù nói với đệ tử của mình, khi ngài chỉ thị Thiền Tài Ðồng Tử ra đi cho một cuộc lữ hành trường kỳ và gian khổ: “Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử! Sau khi đã phát tâm mong cầu giác ngộ tối thượng, bây giờ lại muốn tìm học hạnh của Bồ Tát. Thiện nam tử, ít thấy có ai phát tâm mong cầu giác ngộ tối thượng, mà những ai sau khi đã phát tâm mong cầu giác ngộ tối thượng lại còn tìm học hạnh của Bồ Tát, càng ít thấy hơn. Vì vậy, thiện nam tử, nếu muốn thành tựu Nhất Thiết Chủng Trí, hãy tinh tấn thân cận các bậc thiện hữu tri thức (kalyanmitra).” Theo Kinh Bát Nhã, sau khi phát tâm Bồ Ðề là thực hành Bát Nhã Ba La Mật. Trong khi theo Hoa Nghiêm thì sự thực hành đó được thắt chặt với công hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát và sinh hoạt của sự giác ngộ được đồng hóa với Phổ Hiền Hạnh:  Practicing the life of the Bodhisattva, that is, the Bodhisattva Samantabhadra. Sudhana, the young pilgrim had his first awakening of the desire (cittotpada) under the direction of Manjusri, and his later pilgrimage consisted wholly in inquiries into living the life of enlightenment (bodhicarya). So says Manjusri to his disciple when he sends Sudhana off on his long, arduous ‘Pilgrim’s Progress’: “Well done, well done, indeed, son of a good family! Having awakened the desire for supreme enlightenment, you now wish to seek for the life of the Bodhisattva. Oh! Son of a good family, it is a rare thing to see beings whose desire is raised to supreme enlightenment; but it is a still rarer thing to see beings who, having awakened the desire for supreme enlightenment, proceed to seek for the life of the Bodhisattva. Therefore, oh, son of a good family, if you wish to attain the knowledge which is possessed by the All-knowing one, be ever assiduous to get associated with good friends (kalyanamitra). In the Prajnaparamita Sutra, after the awakening of the desire for supreme enlightenment is the practice of Prajnaparamitas. In the Avatamsaka Sutra, this practice is deeply associated with the life of the Bodhisattva known as Samantabhadra, and the Bodhicarya, the life of enlightenment, is identified with the Bhadracarya, the life of Bhadra, that is Samantabhadra.      

Hai Trăm Năm Mươi Giới Tỳ Kheo: Two hundred fifty precepts—Rules or disciplines to be observed by fully ordained monks:

4)      Ba La Di Pháp: (4) Bốn giới sát, đạo, dâm, vọng: Parajika—Four unpardonable offences of killing, theft, sexual intercourse and lying.

5)      Tăng Tàn: (13) Mười ba giới cấm (lậu, thất, ma xúc, thô ngữ, thán thân, môi nhơn, vô chủ phòng, hữu chủ phòng, vô căn báng, giả căn báng, trợ phá tăng, ô gia tấn, cự tăng gián)—Samgha-Avashesha—Thirteen major prohibitions. Monks who violate these are divested of membership in the Order of a certain period.

6)      Nhị Bất Ðịnh (Bình xứ bất định và lộ xứ bất định): Aniyata—(2) The  indeterminate group—Prohibitions related to offences which are committed either in a place where one can be seen or in a place where one cannot be seen (being alone with a woman). The punishment for this type of sin varies according to the circumstances.

7)      Ni Tát Kỳ Bà Dật Ðề: (30) Ba mươi giới về y bát vật dụng—Xả đọa, ưng xả đối trị—Naihisargika-prayashchittika—Thirty standards, whose violation is said to cause one to fall into the evil paths.

8)      Ba Dật Ðề: Shuddha-prayashchittka—90 giới ứng đối trị phải phát lồ trước tứ chúng—Ninty standards, violation of which requires public confession.

9)      Tứ Ðề Xá Ni: Pratideshaniya—(4) Bốn giới khinh ưng phát lồ khi có người biết (phi thân nhi thủ thực, thực nhi chỉ thọ thực, học gia thọ thực, lan nhã thọ thực)—Four lesser standards, the breaking of which requires confession when one becomes aware of his error.

10)  Bá chúng học pháp: Shaiksha-dharma—100 giới nhỏ cần phải học cho biết—One hundred very minor standards, which are easily broken but which should be borne in mind for one’s self-development.

11)  Thất diệt tránh: Adhikarana-shamatha—(7) Bảy điều lệ dùng để giải hòa trong Giáo Hội—Seven rules for settling disputes within the Order.     

**   For more information, please see Cụ Túc

       Giới Tỳ Kheo.

Hái Quả: To pick the fruit.

Hài Ðàm: Humorous talk.

Hài Ðồng: Infant—Baby.

Hài Kịch: Comedy.

Hài Lòng: satisfied—Content.

Hải: Sagara (skt)—Biển—Sea—Ocean.

Hải Ấn: Còn gọi là Hải Ấn Ðịnh, tên của tam muội mà Phật đã sở đắc. Biển thiền định bao la của Phật mà tất cả các pháp đều hiện ra trong biển trí đó—The ocean symbol, indicating the vastness of the meditation of the Buddha, the vision of all things—See Hải Ấn Tam Ma Ðịa.

Hải Ấn Tam Ma Ðịa: Trạng thái tập trung ở mức độ cao, được nói đến trong Kinh Hoa Nghiêm, trạng thái tâm như đại dương, một khi tĩnh lặng và không gợn sóng sẽ phản chiếu mọi vật trong vũ trụ, quá khứ, hiện tại và vị lai—A  state of concentration of the highest level, mentioned in the Avatamsaka Sutra. The mind is likened to the ocean, which when calm and without a single wave, can reflect everything throughout the cosmos, past, present and future—See Hải Ấn.   

Hải Ấn Tam Muội: See Ðại Hải Ấn.

Hải Bình Bảo Tạng: Zen Master Hải Bình Bảo Tạng (1818-1862)—Thiền sư Hải Bình Bảo Tạng, một thiền sư nổi tiếng của Việt Nam vào tiền bán thế kỷ thứ 19, quê ở Phú Yên. Ngài xuất gia và thọ giới cụ túc với Thiền sư Tánh Thông Sơn Nhân tại chùa Bát Nhã trên núi Long Sơn, tỉnh Phú Yên. Khi Hòa Thượng Sơn Nhân thị tịch, ngài trở thành Pháp tử đời thứ 40 dòng Lâm Tế. Hầu hết cuộc đời ngài hoằng hóa tại miền Nam Trung Việt. Ngài thị tịch năm 1862—A Vietnamese famous monk from Phú Yên, South Vietnam. He left home and received complete precepts with Zen Master Tánh Thông Sơn Nhân at Bát Nhã Temple on Mount Long Sơn in Phú Yên province. When his master passed away, he became the Dharma heir of the fortieth generation of the Linn-Chih Zen Sect and spent most of his life to expand the Buddha Dharma in the southern parts of Central Vietnam. He passed away in 1862.   

Hải Châu: Châu ngọc của biển cả, thường nằm sâu trong lòng biển, khó mà lấy được—Ocean pearls, things hard to obtain.

Hải Chúng: Giáo hội của chư Tăng Ni được ví như Hải Chúng hay Hải hội, vì đây cũng là sự hội họp lớn của những người đồng lý tưởng giải thoát như chỉ một vị mặn của muối—Ocean assembly, i.e. a great assembly of monks, the whole body of monks.

Hải Ðạo: Sea route.

Hải Ðăng: Giáo pháp Phật xuyên qua thế giới khổ đau tăm tối như ngọn hải đăng chiếu toàn nhân loại—Beacon light (Lighthouse)—The Dharma of the Buddha goes through a world of suffering and darkness like a beacon light to guide and illuminate mankind.

Hải Ðức: Tám đức tánh (tánh chất) hay khả năng của biển—The eight virtues, or powers of the ocean.

25)  Bao la: Vastness.

26)  Hải triều đúng quy định: Tidal regularity.

27)  Không dung chứa xác chết (tất cả xác chết của chúng hữu tình đều bị tấp vào bờ): Throwing out of the dead.

28)  Chứa thất bảo: Containing the seven kinds of pearls.

29)  Thâu nhiếp đại hà mà không hề tăng hải triều: Absorption of all rivers without increase.

30)  Thâu nhiếp đại vũ mà không hề tăng hải triều: Absorption of all rain without increase.

31)  Chứa kình ngư: Holding the most mighty fish.

32)  Ðồng một vị mặn: Universal unvarying saltness.  

Hải Hà: Sea and river.

Hải Hội:

            Chỗ ngồi hội họp của Thánh chúng, những vị có đức độ sâu rộng lớn như biển cả: The assembly of the saints, who have great virtues.

            Nghĩa trang: A cemetery.

