TỔ ĐÌNH MINH ĐĂNG QUANG
PHẬT HỌC TỪ ĐIỂN
BUDDHIST DICTIONARY
VIETNAMESE-ENGLISH
THIỆN PHÚC
B
Ba:
Taranga (skt)—Sóng—A wave.
Ba Ba:
1)
Chạy vòng vòng (trong vòng luân hồi sanh tử): To run hither and
thither in the samsara.
2)
Một địa danh gần thành Vương Xá: A place near Rajagrha.
Ba Ba Kiếp
Kiếp: Chạy vòng mãi trong vòng
luân hồi sanh tử—Rushing about forever in the Samsara.
Ba Bà Lợi:
See Ba Hòa Lợi.
Ba Cấp Độ
Kiến Thức: Three degrees of
knowledge—Theo ngài Long Thọ trong Trung Quán Luận, có ba cấp độ kiến
thức—According to Nagarjuna in the Madhyamika-karika, there are three
degrees of knowledge:
1)
Huyền Ảo: Parikalpita (skt)—Illusory knowledge—Huyền ảo là sự gán
ghép sai lầm một ý tưởng không có thực cho một đối tượng do nhân duyên tạo
ra. Đối tượng nầy chỉ hiện hữu trong trí tưởng tượng và không tương ứng
với thực tại—Illusory knowledge is the false attribution of an imaginary
idea to an object produced by its cause and conditions. It exists only in
one’s imagination and does not correspond to reality.
2) Thường
Nghiệm: Paratantra (skt)—Empirical knowledge—Thường nghịm là sự hay biết
về một đối tượng do nhân duyên mà có. Đây là kiến thức tương đối và dùng
để phục vụ cho các mục đích của cuộc sống—Empirical knowledge is the
knowledge of an object produced by its cause and conditions. This is
relative knowledge and serves the practical purposes of life.
3) Tuyệt
Đối: Parinispanna (skt)—Absolute knowledge—Tuyệt đối là chân lý cao nhất
hay chân như, chân lý tuyệt đối. Huyền ảo và thường nghiệm tương ứng với
chân lý tương đối, còn tuyệt đối thì tương ứng với chân lý cao nhất của
Trung Luận tông—The absolute knowledge is the highest truth or tathata,
the absolute. The illusory knowledge and empirical knowledge correspond to
relative truth (samvrti-satya), and the absolute knowledge to the highest
truth (paramartha-satya) of the Madhyamika system.
Ba Chìm Bẩy
Nổi: The ups and downs of life.
Ba Chướng:
1)
Tham, sân, si (greed, hatred, delusion)—See Tam Độc.
2) Ba
chướng ngại của người tu Phật—Three types of obstacles for any Buddhist
cultivators:
a) Phiền
não chướng: The obstacles of afflictions.
b) Nghiệp
chướng: Đây là chướng nghiêm trọng nhất trong ba chướng—The obstacles of
karma. This is the most serious obstacles in the three.
c) Quả
báo chướng: The obstacles of retribution.
Ba Cửa Vào
Niết Bàn: The three gates to the
city of nirvana:
1) Không:
The emptiness—The void—Immaterial.
2) Vô
tướng: Formless.
3) Vô
tác: Inactivity.
Ba Da:
Payas (skt).
1)
Nước: Water.
2)
Sửa: Milk.
3)
Nước trái cây: Juice.
Ba Dật Đề:
Pataka (skt)-Ba Dật Để Dà—Ba Dược Chí—Ba La Dật Chi Kha—Ba La Dạ Chất Chi
Ca—Ba Chất Chi Kha—Ba Da Đề—Đọa Tội—Những ai phạm giới luật trọng tội như
ngũ nghịch, chẳng những bị trục xuất khỏi giáo đoàn, mà còn phải đọa vào a
tỳ địa ngục—Those who commit one of the five grave sins, will not only be
excommunicated from the order, but will also fall into avici forever.
(A) Cửu
Thập Giới Ba Dật Đề: Ninety offences in the Rules for Mendicant
Bhiksus—See Cửu Thập Đọa Giới.
(B) Bách
Thất Thập Bát Giới Ba Dật Đề: One hundred seventy-eight offences in the
Rules for Mendicant Bhiksunis—See Bách Thất Thập Bát Giới Ba Dật Đề.
Ba Di La:
Vajra (skt)—Kim Cang Thần, một trong mười hai vị thần tướng của Phật Dược
Sư—One of the twelve generals of Bhaisajya (Yao-Shih), the Buddha of
Healing.
Ba Diễn Na:
Paryayana (skt)—Ba Nha Na—Một hành lang, sân, hay nơi có mái che để đi
hành thiền trong tự viện—An ambulatory, courtyard, or a sheltered place
for walking in a temple.
Ba Đà:
Pada (skt).
1)
Bước chân: Step.
2)
Dấu chân: Footprint.
3)
Vị trí: Position.
4)
Một chữ đầy đủ: A complete word.
Ba Đà Kiếp:
Bhadra-kalpa (skt)—Hiền Kiếp—The present kalpa.
Ba Đà La:
Patali (skt)—Bát Đảm La.
1)
Một loại cây có bông rất thơm—A tree with scented blossoms, the
trumpet-flower.
2)
Một vương quốc cổ ở Ấn Độ: An ancient kingdom in India.
Ba Đại A
Tăng Kỳ: Three asankhyeya maha
kalpas.
Ba Đạo Lý
Tâm Duyên Quyết Định: Ba lý do
khiến vãng sanh Tịnh Độ không tùy thuộc vào ác nghiệp, công hạnh hay thời
gian tu tập lâu mau—Three reasons why rebirth in the Pure Land does not
necessarily depend on the weight of bad karma, the amount of practice or
the duration of cultivation—See Tam Lý Tâm Duyên Quyết Định.
Ba Đầu Ma:
Padma (skt)—Bông sen đỏ—The red lotus.
Ba Đầu Ma
Ba Ni: Padma-pani (skt)—Bồ tát
Quán Âm đang cầm hoa sen, một trong những hình thức của Quán Thế Âm Bồ
Tát—One of the forms of Kuan-Yin, holding a lotus.
Ba Đế:
Pati (skt)—Ba Để—Bát Để.
1)
Vị Thầy: Master.
2)
Vị Chúa: Lord.
3)
Người Chủ: Proprietor.
4)
Quốc Vương: A king.
5)
Người chồng hay gia chủ: Husband or householder.
Ba Đề Mộc
Xoa: Pratimoksa (skt)—58 cụ túc
giới Bồ Tát dành cho chư Tăng Ni—Cũng là 250 giới cụ túc cho chư Tăng
trong giới luật giải thoát khỏi luân hồi sanh tử—The 58 Bodhisattva
precepts—The full body of Bhiksu or Bhiksuni precepts. Also the 250 rules
of the Vinaya for monks for their deliverance from the ground of
mortality.
Ba Điều Như
Lai Không Cần Gìn Giữ: Three
things a Tathagata has no need to guard against—Theo Trường Bộ, Kinh Phúng
Tụng, có ba điều mà Đức Như Lai không cần gìn giữ—According to The Long
Discourses of the Buddha, Sangiti Sutra, there are three things a
Tathagata has no need to guard against.
1)
Nầy các hiền giả, Như Lai thanh tịnh thiện hành về thân. Như Lai
không có ác hạnh về thân mà Như Lai phải gìn giữ: A Tathagata is perfectly
pure in bodily conduct. There is no misdeed of body.
2)
Như Lai thanh tịnh thiện hành về miệng. Như Lai không có ác hạnh về
miệng mà Như Lai phải gìn giữ: A Tathagata is perfectly pure in speech.
There is no misdeed of speech.
3)
Như Lai thanh tịnh thiện hành về ý. Như Lai không có ác hạnh về ý
mà Như Lai phải gìn giữ: A Tathagata is perfectly pure in thought. There
is no misdeed of thought.
Ba Điều
Phật Có Thể Làm Được: Three things
possible to a Buddha:
1) Khả
năng hiểu biết vạn vật: He can have perfect knowledge of all things.
2) Khả
năng hiểu biết bản chất thật của vạn hữu: He can have perfect knowledge
about the natures of all beings.
3) Khả
năng cứu độ vô lượng chúng sanh: He can save countless beings.
Ba Điều
Phật Không Thể Làm Được: Three
things impossible to a Buddha:
1) Không
thể loại trừ nhơn quả nghiệp báo cho chúng sanh: He cannot annihilate
causality karma.
2) Không
thể cứu rỗi vô điều kiện: He cannot save unconditionally.
3) Không
thể chấm dứt các đường dữ cho chúng sanh: He cannot end the realm of the
living.
Ba Điều Thống Thiết Tự Trách Của Người Tu
Pháp Môn Tịnh Độ: The Pure Land practitioners should always
bitterly reproach themselves for three things—Tu theo Pháp môn Tịnh Độ, ai
ai cũng muốn tu làm sao cho niệm niệm nối nhau không dứt. Tuy nhiên, vì
định lực chưa thành nên niệm đầu không chủ, hoặc tri giác cũ khó quên,
hoặc vọng tưởng nổi dậy, hoặc xúc đối cảnh duyên tự kềm giữ không vững,
hoặc tâm tình rối loạn cố ngăn dẹp chẳng kham. Cứ ngồi vào lần chuỗi một
lúc là tâm niệm đã chạy hết đông sang tây, bất giác nó đi xa cách mấy ngàn
muôn dậm hồi nào cũng không biết. Có khi phải bận lo một việc nào đó nên
tâm trí cứ vướng vít cả tháng trời chưa hết. Dẹp trừ tạp niệm còn chưa
xong, huống là gián đoạn lúc niệm Phật. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm
trong Tịnh Độ Thập Nghi Hoặc Vấn Luận, câu 26, đây là căn bệnh chung của
hầu hết người tu. Vì thế nếu người tu không thống thiết tự trách thì khó
mà thành tựu được pháp tu Tịnh Độ Vô Gián. Có ba điều thống thiết tự
răn—To be a Pure Land practitioner, everyone always wants to cultivate in
such a way that thought follows upon thought without interruption.
However, having not yet achieved one-pointedness of Mind, we cannot even
rein in the first thought, or else, the previous perception is difficult
to forget, or deluded thoughts arise. We cannot keep our thoughts from
being disturbed by circumstances and conditions. Our Minds and feelings
are confused and cannot be stilled. Each time we sit down to finger the
rosary for a moment, our thoughts have gone in all directions, suddenly
travelling millions of miles without our knowledge or awareness. At times,
when we are preoccupied with some problem, we turn it over and over our
Minds for days and days, or even for months. It is impossible for us to
rid ourselves of such tangled thoughts, not to mention doing away with
interruptions in recitation. According to Most Venerable Thích Thiền Tâm
in The Treatise on The Ten Doubts, question number 26, this is the common
disease of almost all Pure Land practitioners. If we do not earnestly
restrain ourselves, it will be difficult to succeed in the practice of
exclusive, uninterrupted cultivation. There are three things that
practitioners would bitterly reproach themselves.
1)
Báo Ân: Repaying one’s obligation—Người tu có rất nhiều
trọng ân; hãy tạm gác qua ân Phật và ân Thầy Tổ. Dù là người xuất gia,
công ân sanh dưỡng của cha mẹ há chẳng nặng sâu hay sao? Dù đã lìa tục
xuất gia, và vì đi học đạo nên phải xa cách quê hương nhiều năm, cha mẹ
nhọc nhằn cực khổ cũng không biết, khi già yếu bệnh hoạn lại cũng không
hay biết để chăm sóc thuốc thang. Đến lúc cha mẹ mãn phần, cũng không
biết, hoặc có nhận được tin cũng về trễ muộn. Khi còn nhỏ, có khi cha mẹ
vì nuôi nấng thương lo cho con mà gây tội tạo nghiệp, nên lúc chết bị đọa
vào nẻo khổ, hy vọng chúng ta cứu độ, như khát chờ uống, như hạn trông
mưa. Nếu chúng ta tu hành chễnh mãng tất tịnh nghiệp không thành; đã không
thành thì tự cứu còn chưa xong, làm sao cứu được mẹ cha? Đối với song thân
đã lỗi về vật chất, mà còn không cứu độ được phần tâm linh, tức là phụ
nghĩa quên ân, là người đại bất hiếu. Theo Phật, tội bất hiếu là một đại
tội sẽ bị đọa vào địa ngục. Như thế tâm niệm gián đoạn không chuyên tu để
cứu độ mẹ cha cũng chính là nghiệp địa ngục vậy. Lại nữa, chúng ta không
biết dệt quần áo để mặc, không cày để ăn, phòng nhà, chăn gối, cơm áo,
thuốc thang đều do đàn na tín thí cúng dường. Tổ sư từng dạy răng: “Hàng
thiện nam tín nữ vì sùng kính Tam Bảo, đã chia cắt bớt phần của gia đình
đem đến cúng dường. Nếu người tu đạo hạnh không tròn, thì dù tấc vải hạt
cơm , kiếp sau cũng phải đền trả.” Muốn báo ân đàn na tín thí, chúng ta
phải lo chuyên tu tịnh nghiệp để độ mình độ người. Nếu chúng ta sanh một
niệm gián đoạn không chuyên, tất đã có phần trong kiếp luân hồi vay trả.
Và tam niệm nầy chính là niệm hạ tiện hoặc súc sanh—Cultivators have a
number of important obligations. Let us put aside temporarily the debts to
the Buddhas and our teachers. Even a monk or nun, do you not think that we
owe a profound and heavy debt to our parents for giving our life and
raising us? Having left home and all mundane activities, studying the
Dharma far from our home for so many years, we were not aware of the
hardships and sufferings of our parents. We did not know of our parents’
old age and illness, and so did not take proper care of them. When they
died, we either had no knowledge, or, if we were aware of it, we probably
returned home too late. When we were young, in order to raise and educate
us, our parents, at times, committed numerous transgressions. After death,
as they descended upon the path of suffering, they hoped that we would
come to their rescue, just as a person might wait for a glass of water to
assuage his thirst, or for the pouring rain to cease. If our cultivation
is haphazard, our Pure Land karma will not bring results. Thus, we cannot
even save ourselves, let alone our parents! In such circumstances, we have
not only missed the opportunity to take care of their temporal needs, we
are now remiss in our obligations to their souls. We are most unfilial
sons indeed! The Buddha said: “To be unfilial is to sink into hell.” Thus,
the Mind of interruption, of failure to cultivate assiduously, is indeed
the karma of hell. Moreoever, we do not weave, yet we wear clothing; we do
not plough, yet we eat our fill. Living quarters, bedding, food, clothing,
medicine, etc. are all provided by Buddhist followers. The ancient masters
have often admonished: “Buddhist followers, out of respect and veneration
for the Triple Jewel, parcel out part of their meager family food budget
as a donation to monks and nuns. If the latter are not blameless in their
cultivation, even an inch of cloth or a grain of rice will have to be paid
back in future lifetimes. To repay the favor of our disciples, we should
follow the Pure Land path assiduously, to rescue ourselves and others. If
we let even a single intrusive thought arise and fail to persevere, we
have become enmeshed in Samsara endelessly ‘borrowing’ and ‘repaying.’
That very intrusive thought is vile karma or the karma of animality.
2)
Chí Quyết Định: The Resolute Will—Người tu hành phải kiên
quyết để đi đến kết quả. Một đời tham thiền đã chẳng ngộ thiền, khi học
giáo lại chẳng tinh về giáo. Cho đến ngày nay tâm địa lại chưa lắng yên,
niệm đầu còn sôi nổi, khi thì muốn làm thơ, lúc muốn tả cảnh, khi thì
thuyết giáo, lúc lại đàm thiền, ý chí ly tán đi ba bốn nẻo. Tổ sư đã bảo:
“Tâm niệm còn vướng mắc, đó là nghiệp luân hồi. Tình tưởng vừa sanh ra,
muôn kiếp bị ràng buộc.” Sở dĩ chúng ta chưa được chánh niệm, là vì còn
tình tưởng phân vân, và tình tưởng phân vân bởi nơi chưa quyết chí. Cho
nên người tu mà ý chí chưa nhất quyết, đó chính là đầu mối của sự sa đọa
vào tam đồ ác đạo vậy. Lại nữa, nếu người tu không có ý chí quyết định thì
không thể giữ gìn giới căn. Do ý niệm phân vân nên không thể thâu nhiếp
thân và khẩu. Phật dạy: “Thà lấy nước đồng sôi mà rót vào miệng, nguyện
không để miệng phá giới khi đang thọ dụng các thức ăn uống của đàn na tín
thí. Thà dùng lưới sắt nóng quấn thân thể mình, nguyện không để thân phá
giới khi đang thọ dụng những y phục cúng dường của đàn na tín thí.” Huống
là các giới không trang nghiêm , nên tâm càng vọng động; nhân sự vọng động
ấy mà phần chuyên tu bị gián đoạn. Thế nên một niệm gián đoạn, đâu chỉ là
nghiệp nhân của lưới sắt hay nước đồng sôi? Và nếu người tu ý chí không
quyết định, tất không nhận rõ tướng đời huyễn giả, dễ chạy theo danh lợi
hư phù. Khi danh lợi thuộc về mình thì sanh lòng mê đắm, khi danh lợi
thuộc về kẻ khác lại sanh lònh ganh ghét hơn thua. Tổ sư xưa thường dạy:
“Tham đắm danh lợi sẽ đi về đường quỷ hay nẻo súc sanh, buông lòng thương
ghét đồng vào hầm lửa vạc dầu!” Thế nên một niệm gián đoạn chính là ngạ
quỷ hay hầm lửa vậy—The practitioner should be resolute in order to
achieve results. As monks and nuns, we have spent a lifetime practicing
Zen but have not awakened to its meaning. Nor did we master the subtleties
of the Buddhist Canon when we began studying the sutras. Even today, our
Mind is not yet empty and calm; our thoughts are still in ferment. At
times we want to write poetry, at other times we want to draft
commentaries; at times we want to expound the Dharma, at other times we
want to indulge in Zen talks. Our thoughts are scattered among three or
four areas. The ancient masters have said: "A Mind which is still
grasping is precisely the karma of Birth and Death. As soon as feelings
and thoughts or attachments arise, we are chained for tens of thousands of
eons.” The reason we have not yet achieved right thought is precisely
that our felings and thoughts are still unfocussed, and such perplexed
feelings and thoughts are due to lack of decisiveness. Thus, cultivating
with an irresolute Mind is the beginning of rebirth in the Triple Realm.
The Buddha reminded his disciples, as stated in the sutras: “I vow that I
would rather pour boiling metal in my mouth than allow such a mouth ever
to break the precepts and still partake of the food and drink offered by
followers. I would rather wrap my body in a red hot metal net than allow
such a body to break the precepts and still wear the clothing offered by
disciples.” We need mention that because the precepts are not respected,
the Mind grows ever more perturbed, and, because of this perturbation,
earnest cultivation is interrupted. Therefore, a single thought of
interrupting Buddha Recitation is much more than merely the causal karma
of red hot nets and boiling metal. Moreover, if the practitioner’s
determination is not strong, he cannot fully realize that all mundane
dharmas are illusory, and so he easily chases after dreamlike, empty fame
and fortune. When the fame and fortune are on his side, he grows deluded
and attached. If such fame and fortune belong to others, he evelops hatred
and envy. The ancient masters have said: “To be sunk in the pursuit of
fame and fortune is to head for the realms of animals and hungry ghosts.
To be given to delusive thoughts of love and hate is to be condemned to
the firepit and the boiling cauldron. Thus, a thought of interrupting
cultivation is precisely the karma of hungry ghosts and hell.”
3)
Cầu Sự Ứng Nghiệm: Seeking an Auspicious Response—Người tu
Tịnh Độ nên cố gắng làm sao cho có sự ứng nghiệm. Kiếp người mong manh, vô
thường chẳng hẹn. Như chúng ta nay tóc đã điểm sương, mặt nhăn. Tướng suy
tàn rõ hiện, kỳ lâm chung còn được mấy ngày. Vậy chúng ta nên chuyên tu
làm sao cho có triệu chứng vãng sanh chắc chắn. Như khi xưa Huệ Viễn
Pháp Sư ở Lô Sơn, ba phen thấy Phật xoa đầu. Lại như Hoài Cảm Pháp Sư chí
thành xưng danh hiệu Phật, liền thấy Đức A Di Đà phóng ánh quang minh,
hiện ra tướng hảo. Và như Thiếu Khang Pháp Sư khi niệm Phật một câu đại
chúng liền thấy một vị Phật từ nơi miệng ngài bay ra, cho đến trăm ngàn
câu cũng như thế, tợ hồ các hạt chuỗi nối tiếp nhau. Những sự ứng nghiệm
như thế có đến muôn ngàn. Nếu tâm ta không gián đoạn thì thấy Phật rất dễ,
như còn gián đoạn tất khó thấy Phật. Đã không thấy Phật thì cùng với Phật
không có duyên, và đã không có duyên quyết khó sanh Tịnh Độ. Khi không
được sanh về Tịnh Độ, tất sớm muộn gì cũng bị đọa vào ác đạo. Như thế một
niệm gián đoạn chính là nghiệp tam đồ, phải nên dè răn và suy nghĩ cho
kỹ!—Pure Land followers should strive earnestly for a response. The lives
of sentient beings are emphemeral and easily cut short; the ghost of
impermanence waits for no one. Our hair is already streaked with white,
our face has grown wrinkled. The marks of decay and old age are very
clear, and death is but a short time away. Therefore, we should strive to
cultivate in earnest, to ensure that some auspicious and reliable signs of
rebirth appear. Thus, in ancient China, Elder Master Hui-Yuan of Lu-Shan
saw the Buddha rub his crown three times. Another Elder Master earnestly
recited the Buddha’s name and immediately saw Amitabha Buddha emit rays of
light and display auspicious marks. In the case of still another Elder
Master, each time he uttered the Buddha’s name, the Great Assembly would
see a Buddha flying out of his mouth. This was true for hundreds of
thousands of his utterances; hundreds of thousands of Buddhas escaped from
his mouth, like so many rosary beads, one after another. Such responses
are countless. If you recite Amitabha Buddha’s name in earnest, without
interruption, it is very easy to see Him. Otherwise, it is very difficult.
If you do not see the Buddha, you do not have affinities with Him. Without
affinities, it is certainly difficult to achieve rebirth. If you are not
reborn in the Pure Land, sooner or later you will descend into the evil
realms. Thus, a single thought of interrupting recitation is precisely the
karma of rebirth on the Three Evil Paths. Everyone should bear this in
mind and ponder it carefully!
Ba Đời: Ba đời bao gồm quá khứ,
hiện tại và vị lai—Three generations—Three lifespans include past, present
and future.
Ba Đường Dữ: See Tam đồ ác đạo.
Ba Già La: See Ba Lợi Già La.
Ba Họ: See Ba Đời.
Ba Hoa: To brag—To boast about.
Ba Hòa Lợi: Pravari or Pravara
(skt).
1) Tên
của một loại vải len có nhiều lông: Woollen or hairy cloth.
** Theo Giáo Sư Soothill trong Trung Anh Phật Học Từ Điển—According to
Professor Soothill in The Dictionary of Chinese-English Buddhist Terms:
2) Tên
của một tịnh xá vùng Bắc Ấn: Name of a monastery in northern India.
3) Ba Hòa
Ly: Tên của một người dì của Phật Di Lặc—Name of a maternal aunt of
Maitreya.
Ba Hồi: At one time—At another
time.
Ba Hồn Chín Vía: Three souls
and nine spirits.
Ba Kỳ:
Parasi (skt)—Ba Tư—Ba Lặc Kỳ—Vùng đất Ba Tư ngày nay—Persian—Persia.
** For more information, please see Ba La
Tức.
Ba La:
Pala (skt)—See Bát La.
Ba La Di:
Parajikas (skt)—Ba La Xà Dĩ Ca—Ba La Thị Ca—Phần đầu trong Luật Tạng, bao
gồm luật lệ trục xuất ra khỏi Giáo Đoàn một vị Tăng phạm tội không thể tha
thứ hay sám hối được—The first section of the Vinaya Pitaka containing
rules of expulsion from the order for unpardonable sins—See Tứ Đọa.
Ba La Di Tứ
Dụ: Bốn thí dụ về Ba La Di tội mà
Phật đã dạy chư Tăng Ni về những kẻ phạm vào điều dâm—The four metaphors
addressed by the Buddha to monks and nuns about he who breaks the vow of
chasity:
1)
Kẻ phạm vào điều dâm như chiếc kim mẻ mũi gẩy đích, không xài được
nữa: He who breaks the vow of chasity is as a needle without an eye.
2) Như
sinh mệnh của một người đã hết, không thể sống được nữa: As a dead man.
3) Chiết
Thạch: Như đá vỡ không thể chấp lại—As a broken stone which cannot be
united.
4) Như
cây gẩy không thể sống lại: As a tree cut in two which cannot live any
longer.
Ba La Đề
Mộc Xoa: Pratimoksa (skt)—Biệt
Giải Thoát—Xứ Xứ Giải Thoát—See Pratimoksa in Pali/Sanskrit Section.
Ba La Đề Xá
Ni: Pratidesaniya (skt)—Hướng Bỉ
Hối Tội—Bát Lặt Để Ba La Đề—Ba La Xá Ni—Đề Xá Ni—Một phần trong Luật Tạng
nói về tội phải sám hối trước chúng—A section of the Vianyana concerning
public confession of sins—See Nhị Bách Ngũ Thập Giới.
Ba La Già:
Paraka (skt)—Đáo bỉ ngạn—Carrying over—Saving—The paramita boat.
Ba La Già
La: Prakara (skt)—Một thứ rào
cản—A containing wall—Fence.
Ba La Lợi
Phất Đa La: See Ba Liên Phất.
Ba La Mạt
Đà: Paramartha (skt).
1)
Đệ nhất nghĩa—The highest truth—Ultimate truth.
2)
Chân Đế: Reality—Fundamental meaning.
3) Chân
Đế Tam Tạng, tên của một vị sư nổi tiếng người miền Tây Ấn Độ, đến Trung
Quốc khoảng những năm 547 hay 548,
nhưng
thời đó nước Tàu quá loạn lạc nên ngài phải trở về Ấn bằng đường biển, tàu
của ngài bị trôi dạt vào Quảng Châu. Tại đó ngài dịch hơn 50 bộ kinh—Name
of a famous monk from West India, reached China around 547 or 548, but the
country was so disturbed that he set off to return by sea; his ship was
driven back to Canton, where he stayed and translated some fifty works.
Ba La Mật:
Ba La Mật Đa—Paramita—Đáo bỉ ngạn—Thập Độ Ba La Mật
1)
Bố thí: Charity—Giving.
2)
Trì giới: Moral conduct.
3)
Nhẫn nhục: Patience.
4)
Tinh tấn: Correct Energy/Devotion.
5)
Thiền định: Contemplation.
6)
Trí huệ: Prajna—Knowledge.
7)
Trạch pháp: Use of expedient or proper means.
8)
Phát Bồ đề tâm: Vow for Bodhicittta and helpfulness.
9)
Dũng mãnh: Strength.
10)
Trí huệ: Wisdom.
** For more information, please see Lục Độ
Ba La Mật and Thập Ba La Mật.
Ba La Mật Đa: Paramita
(skt)—Đáo bỉ ngạn hay vượt qua bờ sinh tử bên nầy để đến bờ bên kia, Niết
Bàn. Trong Kinh Lăng Già, Đức Phật đưa ra ba loại Ba La Mật—To cross over
from this shore of births and deaths to the other shore, or nirvana. In
The Lankavatara Sutra, the Buddha gave three kinds of Paramitas (see Tam
Chủng Ba La Mật).
** For more information,
please see Ba La
Mật and Lục Độ Ba La
Mật.
Ba La Mật Tự: Tên của một ngôi
chùa cổ ở Huế, Trung Việt. Lịch sử thành lập của chùa Ba La Mật gắn liền
với quảng đời của một vị quan thuộc dòng họ Nguyễn Khoa, giữa lúc đất nước
đang bị ngoại bang xâu xé. Khi vua Đồng Khánh ra lệnh cho quan quân triều
đình tiêu trừ phong trào Cần Vương, ông bèn treo ấn từ quan, bỏ lên chùa
Đại Bi ở Thanh Hóa ẩn dật. Được ít lâu, ông về quê, nhưng triều đình lại
triệu ông ra giữ chức Thị Lang Binh Bộ, ông giả bệnh không ra nhậm chức.
Từ đó ông phát nguyện tu hành, lên chùa Từ Hiếu làm lễ xuất gia với Hòa
Thượng Hải Thiệu. Về sau, bà phu nhân của ông là Công Tôn Nữ Thị Tỳ, đã
xây dựng xong ngôi chùa trong khuôn viên của gia tộc lấy tên là chùa Ba La
Mật ông về trụ tại đây đến khi thị tịch năm 1900. Năm 1934, con cháu dòng
họ Nguyễn Khoa trùng tu chùa. Năm 1943, Hòa Thượng Trí Thủ trùng tu lần
nữa và kiến trúc chùa vẫn duy trì cho đến ngày nay—Name of an ancient
temple in Huế, Central Vietnam. The history of the temple is closely
attached to the life of a mandarin named Nguyễn Khoa Luận, while the
country was being torn by the invaders. When king Đồng Khánh ordered his
court soldiers to fight against Cần Vương movement, he resigned from the
post, went to Đại Bi temple in Thanh Hóa and stayed there as a hermit.
Sometime later, he got back to his native village. When being appointed a
mandarin again by the court, he pretended to go crazy in order to refuse
the appointment. Then, he resolved to leave home and join the Order. He
went to Từ Hiếu temple to become a monk with the Buddha name Thanh Chơn.
In autumn 1886, his wife, Tôn Nữ Thị Tỳ, built a temple within her
mansion, and invited him back to be the headmonk there. He passed away in
1900. In 1934, the Nguyễn Khoa descendents rebuilt the temple. In 1943,
Most Venerable Trí Thủ renovated the temple again and its construction has
remained the same until now.
Ba La Môn: Brahmin (skt)—See
Brahmana in Sanskrit/Pali-Vietnamese Section.
Ba La Nại: Baranasi (skt)—Tên
khác của thành Ba La Nại Tư (Varanasi), một thành phố nằm về phía Bắc Ấn
Độ, kinh đô của vương quốc cổ Ca Thị nằm bên bờ sông Hằng, một trong mười
sáu nước của Ấn Độ trong thời Đức Phật còn tại thế. Ba La Nại là một thành
phố thiêng liêng cho cả Ấn giáo và Phật giáo. Lộc Uyển cách Ba La Nại
chừng bảy dậm nơi Phật thuyết giảng bài pháp đầu tiên “Kinh Chuyển Pháp
Luân” cho năm vị đệ tử đầu tiên của Ngài—Benares, another name for
Baranasi, a city in northern India, an ancient kingdom and city on the
Ganges River, the capital of the kingdom of Kasi which was one of the
sixteen major countries during the Buddha’s time. Baranasi was a sacred
city for both Hinduism and Buddhism. About seven miles from Baranasi was
sarnath or the deer Park (the outskirt of Benares) where the Buddha
preached his first discourse on the “Sermon on Setting in motion of the
Wheel of the Law” to his first five disciples. Baranasi is also the most
holy city in India and important in Buddhism.
Ba La Ni Mật Bà Xá Bạt Đề Thiên:
Paranirmita-vasavartin (skt)—Tha Hóa Tự Tại Thiên—A deva who is obedient
to the will of those who are transformed by others.
** For more information,
please see Tha Hóa
Tự Tại Thiên.
Ba La Phả Bà Để: Prabhavati
(skt).
1) Em gái
của A Tu La: Younger sister of Asura.
2) Em gái
của vua A Dục: Younger sister of Asoka.
Ba La Phả Ca La Mật Đa La:
Prabhakaramitra (skt)—Người giác ngộ—Enlightener.
Ba La Phó: Prabhu (skt).
1) Mạnh
mẽ: Powerful—Surpassing.
** Theo Giáo Sư Soothill trong Trung Anh Phật Học Từ Điển—According to
Professor Soothill in The Dictionary of Chinese-Enlgish Buddhist Terms:
2) Danh
hiệu của Tỳ Nữu Thiên (Tỳ Ni Thiên): A title of Visnu.
3) Nhân
cách hóa của mặt trời, Phạm Thiên hay Đế Thích: Personification of the
sun, Brahma, Indra, etc.
Ba La Thị Ca: Parajika
(skt)—See Ba La Di and Tứ Đọa.
Ba La Tức: Theo Eitel trong
Trung Anh Phật Học Từ Điển thì Ba La Tức là kinh đô của nước Surasthana,
nơi mà người ta cho rằng “bát khất thực” của Phật được mang đến lưu trữ
vào khoảng năm 600 sau Tây Lịch—According to Eitel in The Dictionary of
Chinese-English Buddhist Terms composed by Professor Soothill, in its
capital of Surasthana the Buddha’s almsbowl was said to be in 600 A.D.
Ba La Việt: Paravata (skt)—Chim
bồ câu—A dove.
Ba La Xa Hoa: Palasa (skt)—Theo
Giáo Sư Soothill trong Trung Anh Phật Học Từ Điển, Palasa là tên của một
loại hoa của một loại cây ở Tây Vực, lá xanh, hoa có ba sắc. Khi mặt trời
chưa mọc thì màu đen, mặt trời trưa thì màu đỏ, mặt trời lặn thì màu vàng.
Nước cây rất đỏ dùng làm thuốc nhuộm—According to Professor Soothill in
The Dictionary of Chinese-English Buddhist Terms, palasa is the name of a
blossom of a tree with green leaves and red flowers, whose sap is used to
dye fabric stuff. Its flowers are said to be black before sunrise, red
during the day, and yellow after sunset.
Ba La Xa Thụ: Palasa tree—See
Ba La Xa Hoa.
Ba La Xá Ni: Pratidesaniya
(skt)—See Ba La Đề Xá Ni.
Ba La Xà Dĩ Ca: Parajika
(skt)—See Ba La Di and Tứ Đọa.
Ba Lãng: Taranga (skt)—Lọn
sóng—A wave—Waves.
Ba Lăng Nhăng:
Undisciplned—Disordered—Unorganized.
Ba Lật Thấp Phược: Parsva
(skt)—Hiếp Tôn Giả (Worship of the Ribs)—Theo Giáo Sư Soothill trong Trung
Anh Phật Học Từ Điển, Hiếp Tôn Giả (thời Đường bên Trung Quốc gọi Ngài
Parsva là Hiếp Tôn Giả) là vị Tổ thứ mười của Ấn Độ, là thầy của Tổ Mã
Minh, người đã thệ nguyện không nằm cho đến khi nào thấu triệt chơn lý
trong Tam Tạng Kinh Điển. Trong ba năm, Ngài đã cắt đứt mọi dục vọng trong
Dục giới, sắc giới, và Vô sắc giới, đạt được lục thông và Bát Ba La Mật.
