TỔ ĐÌNH MINH ĐĂNG QUANG
PHẬT HỌC TỪ ĐIỂN
BUDDHIST DICTIONARY
VIETNAMESE-ENGLISH
THIỆN PHÚC
Phu
Phu:
1) Người
phu lao động: A laborer.
2) Người
(nói chung): A man.
3) Trượng
phu: A sage officer.
4) Phu
quân (chồng): A husband.
5) Phổ
biến: To spread—To diffuse—To promulgate—To announce.
6) See
Phu Tọa.
Phu Bến Tàu: Docker.
Phu Cụ:
1) Áo cà
sa: The monk’s robe.
2) Chiếc
đệm trải ra trước bàn thờ Phật: The displayed, or promulgating article in
front of the altar of the Buddha.
Phu Đổ Rác: Garbage collector.
Phu Khuân Vác: Porter.
Phu Lục Lộ: Roadmender.
Phu Mạn Đà La: Để tấm vải Mạn
Đà La dưới đất—To spread a magic cloth, or mandala, on the ground.
Phu Mỏ: Miner.
Phu Nhân: Mistress—Wife.
Phu Phụ: Husband and wife.
Phu Quân: My husband.
Phu Quét Đường: Street sweeper.
Phu Thê: See Phu Phụ.
Phu Tọa: Cách ngồi đặt bàn chân
nầy lên đùi chân kia (có hai cách, một là kiết già, hai là bán già)—To
sit cross-legged.
** For more information,
please see Kiết Già, and Bán Già Phu Tọa.
Phú:
1) Che
dấu: Một trong các địa pháp tiểu phiền não (sợ mất danh dự mà che dấu tội
lỗi của mình)—Covering—Deceit—See Tùy Phiền Não.
2) Giàu
sang—Rich—Wealthy—Well-supplied.
3) Ném:
To throw—To overthrow.
Phú Bạch: Phủ một tấm khăn nhỏ
lên bức tượng—To throw a coverlet over an image.
Phú Bát: Bát lộn ngược đặt dưới
chín vòng tròn trên nóc chùa—The inverted bowl at the top of a pagoda
below the nine circles.
Phú Ca La: Pudgala (skt)—See
Phú Già La.
Phú Cường: See Phú Hào.
Phú Diện:
1) Vải
che mặt: A veil for the face.
2) Che
mặt: To cover the face.
Phú Đa: Putana (skt)—See Bố Đát
Na and Phú Đơn Na.
Phú Đà Na: Putana (skt)—See Phú
Đơn Na.
Phú Đặc Ca Gia: Pudgala
(skt)—See Phú Già La.
Phú Đặc Ca La: Pudgala
(skt)—See Phú Già La.
Phú Đơn Na: Putana (skt)—Phú Đà
Na—Xú Ngạ Quỷ—Loài quỷ một khi bắt người liền làm cho người ấy cảm thấy
như mình đang nằm trên lửa—A kind of demon who once invades a person’s
body makes that person feel as if he or she is on fire (a class of pretas
in charge of fevers).
Phú Gia: A wealthy family.
Phú Già La: Pudgala (skt)—Bổ
Đặc Già La—Phú Đặc Ca La—Chúng sanh có hình tướng, dáng vẻ và tâm thức
(con người): Living beings that have form, body and soul (living beings
that have body, matter, the soul, personal identity, interpreted by man,
men, human being, and all the living).
1) Hữu
tình: The sentient beings.
2) Tất cả
chúng sanh: All living beings.
3) Tất cả
chúng sanh chịu luân lưu trong luân hồi sanh tử: All living beings subject
to metempsychosis.
4) Thú
hướng: Direction, or transmigration.
Phú Giảng: Trả bài cho thầy—To
repeat a lesson to a teacher.
Phú Hào: Wealthy and powerful.
Phú Hậu: Enormously rich.
Phú Hộ: See Phú Gia.
Phú Khí:
1) Đồ
dùng để ngăn cản hay tắc, chẳng hạn như đồ tắc nước, hay ngói không cho
nước thấm vào nhà: Things for turning off, e.g. water, as tiles do.
2) Tâm bị
tắc nghẽn không thấm được đạo pháp: Impermeable resistant to teaching.
Phú Kiên: Mặc phủ lên vai (loại
áo cà sa phú-kiên-y che vai phải; trong khi kỳ-chi-y là áo che vai
trái)—To throw a robe over the shoulder.
Phú La: Pula or Para (skt).
1) Quốc
độ: Pura (skt)—Land—Country—City.
2) Chiếc
giày ngắn dùng để trang sức: A short-legged (ornament) boot—Boot or shoe
ornamentation.
Phú La Bạt Đà La: See Phú La
(2).
Phú Lan Đà La: Purandara (skt).
1) Người
phá vở thành lũy: Stronghold breaker, fortress destroyer.
2) Một
tên khác của Thần Sấm Sét: Another name for Indra for thunder-god.
Phú Lan Na Ca Diếp:
Puruna-kasyapa (skt)—See Bất Lan Ca Diếp.
Phú Lâu Na: Purna (skt)—Phú Lâu
Na Di Chất Na Ni Tử, con của trưởng giả Ba-Va và một người gái nô lệ. Ông
là một trong 1250 vị A La Hán đệ tử Phật, cũng là một trong thập đại đệ tử
của Phật có biệt tài thuyết pháp. Bị người anh bạc đãi trong thương vụ,
nhưng ông đã cứu người anh nầy trong một chuyến đắm tàu. Về sau ông xây
một tịnh xá hiến cho Phật. Ông được Phật thọ ký sẽ thành Phật đời vị lai
với hiệu là Pháp Minh Như Lai—Purnamaitrayaniputra, or Maitrayaniputra,
son of Bhava by a slave girl, often confounded with Maitreya. One of the
1250 Arhat disciples of the Buddha. He was also one of the ten great
disciples of the Buddha. He was the chief preacher among the ten principal
disciples of Sakyamuni. Ill-treated by his brother, engaged in business,
saved his brother from shipwreck by conquering Indra through samadhi. He
built a vihara (monastery) for Sakyamuni. The Buddha predicted that he
would become a Buddha titled Dharmaprabhasa.
Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử:
Purna-Maitrayaniputtra (skt)—See Phú Lâu Na.
Phú Lâu Na Phú La: Purusapura
(skt)—Phú Lâu Sa Phú La—Phú Lưu Sa Phú La—Trượng Phu Thổ, tên một vương
quốc cổ, phía Bắc Ấn Độ, bây giờ là Peshwar, nơi mà người ta nói rằng Ngài
Thiên Thân Bồ Tát đã ra đời—The ancient capital of Gandhara, north of
India, the modern Peshawar, stated to be the native country of Vasubandhu.
Phú Lâu Sa: Purusa (skt).
1) Nhân
loại: Man—Mankind.
2) Con
người được nhân cách hóa làm Na La Diên Thiên (một loại trời): Man
personified as Narayana—See Narayana.
3) Tâm
Thức: Soul and source of the universe.
4) Thần
Ngã: The spiritual self.
5) Ngã:
Atman (skt)—Ego—Tánh chất đặc biệt của “ngã” là tư tưởng, và qua một chuỗi
thay đổi của kiếp hiện hữu—The atman whose characteristic is thought, and
which through successive modifications, all forms of existence—See Atman
in Sanskrit/Pali-Vietnamese Section.
Phú Lâu Sa Phú La: Purusapura
(skt)—See Phú Lâu Na Phú La.
Phú Lưu Sa Phú La: Purusapura
(skt)—See Phú Lâu Na Phú La.
Phú Mộ: Vong linh trở về viếng
mồ ba ngày sau khi đã được chôn cất—To return to visit a grave on the
third day after internment.
Phú Na: Punya, Punar, or Purna
(skt)—See Phú Lâu Na.
Phú Na Bà Tô: Punarvasu
(skt)—Tên của một vị sư Ấn Độ—Name of an Indian monk.
Phú Na Bạt Đà: Purnabhadra
(skt)—Tên cùa một Thần tướng—Name of a spirit-general.
Phú Na Da Xá: Punyayasas
(skt)—Phú Na Dạ Xoa—See Hai Mươi Tám Tổ Ấn Độ (11).
Phú Na Dạ Xa: Punyayasas
(skt)—See Hai Mươi Tám Tổ Ấn Độ (11).
Phú Na Kỳ: Purneccha (skt).
1) Tên
của một loại ngạ quỷ (khi Đức Phật đang trụ tại tịnh xá Trúc Lâm trong
thành Vương Xá, tôn giả Mục Kiền Liên thấy một con quỷ thân hình đen đủi
như cột nhà cháy, bụng to như núi, cổ khẳng khiu như cây kim, vừa chạy
khắp nơi vừa la hét om sòm, đòi phân và nước tiểu để uống. Ngài Mục Kiền
Liên bèn đến hỏi Đức Phật. Đức Phật đáp: “Trong đời Hiền Kiếp nầy ở thành
Xá Vệ, có một vị trưởng giả làm nghề ép mía lấy mật mà trở nên đại phú.
Bấy giờ có vị Bích Chi Phật mắc bệnh tiêu khát, bèn đến vị trưởng giả xin
nước mía để uống. Vị trưởng giả lòng rất hoan hỷ, bảo với người vợ là Phú
Na Kỳ rằng ‘tôi có việc cần phải đi gấp, nàng ở nhà hãy lấy nước mía mà bố
thí cho vị Bích Chi Phật nầy.’ Sau khi chồng đi, người vợ bèn cầm lấy
chiếc bát của vị Bích Chi Phật, vào bên trong mà tiểu tiện vào đó, đoạn đổ
thêm nước mía vào, rồi đưa cho vị Bích Chi Phật. Vị Bích Chi Phật cầm bát
định uống, nhưng biết không phải là nước mía, bèn đổ xuống đất rồi cầm bát
không ra về. Người phụ nữ ấy khi thác sanh đọa làm ngạ quỷ, lúc nào cũng
bị cơn đói khát ghê gớm dày vò)—Name of a preta, or hungry ghost.
2) Tên
của một nhà sư: Name of a monk.
Phú Nông: A rich farmer.
Phú Ông: A rich man.
Phú Quí: Rich and noble.
Phú Sa: Pusya (skt).
1) Một vị
cổ Tiên—An ancient rsi.
2) Tên
một chòm sao: Name of a constellation.
Phú Thọ: Rich and long-lived.
Phú Thương: Rich merchant.