Hải Long Vương: Vua của loài rồng biển (theo Kinh Phật Thuyết Hải Long Vương, ngày ấy Ðức Phật đang ở núi Linh Thứu, khi đại chúng đang quây quần, chợt thấy Hải Long Vương dẫn vô số quyến thuộc đến. Ðức Phật bèn giảng thuyết thâm pháp. Hải Long Vương hoan hỷ thỉnh Phật xuống Long cung để được cúng dường và được nghe thuyết pháp. Ðức Phật nhận lời, Long vương làm một tòa điện lớn, trang trí bằng thất bảo như lưu ly, xa cừ, xích châu, mã não, vân vân, chung quanh nạm vàng ròng. Lại cho làm con đường lót bằng toàn vàng bạc và lưu ly từ bờ biển đến Long cung để đón Ðức Thế Tôn và đại chúng. Ðức Thế Tôn dẫn vô lượng đại chúng đến Long cung, ngồi lên tòa sư tử trên đại điện rồi thuyết pháp để giáo hóa quyến thuộc của Long Vương)—The Ocean-Naga, or Dragon King of the Ocean.

Hải Long Vương Kinh: Kinh mà Ðức Phật đã thuyết nơi thủy cung để cứu độ quyến thuộc của Long Vương—The sutra which the Buddha preached in the Ocean-naga’s palace to save beings in the ocean. 

Hải Lưu: Sea current.

Hải Ngạn: Sea shore.

Hải Ninh: Tên một ngôi chùa cổ tọa lạc tại làng Vĩnh Niệm, huyện An Hải, tỉnh Hải Phòng. Chùa trước đây được xây trên Kinh Bắc vào thời Hậu Lê. Vào năm 1931, chùa được dời về Hải Phòng, và được nhân dân địa phương cúng cho hội Ðồng Thiện, vì vậy mà chùa còn có tên là chùa Ðồng Thiện. Trong sân chùa có hai ngôi tháp ghi 40 bức ký họa ghi lại lịch sử xây dựng thành phố Hải Phòng—Name of an ancient temple, located in Vĩnh Niệm village, An Hải district. The previous temple was built in Kinh Bắc area during the late Lê dynasty. In 1931, it was moved to Hải Phòng, and then offered to Ðồng Thiện Association, therefore it was also called Ðồng Thiện Temple. In the courtyard of the temple, there are two stupas with 40 pictures illustrating the history of building of Hai Phòng City.    

Hải Quýnh Từ Phong: Zen Master Hải Quýnh Từ Phong (1728-1811)—Vị sư Việt Nam, quê ở Bắc Ninh. Vào lúc 16 tuơåi, ngài đến chùa Liên Tông, đảnh lễ Thiền Sư Bảo Sơn Dược Tính. Ngài trở thành đệ tử của Bảo Sơn và Pháp tử đời thứ 40 dòng Lâm Tế. Hầu hết cuộc đời ngài hoằng pháp ở miền Bắc Việt Nam. Ngài thị tịch năm 1811, thọ 84 tuổi—A  Vietnamese monk from Bắc Ninh. At the age of 16, he came to Liên Tông Temple to pay homage to Zen Master Bảo Sơn Dược Tính and became the latter’s disciple. He was the 40th generation of the Linn Chih Zen Sect. He spent most of his life to expand the Buddha Dharma in North Vietnam. He passed away in 1811, at the age of 84.

Hải Triều AÂm: AÂm thanh của hải triều được ví như tiếng thuyết pháp của Phật, oai mãnh và vang dội khắp như tiếng sóng biển (Hải Triều AÂm còn dùng để chỉ thanh danh của chư Phật và chư Bồ Tát tỏa rộng khắp muôn phương, ai nghe tới cũng nễ sợ như sự hùng vĩ của sóng biển. Sóng biển tuy vô niệm nhưng không trái thời, cũng giống như âm thanh thuyết pháp tụng kinh của chư Tăng Ni luôn luôn thích hợp với thời cơ)—The ocean tide voice, i.e. of the Buddha.

Hải Vương: God of the seas.

Hãi Hùng: Dreadful—Frightful.

Hại: Himsa or Vihimsa (skt)—Harmful—Detrimental—Hurtful.

Hại Sức Khỏe: Harmful to health.

Hại Tưởng: Tư tưởng muốn hại người khác—The wish or thought to injure others.

Trong Kinh Pháp Cú, câu 125, Ðức Phật dạy—According to the Dharmapada Sutra, verse 125, the Buddha taught: “Ðem ác ý xâm phạm đến người không tà vạy, thanh tịnh và vô nhiễm, tội ác sẽ trở lại kẻ làm ác như ngược gió tung bụi—Whoever harms a harmless person who is pure and guiltless, the evil falls back upon that fool, like dust thrown against the wind.”

Ham: Greedy—Wanting very much.

Ham Chuộng Hòa Bình : Peace-loving.

Ham Của: Greedy  of property.

Ham Danh: Greedy for fame.

Ham Lợi: Greedy of gain.

Ham Muốn: Desire—To covet.

Ham Thích: To desire—To be fond of.

Ham Tiền: Greedy of money.

Ham Uống: Wanting to drink (liquor).

Ham Vui: To devote oneself to. pleasures—To indulge in pleasures.

Hàm:

Ngậm trong miệng—To hold in the mouth.

Mặn: Salty—Salted.

Hàm Hoa: Trong sen búp, ví như những người đang chờ sen nở để vãng sanh Cực Lạc—In the closed lotus flower, i.e. those who await the opening of the flower for rebirth in Paradise.

Hàm Hồ: Inconsiderably—Ăn nói hàm hồ: To speak inconsiderably.

Hàm Linh: See Hàm Sanh.

Hàm Loại: All sentient beings—Hàm Thức—See Hàm Sanh.

Hàm Sanh: Hàm tình—Hàm Thức—Hàm linh hay chúng sanh có mạng sống—All beings possessing feeling—All sentient beings.

Hàm Thủy: Salt water.

Hàm Tình: Chúng sanh hữu tình, có cảm thọ—All beings, possessing feeling, sentience.

Hàm Trung Giáo: Giáo lý thông giáo của Tông Thiên Thai, nói về Trung Ðạo (tức là Thông giáo trong Tứ Giáo Thiên Thai) giữa Tiểu Thừa và Ðại Thừa—A T’ien-T’ai term for the interrelated teaching which was midway between or interrelated with Hinayana and Mahayana.

** For more information, please see Thiên

     Thai Hóa Pháp Tứ Giáo.

Hán:

Người Hán: Chinese.

Sông Hán Giang: The River Han.

Triều đại nhà Hán: The Han dynasty.

Hàn:

25)  Sita (skt)—Lạnh—Cold.

26)  Nghèo: In poverty.

Hàn Gắn: To heal.

Hàn Lâm:

            Citavana (skt)—Thi Ða Bà Na—Khu rừng lạnh nơi mai táng những người chết (đây là khu rừng ở cạnh thành Vương Xá, nơi mà xác người chết được đem vào đây cho kên kên rỉa thịt)—The cold forest where the dead were exposed (to be devoured by vultures).

            Nghĩa địa: A cemetery.

            Accademy.

Hàn Lâm Viện: Academy.

Hàn Môn: Needy family.

Hàn Ngục: Ðịa ngục lạnh—The cold hells—See Ðịa Ngục (A) (b).

Hàn Nhân: A poor man.

Hàn Nho: A poor, needy scholar.

Hàn Nữ: A poor girl.

Hàn Phong: Cold wind.

Hàn Sĩ: A poor student.

Hàn Thử: Lạnh và nóng—Cold and heat.

Hàn Thử Biểu: Thermometer.

Hàn Vi: Poor and humble.

Hãn: Mồ hôi—Sweat.

Hãn Lật Ðà: Hrd or Hrdaya (skt)—Càn Lật Ðà—The heart, core, mind, soul.

Hạn:

            Cố định: To fix.

            Giới hạn—Limit—Boundary.

Hạn Chế: To limit—To bound—Limitation—Restriction. 

Hạn Phần: Hạn chế ý nghiệp, hay tu tập để hạn chế những lỗi lầm không cố ý—Limited, e.g. limited culpability by reason of accident, unintentional error.

Hàng Long: Hàng phục rồng dữ, như bắt nó phải chui vào bình bát như Ðức Phật đã làm—To subdue nagas, e.g. to compel a naga to enter an almsbowl as did the Buddha.

Hàng Long Phục Hổ: To subdue nagas and subjugate tigers.

Hàng Long Vương Kinh: Kinh giảng về câu chuyện Ðức Phật hàng phục rồng dữ—A  sutra preached about the story of subduing nagas of the Buddha—See Hàng Long.   

Hàng Ma: Hàng phục ma quân như Ðức Phật đã làm khi Ngài vừa thành Chánh Giác (Khi Ðức Phật sắp sửa thành chánh giác, Ngài ngồi ở Bồ Ðề Ðạo Tràng, thì có vị trời thứ sáu ở cõi dục giới hiện tướng ác ma đến thử thách Ngài bằng đủ thứ nguy hại, hoặc dùng lời ngon ngọt dụ dỗ, hoặc dùng uy lực bức hại. Tuy nhiên, đức Phật đều hàng phục được tất cả)—To overcome demons, e.g. as the Buddha did at his enlightenment.