Ngài thị tịch khoảng năm 36 trước Tây Lịch—According to Professor Soothill
in The Dictionary of Chinese-English Buddhist Terms, Parsva was the tenth
patriarch, the master of Avaghosa, previously a Brahman of Gandhara, who
took a vow to not lie down until he had mastered the meaning of the
Tripitaka, cut off all desire in the realms of sense, form, and non-form,
and obtained the six supernatural powers and the eight paramitas. This he
accomplished after three years. He died around 36 B.C.
Ba Lâu Na: Vatya (skt) ???—Một
trận cuồng phong—A pierce wind—Hurricane.
Ba Lâu Sa Ca: Parusaka
(skt)—Một công viên trên cõi trời Đao Lợi—A park in the Trayastrimsas
heaven.
Ba-Li:
1) Phạn
ngữ Pali, một trong những ngôn ngữ căn bản trong truyền thống Phật giáo,
ngôn ngữ mà trường phái Theravada đã dùng để ghi lại những kinh điển Phật.
Ba Li ngữ được Phật giáo phương Nam xem là ngôn ngữ Ma Kiệt Đà mà Đức Phật
đã nói trong thời Ngài còn tại thế. So với tiếng Phạn Bắc Ấn, thì âm điệu
và văn pháp có phần biến thái và đơn giản hơn—Pali—One of the basic
languages in which the Buddhist tradition is reserved—The language adopted
by the Theraveda for the reservation of the Dharma—Considered by the
Southern Buddhists to be the language of Magadha, such as Magadhi Prakrit
spoken by Sakyamuni; their Tripitaka is written in it. It is closely
allied to Sanskrit, but phonetically decayed and grammatically
degenerate.
2) Ưu Ba
Li: See Upali in sanskrit/Pali-Vietnamese Section.
Ba Liên Phất: Pataliputra
(skt)—Nguyên thủy là thành Kusumapura, đế đô của vua A Dục, nơi mà cuộc
kiết tập kinh điển lần thứ ba được tổ chức—Originally Kusumapura, the
modern Patna; capital of Asoka, where the third synod was held.
Ba Loại Ba La Mật: Three kinds
of Paramita ideals or methods of perfection:
1) Thế
gian Ba La Mật: The Paramitas of people in general relating to this world.
2) Xuất
thế gian Ba La Mật: Paramitas of Sravakas and Pratyeka-buddhas relating to
the future life for themselves.
3) Xuất
thế gian thượng thượng Ba La Mật: The Paramitas of the supreme one of
bodhisattvas, relating to the future life for all.
Ba Loại Cúng Dường: Three modes
of serving the Buddha:
1) Dâng
hương, hoa, quả: Offerings of incense, flowers, and fruits.
2) Tỏ
lòng tôn kính: Offerings of praise and reverence.
3) Hành
trì tốt: Good (right) conduct.
Ba Loại Người Có Thể Đi Theo Con Đường Đại
Thừa: Theo Kinh Thắng Man, có ba loại người có thể bước theo
nẻo Đại Thừa—According to the Shrimaladevi-Sutra, three are three types of
beings who can tread the path of the Mahayana:
1) Những
người tự mình hiểu được trí năng sâu sắc: Those who realize the most
profound wisdom or Prajna.
2) Những
người hiểu được trí năng bằng cách nghe học thuyết: Those who realize
wisdom through hearing the teaching.
3) Những
người tuy không hiểu được trí năng cao nhất, nhưng có một niềm tin hoàn
toàn vào Đấng Như Lai: Those who cannot realize supreme wisdom, but have
devout faith in the Tathagata.
Ba Loại Nhẫn Nhục: Three kinds
of patience or forebearance:
1) Thân
nhẫn: The patience or forbearance of the body.
2) Khẩu
nhẫn: The patience or forbearance of the mouth.
3) Tâm
nhẫn: The patience or forbearance of the mind.
Ba Loại Thanh Tịnh Của Bồ Tát:
Three purities of a bodhisattva:
1) Thân
thanh tịnh: A pure body.
2) Tướng
thanh tịnh: Perfectly pure and adorned appearance.
3) Tâm
thanh tịnh: A mind free of impurity.
Ba Loại Thiện Căn: Three kinds
of good roots:
1) Bố
thí: Almsgiving.
2) Bi
mẫn: Mercy.
3) Trí
tuệ: Wisdom.
Ba Lợi: Pari (skt).
1) Viên:
Round—Round about.
2) Tròn
đầy: Complete.
3) Đều
khắp: All.
Ba Lợi Bà Sa: Parivasa
(skt)—Biệt Trụ, tên của một hình phạt trong Luật Tạng. Kẻ phạm giới phải ở
một mình một phòng riêng, không được ở cùng với các vị Tăng khác—Sent to a
separate abode, isolation for improper conduct.
Ba Lợi Ca La: See Ba Lợi Già
La.
Ba Lợi Chất Đa La: Ba Lợi Chất
La—Ba Nghi Chất Cấu—Ba Lợi Chất Đa La Câu Đà La—Ba Lợi Thụ.
1)
Paricitra (skt)—Cây Hương Biến (từ cánh lá đến quả đều thơm) trên cõi trời
Đao Lợi, tỏa ngát hương thơm cùng khắp cõi trời nầy: A tree in the
Trayastrimsas heavens which fills the heavens with fragrance.
2)
Parijata (skt)—Một loại san hô mọc trong vườn của vua Đế Thích, một trong
năm loại cây trên cõi nước Cực Lạc (khi Phật còn tại thế, Ngài đã từng lên
đây ngồi dưới gốc cây Ba Lợi Chất Đa La nầy mà thuyết pháp cho chư Thiên,
người đầu tiên được ngài độ chính là mẹ của ngài là Hoàng Hậu Ma Da)—A
tree in Indra’s heaven, one of the five trees of the paradise, the coral
tree.
Ba Lợi Già La: Parikara
(skt)—Ba Già La.
1) Một
thứ khăn tắm—An auxiliary garment, loin cloth, towel.
2) Chiếc
áo bảo vệ thân thể: A body-guarding shirt.
Ba Lợi Nặc Phược Nam:
Parinirvana (skt)—See Niết Bàn in Vietnamese-English Section, Nirvana and
Parinirvana in Sanskrit/Pali-Vietnamese Section.
Ba Lý Do Hành Giả Niệm Phật Không Được
Nhứt Tâm Bất Loạn: Three causes which practitioners of Buddha
Recitation cannot achieve “one-pointedness of mind.”—Sao gọi là “Nhứt tâm
bất loạn?” “Nhứt tâm” là duy có một tâm niệm Phật, không xen tạp niệm chi
khác. “Bất loạn” là lòng không rối loạn duyên tưởng cảnh nào ngoài cảnh
niệm Phật. Bậc thượng căn niệm Phật một ngày có thể được nhứt tâm, bậc
trung căn hoặc ba bốn ngày có thể được nhứt tâm, còn bậc hạ căn phải đến
bảy ngày. Cũng có ý nghĩa khác, bậc thượng căn trong bảy ngày hoàn toàn
nhứt tâm, bậc trung căn chỉ nhứt tâm được ba bốn ngày, còn bậc hạ căn duy
nhứt tâm được có một ngày. Nhưng tại sao Đức Thế Tôn ước hạn trong bảy
ngày có thể được nhứt tâm, mà chúng ta nhiều kẻ niệm hai ba năm vẫn chưa
được nhứt tâm? Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong Niệm Phật Thập Yếu,
có ba lý do khiến cho hành giả niệm Phật không được nhứt tâm—What does it
mean to have “one-pointedness of mind?” It means to concentrate the mind
on recitation without sundry thoughts. “One-pointedness” means the mind is
devoid of all distractions, thinking about no other realm except the
realm of Buddha Recitation. Individuals of high capacities may reach such
a state in, perhaps, one day; those of moderate capacities in three or
four days; those of limited capacities in seven days. There is still
another point of view, individuals of high capacities, ideally, achieve
one-pointedness of mind during the entire seven-day period; those of
moderate capacities only do so for three or four days; while those of
limited capacities may only do so for one day during the whole period of
retreat. However, why did Sakyamuni Buddha estimate that we could achieve
one-pointedness of mind within a week, when in fact, some of us may recite
for two or three or even many years without ever reaching that state?
According to Most Venerable Thích Thiền Tâm in The Pure Land Buddhism in
Theory and Practice, there are three causes which practitioners of Buddha
Recitation cannot achieve “one-pointedness of mind.”
1) Về sự
tướng, ta không y theo lời Phật dạy kiết kỳ tu hành, khi kiết thất lại tạp
tu. Phải biết trong kỳ thất, muốn được nhứt tâm, nên chuyên giữ một câu
niệm Phật, không được xen trì chú, tụng kinh hay tham thiền chi khác: From
the viewpoint of “mark” or phenomena, we fail to follow Sakyamuni Buddha’s
admonition to conduct periodic retreats for cultivation. When we do so, we
engage in several practices at the same time (sundry practices). We should
realize that if we would like to achieve one-pointedness of mind, we
should practice oral recitation exclusively during the retreat period, and
not engage in Mantra or Sutra Recitation or meditation as well.
2) Trong
bảy ngày chưa tránh được tạp duyên, dứt được tạp niệm, chuyên chú tu hành.
Bởi có vị kiết thất, vì thiếu sự ngoại hộ, phải tự lo việc cơm nước, chưa
yên lòng về các chuyện lặt vặt bên ngoài, cho đến chưa có tâm cầu sự tất
chứng: There are various reasons why some practitioners canot avoid sundry
conditions and thoughts or concentration on cultivation for seven days.
These reasons range from lack of external support, i.e., the need to
prepare their own meals and attend to other miscellaneous activities, to
lack of earnestness.
3) Ba căn
như đã nói, chỉ là ước lược. Chẳng hạn như trong thượng căn có
thượng-thượng căn, thượng-trung căn, thượng-hạ căn; trung và hạ căn cũng
thế, thành ra chín căn. Trong chín căn nếu chia chẻ ra hãy còn rất nhiều
căn nữa. Lại nên biết lời Phật nói chỉ là khái lược. Thí dụ như nói bậc
thượng căn chỉ nói bảy ngày không loạn, mà chẳng nói tám chín ngày. Thật
ra bậc ấy, chẳng những tám chín ngày không loạn, mà cho đến suốt đời cũng
có thể không loạn. Ngược lại, kẻ độn căn nghiệp chướng nặng nhiều, chẳng
những bảy ngày không được nhứt tâm, mà có thể niệm suốt đời cũng chưa được
nhứt tâm. Cho nên đối với tất cả kinh nghĩa phải khéo hiểu, không nên chấp
văn hại lời, và chấp lời hại ý: The three capacities mentioned above are a
rough estimation. For example, within the category of high capacity
cultivators, we have “supremely high,” “moderately high,” and “low high”
capacities. Moderate and limited capacities may likewise be subdivided.
There are thus a total of nine categories, which may in turn be divided
into many more categories. We should also realize that Sakyamuni Buddha’s
words are only generalities. For example, the sutras state that
individuals of high capacities can achieve one-pointedness of mind for
seven days, not eight or nine. In reality, these sages are not only
undisturbed for eight or nine days, conceivably, their minds can remain
empty and still during their entire lives. Conversely, those of limited
capacities, weighed down bu heavy karmic obstructions, not only may fail
to reach one-pointedness of mind after seven days, they may even recite
during their whole lifetime without ever reaching that state. Thus we
should interpret the words and meaning of the sutras flexibly, without
being attached to the words and betraying the phrase, or grasping at the
phrase and doing injustice to the meaning.
Ba Lý Do Hành Giả Niệm Phật Không Nguyện
Vãng Sanh Về Đâu Suất Thiên: Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm
trong Niệm Phật Thập Yếu, có ba lý do khiến hành giả niệm Phật không
nguyện vãng sanh về Đâu Suất Thiên—According to Most Venerable Thích Thiền
Tâm in The Pure Land Buddhism in Theory and Practice, there are three
reasons that practitioners do not vow to have rebirth in the Tushita
Heaven.
1) Khó
vãng sanh về Đâu Suất Thiên vì Bồ Tát Di Lặc không có nguyện tiếp dẫn như
Đức Phật A Di Đà, nên chúng sanh phải tự nương vào sức của chính mình để
thành tựu vãng sanh về đây: It is difficult to be reborn in the Tushita
Heaven, as Maitreya Bodhisattva does not have the “welcoming and escorting
Vow of Amitabha Buddha.” Sentient benigs must rely solely on their own
self-power to achieve rebirth there.
2) Đâu
Suất Thiên vẫn còn là một phần của cõi trời Dục Giới nên chúng sanh trong
cõi nầy vẫn còn bị thối chuyển: Tushita Heaven is still part of the World
of Desire, of which the Shaha World is an infinitesimal part, not outside
of it as is the Western Pure Land. Thus sentient beings in the Tushita
Heaven remain subject to retrogression.
3) Đâu
Suất Thiên rất khó vãng sanh, như khi xưa 900 năm sau khi Phật nhập diệt,
ở xứ Thiên Trúc có ba vị Bồ Tát huynh đệ với nhau là Vô Trước, Thế Thân
và Sư Tử Giác, tu môn Nhật Quang Định đồng phát nguyện sanh về Đâu Suất
nội viện. Ba người cùng ước hẹn, ai sanh lên trước phải trở xuống báo tin
cho hay. Sau đó Sư Tử Giác mãn phần trước, trải qua ba năm tuyệt vô âm
tín. Kế đó Ngài Thế Thân viên tịch rồi cũng bặt tin luôn. Ba năm sau đó
vào một buổi chiều tối khi Ngài Vô Trước đang ngồi giảng kinh, bỗng thấy
giữa hư không ánh sáng chói lòa, một vị thiên tử áo mão trang nghiêm hiện
xuống, tự xưng mình là Thế Thân, bảo đã được sanh lên Đâu Suất nội viện.
Ngài Vô Trước hỏi, “Tại sao đến bây giờ mới cho hay?” Thế Thân đáp: “Em
vừa sanh lên được Đức Di Lặc xoa đảnh thuyết pháp, nghe pháp xong đi nhiễu
ba vòng rồi xuống đây liền. Bởi thời gian tại Đâu Suất một ngày đêm, ở
dưới nầy dến bốn trăm năm, nên thành ra làm cho anh nhọc lòng chờ đợi.” Vô
Trước lại hỏi: “Còn Sư Tử Giác ở đâu?” Thế Thân đáp, “Trong khi em đi
nhiễu, nhìn ra thấy Sư Tử Giác lạc vào ngoại viện, đang say mê theo thiên
nhạc và ngũ dục, nên chẳng bao giờ diện kiến được Ngài Di Lặc. ”—It is
difficult to achieve rebirth in the Tushita Heaven. It is said that some
nine hundred years after Sakyamuni Buddha’s demise, there were three
Indian Patriarchs who cultivated together, Asanga, Vasubandhu, and
Simhabhadra. These three all had the same determination in being born in
the Tushita Heaven and in desiring to see Maitreya. They vow that if one
were to die first, and obtain a look at Maitreya, he would return and
inform the others. Simhabhadra died, but once he had gone he did not
return. Later, when Vasubandhu was nearing his death, Asanga said to him,
“If you see Maitreya, come and tell me.” Vasubandhu , but returned only
after a period of three years. Asanga asked him, “Why did it take you such
a long time to return?” Vasubandhu said that he had arrived there, in the
Tushita Heaven, had heard the Maitreya Bodhisattva preach but one sermon,
had circumambulated him… and had come back immediately; but days are long
there in Tushita, and here on earth, three years had already elapsed.
Asanga asked him again, “Where is Simhabhadra now?” Vasubandhu replied
that because Simhabhadra had received such heavenly pleasures, he was
enjoying the five desires, and so… from that time to the present he has
never seen Maitreya!
Ba Lý Do Hành Giả Niệm Phật Nguyện Vãng
Sanh Tây Phương Cực Lạc: Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong
Tịnh Độ Thập Nghi Hoặc Vấn Luận, câu hỏi số 13, trong mười phương có vô số
chư Phật, những chúng sanh hữu tâm đều có thể thân cận, chứ không riêng gì
Đức Phật A Di Đà. Tuy nhiên, có ba lý do mà người tu nguyện vãng sanh về
Tây Phương Cức Lạc—According to Most Venerable Thích Thiền Tâm in the
Treatise on the Ten Doubts, question number 13, there are countless
Buddhas in the ten directions. All right-minded sentient beings can
approach and study with them, not necessarily Amitabha buddha alone.
However, there are three reasons for reciting Amitabha Buddha:
1) Vì
theo Kinh Vô Lượng Thọ thì trong nhiều kiếp tu nhân về trước, Đức Phật A
Di Đà đã phát bốn mươi tám lời thệ nguyện rộng sâu. Tiêu biểu cho những
lời nguyện nầy là lời nguyện thứ 18 và 11—Because according to the Longer
Amitabha Sutra or the Infinite Life Sutra, in his previous lifetimes,
Amitabha Buddha has made forty-eight profound, all-encompassing vows. The
general tenor of these vows is best exemplified in the eighteenth and
eleventh vows—See Tứ Thập Bát Nguyện (11) and (18).
2) Theo
Tổ của tông Thiên Thai là ngài Trí Giả, nên niệm Phật cầu vãng sanh về Tây
Phương Cực Lạc vì chúng sanh nơi cõi Ta Bà có nhân duyên với Đức Phật A Di
Đà. Khi Đức Thế Tôn còn tại thế, rất nhiều chúng sanh nghe lời từ huấn của
Ngài mà quy hướng về Đức Phật A Di Đà. Từ khi Đức Thế Tôn nhập Niết Bàn về
sau nầy, không luận Tăng tục, nam nữ, giàu nghèo, sang hèn, kẻ đã nghe
Chánh Pháp hay chưa biết gì về Phật giáo vẫn thường xưng niệm danh hiệu
Đức Phật A Di Đà. Trong Kinh Vô Lượng Thọ, Đức Thế Tôn đã bảo: “’Trong đời
tương lai, khi tam tạng giáo điển đã diệt hết, ta dùng nguyện lực từ bi,
duy lưu kinh nầy trụ thế một trăm năm. Những chúng sanh nào có duyên được
gặp, tùy ý mong cầu thảy đều đắc độ.’ Đức Phật lại nói tiếp, ‘Sau khi kinh
nầy diệt rồi, Phật pháp hoàn toàn mất hẳn trong đời, chỉ còn lưu truyền
lại bốn chữ A Di Đà Phật để cứu độ chúng sanh; kẻ nào không tin mà hủy
báng, sẽ bị đọa vào địa ngục, chịu đủ các sự khổ.’”—According to the
founder of the T’ien-T’ai School, the Patriarch Chih-I, the reason why we
should beg to be reborn in the Western Bliss is that sentient beings in
this world have great affinities (causes and conditions) with Amitabha
Buddha. When Sakyamuni Buddha was still alive, a great many sentient
beings, listening to His compassionate teaching, directed their Minds
toward Amitabha Buddha. Since Sakyamuni Buddha entered Nirvana, many
Buddhists, whether clergy or layman, man or woman, rich or poor, upper or
lower class, familiar with the Dharma or not, have recited the name of
Amitabha Buddha. In the Longer Amitabha Sutra, Sakyamuni Buddha stated:
“’The the days to come, the paths of the sutras will come to extinction.
I, with compassion and mercy, will purposely make this sutra survive for a
hundred years. Anybody who encounters this sutra will, according to his
wish, surely attain enlightenment.’ The Buddha added further, ‘After this
sutra is no longer existence, the Buddha Dharma will entirely disappear
from the world. Only the words Amitabha-Buddha will remain to rescue
sentient beings. Those who disbelieve this and vilify the Buddha’s words
will sink into the hells and endure all kinds of suffering.’”
3) Bởi vì
giáo thuyết của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni trong cõi Ta Bà và giáo thuyết
của Đức Phật A Di Đà nơi Tây Phương Cực Lạc quan hệ với nhau. Cổ đức bảo:
“Đức Phật Thích Ca thị hiện nơi cõi uế, đem các duyên nhơ ác, khổ não, vô
thường, chướng nạn mà chiết phục chúng sanh, khiến cho họ sanh lòng nhàm
chán mà tu theo Chánh Đạo. Đức Phật A Di Đà thì hiện thân nơi cõi Tịnh,
dùng các duyên trong sạch, an vui, lâu dài, không thối chuyển mà nhiếp hóa
loài hữu tình, khiến họ khởi tâm ưa mến mà trở lại nguồn chân. Hai vị
Phật đã dùng hai môn ‘Chiết’ và ‘Nhiếp’ làm cho giáo pháp lưu hành, nên sự
hóa độ có liên quan với nhau. Lại Đức Phật Thích Ca ngoài sự chỉ dạy ba
thừa để giáo hóa chúng sanh, đặc biệt nói thêm môn niệm Phật để nhờ Đức A
Di Đà tiếp dẫn những kẻ còn chưa được độ. Vì thế trong các kinh Đại Thừa,
Đức Thế Tôn đã ân cần dặn bảo, luôn luôn khen ngợi và khuyến khích sự vãng
sanh.”—Because the teachings of Sakyamuni Buddha in the saha World those
of Amitabha Buddha in the West are interrelated. Ancients have said:
“Sakyamuni Buddha manifests himself in the impure world and subdues
sentient beings through such conditions as filth, suffering, impermanence
and obstacles, creating in them a sense of abhorrence so that they wil
follow the right path. Amitabha Buddha, on the other hand, manifests
himself in the Pure Land, gathers sentient beings in through such
conditions as purity, happiness, permanence and non-retrogressions,
creating in them the desire to return to the source of truth. In this way,
the two Buddhas employ the dual method of ‘subduing’ and ‘gathering’ in to
propagate the correct Dharma. Their activities of teaching and
transformation are thus related. Moreover, while preaching the Three
Vehicles, Sakyamuni Buddha specially added the Pure Land method, so that,
through the help of Amitabha Buddha, those sentient beings who were still
left out could be rescued. Therefore, in Mahayana Sutras, Sakyamuni
Buddha compassionately recommended and constantly extolled rebirth in the
Pure Land.”
Ba Lý Do Ma Sự Phát Sanh: Theo
Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong Liên Tông Thập Tam Tổ, niệm Phật cũng có
ma sự vì bởi ba nguyên nhân sau đây—According to Most Venerable Thích
Thiền Tâm in The Thirteen Patriarchs of Pureland Buddhism, practicing
Buddha Recitation also has the element of demonic obstructions, for the
three reasons.
1) Không
thông hiểu vững chắc về giáo lý: Not having a firm foundation and
understanding of the Buddha’s teachings.
2) Không
gặp minh sư hay thiện hữu tri thức: Not encountering a good knowledgeable
advisor or having virtuous friends.
3) Không
biết tự xét lấy mình, đây là điểm quan yếu nhất trong ba điểm trên: Not
knowing how to practice mental reflection of one’s self, or lacking
self-awareness. This is the most crucial point among the three (see Năm
Điểm Phải Biết Tự Xét Lấy Mình Của Người Tu Tịnh Độ).
Ba Lý Y Đa La: Pariyatra
(skt)—Theo Eitel trong Trung Anh Phật Học Từ Điển, đây là một vương quốc
cổ, 800 dậm về phía tây nam của Satadru, trung tâm của các phái ngoại đạo.
Bây giờ là thành phố Birat, phía tây của Mathura—According to Eitel in The
Dictionary of Chinese-English Buddhist Terms, Pariyatra was an ancient
kingdom, 800 miles south-west of Satadru, a center of heretical sects.
The present city of Birat, west of Mathura.
Ba Mặt Một Lời: Face-to-face.
Ba Mối Nghi Của Phật Tử Về Tịnh Độ:
Three doubts of practitioners about the Pure Land—Theo Hòa Thượng Thích
Thiền Tâm trong Niệm Phật Thập Yếu, có nhiều người thật tâm muốn niệm
Phật, hoặc đã từng hành trì rồi, nhưng vì sự học hiểu về giáo lý còn kém,
nên khi nghe kẻ khác biện luận bài bác, liền khởi lòng nghi. Những mối
nghi đó rất nhiều, nhưng chỉ nêu lên đây ba mối nghi chánh—According to
Most Venerable in The Pure Land Buddhism in Theory and Practice, there are
some people who truly want to recite the Buddha’s name or have engaged in
the practice; however, because their study and understanding of the Dharma
are still wanting, they develop doubts as soon as they hear criticisms of
others. There are many such doubts; however, here we only mention three of
the most common.
1) Tịnh
Độ chỉ là một quyền thuyết—Pure Land is really just an expedient teaching:
a) Có kẻ
thấy trong kinh điển tả cảnh Tịnh Độ quá trang nghiêm, bỗng sanh niệm nghi
rằng: “Cõi Cực Lạc là quyền tiện của Phật nói ra để cho người hâm mộ gắng
tu làm lành lánh dữ, đại khái như thuyết thiên đường, chứ làm gì có một
thế giới từ đất đai đến cây cối, lầu các đều bằng thất bảo như vàng, bạc,
lưu ly, xa cừ, xích châu, mã não. Lại nữa, thân người bằng chất ngọc
nhuyễn kim cương, hóa sanh từ hoa sen không có già, bệnh, chết. Các thức
ăn mặc trân quý đều tùy ý niệm hiện ra. Như thế toàn là những chuyện đau
đâu, xa với thực tế làm sao mà tin được?—Pure Land is really an expedient
teaching—Seeing the Pure Land described in overly majestic terms in the
sutras, some people suddenly develop the idea that the Pure Land is merely
an expedient of the Buddhas. How can there exist a world in which
everything, from the ground to the trees and towers, is made of seven
jewels(see Thất Bảo). Moreover, the inhabitants radiate health and
tranquility; they spring to life from lotus blossoms, free of old age,
disease and death. Ethereal food and clothing appear before them according
to their wishes. All these are far removed from the realities spread
before our own eyes, how can we believe in them?
b) Để
giải thích điều nầy Hòa Thượng Thích Thiền Tâm đã đáp rằng: “Những ý nghĩ
trên phần (a) đó đều còn hạn cuộc theo sự nghe thấycủa tai mắt phàm tình.
Người muốn học Phật không nên đem trí phàm phu mà suy lường Thánh cảnh.
Đừng nói đâu xa, ngay ở Việt Nam ta khi cụ Phan Thanh Giản đi sứ sang Pháp
trở về thuật lại, nói bên ấy đèn không đốt mà cháy, xe thuyền không ngựa
hay người kéo mà tự chạy, trăm việc sánh bằng trời đất, duy có sự sống
chết là còn thuộc quyền tạo hóa định đọa mà thôi. Vua và triều thần nghe
nói đều không tin. Đến như chỗ bạn thân mà cũng mỉm cười cho là cụ Phan đi
xa về nói khoác. Kỳ thật thì những điều cụ Phan vừa kể đều là sự thật—In
reply to this I will say: “All these doubts derive from the limited sights
and sounds perceived by the eyes and ears of common mortals. Those who
wish to study the Dharma should not assess the realms of the saints with
the limited faculties of sentient beings. Let us not talk of faraway
things. In Asia, in the last century, when Mr. Phan Thanh Giản, a
high-ranking official returned from Europe, reported that over there,
lamps required no fire to light them, while carriages and barges moved on
their own, without horses or men to pull them. He then praised Europeans
for their intelligence and skills, which in hundreds of instances rivalled
those of God, only life and death remaining within the purview of the
Almighty. His words were met with disbelief from the king on down to his
entire court. Even the official’s closest friends smiled and thought that
returning from far away, he was just exaggerating. In reality, all issues
mentioned by Mr. Phan were true.
2) Có
người nghe nói pháp môn Tịnh Độ hành trì giản dị mà kết quả rất mau chóng
cao siêu nên nghi ngờ—Hearing that the Pure Land method is easy to
practice but the results are speedy and lofty, some people develop doubts.
a) Đâu
lại có phương pháp thành Phật quá dễ dàng như thế? Bởi đường lối thường
thức của các môn tu là Chỉ và Quán. Khi hạ thủ công phu, trước tu “Chỉ,”
kế tiếp tu “Quán;” hoặc trước tu Quán, kế tiếp tu Chỉ. Lần lần tiến đến
“Trong Quán có Chỉ, trong Chỉ có Quán.” Khi tới trình độ “Chỉ Quán không
hai, định huệ tịch chiếu” mới gọi là bước vào cảnh giới tự tâm. Rồi từ đó
về sau, nếu mỗi đời đều tiếp tục tinh tấn tu hành, theo như trong kinh
luận nói, phải trải qua một muôn đại kiếp mới lên ngôi “Bất Thối Chuyển.”
Tại sao chỉ một câu niệm Phật, ngay trong đời nầy lại được vãng sanh lên
ngôi Bất Thối, há chẳng phải là dễ dàng quá ư?—How can there be such an
easy method leading to Buddhahod? The usual way of Buddhist cultivation
centers around concentration and contemplation. When we start cultivating,
we practice first concentration (samatha), then contemplation (vipasyana),
or we can begin first with contemplation and follow up with concentration.
We then progress to the stage where “in contemplation there is
concentration, in concentration there is contemplation.” Upon reaching the
level of “non-dual concentration and contemplation, still-but-illuminating
samdhi and wisdom,” we have stepped into the realm of the Self-Nature.
From then on, if we vigorously keep up with our cultivation life after
life, it will take ten thousand eons before we reach the level of
non-retrogression, according to the sutras and commentaries. How is it
that after only a few singleminded utterances of the Buddha’s name, we can
be reborn in the Pure Land in this very lifetime, at the stage of
non-retrogression? Is it not really too easy?
b) Khi đề
cập đến nghi vấn nầy, chúng ta nên biết tu các pháp môn khác chỉ hoàn toàn
nương nơi tự lực, cho nên phải khó. Riêng đường lối tu Tịnh Độ có hai năng
lực, là tự tâm lực và Phật lực tiếp dẫn, nên sự thành công rất dễ. Ví như
một người chân yếu, muốn tự mình lên tận đỉnh núi cao là điều rất khó.
Nhưng nếu kẻ ấy được một vị đại lực sĩ khoác cánh tay phăng phăng đưa bước
tiến tới thì kết quả lên tới đỉnh nào có khó chi!—When responding to this
doubt, we should realize that most other methods involve complete reliance
on “self-power,” and are therefore bound to be difficult. The Pure Land
method characteristically involves two factors, the power of one’s own
mind and Amitabha Buddha’s power of “welcoming and escorting.” Therefore,
obtaining results is extremely easy. For example, if someone with weak,
hobbled feet wanted to climb a mountain unaided, it would be difficult
indeed! However, if he were assisted by a great athlete who took him by
the arm and climbed the mountain along with him, head held high, the
result would not be that difficult to achieve.
c) Về môn
Tịnh Độ cũng thế, khi ta chuyên tâm niệm Phật tức là lúc tâm lực phát
triển. Niệm đến một lòng không loạn, là lúc tâm lực hoàn toàn hiện bày.
Đang khi ấy nghiệp lực bị hàng phục không còn làm chướng ngại, lại được
thêm Phật lực tiếp dẫn, nên tuy nghiệp chưa trừ dứt, mà được vãng sanh.
Khi sanh về Tây Phương rồi, sống lâu vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp, sự
không thối chuyển cho đến khi thành Phật là một điều hiển nhiên dễ
hiểu—The same is true of Pure Land. As we earnestly recite the Buddha’s
name, our mind-power keeps developing. When one-pointedness of mind is
achieved, the mind-power manifests itself perfectly. At that point the
power of our karma is subdued and is no longer a hindrance. If we add to
that Amitabha Buddha’s power to “welcome and escort,” we will achieve
rebirth in the Pure Land in spite of the fact that not all of our bad
karma is extinguished. Once reborn, our lifespan extends over innumerable
eons. Non-retrogression until complete Enlightenment and Buddhahood are
attained is therefore an easily understandable occurrence.
3) Chúng
sanh ít nhân duyên phước đức không thể sanh về Tịnh Độ: Sentient beings
lack conditions and merit and therefore cannot achieve rebirth in the Pure
Land.
a) Cảnh
Cực Lạc mầu đẹp trang nghiêm vô lượng, chẳng phải dùng ít nhân duyên căn
lành phước đức mà được sanh về. Nhìn gẫm lại mình, căn lành phước đức còn
sơ bạc, nghiệp chướng lại nhiều, mong gì đời nầy được duyên tốt vãng
sanh?—The Land of Ultimate Bliss is so extremely lofty and beautifully
adorned that we cannot rely merely on a few good roots, blessings,
virtues, causes and conditions to achieve rebirth in that land. Reflecting
upon ourselves, we see that our good roots, merits and virtues are indeed
shallow, while our bad karma and obstructions are heavy; how can we expect
to attain, in this very life, conditions favorable to rebirth in the Pure
Land?
b) Xin
kính khuyên quý vị muôn ngàn lần chớ nên nghĩ như thế. Bởi khi các vị lần
chuỗi niệm Phật được, là căn lành phước đức của quý vị đã sâu dầy rồi. Thử
nghĩ lại xem, trên thế gian nầy biết bao nhiêu kẻ không nghe được danh
hiệu Phật? Biết bao nhiêu người tuy nghe hồng danh Đức A Di Đà, nhưng mãi
tranh danh đoạt lợi, đeo đuổi theo các điều trần nhiễm, không chịu niệm
Phật. Nay các vị đã nghe Phật pháp và chí tâm niệm Phật, há không phải là
có căn lành phước đức lớn đó sao?—I respectfully beg of you, ten million
times, not to have such doubts! For, if you can finger a rosary and recite
the Buddha’s name, you already have deep roots of merit and virtue. Do
think again. How many people are there on this very earth who lack the
opportunity to hear the Buddha’s name? How many , even after hearing
Amitabha Buddha’s name, continue to seek fame and profit, chasing after
mundane dusts and refusing to recite the Buddha’s name? You have now heard
the Dharma and recited the Buddha’s name in all sincerity. Is this not
proof enough that you already have many good roots, merits and virtues?
c) Trong
Kinh Vô Lượng Thọ, Phật bảo ngài Di Lặc Bồ Tát: “Nếu có chúng sanh nào
nghe danh hiệu Đức Phật kia, vui mừng khấp khởi, cho đến một niệm, nên
biết kẻ ấy được lợi lớn, đã đầy đủ phước đức vô thượng.” Lời nầy đủ chứng
minh rằng biết niệm Phật tức là đã có nhiều phước đức căn lành rồi. Trong
Tịnh Độ Thánh Hiền Lục có dẫn sự tích những người phạm tội cực ác (như
Trương Thiện Hòa, Hùng Tuấn, Duy Cung, và các loài súc sanh như chim Bát
Kha, Anh Võ, vân vân), chí tâm niệm Phật đều được vãng sanh. Phước đức căn
lành của quý vị đã vượt xa hơn những người ác và loại súc sanh kia. Vậy
cần chi phải e ngại là ngay trong đời nầy không được sanh về Cực Lạc?—In
the Longer Amitabha Sutra, Sakyamuni Buddha said to Maitreya Bodhisattva:
“If any sentient being hears the name of Amitabha Buddha and is
transported with delight even for a moment, you should know that he has
received great benefit and has perfected supreme merit and virtue.” This
quote should be proof enough: the very fact that a person practices Buddha
Recitation shows that he already has many good roots, merits and virtues.