Phú Tục Đế: Thế Tục Đế—Tục đế
chẳng những không lột hết được nghĩa lý mà còn che lấp mất chân lý (thí dụ
như sắc vốn không phải là cái bình mà cho là cái bình; thanh vốn không
phải là ca khúc mà cho là ca khúc)—The unenlightened inversion of reality,
common views of things.
Phù:
1) Nổi
lềnh bềnh: Floating—Drifting—Unsettled.
2) Phù
trợ—Aid—Support—Uphold.
Phù Chú: Incantation.
Phù Danh: Vainglory.
Phù Dung Đạo Giai Thiền Sư: Zen
master Fu-Reng-T’ao-Jai—Thiền sư Phù Dung Đạo Giai sanh năm 1043 tại Nghi
Châu (nay thuộc tỉnh Sơn Đông), là đệ tử của Đầu Tử Nghĩa Thanh—Zen master
Fu-Reng-Yi-Qing was born in 1043 in Yi-Chou (now the city in southern
San-T’ong Province), was a disciple of T’ou-Tzi-Yi-Qing.
·
Sư hỏi Đầu Tử: “Ngôn giáo của Phật Tổ như việc cơm nước
thường ngày trong nhà, lìa rời việc nầy riêng có chỗ vì người hay chăng?”
Đầu Tử đáp: “Ngươi nói sắc lệnh của Thiên Tử trong cõi nầy, lại nhờ vua
Võ, vua Thang, Nghiêu, Thuấn hay chăng?” Sư suy nghĩ để đáp lại. Đầu Tử
lấy phất tử bịt miệng sư, nói: “Ngươi phát ý ra đã đáng ăn ba mươi gậy
rồi.” Ngay câu nói nầy, sư tỉnh ngộ, đảnh lễ, liền lui ra. Đầu Tử gọi: “Xà
Lê hãy lại đây.” Sư chẳng ngó lại. Đầu Tử nói: “Ngươi đến chỗ chẳng nghi
chăng?” Sư liền bịt tai—Fu-Rong asked T’ou-Tzi: “The words of the Buddhas
and ancestors were about everyday things such as drinking tea or eating
rice. Besides this, does the teaching have anything special for people or
not?” T’ou-Tzi said: “You speak the Cosmic Emperor’s edict. Are you
pretending to be Yao, Shun, Yu, and T’ang or not? Fu-Rong wanted to
continue speaking but T’ou-Tzi raised his whisk and placed it over
Fu-Rong’s mouth, saying: “If you have some intention, then you already
deserve thirty hits with the stick!” Fu-Rong then experienced
enlightenment. He bowed and turned to leave. T’ou-Tzi said: “Come back!
Your reverence!” Fu-Rong ignored him. T’ou-Tzi said: “Have you come to
the place of no doubt?” Fu-Rong then covered his ears with his hands.
·
Một hôm, sư theo Đầu Tử đi dạo vườn trà. Đầu Tử trao cây gậy
cho sư, sư nhận lấy liền đi theo sau Đầu Tử. Đầu Tử bảo: “Lý nên thế ấy.”
Sư thưa: “Cùng Hòa Thượng xách giày cầm gậy, cũng chẳng phải việc phần
ngoài.” Đầu Tử bảo: “Vẫn có người đồng hành.” Sư thưa: “Đây là một người
không nhận dạy.” Đầu Tử thôi hỏi. Đến chiều, Đầu Tử bảo: “Sớm mai nói
thoại chưa hết.” Sư thưa: “Thỉnh Hòa Thượng nói tiếp.” Đầu Tử nói: “Mạo
sanh nhật, tuất sanh nguyệt.” Sư liền đốt đèn đem đến. Đầu Tử nói: “Ngươi
đi lên đi xuống đều không luống công.” Sư thưa: “Ở bên cạnh Hòa Thượng lý
phải như thế.” Đầu Tử nói: “Kẻ tôi đòi trong nhà nào mà không có.” Sư
thưa: “Hòa Thượng tuổi cao thiếu nó không được.” Đầu Tử hỏi: “Ân cần cái
gì?” Sư thưa: “Có phần đền ăn.”—One day, T’ou-Tzi and Fu-Rong were walking
in the vegetable patch. T’ou-Tzi came up to Fu-Rong and handed him his
staff. Fu-Rong took it, then walked behind T’ou-Tzi. T’ou-Tzi said: “Is
this in accordance with principle?” Fu-Rong said: “Carrying the master’s
shoes or staff for him, it can’t be otherwise.” T’ou-Tzi said: “There’s
one walking with me.” Fu-Rong said: “Who’s not learning from you?”
T’ou-Tzi went back. When evening came, he said to Fu-Rong: “The master we
spoke of earlier isn’t finished.” Fu-Rong said: “Master, please speak your
mind.” T’ou-Tzi said: “The morning gives birth to the sun. The evening
gives birth to the moon.” Fu-Rong then lit the lamp. T’ou-Tzi said: “Your
comings and goings, none of it is like that of a disciple.” Fu-Rong said:
“Taking care of the master’s affairs, this is in accordance with
principle.” T’ou-Tzi said: “Servants and slaves, what household doesn’t
have them?” Fu-Rong said: The master is advanced in years. Neglecting him
is unacceptable.” T’ou-Tzi said: “So this is how you apply your
diligence!” Fu-Rong said: “One should repay kindness.”
·
Vào ngày mười bốn tháng tám âm lịch năm 1118, sư hỏi bút
giấy, đoạn viết kệ:
“Ngô niên thất thập lục
Thế duyên kim dĩ túc
Sanh bất ái thiên đường
Tử
bất phạ địa ngục
Tán thủ hoành thân tam giới ngoại
Đằng đằng nhận vận hà câu thúc.”
(Ta tuổi bảy mươi sáu,
Duyên đời nay đã đủ
Sanh chẳng thích thiên đường
Chết chẳng sợ địa ngục
Buông tay đi ngang ngoài tam giới
Mặc tình vươn bổng nào buộc ràng).
Sau đó, sư thị
tịch.
On the fourteenth day of the eighth lunar
month in the year 1118, Fu-Rong asked for a brush and paper. He then wrote
this verse:
“I’m seventy-six
years old,
My causational
existence is now completed
In life I did not
favor heaven
In death I don’t
fear hell
Hands and body
extend
beyond the three
realms.
What stops me from
roaming as I please?
Soon after writing
this verse, the master
passed away.
Phù Đà: See Buddha and Stupa in
Sanskrit/Pali-Vietnamese Section, and Phật in Vietnamese-English Section.
Phù Đầu: See Buddha and Stupa
in Sanskrit/Pali-Vietnamese Section, and Phật in Vietnamese-English
Section.
Phù Đồ:
1) Buddha
(skt): Còn gọi là Hưu Đồ, là âm khác của Phật Đà—Another name for
Buddha—See Buddha in Sanskrit/Pali-Vietnamese Section, and Phật in
Vietnamese-English Section.
2) Stupa
(skt): Xưa gọi Phật giáo là Phù Đồ, về sau nầy từ Phù Đồ dùng để chỉ riêng
tháp thờ xá lợi Phật—Formerly “Phù Đồ” means “Buddhism;” however,
nowadays, it is used to indicate a stupa of Buddha’s relics—See Stupa in
Sanskrit/Pali-Vietnamese Section.
Phù Hợp: To agree—To
correspond—To accord.
Phù Hộ: To protect (spirits).
Phù Khổng: Lổ hỏng xuyên qua
bọng cây trôi lền bềnh trên biển, mà con rùa một mắt tình cờ nhìn thấy
được mặt trăng, quả là cơ hội hiếm có, giống như cơ hội được gặp Phật quả
là hiếm hoi vậy—A hole in a floating log, through which a one-eyed turtle
accidentally obtains a glimse of the moon, the rarest of chances, e.g. the
rareness of meeting a Buddha.
Phù Luật Đàm Thường Giáo: Giáo
pháp phù trợ giới luật, thuyết giải Phật tính thường trụ, như trong Kinh
Niết Bàn—The teaching which supports the rules and speaks of the eternal,
i.e. the Nirvana Sutra.
Phù Mộc: Khúc gỗ nổi (dụ con
rùa mù và khúc gỗ nổi)—A floating log—See Manh Quy.
Phù Nang: Chiếc phao (vật mà
người đi sông lớn hay biển thường hay mang theo để đề phòng chết đuối. Phù
nang ví như giới cấm đối với người tu. Muốn vượt qua biển khổ, muốn chấm
dứt luân hồi, người tu phải giữ gìn giới luật, không giữ giới thì chẳng
khác nào đâm lủng phao, chẳng những không qua được bờ bên kia, mà còn bị
nhận chìm trong biển đời sanh tử nữa)—A floating bag, a swimming float, a
lifebuoy.
Phù Phép Phù Du: Externalist
guru or shaman.
Phù Phiếm: Futility
Phù Sinh: Short life.
Phù Sớ: Tên khác của Kinh Niết
Bàn mà tông Thiên Thai cho rằng là sự khuếch đại của Kinh Pháp
Hoa—Supporting Commentary, another name for the Nirvana Sutra. According
to the T’ien-T’ai, it is an amplification of the Lotus Sutra.
Phù Tát: Bodhisattva (skt)—See
Bồ Tát.
Phù Trần: Bụi nổi—Tất cả các
pháp hữu vi đều như bụi nổi, không chân thực. Nó che lấp mất chân
tính—Floating dust or atoms, unstable matter, i.e. phenomena which hide
reality.
Phù Trần Căn: Ngũ Trần Phù Trợ
Chính Căn hay ngoại hình của ngũ căn, có thể thấy được hay nghe được như
thị giác, thính giác, vân vân, là phù trần phù trợ “chính căn.” Đối lại
với thắng nghĩa căn—The external organs of sensation, i.e. of sight,
hearing, etc, which aid the senses. Also means “fleeting,” or “vacuous,”
these external things having an illusory existence; the real organs, or
indriya; in contrast with the function of faculty of sensation.
Phù Tưởng: Những tư tưởng phù
phiếm không thật—Passing thoughts, unreal fancies.
Phù Vân: Đời sống hay thân nầy
cũng trôi nổi giống mây bay vậy—A drifting cloud, e.g. this life, or the
body.
Phủ Quyết: To veto.
Phũ Phàng: Brutal—Cruel.
Phuï:
1) Cha:
Tỷ Đa—Father.
2) Đàn
bà: A woman.
3) Phụ
Trợ: Subsequent—To aid—To assist.
4) Phụ
Cận: Adjoin—Near.
5) Phụ
Lục: Appendix—Attached to.