Hàng Phục: Abhicaraka (skt)—To subdue—To tame—Subjugation—Tiếng Phạn là A Tỳ Giá Lỗ Ca, một trong tứ đàn pháp của tông Chân Ngôn, nghĩa là hàng phục ma quân sức trí tuệ và lòng từ bi của mình—One of the four kinds of altar-worship of the Shingon sect, exorciser; magic; subjugator of demons—See Tứ Chủng Ðàn Pháp. 

Hàng Phục Phiền Não: Có bốn cách cho người Phật tử hàng phục phiền não—Subduing afflictions—There are four basic ways for a Buddhist to subdue afflictions:

4)      Hàng phục phiền não bằng tâm: Subduing afflictions with the mind bygoing deep into meditation or Buddha recitation.

5)      Hàng phục phiền não bằng quán chiếu sự bất tịnh, vô thường và vô ngã của vạn vật: Subduing afflictions by visualizing the principles of impurity, suffering, impermanence and no-self.

6)      Hàng phục phiền não bằng cách rời bỏ hiện trường: Subduing afflictions by leaving the scene and slowly sip a glass of water to cool ourselves down.

7)      Hàng phục phiền não bằng cách sám hối nghiệp chướng qua tụng kinh niệm chú: Subduing afflictions with repentance and recitation sutras, mantras, or reciting the noble name of Amitabha Buddha.

Hàng Phục Tâm: To subdue one’s mind.

Hàng Phục Vọng Tâm: To subdue one’s false mind.

Hàng Tam Thế: Vị Minh Vương kiểm soát và hàng phục tam thế tham sân si, như Hàng Tam Thế Minh Vương—To subdue the three worlds of desire, resentment, and stupidity, as conqueror of them, e.g. Trailokya-vijaya-raja—See Hàng Tam Thế Minh Vương.

Hàng Tam Thế Minh Vương: Trailokya-vijaya-raja (skt)—Còn gọi là Nguyệt Yêm Tôn Thắng Tam Thế Vương. Vị Minh Vương chinh phục ba món độc hại tham, sân, si, trong quá khứ, hiện tại và vị lai. Vị Minh Vương nầy ngự trị nơi đông phương—The Maharaja who subdues all resisters (of desire, resentment, and stupidity) in the three realms, past, present, and future, represented with black face, three eyes, four protruding teeth, and fierce laugh. This raja controls and subdues the demons in the east.

Hàng Thụ: Avenues of trees—Trees in rows.

Hạng Bình: Second-class honor.

Hạng Bình Thứ: Third-class honor.

Hạng Thứ: Fourth-class honor.

Hạng Thượng Lưu: People of high class.

Hạng Tối Ưu: Suma-cum claud honor.

Hạng Trung Lưu: People of middle class.

Hạng Ưu: First-class honor.

Hanh Thông: Flowing—Easy.

Hành:

4)      Ði: To go.

5)      Làm: Asevati (p)—Asev (skt)—To act—To do—To perform—To practice.

6)      Hạnh Kiểm: Conduct.

7)      Hành uẩn: Sankhara (p)—Samskara (skt)—Yếu tố cấu tạo hành động (mental formation forces or volitional impulses, or intentions that precede an action)—Nhiệm vụ của “Hành” là chuyển tâm về một đối tượng nào đó, nhận biết và thực chứng đối tượng. Như vậy “Hành” là căn bản cho tất cả những mong ước của chúng ta (mong ước nơi thân, khẩu và ý qua hành động, lời nói và tư tưởng)—Mental formation—Intention—Volition—Mental functioning—Whatever is done by mind, mouth, or body in thought, word, or deed—The function of mental factor intention is to move our mind toward an object, to perceive and realize it. Thus mental factors intention is the basis for all our wishes (wishing in body, speech and mind)—See Ngũ Uẩn.

33)  Sự cấu tạo: Formation.

34)  Ý muốn hành động: Volitional actions.

35)  Khuynh hướng của tâm: Tendencies of mind.

36)  Lực cấu tạo tâm: Mental formation forces.

37)  Pháp duyên hợp hay pháp hữu vi: Compounded things or conditioned things.

8)      Thực hành: To practice—There are two kinds of practice—Còn gọi là Hạnh, tức là phần thực hành, hay sự hành trì. Theo Tịnh Ðộ Tông, hành là thiết thực xưng niệm danh hiệu Phật A Di Ðà cho đến nhứt tâm và cảm ứng đạo giao để được Ðức Phật A Di Ðà tiếp dẫn—According to the Pureland Buddhism, practice means one must recite the Amitabha Buddha with the utmost sincerely to the point of achieving one-mind or single-minded  recitation in order to establish the unimaginable connections and having the Buddha rescue and deliver the cultivator to the Western Pureland after death.

3)      Pháp hành: Practice based on the teaching of Dharma.

4)      Tín hành: Practice based on belief. 

Hành Chánh: Administration.

Hành Chứng: Tu hành và chứng ngộ. Dựa vào hành đạo mà chứng lý. Hành là nhân và chứng lý là quả—Action and proof; knowledge or assurance derived from doing; practice of religious discipline and the resulting enlightenment.

Hành Cúng Dường:

c)      Ði đến chùa để cúng dường: To go to a temple to make offerings.

d)      Thực hành thiện pháp để cúng dường chư Phật—The making of offerings by performing wholesome deeds.

Hành Cước: Anupubbena-carikam-caramano (p).

            Ði từ nơi nầy đến nơi khác: To wander from place to place.

            Du Tăng tu hành theo lối du phương hoằng hóa—A wandering monk who wanders to convert people.

Hành Cước Tăng: Vrajaka (skt)—A  wandering religious monk.

Hành Dinh: Headquarters.

Hành Ðạo:

21)  Ði theo chân lý của Phật: To walk in the way, follow the Buddha-truth.

22)  Trịch vai phải, đi nhiễu vòng quanh hình tượng, đặc biệt là hình tượng Ðức Phật:  to make procession round an image, especially of the Buddha, with the right shoulder toward it.

Hành Ðộng: Karma—Action—Deed—Act.

Hành Ðộng Có Chủ Tâm: Willful action. 

Hành Ðộng Có Chủ Ý: To commit intentionally.

Hành Ðộng Do Tác Lý: Volitional activities.

Hành Ðộng Không Phân Biệt: Avikalpapracara (skt)—Deeds of non-discrimination.

Hành Ðộng Với Tâm Rộng Lượng và Lòng Từ Bi: To act with kindness and love.

Hành Ðức: Tu tập đức hạnh—The virtue of performance—Discipline to perform viruous deeds.

Hành Giả: Acarin (skt)—

25)  Người thị giả ở phương trượng: An abbot’s attendant.

26)  Người hành thiền: Zen Practitioner.

27)  Vị đệ tử tu hành theo Phật—One who performs the duties of a disciple.

Hành Giả Có Bi Tâm: Compassionate cultivators (practitioners).

Hành Giáo: Tu tập hay thực hành y theo luật tạng mà Phật đã chế ra—To carry out the vinaya disciple (Vinaya)—To preach.

Hành Hạ: Tormenting—To torture—To torment.

Hành Hạ Thân Xác Quá Ðáng: Extreme of tormenting the body.

Hành Hoa: Dâng hoa cúng dường—To offer flowers.

Hành Hóa: Du hành hoằng pháp để hóa độ chúng sanh—To go and convert.

Hành Hung: To act with violence.

Hành Hương:

            Ði hành hương: To go on pilgrimate.

            Dâng hương cúng Phật: To offer incense in front of the altar of the Buddha.

Hành Hữu: The reality of karma—See Thất Chủng Hữu.

Hành Khất: Ði xin ăn—To go begging, or asking for alms.

Hành Khổ: Ðau khổ là hậu quả tất yếu của hành động—The suffering inevitably consequent on action.

Hành Không: Pracarita (skt)—Cái không về hành động, một trong bảy loại không—Emptiness of action, one of the seven Sunyatas—See Thất Chủng Không (4).

Hành Kiện Ðộ: Hành Uẩn, uẩn thứ tư trong ngũ uẩn—The samskara skandha, the fourth of the five skandhas.

** For more information, please see Hành Uẩn

     and Ngũ Uẩn.

Hành Lạc: To rejoice.

Hành Lễ: To celebrate.

Hành Lý: Những hành động thường nhật, đi, đứng, nằm, ngồi, ăn, uống, ngủ, nghỉ, suy nghĩ, vân vân—The common acts of daily life, going, standing, lying, siting, eating, drinking, sleeping, resting, thinking, etc.