The book, Biographies of Pure Land Sages and Saints, records the life
histories of individuals who committed extremely heavy transgressions, yet
achieved rebirth in the Pure Land through singleminded recitation of the
Buddha’s name at the time of death. Your good roots, merits and virtues
far surpass those of the evil beings cited in these biographies.
Therefore, why should you have doubts about being reborn in the Pure Land
in this very lifetime?
Ba Mục Tiêu Của Tọa Thiền: Theo
Roshi Philip Kapleau, tác giả của quyển Ba Trụ Thiền, có ba mục tiêu của
tọa thiền—According to Roshi Philip Kapleau, author of The Three Pillars
of Zen, there are three aims of meditation:
1) Phát
Triển Định Lực: Định lực là năng lực hay sức mạnh phát sinh khi tâm được
hợp nhất qua sự tập trung. Người đã phát triển định lực không còn nô lệ
vào các đam mê, người ấy luôn làm chủ cả chính mình lẫn các hoàn cảnh bên
ngoài, người ấy hành động với sự tự do và bình tĩnh hoàn toàn. Tâm của
người ấy như trạng thái nước đã lắng trong và tĩnh lặng—Development of the
power of concentration, which is the power or strength that arises when
the mind has been unified and brought to one-pointedness in meditation
concentration. One who has developed the power of concentration is no
longer a slave to his passions, he is always in command of both himself
and the circumstances of his life, he is able to move with perfect freedom
and equanimity. His mind becomes like clear and still water.
2) Giác
Ngộ: Kiến tánh ngộ đạo hay nhìn thấy tự tánh chân thật của mình và đồng
thời nhìn thấy bản tánh tối thượng của vũ trụ và vạn vật. Ấy là sự hốt
nhiên nhận ra rằng: “Xưa nay ta vốn đầy đủ và toàn hảo. Kỳ diệu thay,
huyền diệu thay!” Nếu là thấy Phật tánh thì thực chất sẽ luôn luôn giống
nhau đối với bất cứ ai kinh nghiệm nó, dẫu người ấy là Phật Thích Ca hay
Phật A Di Đà hay bất cứ người nào trong các bạn. Nhưng nói thế không có
nghĩa là tất cả chúng ta đều có kinh nghiệm kiến tánh ở cùng một mức độ,
vì trong cái rõ, cái sâu, cái đầy đủ của kinh nghiệm có những khác biệt
lớn lao—Awakening or seeing into your True-nature and at the same time
seeing into the ultimate nature of the universe and all things. It is the
sudden realization that “I have been complete and perfect from the very
beginning. How wonderful, hoe miraculous!” If it is true awakening, its
substance will always be the same for whoever experiences it, whether he
be the Sakyamuni Buddha, the Amitabha Buddha, or any one of you. But this
does not mean that we can all experience awakening to the same degree, for
in the clarity, the depth, and the completeness of the experience there
are great difference.
3) Vô
Thượng Đạo Chi Thể Hiện: Thể hiện đạo vô thượng trong cuộc sống hằng ngày.
Lúc nầy chúng ta không còn phân biệt cứu cánh và phương tiện nữa. Giai
đoạn nầy tương ứng với tối thượng thừa thiền. Khi các bạn ngồi một cách
hăng say và không vị kỷ, cũng như hợp với sự dẫn đạo của một bậc chân sư,
nghĩa là hợp với tâm mình, mặc dù có ý thức đầy đủ, vẫn hoàn toàn vô niệm
như một tờ giấy trắng tinh không một vết bẩn, bây giờ dù các bạn đã ngộ
hay chưa, Phật tánh thanh tịnh vốn có của mình vẫn khai mở. Nhưng đây phải
nhấn mạnh chỉ với chân ngộ các bạn mới có thể trực nhận được chân thể tánh
Phật của mình, và tối thượng thừa thiền là loại thuần khiết nhất, không
khác gì loại thiền đã được chư Phật thực hành—Actualization of the Supreme
Way in our daily lives. At this point we do not distinguish the end from
the means. The highest type of Zen corresponds to this stage. When you sit
earnestly and egolessly in accordance with the instructions of a competent
teacher, with your mind fully conscious yet as free of thought as a pure
white sheet of paper is unmarred by a blemish, there is an unfoldment of
your intrinsically pure Buddha-nature whether you have had awakening or
not. But what must be mephasized here is that only with true awakening do
you directly apprehend the truth of your Buddha-nature and perceive that
awakening, the purest type of Zen, is no different from that practiced by
all Buddhas.
** For more information,
please read The
Three Pillar of Zen
(Ba Trụ Thiền), Roshi
Philip Kapleau,
from page 49 to page 52.
Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo: Ba
mươi bảy phẩm dẫn tới giác ngộ và quả vị Phật—Thirty seven conditions
leading to bodhi or Buddhahood (see Thirty Seven Aids to Enlightenment):
a) Tứ
niệm xứ: Smrtyupasthana (skt)—The four subjects to be contemplated.
·
Bốn đối tượng quán chiếu hay bốn cơ sở chánh niệm: Four
stages of memory or four subjects of reflection.
·
Tứ niệm xứ là giáo lý căn bản trong phần Đạo đế, nó liên
quan mật thiết với ngũ uẩn, cũng như cho chúng ta thấy sự thật về Thân,
Thọ, Tâm, và Pháp: Four foundations of mindfulness are related to
the five skandhas as well as to our body, feeling, mind, and dharma.
·
See Tứ Niệm Xứ.
b) Tứ
chánh cần: Samyakprahana—Bốn cố gắng đúng hay bốn cố gắng toàn hảo—Four
proper lines of exertion—Four perfect efforts—See Tứ Chánh Cần.
c) Tứ như
ý túc: Rddhipada—Bốn bước tiến đến thần lực—Four steps towards
supernatural power—Four roads to power—Four bases of miraculous
powers—See Tứ Như Ý Túc.
d) Ngũ
căn: Panca-indriyani—Five spiritual faculties (five good roots).
e) Ngũ
lực: Panca-balani—The power of five faculties—Five strengths—See Ngũ Căn.
f) Thất
bồ đề phần (Thất giác chi): Sapta-bodhyanga—Bảy yếu tố giác ngộ—Seven
degrees (factors) of enlightenment or intelligence—See Thất Bồ Đề Phần.
g) Bát
chánh đạo: Asta-marga—The eightfold noble path—See Bát Chánh Đạo.
*** For more information,
please see Thirty-
seven Aids to
Enlightenment.
Ba Mươi Hai Tướng Tốt Của Phật:
Thirty-two marks of perfection—See Tam Thập Nhị Hảo Tướng của Phật and
Dvatrimshadvara-Lakshana.
Ba Mươi Hai Ứng Thân:
Thirty-two response bodies—See Tam Thập Nhị Ứng Thân.
Ba Na Sa: Panasa (skt)—Bán Na
Sa—Một loại cây như cây mít—The bread-fruit tree—Jaka or jack-fruit.
Ba Nô: Vidhu (skt)—Mặt
trăng—The moon.
Ba Nẻo Sáu Đường: Đức Phật so
sánh chúng sanh với những khách lữ hành mù trong đêm tối và những khổ đau
trong ba nẻo sáu đường—Three worlds and six realms of life—The Buddha
compared sentient beings with travelers who blindly travel in the darkness
and suffering of the three worlds and six realms of existence:
(A) Ba nẻo:
Three worlds:
1) Dục
giới: The world of passions (sensuous desires).
2) Sắc
giới: The world of Beauty (form).
3) Vô sắc
giới: The world of no Beauty (formless).
(B) Sáu
đường:
1) Thiên:
Six realm of Heaven.
2) Nhơn:
The realm of human.
3)
A-Tu-La: The realm of Asura (Angry spirits).
4) Ngạ
quỷ: The realm of Pretas (hungry ghosts).
5) Súc
sanh: The realm of animal.
6) Địa
ngục: The realm of hell.
Ba Nễ Ni: Panini (skt)—Theo Tây
Vực Ký thì đây là tên của một vị cổ tiên Salaturiya, cũng là nhà văn và
nhà văn phạm (cú pháp chữ Phạn) nổi tiếng của Ấn Độ vào thế kỷ thứ tư
trước Tây Lịch. Ông còn được biết đến với tên Salaturiya: Panini
(skt)—According to the Record of the Western Lands, this was the great
Indian grammarian and writer of the fourth century B.C. He was also known
as Salaturiya.
Ba Ngàn Oai Nghi: Three
thousand demeanors—Ba ngàn oai nghi bắt nguồn từ nơi Cụ Túc Giới Tỳ Kheo
mà thành. Trong 250 giới cụ túc của Tỳ Kheo, mỗi giới đều có đầy đủ bốn
oai nghi “Đi, Đứng, Nằm, Ngồi.” Như vậy 250 giới nhơn cho 4 thành 1.000.
Một ngàn oai nghi nầy tương ứng với ba đời (quá khứ, hiện tại và vị lai,
tức là 1.000 nhơn cho 3 thành ra 3.000 oai nghi—Three thousand demeanors
originate from the Complete Bhiksu Precepts. A Bhiksu maintains 250
Pratimoksa Precepts, each precept is complete with all four demeanors of
Walking, Standing, Lying Down, and Sitting. Thus taking these 250
demeanors to multiple with 4 to make 1,000. These 1,000 demeanors
transcend across all three periods of Past, Present, and Future. Thus
1,000 demeanors multiply 3 to make 3,000 demeanors—See Tứ Chủng Oai
Nghi.
Ba Nguyên Do Niệm Hồng Danh Phật A Di Đà
Để Cầu Vãng Sanh Cực Lạc: Trong mười phương quốc độ, có vô số
cõi Phật mầu đẹp tinh sạch trang nghiêm, chẳng hạn như thế giới Tịnh Lưu
Ly trong Kinh Dược Sư, thế giới Chúng Hương và Diệu Hỷ trong Kinh Duy Ma
Cật. Nhưng tại sao ta không niệm danh hiệu chư Phật để cầu sanh về các
Tịnh Độ mười phương, lại chỉ phát nguyện sanh về Cực Lạc? Theo Hòa Thượng
Thích Thiền Tâm trong Niệm Phật Thập Yếu, có ba nguyên do khiến người tu
Phật niệm hồng danh Phật A Di Đà để cầu vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc
hơn là cầu về các cõi Tịnh Độ ở mười phương—In the realm of the ten
directions, there are innumerable beautiful and purely adorned Buddha
lands, such as the Pure Lapis Lazuli Land mentioned in the Medicine
(Healing) Buddha Sutra, or the Land of Many Fragrances and Sublime Joy
found in the Vimalakirti Sutra. Why should we restrict ourselves seeking
rebirth in the Western Pure Land? According to Most Venerable Thích Thiền
Tâm in The Pure Land Buddhism in Theory and Practice, there are basically
three reasons for Buddhists to recite Amitabha Buddha’s name to seek
rebirth in the Land of Ultimate Bliss than in other pure lands of the ten
directions:
1) Do sự
giới thiệu khuyên dạy của Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Ngài bảo nên
cầu sanh về cõi Cực Lạc. Theo lời cổ đức, thì ngoài sự kiện cõi Cực Lạc có
nhiều duyên nhiệm mầu thích hợp cho việc nhiếp hóa chúng sanh căn cơ khác
nhau ở các cõi uế độ, Đức Bổn Sư không muốn thuyết minh nhiều về những cõi
Tịnh Độ khác, e sợ chúng sanh khởi niệm so sánh phân biệt, mà tâm không
được quy nhứt. Do việc đủ duyên nhiệm mầu để nhiếp hóa, mà không những
riêng ở tại cõi Ta Bà, các chúng sanh ở vô số thế giói trong mười phương
đều cầu về Cực Lạc—Because of the teachings of Sakyamuni Buddha, who
exhorted us to seek rebirth in the Land of Ultimate Bliss. Sakyamuni
Buddha did not wish to expound at length on the other pure lands, lest
sentient beings develop a mind of discrimination, become undecided and
have no focal point for their aspirations. Moreover, thanks to the ideal
conditions for teaching and transformation in the Western Pure Land, not
only do sentient beings from the Saha World seek rebirth there, but
sentient beings in countless other worlds do so as well.
2) Do Đức
A Di Đà Thế Tôn có 48 lời thệ rộng lớn trang nghiêm cõi Tịnh Độ, nguyện
tiếp dẫn từ bậc Bồ Tát, cho đến hàng phàm phu nhiều tội ác—Because
Amitabha Buddha has adorned the Western Pure Land with forty-eight lofty
Vows. These vows (particularly the eighteenth Vow of “welcoming and
escorting”) embrace all sentient beings, from Bodhisattvas to common
beings full of evil transgressions.
3) Do vì
chúng sanh ở cõi nầy có nhân duyên lớn với Phật A Di Đàvà Bồ Tát Quán Thế
Âm ở cõi Cực Lạc. Điều minh chứng là khi các Phật tử gặp nhau đều chào
mừng bằng câu ‘A Di Đà Phật’ và lúc bị tai nạn thường niệm danh hiệu Đức
‘Quán Thế Âm.’—Because sentient beings in the Saha World have great
affinities with Amitabha Buddha and the Bodhisattva Avalokitesvara. As
proof, when Buddhists meet, they usually gret each other with the words
“Amitabha Buddha” and when faced with accidents or disasters, they usually
recite the secred name of Avalokitesvara.
Ba Nguyên Nhân Phát Sanh Chướng Nghiệp:
Theo Duy Thức Học, ngoài những trở ngại của ngoại duyên, còn có ba nguyên
nhân phát sanh chướng nghiệp cho người tu—According to The Mind-Only
School, apart from the obstacles caused by external factors, there are
three other causes of karmic obstructions.
1) Sức
Phản Ứng Của Chủng Tử Nghiệp: Trong tạng thức của ta có chứa lẫn lộn những
nghiệp chủng lành dữ. Khi niệm Phật hay tham thiền, ta huân tập hạt giống
công đức vô lậu vào, tất cả nghiệp chủng kia phải phát hiện. Ví như một
khu rừng rậm nhiều thú, nếu có cư dân khai hoang, tất cả cây cối bị đốn,
các loài thú đều ra. Cảnh tướng và phiền não chướng duyên do nghiệp chủng
phát hiện cũng thế—The reaction of evil karmic seeds—Various evil and
wholesome karmic seeds are stored randomly in our Alaya consciousness.
When we recite the Buddha’s name or meditate, we accumulate the seds of
transcendental virtue, and therefore, evil karmic seeds have to emerge.
For example, if a dense forest full of wild beasts is cleared for
habitation, trees and shrubs are cut down, causing these beasts to flee
out of the forest. The development of afflictions and obstacles from evil
karmic seeds is similar.
2) Tự Gây
Chướng Nạn vì không am tường giáo pháp: Có những vị tu hành chẳng am tường
giáo lý, không hiểu những tướng của nội tâm và ngoại cảnh đều như huyễn,
chưa phát minh thế nào là chân và vọng, nên nhận định sai lầm. Do đó đối
với cảnh duyên trong ngoài sanh niệm tham chấp, vui mừng, thương lo, sợ
hãi, mà tự gây chướng nạn cho mình—Creating obstacles for themselves due
to lack of full understanding of the Dharma—There are cultivators who
practice without fully understanding the Dharma, not realizing that the
manifestations of the inner mind and the environment are illusory nor
discovering what is true and what is false. They therefore have wrong
views. Because of this, they develop thoughts of attachment, happiness,
love, worry and fear, creating obstacles for themselves when they are
faced with objects and conditions within themselves or in the outside
world.
3) Không
Vững Lòng Bền Chí Nên Thối Lui: Lại ví như người theo họa đồ đi tìm mỏ
vàng, đường xá phải trải qua non cao, vực thẳm, đồng vắng, rừng sâu, bước
hành trình tất phải nhiều công phu và gian lao khổ nhọc. Nếu người ấy
không vững lòng, không biết tùy sức tùy hoàn cảnh mà nhẫn nại uyển chuyển,
tất phải thối lui. Hoặc có khi bỏ cuộc ghé vào một cảnh tạm nào đó, hay
chết giữa đường. Lộ trình tu tập cũng thế, hành giả tuy y theo kinh giáo
mà thực hành, song nếu không biết tùy sức tùy hoàn cảnh mà nhẫn nại uyển
chuyển, sự lập chí không bền lâu, tất sẽ thất bại—Not flexible and
patient—Take the case of a man who follows a map, hoping to find a gold
mind. The path that he takes crosses high mountains, deep ravines, empty
open stretches and dense forests, an itinerary naturally requiring much
labor, hardship and adversity. If his mind is not steady, and he does not
adapt himself to the circumstances and his own strength, he is bound to
retrogress. Alternatively, he may abandon his search, stop at some
temporary location, or even lose his life enroute. The path of cultivation
is the same. Although the practitioner may follow the sutras, if he is not
flexible and patient, ready to change according to his own strength and
circumstances, and if his determination is weak, he will certainly fail.
This obstacle, in the end, is created by himself alone.
Ba Ni: Pana (skt)—Thức uống như
nước—Beverage as water.
Ba Ni Bồn: Panila (skt)—Bình
chứa nước uống—A drinking vessel.
Ba Phả: Prabha-kara-mitra
(skt)—Tên của Pháp Sư Tam Tạng, một vị cao Tăng Ấn Độ, đến Trung Quốc
khoảng năm 626 sau Tây Lịch—Name of a famous Indian monk, who came to
China around 626 A.D.
Ba Phải: One who says “yes” to
everything.
Ba Phẩm Chất Đặc Biệt Của Hoa Sen:
The special qualities (characteristics) of the lotus:
1) Cánh
hoa mang gương sen (trái) giống như pháp phương tiện được giảng giải để
hiển bày chân lý: The petals are made to bear the fruit, in the same
manner with expedient teachings are expounded in order to reveal the true
teaching.
2) Khi
hoa sen nở, thì gương sen cũng hiện ra ngay bên trong, như chân giáo ẩn
tàng trong giáo pháp phương tiện: When the lotus flower opens, the fruit
is seen therein, in the same manner we find the true teaching latent in
the expedient teachings.
3) Khi
gương sen (trái) khô thì cũng là lúc bông rụng, ý nói khi chân giáo đã
được thiết lập thì pháp phương tiện không còn cần thiết nữa: When the
fruit is ripened, at the same time the flower also falls. In the same
manner, when the true teaching is established, the expedient teachings are
no longer necessary.
Ba Quân: The whole army.
Ba Sinh: Three lives (past,
present and future).
Ba Tăng: License.
Ba Thâu Bát Đa: Pasupata
(skt)—Phái ngoại đạo khổ hạnh, bôi tro lên khắp thân mình—A particular
sect of Sivaites who smeared their bodies with ashes.
Ba Thí Dụ Về Sự Ngộ Đạo Còn Bị Thối Thất:
Như lời Phật huyền ký: “Đời mạt pháp người tu thì nhiều nhưng khó có ai
đắc đạo.” Khi chưa chứng đạo nếu còn nghiệp lực dù nhỏ như sợi tơ cũng bị
luân hồi. Dù có một vài vị ngộ đạo, nhưng ngộ chưa phải là chứng, chỉ do
sức định chế phục nghiệp thức khiến cho lắng đọng lại, nên tạm được khai
tâm, lúc chuyển sanh vẫn còn bị hôn mê không được tự tại. Đến kiếp sau
duyên tiến đạo thì ít, mà thối đạo thì nhiều, nguyện giải thoát đã thấy
khó bảo toàn chắc chắn. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong Niệm Phật
Thập Yếu, về sự ngộ đạo còn bị thối thất cổ đức có ba thí dụ. Đời mạt
pháp, người tu có mấy ai ngộ đạo? Ngộ đạo không phải là dễ. Như thuở xưa
thiền sư Hương Lâm dụng tử công phu trong bốn mươi năm mới thành đạt. Ngài
Trường Khánh Nhàn ngồi rách một lố bồ đoàn mới thấy tánh bản lai. Người
đời nay, trừ một vài vị Thánh nhân ứng thân thị hiện để dạy dỗ chúng sanh,
ngoài ra các vị khác tu thiền, chỉ tạm được thân tâm an tỉnh hoặc thấy
thiện cảnh mà thôi. Dù đã ngộ đạo, khi chuyển sanh vẫn còn có thể bị
chướng nạn như những điều đã kể trên. Đường sanh tử có nhiều nguy hiểm
đáng e ngại với kẻ chưa đắc đạo là thế. Cho nên nếu bảo không sợ sanh tử,
đó chỉ là lối suy tư của những kẻ thiển cận mà thôi. Hơn nữa, hiện tại
chánh pháp đã lần lần ẩn diệt, trên thế giới nơi nào ngoại đạo phát triển,
đạo Phật bị chỉ trích. Đã có nhiều chùa chiền bị hủy phá, kinh sách bị
thiêu đốt, tăng ni phải hoàn tục, hàng thiện tín không được tu. Dù cho
ngày kia có được phục hồi, cũng phải bị biến thể và tiêu hao một phần lớn.
Mong chuyển sanh để tiếp tục tu hành với một nền đạo suy tàn, thiếu bậc
cao tăng dìu dắt, lấy đâu làm duyên tốt tiến đạo để giải thoát trong tương
lai? Cho nên bảo đảm tâm Bồ Đề không bị thối thất, phải tu Tịnh Độ. Dù tu
các môn khác cũng nên niệm Phật phát nguyện vãng sanh về Cực Lạc. Đây là
lời khuyến tấn chung của các bậc tiên đức như các ngài Liên Trì, Ngẫu Ích,
Kiên Mật và Ấn Quang—As Sakyamuni Buddha predicted: “In the Dharma-Ending
Age, cultivators are numerous, but those who can achieve Supreme
Enlightenment are few.” And not having achieved it, even with bad karma as
light as a fine silk thread, they are subject to Birth and Death. Although
there may be a few cultivators who have awakened to the Way, being
awakened is different from attaining Supreme Enlightenment. During
rebirth, they are bound to be deluded and unfree. In subsequent lifetimes,
there may be few conditions for progress and many opportunities for
retrogression. According to Most Venerable Thích Thiền Tâm in the Pure
Land Buddhism in Theory and Practice, ancients have provided three
analogies concerning retrogression of practitioners who have merely
experienced Awakening. Furthermore, in the Dharma-Ending Age, how many
cultivators can claim to be awakened to the Way? Awakening to the Way is
not easy. Once Zen Master Hsiang-Lin, who practiced with all his might for
forty years before he succeeded. Zen Master Tsang-Hsing sat for so long
that he wore out more than a dozen of meditation cushions before he saw
the Original Nature. As far as today’s Zen practitioners are concerned,
with the exception of a few saints who have taken human form to teach
sentient beings, the majority only manage to achieve a temporary calming
of the mind and body; at most they may witness a few auspicious realms!
Even if they have awakened the Way, they can still encounter dangerous
obstacles during transmigration. The path of Birh and death, filled with
fearful dangers for those who have not attained Enlightenment, is the
same. Therefore, to claim that we should not fear Birth and Death is
merely the viewpoint of shallow minds. Furthermore, in recent times, the
Dharma has met with difficulties in some parts of the world, wherever
heretics has spread, Buddhism has come under criticism. There are places
where pagodas and temples are destroyed, sutras and commentaries burned,
monks and nuns forcibly returned to lay life, and common citizens barred
from practicing their faith. Even if Buddhism is revived later on, it will
have undergone changes and possibly lost some of its vitality. For this
reason, we should follow the Pure Land School, to ensure non-retrogression
of the Bodhi-Mind. Even if we follow other schools we should, at the same
time, practice Buddha Recitation seeking rebirth in the Land of Ultimate
Bliss. This is the common exhortation of such eminent sages as Master
Lien-Ch’ih, Ou-I, Chien-Mi and Yin-Kuang.
1) Thí dụ
thứ nhất: The first analogy—Như dùng tảng đá đè lên cỏ dại, cỏ tuy không
mọc được nhưng củ của nó chưa hư thúi; nếu gặp duyên khác tảng đá bị lật
lên, cỏ vẫn mọc lại như cũ—When we crush prairie grass with a stone block,
though the grass cannot grow, its roots are not yet rotten or destroyed.
If conditions arise that cause the stone to be overturned, the grass will
continue to grow as before.
2) Thí dụ
thứ hai: The second analogy—Như nước lóng trong chum, bùn tuy lắng xuống
nằm yên tận đáy, nhưng khi chưa gạn lọc ra được, gặp duyên khuấy động, bùn
lại nổi lên—When we pour water into a jar, though the impurities are
deposited at the very bottom, they are not yet filtered out. If conditions
change and the water is stirred up, the impurities will rise.
3) Thí dụ
thứ ba: The third analogy—Như đồ gốm tuy nắn thành hình, nhưng chưa trải
qua một phen nung lại cho chắc, gặp mưa xuống tất phải bị tan rã. Trạng
huống ngộ đạo khi chuyển sanh dễ bị thối thất, cũng lại như thế—Take the
case of clay which is molded into earthernware would certainly
disintegrate. The strong probability that those who have merely
experienced an Awakening will retrogress during transmigration is similar
to the above examples.
Ba Thu: Three autumns.
Ba Thú: Pasu (skt)—Loài súc
sanh—Any animal.
Ba Thừa: See Tam Thừa.
Ba Tiêu Huệ Thanh Thiền Sư: Zen
Master Ba-Jiao-Hui-Qing—See Huệ Thanh Ba Tiêu Thiền Sư.
Ba Trăng: Three months.
Ba Trường Hợp Đáng Bị Quở Trách Của Một Vị
Thượng Tọa Tỳ Kheo: Tôn giả Xá Lợi Phất thuyết giảng về “Ba
Trường Hợp Đáng Bị Quở Trách Của Một Vị Thượng Tọa Tỳ Kheo” (Ngài Xá Lợi
Phất giảng và được Thế Tôn chấp thuận) trong kinh Thừa Tự Pháp trong Trung
Bộ Kinh—“The Elder Bhikkhus are to be blamed for three reasons” expounded
by Venerable Sariputta in the Dhammadayada Sutta in the Middle Length
Discourses of the Buddha—Này chư hiền giả, các Thượng Tọa Tỳ Kheo có ba
trường hợp đáng bị quở trách—Friends, elder bhikkhus are to be blamed for
three reasons:
1) Trường
hợp đáng bị quở trách thứ nhất—The first reason to be blamed for: Vị Đạo
Sư sống viễn ly, các đệ tử lại không tùy học viễn ly—As disciples of a
Teacher who lives secluded, they do not train in seclusion.
2) Trường
hợp đáng bị quở trách thứ hai—The second reason to be blamed for: Những
pháp nào vị Đạo Sư dạy nên từ bỏ, những pháp ấy họ không từ bỏ—They do not
abandon what the Teacher tells them to abandon.
3) Trường
hợp đáng bị quở trách thứ ba—The third reason to be blamed for: Những vị
nầy sống đầy đủ, lười biếng, dẫn đầu về đọa lạc, bỏ rơi gánh nặng sống
viễn ly—They are luxurious and careless, leaders in backsliding,
neglectful of seclusion.
Ba Trường Hợp Đáng Bị Quở Trách Của Một Vị
Trung Tọa Tỳ Kheo: Tôn giả Xá Lợi Phất đã giảng về “Ba Trường
Hợp Đáng Bị Quở Trách Của Một Vị Trung Tọa Tỳ Kheo” (các vị mới thọ Tỳ
Kheo) trong Kinh Thừa Tự Pháp trong Trung Bộ Kinh—“Three reasons middle
bhikkhus are to be blamed” expounded by Venerable Sariputta in the
Dhammadayada Sutta in the Middle Length Discourses of the Buddha: Này chư
hiền giả, các Trung Tọa Tỳ Kheo (các vị mới thọ Tỳ Kheo) có ba trường hợp
đáng bị quở trách—Friends, middle bhikkhus are to be blamed for three
reasons:
1) Trường
hợp đáng bị quở trách thứ nhất—The first reason to be blamed for: Vị Đạo
Sư sống viễn ly, các đệ tử lại không tùy học viễn ly—As disciples of the
Teacher who lives secluded they do not train in seclusion.
2) Trường
hợp đáng bị quở trách thứ hai—The second reason to be blamed for: Những
pháp nào vị Đạo Sư dạy nên từ bỏ, những pháp ấy họ không từ bỏ—They do not
abandon what the Teacher tells them to abandon.
3) Trường
hợp đáng bị quở trách thứ ba—The third reason to be blamed for: Họ sống
đầy đủ, lười biếng, dẫn đầu về đọa lạc, bỏ rơi gánh nặng sống viễn ly—They
are luxurious and careless, leaders in backsliding. Neglectful of
seclusion.
Ba Trường Hợp Kẻ Nặng Nghiệp Vẫn Được Vãng
Sanh: Theo Quán Kinh Sớ, thì người nghịch ác mà được vãng
sanh, là do khi lâm chung, kẻ ấy chí tâm niệm Phật, nên tội chướng được
tiêu trừ. Chính vì vậy mà Kinh đề nghị niệm Phật là điều kiện tối quan
trọng để được vãng sanh. Có ba trường hợp kẻ nặng nghiệp vẫn được vãng
sanh—According to the Treatise on the Meditation Sutra, the rebirth of
depraved, evil beings is due to their recitation of the Buddha’s name
with utmost sincerity at the time of death, as this leads to the
dissipation of karmic obstructions. Therefore, the Treatise suggests that
Buddha Recitation is the most important condition for rebirth. There are
three conditions that evil beings may be reborn in the Pure Land.
1) Trường
hợp thứ nhất: The first condition—Hành giả chỉ niệm Phật trong thời gian
ngắn ngủi mà có thể thắng nổi nghiệp ác trọn đời, là do nhờ tâm lực rất
mạnh mẽ, ý chí cực quyết định; đó gọi là đại tâm. Tình cảnh ấy ví như
người bị quân giặc vây khổn, đang lúc nguy cấp, do liều chết không kể đến
thân mạng, nên phát được sức dũng mãnh cùng cực, xông phá vượt ra khỏi
nanh vuốt của vi trùng—Very strong mind-power and utterly determined will,
which allow the practitioner to overcome the evil karma of an entire
lifetime by reciting the Buddha’s name for only a short period of time.
This is called the Great Mind. This situation can be compared to that of a
soldier surrounded by enemies ready to harm him. In such dangerous
circumstances, boldly risking his life, he musters his utmost power and
strength and thus breaks out of encirclement.
2) Trường
hợp thứ hai: The second condition—Hành giả tuy có tạo ác, song hoặc hiện
đời đã có tu tam muội, nên khi lâm chung nghe người nhắc bảo, định lực
được dễ thành. Đây cũng thuộc về hạng người mà trong nhà Phật gọi là Thừa
Cấp Giới Hưởn. Nếu hành giả hiện đời không tu tam muội, tất đời trước cũng
đã có huân tu. Hạt giống lành ấy nay đến thời kỳ thuần thục, nên khi lâm
chung gặp thiện tri thức khuyên bảo, kẻ đó nương nơi túc thiện nghiệp,
trong mười niệm mà được thành công—Previous or current good karma.
Although the person has created evil karma, he has also practiced samadhi
during his curent lifetime. Thus, at the time of death, when he is
reminded by others, he easily achieves concentration. If the dying person
has not cultivated samadhi in this lifetime, he must have done so
assiduously in a previous life. That good seed has now come to maturity.
Therefore, thanks to his previous good karma , once he is counselled by a
good spiritual advisor, he easily achieves rebirth with just ten thoughts
of Amitabha Buddha at the time of death.
3) Trường
hợp thứ ba: The third condition—Nếu hành giả không do công tu trong hiện
đời hay nghiệp lành về kiếp trước, tất khi lâm chung kẻ ấy đã niệm Phật
với lòng sám hối tha thiết cùng cực. Nên Ngài Vĩnh Minh nói: “Vì thể nhân
duyên vốn không, nên nghiệp thiện ác chẳng định; muốn rõ đường siêu đọa,
phải nhìn nơi tâm niệm kém hơn. Cho nên một lượng vàng ròng thắng nổi bông
gòn trăm lượng, chút lửa le lói đốt tiêu rơm cỏ muôn trùng.”—A mind of
utterly sincere repentance. If rebirth is not due to efforts at
cultivation in this life nor good karma from previous lives, the
cultivator, at the time of death, must have recited the Buddha’s name with
a mind of utterly sincere repentance. Thus, Elder Master Yung Ming has
said: “Since the nature of causes and conditions is intrinsically empty,
good or bad karma is not fixed. In determining the path of salvation or
perdition, we should consider whether the state of mind is slowly
transcendental at the time of death. This is analagous to an ounce of pure
gold which is worth much more than a hundred times its weight in cotton
wool, or a small, isolated flame, which can reduce a pile of straw,
enormous beyond reckoning, to ashes.
Ba Tuần: Papiyan or Papiman
(skt)—Một thuật ngữ Phật giáo để chỉ những kẻ cố tình phạm tội—A Buddhist
term for those who intentionally commit wrong doings:
·
Một kẻ cùng hung cực ác: A very wicked.
·
Ác giả: The evil one.
·
Sát giả: The murderer.
·
Ma quân: Ác ma cố gắng cắt đứt thiện căn nơi con người—Mara
who strives to kill all goodness in human beings.
Ba Tư Nặc: See Prasenajit in
Sanskrit/Pali-Vietnamese Section.
Ba Xà Ba Đề: Prajapati (skt)—Dì
và cũng là nhũ mẫu của Phật Thích Ca—Aunt and nurse of the Buddha—See Ma
Ha Ba Xà Ba Đề.
Ba Xoa: Virupaksa (skt)—Tên của
vị Thiên Vương Tây Phương hay Xú Nhãn Thiên Vương, người có đôi mắt xấu
xí, đây là một trong tứ Thiên Vương—Name of the West Heaven King who has
irregular eyes (Irregular-Eyed Heaven King), one of the four heaven kings.
Ba Yếu Tố Khiến Cho Việc Tu Tập Thiền Được
Thành Tựu: Theo Thiền Sư D.T. Suzuki trong Thiền Luận, Tập II,
có ba yếu tố khiến cho việc tu tập Thiền được thành tựu. Thiếu một trong
ba cũng như cái đỉnh gẩy hết một chân, nó sẽ đổ—According to Zen Master
D.T. Suzuki in Essays in Zen Buddhism, Book II, there are three factors
making for success in the cultivation of Zen. When any one of the below
factors is lacking it is like a caudron with a broken leg, it limps.