6) Theo
giáo điển nhà Phật, không có thứ gì nguy hiểm cho cuộc sống tịnh xá hơn
đàn bà. Đàn bà là cội rễ khổ đau, là chướng ngại, là sự hủy diệt, là vướng
mắc, sầu khổ, hận thù và mù quáng, vân vân—A woman—According to Buddhist
teaching, nothing is so dangerous to monastic chastity as woman. She is
the root of all misery, hindrance, destruction, bondage, sorrow, hatred,
blindness, etc.
7) Phụ
phàng: To turn the back on someone.
8) Tiền
phúng điếu: Pecuniary aid for funerals.
9) Vác
mang trên vai hay lưng: To bear on the shoulder or back.
10) Vợ: A
wife.
Phụ Cận:
Adjacent—Near—Neighboring.
Phụ Giúp: To help—To assist.
Phụ Họa: To repeat someone’s
opinion.
Phụ Khuyết: To be alternate.
Phụ Liêu: Deputy in a
monastery.
Phụ Mẫu: Cha mẹ—Father and
mother—Parents.
(A) Vô minh
và tham ái được coi như là cha mẹ của phiền não và nghiệp chướng—The two
‘ignorance and concupiscence’ being the parents of all delusion and karma.
1) Phụ Vô
Minh: Ignorance is referred to as father.
2) Mẫu
Tham Ái: Desire or concupiscence as mother.
(B) Tam Ma
Địa cũng được coi như cha, và Bát Nhã được coi như mẹ của tất cả trí tuệ
và công đức—Samadhi is also referred to as father, and prajna (wisdom) as
mother, the parents of all knowledge and virtue.
1) Cha
Tam Ma Địa: Samadhi is referred to as father.
2) Mẹ Bát
Nhã: Prajna as mother.
(C) Trong
chập chùng sanh tử luân hồi, tất cả người nam đã từng là cha ta, và tất cả
người nữ đã từng là mẹ ta (Nhứt thiết nam nữ ngã phụ mẫu trong kinh Tâm
Địa Quán)—In the vast interchanges of rebirth all have been or are my
parents, therefore all males are my father and all females my mother.
Phụ Mẫu Phu Thê Tử Tôn Thân Bằng Quyến
Thuộc: Parents-Husbands and
Wives-Children-Friends-Relatives—Theo Kinh Duy Ma Cật, Phẩm Tám, Cư Sĩ Duy
Ma Cật đã nói về phụ mẫu, phu thê, tử tôn, thân bằng, quyến thuộc như
sau—According to the Vimalakirti Sutra, Chapter Eighth, trong chúng hội có
Bồ Tát tên Phổ Hiện Sắc Thân hỏi ông Duy Ma Cật rằng: “Cư sĩ! Cha mẹ, vợ
con, thân bằng quyến thuộc, những người trí thức là ai? Tôi tớ, trai bạn,
voi ngựa, xe cộ ở đâu?”—A Bodhisattva called Universal Manifestation, who
was present asked Vimalakirti: “Who are your parents, wife and children,
relatives and kinsmen, official and private friends, and where are your
pages and maids, elephants and horse carts?” Duy Ma Cật dùng bài kệ đáp
rằng—In reply Vimalakirti chanted the following:
1)
Trí độ mẹ Bồ Tát, phương tiện ấy là cha, Đạo sư tất cả chúng, đều
do đấy sinh ra—Wisdom-perfection is a Bodhisattva’s Mother, his father is
expedient method, For the teachers of all living beings come, Only from
these two (upaya and prajna).
2)
Pháp hỷ chính là vợ, tâm từ bi là gái, tâm thành thực là trai, rốt
ráo vắng lặng nhà—His wife is joy in Dharma’s law; Kindness and pity are
his daughters; His sons morality and truthfulness; Absolute voidness his
quiet abode.
3)
Trần lao là đệ tử, tùy ý mà sai xử, đạo phẩm vốn bạn lành, do đấy
thành Chánh giác—Passions are his disciples Whom he transforms at will.
Bodhipaksita dharma are his friends. Helping him to win supreme
enlightenment.
Phụ Môn: Bị thua trong cuộc
tranh luận—Positions that have been withdrawn from in argument—Defeated.
Phụ Nhân:
1) See
Phụ (6).
2) Vợ: A
wife.
Phụ Phàng: To put away
(betray—desert) one’s wife or husband.
Phụ Phật Pháp Ngoại Đạo: Ngoại
đạo nằm ngay trong lòng Phật Giáo (chỉ những người mang danh Phật tử mà
luôn bị tà vạy mê hoặc)—Heretics within Buddhism.
Phụ Tá: To assist—To help.
Phụ Tâm: Ungratefulness.
Phụ Thành: Thành của phụ vương
của Đức Phật hay thành Ca Tỳ La vệ—The paternal or native city, especially
Sakyamuni, Kapilavastu.
Phụ Thân: Cha—Father—Daddy.
Phụ Thuộc Lẫn Nhau:
Interdependent
Phụ Tình: See Phụ Phàng.
Phụ Trách: To undertake—To
assume the responsibility.
Phúc:
1) Cái
bụng: The belly.
2) Phước
đức: Blessing—Happiness—Felicity—Good fortune.
Phúc Báo: See Phước Báo.
Phúc Đáp: To reply—To answer—To
respond.
Phúc Địa: Tên gọi chùa chiềng,
mảnh đất sinh ra phúc đức—A place of blessedness, a monastery.
Phúc Điền: Zen Master Phúc
Điền—Thiền sư Phúc Điền, quê ở Hà Đông. Ngài là người có công trong việc
bảo tồn sử liệu Phật Giáo Việt Nam. Ngài thường trụ tại chùa Liên Tông để
hoằng pháp. Ngài cũng là người khai sơn chùa Thiên Quang trên núi Đại Hưng
ở Hà Nội. Sau đó, không ai biết ngài đi đâu và thị tịch hồi nào—A
Vietnamese Zen master from Hà Đông, North Vietnam. He had the credit of
preserving a lot of Vietnamese Buddhist history materials. He stayed most
of his life at Liên Tông Temple in Hanoi to expand the Buddha Dharma. He
was also the founder of Thiên Quang Temple at Mount Đại Hưng in Hanoi.
Where and when he passed away were unknown.
Phúc Đình: Sảnh đường của phúc
đức, hay tự viện—A court, or hall, of blessedness, a onastery.
Phúc Đức: See Phước Đức.
Phúc Hậu:
Kind—Virtuous—Benevolent.
Phúc Họa: Happiness and
misfortunes.
Phúc Lộc: Happiness and wealth
Phúc Lợi: Well-being
Phúc Nhân:
1) Một
người sung sướng hạnh phúc: Happy man.
2) Nghiệp
nhân cảm ứng từ quả phúc đức, thí dụ như thiện căn: A cause which gives
rise to blessing, i.e. all good deeds.
Phúc Nhơn Sanh Phúc Quả:
Blessed deeds produce blessed rewards, now and hereafter.
Phúc Thọ: Happiness and
longevity.
Phúc Tinh: Lucky star.
Phúc Trạch: Happiness and
favour.
Phúc Trung:
1) Cái
trong bụng: Within the belly.
2) Đứa
trẻ chưa sanh: Unborn child.
3) Trái
tim: The heart.
4) Tử
cung: Womb.
Phục:
1) Y
phục: Clothes.
2) Phúc
đáp: To reply.
3) Phục
hồi: To revert—Again.
4) Phục:
To admire—To esteem.
5) Tang
phục: Mourning clothes.
6) Nuốt:
To swallow.
Phục Bái: Bái phục—To prostrate
oneself.
Phục Chức: To reinstate
someone—To restore someone to his former position.
Phục Dịch: To serve (attend)
someone.
Phục Dược: To take the
medicine.
Phục Đà Mật Đa: Buddhamitra
(skt)—Vị tổ thứ chín trong hai mươi tám tổ Ấn Độ, tác giả của bộ Ngũ Môn
Thiền Kinh Yếu Dụng Pháp—Buddhamitra, the eighth patriarch of the
twenty-eight patriarchs in India, author of the
Pancadvara-dhyana-sutra-mahartha-dharma.
Phục Hình: To suffer a
punishment.
Phục Hoạt: Sống trở lại—To
return to life—To live again—To resurrect.
Phục Hoặc: To tame binding
karmas—Phục hoặc có nghĩa là hành giả đã đạt được thành tựu tâm linh nào
đó có thể hàng phục được các hoặc nghiệp trói buộc—To tame binding karmas
means the cultivator has reached certain spiritual achievements to remain
somewhat free from his or her karmic afflictions.
Phục Hồi: To restore.
Phục Hồi Sức Khỏe: To restore
one’s health.
Phục Hồn: To call (raise) a
spirit.
Phục Hưng: To rise again—To
revive.
Phục Mệnh: To carry out an
order.
Phục Nguyện: To make a vow.
Phục Nhẫn: Nhẫn thứ nhất trong
ngũ nhẫn—The first of the five forms of submission—See Ngũ Nhẫn.
Phục Pháp: See Phục hình.
Phục Phịch: Fat and clumsy.
Phục Sinh: Ngoại đạo tin rằng
có cái gọi là “Sống lại”—Externalists believe that there exists a
so-called Resurection (come to life again or return from the dead).
Phục Sức: Hoàn tục (người đã
một lần tháo bỏ đồ trang sức để xuất gia, nay lại để tóc dài mặc đồ thế
tục nên gọi là phục sức)—To return to ordinary garments, i.e. to doff the
robes for lay life—Clothes and adornments.
Phục Thiện: Làm lành lánh ác—To
yield to reason—To do good and get rid of evil.
Phục Thù: To take revenge.
Phục Thủy Luận Sư: Một trong 20
thứ ngoại đạo. Phục Thủy Luận Sư cho rằng nước là căn bản của vạn vật.
Nước có khả năng sanh ra trời đất; nước cũng có bản năng hủy hoại vạn hữu.
Ngoại đạo nầy lấy nước làm cứu cánh Niết Bàn—The sect of non-Buddhist
philosophers (one of the twenty heretic sects) who considered water the
beginning and end of all things.
Phục Tòng: To obey—To yield—To
submit.
Phục Vụ: To serve.
Phủi: To dust off.
Phun Lửa: To spit fire.
Phung Phí: To waste.
Phúng: Nói bóng gió hay châm
biếm—To satirize—To intone.
Phúng Điếu: To offer ritual
objects to a deceased person.
Phúng Kinh: Điều chỉnh giọng
nói để phúng tụng kinh văn, đặc biệt là trong các cuộc lễ (dù là pháp của
Bà La Môn, nhưng Đức Phật vẫn cho phép chư Tăng Ni dùng trong các buổi
tụng kinh cho thuận theo lòng người)—To intone a scripture, especially
one suited to the occasion.