Hành Mãn: Sư Hành Mãn ở chùa Phật Lũng, thân thế của sư ít được ai biết đến, nhưng người ta tin rằng sư là người đã cung cấp cho Thiền sư Kinh Khê kinh điển giáo bổn của tông Thiên Thai vào cuối thế kỷ thứ tám—Hsing-Man, a monk of the Fo-Lung monastery, about whom little is known, but who is accredited with supplying Dengyo of Japan with T’ien-T’ai scriptures in the latter part of the eighth century.

Hành Mẫu: Matrka (skt)—Ma Ðức Lý Ca—“Mẹ của nghiệp,” thí dụ trong Vi Diệu Pháp, chỉ rõ nghiệp sanh nghiệp, hay là một hành động đưa đến (sản sanh) một hành động khác—The “mother of karma,” i.e. the Abhidharma-pitaka, which shows that karma produces karma, one act producing another. 

Hành Miên Mật: Asevita (skt)—To practice assiduously—Assiduous practice (asevana).

Hành Nghề: To practice a profession.

Hành Nghi: Tu hành đúng theo luật nghi, đặc biệt cho chư Tăng Ni—To perform the proper duties, especially of monks and nuns.

Hành Nghiệp: Việc làm của thân, khẩu, ý (việc làm thiện ác sẽ gánh chịu quả báo khổ vui)—The activities of thought, word, deed, moral action; karma.

Hành Nguyện: Hành động của thân và ý nguyện của tâm (nương tựa hành nguyện mà tu hành)—Action of the body and vow of the mind—Act and vow, resolve or intention; to act out one’s vows; to vow.

Hành Nguyện Bồ Ðề: Tu hành những gì mình phát nguyện (nguyện là tất cả chúng sanh đều hàm chứa Như Lai tạng tính, đều có thể an trụ ở vô thượng Bồ Ðề, nên nguyện đem pháp Ðại Thừa Vi Diệu mà độ tận)—To start out for bodhi-mind to act out one’s vows to save all living beings (all beings possess Tathagata-garbha nature and can become a Buddha; therefore, vow to save them all).

Hành Nhân: Tu Hành Nhân—Người du hành hay hành giả tu theo Phật; đệ tử Phật—A  traveller, wayfarer; a follower of Buddha; a disciple.

Hành Phạt: To punish.

Hành Phật Tánh: The Buddha-nature in action or development.

** For more information, please see Nhị Phật

     Tánh.

Hành Quả: Hành nghiệp và quả báo. Quả báo tất yếu dựa vào nhân của hành nghiệp—Deed and result—The inevitable sequence of act and its effect.

Hành Sách Ðại Sư: Hsing-She—Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong Liên Tông Thập Tam Tổ, Hành Sách đại sư, tự là triệt Lưu, người đời nhà Thanh. Ngài là con của ông Tưởng Toàn Xương, một bậc lão nho ở vùng Nghi Hưng. Thân phụ của ngài là bạn ngoài đời của Hòa Thượng Thanh Ðức, tức là Ngài Hám Sơn Ðại Sư. Niên hiệu Thiên Khải thứ 6, sau khi Hám Sơn Ðại Sư thị tịch được ba năm, một đêm nọ ông Tưởng Toàn Xương mộng thấy Hám Sơn đi vào nhà của mình. Cũng trong đêm ấy. Hành Sách Ðại sư được sanh ra đời. Nhân đó, ngài được thân phụ đặt cho ngoại hiệu là Hám Mộng (Mộng thấy Hám Sơn). Ðến khi khôn lớn, thân phụ thân mẫu kế tiếp qua đời. Ngài thương cảm sự thế vô thường, nên có ý niệm thoát tục. Năm hai mươi ba tuổi, ngài thế phát xuất gia với Hòa Thượng Nhược Am ở chùa Lý An. Suốt năm năm dài, ngài tu hành tinh tấn, không hề đặt lưng xuống nằm, do đó ngài được tỏ suốt nguồn chơn, ngộ vào pháp tánh. Sau khi Nhược Am Hòa Thượng thị tịch. Ngài qua trụ trì chùa Báo AÂn. Thời gian nầy ngài được bạn đồng tham (bạn cùng tu) là Tức An Thiền Sư khuyên tu Tịnh Ðộ. Kế đó ngài lại được gặp Tiều Thạch Pháp Sư hướng dẫn về Thiên Thai Giáo Quán, và sau đó ngài lại cùng với Tiều Thạch Pháp Sư đồng nhập thất tu môn Pháp Hoa Tam Muội. Nhờ đó mà trí huệ huân tu từ kiếp trước của ngài khai phát, ngộ suốt đến cốt tủy của Thai Giáo. Niên hiệu Khang Hy thứ 2, ngài cất am ở núi Pháp Hoa, bên bờ sông Tây Khê tại Hàng Châu, chuyên tu Tịnh Ðộ. Nhân đó đặt tên chỗ ở của mình là Liên Phụ Am. Ðến năm Khang Hy thứ 9, ngài về trụ trì chùa Phổ Nhân ở Ngư Sơn, đề xướng thành lập Liên Xả. Học giả các nơi hưởng quy tụ về rất đông. Ngài trụ trì tại chùa Phổ Nhân được 13 năm. Niên hiệu Khang Hy thứ 21, ngày mồng 9 tháng 7, ngài thị tịch, thọ được 55 tuổi—According to Most Venerable Thích Thiền Tâm in The Thirteen Patriarchs of Pureland Buddhism, Great Venerable Master Hsing-She’s self-given name is Che-Liu. He was the son of Mr. Tuong-Toan-Xuong, an elderly Confucianist in the Nghi Hưng region. The Grat Master lived during the Ch’ing Dynasty. His father was the worldly friend of Great Master Ðức Thanh, also known as Greta Master Hám Sơn. In the sixth year of the T’ien-Ksi reign period, three years after Great Master Hám Sơn had passed away, one night while dreaming Mr. Toan Xương saw Great Master Hám Sơn come into his home. It was also during that night the Great Master Hsing-She was born. Given this circumstance, he was given the nickname Hám Dreaming. When he had grown up, both his parents passed away. He had a deep sadness for the impermanence of life; thus, he had the thought of abandoning the worldly life to take a religious path. In his twenty-third year; the Great Master shaved his head to join the order with Great Master Nhược Am at Lý An Temple. After year long, he cultivated diligently, never once lying down on his back; thus, he  gained a deep understanding of the truths, penetrated the teachings and became awakened to the Dharma Nature. After Great Master Nhược Am passed away, he went to the Báo AÂn Temple to assume the Headmaster position. During this period, he befriended a fellow cultivator, Zen Master Túc An, who encouraged him to practice Pureland Buddhism as the two studied and examined Buddhism. Thereafter, he met Dharma Master Tiều Thạch who guided him to examine “T’ien-Tai Zen Meditation” and eventually, both of them retreated to practice the Dharma Door of Dharma Flower Samadhi (Lotus Samadhi). For this reason, his wisdom of former lives began to blossom and he was able to penetrate into the root and core of the T’ien-T’ai’ Doctrine. The second year of the Khánh-Hỷ reign period, he built a small temple at the Dharma Flower Mountain, on the bank of Tây Khê River at the Heng-Chou region to focus his practice on Pureland Buddhism. Then in the ninth year of the Khánh Hỷ reign period, he came down the mountain to assume the headmaster position at Phổ Nhân Temple at Wu-Tai-Shan region and initiated the building of the Lotus Mandala. Scholars and intellectuals from everywhere began to gather to cultivate in a great number. He held the headmaster position at Phổ Nhân Temple for thirteen years. On July 9th of the twenty-first year of the Khang-Hy reign period, he gained rebirth. He was 55 years old.   

Hành Sử: To make use of—To use—To utilize.

Hành Thiện:

3)      Làm việc thiện: To do good—To perform good deeds or whlesome deeds—To offer up deeds of goodness.

4)      Nghiệp thiện: Deeds that are good.

5)      Những lời Phật dạy về “Hành Thiện” trong Kinh Pháp Cú—The Buddha’s teachings on “To do good” in the Dharmapada Sutra:

Những người tạo các thiện nghiệp, làm xong chẳng chút ăn năn, còn vui mừng hớn hở, vì biết mình sẽ thọ lấy quả báo tương lai—The deed is well done when, after having done it, one repents not, and when, with joy and pleasure, one reaps the fruit thereof (Dharmapada 68).

Hành Thụ: Hàng Thụ—Rừng cây thành hàng thành lối—Tree in rows—A avenue of trees.

Hành Tín: Tu tập và tin tưởng—Act and faith—Doing and believing—Acting out one’s belief.

Hành Trì: Conduct and keeping—Practice and continuance. 

Hành Trình: Itinerary.

Hành Trụ Tọa Ngọa: Ði Ðứng Nằm Ngồi (bốn uy nghi bao gồm hết mọi động tác của người tu hành dù xuất gia hay tại gia, lúc thiền định cũng như lúc bình thường)—Walking, Standing, Sitting and Lying.

Hành Túc: Ví trí tuệ là mắt và sự tu hành là chân—As works are the feet, so wisdom is the eye.