1)
Tin lớn: Great faith.
2) Chí
nguyện lớn: Great resolution.
3) Nghi
lớn: Great spirit of inquiry.
Bá:
1) Một
trăm: One hundred.
2) Bác:
Uncle.
3) Cái rê
(để quạt lúa): A winnowing fan.
4) Gieo
giống (truyền bá): To sow—To publish.
5) Quạt
lúa: To winnow.
Bá Âm: To broadcast.
Bá Cáo: To publish.
Bá Du Bát Đa: Pasupata (skt)—Ba
Thâu Bát Đa—Ngoại đạo thờ Ma Hê Thủ La, mình trát đầy tro (tóc có thể cắt
hay không cắt, quần áo rách tả tơi)—Followers of the lord of cattle, Siva,
who smeared themselves with ashes.
Bá Lợi Bà La Xa Ca: Parivrajaka
(skt)—Phái tu theo cách quán xác chết trong nghĩa trang—A Sivaitic sect.
Bá Ma: Upama (skt)—Tượng tự—A
resemblance—Simile.
Bá Mẫu: Aunt (wife of father’s
elder brother).
Bá Nạp Y: Y làm bằng những
miếng vải cũ víu nạp lại với nhau—A robe of rags—Broken patched robe.
Bá Ni: Pani (skt)—Lòng bàn
tay—The palm of the hand.
Bá Phụ: Uncle (brother of one’s
father).
Bá Sá: Dây thòng lọng—A snooze.
Bá Tánh: The people.
Bá Thiên Bà La Môn:
Half-Brahmans (hungry ghost).
Bá Xàm Bá Láp: To speak at
random, without rhyme or reason.
Bà: A dame—A mother—A wife.
Bà Bà Già Lợi: Papakarin (skt).
1) Ác
giả: Evil-doer.
2) Tên
của một vị thái tử: Name of a prince.
Bà Bóng: Beldame.
Bà Chằng: Ogress.
Bà Con: Relatives—Kindred.
Bà Da: Payas (skt)—Nước hay
chất lỏng—Water, liquid, or fluid—Juice.
Bà Đà: Baddha (skt)—See Phược
Đà.
Bà Đàn Đà: Bhadanta (skt).
1) Đại
Đức: Praised worthy—Blessed, of great virtue.
2) Một từ
tôn kính để gọi Đức Phật hay các vị sư: A term of respect for a Buddha, or
for monks.
Bà Đạt La Bát Đà: Purva and
Uttara (skt)—Nguyệt Cung—Naksatras or lunar mansions.
Bà Đề: Bhadrika (skt)—Một trong
những đệ tử đầu tiên của Đức Phật (một vị vua trong dòng họ Thích gọi là
Bạt Đề Thích Vương)—One of the first disciples.
Bà Già: Bhaga (skt)—Một phần
hay một phân chi—A portion, division, fraction.
Bà Già Bà: Bhagavat (skt)—Bà
Già Phạm.
·
Tốt Lành: Fortunate.
·
Tôn Quý: Revered.
·
Thánh Thiện: Sacred.
·
Thế Tôn: World Honoured.
·
Danh Hiệu của Phật: An epithet of a Buddha.
** For more information,
please see Bạt Già
Phạm.
Bà Ha: Vaha (skt).
1) Mang:
Bearing—Carying.
2) Cuộc
sống siêu nhiên: A supernatural life.
3) Đấu
(đong lường): A large grain-container of twenty bushels.
Bà Ha Ma: See Bà Ha.
Bà La:
1) Pala
(skt)—Người bảo hộ—Keeper—Guardian—Warden.
2)
Viharapala (skt)—Vị sư coi việc kiểm chúng trong tự viện—Warden of a
monastery.
3) Bala
(skt)—Lực—Power—Strength—See Ngũ Lực, Ngũ Căn, and Thập Lực.
4) Tên
của em gái của Ngài A Nan Đa, người đã dâng sữa lên Đức Phật—Name of the
sister of Ananda who offered milk to Sakyamuni.
Bà La Đề Mộc Xoa: Pratimoksa
(skt)—See Ba La Đề Mộc Xoa and Pratimoksa in Sanskrit/Pali-Vietnamese
Section.
Bà La Ha: Balahaka (skt)—Vua về
ngựa—A king of horses, or possessing horses.
Ba La Hạ Ma: Brahma (skt)—Tên
cõi trời Phạm Thiên—Name of Brahma heaven.
Bà La Hấp Ma Bổ La: Brahmapura
(skt)—Một vương quốc cổ nằm về phía bắc Ấn Độ, mà những danh hiệu triều
đại đều là Nữ Vương, nên còn gọi là Nữ Quốc. Người ta nói bây giờ là vùng
Garhwal—An ancient kingdom of Northern India, the dynastic title of which
was entailed upon the female line exclusively. Said to be Garhwal.
Bà La Môn: Brahmins
(skt)—Brahmanism—Bà La Hạ Ma Nô—Một đạo giáo cổ truyền của Ấn Độ cách đây
trên bốn ngàn năm, do ông Krishna sáng lập. Căn cứ trên Thánh kinh Vệ Đà
thì thần Phạm Thiên là vị thần có quyền pháp sáng tạo ra muôn vật. Có bốn
giai cấp trong xã hội theo Ấn Độ giáo. Theo đạo Bà La Môn, sống đây là
sống gởi. Chết sẽ về với Phạm Thiên đời đời nếu tuân theo đúng chân lý của
Phạm Thiên. Bà La Môn là những người thuộc giai cấp cao nhất trong xã hội
Ấn Độ dưới thời Đức Phật—This is an age-old religion in India, dated 4,000
years ago, and founded by Krishna. According to the Vedas, Brahma has the
power to create all sentient beings and things. There are four castes in
Hindu society system. In Brahmanist concept, the present life is temporary
while death is the return to Brahma to live an eternal happy life if one
obeys Brahma’s tenets. Brahmins belong to the highest class in Indian
society during the time of the Buddha—See Brahmana in
Sanskrit/Pali-Vietnamese Section, Tứ Giai Cấp Ấn Độ in Vietnamese-English
Section, and Kinh Pháp Cú in Appendix B (Phẩm 16).
Bà La Môn Ba: Brahmanapura
(skt)—Thành phố nằm về phía đông bắc kinh thành Malava—A city north-east
of the capital Malava.
Bà La Môn Quốc: Brahmanarastra
(skt)—Bà La Môn giới hay nước Ấn Độ (Bà La Môn là giai cấp tôn quý lãnh
đạo ở Ấn Độ, nên gọi chung nước nầy là Bà La Môn Quốc)—The realm of
Brahmans, India.
Bà La Môn Thành: Thành phố của
cư dân Bà La Môn, từ thành phố nầy Đức Phật trở về tịnh xá với bát khất
thực trống không—A city of Brahmans from which the Buddha returned with
his begging bowl empty.
Bà La Môn Thư: Chữ viết hay mẫu
tự Bà La Môn (chữ viết của Ấn Độ và đa số các xứ ở Tây Vực)—Brahman
writing; the alphabet.
Bà La Na Đà: Varanada (skt)—Một
loại Dạ Xoa có tiếng rống như bò rống—A bellowing yaksa which makes the
loud deep hollow sound as that of a bull.
Bà La Nại Tả: Varanasi
(skt)—Một vương quốc cổ, tổng hành dinh của phái Sivaism vào khoảng năm
640 sau Tây Lịch; tên khác của thành Ba La Nại—An ancient kingdom and
city, noted as a headquarters of Sivaism around 640 A.D.; another name for
Benares.
Bà La Tất Lật Thác Ngật Na:
Balaprthagjana (skt)—Bà La Tất Lý Tha Ngật Na—Bà La Tất Lỵ Tha Già Đồ Na.
1) Ngu Dị
Sinh: Chỉ hạng phàm phu ngu si thấp hèn—Low, foolish people.
2) Tiểu
Nhi Biệt Sinh: Trí óc tự nhiên như trẻ con—Natural-minded, as children, of
common intelligence and ideas.
3) Người
không giác ngộ: A man in his natural state, unilluminated, unenlightened.
Bà La Xa: Phalasa (skt)—Một
loại cây có bông đỏ và trái có bột như bánh mì—The bread-fruit tree with
red flowers.
Bà La Xả Khư: Prasakha
(skt)—Bát La Xa Khư—Bào thai từ năm đến bảy ngày—A foetus of five to seven
days.
Bà Lê: Vari (skt)—Chất lỏng
(nước)—Water—Fluid—Fluidity.
Bà Lợi: Vadisa, Vakri, or
Valisa (skt)—Móc câu: A hook.
Bà Lợi Chất Đa La: Parijata
(skt)—Bà Lị Chất Đa La—Bà Nghi Chất Cấu—Bà Lị Chất La—Bà Li Da Đát La Câu
Đà La—Một loại cây tên Hương Biến trên cõi trời Đế Thích (Đao Lợi)—A tree
in Indra’s heaven.
Bà Lợi Xà Đa Ca: Parijataka
(skt)—Một loại hoa của chư Thiên—A deve flower.
Bà Lô Chi Để Thấp Phạt La: See
Avalokitesvara in Sanskrit/Pali-Vietnamese Section, and Quán Thế Âm in
Vietnamese-English Section.
Bà Na: Vana (skt)—Một rừng cây
hay lúm cây—A wood—A grove.
Bà Nại La Bà Nại Ma Tẩy:
Bhadrapadamasa (skt)—See Thập Nhị Nguyệt (6).
Bà Nga: Bhanga (skt)—Phá
vỡ—Breaking.
Bà Sa:
1)
Vibhasa (skt)—See Tỳ Bà Thi.
2) Vatsa
(skt)—Tên vị sáng lập ra phái Bà Sa Phú Đa La, một tông phái của Đại Chúng
Bộ—The founder of the Vatsiputriyah school, a branch of Sarvastivadins.
Bà Sa Na Bà: Vatsanabha
(skt)—Một loại độc dược làm từ một loại rễ cây—A strong poison, from the
root of a tree (maybe aconite)
Bà Sa Phú Đa La: Vatsiputriyah
(skt)—See Bà Sa (2).
Bà Sa Ưu Bà Sa: Upasaka-Upasika
(skt)—Phật tử tại gia gồm nam và nữ cư sĩ—Lay disciples include male and
female disciples dwelling at home.
Bà San Bà Diễn Để:
Vasanta-vayanti (skt)—Vị thần chủ về ban đêm dùng phương tiện để cứu giúp
những người xấu lang thang về đêm—Spring-weaving, but the description is
of a guardian of the night or of sleep.
Bà Sư Ba: Vaspa or Baspa
(skt)—Một trong năm vị đệ tử đầu tiên của Phật, được người ta coi như là
Ngài Đại Ca Diếp—One of the first five disciples of the Buddha,
Dasabala-Kasyapa, identified with Maha-Kasyapa.
Bà Sư Ca: Varsika (skt)—Bà Lợi
Sư Ca—Bà Lợi Sứ Ca La—Bà Lợi Sư Ca—Bà Sứ Ca—Bà Lợi Sử Ca La—Bà Sư Ba
Lợi—Vũ Thời Hoa—Hoa nở lúc trời mưa (hoa nầy rất thơm, mọc nhiều ở Thiên
Trúc, người ta thường nấu hoa lấy dầu thắp đèn trên bàn thờ Phật)—The
flower, the aloe, that blooms in the rains.
Bà Tẩu: Vasu (skt)—Theo Luận
Trí Độ, Bà Tẩu là tên một vị cổ tiên Ấn Độ, người đầu tiên sát sanh để tế
trời nên phải đọa xuống địa ngục, nhưng sau vô lượng kiếp trở thành đệ tử
Phật—According to the Maha-Prajna-Paramita-Sastra, Vasu, name of an
ancient Indian rsi, who was the first to offer slain sacrifices to Heaven,
to have been cast into hell, but after countless kalpas to have become a
disciple of Buddha.
Bà Thành:
1) Tòa
thành Càn thát bà—A gandharva city.
2) Thành
phố ảo tưởng: A mirage, an illusion city.
Bà Trí Ca: Sphatika (skt)—See
Thủy Ngọc.
Bà Tư Tiên: Một trong sáu hỏa
thiên trong Thai Tạng Giới, nằm về phía đông Kim Cang bộ—One of the six
fire devas and his wife in the Garbhadhatu group, located in the east of
Vajradhatu group.
Bà Tư Tra: Vasistha (skt).
1) Tên
của một vị Bà La Môn, phủ nhận sự thường hằng của Niết Bàn, còn cho rằng
cây cũng có đời sống và trí thông minh: A Brahman who is said to have
denied the eternity of nirvana, and maintained that plants had lives and
intelligence.
2) Tên
của một trong bảy vị cổ Tiên trong Kinh Niết Bàn (39)—Nirvana Sutra 39.
One of the seven ancient rsis of Brahamanic mythology, one of the
champions in the Rgveda of the priesthood.
3) Tên
một vị Bà La Môn, bà mẹ của vị nầy vì chôn sáu người con mà phát điên,
trần truồng chạy lang thang, nhờ gặp Đức Phật mà trở về được với bản tâm,
sau đó phát tâm quy-y và trở thành đệ tử của Phật—Name of a Brahman whose
mother lost her six sons, she became mad, wandered naked, met the Buddha,
was restored and became a disciple.
Bà Tỳ Phệ Già: Bhavaviveka
(skt)—Theo Tây Vực Ký, Bà Tỳ Phệ Già là tên một vị Bồ Tát, xuất gia ẩn tu
để chờ đợi nhân duyên ra đời của Đức Phật Di Lặc—According to the Records
of Western Lands, Bhavaviveka, learned monk who retired from the world to
await the coming of Maitreya.
Bà Xá Bạt Đề: Vasavartin
(skt)—Bà La Ni Mật.
1) Cõi
Trời Lục Dục Thiên: Nơi trú ngụ của Ma Vương—The sixth desire-heaven, the
abode of Mara:
·
Ma Tham: The god of lust.
·
Ma tội lỗi: The god of sin.
·
Ma Tử: The god of death.
2) Tha
Hóa Tự Tại Thiên: Its occupants avail themselves of the merits of others
for their own pleasure.
3) Cõi
của vị Hỏa Chủ Phạm Vương tên là Thi Khí: The abode of Sikhin (Brahma) as
lord of fire.
Bà Xá Tư Đa: Basi-Asita or
Nasasata (skt)—See Hai Mươi Tám Tổ Ấn Độ (25).
Bà Xoa: Vaksu (skt)—Một nhánh
nhỏ của sông Hằng—A small branch of the Ganges.
Bác:
1) Lột
vỏ: To peel—To flay.
2) Sát
hại: To kill.
Bác Ái:
Charitable--Philantropy.
Bác Bẻ: To criticize.
Bác Bì:
1) Theo
Đại Trí Độ Luận, người ta nói Đức Thích Ca Mâu Ni Phật trong đời quá khứ,
khi còn là vị Phạm Chí tên Lạc Pháp, đã lột da và dùng máu của chính mình
mà viết lại một bài kệ Luật Phật (theo Luận Trí Độ: “Như Đức Thích Ca Văn
Phật khi xưa còn là một vị Bồ Tát hiệu là Lạc Pháp. Thời ấy không có Phật,
chẳng ai nghe được lời lành, cầu pháp khắp nơi, siêng năng chẳng hề biếng
nhác mà cũng không gặp. Lúc đó ma quân hiện thành một vị Bà La Môn mà bảo
rằng: ‘Ta có một bài kệ Phật dạy, nếu ngươi chịu lột da làm giấy, chẻ
xương làm bút, lấy máu làm mực để chép thì ta sẽ đọc lại cho ngươi chép.”
Vị Lạc Pháp nghĩ ngay là ta đã mất bao nhiêu đời hết thân mạng nầy đến
thân mạng khác mà chẳng hề có cơ hội lợi lạc được nghe một bài kệ của
Phật. Nói xong bèn tự lột da, chẻ xương, chích máu để chuẩn bị viết lại
bài kệ. Khi ấy Phật dùng thiên nhãn biết được sự thành tâm của Bồ Tát Lạc
Pháp nên thị hiện thuyết cho ngài nghe về pháp Vô Sinh Pháp Nhẫn.”):
According to the Commentaries on the Maha-Prajna-Paramita Sutra, in one of
the previous incarnations of Sakyamuni, he is said to have written a
certain gatha containing the Holy Law on a piece of his own flayed skin
with his blood instead of ink.
2) See
Bác (1).
Bác Bỏ: To reject.
Bác Đơn: To reject a request.
Bác Học: A learned man.
Bác Sĩ: Doctorate.
Bác Sự: See Bác Tướng.
Bác Tướng: To reject of form
characteristics (deny the existence of appearance)—Theo Hòa Thượng Thích
Thiền Tâm trong Liên Tông Thập Tam Tổ thì Lý chính thật là Chân Không, Sự
là phần diệu hữu. Diệu hữu tức chân không. Nếu chưa đạt được lẽ nầy thì
thà rằng tu hành theo kiểu “Chấp Có,” chứ đừng cầu “Bác Tướng” hay “Chấp
Không” trong khi vẫn còn có gia đình, vợ con, nhà cửa, và mong cầu khỏe
mạnh. Vì làm như thế sẽ dễ bị lạc vào ngoan không hay cái “Không” sai lầm.
Đây chính là hầm khổ đọa của tất cả những kẻ ỷ mình thông minh hôm nay.
Bác Tướng tức là bài bác phần “Sự Tướng Hành Trì.” Kỳ thật, tất cả đều là
giả tưởng. Bác tướng là chối bỏ sự tu hành theo hình tướng, thí dụ như
những kẻ tu Thiền đời nay, luôn miệng nói “Nhất thiết duy tâm tạo” nên ta
không “Chấp Tướng,” và do đó chê người tu theo Tịnh Độ chỉ là sự chấp
trước ảo tưởng trong tâm. Tuy nhiên, điều mỉa mai là những kẻ nầy tự họ
vẫn còn u mê chấp trước vào vợ, chồng, con cái, cửa nhà. Phật tử thuần
thành nên luôn cẩn trọng!—According to Most Venerable Thích Thiền Tâm in
The Thirteen Patriarchs of Pureland Buddhism, Theory is truly emptiness,
Practice belongs to existence. Existence is Emptiness. If this is not yet
attained, it’s better to cultivate by being attached to “existence,” or
“form,” or “appearance;” but do not claim “nothing exists” or “everything
is within the mind” or any such deep theoretical teachings when one is
still attached to existence, i.e., family, wife, children, house, or fond
of health, etc., for doing these cultivators are easily trapped in the
wrong road. Thus, do not say the Pureland is only an illusion manifested
within the mind. In reality, in theory, everything is an illusion. To
reject of form characteristics is to reject and disregard the “Conducts
of form practices.” This practice is often observable with those who
cultivate Zen Buddhism in present day. They claim themselves as people who
are “unattached to form characteristics” and look down on those who
cultivate Pureland as being attached to form characteristics. However,
most ironically, they are still ignorantly attached with every part of
existence, i.e., having wife, husband, children, house, jobs, etc.
Sincere Buddhists should always be careful!
Bạc:
1) Bạc
hà: The herb mint.
2) Khinh
bạc: To slight—To despite.
3) Mỏng:
Thin.
4) Nghèo:
Poor.
5) Rách
rưới: Shabby.
Bạc Ca Phạm: Bạc Già Phạm—Thế
Tôn—World-honoured—See Bhagavat in Sanskrit/Pali-Vietnamese Section.
Bạc Câu La: See Vakkula in
Sanskrit/Pali-Vietnamese Section.
Bạc Chứng: Sự chứng đắc nông
cạn—Shalow insight, weak in mystic experience.
Bạc Đãi: To ill-treat—To
maltreat.
Bạc Đen: White and
black—Changing
Bạc Địa: Quốc độ nghèo nàn và
đầy trắc trở—Poor land, i.e. the world, as full of trouble.
Bạc Già Phạm: Bhagavan or
Bhagavat (skt)—Thế Tôn—World-honoured—See Bhagavat in
Sanskrit/Pali-Vietnamese Section.
Bạc Hạnh: Bad luck—Ill luck.
Bạc Khư La: Bactria, Bukhara,
or Kusana (skt)—Tên nước Nguyệt Chi, nằm về phía tây bắc của Ấn Độ, cũng
như dãy Hy Mã Lạp Sơn—Name of Yueh-Chih, a country north-west of India and
Himalayas.
Bạc Màu: Discoloured.
Bạc Mệnh: Bad destiny.
Bạc Nghĩa:
Ungrateful—Thankless-Unthankful.
Bạc Phận: Unhapphy fate.
Bạc Phước: Unhappy
lot—Unfortunate—Poor condition due to poor karma—Ill-luck.
Bạc Tình: Faithless-Unfaithful.
Bách:
1) Cây
bách: Cypress, or cedar, arbor-vitae.
2) Một
trăm—Sata (skt)—One hundred.
Bách Bát: Một trăm lẽ tám.
Bách Bát Chung: Một trăm lẽ tám
tiếng chuông chùa được dóng lên vào buổi sáng và buổi tối (để tán dương
công đức của 108 tôn vị cũng như cảnh tỉnh 108 mê muội phiền não)—108
tolls or strokes of the monastery bell (temple bell) struck at dawn and
dusk.
Bách Bát Kết Nghiệp: Bách Bát
Phiền Não—108 karmaic bonds.
Bách Bát Ma Ni: 108 beads on a
rosary.
Bách Bát Mâu Ni: Bách Bát
Tôn—Một trăm lẽ tám vị Mâu Ni trong Kim Cang Giới—The one hundred and
eight Honourable Ones in the Vajradhatu.
Bách Bát Phiền Não: Bách Bát
Kết Nghiệp—108 passions and delusions.
Bách Bát Tôn: See Bách Bát Mâu
NI.
Bách Bất Tri: Không biết gì
cả—To know or perceive nothing—Insensible to surroundings.
Bách Bổn Luận Sư: See Bách Bổn
Sớ Chủ.
Bách Bổn Sớ Chủ: Bách Bổn Luận
Sư—Đại Khuy Cơ ở chùa Từ Ân viết sớ giải cho hàng trăm bộ kinh—Lord of the
hundred commentaries, title of K’uei-Chi of the Tzu-Ên monastery, because
of his work as a commentator.
Bách Chúng Học: Siksakaraniya
(skt)—Một trăm giới tiêu biểu mà chư Tăng Ni phải tu niệm (vì giới nầy
nghiêm ngặt khó giữ, dễ sai phạm)—One hundred typical rules which all
monks and nuns learn, the offence against which is dustra.
Bách Dụ Kinh: The Sutra of the
100 parables—See Kinh Bách Dụ.
Bách Giới: Thuyết của Thiên
Thai Tông nói thập giới từ địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, a tu la, nhân,
Thiên, Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát và Phật, mỗi giới nầy đều có đủ thập
giới, nên làm thành “bách giới”—The ten realms of each of ten divisions,
so called by the T’ien’T’ai school, i.e. hells, hungry ghosts, animals,
asuras, men, devas, sravakas, pratyeka-buddha, bodhisattvas and Buddhas.
Each of them has ten qualities, making one hundred qualities.
Bách Giới Chúng Học Ni: See
Hundred Rules of Conduct for Nuns.
Bách Giới Chúng Học Tăng:
Sikkka-karaniya (skt)—Sekhiya (p)—Tiếng Phạn gọi là Thức Xoa Ca La Ni—Theo
Đức Tôn Sư Minh Đăng Quang trong Luật Nghi Khất Sĩ, Thức Xoa Ca La Ni là
một trăm giới cần học trong sinh hoạt hằng ngày—According to Most
Honorable Master Minh Đăng Quang in the Rules for Mendicant Bhiksus,
Sikkka-karaniya includes one hundred rules of conduct which are connected
with daily activities.
1) Cái
chăn phải vận từ nịch lưng tới nửa ống chân, chứ không được xăn, để phủ
trùm rún và hai đầu gối. Nếu ai để chăn xăn lên hay lòng thòng ra ngoài,
dù phía trước hay phía sau, đều bị phạm tội Thức Xoa Ca La Ni: A monk
should wear the inner robe all round for covering the circle of the navel
and the circles of the knees. Whoever out of disrespect dresses with an
inner robe hanging down in front or behind, there is an offence of
wrong-doing.
2) Bộ áo
ba cái phải mặc cho có thứ lớp: A monk should wear the upper robe even al
round (whoever out of disrespect puts on an upper robe hanging down in
front or behind, there is an offence of wrong-doing).
3) Chẳng
nên đi vào nhà cư sĩ mà xăn áo lên: A monk should not go into lay people’s
houses with robes hitched up. He should go well covered in lay people’s
houses (inhabited areas with).
4) Chẳng
nên ngồi trong nhà cư sĩ mà xăn áo lên: A monk should not sit down in lay
people’s houses with robes hitched up. He should sit well covered in lay
people’s houses.
5) Chẳng
nên đi vào nhà cư sĩ mà lật áo lên tới vai: A monk should not go among the
houses with robes lifted up to the shoulders, either on one side or on
both (if out of disrespect having lifted up the robe on one side or on
both, there is an offence of wrong-doing).
6) Chẳng
nên ngồi trong nhà cư sĩ mà lật áo lên tới vai: A monk should not sit
down amidst the houses with robes lifted up to the shoulders, either on
one side or on both.
7) Chẳng
nên đi vào nhà cư sĩ mà đội khăn, đội mũ: A monk should not go into the
houses of lay people with head covered, either with a towel, a hat, or a
cap.
8) Chẳng
nên ngồi trong nhà cư sĩ mà đội khăn, đội mũ: A monk should not sit down
amidst the houses of lay people with head covered, either with a towel, a
hat, or a cap.
9) Chẳng
nên đi vào nhà cư sĩ mà vừa đi vừa chạy: A monk should not enter into any
lay people’s houses, going and running at the same time.
10) Chẳng nên
ngồi trong nhà cư sĩ sau khi vừa đi vừa chạy: After going and running at
the same time, a monk should not sit down in lay people’s houses.
11) Chẳng nên
đi vào nhà cư sĩ mà chắp tay sau lưng hay chống nạnh: A monk should not
enter any lay people’s houses with the arms placed on the hips, or with
the hands on both sides and the elbows turned outwards (akimbo).
12) Chẳng nên
ngồi trong nhà cư sĩ mà chắp tay sau lưng hay chống nạnh: A monk should
not sit down in lay people’s houses with the arms akimbo (arms place on
the hips, or hands on both sides and elbows turned outwards).
13) Chẳng nên
đi vào nhà cư sĩ mà lay chuyển thân mình: A monk should not go amidst the
houses swaying the body. He should hold the body straight.
14) Chẳng nên
ngồi trong nhà cư sĩ mà lay chuyển thân mình: A monk should not sit down
amidst the houses sway the body. He should hold the body straight.
15) Chẳng nên
đi vào nhà cư sĩ mà múa tay: A monk should not go fidgeting amidst the
houses (making play with hand or foot).
16) Chẳng nên
ngồi trong nhà cư sĩ mà múa tay: A monk should not sit fidgeting in
inhabited areas (making play with hand or foot in the houses).
17) Chẳng nên
đi vào nhà cư sĩ mà không mặc áo che mình: A monk should not, out of
disrespect, having uncovered the body, go among the houses.
18) Chẳng nên
ngồi trong nhà cư sĩ mà không mặc áo che mình: A monk should not, out of
disrespect, sit down among the house without proper clothes.
19) Chẳng nên
đi vào nhà cư sĩ mà mắt trông bên nầy, bên kia. Mắt vị ấy chỉ nên nhìn
xuống và xa về phía trước chỉ khoảng bề ngang một luống cày: A monk should
not go among the houses with eyes glanced around. He should go amidst the
houses with eyes cast down looking only a plough’s distance ahead.
20) Chẳng nên
ngồi trong nhà cư sĩ mà mắt trông bên này, bên kia. Mắt vị ấy chỉ nên nhìn
xuống và xa về phía trước khoảng bề ngang một luống cày: A monk should not
sit down in the houses with eyes glanced around. He should sit down amidst
the houses with eyes cast down looking only a plough’s distance ahead.
21) Chẳng nên
ngồi chồm hổm trong nhà cư sĩ: A monk should not crouch down on the heels
(sit arms akimbo) in the lay people’s houses.
22) Hãy điềm
tĩnh khi đi vào nhà cư sĩ: A monk should always keep calm when entering
the houses of lay people.
23) Hãy điềm
tĩnh khi ngồi trong nhà cư sĩ: A monk should sit calmly in the houses of
lay people.
24) Chẳng nên
cười cợt khi đi vào nhà cư sĩ: A monk should not go into the houses of lay
people with loud laughter.
25) Chẳng nên
cười cợt khi ngồi trong nhà cư sĩ: A monk should not sit down in the
houses of lay people with loud laughter.
26) Phải để ý
khi lãnh cơm: A monk should accept almsfood attentively.
27) Khi lãnh
cơm đưa bát ra cho ngay thẳng đừng để đổ: When accepting rice (from
almsfood), a monk should accept in proportion not to overflowing from the
capacity of the bowl.
28) Khi lãnh
canh đưa bát cho ngay thẳng, đừng để đổ: When accepting almsfood with
soup, a monk should accept in proportion not to overflowing the capacity
of the bowl.
29) Phải trộn
cơm với đồ ăn đã lãnh: A monk should mix the rice with soup before
eating.
30) Món nào
xúc trước thì ăn trước: A monk should the alms-food working down from the
top without making exceptions (choosing or selecting foods).
31) Chẳng nên
lựa bên này bên kia, hay giữa bát: A monk should not choose alms-food to
eat, i.e., choosing the alms-food in this side, that side, or in the
middle of the bowl.
32) Chẳng nên
hỏi canh ngon, hoặc món lạ, trừ khi đau yếu phải tùy món cần dùng: A monk
should not ask for sauce and/or rice for his own appetizing unless he is
sick.
33) Chẳng nên
xới cơm lên che khuất đồ ăn đặng lãnh thêm nữa: A monk should not hide
(cover up) sauce and curries with rice out of dsire to get more.
34) Chẳng nên
thấy vị khác lãnh đồ ăn mà sanh lòng thèm muốn: A monk should not look
enviously at another’s bowl.
35) Lãnh cơm
và đồ ăn đủ rồi, phủ cái bát lại, vừa ăn vừa quán tưởng: After accepting
enough alms-food, a monk should cover the bowl; then he should sit
straight up, eat and contemplate at the same time.
36) Chẳng nên
ăn miếng lớn: When eating alms-food, a monk should not make up too large a
mouthful.
37) Chẳng nên
há miệng lớn, mà đút đồ ăn (chẳng nên há miệng trước khi miếng đồ ăn được
đưa đến miệng): A monk should not open the mouth till the mouthful is
brought to it.
38) Chẳng nên
nói chuyện, khi ngậm một miệng đồ ăn: A monk should not talk with the
mouth full (talk with a mouthful in the mouth).
39) Chẳng nên
lấy cơm vò viên, mà thảy vào miệng: When eating alms-food, a monk should
not make up a round mouthful (eat tossing up balls of food).
40) Chẳng nên
ăn trám vàm đến nỗi rớt ra: A monk should not eat scattering rice or lumps
of boiled rice about.
41) Chẳng nên
đưa đồ ăn má bên này, qua má bên kia như khỉ: A monk should not eat
stuffing out the cheeks like a monkey (stuffed the cheek on one side or on
both).
42) Chẳng nên
nhai lớn tiếng: A monk should not eat making loud sound or noise.
43) Chẳng nên
nút mạnh trong khi ăn: A monk should not suck the alms-food loudly.
44) Chẳng nên
lấy lưỡi liếm: A monk should not eat licking or wiping, either the hand or
the bowl.
45) Chẳng nên
quơ tay trong khi ăn: A monk should not eat shaking the hand about.
46) Chẳng nên
lấy tay lượm cơm rớt mà bỏ vào miệng: A monk should not pick up dropping
rice to put in his mouth.
47) Chẳng nên
cầm bình uống nước mà chẳng rữa tay: A monk should not accept a
drinking-water pot or cup with the hands soiled with food.
48) Chẳng nên
tạt nước rữa bát ra sân của thí chủ: A monk should not throw out amidst
the houses, rinsings of the bowl with lumps of boiled rice (bowl washing
water which has rice grains in it).
49) Chẳng nên
đại, tiểu tiện, hỉ mũi, khạc nhổ trên rau cỏ: A monk should not go to
stool, urinate, blow his nose, or spit saliva on vegetables.
50) Chẳng nên
đại, tiểu tiện, hỉ mũi, khạc nhổ trên nước: A monk should not go to stool,
urinate, blow his nose, or spit saliva in water.
51) Chẳng nên
đứng mà đại, tiểu tiện: A monk should not urinate when standing.
52) Chẳng nên
ở và ngủ trong chỗ thờ Phật, trừ khi canh giữ: A monk should not reside
and sleep at the Buddha altar.
53) Chẳng nên
cất đồ vật tại chỗ thờ Phật, trừ khi bị cướp: A monk should not store
anything at the Buddha altar, except in case of robbing.
54) Chẳng nên
mang dép vào chỗ thờ Phật: A monk should not wear sandals to enter the
place of Buddha altar.
55) Chẳng nên
xách dép vào chỗ thờ Phật: A monk should not carry his sandals around the
Buddha altar.
56) Chẳng nên
mang dép đi chung quanh chỗ thờ Phật: A monk should not wear sandals when
going around the Buddha altar.
57) Chẳng nên
mang giày vào chỗ thờ Phật: A monk should not wear shoes to enter the
place of Buddha altar.
58) Chẳng nên
xách giày vào chỗ thờ Phật: A monk should not carry his shoes around the
Buddha altar.
59) Chẳng nên
ngồi ăn và bỏ đồ dơ thúi dưới chỗ thờ Phật: A monk should not sit eating
and leave left-over things at the Buddha altar.
60) Chẳng nên
khiêng xác chết, đi dưới chỗ thờ Phật: A monk should not allow people to
carry a corpse around the Buddha altar.
61) Chẳng nên
chôn xác chết tại chỗ thờ Phật: A monk should not bury a dead body at the
Buddha altar.
62) Chẳng nên
thiêu xác chết ngay chỗ thờ Phật: A monk should not allow people to
cremate a corpse at the Buddha altar.
63) Chẳng nên
thiêu xác chết gần chỗ thờ Phật để mùi hôi thúi bay tới: A monk should not
allow people to cremate a corpse near the Buddha altar because it can emit
the burnt smell at the Buddha altar.
64) Chẳng nên
thiêu xác chết tại chỗ thờ Phật: A monk should not allow people to cremate
corpses at the Buddha altar.