Phúng Tụng: Gatha (skt)—Già
Đà—Những câu phúng vịnh, tán thán nghĩa lý thâm diệu và ca tụng công đức
của Phật và Tam Bảo—To intone—To sing.
Phụng:
1) Phụng
tế: To serve—To worship.
2) Phụng
sự: To serve someone respectfully.
3) Chim
Phượng (chim trống): Một loài chim biểu trưng cho sự cát tường—A male
phoenix—An auspicious bird.
Phụng Dưỡng Mẹ Cha: To support
one’s parents
Phụng Gia: See Phụng Nạp.
Phụng Hành:
1) Làm
theo mệnh lệnh: To execute an order.
2) Tuân
theo và thực hành chỉ giáo của Đức Phật: Devout practicing—To obey and
practise the Buddha’s teaching.
Phụng Hiến: Hiến tặng quà cho
bề trên—To offer gifts to one’s superiors.
Phụng Hoàng: Cặp chim Phụng
Hoàng.
1) Phụng:
A male phoenix.
2) Hoàng:
A female phoenix.
Phụng Nạp: To make
offerings—See Cúng Dường.
Phụng Sát: Một từ dùng để chỉ
tự viện Phật giáo—Phoenix ksetra, a term for a Buddhist temple.
Phụng Sơn: Tên một ngôi chùa cổ
nổi tiếng, tọa lạc trong quận 11 thành phố Sài Gòn, Nam Việt Nam. Chùa còn
có tên là Chùa Gò, được Hòa Thượng Liễu Thông xây vào đầu thế kỷ thứ 19.
Đến năm 1904, chùa được Hòa Thượng Minh Tuệ trùng tu. Bên cạnh chùa có cây
bạch mai cao 5 thước, được trồng từ năm 1909. Chùa khi xưa nổi tiếng là
một thắng cảnh của tỉnh Gia Định. Gần đây một nhóm các nhà khảo cổ ở thành
phố Sài Gòn đã tìm thấy dấu vết của một ngôi đền cổ Bà La Môn, đã chìm sâu
dưới đất, được xây cách nay hơn 1.500 năm, với kiểu kiến trúc của vương
quốc Phù Nam. Những tác phẩm nghệ thuật bằng gỗ vẫn còn được lưu giữ trong
chùa, đặc biệt là các tượng Phật tròn, như bộ tượng tam thế, Ngũ Hiền, vân
vân, được chạm trổ từ khoảng năm 1904 đến năm 1915 trong giai đoạn trùng
tu chùa. Trong Chánh điện có bộ tượng Ngũ Hiền, gồm năm tượng. Tượng Đức
Phật Thích Ca cưỡi sư tử; tượng Văn Thù cưỡi sư tử; tượng Thế Chí cưỡi voi
chín ngà; tượng Quán Âm cưỡi cọp; và tượng Phổ Hiền cưỡi lân. Các pho
tượng được đặt trên đá chạm lởm chởm—Name of a famous ancient pagoda
located in the Eleventh district, Saigon City, South Vietnam. It is also
called Gò Pagoda. The pagoda was established by Most Venerable Liễu Thông
in the early nineteenth century. The Most Venerable Minh Tuệ rebuilt it in
1904. Next to the pagoda is a five-meter white apricot raised in 1909. At
one time, Gò Pagoda was a beauty spot of Gia Định province. Recently, a
group of archaeologists of Saigon City have found the remnants of a
Hinduist ancient temple built 1,500 years ago, and buried deep
underground. The temple symbolized the architecture of Founan Kingdom. The
artistic wooden masterpieces conserved in the pagoda primarily are round
statues such as those of the Buddhas of the Three Periods, the Five Sages,
etc., cast from 1904 to 1915 during the reconstruction of the pagoda. In
the Main Hall, there are five statues of the Five sages. The statue of
Sakyamuni Buddha was cast riding a lion; that of Majusri Bodhisattva
riding a lion; Mahasthama statue sitting on a nine-tusk elephant;
Avalokitesvara Bodhisattva statue riding a tiger; and Samantabhadra
Bodhisattva riding a unicorn. These statues are placed on a ruggedly
carved stone pedestal.
Phụng Sự: To serve—To carry out
an order.
Phụng Sự Chúng Sanh Tức Là Cúng Dường Chư
Phật: To serve (perform) good deeds for sentient beings, you
have also made offerings to the Buddhas.
Phụng Thờ: To worship.
Phụng Thừa: To follow blindly.
Phút Chốc: In a moment.
Phụt:
1) Phụt
lên: To spring up (water).
2) Bất
chợt: Suddenly.
Phụt Tắt: Chợt tắt—Suddenly
went out.
Phức:
1) Gấp
hai: Double.
2) Lập
lại: Repeated.
3) Loại
áo kép—Double garments.
Phức Tạp: Complicated.
Phưng Phức: Rất thơm tho ngọt
ngào—Very sweet-smelling.
Phừng: To burst into.
Phước Báo: Phước báo tưởng
thưởng, như được tái sanh vào cõi trời hay người—Merits—Blessings—A
blessed reward, e.g. to be born as a man or a deva.
Phước Cái: Tàng lọng của phước
báo—The cover, or canopy, of blessing.
Phước Địa: See Phúc Địa.
Phước Điền:
(I) Nghĩa
của Phước Điền—The meanings of Field of Blessedness: Ruộng cho người gieo
trồng phước báo. Người xứng đáng cho ta cúng dường. Giống như thửa ruộng
gieo mùa, người ta sẽ gặt thiện nghiệp nếu người ấy biết vun trồng hay
cúng dường cho người xứng đáng. Theo Phật giáo thì Phật, Bồ tát, A La Hán,
và tất cả chúng sanh, dù bạn hay thù, đều là những ruộng phước đức cho ta
gieo trồng phước đức và công đức—The field of blessedness or the field for
cultivation of happiness, meritorious or other deeds, i.e. any sphere of
kindness, charity, or virtue. Someone who is worthy of offerings. Just as
a field can yield crops, so people will obtain blessed karmic results if
they make offerings to one who deserves them. According to Buddhism,
Buddhas, Bodhisattvas, Arhats and all sentient beings, whether friends or
foes, are fields of merits for the cultivator because they provide him
with an opportunity to cultivate merits and virtues
(II) Phân
loại Phước Điền—Categories of Field of blessedness:
(A) Nhị Phước
điền—There are two kinds of felicity:
1) Hữu
lậu phước điền (giúp con người cải thiện điều kiện sống trong kiếp lai
sanh): Worldly field for cultivating of happiness which helps the
cultivator to have better living conditions in the next life.
a. Bi
điền: Compassion fields—Chăm sóc cho người bịnh đáng thương hay người
nghèo khó—Tender the sick, the pitiable, or poor and needy as the field or
opportunity for charity.
b. Kính
điền: Revverence fields—Hộ trợ chư Tăng Ni. Kính trọng Phật và Thánh
chúng—Support the monks and the nuns. The field of religion and reverence
of Buddhas, the saints and the priesthood.
c. Ân
điền: Gratitude fields.
·
Gieo phước nơi cha mẹ: Cultivate blessedness in parents—Be
dutiful to one’s parents.
·
Gieo phước bằng cách đắp đường, đào giếng, xây cầu, bồi lộ:
Cultivate lessedness in making roads and wells, canels and bridges;
repair dangerous roads.
2) Vô lậu
phước điền: Niết bàn là ruộng phước vĩnh cửu—Nirvana (out of passion)
field for cultivating of an eternal happiness.
(B) Tam Phước
điền—Three sources of felicity—See Tam Phước.
(C) Tứ Phước
Điền—Four fields of felicity—See Tứ Phước Điền.
(D) Bát Phước
Điền: Eight fields for cultivating blessedness—see Bát Phúc Điền.
Phước Điền Tự: Còn gọi là chùa
Hang, tọa lạc tại núi Sam, thị xã Châu Đốc, tỉnh Châu Đốc, Nam Việt Nam.
Chùa Hang là một hang đá thiên nhiên. Chánh điện và nhà hậu tổ do bà Thợ
dựng lên từ năm 1840 đến 1845 bằng tre và lá đơn sơ. Đến năm 1885, ông
Phán Thông ở Châu Đốc cùng nhân dân trong vùng dựng lại chùa. Năm 1946,
Hòa Thượng Nguyễn Văn Luận đứng ra trùng tu ngôi chùa như hiện nay. Chùa
Hang là một quần thể di tích có kiến trúc đẹp, nổi bậc nhất là các hang đá
thiên nhiên với nhiều huyền thoại hấp dẫn khách thập phương—Name of a
temple located in Mount Sam, Châu Đốc town, Châu Đốc province, South
Vietnam. Hang Temple is a natural cave where the Main Hall and the
Patriarch Hall were simply built by Ms. Thợ from 1840 to 1845. In 1885, a
government clerk named Thông and the local people rebuilt the temple. In
1946, Most Venerable Nguyễn Văn Luận rebuilt it again. Hang temple is a
beautiful complex of architecture. There one can find many natural caverns
relating to legends and myths attractive to the pilgrims.
Phước Điền Y: Y áo của ruộng
phước, hay y áo của chư Tăng Ni—The robe of a field of happiness (the
garment of the field of blessing, or the monk’s robe).
Phước Đức: Punya (skt)—Phước
đức do quả báo thiện nghiệp mà có. Phước đức bao gồm tài sản và hạnh phước
của cõi nhân thiên, nên chỉ là tạm bợ và vẫn chịu luân hồi sanh
tử—Blessings and virtues—Merit—Blessed virtues—All good deeds, or the
blessing arising from good deeds. The karmic result of unselfish action
either mental or physical. The blessing wealth, intelligence of human
beings and celestial realms; therefore, they are temporary and subject to
birth and death.
Phước Đức Công Đức Không Thể Nghĩ Bàn:
Incomparable merit and virtue.
Phước Đức Môn: Cửa phước đức,
ba la mật thứ năm trong sáu ba la mật—The gate of blessedness and virtue,
the first five of the six paramitas.
Phước Đức Thân: Thân Phật trong
niềm hỷ lạc tột cùng của phước đức tam muội—The Buddhakaya, or body of
Buddha, in the enjoyment of the highest samadhi bliss.
Phước Đức Trang Nghiêm: Tu
thiện hạnh phúc đức mà đắc được Phật quả trang nghiêm—The adornment of
blessedness, i.e. of good deeds
Phước Đức Tư Lương: Những chất
dinh dưỡng vun trồng phước đức, như bố thí—The nutriment of blessedness,
i.e. deeds of charity.