Hành Tư Thanh Nguyên Thiền Sư: Seventh Generation of Chinese Zen (First Generation after the Sixth Patriarch Hui-Neng)—Xing-Si-Quing-Yuan—Thiền Sư Hành Tư tại núi Thanh Nguyên, sanh năm 660 sau Tây Lịch, là một đệ tử xuất sắc của Lục Tổ Huệ Năng. Ông xuất gia từ thuở nhỏ. Sau nầy nghe có Lục Tổ Huệ Năng ở Tào Khê, sư liền đến tham học. Hành Tư hỏi Lục Tổ, “Phải làm việc gì để khỏi rơi vào những trạng thái phát triển tâm linh?” Tổ gạn hỏi lại, “Ông từng làm việc gì?” Hành Tư trả lời, “Tôi không thực hành tứ diệu đế.” Tổ nói lại, “Vậy rơi vào cái gì?” Hành tư đáp lại, “Tứ Thánh Ðế cũng chẳng làm, thì làm gì có rơi vào giai đoạn phát triển tâm linh nào?” Tổ thầm thán phục và hứa nhận Hành Tư. Dầu tại Tào Khê tăng chúng khá đông, Hành Tư được Tổ cho đứng đầu trong chúng. Một hôm Tổ gọi Hành Tư lại bảo, “Từ trước y pháp cả hai đều được thầy truyền cho trò, y để tiêu biểu làm tin, pháp để ấn tâm, nay không còn sợ người chẳng tin. Ta từ ngày nhận y đến nay đã gặp nhiều tai nạn khó khăn. Hơn nữa, đời sau lắm cạnh tranh. Y để lại Sơn Môn, ngươi đến một phương truyền bá pháp ta không cho đứt đoạn. Thiền Sư Hành Tư thị tịch năm 740 sau Tây Lịch—Xing-Si Quing-Yuan was born in 660 A.D., an eminent student of the Sixth Patriarch Hui-Neng. He left home when he was young. Upon hearing that the Sixth Patriarch Hui-Neng was preaching at T’ao-Xi, he traveled there to study with him. Xing-Si asked the Sixth Patriarch, “In all that I do, how can I avoid falling into stages of spiritual development?” The Sixth Patriarch said, “How do you practice?” Xing-Si said, “I don’t even pratice the four noble truths.” The Sixth Patriarch said, “What stage have you fallen into?” Xing-Si said, “Without even studying the four noble truths, what stages could I have fallen into?” The Sixth Patriarch esteemed Xing-Si’s ability. Although there were many in the congrgation, Xing-Si was selected as head monk.

One day the Sixth Patriarch said to Xing-Si, “In the past, the robe and  teaching have been passed down together, each generation of teacher and student passing them on in turn. The robe has been evidence of the transmission. The authentic teaching is passed from mind to mind. Now I have suitable heirs. Why worry about not having evidence of transmission? Since I received the robe I have encountered innumerable difficulties. Moreover, in future times, the competition for preeminence between Zen schools will be even greater. The robe remains at the Zen Mountain Gate. You must establish a separate assembly and expound the teaching. Don’t allow my Dharma to be cut off.

6)      Một hôm Thiền sư Thần Hội đến tham vấn, sư hỏi: “Ở đâu đến?” Thần Hội đáp: “Tào Khê đến.” Sư hỏi: “Ý chỉ Tào Khê thế nào?” Thần Hội chỉnh thân rồi thôi. Sư bảo: “Vẫn còn đeo ngói gạch.” Thần Hội hỏi: “Ở đây Hòa Thượng có vàng ròng cho người chăng?” Sư hỏi: Giả sử có cho, ông để vào chỗ nào?”—One day, He-Ze-Shen-Hui came to visit the master. Xing-Si said: “Where have you come from?” Shen-Hui said: “From Cao-Xi.” Xing-Si said: “What is the essential doctrine of Cao-Xi?” Shen-Hui suddenly stood up straight. Xing-Si said: “So, you’re still just carrying common tiles.” Shen-Hui said: “Does the Master not have gold here to give people?” Xing-Si said: “I don’t have any. Where would you go to find some?”

7)      Có vị Tăng đến hỏi sư: “Thế nào là đại ý Phật pháp?” Sư đáp: “Gạo ở Lô Lăng giá bao nhiêu?”—A monk asked Xing-Si: “What is the great meaning of the Buddhadharma?” Xing-Si said: “What is the price of rice in Lu-Ling?”  

8)      Thiền sư hành Tư thị tịch năm 740 sau Tây lịch—Zen master Xing-Si died in 740 A.D. 

Hành Tứ Y: The four reliances of ascetic practictioners—See Tứ Y (A).

Hành Tướng:

5)      Hoạt động: Activity—Performance

6)      Tác dụng nhận thức của tâm thức (hành là hành giải hiểu biết; tướng là tướng mạo, nếu hiểu được tướng mạo của sự vật thì gọi là hành tướng): Mental activity.

Hành Tượng: Phong tục ở Tây Vực mỗi năm vào ngày Phật đản sanh, người ta tô điểm trang hoàng tượng Phật cho buổi lễ diễn hành trong kinh thành—To take an image of Buddha in procession; it was a custom observed on Buddha’s birthday acording to the Records of the Western Lands (records of the Land of the Buddha).

Hành Uẩn: Samskara (skt)—Hành uẩn, uẩn thứ tư trong ngũ uẩn. Hành động dẫn đến hậu quả một cách tất yếu—Aggregate of volition, the fourth of the five skandhas. Action which inevitably passes on its effects.

Hành Vi: Deed—Act—Action.

Hành Vi Tốt: Good deeds

Hành Vi Xấu: Bad deeds.

Hành Vũ:

            Làm mưa: To rain, or produce rain.

            Hành Vũ, tên của một vị đại thần của vua Bình Sa Vương: Varsakara, name of a minister of king Bimbisara.

Hành Xác: Self-mortification

Hành Xí: Ði cầu (nhà xí); nhà cầu nơi mà chúng ta đi, ẩn dụ thân người uế trược—To go to the privy; the privy to which one goes, metaphor of the human body as filthy.

Hành Xử Ðúng: To tackle in the right perspective.

Hành Xử Không Sai Lầm: To behave impeccably.

Hành Yếu: The requirements for action; to do that which is most important.

Hãnh Diện: To be proud. 

Hạnh: Acara (p & skt)—Behavior—Conduct—Manner of action.

Hạnh Ép Xác: Penance. 

Hạnh Kiểm Tốt: Good conduct.

Hạnh Lành: Good or right conduct—Good or right behavior—Good or right manners.

Hạnh Ngộ: A happy meeting.

Hạnh Nguyện: Vow—To act out one’s vow.

Hạnh Phúc: Happiness—Welfare—Cái gì mang lại thoải mái là hạnh phúc—What can be borne with ease is happiness.

31)  Hạnh phúc bình thường là thỏa mãn sự khao khát. Tuy nhiên, ngay khi điều mong muốn vừa được thực hiện thì chúng ta lại mong muốn một thứ hạnh phúc khác, vì lòng thèm muốn ích kỷ của chúng ta không cùng tận:  Ordinary happiness is the gratification of a desire. However, as soon as the thing desired is achived the we desire something else or some other kind of happiness, for our selfish desires are endless. 

32)  Tiền không mua được hạnh phúc, hay sự giàu có thường không mang lại hạnh phúc. Kỳ thật, hạnh phúc thực sự chỉ tìm thấy trong nội tâm chứ không nơi của cải, quyền thế, danh vọng hay chiến thắng: Money cannot buy happiness, or wealth does not always conduce to happiness.  In fact, real happiness is found within, and is not be defined in terms of wealth, power, honours, or conquests.