65) Chẳng nên
mang đồ của người chết mà đi dưới chỗ thờ Phật: A monk should not allow
people to carry clothes of the dead around the Buddha altar.
66) Chẳng nên
đại, tiểu tiện tại chỗ thờ Phật: A monk should not or should not allow
people to go to stool or to urinate at the Buddha altar.
67) Chẳng nên
đi vào nhà tiêu mang theo tượng Phật: A monk should not carry the image or
statue of the Buddha into the rest room.
68) Chẳng nên
đại, tiểu tiện chỗ mà mùi hôi thúi có thể bay tới chỗ thờ Phật: A monk
should not allow people to go to stool or to urinate near the Buddha altar
where bad smell can fly over the Buddha altar.
69) Chẳng nên
đại, tiểu tiện ngay phía chỗ thờ Phật: A monk should not or should not
allow people to go to stool or to urinate at the side of the Buddha altar.
70) Chẳng nên
cho phép ai xỉa răng, súc miệng dưới chỗ thờ Phật: A monk should not allow
people to pick their teeth or rinse their mouth at the Buddha altar.
71) Chẳng nên
tới trước tượng Phật mà xỉa răng hay súc miệng: A monk should not come in
front of the Buddha altar to pick his teeth or to rinse his mouth.
72) Chẳng
nên đứng bốn phía chỗ thờ Phật mà xỉa răng hay súc miệng: A monk should
not or should not allow people to stand around the Buddha altar to pick
their teeth or to rinse their mouth.
73) Chẳng nên
tại chỗ thờ Phật mà hỉ mũi hay khạc nhổ: A monk should not blow his nose
or spit saliva at the Buddha altar.
74) Chẳng nên
đứng trước chỗ thờ Phật mà hỉ mũi hay khạc nhổ: A monk should not stand in
front of the Buddha altar to blow his nose or to spit saliva.
75) Chẳng nên
đứng bốn phía chỗ thờ Phật mà hỉ mũi hay khạc nhổ: A monk should not stand
at any sides of the Buddha altar to blow his nose or to spit saliva.
76) Chẳng nên
ngồi đưa chân ngay chỗ thờ Phật: A monk should not sit pointing his legs
at the Buddha altar.
77) Chẳng nên
ở, đứng trên cao hơn chỗ thờ Phật: A monk should not reside or sleep at a
place which is higher than the level of the Buddha altar.
78) Chẳng nên
nắm tay người khác mà đi dạo: A monk should not promenade or to go for a
walk hand in hand with anyone.
79) Chẳng nên
leo cây cao khỏi đầu, trừ khi có việc: A monk should not climb high trees
(higher than head level), except emergencies.
80) Chẳng nên
bỏ bát vào bao mà quảy lên vai, chỗ đầu cây gậy: A monk should not put his
bowl in a bag, tie it to one end of his staff and carry along the road.
81) Chẳng nên
vị tình thuyết pháp cho kẻ vô lễ; lật áo (phanh cổ): A monk should not
teach Dharma to someone with shirt hitched up.
82) Chẳng nên
vị tình thuyết pháp cho kẻ vô lễ quấn áo lên cổ: A monk should not teach
the law to someone who hangs his shirt around the neck.
83) Chẳng nên
vị tình thuyết pháp cho kẻ vô lễ khỏa đầu: A monk should not teach Dharma
to someone wearing a head wrapping who is not sick.
84) Chẳng nên
vị tình thuyết pháp cho kẻ vô lễ che đầu: A monk should not teach the law
to someone with head covered (with a turban on his head) and who is not
sick.
85) Chẳng nên
vị tình thuyết pháp cho kẻ vô lễ, chắp tay sau lưng hay chống nạnh: A monk
should not teach the law to someone with arms akimbo (arms placed on the
hips, or hands on both sides and elbows turned outwards).
86) Chẳng nên
vị tình thuyết pháp cho kẻ vô lễ, đi guốc: A monk should not teach Dharma
to someone mounted on clogs (wooden shoes).
87) Chẳng nên
vị tình thuyết pháp cho kẻ vô lễ, đi dép: A monk should not teach Dharma
to someone wearing sandals who is not sick.
88) Chẳng nên
vị tình thuyết pháp cho kẻ vô lễ, cỡi ngựa, đi kiệu: A monk should not
teach the law to someone in a vehicle who is not sick.
89) Chẳng nên
vị tình thuyết pháp cho kẻ vô lễ, ngồi trong khi mình đứng: A monk should
not teach Dharma, standing, to someone who is sitting down, and who is not
sick.
90) Chẳng nên
vị tình thuyết pháp cho kẻ vô lễ, nằm trong khi mình ngồi: A monk should
not teach Dharma, sitting, to someone on a bed and who is not ill.
91) Chẳng nên
vị tình thuyết pháp cho kẻ vô lễ, ngồi trên ghế trong khi mình ngồi dưới
đất (ngồi chỗ tốt trong khi mình ngồi chỗ xấu): A monk should not sit down
on the ground to teach Dharma to someone sitting on a seat and who is not
ill.
92) Chẳng nên
vị tình thuyết pháp cho kẻ vô lễ, ngồi chỗ cao trong khi mình ngồi chỗ
thấp: A monk should not teach Dharma, having sat down on a low seat, to
someone sitting on a high seat and who is not ill.
93) Chẳng nên
vị tình thuyết pháp cho kẻ vô lễ, đi trước mà mình đi sau: A monk should
not teach Dharma, going or walking behind, to someone going or walking in
front and who is not ill.
94) Chẳng nên
vị tình thuyết pháp cho kẻ vô lễ, đi trên mà mình đi dưới: A monk should
not teach the law, going in a low road, to someone going in a high road.
95) Chẳng nên
vị tình thuyết pháp cho kẻ vô lễ, đứng ở giữa đường mà mình đứng ở bên
đường: A monk should not teach Dharma, standing beside (at the side of) a
path, to someone standing on a path (in the middle of the path).
96) Chẳng nên
vị tình thuyết pháp cho kẻ vô lễ, không đau bệnh mà cầm gậy: A monk should
not teach Dharma to someone with a stick in his hand and who is not sick.
97) Chẳng nên
vị tình thuyết pháp cho kẻ vô lễ, cầm gươm: A monk should not teach Dharma
to someone with a sword (weapon) in his hand.
98) Chẳng nên
vị tình thuyết pháp cho kẻ vô lễ, cầm giáo: A monk should not teach Dharma
to someone with a spear (lance) in his hand.
99) Chẳng nên
vị tình thuyết pháp cho kẻ vô lễ, cầm dao: A monk should not teach Dharma
to someone with a knife in his hand.
100)
Chẳng nên vị tình thuyết pháp cho kẻ vô lễ, cầm dù: A monk should not
teach Dharma to someone with an umbrella in his hand who is not sick.
Bách Giới Thiên Như: One
thousand realms—Tính nội tại hay cảnh vực của mỗi trong mười thế giới được
nhân lên thành 100 thế giới. Thêm nữa, mỗi cảnh vực có mười sắc thái khác
nhau (mười hiện tượng của Như là tướng, tánh, thể, lực, tác, nhân, duyên,
quả, báo, và bản mạt cứu cánh). Do khám phá ra mười hiện tượng nầy trong
100 thế giới. Vì thế, tông Thiên Thai đạt đến thuyết về 1000 cõi gọi là
Bách Giới Thiên Như—The emmanence of each of the ten worlds in all of them
accounts for 100 worlds. Further, each of these realms has ten different
features (ten features of Thusness as form, nature, substance, force,
action, cause, circumstance, effct, remuneration and the ultimate state).
By discovering these ten features in the 100 worlds, the T’ien-T’ai School
arrives at the doctrine of 1,000 realms.
Bách Hội:
1) Phần
thượng đỉnh trên đầu nơi mà mọi thứ hội tụ về đây, mọi thứ tinh yếu đều
qui vào chỗ nầy—Where all things meet, i.e. the head or the place of
centralization.
2) Còn
chỉ Đức Phật là trung tâm của trí tuệ—It is applied also to the Buddha as
the center of all wisdom.
Bách Luận: Sata-Sastra
(skt)—Một trong ba bộ luận của trường phái Trung Luận, được gọi là Bách
Luận vì gồm một trăm bài kệ, mỗi kệ 32 chữ, được Ngài Đề Bà Bồ Tát soạn
(Đề Bà là đệ tử của Ngài Long Thọ). Mục đích của bộ luận nầy là nhằm bác
bỏ những tà kiến của Bà La Môn Giáo. Ngài Thiên Thân Bồ Tát giải thích,
và được Ngài Cưu Ma La Thập dịch sang Hoa ngữ, nhưng bản phiên dịch có số
câu tăng giảm khác nhau. Cũng có “Quảng Bách Luận Bổn,” là bản triển khai
rộng ra của Bách Luận—One of the three sastras of the Madhyamika school,
so called because of its 100 verses, each or 32 words; attributed to Deva
Bodhisattva (a pupil of Nagarjuna). This treatise is mainly a refutation
of the heretical views of Brahmanism. It was written in Sanskrit and
explained by Vasubandhu and translated into Chinese by Kumarajiva, but the
versions differ. The is also the Catuhsataka-sastrakarita (skt), and
expension of the satasastra.
Bách Mục: Một thứ đèn lồng bằng
đất với nhiều con mắt hay lỗ trống—An earthernware lantern with many eyes
or holes.
Bách Nạp Y: Y bá nạp được làm
bằng cách may nối nhiều mảnh lại với nhau—A monk’s robe made of patches.
Bách Nhất: Một phần trăm (mỗi
một trên một trăm)—One out of a hundred or every one of a hundred.
Bách Nhị Thập Bát Phiền Não:
Một trăm hai mươi tám phiền não của tà kiến và tà tư duy—The one hundred
and twenty-eight delusions of views and thoughts.
Bách Niên Giai Lão: Lời chúc
tụng những cặp vợ chồng mới cưới sống bên nhau đến trọn đời---To wish a
newly-married couple to live together until both reach one hundred years
old.
Bách Pháp: Theo Câu Xá Luận,
tông Duy Thức dùng bách pháp để thuyết minh về muôn vạn hiện tượng thế
gian và xuất thế gian—According to the Kosa Sastra, there are one hundred
divisions of all mental qualities and their agents of the
Consciousness-Only School, or five groups of ine hundred modes or things:
1) Tâm
pháp: Tám Thức—eight perceptions or forms of consciousness.
2) Tâm
sở: Hữu pháp—Fifty-one mental ideas—See Năm Mươi Mốt Tâm Sở.
3) Sắc
pháp: The five physical organs (eye, ear, nose, tongue, body) and their
six modes of sense (matter, sound, smell, taste, touch, things).
4) Bất
tương ưng hành (đắc, mệnh căn, chúng đồng phận, dị sinh tính, vô tưởng
định, diệt tận định, vô tưởng sự, danh thân, cú thân, văn thân, sinh, lão,
trụ, vô thường, lưu chuyển, định dị, tương ứng, thế tốc, thứ đệ, phương,
thời, số, hòa hợp tính, bất hòa hợp tính): Twenty four indefinites or
unconditioned elements.
5) Vô vi:
Sáu vô vi (hư không, trạch diệt, phi trạch diệt, bất động, tưởng thọ diệt,
chân như)—Six inactive or metaphysical concepts.
Bách Pháp Giới: Mười Pháp Giới
từ địa ngục cho đến Phật, mỗi pháp giới lại có đủ mười như thị nên làm
thành “Bách Pháp Giới”—The realm of the hundred qualities (phenomenal
realm), the ten stages from Hades to Buddha, each has ten qualities which
make up the hundred.
Bách Pháp Minh Môn: Cửa vào tri
thức của thế giới hiện tượng, một trong những giai đoạn đầu tiên của Bồ
tát (hay Trí Tuệ Môn mà Bồ Tát tu đắc ở Sơ Địa)—The door to the knowledge
of universal phenomena, one of the first stages of bodhisattva.
Bách Pháp Minh Môn Luận: Bộ
luận về Bách Pháp Minh Môn, được Ngài Huyền Trang dịch sang Hoa ngữ (1
quyển)—The sastra on the Hundred Divisions of all Mental Qualities, or the
door to the knowledge of universal phenomena, translated into Chinese by
Hsuan-Tsang (1 book).
Bách Pháp Pháp Tướng Tông: Theo
tông Pháp Tướng, có một trăm pháp Đại Thừa—According to the Dharmalaksana
School, there are one hundred Mahayana Dharmas.
(I) Tâm
Pháp: Citta-dharma (skt)—Mind.
1) Nhãn
thức: Caksur-vijnana (skt)—Eye-consciousness.
2) Nhĩ
thức: Srotra-vijnana (skt)—Ear-consciousness.
3) Tỷ
thức: Ghrana-vijnana (skt)—Nose-consciousness.
4) Thiệt
thức: Jihva-vijnana (skt)—Tongue-consciousness.
5) Thân
thức: Kaya-vijnana (skt)—Body-consciousness.
6) Ý
thức: Mono-vijnana (skt)—Conscious mind.
7) Mạt Na
thức: Manas (skt)—Subconscious mind.
8) A Lại
Da thức: Alaya-vijnana (skt)—Ideation store.
(II) Tâm Sở
Hữu Pháp: Caitasika-dharma (skt)—Mental Functions.
(A) Biến
Hành: Sarvatraga (skt)—General.
9) Xúc:
Sparsa (skt)—Touch.
10) Thọ:
Vedana (skt)—Sensation.
11) Tư:
Cetana (skt)—Thought.
12) Tưởng:
Samjna (skt)—Idea.
13) Tác ý:
Manaskara (skt)—Volition.
(B) Biệt
Cảnh: Viniyata (skt)—Special.
14) Dục:
Chanda (skt)—Desire.
15) Thắng
giải: Adhimoksa (skt)—Resolve.
16) Niệm:
Smrti (skt)—Remembrance.
17) Định:
Samadhi (skt)—Concentration.
18) Tuệ:
Prajna (skt)—Wisdom.
(C) Thiện:
Kusala (skt)—Good.
19) Tín:
Sraddha (skt)—Belief.
20) Tàm: Hri
(skt)—Shame.
21) Quí:
Apatrapya (skt)—Bashfulness.
22) Vô tham:
Alobha (skt)—Absence of covetousness.
23) Vô sân:
Advesa (skt)—Absence of hatred.
24) Vô si:
Amoha (skt)—Absence of ignorance.
25) Tinh tấn:
Virya (skt)—Energy.
26) Khinh an:
Prasrabdhi (skt)—Repose of mind.
27) Bất phóng
dật: Apramada (skt)—Vigilance.
28) Hành xả:
Upeksa (skt)—Equanimity.
29) Bất hoại:
Ahimsa (skt)—Non-injury.
(D) Phiền
Não: Klesa (skt)—Evil or Affliction.
30) Tham:
Raga (skt)—Covetousness.
31) Sân:
Pratigha (skt)—Hatred.
32) Si: Mudhi
(skt)—Ignorance.
33) Mạn: Mana
(skt)—Arrogance.
34) Nghi:
Vicikitsa (skt)—Doubt.
35) Tà kiến:
Drsti (skt)—False view.
(E) Tùy
Phiền Não: Upaklesa (skt)—Minor Evil or Minor Affliction.
36) Phẫn:
Krodha (skt)—Anger.
37) Hận:
Upanaha (skt)—Enmity.
38) Phú:
Mraksa (skt)—Concealment.
39) Não:
Pradasa (skt)—Affliction.
40) Tật:
Irsya (skt)—Envy.
41) Xan:
Matsarya (skt)—Parsimony.
42) Cuống:
Maya (skt)—Deception.
43) Siễm:
Sathya (skt)—Fraudulence.
44) Hại:
Vihimsa (skt)—Injury.
45) Kiêu:
Mada (skt)—Pride.
46) Vô tàm:
Ahrikya (skt)—Shamelessness.
47) Vô quí:
Anapatrapya (skt)—Non-bashfulness.
48) Trạo cử:
Auddhatya (skt)—Restlessness.
49) Hôn trầm:
Styana (skt)—Low-spiritedness.
50) Bất tín:
Asraddhya (skt)—Unbelief.
51) Giải đãi:
Kausidya (skt)—Sloth.
52) Phóng
dật: Pramada (skt)—Negligence.
53) Thất
niệm: Musitasmrtita (skt)—Forgetfulness.
54) Tán loạn:
Viksepa (skt)—Distraction.
55) Bất chánh
tri: Asamprajnaya (skt)—Non-discernment.
(F) Bất
Định: Aniyata (skt)—Indeterminate.
56) Hối:
Kaukrtya (skt)—Repentance.
57) Thụy
miên: Middha (skt)—Drowsiness.
58) Tầm:
Vitarka (skt)—Reflection.
59) Tứ:
Vicara (skt)—Investigation.
(III)
Sắc Pháp: Rupa-dharma (skt)—Form-element.
60) Nhãn:
Caksus (skt)—Eye.
61) Nhĩ:
Srota (skt)—Ear.
62) Tỷ:
Ghrana (skt)—Nose.
63) Thiệt:
jihva (skt)—Tongue.
64) Thân:
Kaya (skt)—Body.
65) Sắc: Rupa
(skt)—Form.
66) Thanh:
Sabda (skt)—Sound.
67) Hương:
Gandha (skt)—Smell.
68) Vị: Rasa
(skt)—Taste.
69) Xúc:
Sprastavya (skt)—Touch.
70) Pháp xứ
sở nhiếp sắc: Dharmayata-nikani-rupani (skt)—Forms included in
dharma-ayatana or elements as objects of consciousness.
a) Cực
lược sắc:A substantial form analyzed to utmost , the smallest atom.
b) Cực
huýnh sắc: An unsubstantial form as aerial space or color analyzed to
utmost, the remotest atom.
c) Thọ sơ
dãn sắc: A perceptive form conceived at ordination, the innermost
impression.
d) Biến
kế sở khởi sắc: A momentary illusive form.
e) Định
sở sanh tự sắc: A form produced by meditation.
(IV)
Tâm Bất Tương Ưng Hành Pháp: Citta-viprayukta-samskara (skt)—Things Not
Associated with Mind.
71) Đắc:
Prapti (skt)—Acquisition.
72) Mạng căn:
Jivitendriya (skt)—Life.
73) Chúng
đồng phần: Nikaya-sabhaga (skt)—Nature of sharing similar species.
74) Di sanh
pháp: Visabhaga (skt)—Nature of making different species.
75) Vô tưởng
định: Asamjnisamapatti (skt)—Meditative concentration in thoughtless
heaven.
76) Diệt tận
định: Nirodhasamapatti (skt)—Meditative concentration in extinction.
77) Vô tưởng
quả: Asamjnika (skt)—Facts obtained by thoughtless meditation.
78) Danh
thân: Namakaya (skt)—Name.
79) Cú thân:
Padakaya (skt)—Word.
80) Văn thân:
Vyanjanakaya (skt)—Letter.
81) Sanh:
Jati (skt)—Birth.
82) Trụ:
Sthiti (skt)—Stability.
83) Lão: Jara
(skt)—Age.
84) Vô
thường: Anityata (skt)—Impermanence.
85) Lưu
chuyển: Pravrtti (skt)—Becoming.
86) Định dị:
Pratiniyama (skt)—Distinction.
87) Tương
ứng: Yoga (skt)—Union.
88) Thế tốc:
Java (skt)—Speed.
89) Thứ đệ:
Anukrama (skt)—Succession.
90) Phương:
Desa (skt)—Region.
91) Thời:
Kala (skt)—Time.
92) Số:
Samkhya (skt)—Number.
93) Hòa hợp
tánh: Samagri (skt)—Totality.
94) Bất hòa
hợp tánh: Anyathatva (skt)—Differentiation.
(V) Vô Vi
Pháp: Asamskrta-dharma (skt)—Non-created Elements.
95) Hư không
vô vi: Akasa (skt)—Space.
96) Trạch
diệt vô vi: Pratisamkhya-nirodha (skt)—Extinction obtained by knowledge.
97) Phi trạch
diệt vô vi: Apratisamkhya-nirodha (skt)—Extinction not by knowledge but by
nature.
98) Bất động
diệt vô vi: Aniinjya (skt)—Extinction by a motionless state of heavenly
meditation.
99) Tưởng thọ
diệt vô vi: Samjna-vedayita-nirodha (skt)—Extinction by the stoppage of
idea and sensation by an arhat.
100)
Chân như vô vi: Tathata (skt)—True
suchness.
Bách Phúc: Trăm phước—The
hundred blessings (every kind of happiness).
Bách Quan: Bá quan—All
officials in the court.
Bách Quang Biến Chiếu Vương:
Đức Đại Nhật Như Lai—The king of all light universally
shining—Vairocana—See Đại Nhật Như Lai, Đại Uy Đức, and Đại Uy Đức Giả.
Bách Tánh: Bá tánh—The people.
Bách Thảo: Zoological—Hundreds
of weeds.
Bách Thất Thập Bát Giới Ba Dật Đề:
Pacittiya (skt)—One hundred seventy-eight rules for mendicant
Bhiksunis—Pacittiya (skt)—Theo Luật Nghi Khất Sĩ được Đức Tôn Sư Minh Đăng
Quang soạn cho chư Tăng Ni hệ phái Khất Sĩ, 178 giới Ba Dật Đề dành cho Ni
chúng, nếu phạm một trong những tội nầy mà chí thành phát lồ sám hối trước
Tăng Ni chúng, thì tội được tiêu khiên. Nếu không chí thành phát lồ sám
hối, chẳng những sẽ trở ngại cho việc khởi sanh thiện pháp, mà sẽ còn bị
đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh—According to Most Honorable Minh Đăng
Quang in the Rules for Mendicant Bhiksus and Bhiksunis, one hundred
seventy-eight Pacittiya offences which require confession and repentance.
If a nun committed any of them, makes a confession of it before the Sangha
(Order of monks and nuns) with clear heart, she will become free from the
offence. If she doesn’t, the offence itself will not only obstruct her
development of wholesome acts, but it will also cause her rebirth in lower
realms, i.e., hell, hungry ghosts, or animal.
1) Cấm
cho rằng phải một việc sai trái:A nun should not tell a conscious lie
(telling a conscious lie means the words, the utterance, the speech, the
talk, the language, the intimation, the un-ariyan statement of one intent
upon deceiving with words, saying: “I have not seen what I have seen,
heard what I have not heard, sensed what I have not sensed, etc).
2) Cấm
chê bai làm người rủn chí: A nun should not speak insulting speech to
discourage people.
3) Cấm
nói lưỡi hai chiều đâm thọc làm cho người ta giận nhau: A nun should not
speak slandering speech to cause people to break their harmony.
4) Cấm ở
chung nhà với đàn ông trong một đêm: A nun should not lie down in a
sleeping place with a man.
5) Cấm ở
quá hai đêm chung với người chưa thọ giới nhà sư: A nun should not lie
down in a sleeping place with one who is not ordained for more than two
nights.
6) Cấm
tụng kinh chung và một lượt với người chưa thọ đại giới. Tuy nhiên, nếu
cùng bậc thiện hữu tri thức tại gia đọc tụng và nghiên cứu kinh điển thì
không phạm giới Ba Dật Đề: A nun should not make one who is not ordained
speak dharma line by line. However, if a monk recite in studying together
with lay good advisors, there is no offence of Pacittiya.
7) Cấm
học tội một vị Tỳ Kheo Ni khác với người chưa thọ đại giới: A nun should
not speak of another nun’s very bad offence to one who is not ordained.
8) Cấm
khoe mình đắc đạo có phép thần thông với người chưa thọ đại giới: A nun
should not speak of a condition of super powers to one who is not
ordained.
9) Cấm
một mình thuyết pháp cho đàn ông nghe, dù chỉ năm sáu câu mà không có đàn
bà trí thức tham dự: A nun should not teach dharma to men in more than
five or six sentences, except a learned woman is present.
10) Cấm đào
đất, cuốc đất, hay sai người đào cuốc: A nun should not dig the ground or
have it dug.
11) Cấm đốn
cây: A nun should not destroy vegetable growth.
12) Cấm tranh
cãi nhiều lời làm cho người ta phiền nhiễu: A nun should not argue to
disturb other people.
13) Cấm chê
bai, nói ác, chỉ trích và thề thốt: A nun should not defame (make
derogative remarks) or bad mouth in criticizing other people, and
swearing.
14) Cấm dùng
đồ của chùa mà bỏ ở ngoài, làm cho hư bể: A nun should not spread in the
open air a chair or a mattress or a stool belonging to the Order, setting
forth, but does not removed or have it removed, to cause it destroyed.
15) Cấm dùng
đồ của chùa, khi đi không dẹp cất: A nun should not spread a sleeping
place or having it spread in a dwelling belonging to the Order, setting
forth, but should neither remove it nor have it removed.
16) Cấm khi
đi lữ hành, giành chỗ nằm của một người khác: A nun should not lie down in
a sleeping place in a dwelling belonging to the Order, knowing that she is
encroaching upon the space intended for a nun arrived first.
17) Cấm đuổi
hay sai đuổi một vị Tỳ Kheo Ni không hạp ý mình ra khỏi phòng: Out of
angry and displeased, a nun should not throw out another nun or cause her
to be thrown out from a dwelling place belonging to the Order.
18) Nếu ở
phần trên gác, khi giăng mùng lót ván, cấm để cây rớt trúng người: A nun
who dwells in a lofty cell with an upper part, in a dwelling place
belonging to the Order. She should not cause any boards or removable feet
of her couch to fall down to hurt other people.
19) Cấm lấy
nước dùng khi biết trong nước ấy có côn trùng: A nun should not sprinkle
grass or clay, or should not have them sprinkled if he knows that the
water contains life.
20) Khi lợp
tịnh xá, cấm dùng đồ quá nhiều chất nặng khiến bị sập làm tổn hại người
khác: A nun should not cover her dwelling place with heavy material that
collapse to harm other people.
21) Cấm ăn
nhiều bữa cơm trong một ngày, trừ khi đau yếu: A nun should not have so
many meals a day, except when she is ill.
22) Cấm vắng
mặt buổi cơm kỳ hội, trừ khi đau yếu, đi xa, trai Tăng, tởi áo, hay phải
đi xa bằng tàu đò: A nun should no be absent during the assembly meal
(group meal), except when she is ill, and at a right time, i.e., time of
illness, time of giving robes, time of being embarked in a boat, etc.
23) Cấm lãnh
đồ ăn nhiều mà không chia sớt cho các vị ấy (khi vị Ni đi hay được mời
thỉnh đến nhà thí chủ và được cúng dường hai hay ba bát bột nhồi mật để
mang về, vị Ni ấy có thể nhận. Nếu muốn nhiều hơn thế là phạm tội Ba Dật
Đề. Nếu nhận về tự viện mà không chia lại cho Ni chúng trong tự viện cũng
bị phạm tội Ba Dật Đề): When receiving a lot of almsfood, a nun must share
them with other nuns in the Order. If not, there is an offence of
Pacittiya (If a nun, going up to a family, and was invited to take cakes
or barley-gruel, two or three bowlfuls may be accepted by the nun. Should
she accept more than that, there is an offence of Pacittiya. Should she
accept two or three bowlfuls, take these cakes back from there and would
not share with other nuns in the monastery, there is an offence of
Pacittiya).
24) Cấm ăn
sái giờ từ quá ngọ tới ngọ hôm sau: A nun should not eat or partake solid
or soft food at the wrong time (wrong time means afternoon has passed
until sunrise).
25) Cấm để
dành đồ ăn cách đêm đặng hôm sau khỏi đi khất thực: A nun should not eat
or partake of solid food or soft food that was stored so that she doesn’t
have to go begging for alms-food the next day.
26) Cấm dùng
và để đồ ăn vào miệng, món chẳng phải của cúng dường: A nun should not
convey to her mouth nutriment not given.
27) Cấm cố ý
làm cho mấy vị Tỳ Kheo Ni khác trễ quá giờ ăn: A nun should not cause
other nuns to be tardy to the meal.
28) Cấm ăn
rồi mà còn ngồi nán lại lâu trong nhà có đàn ông: After eating, a nun
should not sit down in a house where there is a man.
29) Cấm lãnh
đồ ăn rồi, mà còn ngồi lại chỗ kín, trong nhà có đàn ông: After receiving
alms-food, a nun should not sit down in a private place on a secluded seat
together with a man.
30) Cấm lãnh
đồ ăn rồi, mà còn ngồi lại chỗ kín, trong nhà có đàn ông: After receiving
alms-food, a nun should not sit down in a private place on a secluded seat
together with a man.
31) Cấm oán
ghét, kiếm cớ làm cho một vị ni khác bơ vơ nhịn đói: A nun should not find
fault to dismiss another nun from going into a village for alms-food to
cause that nun to starve.
32) Cấm lãnh
để dành nhiều thuốc: A nun should not store so much medicines.
33) Cấm xem
diễn binh tập trận: A nun should not go to see an army fighting.
34) Nếu vì lý
do gì đó mà phải đến viếng trại binh, cấm ở chung với quân binh hai ngày:
If there is some reason for a nun to go to visit the army, that nun
should not stay with the army for two nights.
35) Nếu phải
viếng trại binh, cấm đi xem sự tập tành ngựa voi, quân binh đấu võ: If a
nun, staying with the army for less than two nights, she should not go see
a sham-fight or to the troops in array or to the massing of the army or to
see a review of the army.
36) Cấm uống
rượu men, các thứ rượu, thuốc hút, á phiện, trầu cau: A nun should not
drink fermented liquor and spirits, nor should she smoke opium, nor should
she chew betel.
37) Cấm tắm
rữa một cách quá tự do và giỡn cợt: A nun should not freely bathing and
playing in the water.
38) Cấm lấy
tay chân mà đánh đá người ta: A nun should not kick people with her legs
or hands.
39) Cấm bất
tuân và khinh dễ lời quở trách cản ngăn: A nun should not disrespect any
blame or warning from the elder monks or nuns.
40) Cấm dọa
nạt làm cho người khác kinh sợ: A nun should not frighten other people.
41) Cấm tắm
tới hai lần trong nửa tháng, trừ khi đau yếu, dơ hay nực vào trời hè: A
nun should not bathe at intervals of less than half a month, except at a
right time, i.e., the time of illness, the body is dirty, or too hot
during the summer time.
42) Cấm vô cớ
chụm lửa chỗ trống, trừ khi đau yếu, lạnh lẽo hay trong đêm tối: If he is
not ill, a nun should not warm herself, kindle or cause a fire to be
kindled.
43) Cấm giễu
cợt mà giấu, hoặc xúi người dấu đồ của người khác (như bát, áo, vải, vân
vân): A nun should not hide or cause to hide another nun’s bowl or robe or
cloth, even in fun.
44) Cấm lấy
lén lại đồ, áo đã cho người ta rồi: A nun should not get back things that
she already offered to another nun.
45) Cấm mặc
dùng chăn áo, màu vải trắng, mà phải nhuộm lại cho xấu trước khi dùng: A
nun should not wear a robe (white) that has no disfigurement of black,
dark green or muddy colors.
46) Cấm uống
nước mà mình biết là có trùng: A nun should not knowingly make use of
water that contains living things.
47) Cấm cố ý
giết chết mạng thú vật: A nun should not intentionally deprive a living
thing of life.
48) Cấm cố ý
làm cho người ta buồn mà không khuyên giải: A nun should not cause sadness
to other people without comforting them.
49) Cấm dấu
tội thô tục, chọc ghẹo, giao dâm của một Tỳ Kheo Ni (tội thô tục nầy liên
hệ đến Tứ Ba La Di hay Thập Thất Giới Tăng Tàn): A nun should not
knowingly conceal another nun’s very bad offence (an offence that involves
defeat and the seventeen entailing a formal meeting of the Order).
50) Cấm khiêu
gợi sự rầy rà sau khi đã êm thuận: A nun should not knowingly open up for
a further formal act a legal question already settled according to rule.
51) Cấm đi
chung với gian nhân, dầu từ làng nầy tới làng kia cũng vậy: A nun should
not have arranged together with a caravan set on theft, should not
knowingly go along the same high road, even among villages.
52) Cấm nói
lời dâm dục làm ngăn trở sự thành đạo: A nun should not speak lewd words
to obstruct the cultivated path.
53) Cấm giao
thiệp, đưa đồ, nói chuyện với kẻ nói sái quấy ấy, chẳng hạn như nói sái
quấy về Phật Pháp và Đức Phật: A nun should not knowingly frequent,
exchange things, speak, be in communion with, or lie down in a sleeping
place with a nun who speaks uncorrectly about the Buddha-Dharma and
misinterprets the Buddha.
54) Cấm giữ
tại chùa và để hầu mình, kẻ Sa Di Ni nói sái quấy: A nun should not
knowingly allow the novice who speaks uncorrectly about the Buddha-Dharma
and misinterprets the Buddha, should not encourage that novice, should not
support, should not eat with that novice, nor should he lie down in a
sleeping place with that novice .
55) Cấm chối
tội nói rằng không biết để đi hỏi lại: A nun, being spoken to by nuns
regarding a rule, should speak thus: “Your reverences, I will not train
myself in this rule of training until I have inquired about it of another
experienced monk who is expert in discipline.” There is an offence of
Pacittiya. She should say: “Monks, it should be learnt, it should be
inquired into, it should be investigated by a nun who is training.”
56) Cấm nói
phá rằng đọc giới bổn là phiền hà vô ích: When the Patimokkha is being
recited, a nun should not disparaging the rule of training by sayng thus:
“On what account are the lesser and minor rules of training recited? They
only tend to remorse, to vexation, to perplexity.”
57) Cấm chối
tội nói rằng tại mình không thuộc giới bổn: A nun should not avoid being
blamed by saying that she does not understand the Patimokkha (Whatever
nun, while the Patimokkha is being recited every half-month, should speak
thus: “Only now I do understand that this rule is, as is said, handed down
in a clause, contained in a clause, and comes up for recitation every
half-moth; if other nuns should know concerning this nun has sat down two
or three times before, not to say oftener, while Patimokkha was being
recited, there is not only no freedom for that nun on account of his
ignorance, but he ought to be dealt with according to the rule for the
offence into which she has fallen there, and further confusion should be
put on her, saying: ‘Your reverence, this is bad for you, this is badly
gotten by you, that you, while the Patimokkha is being recited, do not
attend applying yourself properly.”
58) Cấm nói
Giáo Hội nghị xử chẳng công bình: A nun should not say that the Order’s
decision is not fair.
59) Cấm phá
khuấy làm gián đoạn buổi hội nghị, bằng cách đứng dậy hay bước ra ngoài: A
nun should not break or interrupt the meeting, not giving the consent by
rising up or departing from her seat when the Order is engaged in decisive
talk.
60) Cấm làm
cản trở không cho thi hành điều mà giáo hội đã quyết nghị: A nun should
not first consent for ligitimate acts, and afterwards engage in
criticism.