Phước Hải: Tên của một ngôi
chùa cổ tọa lạc trong quận nhất, thành phố Sài Gòn, Nam Việt Nam. Chùa
được một vị tổ người Hoa tên Lưu Minh xây vào cuối thế kỷ 19, và được
khánh thành vào năm 1906. Trong Chánh điện có các tượng Ngọc Hoàng, các
Thiên Thần, như Thần Mây, Thần Mưa, Thần Sấm, Thần Chớp, Tứ Thiên Vương.
Giữa Chánh Điện thờ tôn tượng Đức Phật Thích Ca—Name of a famous ancient
pagoda, located in the First district, Saigon City, South Vietnam. The
pagoda was called Đa Kao pagoda by the French. It was built by Liu-Ming, a
Chinese Patriarch in the late nineteenth century and inaugurated in 1906.
In the Main Hall, there are statues of the Emperor of Jade and other
Deities as those of Cloud, Wind, Rain, Thunder, Lightning, and the Four
Kings of Heaven. The statue of Sakyamuni Buddha is worshipped in the
middle of the Main Hall.
Phước Hành: Một trong tam hành
làm ảnh hưởng đến nghiệp, hành pháp cảm ứng phúc lợi của nhân thiên như
ngũ giới và thập thiện giới, vân vân—One of the three lines of actions
that affect karma, the life or conduct which results in blessing, e.g.
being reborn as a man or deva, as a result of the cultivation of the five
basic commandments, or the ten good deeds.
Phước Hậu: Hòa Thượng Phước
Hậu, một trong những đại đệ tử của Hòa Thượng Tâm Truyền. Ngài là một
Thiền sư lại có khiếu làm thơ. Tiếc thay, qua bao biến cố, thơ văn của
ngài bị thất lạc, chỉ còn lại bài thơ sau đây, di ngôn thấm nhuần đạo vị
của ngài—Most Venerable Phước Hậu, one of the most outstanding disciples
of Most Venerable Tâm Truyền (Tâm Truyền was a disciple of Diệu Giác; Diệu
Giác was a disicple of Nhất Định). He was both a Zen master and a poet. It
was regrettable that now, after so many changes, all that remains of his
works is merely a poem, as his last words imbued with Buddhist thoughts:
Kinh điển lưu truyền
tám vạn tư
Học hành không
thiếu cũng không dư,
Năm nay tính lại
chừng quên hết
Chỉ nhớ trên đầu
một chữ NHƯ!
Buddhist sutras
are not few.
My learning cannot
be said to be
satisfactory or
poor.
I have forgotten
all,
it seems, now
looking back.
There only remains
in my heart the word
“NHƯ.”
Phước Hòa: Tên một ngôi chùa cổ
nổi tiếng, tọa lạc trong quận ba, thành phố Sài Gòn, Nam Việt Nam. Chùa đã
được xây dựng từ lâu lắm (không rõ niên đại) với kiểu kiến trúc cổ của các
chùa miền Nam. Năm 1958, chùa được trùng tu theo kiến trúc như hiện nay.
Trước đây chùa là trụ sở của Hội Phật Học Nam Việt. Ngày 24 tháng 2 năm
1952, nhân ngày đại hội, lá cờ Phật giáo đầu tiên ở miền Nam được treo tại
chùa. Ngày 1 tháng 4 năm 1956, nhiệm kỳ hai đại hội Phật giáo cũng được
triệu tập tại chùa Phước Hòa. Trong Chánh điện có ba tượng gỗ, tượng Phật
Thích Ca, tượng Diệm Ma Vương, tượng Quán Thế Âm nghìn tay nghìn mắt, được
tạc vào khoảng từ năm 1960 đến năm 1962—Name of a famous ancient pagoda
located in the third district, Saigon City, South Vietnam. The pagoda was
built a long time ago, with its ancient architectural style of South
Vietnam’s pagodas. In 1958, it was rebuilt as it is seen today. Formerly,
the pagoda functioned as the office of South Vietnam Association of
Buddhist Studies. It was at this pagoda, the Buddhist flag was hung for
the first time on the occasion of the Congress of the Association on
February 24, 1952. On April first, 1956, the second session of Congress of
the Vietnam Buddhist Sangha organized its opening at Phước Hòa Pagoda. In
the Main Hall, there are three wooden statues of Sakyamuni Buddha, Yama of
Hell, and One-thousand-arm and one-thousand-eye Avalokitesvara
Bodhisattva. These statues were cast from 1960 to 1962. The statue of
Sakyamuni Buddha is 2.5 meters high, 2 meters wide.
Phước Huệ:
1) Phước
đức và trí huệ—Blessings, or blessedness and wisdom—Virtue and wisdom.
2) Tên
của một Pháp Sư người Việt Nam tại Úc, vị lãnh đạo Phật giáo quan trọng
tại Úc Châu và Tân Tây Lan. Ông còn là chủ tịch Giáo Hội Việt Nam Thống
Nhất tại Úc Châu và Tân Tây Lan. Ông là người đã sáng lập ra Trung Tâm Văn
Hóa Việt Nam ở Sydney. Trước năm 1975, Hòa Thượng Phước Huệ là giảng sư
trong nhiều năm tại Ấn Quang, một trung tâm Phật giáo nổi bậc của miền Nam
Việt Nam thời bấy giờ—Name of an important Vietnamese Buddhist leader in
Australia and New Zealand, and current head of the Vietnamese Unified
Buddhist Congress in Australia and New Zealand. He is a founder of Vietnam
Cultural Center in Sydney. Before 1975, Most Venerable Phước Huệ taught
for many years at An Quang Pagoda, the pre-eminent Buddhist Center in
South Vietnam.
Phước Huệ Song Tu, Đồng Đăng Bỉ Ngạn:
To practice blessings (offerings and charity) and wisdom (meditation) at
the same time, you will surely obtain enlightenment.
Phước Hưng: Tên của một ngôi tự
viện cổ nổi tiếng, tọa lạc trong thị xã Sa Đéc, tỉnh Sa Đéc, Nam Việt Nam.
Chùa được Hòa Thượng Minh Phúc khởi công xây cất năm 1838. Chùa có lối
kiến trúc khá đặc sắc. Chánh điện hình chữ nhật dài 19 mét 5, rộng 14 mét,
trên nóc trang trí theo kiểu của người Trung Hoa. Bên trong chánh điện
được tôn trí trang nghiêm. Ở đây có một pho tượng Phật A Di Đà cổ bằng đất
thếp vàng; một chiếc trống cổ khắc năm 1828 có bề ngang 1 mét 4, đường
kính 90 phân, và bức hoành sơn son thếp vàng chạm trổ công phu, ở giữa có
chạm chiếc lá Bồ Đề có ghi ba chữ Hán: “Phước Hưng Tự 1882,” hai bên là
hai bản Lạc Hoa và Thạnh Hoa khắc năm 1846. Chùa hiện còn lưu giữ nhiều
bản kinh khắc gỗ chữ Hán hai mặt, mỗi tấm bề ngang 20 phân, dọc 30 phân,
dầy 3 phân, khắc các bộ kinh Địa Tạng, Kim Cang, Phổ Môn, Bát Nhã, vân
vân—Name of a famous ancient pagoda located in Sa Đéc town, Sa Đéc
province, South Vietnam. The pagoda was built in 1838 by Most Venerable
Minh Phúc. It has a rather distinctive architecture. Its Main Hall is a
rectangular building, 19.5 meters long, 14 meters wide, the top of which
is decorated in Chinese pagoda’s style. The Main Hall is arranged
solemnly. Here stands the old statue of Amitabha Buddha made of clay and
gilded. There are also an ancient drum made in 1828, 1.4 meters in width
and 0.90 meter in diameter and a horizontal board elaboratedly gilded and
engraved. In the middle of the board, a leaf of Bo-tree was carved, on
which are three Chinese characters “Phước Hưng Tự 1882.” On both sides of
the board are respectively the words Lạc Hoa and Thịnh Hoa. The pagoda has
also conserved many wooden pieces on which a lot of sutras were written.
The dimension of every piece is 20 by 13 by 3 centimeters. The names of
these sutras are Kshigarbha, Vajrachedika, Prajna Paramita, etc.
Phước Khánh: Chúc phúc cho
ai—Blessedness and felicity, or blessed felicity—To congratulate on good
fortune.
Phước Lâm: Tên của một ngôi
chùa cổ tọa lạc trong thành phồ Vũng Tàu, Nam Việt Nam. Chùa được xây trên
200 năm và đã trải qua nhiều lần trùng tu. Lần trùng tu cuối cùng là vào
năm 1956. Trong chánh điện có tượng Thần Vishnu. Theo tài liệu của tỉnh Bà
Rịa thì tượng làm bằng đá, vào khoảng thế kỷ thứ bảy, di tích của cuối
thời Phù Nam đầu thời Chân Lạp—Name of an ancient pagoda, located in Vũng
Tàu City, South Vietnam. It was built 200 years ago, and has been rebuilt
many times. The last time it was rebuilt was in 1956. There is a statue of
Vishnu in the middle of the Main Hall. According to the records from Vũng
Tàu province, the statue was made of stone, built in the seventh century.
It is a vestige of the late Phù Nam period and the early Chân Lạp one.
Phước Lộc: Hạnh phúc và tài bây
giờ và về sau nầy—Happiness and emolument, good fortune here or hereafter.
Phước Lực: Power of
accumulating merits.
Phước Lưu: Tên của một ngôi
chùa cổ nằm trên quốc lộ 22, thị trấn Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh, Nam Việt
Nam. Chùa được dựng lên từ lâu lắm. Lúc đầu chùa chỉ là một mái thảo am,
gọi là Am Bà Đồng, về sau được nới rộng ra nên gọi là Chùa Bà Đồng vào năm
1900. Tổ Trùng Lực, thuộc phái Liễu Quán đời thứ 42 đã xây lại ngôi chùa
và đặt tên Phước Lưu. Kể từ đó đến nay đã kế tục năm vị trụ trì và được
trùng tu nhiều lần (vào những năm 1945, 1946, 1968). Chùa Phước Lưu nổi
tiếng vì ảnh hưởng của nó trong việc mở rộng phái Liễu Quán (Lâm Tế) trong
tỉnh Tây Ninh. Trong Chánh điện có tượng Di Đà Tam Tôn bằng gốm thếp vàng,
được mang đến từ Trung Quốc. Mỗi bên chánh điện có tượng các vị La Hán,
mỗi tượng cao 35 phân, rộng 20 phân khoảng giữa hai đầu gối. Lại có những
tượng của Thập điện Diêm Vương hai bên chánh điện, mỗi tượng cao 1 mét và
rộng 50 phân—Name of an ancient pagoda, located alongside of Highway 22,
Trảng Bàng town, Tây Ninh province, South Vietnam. The pagoda was built a
long time ago. It was previously called Bà Đồng Thatched Hut and later, Bà
Đồng pagoda due to the enlargement in 1900. Patriarch Trùng Lực of the
forty-second generation of the Liễu Quán Sect had the pagoda rebuilt and
renamed it Phước Lưu. It was in turn headed by five successive Masters and
restored many times (1945, 1946, 1968). Phước Lưu Pagoda is famous for its
influence on developing the Lin-Chi followers of the Liễu Quán Sect in Tây
Ninh province. In the Main Hall stand the statues of the Three Amitabha
Noble Ones of ceramincs, gilded and carried from China. On each side of
the Main Hall, each Arahat statue, 0.35 meter high, 0.20 meter wide
between the two knees, is worshipped on the altar. There also statues of
the ten Kings of the Hells, worshipped on the altar of both sides of the
Main Hall, each statue is 1 meter high, 0.50 meter wide between the two
knees.