33)  Ðức Phật đã nêu lên các loại hạnh phúc cho người cư sĩ tại gia: “Hạnh phúc có sức khỏe, có của cải, sống lâu, đẹp đẽ, vui vẻ, sức mạnh, tài sản và con cái, vân vân. Ðức Phật không khuyên chúng ta từ bỏ cuộc sống trần tục và rút lui về sống ẩn dật. Tuy nhiên, Ngài khuyên Phật tử tại gia, sự vui hưởng của cải không những nằm trong việc xử dụng cho riêng mình, mà nên đem phúc lợi cho người khác. Những cái mà chúng ta đang có chỉ là tạm bợ. Những cái mà chúng ta đang gìn giữ, rốt rồi chúng ta cũng bỏ chúng mà đi. Chỉ có những nghiệp sẽ phải theo chúng ta suốt nẻo luân hồi. Ðức Phật dạy về hạnh phúc của người cư sĩ như sau: “Sống nghèo về vật chất mà tinh thần thoải mái là hạnh phúc. Sống đời không bị chê trách là hạnh phúc, vì người không bị chê trách là phúc lành cho chính mình và cho người khác. Người đó được mọi người ngưỡng mộ và cảm thấy sung sướng hơn khi truyền cảm được làn sóng hòa bình sang người khác. Tuy nhiên, rất khó mà không bị mọi người chê trách. Vì thế người trí cao thượng nên cố sống dửng dưng với sự khen chê bên ngoài, cố đạt được hạnh phúc tinh thần bằng cách vượt qua lạc thú vật chất.” Sau đó Ðức Phật tiếp tục nhắc nhở chư Tăng Ni: “Hạnh phúc Niết Bàn là dạng thức hạnh phúc giải thoát khổ đau cao thượng nhất.”: The Buddha enumerates some kinds of happiness for a layman. They are the happiness of possession, health, wealth, longevity, beauty, joy, strength, property, children, etc.  The Buddha does not advise all of us to renounce our worldly lives and pleasures and retire to solitude. However, he advised lay disciples to share the enjoyment of wealth with others. We should use wealth for ourselves, but we should also use wealth for the welfare of others. What we have is only temporary; what we preserve we leave and go. Only karmas will have to go  with us along the endless cycle of births and deaths. The Buddha taught about the happiness of lay disciples as follows: “A poor, but peace life is real happiness. Leading a blameless life is one of the best sources of happiness, for a blameless person is a blessing to himself and to others. He is admired by all and feels happier, being affected by the peaceful vibrations of others. However, it is very difficult to get a good name from all. The wisemen try to be indifferent to external approbation, try to obtain the spiritual happiness by transcending of material pleasures.” Then the Buddha continued to remind monks and nuns: “Nirvana bliss, which is the bliss of relief from suffering, is the highest form of happiness.”

34)  Những lời dạy của Ðức Phật về Hạnh Phúc trong Kinh Pháp Cú—The Buddha’s teachings on Happiness in the Dharmapada Sutra:  

Hạnh phúc thay đức Phật ra đời! Hạnh phúc thay diễn nói Chánh pháp! Hạnh phúc thay Tăng già hòa hợp! Hạnh phúc thay dõng tiến đồng tu!—Happy is the birth of  Buddhas! Happy is the teaching of the True Law! Happy is the harmony in the sangha! Happy is the discipline of the united ones! (Dharmapada 194).

Sung sướng thay chúng ta sống không thù oán giữa những người thù oán; giữa những người thù oán, ta sống không thù oán—Oh! Happily do we live without hatred among the hateful! Among hateful men we dwell unhating! (Dharmapada 197).

            Sung sướng thay chúng ta sống không tật bệnh giữa những người tật bệnh; giữa những người tật bệnh chúng ta sống không tật bệnh—Oh! Happily do we live in good health among the ailing! Among the ailing we dwell in good health! (Dharmapada 198).

            Sung sướng thay chúng ta sống không tham dục giữa những người tham dục; giữa những người tham dục, chúng ta sống không tham dục—Oh! Happily do we live without greed for sensual pleasures among the greedy! Among the greedy we dwell free from greed! (Dharmapada 199).

            Sung sướng thay chúng ta sống không bị điều gì chướng ngại. Ta thường sống với những điều an lạc như các vị thần giữa cõi trời Quang-AÂm—Oh! Happily do we live without any hindrances. We shall always live in peace and joy as the gods of the Radiant Realm (Dharmapada 200).

            Thắng lợi thì bị thù oán, thất bại thì bị đau khổ; chẳng màng tới thắng bại, sẽ sống một đời hòa hiếu an vui và hạnh phúc—Victory breeds hatred, defeat breeds suffering; giving up both victory and defeat will lead us to a peaceful and happy life (Dharmapada 201).

            Nếu bỏ vui nhỏ mà được hưởng vui lớn, kẻ trí sẽ làm như thế—If by giving up a small happiness or pleasure, one may behold a larger joy. A far-seeing and wise man will do this (a wise man will leave the small pleasure and look for a larger one) (Dharmapada 290).

35)  See Kinh Hạnh Phúc in Appendix E.

Hạnh Phúc Bất Diệt: Eternal happiness.

Hạnh Phúc Giải Thoát: The bliss of freedom.

Hạnh Phúc Tràn Trề: Intense happiness.

Hạnh Phúc Tối Thượng: Supreme happiness—Nirvana.

Hạnh Phúc Trong Tịnh Lặng: The bliss of solitude.

Hạnh Phúc Trường Cửu: Everlasting happiness.

Hạnh Phúc Tương Ðối: Relative happiness.

Hạnh Phúc Vật Chất: Material well-being. 

Hạnh Vận: Good luck—Good fortune.

Hạnh Yểm Ly: Hạnh chánh ngũ dục—The practice of disgust at the five desires.

Hao Giảm: To diminish—To decrease—To lessen.

Hao Mòn: Worn out.

Hao Tốn: Costly.

Hao Tổn: To spend much money.

Háo Danh: To thirst after honor and fame.

Háo Hức: Enthusiastic.

Hào: Lông mềm—Soft hair.

Hào Hiệp: Gallant.

Hào Mi: Lông trắng giữa hai chân mày của Phật—The white hair between Buddha’s eyebrows.

Hào Nhoáng: Showy.

Hào Quang: Halo.

Hào Tướng: Tước lông trắng giữa hai chân mày của Phật, một trong 32 tướng hảo—The white hair between Buddha’s eyebrows, one of the thirty-two signs of a Buddha. 

Hảo: Good—Well—To be fond of.

Hảo Chiếu: Good at shining—A mirror.

Hảo Hạng: Good quality.

Hảo Hiệp: To be in accord (agreement).

Hảo Sinh: Love of the living—Love of life.

Hảo Sự: A good business.

Hảo Tâm: Kindness—Kindheart.

Hảo Thanh: Good voice (sound).

Hảo Thanh Ðiểu: Chim có âm tốt, có thể là Ca Lăng Tần Già—A bird with a beautiful note, maybe a Kalavinka.

Hảo Tướng: A good appearance (omen or sign).

Hảo Ý: Good intention.

Hão Huyền: Unreal—Vain.

Hạo: Rộng lớn—Vast—Great.

Hạo Diệu: Vĩ đại và huyền diệu—Vast and mysterious.

Hạp: To suit—To agree.

Hạp Nhau: To get along well.

Hạt:

3)      See Hạt Bụi and Hạt Cát.

4)      Ðui Mù: Blind.

Hạt Bộ Ða: Adbhuta (skt)—Thần thông huyền diệu—Remarkable—Miraculous—Supernatural.

Hạt Bụi: A specks of dust.

Hạt Cát: A grain of sand.

Hạt La Hầu: Rohu (skt)—Một thành phố cổ và tỉnh Tukhara, nằm về phía nam sông Oxus—An ancient city and province of Tukhara, south of the Oxus.

Hạt Lạt Li: Harali (skt)—Vải dệt bằng một loại lông mịn—Cloth woven of fine hair.

Hạt Lệ Phiệt Ða: Revata (skt)—Tên của một vị sư Ấn Ðộ—Name of an Indian monk.

Hạt Lợi Nã: Harina (skt)—Những loại nai—Deer of several kinds.

Hạt Lợi Sa Phạt Ðan Na: Harsavardhana (skt)—Vua xứ Kanyakubja, vị hộ pháp Phật giáo vào khoảng những năm 625 sau Tây Lịch—King of Kanyakubja, protector of Buddhism about 625 A.D.

Hạt Lũ Sinh: Một kẻ mù quáng—A  blind, stupid man.

Hạt Lư:

5)      Con lừa mù—A blind or folded donkey.

6)      Ngu si: Stupid.

Hạt Ngọc: Pearl—Precious stone.

Hạt Sương: A dew-drop.

Hạt Trai: See Hạt ngọc.

Hạt Xoàn: A diamond.

Hay Gây Gỗ: To be quarrelsome.

Hay Giận: To become angry quickly—To have a short temper—Quick-tempered.  

Hay Hay: Rather good-looking.

Hay Ho: Interesting.

Hay Nói: Talkative.

Hay Tin: To learn the news—To be informed of the news.

Hãy Tự Biết Mình: Know  yourself.

Hắc:

            Màu đen: Kala or Krsna (skt)—Black—Dark.

            Mực: Ink.

Hắc Ám: Black, dark, secluded, shut off; in darkness, ignorant.

Hắc Bạch:

36)  Hai phần trong tháng, phần trăng khuyết, và phần trăng đầy: The two halves of the month, the waning and the waxing.

37)  Màu trắng và màu đen: Black and white.

38)  Xấu và tốt: Evil and good.

Hắc Chủng: Black race.

Hắc Dạ Thần: Kalaratri (skt)—Còn gọi là Ám Hạ Thiên, Hắc Ám Thiên, hay Hắc Dạ Thiên, tiếng Phạn là Ca La Ca Ðể Mặc, một trong ba bà hoàng hậu của vua Diêm Ma, đây là vị Thần trông coi thế gian nửa đêm, lúc tối trời—One of the three queens of Yama, who controls midnight.

Hắc Ðạo: Black path—Ác đạo—Negative path.

Hắc Nghiệp: Một trong bốn loại nghiệp, ác nghiệp sinh khổ quả đen tối—One of the four kinds of karma, black karma, or evil deeds which produce like karmaic results—See Tứ Nghiệp.