61) Cấm học
đi học lại, chuyện cãi lẫy gây gổ, sau khi đã êm thuận: A nun should not
stand overhearing other nuns when they are quarrelling, disputing.
62) Cấm giận
mà đánh một vị Tỳ Kheo Ni khác: When angry and displeased, a nun should
not give another nun a blow.
63) Cấm giận
mà vả, hay vặn tay một vị Tỳ Kheo Ni khác: When angry and displeased, a
nun should not raise the palm of the hand against another nun.
64) Cấm cáo
gian rằng vị Tỳ Kheo Ni khác phạm giới Tổn Hại Tăng Tàn: A nun should not
defame another nun with an unfounded charge of an offence entailing a
formal meeting of the Order.
65) Cấm vào
cung vua thình lình, không chờ đợi được nghinh tiếp: A nun should not
suddenly enter the threshold of the king palace without waiting to be
welcome.
66) Cấm lượm,
hay sai lượm của quấy vật bỏ rơi, trừ khi nào biết rõ chủ nhân mà muốn cất
giùm: A nun should not pick up or cause another to pick up treasure or
what is considered to be treasure, except when she knows the owner and
picks to set aside for the owner to take it.
67) Cấm vào
làng sái giờ, trừ ra có việc của Giáo Hội: A nun should not enter a
village at the wrong time, unless the Order instructs her to go for some
kind of urgent thing to be done.
68) Cấm ngồi
ghế cao (cao hơn tám lóng tay), nằm giường rộng, chiếu lớn xinh đẹp: A nun
should not sit on a couch or chair with the legs higher than eight
finger-breadths
69) Cấm dồn
ghế, nệm, gối bằng gòn tốt: A nun should not have a couch or a chair made
covered with good cotton.
70) Cấm ăn
ngũ tân như tỏi, hành, hẹ, nén, kiêu: A nun should not eat the five
forbidden pungent roots, i.e., garlic, onion, leeks, etc.
71) Cấm bất
tuân chẳng cạo chơn mày: A nun should not disobey the law by not shaving
the eyebrows.
72) Cấm cười
bậy: A nun should not joke or laugh at someone.
73) Cấm nói
chuyện thế tục: A nun should not talk worldly affairs.
74) Cấm hai
cô dùng tay bỡn cợt (trửng giỡn): Two nuns should not play or trifle with
hands.
75) Cấm một
Ni một Sư uống nước chung và quạt cho nhau: A nun should not stand with
drinking water or with a fan close to a monk while he is eating or
drinking.
76) Cấm để
dành đồ ăn cách đêm đặng hôm sau khỏi đi khất thực: A nun should not eat
or partake of solid food or soft food that was stored so that she doesn’t
have to go begging for alms-food the next day.
77) Cấm đại,
tiểu tiện làm dơ cây cối: A nun should not go to stool or urinate to cause
pollution in the area of vegetables, plants or trees.
78) Cấm quăng
ra ngoài rào, đồ đại, tiểu tiện khi đêm: A nun should not throw out the
excriment or urine or rubbish or remains of food over a wall or a fence.
79) Cấm đi
xem hát: A nun should not go to see dancing, singing, or music.
80) Cấm nói
chuyện với đàn ông chỗ vắng vẻ: A nun should not speak with a man in a
secluded place (it is not proper for a nun to stand with a man or talk to
him alone in a secluded place, i.e., in the dark of the night when there
is no light). In doing so, she commits an offence which requires
expiation.
81) Cấm gặp
và nói chuyện với đàn ông chỗ chán chường: A nun should not meet and talk
with a man in a private place.
82) Cấm bảo
cô khác đi xa đặng mình tiện bề nói chuyện với đàn ông: A nun should not
order another nun to leave so that she can be free to talk to a man.
83) Cấm ở nhà
cư gia mà ra đi thình lình không cho chủ nhà hay: A nun should not leave a
lay person’s house without asking the owner’s permision.
84) Cấm vào
nhà cư gia mà chủ nhà chẳng hay biết rồi tự tiện ở lại đêm nơi đó: A nun
should not enter the house of a lay person without informing the owner,
then stay overnight without asking for permision of the owner.
85) Cấm vào
nhà cư gia mà chủ nhà không hay biết rồi ngồi nằm nơi đó: A nun should not
enter the house of a lay person without informing the householder, and sit
or lie down at ease.
86) Cấm vô
nhà người, vào phòng kín với đàn ông: A nun should not enter the house of
a lay person, then enter a private place with a man.
87) Cấm đọc
bậy với kẻ khác lời dạy của bà Thầy dạy học: A nun should not misinterpret
the master’s instructions.
88) Cấm thề
oán tức tối: A nun should not get angry, nor swear.
89) Cấm tranh
hơn thua, đấm ngực kêu la: A nun should not argue, nor yell loudly at the
same time beat her chest.
90) Cấm hai
cô nằm chung, trừ khi đau yếu: Two nuns should not share one couch, except
when they are ill. If not, they commit the offence of expiation.
91) Cấm hai
cô nằm chung giường trừ khi cần kíp: Two nuns should not share one couch,
except in case of emergency.
92) Cấm làm
phiền hoặc làm trễ mấy cô khác trong cuộc tụng kinh, hộ niệm, làm lễ, và
giảng đạo: A nun should not cause troubles for other nuns, nor should she
cause others to be late to sutra-recitation, supportive recitation,
ceremonies, or preaching.
93) Cấm chẳng
săn sóc người ở gần mình trong cơn đau bệnh: A nun who should neither
attend to an ailing woman who lives with her, nor should she make an
effort to get her attended to, commits the offence of expiation.
94) Cấm trong
mùa mưa đuổi một cô đi chỗ khác, sau khi mình đã tìm xong chỗ ngụ:
Whaterver nun, having given quarters to a nun, should, angry, displeased,
throw her out or have her thrown out, commits the offence of expiation.
95) Cấm đi xa
lúc mùa mưa, vì có thể dẫm lên và giết hại sâu bọ: A nun should not walk
on almstour duirng the rains, for she may tread on worms and other
insects.
96) Cấm đã
hết mùa mưa mà chẳng chịu đi: A nun should not stay at the retreat are
after the rainy season.
97) Cấm đi
quanh vùng nguy hiểm: A nun should not go on alms-tour within a dangerous
region. Her disobeying the rule is the committing of an offence of
expiation.
98) Cấm đi
quanh xứ lộn xộn: A nun should not go on alms-tour within a chaotic
region.
99) Cấm thân
cận và ở chung nhà với đàn ông: A nun should not keep company with a man
(whatever nun should keep company with a householder or with the
householder’s son, that nun should be spoken to thus by the nuns: “Do not,
lady, keep company with a householder and with a householder’s son. Let
the lady desist, the Order praises such detachment in a sister.” But if
that nun, being spoken to thus by the nuns, should persist as before, that
nun should be admonished by the nuns up to the third time for giving up
that course. If she should give up, while being admonished up to the third
time, that is good. If she should not give up, there is an offence of
expiation).
100)
Cấm đi xem đền đài cung điện của vua: A nun should not go to see a king’s
palace, including the king’s pleasure house, a picture gallery, a park, or
a pleasure grove, or a lotus pond (it is said that if she goes to any of
the above mentioned places, she commits the offence of expiation).
101)
Cấm tắm dưới nước mà chẳng có choàng tắm: A nun should not bathe naked.
It is not advisable for a nun to take a bath without clothes or having no
dress at all. If she does so, she commits an offence of expiation.
102)
Cấm dùng choàng tắm rộng quá thước tất: A nun should not use a bathing
cloth beyond the measure prescribed for the Nun. When a bathing cloth is
being made for a nun, it must be made to a proper measure. This is the
proper meausre: in length four spans, in width two spans. For her who
exceeds this measure, should she make or arrange to make a bathing cloth
beyond the measure prescribed for the Nun, there is an offence of
expiation (The Book Of The Discipline, I.B. Horner, 1997).
103)
Cấm may một cái áo để quá năm ngày: A nun should neither sew or make
effort to have the robe sewn beyond the limit of five days. Whatever nun,
having unsewn or having made another unsewn a nun’s robe, if she is not
afterwards prevented should neither sew it nor should make an effort to
get it sewn, except on the fourth and fifth days, there is an offence of
expiation.
104)
Cấm may áo rồi mà chẳng mặc liền: A nun should not store a ready-to-wear
robe.
105)
Cấm nhơn danh Giáo Hội, phát áo và vải rồi để dành lại một ít cho mình: A
nun should not hold back a legally valid division of robe-material.
106)
Cấm mặc đồ của một cô khác mà không hỏi trước: A nun should not wear a
robe of someone else without permision.
107)
Cấm lấy áo của một cô khác mà cho người: A nun should not give away other
nuns’ robes.
108)
Cấm có ý cản trở sự phát áo của Giáo Hội: A nun should not be an obstacle
in the way of a group’s receiving robe or in legal distribution of robe
material in the Sangha.
109)
Cấm dùng lời nói cản trở sự phát áo của Giáo Hội: A nun should not use her
speech as an obstacle in the way of a group’s receiving robe or in legal
distribution of robe material in the Sangha.
110)
Cấm làm cách chế cản trở sự phát áo của Giáo Hội: A nun should not use any
means to obstruct the way of a group’s receiving robe or in legal
distribution of robe material in the Sangha.
111)
Cấm đã có người hòa giải mà không chịu hòa: There is some legal question
to be settled by the Order. If a nun does not agree or does not make
effort to get it settled, she commits Expiation offence.
112)
Cấm trao tay thí đồ ăn cho kẻ ngoại đạo: A nun should not give with her
own hand solid food or soft food to a heretics. According to The Book Of
The Discipline, translated into English by I.B. Horner in 1997, if a nun
gives with her own hand solid food or soft food to a householder, a male
or female wanderer, she commits an offence of expiation.
113)
Cấm ra tay làm việc cho người cư gia: A nun should not do household work
for a lay person. Leading the holy life, a nun should not do the household
work. If she does so, she commits an offence of expiation.
114)
Cấm tự mình kéo chỉ quay tơ: A nun should not spin yarn.
115)
Cấm ngồi trên giường ván của cư gia: A nun should not make use of a sofa
or a divan at the house of a lay person.
116)
Cấm nghỉ đêm nơi nhà cư gia mà sáng sớm ra đi không cho chủ nhà hay biết:
If a nun must stay overnight at the house of a lay person, the next
morning when she leaves, she must inform the owner. If she does not, she
commits an offence of expiation.
117)
Cấm đọc chú như mấy kẻ pháp phù: A nun should not recite incantation the
same way as the heretic magicians do.
118)
Cấm dạy người ta đọc chú: A nun should not teach other people to recite
incantation.
119)
Cấm cho nhập đạo một cô có thai: A nun should not ordain a pregnant woman.
In case of doing so, she commits the offence of expiation.
120)
Cấm cho nhập đạo một cô còn có con nhỏ: A nun should not ordain a woman
giving suck (it is forbidden for a nun to ordain a woman giving suck). In
case of violation of the rule, she commits an offence of expiation.
121)
Cấm cho nhập hàng Ni cô một người chưa đúng hai mươi tuổi trọn: A nun
should not ordain a maiden under twenty years of age. In case of violation
of the rule, she commits an offence of expiation.
122)
Cấm cho nhập hàng Ni cô một người chưa tập sự hai năm: A nun should not
ordain a probationer who has not trained for two years in the six rules.
Even after reaching the age of twenty years, a married girl is not fit for
ordination, if she is not trained for two years in six rules (see Thập
Giới II B).
123)
Cấm cho nhập hàng Ni cô một người phạm đại giới, mặc dầu đã đúng tuổi và
đã tập sự hai năm: A nun should not ordain a woman who committed
Parajikas, even though she is over twenty years of age and she is trained
for two years.
124)
Cấm không cho nhập đạo hàng Ni cô một người đã đủ điều kiện: A nun should
not refuse to ordain a probationer who meets all required qualifications
(over twenty years of age and two years of training in six rules).
125)
Cấm vội vã cho nhập đạo sớm và chẳng tập sự: A nun should not hurry to
ordain a woman and not to train her in six rules.
126)
Cấm cho nhập đạo mà chẳng được Giáo Hội chư Tăng thị nhận: A nun should
not ordain a married girl without obtaining the permision from the Order,
even though the girl has completed twenty years of age and has trained for
two years in the six rules. In case of doing so, she commits the offence
of expiation.
127)
Cấm giấu những sự sơ thất ấy: A nun should not conceal any of the
information from 119 to 126.
128)
Cấm đã thâu nhận học trò mà không lo dạy dỗ trong hai năm tập sự: After
ordaining a woman, a nun should keep her under supervision and should help
her for two years in training in six rules. It is a general rule for a nun
to give ordained woman instructions for two years. In disobeying this she
commits the offence of expiation.
129)
Cấm mới nhập đạo chưa được hai năm mà thâu nhận học trò: Ordaining a
maiden every year by a nun is committing the offence of expiation.
130)
Cấm một cô thiếu sức mà cho người nhập đạo: An unqualified nun should not
admit a novice.
131)
Cấm một cô thiếu sức mà truyền giới cụ túc cho người: An unqualified nun
should not ordain a probationer.
132)
Cấm một cô thiếu phép mà truyền giới cụ túc cho người: A nun who is not
thorough in Vinaya, should not ordain a probationer.
133)
Cấm phiền trách khi Giáo Hội chẳng cho phép truyền giới: A nun should not
complain the Order for not allowing her the permision to ordain a
probationer.
134)
Cấm nhận một kẻ tu tập vào hàng Ni cô thiệt thọ, nếu người nhà kẻ ấy chẳng
thuận: A nun should not ordain a probationer without the consent of the
parents and husband. If a nun ordain a probationer without such consent,
she commits an offence of expiation.
135)
Cấm làm cho một thiếu phụ buồn chán, sợ sệt đặng bỏ gia đình nhập đạo: A
nun should not cause a woman to feel sad and worry, so that she will leave
home to join the Order.
136)
Cấm hứa nếu ai dễ dạy thì cho nhập đạo, kế không giữ lời: A nun should not
first promise to ordain a trainable probationer, then later breaks her
promise.
137)
Cấm hứa nếu ai cúng áo thì cho nhập đạo, kế không giữ lời: A nun should
not promise another nun for ordination, in a gain of a robe and afterwards
breaks her promise, her such doing is an offence of expiation. Whatever
nun, having said to a probationer: “If you, lady, will give me a robe,
then will I ordain you.” If afterwards, she should neither ordain her nor
should she make an effort to get her ordained, there is an offence of
expiation.A nun should not promise to ordain a woman who seems to be
trainable, and afterwards breaks her promise.
138)
Cấm mới nhập đạo chưa được một năm mà thâu nhận người khác cho thọ giới cụ
túc: A nun who joined the Order less than a year, should not ordain a
probationer.
139)
Cấm sau khi thâu nhận một Ni cô mà để qua đêm mới trình diện với Giáo Hội
chư Tăng: A nun should not ordain a woman and wait until the next day to
inform the Order of monks.
140)
Cấm vắng mặt ngày đọc Giới luật, trừ khi đau yếu: A nun should not be
absent on the Uposatha Day, except when she is ill.
141)
Cấm quên hỏi Giáo Hội cầu thầy thuyết pháp và đọc giới bổn: A nun should
not forget her general duty of asking the Order of the monks the dates of
the observance day and preaching Dharma day.
142)
Cấm đến cuối mùa mưa quên đọc lại với Giáo Hội chư Tăng những điều nghe
thấy: After the rainy season retreat, if a nun does not invite the Order
of Monks and Nuns in respect of three matters that is what is seen or
heard or suspected, she commits the offence of expiation.
143)
Cấm họp nhau trong mùa mưa ở một xứ không có chư Tăng: A nun should not
spend the rains in a residence where there is no monk. In case of
violation of the instruction and staying during the rainy season in a
monastery without monk, she commits the offence of expiation (the Buddha
has made the rules for the nuns to enter into rainy season retreat in a
monastery whre there are also monks. Probably this has been done with the
consideration of providing them guardianship).
144)
Cấm vào tịnh xá chư Tăng mà không xin phép trước: a nun should not enter a
monastery without asking for advanced permision.
145)
Cấm nhiếc mắng mấy Ni cô khác: A nun should not revile or abuse another
nun. In doing so she commits the offence of expiation.
146)
Cấm dùng lời thô bỉ khêu nên sự rầy rà ở Giáo Hội: A nun should not use
coarse words to cause troubles in the Order.
147)
Cấm khi bệnh không có Giáo Hội cho phép mà để người khác cắt hoặc bó cho
mình: It is not proper for a nun to make a boil or scab that has formed on
the lower part of her body to be operated by a man without the permision
of the Order; she should not also get it washed or smeared, bound up or
unbound by a man. Doing so, she commits the offence of expiation.
148)
Cấm ăn no rồi mà còn ăn lại nữa: a nun should not eat or partake of solid
food or soft food after her being satisfied.
149)
Cấm ganh ghét các Ni cô khác: A nun should not be envious with other nuns.
It is not proper for her in her monastic life to harbor jealousy against
anyone. If she does so, she commits the offence of expiation.
150)
Cấm dồi mài trang điểm thân mình: A nun should not apply any cosmetic
powder, nor should she wear ornaments.
151)
Cấm dồi phấn xức dầu: A nun should not apply cosmetic powder, nor should
she use perfumes. It is not proper for a nun to use perfumes and paints in
water for bathing as well as she should not bathe in scented
groundsesamum. In case of violation, she commits the offence of expiation.
152)
Cấm xúi một Ni cô dồi phấn xức dầu: A nun should not induce another nun to
apply cosmetic powder, nor should she induce another nun to use
perfumes.
153)
Cấm xúi một kẻ tu tập dồi phấn xức dầu: A nun should not induce a
cultivator to apply cosmetic powder or to use perfumes.
154)
Cấm xúi học trò dồi phấn xức dầu: A nun should not induce a disciple to
apply cosmetic powder or to use perfumes.
155)
Cấm xúi người tại gia dồi phấn xức dầu: A nun should not induce a lay
person to apply cosmetic powder or to use perfumes.
156)
Cấm bận áo mỏng thấy mình: A nun should not wear thin robe through which
one can see her skin.
157)
Cấm lấy y phục của người tại gia mặc vào: A nun should not wear clothes of
lay people.
158)
Cấm mang giày, cầm dù đi ra đường: A nun should not use a sunshade and
sandals. When she does so, she commits the offence of expiation.
159)
Cấm đi kiệu, trừ khi đau yếu:A nun should not goes in a vehicle if she is
not ill.
160)
Cấm vào làng mà chẳng mặc áo Ni cô: A nun should not enter the village
without wearing her vest (robe).
161)
Cấm khi đêm vào nhà cư sĩ nếu không được mời thỉnh: A nun should not enter
the house of a lay person at night without inviation.
162)
Cấm vào buổi chiều, mở cổng chùa ra đi, không cho mấy cô khác hay: A nun
should not open the gate of the temple and go out in the evening without
informing other nuns in the temple.
163)
Cấm sau khi mặt trời lặn, mở cổng chùa ra đi, không cho mấy cô khác hay:
After the sun sets, a nun should not open the gate of the temple and go
out without informing other nuns.
164)
Cấm vắng mặt ngày hội trong mùa an cư kiết hạ: A nun should not be absent
in the assembly day of the rainy season retreat.
165)
Cấm cho nhập đạo một cô có bệnh khó: A nun should not ordain a woman who
has chronic disease.
166)
Cấm cho nhập đạo một cô bán nam bán nữ: A nun should not ordain a bisexual
person.
167)
Cấm cho nhập đạo một cô có bệnh khác thường: A nun should not ordain a
woman with unusual disease.
168)
Cấm cho nhập đạo một cô mắc nợ hoặc tàn tật: A nun should not ordain a
woman who is in debt or handicapped.
169)
Cấm học cách bói đoán vận mạng, sanh nhai theo người thế tục: A nun should
not learn divination or fortune-telling.
170)
Cấm dạy người khác bói đoán vận mạng: A nun should not teach other people
divination or fortune-telling.
171)
Cấm đã có ai bảo đi mà chẳng chịu đi: A nun should not disobey not to
leave when someone asks to leave.
172)
Cấm chẳng xin phép mà thình lình hỏi lý một vị sư: A nun should not
suddenly ask a monk without asking for advanced permision.
173)
Cấm ngồi nằm chỗ đường đi làm khó và phiền kẻ khác: A nun should not sit
or lie down in a place that blocks other people’s way and causes them
troubles.
174)
Cấm cất tháp, xây mồ cho một Ni cô khác trong vòng chùa của chư Tăng: A
nun should not build a stupa for another nun within the temple of monks.
175)
Cấm một Ni cô già gặp một vị sư trẻ mà chẳng làm lễ theo luật. Dầu trăm
tuổi hạ, tỳ kheo ni lúc nào cũng phải tôn kính một vị Tăng dù trẻ và phải
nhường chỗ ngồi cho vị ấy, phải đảnh lễ và thực hành bổn phận đối với vị
Tỳ kheo, mặc dầu vị nầy chỉ mới xuất gia ngày hôm ấy: Even though a
hundred years’ standing by the higher ordination , a nun must always pay
respect to a monk, no matter how young he is, offer her seat to him,
reverence him, and perform all proper duties towards him though he has
just received the Higher Ordination on that very day.
176)
Cấm vừa đi vừa uốn éo thân mình: A nun should not walk and wriggle at the
same time.
177)
Cấm mặc đồ và trang điểm như mấy cô ở thế tục: A nun should not wear
worldly clothes and ornaments.
178)
Cấm xúi một cô gái ngoại đạo dồi phấn xức dầu: A nun should not instigate
a heretic girl to apply cosmetic powder and use perfumes.
Bách Thú: Botanical.
Bách Trượng Dã Hồ: Pai-Chang
and the fox—See Bách Trượng Hoài Hải.
Bách Trượng Hoài Hải:
Pai-Chang-Huai-Hai—Bách Trượng Hoài Hải sanh năm 720 sau Tây Lịch. Ông là
vị thiền sư đầu tiên thiết lập một cộng đồng tự viện ở Trung Quốc với
những luật lệ quy củ rõ ràng và nhấn mạnh đến việc lao động chân tay trong
nhà thiền bao gồm trong quyển Bách Trượng Thanh Quy. Ông tịch vào năm 814
sau Tây Lịch—He was born in 720 A.D. He was an outstanding Zen master, the
first to establish the Zen community in China with precise rules and
regulations and the emphasis on manual labor. He died in 814 A.D.
·
Một hôm sư theo hầu Mã Tổ đi dạo, thấy một bầy vịt trời bay
qua, Mã Tổ hỏi: “Đó là cái gì?” Sư thưa: “Vịt trời.” Mã Tổ hỏi: “Bay đi
đâu?” Sư thưa: “Bay qua.” Mã Tổ bèn nắm lỗ mũi của sư mà vặn mạnh một cái,
đau quá sư la thất thanh. Mã Tổ bảo: “Lại nói bay qua đi.” Ngay câu ấy sư
tỉnh ngộ. Trở về phòng thị giả. Sư khóc lóc thảm thiết, những người chung
phòng nghe được bèn hỏi: Huynh nhớ cha mẹ phải không?” Sư đáp: “Không.” Bị
người ta mắng chữi phải không? Sư đáp: “Không.” Vị sư hỏi: Vậy tại sao lại
khóc?” Sư đáp: “Lỗ mũi tôi bị Hòa Thượng kéo đau thấu xương.” Vị thị giả
kia lại hỏi: “Có nhơn duyên gì không khế hội?” Sư đáp: “Đi hỏi Hòa Thượng
đi.” Vị thị giả ấy tới hỏi Hòa Thượng rằng: “Thị giả Hoài Hải có nhơn
duyên gì chẳng khế hội, mà đang khóc ở trong phòng, xin Hòa Thượng vì
chúng con mà nói.” Mã Tổ bảo: “Y đã khế hội, các ngươi tự hỏi lấy y.” Vị
thị giả lại trở về phòng hỏi: “Hòa Thượng nói huynh đã hội, nên bào chúng
tôi về hỏi huynh.” Sư bèn cười Hả! Hả! Các vị ấy bảo: “Vừa rồi khóc sao
bây giờ lại cười.” Sư đáp: “Vừa rồi khóc bây giờ cười cũng vậy thôi.” Các
vị ấy mờ mịt không hiểu gì cả. Theo Thiền sư D.T. Suzuki trong Thiền Luận,
Tập I, có thể có liên hệ nào không giữa các câu chuyện rữa chén của chú
tiểu, thổi tắt ngọn đèn và vặn tréo lổ mũi trên? Ta phải nói như Vân Môn
Văn Yển: “Nếu không có gì hết, thì làm sao những người ấy đạt được lý
Thiền? Nếu có thì mối thân thuộc ra sao? Cái ngộ ấy là gì? Cái nhãn quan
mới thấy là gì? Hễ sự quan sát của ta còn bị giới hạn trong những điều
kiện của trước thời mở con mắt đạo, có lẽ ta không bao giờ thấy được đâu
là chỗ rốt ráo kết thành. Đó toàn là việc diễn ra hằng ngày, và nếu khách
quan Thiền nằm ở chỗ thường nhật ấy thì mỗi chúng ta đều là Thiền sư hết
mà không biết. Điều nầy rất đúng bởi lẽ không có cái gì giả tạo được xây
dựng trong đạo Thiền, nhưng phải có cái vặn mũi, có cây đèn bị thổi tắt,
thì mắt chúng ta mới lột hết vảy cá, và ta mới chú ý đến bên trong, và
hướng đến sự động dụng của tâm thức; và chính tại đó tiềm ẩn mối liên hệ
mật thiết giữa sự thổi tắt đèn hay cái vặn mũi cũng như vô số những việc
khác dệt thành tấm màn thế sự của loài người chúng ta—One day Pai-Zhang
accompanied Ma-Tzu on a walk. A flock of wild ducks flew past them. Ma-Tzu
said: “What’s that?” Pai-Zhang said: “Wild ducks.” Ma-Tzu said: “Where’d
they go?” Pai-Zhang said: “They flew away.” Ma-Tzu then twisted
Pai-Zhang’s nose so hard that he cried out. Ma-Tzu said: “So you say
they’ve flown away!” Upon hearing these words, Pai-Zhang attained
enlightenment. Returning to the attendant’s room, Pai-Zhang cried out
loudly. One of the other attendants asked Pai-Zhang: “Are you homesick?”
Pai Zhang said: “No.” The attendant said: “Did someone curse at you?”
Pai-Zhang said: “No.” The attendant said: “Then why are you crying?”
Pai-Zhang said: “Master Ma twisted my nose so hard that the pain was
unbearable.” The attendant said: “What di you do that offend him?
Pai-Zhang said: “You go ask him.” The attendant went to Ma-Tzu and said:
“What did the attendant Huai-Hai do to offend you? He is in his room
crying. Please tell me.” The great teacher said: “He himself knows. Go ask
him. The attendant returned to Pai-Zhang’s hut and said again: “The master
says that you already know, so I shouls come here and ask you.” Thereupon
Pai-Zhang laughed out loud. The attendant said: “A moment ago you were
crying, so why are you laughing now?” Pai-Zhang said: “My crying moment
ago is the same as my laughing now.” The attendant was bewildered by
Pai-Zhang’s behavior. Is there any connection in any possible way between
the washing of the dishes and the blowing out a candle and the twistinf of
the nose? We must say with Yun-Men: “If there is none, how could they all
come to the realization of the truth of Zen? If there is, what inner
relationship is there? What is this enlightenment? What new point of
viewing things is this? So long as our observation is limited to those
conditions which preceded the opening of a disciple’s eye we cannot
perhaps fully comprehend where lies the ultimate issue. They are matters
of everyday occurrence, and if Zen lies objectively among them, every one
of us is a master before we are told of it. This is partly true inasmuch
as there is nothing artificially constructed in Zen, but if the nose is to
be really twisted or the candle blown out in order to take scale off the
eye, our attention must be directed inwardly to the working of our minds,
and it will be there where we are flying geese and the washed dishes and
the blown-out candle and any other happenings that weave out infinitely
variegated patterns of human life.
·
Hôm sau Mã Tổ vừa lên tòa, chúng nhóm họp xong. Sư bước ra
cuốn chiếu, Mã Tổ xuống tòa, sư theo sau đến phương trượng. Mã Tổ hỏi: “Ta
chưa nói câu nào, tại sao ngươi cuốn chiếu?” Sư thưa: Hôm qua bị Hòa
Thượng kéo chót mũi đau.” Mã Tổ bảo: “Hôm qua ngươi để tâm chỗ nào?” Sư
nói: “Chót mũi ngày nay lại chẳng đau.” Mã Tổ bảo: “Ngươi hiểu sâu việc
hôm qua.” Sư làm lễ rồi lui ra—The next day Ma-Tzu went into the hall to
address the monks just when the monks had finished assembling, bai-Zhang
rolled up his siting mat. Ma-Tzu got down from his chair and Bai-Zhang
followed him to the abot’s room. Ma-Tzu said: “Just now I hadn’t said a
word. Why did you roll up your sitting mat?” Bai-Zhang said: “Yesterday
the master painfully twisted my nose.” Ma-Tzu said: “Is there anything
special about yesterday that you’ve noticed?” Bai-Zhang said: “Today, my
nose doesn’t hurt anymore.” Ma-Tzu said: “Then you really understand what
happened yesterday.” Bai-Zhang then bow and went out.
·
Một hôm, sư thượng đường thuyết pháp. Nhưng sư chỉ bước tới
vài bước, đứng yên, rồi mở rộng vòng tay ra, rồi trở về phương trượng. Sau
đó đệ tử vào hỏi thì ngài trả lời: “Đó, đại nghĩa của pháp Phật chỉ là
vậy.”—One day he entered the hall to preach the Buddha-Dharma. But he
merely walked forward a few steps, stood still, and opened his arms, then
returned to his room. His disciples came to ask for the reason, he said:
“That’s all of the great principle of Buddhism.”
·
Trong số những đại đệ tử của Bách Trượng có Hoàng Bá và Qui
Sơn. Một hôm Bách Trượng bảo Tăng chúng: “Phật pháp không phải là việc
nhỏ, lão Tăng xưa bị Mã Tổ nạt đến ba ngày lổ tai còn điếc.” Hoàng Bá nghe
nói bất giác le lưỡi. Bách trượng bảo: “Con về sau nầy thừa kế Mã Tổ
chăng?” Hoàng Bá thưa: “Không. Nay nhơn Hòa Thượng nhắc lại, con được thấy
Mã Tổ đại cơ, đại dụng, nhưng vẫn không biết Mã Tổ. Nếu con thừa kế Mã Tổ,
về sau mất hết con cháu của con.” Bách Trượng bảo: “Đúng thế, đúng thế,
thấy bằng với thầy là kém thầy nửa đức, thấy vượt hơn thầy mới kham truyền
trao. Con hẳn có cái thấy vượt hơn thầy.” Hoàng Bá liền lễ bái—Foremost
among them Bai-Zhang’s students were Huang-Bo and Kui-Shan. One day
Bai-Zhang said to the congregation: “The Buddhadharma is not a trifling
matter. Formerly great Master Ma-Tzu shouted so loudly that I was deaf for
three days.” When Huang-Bo heard this, he stuck out his tongue. Bai-Zhang
said to him: “In the future, will you carry on Ma-Tzu’s Dharma?” Huang-Bo
said: “There’s no way I could do so. Today, because of what you’ve said,
I’ve seen Ma-Tzu’s great function, but I still haven’t glimpsed Ma-Tzu. If
I carry on Ma-Tzu’s teaching by half, then our descendants will be cut
off.” Bai-Zhang said: “Just so! Just so! The one who is his teacher’s
equal has diminished his teacher by half. Only a student who surpasses his
teacher can transmit his teacher’s teaching. So how does the student
surpass the teacher?” Huang-Bo then bowed.
·
Mỗi ngày Bách Trượng thượng đường dạy chúng, có một ông già
theo chúng nghe pháp. Hôm nọ, chúng ra hết chỉ còn ông già không đi, sư
hỏi: “Ông là người gì?” Ông già thưa: “Con chẳng phải là người. Thời quá
khứ thuở Đức Phật Ca Diếp, con làm Tăng ở núi nầy, nhơn học trò hỏi:
“Người đại tu hành có còn rơi vào nhơn quả chăng?” Con đáp: “Không rơi vào
nhơn quả.” Do đó đến năm trăm kiếp đọa làm thân chồn. Nay thỉnh Hòa Thượng
chuyển một câu cho con thoát khỏi thân chồn. Bách Trượng bảo: “Ông hỏi
đi.” Ông già hỏi: “Người đại tu hành có rơi vào nhân quả hay không?” Bách
Trượng đáp: “Người đại tu hành không lầm (không mê mờ) nhơn quả.” Ngay câu
nói ấy, ông già đại ngộ, làm lễ thưa: “Con đã thoát thân chồn. Con ở sau
núi, dám xin Hòa Thượng lấy lễ mà an táng như một vị Tăng. Sư vào trong
kêu duy na đánh kiểng bảo chúng ăn cơm xong đưa đám một vị Tăng, đại chúng
nhóm nhau bàn tán “Đại chúng đều mạnh, nhà dưỡng bệnh không có người nào
nằm, tại sao có việc nầy?” Sau khi cơm xong, sư dẫn chúng đến hang núi
phía sau, lấy gậy khơi lên thấy xác một con chồn vừa chết, bèn làm lễ
thiêu như một vị Tăng—Every day when Zen master Bai-Zhang spoke in the
hall, there was an old man who would attend along with the assembly. One
day when the congregation had departed, the old man remained. Bai-Zhang
asked him: “Who are you?” The old man said: “I’m not a person. Formerly,
during the age of Kasyapa Buddha, I was the abbot of a monastery on this
mountain. At that time a student asked me: “Does a great adept fall into
cause and effect?” I answered: “A great adept does not fall into cause and
effect.” Thereafter, for five hundred lifetimes I’ve been reborn in the
body of a fox. Now I ask that the master say a turning phrase in my
behalf, so that I can shed the fox’s body. Bai-Zhang said: “Ask the
question.” The old man said: “Does a great adept fall into cause and
effect or not?” Bai-Zhang said: “A great adept is not blind to cause and
effect.” Upon hearing these words, the old man experienced unsurpassed
enlightenment. He then said: “Now I have shed the body of a fox. I lived
behind the mountain. Please provide funeral services for a monk who has
died.” Bai-Zhang then instructed the temple director to tell the monks to
assemble after the next meal for funeral services. The monks were all
mystified by this, because there was no one who was ill in the temple
infirmary, so how could this be? After the meal, Bai-Zhang instructed the
monks to assemble beneath a grotto behind the mountain. He then brought
out the body of a dead fox on his staff, and proceeded to cremate it
according to established ritual.