Phước Nghiệp: Hành nghiệp do
phúc đức mà sanh ra, một trong tam phước—Happy karma, or the karma of
blessedness, one of the three sources of felicity.
** For more information,
please see Tam Phước in Vietnamese-English Section.
Phước Nhân: See Phúc Nhân.
Phước Quả: Quả báo của phước
đức—The reward of blessedness.
Phước Quán: Phước báo và quán
sát—Blessedness and insight—See Phước Trí.
Phước Sanh: Sanh vào chỗ phước
đức—Born of or to happiness.
Phước Sanh Thiên: Punyaparsavas
(skt)—Cõi trời Phạm Thiên thứ mười trong sơ thiền thiên—The tenth
brahmaloka, the first region of the fourth dhyana.
** For more information,
please see Tứ Thiền Thiên (1).
Phuớc Thành: Tên của một ngôi
chùa cổ ở Huế, Trung Việt. Chùa do bà Nguyễn thị Ngọc Cầu, một thứ phi của
chúa Võ Vương Nguyễn Phước Hoạt, xây dựng vào cuối thế kỷ thứ 18. Nguyên
thủy, chùa đã được xây dựng kiên cố, theo kiểu kiến trúc đương thời với
kiểu chánh điện vuông hai chái. Đến năm 1832, chùa được trùng tu, chỉ là
một nhà từ đường của người sáng lập ra chùa. Từ đó trở đi không rõ tiến
trình trùng tu. Đến thời vua Khải Định, chùa được xử dụng như là một nhà
Tăng cho chư Tăng lưu trú mỗi khi đến hành lễ tế tự trong hoàng cung. Đến
năm Bảo Đại thứ 3 (1928), con cháu thuộc hệ thứ 9 của bà đã đúc một tiểu
hồng chung nặng 120 cân với bài minh họa do Hiệp Tá Đại Học Sĩ Tôn Thất Tế
chấp bút, hiện nay vẫn còn tại chùa. Năm 1987, vì vật liệu cũ đã quá hư
hỏng không thể trùng tu được, nên chùa đã phải tái thiết theo kiểu kiến
trúc mới. Chính điện được chuyển dựng ra phía trước, lấy nền cũ làm sân
trong. Tiền đường được đút bằng bê tông cốt sắt và mái lợp ngói—Name of an
ancient temple in Huế, Central Vietnam. The temple was built in the late
eighteenth century by a concubine of Võ Vương Nguyễn Phước Hoạt named
Nguyễn Thị Ngọc Cầu. Formerly the temple was built with a solid structure
of the style popular at that time, a square main hall with two-side rooms.
In 1832, the temple was rebuilt, merely as a worship house to its founder.
No records of reconstruction of the temple were known. During king Khải
Định’s reign, the temple was used as lodging place for monks who came to
participate in the religious ceremonies held in the royal palace. In the
third year of king Bảo Đại’s reign (1928), the descendants if the founder
of the temple dedicated a small-sized bell, 120 pounds to the temple with
a eulogy written by Hiệp Tá Đại Học Sĩ Tôn Thất Tế, the bell still remains
at the temple. In 1987, because the ancient construction materials had
deteriorated so badly that no more reconstruction could be made. As a
result, the temple was wholly rebuilt in a new design. Now the main hall
stands in front, its old ground became a courtyard, and a tiled roof
antechambre built of concrete.
Phước Thiện:
Benevolence—Charity.
Phước Trí: Phúc đức và trí huệ,
hai loại trang nghiêm—Blessedness and wisdom, the two virtues which
adorn—See Nhị Trang Nghiêm.
Phước Túc: Một trong nhị túc,
chân thứ nhất bao gồm năm Ba La Mật đầu, và chân thứ hai còn gọi là “trí
túc,” gồm Ba La Mật thứ sáu—The feet of blessedness, one consisting of the
first five paramitas, the other being the sixth paramita, i.e. wisdom;
happiness—See Lục Độ Ba La Mật (1) (2) (3) (4) (5).
Phước Tuệ: See Phước Trí.
Phước Tướng: Marks of merits.
Phước Tướng Pháp Thân: Phước
báo hình tướng nơi pháp thân Phật, đối lại với trí huệ của Phật—The
Buddha-dharmakaya as blessedness, in contrast with it as wisdom.
Phước Tường: Tên một ngôi chùa,
tọa lạc trong thôn Tăng Phú, xã Tăng Nhơn Phú, huyện Thủ Đức, thành phố
Sài Gòn, Nam Việt Nam. Chùa được xây vào giữa thế kỷ thứ 18 và trùng tu
vào năm 1834 dưới triều vua Minh Mạng. Trong chánh điện có nhiều tượng,
trong đó có một tượng hộ pháp, và tượng Tổ Diệu Minh tạc vào khoảng giữa
thế kỷ thứ 19, bằng gỗ quý, thếp vàng sơn đỏ—Name of a temple located in
Tăng Phú hamlet, Tăng Nhơn Phú village, Thủ Đức district, Sài Gòn City,
South Vietnam. The temple was built in the middle of the eighteenth
century and rebuilt in 1834, under King Minh Mạng’s reign. In the Main
Hall, there are many statues, including a statue of Dharma Guardians, and
the statue of Patriarch Diệu Minh, in the middle of the nineteenth
century, it was made of precious wood, gilded, and painted in red.
Phược Đà: Baddha (skt)—Hệ
phược—Fettered—Bound—Tied—Fixed.
Phướn: Banner—Streamer
Phướn Động, Gió Động Hay Tâm Động?
The flag moving, the wind moving, or our minds moving?—Lục tổ Huệ Năng đã
khẳng định với các vị sư đang cải cọ trước tu viện Pháp Tâm rằng: “Chẳng
phải phướn động, cũng chẳng phải gió động, mà là tâm của mấy ông
động.”—Several monks was arguing back and forth about the flag and the
wind without reaching the truth in front of the Fa Hsin monastery in Kuang
Chou. The sixth patriarch, Hui-Neng, said to them: “It is not the wind
moving, neither the flag moving. It is your own minds that are
moving."
Phương:
1) Vuông:
Square.
2) Phương
cách: Method—Way—Means.
3) Địa
phương: A place—Locality.
4) Đền
(chánh điện): A temple—A place of assembly.
Phương Cách: Way—Context—Means
Approach.
Phương Cách Đáng Kính: A
respectable way.
Phương Châm: Tenets.
Phương Châm Tu Hành Của Phật Tử:
Bồ đề tâm làm nhân, đại bi tâm làm căn bản, phương tiện thiện xảo làm
phương cách thực hành, và Niết bàn làm cứu cánh.”—Guideline (tenets) of
cultivation for Buddhists: “Bodhi mind is the cause, great compassion is
the foundation, skillful means is daily method of practicing, and Nirvana
is the ultimate goal.”
Phương Chỉ: Direction.
Phương Chước: Expedient—Means.
Phương Danh: Good name
(reputation).
Phương Diện: Aspect.
Phương Đẳng: Theo tông Thiên
Thai, phương có nghĩa là phương chính, đẳng là bình đẳng; phương đẳng ám
chỉ hết thảy kinh điển Đại Thừa—According to the T’ien-T’ai sect, Phương
is interpreted as referring to the doctrine, Đẳng as equal or universal;
Phương Đẳng means everywhere equally. Phương Đẳng implies the Vaipulya
Sutras.
Phương Đẳng Giới Đàn: Giới đàn
giảng pháp và truyền giới—An open altar at which instruction in the
commandments was preached to the people, founded on the Mahayana Vaipulya
Sutra (Đại Thừa Phương Đẳng Kinh).
Phương Đẳng Kinh điển:
Vaipulya—The whole of the Mahayana Sutras—See Phương Quảng.
Phương Đẳng Thời: Thời kỳ thứ
ba trong năm thời thuyết giảng—The third of the five periods of Buddha’s
teaching, from the twelfth to the twentieth years of Buddha’s teaching
(Hoa nghiêm: Avatamsaka, A Hàm: Agamas, Phương Đẳng: Vaipulyas, Bát Nhã:
Prajna, Pháp Hoa & Niết Bàn: Lotus and Nirvana).
Phương Điển: Từ ngữ chỉ toàn
thể kinh điển Đại Thừa—A term covering the whole of the Mahyana sutras—See
Phương Đẳng Kinh điển.
Phương Hại: To be harmful—To be
detrimental.
Phương Hội Dương Kỳ Thiền Sư:
Zen master Fang-Hui-Yang-Qi—Thiền sư Phương Hội sanh năm 992 tại Viên Châu
(bây giờ thuộc tỉnh Giang Tây), đệ tử và là người kế thừa Pháp của Thiền
Sư Thạch Sương Sở Viện, và là thầy của Bạch Vân Thủ Đoan. Dương Kỳ lập ra
phái Thiền Lâm Tế mang tên ông, một trong hai nhánh thiền Lâm Tế sau khi
thầy Thạch Sương thị tịch. Phái Thiền nầy được các thiền sư Trung Hoa và
Nhật Bản mang vào Nhật Bản và hiện nay vẫn còn được lưu truyền tại đây—Zen
master Fang-Hui-Yang-Qi was born in 992 in Yuan-Chou (now in Jiang-Xi
Province), was a disciple and dharma successor of Shi-Shuang-Chu-Yuan, and
the master of Pai-Yun-Shou-Tuan. Yang-Qi founded the Yogi school of
Lin-Chi Zen, which bears his name. It is one of the two lineages into
which the tradition of the Lin-Chi school divided after Master
Shih-Shuang. The strict Zen of Yogi lineage was brought to Japan by
Chinese and Japanese masters and still flourishes there today.
·
Đi du phương, sư đến yết kiến Thiền sư Từ Minh ở Nam Nguyên.
Sư dừng lại đây phụ tá cho Từ Minh một cách siêng năng cần khổ. Từ Minh
dời sang Thạch Sương Đạo Ngô, sư cũng dời theo. Nơi đây sư làm Giám Tự
(administrator). Tuy theo Từ Minh đã lâu mà sư chưa tỉnh ngộ. Mỗi khi đến
thưa hỏi, Từ Minh bảo: “Việc trong ty khố quá nhiều hãy đi.” Hôm khác sư
đến hỏi, Từ Minh bảo: “Giám Tự ngày sau con cháu khắp thiên hạ cần gì vội
gấp.” Một hôm Từ Minh vừa đi ra chợt mưa đến, sư rình ở con đường tắt. Từ
Minh đến, sư liền nắm đứng lại nói: “Ông già này! Hôm nay phải vì tôi nói,
nếu không nói tôi sẽ đánh ông.” Từ Minh nói: “Giám Tự biết là việc quanh
co liền thôi.” Câu nói chưa dứt, sư đại ngộ, liền đảnh lễ ngay dưới bùn.
Hôm sau, sư đầy đủ oai nghi đến phương trượng lễ tạ. Từ Minh quở: “Chưa
phải.”—When Shi-Shuang Chu-Yuan moved from Nan-Yuan to Mount T’ao-Wu, and
then to Shi-Shuang, Yang-Qi followed him, performing administrative
affairs in each place. Although Yang-Qi remained with Shi-Shuang for a
long time, he never attained enlightenment. Each time he would have an
interview, Shi-Shuang would say: “There are a lot of administrative
affairs requiring attention. Go do them.” On one occasion when Yang-Qi
went to see Shi-Shuang for instruction on practice, Shi-Shuang said:
“Director! Someday your descendants will cover the earth. Why are you in a
hurry?” One day, Shi-Shuang had just gone out when it suddenly began to
rain. Yang-Qi spied his teacher’s walking on a small path, chased him
down, and grabbed him, saying: “You’ve got to talk to me now, or else I’m
going to hit you!” Shi-Shuang said: “Director! You already completely know
how to take care of things, so that’s enough!” Before Shi-Shuang had
finished speaking, Yang-Qi experienced great enlightenment. He then knelt
and bowed to Shi-Shuang on the muddy path.
·
Từ Minh thượng đường, sư ra hỏi: “Khi chim núp kêu nẩm nẩm,
từ mây bay vào núi loạn, là thế nào?” Từ Minh đáp: “Ta đi trong cỏ hoang,
ngươi lại vào thôn sâu.” Sư thưa: “Quan chẳng nhận kim, lại mượn một câu
hỏi.” Từ Minh liền hét. Sư thưa: “Hét hay” Từ Minh lại hét. Sư cũng hét.
Từ Minh hét luôn hai tiếng. Sư lễ bái. Từ Minh nói: “Việc nầy là cá nhơn
mới gánh vác.” Sư phủi áo ra đi—Yang-Qi asked Shi-Shuang: “How is it when
the great dark bird cries ‘Na! Na!’ and flies down from the clouds into
the chaotic mountain peak?” Shi-Shuang said: “I walk in wild grasses. You
rush into the village.” Yang-Qi said: “When the senses have no room for
even a needle, still there is another question.” Shi-Shuang then shouted.
Yang-Qi said: “Good shout.” Shi-Shuang shouted again. Yang-Qi also
shouted. Shi-Shuang then shouted twice. Yang-Qi bowed. Shi-Shuang said:
“This affair concerns one person taking up and carrying a lotus.” Yang-Qi
shook his sleeves and went out.
·
Dương Kỳ thường nói một cách tích cực về an tâm lập mệnh và
cái giàu phi thế tục của ngài. Thay vì nói chỉ có đôi tay không, ngài lại
nói về muôn vật trong đời, nào đèn trăng quạt gió, nào kho vô tận, thật
quá đủ lắm rồi như chúng ta có thể thấy qua bài thơ sau đây diễn tả về
ngôi nhà điêu tàn của sư:
“Nhà ta
phên mái rách tơi bời
Nền trắng
một màu tuyết trắng rơi
Giá lạnh
toàn thân, lòng vạn mối
Người xưa
nhà chỉ bóng cây thôi.”
—Zen
master Yang Ch’i always talked positively about his contentment and
unworldly riches. Instead of saying that he is empty-handed, he talked of
the natural sufficiency of things about him as we can see through this
poem concerning his deserted habitation:
My
dwelling is now here at Yang-Ch’i
The
walls and roof, how weather-beaten!
The
whole floor is covered white with
Snow
crystal, shivering down the neck,
I am
filled with thoughts.
How I
recall the ancient masters whose
habitat
was no better than the shade of a tree!”
Theo
Thiền sư D. T. Suzuki trong Thiền Luận, Tập I, bài thơ nầy không ngụ ý tác
giả ăn không ngồi rồi hay không làm gì khác, hoặc không có gì khác hơn để
làm hơn là thưởng thức hoa đào nở trong nắng sớm, hay ngắm vầng trăng
trong tuyết bạc, trong ngôi nhà đìu hiu. Ngược lại, ngài có thể đang hăng
say làm việc, hoặc đang dạy đệ tử, hoặc đang tụng kinh, quét chùa hay dẫy
cỏ như thường lệ, nhưng lòng tràn ngập một niềm thanh tịnh khinh an. Mọi
mong cầu đều xả bỏ hết, không còn một vọng tưởng nào gây trở ngại cho tâm
trí ứng dụng dọc ngang, do đó tâm của ngài lúc bấy giờ là tâm ‘không,’
thân là ‘thân nghèo.’ Vì nghèo nên ngài biết thưởng thức hoa xuân, biết
ngắm trăng thu. Trái lại, nếu có của thế gian chồng chất đầy con tim, thì
còn chỗ nào dành cho những lạc thú thần tiên ấy. Kỳ thật, theo sư Dương Kỳ
thì sự tích trữ của cải chỉ toàn tạo nghịch duyên khó thích hợp với những
lý tưởng thánh thiện, chính vì thế mà sư nghèo. Theo sư thì mục đích của
nhà Thiền là buông bỏ chấp trước. Không riêng gì của cải, mà ngay cả mọi
chấp trước đều là của cải, là tích trữ tài sản. Còn Thiền thì dạy buông
bỏ tất cả vật sở hữu, mục đích là làm cho con người trở nên nghèo và
khiêm cung từ tốn. Trái lại, học thức khiến con người thêm giàu sang cao
ngạo. Vì học tức là nắm giữ, là chấp; càng học càng có thêm, nên ‘càng
biết càng lo, kiến thức càng cao thì khổ não càng lắm.’ Đối với Thiền,
những thứ ấy chỉ là khổ công bắt gió mà thôi—According Zen master D.T.
Suzuki in the Essays in Zen Buddhism, Book I, this poem is not to convey
the idea that he is idly sitting and doing nothing particularly; or that
he has nothing else to do but to enjoy the cherry-blossoms fragrant in the
morning sun, or the lonely moon white and silvery in a deserted
habitation. In the contrary, he may be in the midst of work, teaching
pupils, reading the sutras, sweeping and farming as all the master have
done, and yet his own mind is filled with transcendental happiness and
quietude. All hankerings of the heart have departed, there are no idle
thoughts clogging the flow of life-activity, and thus he is empty and
poverty-stricken. As he is poverty-stricken, he knows how to enjoy the
‘spring flowers’ and the ‘autumnal moon.’ When worldly riches are amassed
in his heart, there is no room left there for such celestial enjoyments.
In fact, according to Zen master Yang-Ch’i, the amassing of wealth has
always resulted in producing characters that do not go very well with our
ideals of saintliness, thus he was always poor. The aim of Zen discipline
is to attain to the state of ‘non-attainment.’ All knowledge is an
acquisition and accumulation, whereas Zen proposes to deprive one of all
one’s possessions. The spirit is to make one poor and humble, thoroughly
cleansed of inner impurities. On the contrary, learning makes one rich
and arrogant. Because learning is earning, the more learned, the richer,
and therefore ‘in much wisdom is much grief; and he that increased
knowledge increased sorrow.’ It is after all, Zen emphasizes that this is
only a ‘vanity and a striving after wind.’
·
Sư hỏi vị Tăng mới đến: “Mây dày đường hẹp xe to từ đâu
đến?” Vị Tăng thưa: “Trời không bốn vách.” Sư hỏi: “Đi rách bao nhiêu giày
cỏ?” Vị Tăng liền hét. Sư bảo: “Một hét hai hét sau lại làm gì?” Vị Tăng
nói: “Xem ông Hòa Thượng già vội vàng.” Sư nói: Cây gậy không có ở đây,
thôi ngồi uống trà.”—Yang-Qi asked a monk who had just arrived: “The fog
is thick and the road is obscured, so how did you get here?” The monk
said: “The sky does not have four walls.” Yang-Qi said: “How many straw
sandals did you wear out coming here?” The monk shouted. Yang-Qi said:
“One shout. Two shout. After that, then what?” The monk said: “I meet you,
Master, but you’re quite busy.” Yang-Qi said: “I don’t have my staff. Sit
and have some tea.”
·
Sư hỏi vị Tăng mới đến: “Lá rụng mây dồn sớm rời chỗ nào?”
Vị Tăng thưa: “Quan Âm.” Sư nói: “Dưới chơn Quan Âm một câu làm sao nói?”
Vị Tăng nói: “Vừa đến thấy nhau xong.” Sư hỏi: “Việc thấy nhau là thế
nào?” Vị Tăng không đáp được: Sư bảo: “Thượng Tọa thứ hai đáp thế Thượng
Tọa thứ nhất xem?” Vị Tăng thứ hai cũng không đáp được. Sư bảo: “Cả hai
đều độn hết.”—When another monk arrived, Yang-Qi said to him: “The leaves
fall and the clouds gather. Where did you come from today?” The monk said:
“From Kuan-Yin.” Yang-Qi asked: How would you say one word from beneath
Kuan-Yin’s heels?” The monk said: “I’ve just arrived to see you.” Yang-Qi
said: “What is it that you’ve seen?” The monk didn’t answer. Yang-Qi said
to a second monk who had also come: “You! Can you say something for this
practitioner?” The second monk didn’t answer. Yang-Qi said: “Here are a
couple of dumb horses.”
·
Sư thị tịch năm 1054—He passed away in 1054.
** For more information,
please see Dương Kỳ Phương Hội Phái.
Phương Hướng: Direction.
Phương Kế:
Expedient—Device—Means.
Phương Khẩu Thực: Vị Tăng đã
xuất gia mà còn xu nịnh, vòi vĩnh để tìm cơ kiếm sống. Đây là một trong tứ
tà mệnh—Opportunism in obtaining a living—A monk who makes a living by
fawning or by bullying (One of the four illicit ways of livelihood—Tứ tà
hạnh).
** For more information,
please see Tà Mệnh.
Phương Ngoại:
1) Thế
ngoại hay bên ngoài cuộc đời: Out of the world.
2) Cuộc
đời của một vị Tăng: The life of a monk.
Phương Ngôn: Idiom.
Phương Ngung Pháp Giới: See Tứ
Phương in Vietnamese-English Section.
Phương Pháp: Method—Mode—Plan.
Phương Pháp Đối Trị Sân Hận Là Nhẫn Nhục,
Thân Nhẫn, Khẩu Nhẫn và Ý Nhẫn: Method to combat and subdue
anger is forebearances (endurances or patience), body patience, mouth
patience and mind patience.
Phương Phi: Tall and handsome.
Phương Phục: Pháp phục của Tăng
Ni, hết thảy đều được ráp nối bằng hình vuông—A monk’s robe (Cà Sa), to be
so called because its square appearance.
Phương Quảng: Vaipulya (skt).
1) Tên
chỉ chung cho các kinh Đại
Thừa—Extension—Enlargement—Broad—Spacious—Fuller explanation of the
doctrine—The whole of the Mahayana sutras—Scriptures of measureless
meaning (universalistic or infinite). Vaipulya sutra is used to indicate
all Mahayana sutras—See Đại Thừa Kinh.
2) Tên
của bộ kinh thứ mười trong 12 bộ Kinh Phật: Name of the tenth of the
twelve Buddhist sutras.
3) Tên
một thiền sư thời nhà Đường. Niên đại về cuộc đời của ông không được biết
rõ, có lẽ ông sống giữa thế kỷ thứ bảy. Ông từng trụ trì tu viện Quốc
Thanh trên núi Thiên Thai. Người ta biết đôi chút về ông là qua lời tựa
quyển Hàn Sơn Tự, một sưu tập thơ do ẩn sĩ Hàn Sơn soạn, trong đó có vài
đoạn được coi là của Phương Quảng—Feng-Kuang, a Chinese Ch’an master of
the T’ang period. Precise dates of his life are unknown, probably the
middle of the seventh century. He was the abbot of the Kuo-Ch’ing
Monastery in the T’ien-T’ai Mountains. The little that is known of him
comes for the most part from the foreword to the Han-Shan-Tzih, a
collection of the poetry of the hermits of Han-Shan. It also contains
several poems attributed to Feng-Kuang.
Phương Quảng Đại Trang Nghiêm Kinh:
A Vaipulya Sutra—Kinh nói về những chuyện Phật giáng trần từ trên cung
trời Đâu suất xuống thế xuất gia, thành đạo với danh hiệu Thích Ca Mâu
Ni—The Lalita-vistara, which gives an account of the Buddha in the Tusita
Heaven and his descent to earth as Sakyamuni.
Phương Quảng Đạo Nhân: Ngoại
đạo phụ vào Đại Thừa chấp vào lý “không kiến”—Heretical followers of
Mahayana, who hold a false doctrine of the Void, teaching it as total
non-existence, or nihilism.
Phương Quy: Có hình
vuông—Square-shaped.
Phương Sách:
Process—Way—Procedure
Phương Tiện: Upaya
(skt)—Contrivance—Expediency—Means—Method—Phương pháp tiện dụng tùy theo
hay thích hợp với sự thụ nhận của chúng sanh—Convenience—Adaptability—To
be instrumental—Means—Expedients—Tact or skill in teaching according to
receptivity—Expedient ways—Skill-in-means—Convenient to the place or
situation—Suited to the condition. There are several interpretations:
1) Phương
có nghĩa là phương pháp, tiện là tiện dụng; phương tiện là phương pháp
tiện dụng thích hợp với căn cơ của những chúng sanh khác nhau: Phương is
interpreted as method, mode or plan; and Tiện is interpreted as convenient
for use; so Phương Tiện means a convenient or expedient method which is
suitable to different sentient beings.
2) Phương
có nghĩa là phương chánh, tiện là xảo diệu; phương tiện là dùng lý phương
chánh thiện xảo hay lời lẽ khéo léo thích hợp với việc giáo hóa: Phương
means correct, Tiện means strategically; Phương tiện means strategically
correct.
3) Quyền
Đạo Trí: Trí quyền nghi (từng phần, tạm thời hay tương đối) để thâm nhập
vào cái chân thực, đối lại với trí Bát Nhã là chân như tuyệt đối—Partial,
temporary, or relative teaching of knowledge of reality, in contrast with
prajna, and absolute truth, or reality instead of the seeming.
Phương Tiện Ba La Mật: Upaya—Ba
La Mật thứ bảy trong mười Ba La Mật—The seventh of the ten paramitas.
Phương Tiện Ba La Mật Bồ Tát:
Vị Bồ Tát trong Thai Tạng Giới, đứng hàng thứ hai bên phải của Hư Không
Viện—A Bodhisattva in Garbhadhatu group, the second on the right in the
hall of Space.
Phương Tiện Độ: See Phương Tiện
Hóa Thân Độ.
Phương Tiện Giả Môn: Expedient
gates or ways of using the seeming for the real.
Phương Tiện Hiện Niết Bàn: Như
Lai thường trụ bất diệt, nhưng ngài tạm thời nhập Niết Bàn khiến cho chúng
sanh khởi lên ý niệm tưởng nhớ Như Lai mà dụng công tu đạo—Though the
Buddha is eternal, he showed himself as temporarily extinct, as necessary
to arouse a longing for Buddha.
Phương Tiện Hóa Thân Độ: Nơi
Phật A Di Đà xuất hiện hóa thân—Intermediate land of transformation (where
Amitabha appears in his transformation-body).
Phương Tiện Hữu Dư Độ (Biến Dịch Độ):
Theo tông Thiên Thai, đây là một trong tứ độ; là cõi nước mà chúng sanh
vẫn còn phải tái sanh trong hình thức cao hơn, trụ xứ của chư Thánh Tu Đà
Hườn, Tư Đà Hàm A Na Hàm và A La Hán—According to the T’ien-T’ai Sect,
this is one of the four lands or realms, the realm which is temporary,
where beings still subject to higher forms of transmigration, the abode of
Srotapanna (Tu đà hườn), Sakrdagamin (Tư đà hàm), Anagamin (A na hàm), and
Arhat (A la hán).
** For more information,
please see Tứ Độ.
Phương Tiện Môn: Pháp môn
phương tiện dẫn tới chân lý—The gate of Upaya—Convenient or expedient
gates leading into Truth.
Phương Tiện Sát Sanh: Phương
tiện thiện xảo của vị Bồ Tát, biết được nghiệp báo của từng người, nên
giết mà không bị tội, để tránh không cho người nầy phạm tội làm khổ đau
không ngừng, hay giúp cho người đó được sanh vào cảnh giới cao hơn—The
right of Great Bodhisattvas, knowing every one’s karma, to kill without
sinning, in order to prevent a person from committing sin involving
unintermitted suffering, or to aid him reaching one of the higher
reincarnations.
Phương Tiện Thiện Xảo:
Upaya-kausalya (skt)—Expedient method implies strategically
correct—Skilful means—Phương tiện thiện xảo là phương tiện tốt lành và
tinh xảo mà chư Phật và chư Bồ Tát tùy căn tánh của các loại chúng sanh mà
‘quyền cơ nghi’ hay quyền biến hóa độ họ từ phàm lên Thánh (từ si mê thành
giác ngộ). Các bậc trí lực không chấp nê nơi hình thức, họ chỉ coi hình
thức như những phương tiện thiện xảo để tiến tu và đạt cứu cánh là quả vị
Phật—Extraordinary Skilful Means is a good and virtuous practice which
Buddhas and Maha-Bodhisattvas use to follow and adapt to the individual
capacity, personality, and inclination of sentient beings to aid and
transform them from unenlightened to enlightened beings. Practitioners who
possess wisdom are no longer attached to forms and appearances; because
forms and appearances are only expedients for them to advance in
cultivation to obtain the Buddhahood.
Phương Tiện Trí: Upayajnana
(skt)—Skilful knowledge—Skilful means of knowledge—Quyền trí hay trí thông
đạt về phương pháp cứu độ chúng sanh. Ý niệm về phương tiện thiện xảo là
một ý niệm quan trọng trong Phật giáo Đại Thừa và không tách rời với ý
niệm về một trái tim đại từ đại bi vận hành toàn bộ hữu thể của Phật tính.
Nó không đủ để vị Bồ Tát có được Thánh Trí hay Bát Nhã được thức tỉnh viên
mãn vì ngài phải được phò trợ bằng phương tiện trí nhờ đó có thể đưa toàn
bộ cơ phận cứu độ vào thực tiễn tùy theo các yêu cầu của chúng sanh—The
wisdom or knowledge of using skillful means for saving others. The idea of
“skillful means” is an important idea in Mahayana Buddhism and inseparable
from that of a great compassionate heart moving the whole being of
Buddhahood. It is not enough for the Bodhisattva to have the supreme
wisdom (wisdom of the Buddha) or Aryajnana, or Prajna fully awakened, for
he must also be supplied with skillful wisdom (upayajnana) whereby he is
enabled to put the whole salvation machinery in practice according to the
needs of beings.
Phương Trượng:
1) Viện
Chủ: Tự Chủ—An abbot—Head of a monastery—The Abbot’s Quarters.
2) Khu
Mười Thước vuông Anh: The Square Ten Feet.
Phưởng
Phất: Dimly—Vaguely—Faintly.
---o0o---
Mục Lục Tự điển Phật Học
Việt-Anh
|
A
|
Ba |
Be |
Bi |
Bo |
Bu
| Ca
| Ch
| Co |
Cu
|
D
|
Đa
| Đe |
Đi |
Đo |
Đu
|
| E
|
G
|
Ha |
He |
Hi |
Ho |
Hy
|
I
| K
| La |
Le |
Li |
Lo |
Lu |
Ly
|
|
Ma
| Me |
Mi |
Mo |
Mu, My
|Na
| Ne |
Ng |
Nh
| Ni
| No
| Nu
|
| O