Hắc Nguyệt: Krsnapaksa (skt)—Nửa tháng trời tối hay nửa tháng sau tính theo âm lịch (theo Tây Vực Ký, từ ngày trăng bắt đầu khuyết đến ngày 30 trong tháng, gọi là “Hắc Phần.” Hắc phần có thể là 14 hay 15 ngày tùy theo tháng thiếu hay đủ)—The darkening or latter half of the month, the period of the waning moon.

Hắc Phần: Krsnapaksa (skt)—See Hắc Nguyệt.

Hắc Phong: Gió bão đen tối—Black wind, i.e. a dark storm.

Hắc Thằng: Kalasutra (skt)—Hắc Thằng Ðịa Ngục—The black-rope, or black-bonds hell—See Ðịa Ngục (A) (a) (2).

Hắc Thiên: Mahakala (skt)—Còn gọi là Ðại Hắc Thiên Thần, quyến thuộc của Ðại Tự Tại Thiên, vốn tên Lô Nại La (Rudra), dịch là bạo ác, vị có tám tay ba mắt—The black-deva, a title of Siva, the fierce Rudra, a black or dark-blue deity with eight arms and three eyes.

Hắc Vận: Ill-luck.

Hắc Xà: Dục vọng và phiền não được ví với con rắn độc—The black adder, or venomous snake, i.e. klesa, passion, or illusion.

Hắc Xỉ: Matutacandi (skt)—Loại quỷ La sát răng đen—Black teeth, name of one of the raksasi.

Hắc Y: Y áo màu đen, một thời là y áo của chư Tăng Ni, để phân biệt với y áo của phàm nhân màu trắng—Black garments, or dark monastic clothes, at one time said to have been the garb of the monk to distinguish him from the ordinary people who wore white.

Hăm Dọa: To threaten—To intimidate—To menace.

Hăm Hở: With fervour (zeal).

Hằm Hằm: Angry—Furious.

Hằn Học: To bear a grudge.

Hẳn Hoi: Properly—Correctly.

Hăng Hái: Eagerness—Fervour—Ardour.

Hằng: Luôn luôn, thường thường—Constant—Perseverance—Persistence.

Hằng Cửu: Everlasting—Eternal.

Hằng Già: Sông Hằng Hà—The river Ganges—See Hằng Hà.

Hằng Già Ðạt: Gangadatta (skt)—Con trai của một trưởng giả giàu có và là một đệ tử của Ðức Phật—Son of a wealthy landowner and disciple of the Buddha.

Hằng Già Ðề Bà: Gangadevi (skt)—Hà Thiên, tên một vị nữ đệ tử của Ðức Phật (truyền thuyết cha mẹ bái lễ Thần sông Hằng mà sanh ra nàng nên có tên nầy) —Name of a female disciple of the Buddha.

Hằng Già Hà: Ganges (skt)—Sông Hằng Hà—The Ganges River—See Hằng Hà.

Hằng Già Sa: Hằng Sa—Ganga-nadi-valuka (skt)—Hằng hà sa số—As the sands of Ganges, numberless.

Hằng Hà: Sông Hằng Hà, theo truyền thuyết chảy ra từ trung tâm lổ tai của Thần Ma Hê Thủ La, chảy vào hồ A Nậu Ðạt (mà ngài Huyền Trang ghi trong Tây Du Ký là Căng Già), chảy qua Ngưu Khẩu (có nơi nói là Sư Tử Khẩu, hay Kim Tượng Khẩu), đoạn chảy quanh hồ rồi đổ ra biển theo  hướng đông nam. Hằng Hà là một con sông rất lớn và rất dài ở Ấn Ðộ. Dưới đáy và dọc theo hai bên bờ của con sông nầy có rất nhiều cát—Ganges, said to drop from the centre of Siva’s ear into the Anavatapta lake, passing through an orifice called (variously) ox’s mouth, lion’s mouth, golden elephant’s mouth, then round the lake and out to the ocean on the south-east. Ganges River (Gangha) is a very large and long river in India. The bed and banks of this river are covered with innumerable grains of sands.

Hằng Hà Sa Số: Số nhiều vô kể—Numberless—Incalculable—Countless. 

Hằng Ngày: Everyday—Daily.

Hằng Sa:

            Con ngỗng: Hamsa (skt)—A goose.

            Nhiều như cát sông Hằng: Ganga-nadi-valuka (skt)—As the sands of Ganges (numberless)—Countless.

Hằng Sản: Real estate.

Hằng Tâm: Kindhearted—Generous.

Hằng Thuận Chúng Sanh: To accommodate and benefit all living beings—Ðây là hạnh nguyện thứ chín trong Phổ Hiền Thập Hạnh Nguyện. Hằng thuận chúng sanh là tùy thuận chúng sanh mọi loài mà thật hành cúng dường và cung kính như cha mẹ, hoặc như các bậc Bồ Tát hay Phật. Nếu chúng sanh bịnh thì chúng ta làm lương y; nếu chúng sanh lạc đường thì chúng ta vì họ mà chỉ cho con đường chánh; nơi đêm tối chúng ta vì họ mà làm đuốc sáng, người cần ăn chúng ta cho ăn; người cần uống chúng ta cho uống, vân vân. Tùy thuận chúng sanh là tùy thuận chư Phật, cúng dường chúng sanh là cúng dường chư Phật, làm cho chúng sanh hạnh phúc là làm cho chư Phật hoan hỷ—This is the ninth of the ten conducts and vows of Samantabhadra Bodhisattva. To accommodate and benefit all living beings means we will accord with and take care of all living beings, making offerings to all living beings as if we made offerings to all Buddhas, honors and serves them as if we honored and served all Buddhas and Bodhisattvas. We should be a good doctor for the sick and suffering, lead those who have lost their way to the right road, be a bright light for those in the dark night, give food to the hungry, give drink to the thirsty, and so on. If we accord with living beings, then we accord with and make offerings to all Buddhas. If honor and serve living beings, we then honor and serve the Thus Come Ones. If we make living beings happy, we are making all Thus Come Ones happy.  

Hằng Thủy: Sông Hằng—The river Ganges—See Hằng Hà.

Hằng Thường: Thường hằng—Constant—Regular.

Hắt Hơ Hắt Hãi: Panic-striken.

Hắt Hủi: To neglect.

Hâm Mộ: To be fond of—To have admiration for.

Hẩm Hiu: Unfortunate—Unlucky.

Hậm Hực: Displeased.

Hân: Vui thích (tên của một tâm sở đối lại với yếm hay chán ghét)—Delight—Joy—Elated—Elevated.

Hân Cầu: Tìm cầu vui thích—To seek gladly.

Hân Cầu Tịnh Ðộ: Cầu mong được vãng sanh Tịnh Ðộ—To seek rebirth in the Pure Land—See Yếm Ly Uế Ðộ.

Hân Giới: Cõi vui thích của chư Hiền Thánh—The joyful realm of saints and sages.

Hân Hạnh: To be honoured—To have the honour.

Hân Hoan: Joyful—Merry.

Hấn: Gây hấn—To provike hostilities.

Hận: Thù ghét—Hate—Hatred—Annoyed—Vexed.

Hận Thù: Hận—Hatred.

Những lời Phật dạy về “Hận Thù” trong Kinh Pháp Cú—The Buddha’s teachings of “Hatred” in the Dharmapada Sutra:

“Người kia lăng mạ tôi, đánh đập tôi, phá hại tôi, và cướp đoạt của tôi.” Ai còn ôm ấp tâm niệm ấy, thì sự oán hận không thể nào dứt hết—“He abused me, he beat me, he defeated me, he robbed me.” Hatred will never leave those who dwell on such thoughts (Dharmapada 3).

“Người kia lăng mạ tôi, đánh đập tôi, phá hại tôi, và cướp đọat của  tôi.” Ai bỏ được tâm niệm ấy, thì sự oán giận tự nhiên san bằng---“He  abused me, he hit me, he defeated me, he robbed me.” Hatred will leave those who do not harbor such thoughts (Dharmapada 4).

Ở thế gian nầy, chẳng phải hận thù trừ được hận thù, chỉ có từ bi mới trừ được hận thù. Ðó là định luật của ngàn xưa—In this world, hatred never destroys (eliminates) hatred, only love does. This is an eternal law (Dharmapada 5).

Hận Thù Suốt Kiếp: Enmities.

Hấp: To suck up.

Hấp Dẫn: Attractive. 

Hấp Thụ: To absorb—To receive.

Hất Hủi: To neglect.

Hầu: Con khỉ—Monkey.

Hầu Thời: Giờ Thân từ 3 đến 5 giờ chiều—The hours of the monkey, the time from 3:00PM to 5:00PM.

Hậu:

(D)  Hậu hỷ: Rộng rãi—Generous.

(E)   Sau: After—Behind—Posterior.

(F)   Về sau: Later. 