·
Thiền sư Bách Trượng thị tịch ngày mười bảy tháng giêng năm
814. Sau khi thị tịch sư được vua ban hiệu “Đại Trí Thiền Sư: và tháp hiệu
“Đại Bảo Thắng Luân.”—The master died on the seventeenth day of the first
month in 814. He received the posthumous title “Zen Master Great Wisdom.”
His stupa was named “Great Treasure Victorious Wheel.”
Bách Tứ Thập Bát Bất Cộng Pháp:
Một trăm bốn mươi tám pháp bất cộng của Đức Phật (gồm 32 tướng, 80 chủng
hảo hay vẻ đẹp phụ, 4 tịnh, 10 lực, 4 vô úy, 3 niệm xứ, 3 bất hộ, Đại
Bi, thường bất vong, đoạn phiền não tập, và 4 nhất thiết hạnh tịnh)—One
hundred forty special, or uncommon, characteristics of a Buddha.
Bách Tức Bách Sinh: Một trăm vị
niệm Phật là trăm vị được cứu độ—Of one hundred who call on the Buddha,
100 will be saved.
Bách Vạn Biến: Niệm hồng danh A
Di Đà Phật một triệu lần, không ngừng nghỉ trong bảy ngày để được vãng
sanh Cực Lạc—To repeat Amitabha’s name a million times (to ensure rebirth
in Amitabha’s paradise; for a seven days’ unbroken repetition Paradise may
be gained).
Bách Vị: All the good tastes or
flavours.
Bạch:
1) Màu
Trắng: White.
2) Thanh
Khiết: Pure.
3) Trong
Sạch: Clean.
4) Bộc
Bạch: Làm cho rõ ràng—To make clear.
5) Tác
Bạch: To inform to a higher authority or monk.
Bạch Ẩn Huệ Hạc: Hakuin
1686-1769.
·
Bạch Ẩn Huệ Hạc sanh năm 1686. Ông là một trong những vị
thiền sư nhiều tài năng và sáng chói nhất của Nhật Bản. Bạch Ẩn thường
được gọi là cha đẻ của phái Lâm Tế thời bấy giờ, lý do chỉ một tay ông đã
làm sống lại giáo lý Lâm Tế đã tàn lụi dần, qua sự hệ thống hóa các công
án của ông. Bạch Ẩn chẳng những là một thiền sư xuất chúng, mà ông còn là
một nhà họa sĩ đại tài, một người viết chữ Hán như rồng bay phượng múa, và
một nhà điêu khắc. Sekishu hay “tiếng vỗ của một bàn tay là cái gì?” Đây
là một công án nổi tiếng do ông thiết lập. Bài “Tọa Thiền Ca” (Zazen
Wasan) phổ biến của ông thường được tụng trong các chùa hay thiền viện.
Bài ca bắt đầu: “Tất cả chúng sanh vốn là Phật” và kết thúc: “Chính chốn
nầy là đất sen, chính thân nầy là Phật.”—Bai-In (Hakuin Ekaku) was born in
1686. He was one of the most versatile and brilliant of the Japanese Zen
masters. Hakuin is often called the father of Linn-Chih Sect (Rinzai) at
that time by reason of the fact that he single-handedly revitalized the
Linn-Chih’s teachings, which had been steadily declining, through his
systematization of the koans. Not only was Hakuin an outstanding master,
he was a highly accomplished painter with great talents, calligrapher, and
sculptor. Sekishu, or “What is the sound of one hand?” which he devised,
is the best known koan by a Japanese master. His popular Chant in Praise
of Zazen, frequently recited in Zem temples, begins: “From the beginning
all beings are Buddha” and ends: “This earth where we stand is the pure
lotus land, and this very body, the body of Buddha.”
·
Nham Đầu Toàn Khoát là một cao Tăng đời Đường, bị bọn cướp
giết, khi chết , tiếng rống của ngài nghe xa đến mấy dậm. Khi Bạch Ẩn mới
học Thiền, bi kịch ấy diễn ra trong đời một cao Tăng Thiền đạo hạnh vượt
ngoài tất cả tội lỗi của thế nhân khiến ngài bị chấn động cả tâm thần và
tự hỏi: ‘Thiền có thật là bộ kinh cứu khổ không.’—Yen-T’ou was one of the
great Zen teachers in the T’ang dynasty. But he was murdered by an outlaw,
when his death-cry is said to have reached many miles around. When Pai-In
first studied Zen, this tragic incident in the life of an eminent Zen
master who is supposed to be above all human ailments, troubled him very
much, and he wondered if Zen were really the gospel of salvation.
·
Cũng như Cao Phong (see Cao Phong Diệu Tổ), Bạch Ẩn đã ôm
chữ ‘Vô’ như một công án, cho đến chiều kia khi nghe tiếng chuông chùa từ
xa vọng lại làm cho tất cả sụp đổ tan tành. Bạch Ẩn cho rằng đây chẳng
khác nào như đập bể một bồn nước đá, hoặc xô ngã một ngôi nhà ngọc. Phút
chốc ngài thức tỉnh, và thấy mình chính là Nham Đầu, vị tổ sư thuở trước.
Mọi điều ngờ vực hoang mang từ trước bỗng tiêu tan như băng tuyết gặp vầng
dương. Ngài reo to: “Kỳ thay! Kỳ thay! Không có sanh tử luân hồi nào phải
thoát ra, cũng không có Bồ Đề nào phải dụng tâm cầu được. Tất cả cát đằng
kim cổ một ngàn bảy trăm câu thật chẳng đáng bỏ công đề xướng.”—His
situation was the same as that of Zen master Kao-Fen-Miao-Tsu’s. He had
nothing in his mind but Chao-Chou’s Wu. Until one evening a temple-bell
struck, which upset the whole thing. It was like smashing an ice-basin, or
pulling down a house made of jade. When he suddenly awoke, he found
himself was Yen-T’ou, an old master. Whatever doubts and indecisions he
had before were completely dissolved like a piece of thawing ice. He
called out loudly: “How wondrous! How wondrous! There is no birth and
death from which one has to escape, nor is there any supreme knowledge
(Bodhi) after which one has to strive. All the complications past and
present, numbering one thousand seven hundred are not worth the trouble of
even describing them.”
·
Bạch Ẩn là một nhà canh tân lớn của Thiền phái Lâm Tế. Ông
cũng tự coi mình thuộc dòng hậu duệ của Thiền sư Viên Ngộ. Người ta biết
đến ông chủ yếu qua việc công bố hai bộ sưu tập nổi tiếng Bích Nham Lục và
Vô Môn Quan. Những chú giải và nhận xét của ông về khoảng 100 công án
thiền do Thiền sư Tuyết Đậu Trùng Hiển thu thập, trong đó mỗi công án đã
có một lời ca ngợi, đã làm cho Bích Nham Lục trở thành một trong những tác
phẩm chính của văn học Thiền và một trong những phương tiện đào tạo có
hiệu quả nhất—Hakuin, the great renewer of Linn-Chih Zen in Japan, was in
the lineage of transmission stemming from Yuan-Wu. Yuan-Wu himself is
known primarily as the editor of the Pi-Yen-Lu, together with the
Wu-Men-Kuan, one of the best known koan collections. His instructions,
incidental remarks, and explanations on the hundred koans collected and
provided with praises by Master Ch'ung-Hsien make the Pi-Yen-Lu one of the
greatest works of Zen literature and one of the most helpful for training
students.
·
Ông thị tịch vào năm 1769—He died in 1769 A.D.
Bạch Báo: Quả báo của cuộc sống
thiện lành—Pure reward or the reward of a good life.
Bạch Chân: Đưa ra những tin tức
xác thực—To lay a true information.
Bạch Chiến: Cuộc chiến không có
vũ khí—A fighting without weapons.
Bạch Chiết: Giết bằng tay
không—Killing with bare hands.
Bạch Cốt: Xương trắng của người
quá vãng—Bones of the dead.
Bạch Cung: The White House.
Bạch Diện Thư Sinh:
Inexperienced student
Bạch Đàn: Loại gỗ chiên đàn
trắng—White sandal wood.
Bạch Đạo: White path—Thiện đạo
Bạch Đinh: Commoner.
Bạch Đức Thế Tôn: World
Honoured One !
Bạch Hạc: White cranes.
Bạch Hào: Theo kinh điển Đại
Thừa, thì đây là ánh hào quang giữa đôi mày của Phật, từ nơi đó Phật phóng
ra những hào quang chiếu rọi khắp các thế giới—According to the Mahayana
sutras, this is the curl between Sakyamuni’s eyebrows, from where he sends
out a ray of light which reveals all worlds.
Bạch Hào Chi Tứ: Như Lai để lại
một phần công đức của tướng bạch hào để cúng dường các đệ tử ở thời Mạt
Pháp—A gift from the White-curled One for his disciples in the
Ending-Dharma Age.
Bạch Hắc: White and dark.
Bạch Hắc Bố Tát:
1) Light
and dark uposatha.
2) The
observing of the waxing and the waning moon.
Bạch Hắc Nghiệp: Good and evil
deeds or karma.
a) Bạch
Nghiệp: Good karma.
b) Hắc
Nghiệp: Evil karma.
Bạch Hắc Nhị Thử: Hai con chuột
trong bài ngụ ngôn, ví với ngày và đêm, mặt trời và mặt trăng (theo Tân
Đầu Tư Đột La Xà Vị Ưu Đà Diên Vương Thuyết Pháp Kinh, ngày xưa có người
đi trên khu đất rộng hoang vắng gặp một con voi dữ đuổi riết theo. Người
ấy cuống cuồng chạy trốn, đang khi không biết ẩn nấp vào đâu bỗng gặp một
cái giếng, anh ta liền bám vào rễ cây định tụt xuống để ẩn nấp, không ngờ
có đôi chuột, một trắng, một đen, đang cắn gốc cây, bốn phía bên dưới có
bốn con rắn độc phóng tới định cắn anh ta. Ở dưới đáy giếng lại có con
rồng đang chờ đợi, xung quanh thì sợ bốn con rắn, dưới đáy thì sợ rồng dữ,
cái cây đang bám lại bị hai con chuột gặm sắp đứt. Lúc đó từ trên cây có
ba giọt mật ong rơi vào miệng anh ta. Vì cây lay động đến tổ ong nên bầy
ong bay ra chích tới tấp vào anh ta, bỗng chốc có lửa ở đâu ào tới đốt
cháy cành cây. Khu đất rộng ví với sanh tử, người đàn ông ví với phàm phu,
con voi ví với vô thường, cái giếng ví với thân người, cái cây ví với mạng
người, chuột đen trắng ví với đêm ngày, gốc cây bị cắn ví với thời gian
vùn vụt bay đi, bốn con rắn ví với tứ đại, mật ong ví với ngũ dục, đàn ong
ví với giác quan, lửa ví với già nua, và rồng dữ ví với sự chết)—The two
mice in the parable , one white, the other black, gnawing at the rope of
life, i.e. day and night, or sun and moon.
Bạch Kim: Platinum.
Bạch Lạc Thiên:
Pai-Yueh-T’ien—Một nhà thơ lớn đời nhà Đường. Khi làm quan, trong huyện có
một thiền sư nổi tiếng với biệt danh là Ô Sào Thiền Sư, vì sư thường hay
tọa thiền trên các cành cây chi chít. Thấy vậy Bạch Lạc Thiên bèn bảo vị
thiền sư: “Chỗ thầy ngồi trên cây thật là nguy hiểm.” Sư đáp: “Chỗ của ông
còn nguy hiểm hơn nhiều.” Bạch Lạc Thiên đáp lại: “Tôi là quan tri huyện,
tôi thấy chỗ ấy có gì là nguy hiểm?” Sư đáp: Vậy là tại ông không biết đó
thôi. Khi lòng dục ông bừng lên và tâm ông không vững, thì còn gì nguy
hiểm hơn?” Thế rồi Bạch Lạc Thiên lại hỏi tiếp: Phật giáo dạy điều gì?” Sư
tụng bốn câu kệ nổi tiếng:
“Không làm các
điều ác,
Làm các điều
lành,
Giữ tâm ý trong
sạch,
Ấy lời chư Phật
dạy.”
Tuy nhiên, Bạch Lạc Thiên
phản đối nói rằng: “Cái đó đứa trẻ lên ba cũng biết và nói được.” Thiền sư
ngồi trên cây bèn đáp lại: “Ờ thì đứa trẻ lên ba cũng biết và nói được,
nhưng ông lão tám mươi vẫn chưa làm được.”
—Pai Yueh-T’ien was a
great poet during the T’ang dynasty. When he was a governor in a district,
there was a Zen master who was living within his jurisdiction popularily
known as the “Bird’s Nest,” for he used to practice his meditation on a
seat made of thickly growing branches of a tree. Seeing this
Pai-Yueh-T’ien told the Zen master: “What a dangerous seat you have up in
the tree!” Yours is far worse than mine, retorted the master.
Pai-Yueh-T’ien responded: “I am the governor of this district and I don’t
see what danger there is in it.” “Then you don’t know yourself! When your
passions burn and your mind is unsteady, what is more dangerous than
that?” Pai-Yueh-T’ien then asked: “What is the teaching of Buddhism?” The
master recited this famous stanza:
“Not to
commit evils,
To
practice all good,
And to
keep the heart pure,
This the
teaching of the Buddhas.
Pai-Yueh-T’ien,
however, protested: “Any child three years old can know and say that.”
“Yes, any child three years old may know and say it, but even an old man
of eighty years finds it difficult to practice.” So concluded the Zen
master up in the tree.
Bạch Liên: White Lotus.
Bạch Liên Giáo: Một giáo phái
(có thể là tà giáo?), được thành lập vào cuối đời nhà Nguyên, nói rằng
Phật Di Lặc sẽ hạ sanh với bông sen trắng nở, và ngày cứu đời. Giáo phái
nầy phát triển thành một cuộc cách mạng ảnh hưởng đến sự đánh đuổi quân
Mông Cổ ra khỏi Trung Hoa và sự thiết lập Minh Triều về sau nầy. Dưới thời
nhà Thanh, giáo phái nầy sống lại dưới những tên khác nhau (Thanh Thủy,
Bát Quái, Vinh Hoa, Hồng Dương, Bạch Dương, Thanh Liên, Hồng Liên) và đã
gây ra những cuộc nổi dậy chống Thanh Triều—The White Lily Society, set up
near the end of the Yuan dynasty, announcing the coming of Maitreya, the
opening of his white lily, and the day of salvation at hand. It developed
into a revolution which influenced the expulsion of the Mongols and
establishment of the Ming dynasty. Under the Ch’ing dynasty it was
resurrected under a variety of names, and caused various uprisings.
Bạch Liên Hoa: Pundarika
(skt)—Phân Đà Lợi—Bông sen trắng—The white lotus.
** For more information,
please see
Phân Đà Lợi.
Bạch Liên Hoa Tọa: Tòa sen
trong đệ nhất viện của Thai Tạng giới—The lotus throne in the first court
of Garbhadhatu.
Bạch Liên Hoa Xã: Bạch Liên Chi
Giao—Liên Xã—Bạch Liên Xã—Do Pháp Sư Huệ Viễn đời nhà Tấn thành lập vào
khoảng đầu thế kỷ thứ tư sau Tây Lịch. Ông cùng 123 vị khác thề trước bàn
thờ Phật để tu Tịnh Độ Tây Phương, và trồng sen trắng làm biểu tượng. Bạch
Liên Xã quy tụ hơn 3.000 người, trong đó có 123 vị được tôn là bậc Hiền.
Trong số 123 bậc Hiền lại có 18 bậc Thượng Thủ gọi là Đông Lâm Thập Bát
Đại Hiền—A society formed early in the fourth century A.D. by Hui-Yuan,
who with 123 notable, literati, swore to a life of purity before the image
of Amitabha, and planted white lotuses in symbol. The White Lotus
Congregation composed of more than 3,000 Buddhists. Among them, 123 were
honored as the Vitruous and eighteen of them were considered as the
Highest Virtues. They were often referred as Đông Lâm Temple’s Eighteen
Greatly Virtuous Beings.
** For more information,
please see Đông
Lâm Thập Bát Đại
Hiền.
Bạch Liên Hội: White Lotus
society.
Bạch Liên Thái: Một trường phái
ăn chay vào đời nhà Tống của Mao Tử Nguyên—The Sung vegetarian school of
Mao-Tzu-Yuan.
Bạch Lộ Trì: Ao Cò Trắng trong
thành Vương Xá, một cảnh nổi tiếng khi Đức Thế Tôn giảng phần thứ 16 từ
quyển 593 đến quyển 600 trong Kinh Bát Nhã, nên còn gọi là Bạch Lộ Trì
Kinh—The White Heron Lake in Rajagrha, the scene of sakyamuni’s reputed
delivery of part of the Mahaprajnaparamita-sutra, from book 593 to book
600, the last of the 16 assemblies of this sutra, which is also called The
White Heron Lake Sutra.
Bạch Lộ Trì Kinh: The White
Heron Lake Sutra—See Bạch Lộ Trì.
Bạch Mã Chủ: Svetavajin—Lord of
white horses (drawn by white horses).
Bạch Mã Tự: Chùa Bạch Mã được
vua Hán Minh Đế dựng lên và cho người sang Ấn Độ tìm hai vị sư nổi tiếng
là Matanga và Gobharana về trụ trì vào khoảng năm 64 sau Tây Lịch thời Hậu
Hán. Chùa tọa lạc trong thành Lạc Dương, tỉnh Hồ Nam, về phía tây của cổ
thành, phía đông của thành mới bây giờ. Theo tương truyền thì vào cuối thế
kỷ thứ hai sau Tây Lịch, những kinh mang về từ Ấn Độ được chở trên những
xe ngựa trắng nên từ đó chùa có tên là Bạch Mã. Đây cũng là nơi mà giáo
đoàn truyền giáo đầu tiên của đạo Phật lưu trú. Cũng có truyền thuyết cho
rằng chùa nầy được dựng lên để tưởng nhớ hai vị A La Hán Tỳ Kheo đã đến
Trung Hoa hoằng Pháp bằng ngựa trắng—The White Horse Temple (Monastery)
recorded as given to the Indian monks, Matanga and Gobharana, who are
reputed to have been fetched from India to China in 64 A.D. The temple was
in Honan, in Lo-Yang, the capital; it was west of the ancient city, east
of the later city in Later Han dynasty. According to tradition,
originating at the end of the second century A.D., the White Horse Temple
was so called because of the white horse which carried the sutras they
brought back from India. Also according to tradition, the first
missionaries dwelt. Some said this temple was built in memory of the two
Arhat Bhikshus who came to China on ‘white horses’ to propagate the
Buddha-Dharma.
Bạch Nguyệt: Suklapaksa
(skt)—Bạch Phần—Trăng sáng, thường chỉ ánh trăng của nửa tháng đầu, đối
lại với hắc phần hay ánh trăng tối của nửa tháng sau (từ ngày bắt đầu có
trăng đến ngày trăng tròn)—The bright moon, usually the moon light during
the first half of the month, in contrast with the krsnapaksa dark or
latter half.
Bạch Ngưu: A white ox.
Bạch Ngưu Xa: Xe Trâu
Trắng—Nhứt Thừa cứu độ chúng sanh—White bullock cart—The one universal
vehicle of salvation.
** For more information,
please see
Hỏa Trạch.
Bạch Ngưu Vô Giác: A hornless
white ox or a white horse.
Bạch Nhất Yết Ma:
Jnaptidvitiya-karmavacana (skt)—Bạch Nhị Yết Ma.
1) Bạch
Nhất: Một lần bạch—Mỗi khi trong tự viện có pháp sự thì Tăng chúng họp lại
để đệ trình đề nghị—To meet with the body (assembly) of monks to submit
the proposal or work to be undertaken during a ceremony.
2) Yết
Ma: Tăng chúng họp bàn, cân nhắc và giải thích xem coi đề nghị có nên được
thực hành hay không—The assembly of monks discuss, consider and explain as
to how the proposal or work would be undertaken.
Bạch Nhị Yết Ma: See Bạch Nhất
Yết Ma.
Bạch Nhựt: Daylight.
Bạch Phạn Vương: Suklodana-raja
(skt)—Hoàng tử con thứ hai của vua Sư Tử Giáp Vương; em trai vua Tịnh
Phạn; là cha của Đế Sa, Đề Bà Đạt Đa, và Nan Đề Ca—A prince of
Kapilavastu, second son of Simhahanu; younger brother of King Suddhondana
(father of Siddhartha); father of Tisya, Devadatta and Nandika.
Bạch Phần: Suklapaksa (skt)—See
Bạch Nguyệt.
Bạch Phật: To tell the Buddha.
Bạch Sắc Bạch Quang: White
colored white light.
Bạch Tán: Tán thán Đức Như
Lai—To speak praises to the Buddha.
Bạch Tản Cái Phật Đảnh: Tàng
lọng trắng trên đỉnh đầu của Phật mang ý nghĩa tịnh đức của Phật là vị
chuyển luân vương che mát tất cả chúng sanh—The white umbrella or canopy
over the head of Buddha, indicating him as a cakravarti, or wheel-king.
Bạch Tặc: Cướp bằng tay không
và không để lại dấu vết gì cả—Robbing with bare hands and without leaving
a trace.
Bạch Tâm: Một cái tâm hay lương
tâm trong sáng—A clear heart or conscience.
Bạch Thủy Thành: Isfijab—Thành
phố nằm bên dòng Bạch Thủy, một phụ lưu của sông Jaxartes ở
Turkestan—White-river town in Turkestan, situated on a small tributary of
the Jaxartes.
Bạch Trùy: Kiền trùy để gõ mỗi
khi muốn thưa việc hay muốn giữ sự im lặng trong tự viện—The informing
baton or hammer, calling attention to a plaint, or for silence to give
information in a monastery.
Bạch Túc Hòa Thượng: Vị hòa
thượng chân trắng, đệ tử của ngài Cưu Ma La Thập—The white-foot monk, a
disciple of Kumarajiva.
Bạch Tứ Yết (Kiết) Ma: Hội đồng
tứ Tăng về những vấn đề nghiêm trọng (trong Tăng chúng khởi hành sự vụ hay
thọ giới, trước hết báo cáo với Tăng chúng về sự việc ấy gọi là bạch; sau
đó dò hỏi ba lần xem sự việc ấy nên chăng rồi mới làm gọi là tam yết
ma)—To consult with an assembly of four monks on matters of grave moment
and obtain their complete assent.
Bạch Tượng: Voi sáu ngà đã đưa
Phật Thích Ca vào bụng Hoàng Hậu Ma Da từ cung trời Đâu Xuất. Tất cả chư
Phật đều giáng trần bằng phương cách nầy—The six-tusked white elephan
which bore the Buddha on his descent from the Tusita heaven into Maya’s
womb, through her side. All Buddhas descend the world in similar fashion.
Bạch Vân Môn: See Bạch Vân
Tông.
Bạch Vân Thủ Đoan: See Thủ Đoan
Bạch Vân Thiền Sư.
Bạch Vân Tông: Một tông phái
Phật giáo được thành lập tại Am Bạch Vân thuộc tỉnh Hàng Châu vào đời nhà
Tống; môn đệ của tông phái nầy được gọi là Bạch Vân Thái (vì tất cả đệ tử
trong am Bạch Vân đều trường chay)—A Buddhist school formed in the White
Cloud monastery during the Sung dynasty; its folowers were known as the
White Cloud vegetarians.
Bạch Xứ Quán Âm: See Đại Bạch
Y.
Bạch Y:
1)
Avadata-vasana (skt)—Hàng áo trắng (nói về Phạm thiên và những người thuộc
giai cấp cao), nhưng bây giờ danh từ nầy là dành cho người thường, đặc
biệt là những người Phật tử tại gia—White clothes (said to be that of
Brahmans and other high-class people), but now the term is used for common
people, especially laity or lay men.
2) Bạch Y
Quán Âm: See Đại Bạch Y.
Bạch Y Đại Sĩ: Pandaravasini
(skt)—Bán Nã La Phạ Tất Ninh—Bạch Y Quán Âm trên Bạch Liên Hoa (thường mặc
áo trắng ngự trên đóa sen trắng)—The white-robed form of Kuan-Yin on a
white lotus—See Đại Bạch Y.
Bái:
1) Bái
biệt: To say good-bye.
2) Lạy:
To bow—To pay homage to—To pay respect with the hands.
Bái Ân: To thank for.
Bái Chào: To salute.
Bái Đáp: To answer
respectfully.
Bái Kiến: To pay a visit to a
superior.
Bái Nghênh: To welcome
respectfully.
Bái Phật: To worship the
Buddha—To pay homage to the Buddha’s image.
Bái Sư: To greet the new
teacher respectfully.
Bái Từ: To leave respectfully.
Bái Yết: To visit respectfully.
Bài Bác: To criticize—To
object.
Bài Bác Nhân Quả: To denigrate
the rule of “Cause and Effect.”
Bài Kinh: Scripture.
Bài Luận:
Essay—Composition—Theme.
Bài Pháp Đầu Tiên: Sau khi Phật
đạt được đại giác tại Bồ Đề Đạo Tràng, Phật đã đi qua khắp nẻo Ấn Độ, khi
Ngài đến vườn Lộc Uyển gần thành Ba La Nại, nơi đó Ngài đã thuyết thời
pháp đầu tiên cho năm vị tu khổ hạnh. Bài pháp thuyết về Trung Đạo, Tứ
Diệu Đế và Bát Thánh Đạo—The first sermon—After the Buddha’s enlightenment
at Buddha Gaya, he moved slowly across India until he reached the Deer
Park near Benares, where he preached to five ascetics his First Sermon.
The sermon preached about the Middle Way between all extremes, the Four
Noble Truths and the eight Noble Paths.
Bài Trừ: To get rid of.
Bài Vị: Ancestral tablet
Bài Xích: To boycott
Bãi: Ngừng—To cease—To
stop—Mark of finality.
Bãi Bỏ: To abolish—To annul—To
cease—To stop—Mark of finality.
Bãi Tham: To dismiss the
assembly.
Bại:
Failure—Subvert—Defeat—Spoiled—Ruin—Destroy.
Bại Căn: Còn gọi là Bại Chủng.
Rễ mục, có nghĩa là căn hay chủng tử xấu, chỉ những kẻ không tu hành Phật
quả, mà chỉ an lòng với những quả báo khổ hạnh—Spoiled roots or seed, i.e.
those who do not seek Buddhahood, but are content with the rewards of
asceticism.
Bại Chủng: See Bại Căn.
Bại Hoại: Corrupted—Spoiled.
Bại Hoại Bồ Tát: Bồ Tát không
thành Phật mà lại sanh vào những cảnh giới thấp như vua, thái tử hay long
vương—Bodhisattvas who defeat their proper end of becoming Buddha, and who
are reborn in lower positions, e.g. as kings or princes, or as
dragon-kings, etc.
Bại Luân: Immoral—Corrupted
morals.
Bại Sự: Failed affair.
Bại Tục: Corrupted customs.
Bại Vong: Loss.
Bám Víu: Clinging—To cling to
Bám Víu Vào Cuộc Sống: Cling to
our life
Bám Víu Vào Thân Xác: Cling to
our body—To hold to
Ban:
1) Đốm:
Spotted—Striped.
2) Nhóm:
Band.
3) Thứ
lớp: Class—Rank.
Ban Cho: To give—To award—To
bestow—To endow—To grant.
Ban Đầu: At the beginning—At
first.
Ban Hành: To enact—To enforce.
Ban Khen: To compliment.
Ban Quản Trị: See Ban trị sự.
Ban Phước: To bless
Ban Ơn: To grant a favor.
Ban Sơ: See Ban đầu.
Ban Tặng: To gratify.
Ban Thiền Lạt Ma: Chức Ban
Thiền Lạt Ma là chức vị thứ hai sau Đức Đạt Lai Lạt Ma của Phật Giáo Tây
Tạng. Vị Ban Thiền Lạt Ma ngự tại điện Tashilhumpo hay Luân Bố Miếu, trong
thành Nhựt Cáp Tắc. Vào năm 1640 vị Đạt Lai Lạt Ma thứ năm, nhờ sự trợ lực
của Mông Cổ, đã nắm trọn quyền hành chánh và tôn giáo trong nước, ngài bèn
tôn vinh vị Thầy của mình chức Ban Thiền Lạt Ma, và xây dựng điện Trát
Thập Luân Bố cho ngài. Khi vị Ban Thiền Lạt Ma nầy thị tịch, một vị khác
(một đứa trẻ) được tìm thay thế, giống như trường hợp của chức vị Đạt Lai
Lạt Ma, nhưng vị Lạt Ma tương lai sẽ không được dân chúng thừa nhận cho
đến khi nào vị nầy qua được những cuộc khảo nghiệm của các ủy viên hội
đồng Phật Giáo Tây Tạng—The Tibetan Panchen-Lama ranks second only to the
Dalai-Lama among the Grand Lamas of the Gelugpa School of Tibetan
Buddhism. His seat is in the Tashilhumpo Monastery at Shigatse. In 1640,
the fifth Dalai Lama, with the aid of the Mongols, having acquired
temporal as well as spiritual control of the whole country, honoured his
own tutor with the title of Panchen Lama (a learned Lama), and built the
Tashilhumpo Monastery for him. On the death of the title-holder, the new
Lama is found in the body of a small child, as in the case of the Dalai
Lama, and no new Lama is recognized as such by the people until examined
and appointed by a Tibetan commission appointed for the purpose.
** For more information,
please see Dalai-
lama in
Sanskrit/Pali-Vietnamese Section.
Ban Thưởng: To reward—To
recompense.
Ban Trị Sự: Board of directors.
Ban Túc Vương: Kalmasapada
(skt)—Còn gọi là Ca Ma Sa Ba Đà, dịch là Ban Túc Vương hay Lộc Túc Vương,
là vị vua có đốm dưới chân, người ta nói ngài là tiền thân của Đức Phật
(theo Kinh Hiền Ngu, vị vua nầy từng theo giáo lý của tà sư, muốn lấy được
đầu của 1000 vị quốc vương khác để được đắc đạo. Khi đã lấy được 999 đầu,
chỉ còn thiếu một đầu nữa thì gặp Phổ Minh Vương. Minh Vương xin gia hạn
một ngày để đặc ra hội Bách Thiên Vương. Trong Bách Hội, Phổ Minh nghe
được bốn bài kệ vô thường liền chứng được “Hư không đẳng định,” riêng Ban
Túc Vương thì chứng “Không tam muội.” Ban Túc Vương chính là tiền thân của
Ương Quật Ma La (Anguli-malya)—The king with the marks on his feet,
Kalmasapada, said to be the name of a previous incarnation of the Buddha.
Bán: Pan (skt)—Pun (skt)—Half.
Bán Ca: Panthaka (skt)—Bàn Đà
Già—Bàn Đặc—Người được sanh ra bên vệ đường, một trong những đại đệ tử của
Phật—One who was born on the road, one of the great disciples of Sakyamuni
Buddha.
Bán Chỉ Ca: Pancika (skt)—Dạ
Xoa thứ ba trong Bát Đại Dạ Xoa, là chồng của Quỷ Tử Mẫu—The third of the
eight great yaksas, husband of Hariti.
Bán Già Phu Tọa: Kiểu ngồi bán
già, kiểu ngồi của chư Bồ Tát, bàn chân nầy để lên đùi chân kia, hay ngược
lại (chân trái để bên trên đùi phải và chân phải bên dưới đùi trái, hai
đầu gối chạm chiếu dưới đất, để giúp hai đầu gối chạm đất dễ dàng chúng ta
có thể đặt một cái gối mỏng bên dưới hai đầu gối), khác với kiểu ngồi kiết
già của chư Phật (hai bàn chân để lên hai bắp đùi)—A Bodhisattva’s form of
sitting, one foot on the thigh of the other or vice versa (left foot over
right thigh and right foot under left thigh, both knees touching mat, to
facilitate the knees resting on the mat, it may be necessary to use a thin
suport cushion under the regular round one), different from the completely
cross-legged form of a Buddha (with right foot over left thigh and left
foot over right thigh).
Bán Giả Bồ Thiện Ni:
Pancabhojaniya (skt)—Bán Giả Bồ Xà Ni—Ngũ Hám Thực hay Ngũ Chính Thực hay
năm loại thực phẩm chính—The five regular articles of food:
1) Cơm
gạo trắng: Rice.
2) Lúa
mì: Wheat
3) Cá:
Fish.
4) Thịt:
Flesh.
5) Bánh:
Parched rice or Cakes.
Bán Giả Kha Đản Ni:
Pancakhadaniya (skt)—Bán Già Khư Đản Ni—Bán Giả Khư Xà Ni—Ngũ tước thực
hay năm món ăn phụ có thể dùng răng tước ra mà ăn—The five chewing foods,
not regular foods:
1) Rễ:
Roots.
2) Thân
cây: Stems.
3) Lá:
Leaves.
4) Hoa:
Flowers.
5) Quả:
Fruits.
Bán Giả Khư Đản Ni: See Bán Giả
Kha Đản Ni.
Bán Giả Khư Xà Ni: See Bán Giả
Kha Đản Ni.
Bán Khai: Semi-civilized.
Bán Mãn Giáo: Tiểu Thừa Đại
Thừa Bán Mãn Giáo—The half and the complete doctrines—Hinayana and
Mahayana.
Bán Nguyệt Kỳ Tụng Giới: Tụng
giới mỗi nửa tháng cho chư Tăng Ni và Tại gia Bồ Tát giới. Theo luật tạng,
lễ tụng giới bằng cách công khai nhận tội và sám hối. Tuy nhiên, trên thực
tế thì nghi thức nầy bị phế bỏ, và sự nhận tội cũng như sám hối thường
được tổ chức riêng trước bàn thờ Phật—Semi-monthly service for recitation
of precepts, for either the Bhiksu, Bhiksuni or Bodhisattva precepts.
According to the Vinaya, the recitation should be preceded by a public
confession of transgressions. However, in practice, this kind of service
is often omitted, as confession is always done privately before the Buddha
Altar.
Bán Siêu: Một chúng sanh cõi
trời bằng tinh tấn tu hành đã nhảy vọt từ cõi trời thứ nhứt qua cõi trời
thứ mười ba trong mười sáu cõi trời sắc giới—A deva who by devotion
advances by leaps, escaping from one to thirteen of the sixteen heavens of
form.
Bán Thác Ca: Panthaka (skt)—See
Bán Ca.
Bán Thiên Bà La Môn: Chủng loại
ngạ quỷ—Half brahmans (a term for hungry ghosts).
Bán Tín Bán Nghi: To be
doubtful—To be undecided.
Bán Trai: Nửa ngày thọ
trai—Half a day’s fast (fasting all day but also eat something at night).
Bán Tự:
1) Ám chỉ
người chưa thọ giới tròn đầy, như Sa Di hay người tại gia chỉ giữ năm hay
tám giới mà thôi: The term is used to indicate those who don’t receive
full-ordination, i.e. lay people or sramaneras, keep only five or eight
commandments.