Hậu Báo: Future retribution—Quả báo của một hay nhiều đời sau tạo nên bởi cái nghiệp thiện ác của đời nầy. Ðời nay làm lành ác, mà qua đến đời thứ hai, thứ ba, hay lâu hơn nữa mới được hưởng phước lành, hay thọ lãnh quả báo ác. Hậu báo sớm muộn không nhứt định, nhưng chắc chắn là không thể nào tránh khỏi. Hễ tạo nghiệp, dù thiện hay dù ác, chắc chắn sớm muộn gì sẽ phải thọ lãnh quả báo. Chính vì thế mà cổ đức dạy: “Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu,” và “Giả sử bá thiên kiếp, sở tác nghiệp bất vong; nhân duyên hội ngộ thời, quả báo hoàn tự thọ,” có nghĩa là lưới trời tuy thưa lồng lộng, nhưng một mảy lông cũng không lọt khỏi, và giả sử như trăm ngàn kiếp đi nữa thì nghiệp gây tạo vẫn còn, khi nhơn duyên đầy đủ thì báo ứng sẽ đến không sai. Có những trường hợp đáng chú ý mà người Phật tử phải hiểu rõ để tránh không bị hiểu lầm về luật nhân quả: làm dữ ở kiếp nầy mà vẫn được giàu sang, là vì kiếp trước đã từng làm phước, cúng dường, bố thí. Cái nhân dữ ở kiếp nầy vì mới gieo nên chưa thành ra quả ác; trong khi cái nhơn lành trong kiếp trước hay nhiều kiếp trước, vì đã gieo lâu, nên đã chín mùi, nên quả giàu sang phải trổ. Cũng như vậy, ăn ở hiền lành mà vẫn cứ nghèo cùng, hoặc luôn bị các điều khổ sở, hoạn nạn, vân vân, ấy là vì nhơn lành mới gieo trong kiếp nầy mà thôi, nên quả lành chưa trổ;  còn bao nhiêu nhân ác kiếp trước, đã gieo lâu rồi nên quả dữ đã đến thời điểm chín mùi  —The retribution received in the next or further incarnation for the deeds done in this life. Wholesome and unwholesome karma are created in this life, but sometimes the karma will pass through the second, third life, or even longer before one is able to reap the meritorious retributions or endure the evil consequences. Whether these future retributions are earlier or later is not absolute, but it is absolutely unavoidable. If there is action, whether it is good or evil, there will be consequences sooner or later. Ancient sages taught: “The heaven’s net may be thin, but even a hair will not fall through,” and “supposing hundreds of thousands of lives have passed, but the karma created still remains; when destinies, circumstances come to fruition, the appropriate retributions will not be denied.” There are some noticeable situations which Buddhists should clearly understand to prevent any misunderstanding about the law of cause and effect: Those who commit evil in this life, yet continue to prosper; it is because they have only began to commit transgressions in this life. However, in the former lives, they have already formed wholesome merits, make offerings and charitable donations. The evil deeds of this life which  have just been planted, have not had the proper time to form unwholesome consequences; while the wholesome deeds in the former lives planted long ago, have  had the time to come to fruition in the present life. There are also other circumstances, where people practice good deeds, yet they continue to suffer, experience setbacks, misfortunes, etc. that is because they have just learned to practice wholesome conducts in the present life. Otherwise, in the former lives, they have created many unwholesome deeds. The wholesome deeds in this life have just been planted, have not had the proper time to grow into wholesome fruition. However, the wholesome and wicked deeds in the former lives  which had been planted long long ago, have had the proper time to come to fruition in the present life.  

Hậu Bối: Future generations.

Hậu Dạ: Thời thứ ba và cũng là thời chót trong đêm (đêm chia làm ba thời sơ, trung, và hậu)—The third division of the night.

Hậu Duệ: Descendants.

Hậu Ðãi: To treat well.

Hậu Ðắc Trí: Còn gọi là Phân Biệt Trí, tức là cái trí chân chánh, sâu kính, ngầm hợp chân như, trí sở đắc theo sau căn bản trí—Detailed or specific knowledge or wisdom succeeding upon or arising from fundamental knowledge (Căn bản trí)—See Phân Biệt Trí.

Hậu Hữu:

            Quả báo thời vị lai: Future karma.

            Thân đời sau: The person in the subsequent incarnation.

            Thân tái sinh cuối cùng của bậc A La Hán hay Bồ Tát: The final incarnation of the arhat, or bodhisattva.

Hậu Lai: The time to come—Future.

Hậu Nghiệp: Upapajjavedaniya (p)—Subsequently effective karma—Theo A Tỳ Ðạt Ma Luận (Vi Diệu Pháp), hậu nghiệp là loại nghiệp mà quả của nó, nếu có, sẽ phải trổ trong kiếp kế liền kiếp hiện tại; nếu không trổ sanh được trong kiếp liền kế tiếp ấy thì hậu nghiệp sẽ trở nên vô hiệu lực. Một thí dụ về quả trổ sanh trong kiếp kế liền sau kiếp hiện tại được kể như sau. Có người làm công cho nhà triệu phú nọ, một ngày rằm, sau khi làm việc cực nhọc ngoài đồng, chiều về thấy cả nhà đề thọ bát quan trai giới trong ngày ấy. Mặc dầu chỉ còn có nửa ngày, anh liền xin thọ giới và nhịn đói buổi chiều hôm đó. Bất hạnh thay, sáng hôm sau anh qua đời. Nhờ tâm trong sạch nghiêm trì bác quan trai giới, anh sanh lên cõi trời. Một thí dụ khác là vua A Xà Thế, con vua Bình Sa Vương, liền sau khi chết, tái sanh vào cảnh khổ vì đã mang trọng tội giết cha—According to the Abhidharma, subsequently effective karma is a karma which, if it is to ripen, must yield its results in the existence immediately following that in which it is performed; otherwise, it becomes defunct. An example of Upapajjavedaniya, a millionaire’s servant returned home in the evening after his laborious work in the field, to see that all were observing the eight precepts as it was the full-moon day. Learning that he also could observe them even for half a day, he took the precepts and fasted at night. Unfortunately he died on the following morning and as a result of his good action was born as a Deva. Another good example of subsequently effective karma, Ajatasatru, son of King Bimbisara, was born, immediately after his death, in a state of misery as the result of killing his father.   

Hậu Ngũ Bách Niên: Pratirupaka (skt).

            Thời kỳ 500 năm sau cùng: The last of the period of 500 years when strife would prevail.

            Thời Tượng Pháp, 500 năm sau ngày Phật nhập Niết Bàn: Symbol, formal, or image period, 500 years after the nirvana—See Tượng Pháp.

Hậu Pháp: The latter, or symbol, age of Buddhism—See Tượng Pháp.

Hậu Phương: In the rear.

Hậu Quả: Consequence.

Hậu Quang: Ánh hào quang sau bức tượng—The halo behind the image.

Hậu Sanh:

            Ðiều kiện tái sanh của đời sau: The after condition of rebirth.

            Sanh sau: Later born.

            Thế hệ đời sau: The later, or younger generations.

            Tuổi trẻ: Youth.

Hậu Tạ: To reward liberally.  

Hậu Tâm: Post-mental state.

Hậu Thân: Thân của kiếp sau—The body or person in the next stage of transmigration. 

Hậu Thế:

            Ðời sau: The life after this.

            Những thế hệ về sau nầy: Later generations or ages.

Hậu Thuyết:

Học thuyết của đời sau, hay được nói về sau nầy: Spoken later, or after (a doctrine).

Thuật ngữ của Nhân Minh (một trong ba chi “tôn, nhân, và dụ”): The predicate of the major premiss of a syllogism.  

Hậu Tiến: Underdeveloped—Backward.

Hậu Ý: Good intent.

 

---o0o---

 

Mục Lục Tự điển Phật Học Việt-Anh

| A | Ba | Be | Bi | Bo | Bu | Ca | Ch | Co | Cu | D | Đa | Đe | Đi | Đo | Đu |

| E | G | Ha | He | Hi | Ho | Hy | I | K | La | Le | Li | Lo | Lu | Ly |

| Ma | Me | Mi | Mo | Mu, My |Na | Ne | Ng | Nh | Ni | No | Nu |

 | O | Pha | Phe | Phi | Pho | Phu | Q | R | S | Ta | Te |Tha | Thă, Thâ |

| The | Thi | Tho | Thu | Ti | To | Tr | Tu | TyU | V | X | Y|

 

---o0o---

Mục Lục | Việt-Anh | Anh -Việt | Phạn/Pali-Việt | Phụ Lục

---o0o---

Trình bày: Nhị Tường

Cập nhật: 1-4-2006


Webmaster:quangduc@tpg.com.au

 Trở về Thư Mục Tự Điển

Top of page

Biên tập nội dung: Tỳ kheo Thích Nguyên Tạng
Xin gởi bài mới và ý kiến đóng góp đến ban biên tập qua địa chỉ:
quangduc@tpg.com.au