2) Nửa
chữ: Half a character, a letter of the alphabet—Half a word—Incomplete
word.
3) Tiểu
Thừa: Hinayana.
Bán Tự Giáo: Tiểu Thừa Giáo—The
Hinayana.
Bán Tự Mãn Tự:
1) Tiểu
Thừa Bán Tự: Hinayana is likened to “Half A Character.”
2) Đại
Thừa Mãn Tự: Mahayana is likened to a complete word.
Bàn:
1) Cái
dĩa: A dish—A plate.
2) Tảng
đá lớn: A big rock.
Bàn Cãi:
Diliberation—Discussion.
Bàn Đà Già: Panthaka (skt)—See
Bán Ca.
Bàn Đà Vị: Vandani (skt)—Tán
thán—To praise—To adore.
Bàn Đặc: Panthaka (skt)—See Bán
Ca.
Bàn Đầu: Pandu (skt)—Cha của
Vaipasyin, vị Phật thứ 998 của hiền kiếp—Father of Vipasyin, the 998th
Buddha of the last kalpa.
Bàn Già: Vac (skt)—Lời
nói—Speech—Talk.
Bàn Giao: To change over.
Bàn Giấy: Desk—Bureau.
Bàn Hương Án: Altar.
Bàn Luận: To discuss—To
dispute.
Bàn Luận Xong: To have setled
the issue.
Bàn Soạn: To discuss—To
consult.
Bàn Tán: To discuss and
comment.
Bàn Thạch Kiếp: Một kiếp rất
dài, ví với ngọn núi đá lớn. Có một ngọn núi đá dài 40 dậm, cứ mỗi trăm
năm lại lấy vải áo của chư Thiên (Thiên y hay áo trời) chà vào núi một lần
rồi thôi, 100 năm sau mới đến chà vào một lần nữa, cứ chà như thế cho đến
khi nào núi mòn hết là xong một Bàn Thạch Kiếp—The rock kalpa, a very long
kalpa. Let a rock 40 miles in extent be brushed once in a hundred years by
a deva garment, that’s all and then do it again exactly 100 years later.
This practice is continue until the rock is completely worn down to
nothing (when brushed away the kalpa is ended). A kalpa as measured by
the time it would take to wear away an immense rock by rubbing it with a
deva-garment (the time it takes to do this is called a ‘rock kalpa.’
Bàn Thờ Phật: The altar of the
Buddha.
Bàn Tọa: Ngồi xếp bằng—To sit
with folded legs.
Bản:
1) Một
miếng ván: A board.
2) Miếng
ván đánh để thông báo giờ cơm trong tự viện: A board struck for calling
everybody to gather for meals in a monastery.
Bản Án: Judgment.
Bản Chất: Nature—Essence.
Bản Chất Cuộc Đời: The nature
of life
Bản Chất Thưc Sự: The true
nature
Bản Chất Bất Hạnh Của Cuộc Sống:
The unhappy nature of life
Bản Chất Bất Toại: Unsatisfied
nature
Bản Chất Thường Còn:
Permanent entity.
Bản Hoài: One’s intention.
Bản Kinh Phật: The Buddhist
Canon book.
Bản Lai Diện Mục: Original face
or Buddha-nature.
Bản Năng: Instinctive
tendencies—Instinct—Instintive—Instinctively.
Bản Ngã: Sự tin tưởng vào bản
ngã dẫn tới vị kỷ và dục vọng, do đó làm cản trở việc thực chứng về tính
đồng nhứt của đời sống cũng như việc đạt được đại
giác—Ourselves—Atman—Soul—Ego—The belief in ego creates and fosters egoism
and desire, thus preventing the realization of the unity of life and the
attainment of enlightenment.
Bản Ngã Tương Hợp:
Self-compatible.
Bản Sanh Ngã Chấp: The natural
or instinctive cleaving to the idea of self or soul.
Bản Tánh: One’s own nature—The
spirit one possesses by nature—The Buddha within.
Bản Tâm: Inner self.
Bản Tế: See Foundation of Earth
in English-Vietnamse Section.
Bản Thân: Oneself.
Bản Thể: Substance.
Bản Thể Nội Tại: Intrinsic
essence—See Chơn Ngã.
Bạn:
1) Bạn
bè: Friends—Companion—Associate.
2) Bờ: A
path between fields, or boundary.
Bạn Cố Tri: Old friend.
Bạn Cùng Tu: See Bạn đồng tu.
Bạn Dạ: Đêm trước lễ Trà Tỳ
(hỏa táng) là đêm chư Tăng trong tự viện quan sát thần thức của vị Tăng
mới tịch nầy (đêm dài không ngủ của chư Tăng vì kết bạn với thần linh)—To
watch with the spirit of a departed monk the night before the cremation.
Bạn Đạo: Dharma friends.
Bạn Đi Đường: Fellow-traveller.
Bạn Điệp Bà: Vatya (skt)—Đại
phong tai—A great calamitous wind.
Bạn Đồng Tu: Fellow cultivator.
Bạn Tăng: Các vị Tăng đồng
tu—Associate or accompanying monks.
Bạn Thân: Intimate friend.
Bạn Xuất Gia: Dharma colleagues
or friends.
Bang Giao: Relationship.
Bang Trợ: To aid—To help.
Báng: Phỉ báng—To speak ill
of—To defame—To ridicule—To slander.
Báng Pháp: Phỉ báng giáo pháp
(một trong hai loại xiển đề, còn gọi là “Đoạn Thiện Xiển Đề”)—To slander
the Truth.
** For more information,
please see Nhị
Chủng Nhất Xiển Đề
(1).
Báng Tam Bảo Giới: Một trong
những giới luật cấm nói xấu Tam Bảo—One of the commandments against
speaking falsely of the Three Precious Ones.
Bàng: Bên
cạnh—Near—Adjoining—Side—Dependent—Beside.
Bàng Hoàng: Confused—Perplexed.
Bàng Long Uẩn: Bàng Long Uẩn,
một cư sĩ nổi tiếng. Đây là những bài kệ nổi bậc của ông—Ban-Lung-Yun, a
famous lay-follower. Here are his some outstanding verses:
·
“Thập phương đồng tụ hội
Cá cá
học vô vi
Thử thị tuyển Phật trường
Tâm không cập đệ qui.”
(Mười phương đồng tụ hội
Mỗi người học vô vi
Đây là trường thi Phật
Tâm không thi đậu về).
“We have gathered from ten directions
To learn the concept of non-birth and
non-annihilation.
This life is a testing-to-become-Buddha
center
Those who have acquired the mind of
emptiness will return home with glory
and joy.”
·
“Hữu nam bất thú
Hữu nữ
bất giá
Đại gia
đoàn biến đầu
Cộng
thuyết vô sanh thoại.”
(Có con
trai không cưới vợ
Có con
gái không gã chồng
Cả nhà
cùng đoàn tụ
Đồng nói
lời vô sanh).
“We have
a single son,
And an
unmarried daughter.
The
whole family is gathering,
To talk
about the unborn.”
Bàng Môn Tả Đạo: Belonging to
external and false cults.
Bàng Nhân: Bystanders.
Bàng Quan: Spectator—Looker-on.
Bàng Sinh: Tiryagyoni (skt)—Một
trong nhiều hình thức của sanh. Phật gọi súc sanh là bàng sanh, là loại
chúng sanh lúc đi thì đi ngang và bụng hướng về mặt đất, do quả báo của
những tội lỗi đời quá khứ—One of many forms of birth, rebirth as an
animal, born as an animals; born to walk on one side, i.e. belly
downwards, because of sin in past existence.
Bàng Sanh Thú: Một trong lục
thú, con đường của súc sanh—The animal path, that of rebirth as an animal,
one of the six gati.
** For more information,
please see Lục Đạo.
Bảng: A placard.
Bao:
1) Bâu
áo: Lapel.
2)
Posadha (skt)—Tán thán—Ngợi Khen—To Praise—Salutation.
Bao Dung: To tolerate.
Bao Gồm: To comprise.
Bao La: Vast—Immense.
Báo:
(A) Nghĩa của
Báo—The meanings of Recompenses:
1) Đền bù
hay Trả lại: Recompense—To give back—To acknowledge—To requite—Punishment.
2) Báo
ân: To thank.
3) Báo
cáo: To report.
4) Thông
báo: To announce.
(B) Phân loại
Báo—Có ba loại quả báo—Categories of Recompenses—There are three kinds of
recompenses:
1) Hiện
báo: Quả báo hiện đời cho những việc làm trong hiện kiếp—Recompense in the
present life for deeds done now.
2) Đương
báo: Quả báo trong kiếp tái sanh cho những việc làm trong hiện
tại—Recompenses in the next rebirth for deeds done now.
3) Hậu
báo: Quả báo cho hậu kiếp—Recompenses in subsequent life.
Báo Ân: Báo đáp công ân—To
return thanks—To render thanks—Acknowledge or requite favours.
Báo Ân Điền: Một trong ba loại
ruộng phước (phước điền), cha mẹ, sư trưởng, vân vân, những người có công
nuôi nấng dạy dỗ chúng ta. Báo đáp được công ân nầy thì chúng ta sẽ có vô
lượng công đức—One of the three sources of felicity, the field for
requiting blessings received, i.e. parents, teacher, etc.
Báo Ân Thí: Bố thí để trả
ân—Almsgiving out or gratitude.
Báo Cáo: Report.
Báo Cáo Hằng Ngày: Daily
report.
Báo Chí: Newspapers—Press.
Báo Chương: See Báo chí.
Báo Chướng: Một trong ba
chướng. Màn vô minh làm ngăn ngại thiên căn hay do phiền não hoặc nghiệp
mà phải đọa vào ác đạo—The veil of delusion which accompanies retribution,
one of the three hinderers.
Báo Cừu: Báo thù—To revenge.
Báo Đáp: To compensate—To
recompense.
Báo Đắc Thiên Nhĩ: Một lối giải
thích tương đương khác cho thiên nhĩ thông—Another equivalent
interpretation for deva-ear.
Báo Đền: See Báo Đáp.
Báo Độ: Còn gọi là Phật độ hay
Tịnh Độ là nơi chư Phật ngự trị, còn gọi là Hoa Tạng Thế Giới—The land in
which a Buddha himself dwells—The land of reward—The Pure Land. Also
called the Pure Land of all Buddhas in their Sambhogakaya. There are two
kinds:
1) Tự Thọ
Dụng Báo Độ: Một trong bốn “Báo Độ” của Phật, nơi chúng sanh có thể tự tìm
cầu giải thoát lấy mình bằng các tuân thủ tu tập theo giáo pháp của
Phật—Reward land of a Buddha in which all beings are able to seek
salvation on their own, the third of the four Buddha-ksetra or
Buddha-domains, that in which there is complete response to his teaching
and powers.
2) Tha
Thọ Dụng Độ: Reward land of a Buddha, in which all beings receive and obey
his truth.
** For more information,
please see Hoa
Tạng Thế Giới, Phật
Độ, và Tứ Độ.
Báo Động: To alert—To alarm.
Báo Hại: To do someone a
disservice.
Báo Hiệu: To sign—To signal—To
give a signal.
Báo Hỷ: Wedding announcement—To
announce good news.
Báo Mệnh: Kiếp nầy nhận lãnh
phước báo hay sự trừng phạt của những những nghiệp lực đời trước—The life
of reward or punishment for former deeds.
Báo Nghĩa: To return thanks—To
render thanks to someone.
Báo Nguy: See Báo Động.
Báo Nhân: Cảm thọ cái nhân
thiện ác của quả báo sướng khổ—The cause of retribution.
Báo Ơn: See Báo Nghĩa.
Báo Phật:
1) Báo
đáp Phật ân: To thank the Buddha.
2) See
Báo Thân.
Báo Phục: To retaliate—To
return like for like (good for good and evil for evil).
Báo Quả: Kết quả sướng khổ do
nghiệp nhân thiện ác trong quá khứ báo đáp—The reward-fruit, or
consequences of past deeds.
Báo Quốc: To fulfil one’s dutty
towards one’s country.
Báo Sa: Pausa (skt)—Tháng đầu
tiên trong ba tháng mùa đông ở Ấn Độ, từ 16th tháng mười của Trung
Quốc—The first of the three Indian winter months, from 16th of the 10th
Chinese month.
** For more information,
please see Thập Nhị
Nguyệt (10).
Báo Sanh Tam Muội: Mức độ của
Bồ Tát Tam muội từ Bát Địa trở lên, trong đó Bồ Tát thành đạt những lực
siêu việt, như người nhìn sắc tướng chứ không dùng tâm lực (hiện ra vô số
hình tướng, sanh ra vô số công đức)—A degree of bodhisattva samadhi, in
which transcendental powers are obtained.
Báo Tạ: To acknowledge and
thank.
Báo Tang: To announce a death.
Báo Thân:
1) Báo
thân Phật hay thân tái sanh của Phật: The reward body, the sambhoga-kaya
of a Buddha. The incarnation body of the Buddha, or retribution body in
which he enjoys the reward of his labours.
2) Thân
được lập thành do bởi nghiệp báo của chúng ta gọi là báo thân: Our
physical body is called the retribution body because we are on this earth,
the Saha World or World of Endurance, as a result of good and evil karma.
** For more information,
please see Tam
Thân Phật.
Báo Thân Phật: See Báo Thân.
Báo Thân Phật A Di Đà: The
reward body of Amitabha Buddha.
Báo Thông: See Nghiệp Thông.
Báo Thù: To give tit for tat—To
take upon vengeance—To avenge.
Báo Thức: To awake—To wake up.
Báo Tri: To inform.
Báo Trước: To foretell—To
predict.
Báo Ứng: Báo Thân—Ứng
Thân—Recompense, reward, punishment—See Tam Thân Phật.
Bào:
1)
Thai cung
hay tử cung—Womb.
2)
Y áo: A robe.
Bào Ảnh: Bong bóng—Bubble and
shadow.
Bào Chữa Được: Justifiable.
Bào Hưu La Lan: Bahularatna or
Prabhutaratna (skt).
1) Đa
bảo: Abundance of precious things.
2) Tên
Đức Phật Đa Bảo Như Lai được nói đến trong Kinh Pháp Hoa—Name of the
Buddha mentioned in the Lotus Sutra.
Bào Phục: Còn gọi là Báo
Thường, quần áo thượng và hạ của chư Tăng Ni—Upper and lower garments.
Bào Thai: Fetus—Womb.
Bào Thường: See Bào Phục.
Bảo:
1)
Ratna or mani (skt)—Bảo châu—Precious—Treasure—Gem—Pearl—Anything
valuable.
** For more
information, please see Thất
Bảo.
2) Bảo
Đảm: To guarantee.
3) Bảo
Vệ: To protect—To ward—To guard.
4) Cái
nồi: A pot.
5) Nấu:
To heat—To cook.
6) No
nê: Full—Replete.
7) Ôm:
To embrace—To enfold.
8) Ôm
ấp: To cherish.
Bảo Ấn: Precious seal, or
symbol.
1) Pháp
Bảo trong Tam Bảo: Dharma, the second of the Triratna.
2) Tam
Pháp Ấn: The three evidences of the genuineness of a sutra—See Tam Pháp
Ấn.
3) Biểu
tượng của chư Phật hay chư Bồ Tát: The symbols of Buddhas, or
Bodhisattvas.
4) Chủng
tử Phật Ấn: The magical seeds of the Buddhas, i.e. germ-letters, or
sounds.
Bảo Ấn Tam Muội: Thực tướng của
một trong 108 tam muội—The ratnamudra samadhi, one of the 108 kinds of
samadhi.
1) Chư
Pháp Vô Ngã: The unreality of the ego.
2) Chư
Hành Vô Thường: The impermanence of all things.
3) Niết
Bàn Tịch Diệt: Nirvana.
Bảo Bình: Kundika (skt).
1) Bình
quý (một thứ đồ dùng của Đức Phật) được dùng trong nghi thức lễ lạc: A
pecious vase, vessels used in worship.
2) Bình
quán đảnh mà Mật giáo dùng để rưới tịnh thủy trên đầu khi làm lễ quán
đảnh: A baptismal vase used by the esoteric sects for pouring water on the
head.
Bảo Cái: Lọng trời trang sức
bằng ngọc quý, che trên chỗ ngồi của chư Phật—Banners or canopies,
decorated with gems.
Bảo Cảnh Tướng Quân: The
guardian general of the region.
Bảo Cát Tường Thiên: Nguyệt
Thiên—Tên của Nguyệt Thiên gọi là Bảo Cát Tường, là ứng hiện của Bồ Tát
Đại Thế Chí—Deva of the precious omen, i.e. Candradeva, deva of the moon,
a manifestation of Mahasthamaprapta.
Bảo Châu:
1) Ngọc
Mani: Mani, a precious pearl, or gem.
2) Một
biểu tượng của ngài Xá Lợi Phất: A symbol of Sariputra.
3) Đại
diệu địa của quả Phật—The precious continent, or wonderful land of a
Buddha.
Bảo Chữ: Ratnadvipa (skt).
1) Một
hòn đảo nhỏ chứa đầy bảo châu, đồng nghĩa với Niết Bàn—Precious islet,
island of pearls or gems; synonym for perfect nirvana.
2) Tên cũ
của đảo Tích Lan: An old name for Ceylon.
Bảo Đảm: To guarantee—To
warranty—Security (n)—Insurance—Assurance.
Bảo Đạt: Chuông treo trên đỉnh
tháp chùa—Bells hung on pagodas.
Bảo Điển: Kinh điển quý báu—The
precious records, or scriptures.
Bảo Giám Thiền Sư: Zen Master
Bảo Giám (?-1173)—Thiền sư Việt Nam, quê ở Trung Thụy, Bắc Việt. Ngài làm
quan dưới triều vua Lý Anh Tông tới chức “Cung Hậu Xá.” Năm 30 tuổi, ngài
xuất gia làm đệ tử của Thiền sư Đa Vân tại chùa Bảo Phước. Ngài trở thành
pháp tử đời thứ 9 dòng Thiền Vô Ngôn Thông. Tại chùa Bảo Phước ngài đã sao
chép tất cả kinh điển cho chùa. Khi thầy thị tịch, ngài tiếp tục trụ tại
chùa Bảo Phước để hoằng pháp cho đến khi thị tịch vào năm 1173—A
Vietnamese Zen master from Trung Thụy, North Vietnam. He was an official
in the royal palace with the rank of “Cung Hậu Xá” during the reign of
king Lý Anh Tông. When he was 30 years old, he lwft home and became a
disciple of Zen master Đa Vân at Bảo Phước Temple. He spent time to copy
all sutras for this temple. After his master passed away, he continued to
stay at Bảo Phước temple to expand Buddhism until he passed away in 1173.
Bảo Giới: Saptaratna (skt)—Bảo
giới hay cõi Tịnh Độ của mỗi vị Phật—The saptaratna realm of every Buddha,
his Pure Land.
Bảo Hiệu: Danh hiệu tôn quý của
chư Phật và chư Bồ Tát—Precious name or title, especially that of Buddhas
and Bodhisattvas.
Bảo Hoa: Hoa quý hay hoa của
chư Thiên—Precious flowers—Deva-flowers.
Bảo Học: Cái học đã đầy đủ
(không cần phải học nữa)—Replete with learning—Fed full with study.
Bảo Hộ: To protect—To
safeguard.
Bảo Hộ Chúng Sanh: To protect
other sentient beings.
Bảo Khiếp: Ratna-pitaka or
Ratna-karandaka (skt)—Rương đựng bảo châu—A precious box, or box of
precious things.
Bảo Lãnh: To sponsor—To
guarantee.
Bảo Lâm:
1) Lộ Bảo
Thụ nơi cõi Tịnh Độ: The groves, or avenues of precious trees in the Pure
Land.
2) Tự
viện Bảo Lâm của Lục Tổ Huệ Năng, Tổ Thiền thứ sáu của Trung Quốc: The
monastery of Hui-Neng, sixth patriarch of the Ch’an Sect.
Bảo Ninh Nhân Dũng: Chinese Zen
master Pao-Ning-Jen-Yang (?-1046)—Thiền sư Bảo Ninh Nhân Dũng vốn là môn
đệ của Dương Kỳ Phương Hội. Trước khi theo Thiền, sư là một đại học giả
của triết lý Thiên Thai tông. Khi sư đến tìm Tuyết Đậu, một thiền sư lỗi
lạc của Vân Môn tông, được nhận ra ngay là có căn khí của thiền. Để phấn
khích, Tuyết Đậu vừa kêu vừa diễu: “Này tòa chủ dềnh dàng!” Nhân Dũng vì
thế mà phẩn chí, quyết vượt qua Thiền, vượt Tuyết Đậu, rồi về sau , sư
chứng ngộ như dự đoán của Tuyết Đậu. Sư thường bảo môn nhân: “Nầy, bây giờ
ta đang ở trong địa ngục rút lưỡi!” Vừa nói sư vừa làm như lấy tay rút
lưỡi và la: “Ớ! Ớ! Ngục nầy dành cho những tên nói dối.” Một lần khác,
nhân thấy thầy Tăng thị giả đang đốt hương cúng Phật, sửa soạn buổi thuyết
pháp thường lệ, sư bảo: “Này chư Tăng, ông thị giả của tôi đã thuyết pháp
cho rồi đó.” Rồi sư rời đám môn nhân, không nói thêm một lời. Ngài thị
tịch năm 1046—Pao-Ning-Jen-Yang was a disciple of Yang-Ch’I-Fang-Hui.
Before he became a Zen devotee he was a great scholar of T’ien-T’ai
philosophy. When he came to Hsueh-Tou, who was a great figure in the
Yun-Men school of Zen, the master at once recognized in him a future Zen
master. To stimulate him, Hsueh-Tou addressed him sarcastically, “O, you
great college professor!” The remark stung Jen-Yang to the quick, and he
determined to surpass in Zen even this great master. When he finally
became a master himself, as Hsueh-Tou had expected, he once appeared in
the pulpit and said: “Behold, I am now in the tongue-pulling hell?” So
saying, he was seen as if pulling out his tongue with his own hand and
exclaimed: “Oh! Oh! This hell is meant for liars.” Another time, seeing
his attendant monk offering incense to the Buddha, preparatory for a
regular discourse to be given by the master, he said: “Monks, my attendant
has already given you a sermon,” and without another word he came down
from the pulpit. He passed away in 1046.
Bảo Nữ: Kanya-ratna (skt)—Người
con gái quý, một trong thất bảo của Tứ Thiên Vương—Precious maidens, one
of the seven treasures of the Cakravartin.
Bảo Phật Cước: Khi gặp trở ngại
Phật tử Trung Hoa hay có tục ôm chân Phật mà cầu nguyện—When in trouble,
Chinese Buddhists have a custom to embrace the Buddha’s feet.
Bảo Phiệt: Chiếc bè chân lý
Phật pháp chuyên chở chúng sanh từ biển sanh tử đến Niết Bàn—The precious
raft of Buddha-truth, which ferries over the sea of mortality to nirvana.
Bảo Phương: Tự viện, nơi thường
trụ Tam Bảo—Precious place, or the abode of the triratna, a monastery.
Bảo Quang Minh Trì: Ao Bảo
Quang Minh tại xứ Ma Kiệt Đà, nơi Phật thuyết giảng (kinh Bảo Giáp Ấn Đà
La Ni)—A lake in Magadha, where the Buddha is said to have preached.
Bảo Quang Phật: See Bảo Quang
Thiên Tử and Tam Quang Thiên Tử.
Bảo Quang Thiên Tử: Surya-deva
(skt)—Một trong Tam Quang Thiên Tử, tức Nhật Thiên Tử, gọi là Bảo Ý là ứng
hiện của Đức Quán Âm—Precious light deva, the sun-prince, a manifestation
of Kuan-Yin, one of the three kings of precious light.
** For more information,
please see Tam
Quang Thiên Tử.
Bảo Quốc:
1) Tịnh
Độ—Precious country—The Pure Land.
2) Tên
của một ngôi chùa cổ ở Huế. Tổ đình Bảo Quốc nguyên thủy tên là Hàm Long
Sơn Thiên Thọ Tự do Hòa Thượng Pháp Hàm hiệu Giác Phong khai sơn vào cuối
thế kỷ thứ 17. Năm 1747, chúa Nguyễn Phước Hoạt mở rộng qui mô của chùa,
nâng lên hàng quốc tự và đặt tên lại là Bảo Quốc Tự. Năm 1808, Hiếu Khương
Hoàng Hậu, mẹ vua Gia Long, đã cho trùng tu chùa và gọi tên chùa là Thiên
Thọ. Năm 1824, vua Minh Mạng lên thăm chùa đặt tên lại là Bảo Quốc. Năm
1858, vua Tự Đức ban 700 quan tiền cho trùng tu chùa—Name of an old temple
in Huế. Bảo Quốc Patriarchal Temple, with its original name Hàm Long Sơn
Thiên Thọ Tự, was founded by Most Venerable Pháp Hàm Giác Phong in the
late seventeenth century. In 1747, Lord Nguyễn Phước Hoạt enlarged the
temple, recognized it as a national temple, and renamed it Bảo Quốc Tự. In
1808, Queen Hiếu Khương, mother of king Gia Long, had the temple restored
and renamed it Thiên Thọ. In 1824, king Minh Mạng visited it and renamed
it Bảo Quốc. In 1858, king Tự Đức had it rebuilt with a grant of 700 kuan
from the throne.
Bảo Sa Ma Tẩy: Pausamasa
(skt)—Theo Eitel trong Trung Anh Phật Học Từ Điển, Pausamasa là tháng thứ
mười của Ấn Độ, bắt đầu từ 16th tháng chạp của Trung Hoa—According to
Eitel in The Dictionary of Chinese-English Buddhist Terms, Pausamasa is
the tenth Indian month, beginning on the 16th of the 12th Chinese month.
** For more information,
please see Thập Nhị
Nguyệt.
Bảo Sanh: Ratnasambhava (skt).
1) Một
trong năm vị Đức Trí Như Lai ở cõi Kim Cương Mạn Đà La, Đức Trung Tôn của
Nguyệt Luân ở Nam phương: One of the five dhyana Buddhas, the central
figure in the southern “diamond” mandala.
2) Cõi
thành Phật của ngài Tu Bồ Đề: The realm of Subhuti on his becoming Buddha.
Bảo Sát:
1) Phật
Giới: The precious ksetra, or Buddha-realm.
2) Tự
Viện: A monastery.
Bảo Sinh Như Lai: See Bảo Thắng
Như Lai.
Bảo Sở: Bảo sở là nơi chứa
những châu báu, như Niết Bàn Vô Dư—The place of precious things, i.e. the
perfect Nirvana.
Bảo Tàng: Ratnadhvaja (skt).
1) Phướn
được trang hoàng bởi bảo ngọc: A banner decorated, with gems.
2) Chư
Thiên Âm Nhạc trên cõi Trời Đâu Suất: A deva in the Tusita heaven who
presides over music.
Bảo Tạng:
1) Kho
chứa châu báu tích lũy: The treasury of precious things.
2) Diệu
pháp của Phật có thể cứu giúp chúng sanh thoát khỏi các khổ ách: The
wonderful religion of Buddha.
Bảo Tạng Như Lai: Ratna-garbha
(skt)—Vị Phật (Bảo Hải là con gái của Phạm Chí, xuất gia thành đạo hiệu là
Bảo tạng Như Lai) mà Phật A Di Đà và Phật Thích Ca đều y vào để phát tâm
thành đạo—A Buddha to whom Sakyamuni and Amitabha are said to have owed
their awakening.
Bảo Tánh Thiền Sư: Zen Master
Bảo Tánh (?-1034)—Thiền sư Việt Nam, quê ở Chu Minh, Bắc Viêt. Ngài xuất
gia làm đệ tử Thiền sư Định Hương lúc tuổi còn rất trẻ. Ngài trở thành
Pháp tử đời thứ bảy dòng Thiền Vô Ngôn Thông. Sau khi Thầy mình thị tịch,
ngài tiếp tục trụ tại chùa Cảm Ứng để hoằng pháp. Ngài cùng Thiền sư Minh
Tâm cùng nhau tụng kinh Pháp Hoa trong 15 năm liền. Vào năm 1034, ngài
muốn nhập hỏa quang tam muội. Khi nghe tin nầy, Vua Lý Thái Tông gửi sắc
dụ triệu hồi ngài về kinh thuyết pháp cho hoàng gia lần cuối. Sau khi
thuyết pháp xong, ngài bèn nhập vào hỏa quang tam muội—A Vietnamese Zen
master from Chu Minh, North Vietnam. He left home and became a disciple of
Định Hương when he was very young. He became the Dharma heir of the
seventh generation of the Wu-Yun-T’ung Zen Sect. After the letter’s death,
he stayed at Cảm Ứng Temple to expand Buddhism. He and Zen master Minh Tâm
recited the Lotus Sutra for 15 years. In 1034, he wanted to self-immolate
his body with the flame of samadhi to enter Nirvana. Upon hearing the
news, King Lý Thái Tông sent an Imperial Order to summon him to the
capital to preach the Buddha Dharma to the royal family the last time.
Right after the surmon, he self-immolated his body by the flame of
samadhi.
Bảo Tất Để Ca: Chữ “Vạn” trên
ngực của Đức Phật—The precious svastika, or sign on Buddha’ breast.
Bảo Tháp: Stupa (skt).
1) Tháp
Bảo hay tháp chứa bảo vật, tháp chứa xá lợi: Precious stupa, or fane for
precious things, or relics.
2) Tháp
trang nghiêm bằng châu báu: A pagoda adorned with gems.
3) Tháp
Đa Bảo trong Kinh Pháp Hoa: The shrine of Prabhutaratna in the Lotus.
Bảo Thành: Thành chứa đầy bảo
vật, như Phật Pháp trong Kinh Niết Bàn—The city full of precious things,
in the Nirvana Sutra, i.e. the teaching of the Buddha.
Bảo Thắng: See Bảo Thắng Như
Lai.
Bảo Thắng Như Lai: Ratnaketu
(skt)—Một trong bảy vị Như Lai (hay bố thí cho ngạ quỷ, ngài trụ tại
phương nam)—One of the seven Tathagatas.
Bảo Thủ:
1) Khư
khư giữ lấy những gì mình có: To conserve.
2) Tay
quý, tay làm ra của cải quý báu—Precious hand, the hand which gives alms
and precious things.
Bảo Thụ: Cây quý nơi cõi Tịnh
Độ—The jewel-trees of the Pure Land.
Bảo Thừa:
1) Bảo
Thừa Pháp Hoa Kinh: The precious vehicle of the Lotus Sutra.
2) Đại
Thừa: The Mahayana.
Bảo Tích: Ratna-rasi or
Ratna-kuta (skt)—Kinh Đại Bảo Tích: Gem-heap Sutra—Collection of gems;
accumulated treasures.
Bảo Tích Phật: Vị Phật tụ tập
các pháp bảo trang nghiêm như vô lậu căn lực—Buddha adorned with heaps of
treasures, i.e. powers, truths.
Bảo Tích Trưởng Giả Tử: Con của
một vị trưởng giả trong thành Vaisali, người đã dâng tràng phan thất bảo
lên Phật Thích Ca, rồi tán thán Đức Phật—The son of the elders of Vaisali,
who are said to have offered canopies of the seven precious things to
Sakyamuni in praise of his teaching.
Bảo Tính: Tên khác của Như Lai
Tạng, ở trong chúng sanh phiền não mà chẳng hề mất tính chân như thanh
tịnh—The precious nature, or Tathagatagarbha, underlying all phenomena,
always pure despite phenomenal conditions.
Bảo Tồn:
Maintenance—Preservation—Conservation.
Bảo Trì:
1) Gìn
giữ: To maintain.
2) Ao Bát
Công Đức Thủy nơi cõi Tịnh Độ: The precious lake of the eight virtuous
characteristics in the Pure Land.
Bảo Triệt Ma Cốc Thiền Sư: Zen
master Ma-Yu-Bao-Che—Thiền Sư Bảo Triệt Ma Cốc là đệ tử của Thiền Sư Mã
Tổ—Zen master Ma-Yu-Bao-Che was a disciple of Zen master Ma-tsu.
·
Một hôm, theo Mã Tổ đi dạo, sư hỏi Mã Tổ: “Thế nào là Đại
Niết Bàn?” Mã Tổ đáp: “Gấp!” Sư hỏi: “Gấp cái gì?” Mã Tổ nói: “Xem nước.”
Nghe những lời nầy sư giác ngộ—Once, while walking with Ma-Tsu, Bao-Che
Ma-Yu asked: “What is the great nirvana?” Ma-tsu replied: “Hurried.”
Bao-Che asked: “What is it that hurried?” Ma-Tsu said: “See the water!” At
these words Bao-Che was awakened.
·
Sư cùng Nam Tuyền, Qui Tông đến yết kiến Cảnh Sơn, đi đường
gặp một bà già, sư hỏi: “Cảnh Sơn đi đường nào bà?” Bà già đáp: “Đi
thẳng.” Sư hỏi: “Đầu trước nước sâu qua được chăng?” Bà già nói: “Chẳng
ướt gót chân.” Sư nói: “Bờ trên lúa trúng tươi tốt, bờ dưới lúa thất ruộng
khô.” Bà già nói: “Thảy bị cua ăn hết.” Sư nói: “Nếp thơm ngon.” Bà già
nói: “Hết mùi hơi.” Sư hỏi: “Bà ở chỗ nào?” Bà già nói: “Ngay trong đây.”
Ba người đồng vào quán ngồi. Bà già nấu một bình trà, bưng ba chén chung
đến hỏi: “Hòa Thượng có thần thông thì uống trà?” Ba người nhìn nhau chưa
nói câu nào. Bà già liền bảo: “Xem kẻ già nầy trình thần thông đây.” Nói
xong bà cầm chung nghiêng bình rót trà, rồi đi—Bao-Che, Nan-Quan, and
another monk went traveling to Mount Jing. On their way they encountered
an old woman shopkeeper. They asked her: “What’s the way to Mount Jing?”
She said: “Go straight ahead.” Bao-Che said: “Is there water ahead that is
too deep to pass through?” The old woman said: “It won’t even soak your
feet.” Bao-Che said: “The rice paddy on the upper terrace is good. The
rice paddy on the lower terrace is withered.” The old woman said: “It all
been eaten by crabs.” Bao-Che said: “The grain is fragrant.” The old
woman said: “There’s no smell.” Bao-Che asked: “Where do you live?” The
old woman said: “Right here.” The three monks went into the woman’s shop.
She boiled a pot of tea and set out three cups. Then she said: “If you
masters have a pervasive spiritual knowledge, then drink some tea.” The
three monks looked at each other in surprise, and then the old woman said: