TỔ ĐÌNH MINH ĐĂNG QUANG
PHẬT HỌC TỪ ĐIỂN
BUDDHIST DICTIONARY
VIETNAMESE-ENGLISH
THIỆN PHÚC
Cu
Cú: Một câu, một từ
ngữ hay mệnh đề—A sentence—Phrase—Clause.
Cú Cú: Từ câu nầy
qua câu kia—Sentence by sentence.
Cú Pháp: Syntax.
Cú Thân: Padakaya
(skt)—Pratipadika (skt)—Chữ biến chuyển trong câu—An inflected word in a
sentence.
Cù Cưa: To drag
out.
Cù Đàm: Gautama
(skt)—See Siddhartha in Sanskrit/Pali-Vietnamese Section.
Cù Lao Cúc Dục:
Parents’ painful task of rearing children.
Củ: Cây thước, hay
thước vuông của thợ mộc—A carpenter’s square—A ruler.
Củ Củ Tra:
1)
Dịch là Kê Quý: Kukkuta (skt)—Gà vịt—A cock—A fowl.
2)
Tên khác của nước Cao Ly: Kukkutesvara (skt)—Another name for
Korea.
Củ Củ Tra Ế Thuyết La:
Kukkutesvara (skt)—See Củ Củ Tra (2).
Củ Xa Yết La Bổ La:
Kusagrapura (skt)—Còn gọi là kinh thành Thượng Mao của xứ Ma Kiệt Đà (nơi
các vương quốc cổ thường đóng đô)—An ancient capital of Magadha.
Cũ Kỹ: Out of
date—Old.
Cũ Mèm: Very old.
Cụ:
1)
Sợ: Fear—Dread. .
2)
Tròn đầy—Complete—All.
Cụ Bị: To prepare.
Cụ Chi Quán Đảnh:
Một trong ba phép Quán Đảnh trong Kinh Đại Nhựt. Đây là phép quán đảnh thọ
nhận nước rãi hay sái thủy trên đầu của quốc vương với nước từ biển hay
sông trong lãnh thổ của vương triều. Phép nầy cũng được dùng cho những
chức sắc cao trong hàng Giáo Phẩm Phật Giáo—One of the three abhiseka or
baptisms of The Vairocana Sutra. A ceremony sprinkling of the head of a
monarch at his investiture with water from the seas and rivers (in his
domain). It is a mode also employed in the investiture of certain high
officials of Buddhism.
** For more information,
please see Tam
Chủng Quán Đảnh.
Cụ Đàm: Gautama
(skt)—See Siddhartha in Sanskrit/Pali-Vietnamese Section.
Cụ Giới: See Cụ Túc
Giới.
Cụ Giới Địa: Đệ nhị
địa trong Thập Địa, trong đó có đủ giới luật phải trì giữ—The second of
the Bodhisattva ten stages in which the rules are kept.
Cụ Giới Phương Tiện:
Pháp phương tiện bằng cách cho thọ trì cụ túc giới từng bước (trước cho
thọ 5, rồi 8, rồi 10, vân vân)—The expedient method of giving the whole
rules by stages (first by 5, then 8, then 10, etc).
Cụ Phược: Hết thảy
phàm phu đều bị trói buộc vào phiền trược (ai cũng có sẳn phiền
não)—Completely bound, all men are in bondage to illusion.
Cụ Sử La: Ghosira
(skt).
1)
Hảo Thanh Điểu: Tên một loài chim có giọng hót rất hay—Name of a
bird that has an excellent voice.
2)
Tên của một vị trưởng giả tại Kausambi, người đã dâng hiến Cụ Sử La
viên và tịnh xá cho Đức Phật—A wealthy householder of Kausambi, who gave
Sakyamuni the Ghosiravana park and vihara.
Cụ Thể:
Concrete—corporealization.
Cụ Thể Hóa: To
concrete—To corporealize.
Cụ Thọ: Ayusmant
(skt)—Tiếng xưng hô chung của các Tỳ Kheo, các Thầy gọi đệ tử hay trưởng
lão Tỳ Kheo gọi các Tỳ Kheo trẻ (ý nói các vị ấy có đủ thọ mệnh thế gian
và tuệ mệnh pháp thân)—Having long life, a term by which a monk, a pupil,
or a youth may be addressed.
Cụ Thuyết: Giáo
thuyết đầy đủ—To discuss completely, state fully.
Cụ Túc: Tròn
đầy—All—Complete—Replete with endowments.
Cụ Túc Đức Bổn Nguyện:
Lời nguyện thứ 44 trong bốn mươi tám lời nguyện của Phật A Di Đà, tất cả
chúng sanh đều có đầy đủ công đức—The forty-fourth of Amitabha’s
forty-eight vows, that all universally should acquire his virtue—See Tứ
Thập Bát Nguyện.
Cụ Túc Giới: Cụ túc
giới của Tỳ Kheo hay 250 giới tròn đầy của chư Tăng. 250 giới thường cho
Tỳ Kheo Tăng, và 348 giới cho Tỳ Kheo Ni (có nơi cho là 500 giới cho Tỳ
Kheo Ni)—The perfect or complete (full) 250 commandments, which are
obligatory on monks and nuns. 250 commandments are usually for monks,
those for nuns are 348 (some says 500 commandments for the nuns).
**For more information,
please see Viên Cụ.
Cụ Túc Giới Tỳ Kheo:
Hai trăm hai mươi bảy hoặc hai trăm năm chục giới cho Tỳ Kheo—Two hundred
twenty-seven or two hundred fifty moral precepts for monks—Tỳ Kheo là vị
đã nhận biết rõ ràng bản chất của đời sống. Vị ấy nhận biết rằng cuộc sống
tại gia dẫy đầy trở ngại như con đường đầy bụi bậm. Ngược lại, cuộc sống
xuất gia như bầu trời cao rộng, với tràn đầy không khí tươi mát. Vì thế vị
ấy quyết từ bỏ cuộc sống trần tục để sống đời Du Tăng Khất sĩ. Khi gia
nhập Giáo Đoàn, ngoài việc cạo tóc và mặc áo vàng, vị ấy còn phải học lý
thuyết và thực hành giáo lý nhà Phật, cũng như giữ giới luật mà Đức Phật
đã đặt ra. Tuy nhiên, thường thì trẻ dưới 18 tuổi không được thọ giới Tỳ
Kheo trừ phi nào có những trường hợp đặc biệt. Như trường hợp của Thiếu
Khang Đại Sư, Tổ thứ Năm của Tịnh Độ Tông Trung Quốc, vì căn cơ và trí huệ
rất linh mẫn, nên năm 15 tuổi ngài thông suốt năm bộ kinh và đã được cho
thọ giới Tỳ Kheo. Phật tử nào muốn xuất gia phải sống tu trong chùa vài
năm để học và hành nghi lễ Phật giáo. Sau đó nếu thấy được thì Thầy viện
chủ sẽ cho thọ giới Tỳ Kheo hay Tỳ Kheo Ni—A Bhiksu is he who has fully
realized the true nature of life. He understands that the life of a lay
person is full of obstacles as a path of dust. In the contrary, the life
of a Bhiksu is just like the open sky with full of fresh air. Therefore,
he decides to abandon the domestic life and takes up the life of a
wandering Bhiksu. When he joins the Order, beside getting his head shaved
and putting on the yellow robe, he must learn the theoretical and
practicing teachings of the Buddha and keeps all Bhiksu rules and
regulations set forth by the Buddha. Children are usually not allowed to
take the Bhiksu precepts unless they are out-of-the ordinary in their
abilities. As the case of Great Master Sao-Kang. His intelligence and
wisdom were extraordinary. After becoming a Bhiksu at the age of 15, He
had completely understood and deeply penetrated the hidden meanings of the
five collections of Sutras. Buddhists who wish to become a monk or nun
must live in a temple for several years to learn Buddhist rituals and
practices. Thereafter, if the headmaster deems them being fit and ready to
become a monk or nun, only then do they take the Bhiksu or Bhiksuni
precepts. These rules include:
(I)
Kiết Giới Tứ Khí hay Kiết Giới Tứ Ba La Di (bốn đại giới): Parajika
(skt)—Four Defeats—See Tứ Đọa
(II)
Kiết Giới Thập Tam Tăng Tàn hay Mười ba giới Tăng Tàn giáng cấp hay
tạm thời bị trục xuất khỏi Giáo Đoàn: Sanghadisesa (skt)—Thirteen offences
which lead to a temporary expulsion of a monk out of the Order—See Thập
Tam Giới Tăng Tàn.
(III)
Kiết Giới Nhị Bất Định: Aniyata (skt)— Nhị Bất Định Giới, hay hai
giới không định, nói về hai trường hợp cần có bằng chứng rõ ràng để xác
định được tội danh. Hai giới bất định liên hệ tới vấn đề hoạt động tình
dục—Two Aniyata offences which are connected with activities of sex. This
portion speaks of two cases which require circumstantial evidence to
ascertain the offence—See Nhị Giới Bất Định.
(IV)
Kiết Giới Tam Thập Xả Đọa hay Tam Thập Giới Phá Sự Thanh Bần (ba
mươi giới phá sự thanh bần): Nissaggiya-pacittiya (skt)—Đây là ba mươi
trường hợp vi phạm khi chiếm hữu các vật dụng không được cho phép, cần
phải được giải thích và sám hối trước Giáo Đoàn. Tu sĩ phạm tội có thể
được xá tội nếu chịu bỏ món đồ ra và thú tội—Thirty offences that can be
committed by a monk who takes certain articles of use which were not
permissible, require explanation and repentance in front of the Order. The
offending monks could be absolved if they parted with the article in
question and confessed their guilt—See Tam Thập Giới Xả Đọa.
(V)
Kiết Giới Xả Đọa: Pacittiya (skt)—Tội Ba Dật Đề gây ra do những
hành vi bất cẩn dẫn đến việc giết hại côn trùng, thiếu tôn kính đối với
giáo lý và giới luật của Đức Phật, không tuân thủ các chỉ dẫn của giới
luật, hay sơ xuất trong việc xử dụng giường nằm, chỗ ngồi, y áo, vân vân
trong khi sống trong tu viện—Pacittiya offences relate to careless acts
leading to insecticide, to lack of respect for the Buddhist teachings and
disciplinary code and to non-compliance with the directions in the Vinaya,
as well as indiscrete acts in the use of beds, seats, robes, etc. while
dwelling in a monastery.
a)
Kiết Giới Cửu Thập Đọa hay Cửu Thập Giới Hành theo Đại Thừa và Khất
Sĩ (chín mươi giới phạt quỳ hương): Chín mươi giới phạt quỳ hương—Ninety
offences which lead to expiation, according to Mahayana Budhism and Sangha
Bhiksu Buddhism—See Cửu Thập Giới Đọa.
b)
Kiết Giới Cửu Thập Nhị Đọa theo phái Tiểu Thừa—Ninety-two offences
which lead to expiation according to Mahayana Buddhism—See Cửu Thập Nhị
Giới Đọa.
(VI)
Kiết Giới Tứ Hối Quá hay bốn giới đặc biệt xả đọa:
Patidesaniya-dhamma (p)—Ba La Đề Xá Ni là bốn giới vi phạm đời sống xuất
gia phạm hạnh, hay những tội danh liên quan đến việc một tu sĩ dùng các
thức ăn không được cúng dường cho mình. Bốn tội danh nầy có hình phạt là
phải xin sám hối trước Giáo Đoàn—Four offences of disobeying the rules of
monastic life outlined in the Vinaya pitaka. The Patidesaniya speaks of
only four offences relating to a monk’s taking food which has not been
offered to him. The punishment for such trangression is the confession and
repentance of the offence before the Order—See Tứ Giới Hối Quá.
(VII)
Kiết Giới Chúng Học: Sekhiya-dhamma (skt)—Gồm bảy mươi lăm hay một
trăm trường hợp vi phạm trong cuộc sống hằng ngày, ví dụ như cách thức khi
đi vào làng xã hoặc phố phường, cách dùng thức ăn mà không làm phiền đến
ai, cách đi vào một phòng bệnh, vân vân. Những điều nầy không được xem là
tội danh và không có hình phạt nào dành cho chúng—Including either
seventy-five or one hundred offences connected with the Bhiksu’s daily
activities, for instance, how he must enter a village or a town, take food
inoffensively, enter a sick room, etc. These are not treated as offences
and no punishment is therefore prescribed for them.
a)
Có 75 giới chúng học theo hệ phái Nguyên Thủy—There are
seventy-five Sekhiya rules in Theravadan Buddhism—See Thất Thập Ngũ Giới
Chúng Học.
b)
Có một trăm giới chúng học theo hệ phái Đại Thừa và Khất Sĩ: There
are one hundred Sekhiya rules in Mahayana Buddhism and Sangha Bhiksu
Buddhism—See Bách Giới Chúng Học.
(VIII)
Thất Diệt Tránh Pháp: Adhikarana-samatha (skt)—Diệt tránh hay là
những phương thức để giải quyết những tranh chấp trong Tăng
đoàn—Adhikarana-samatha or the means of settling disputes within the
Sangha—See Thất Diệ Tránh Pháp.
Cụ Túc Giới Tỳ Kheo
Phật Giáo Nguyên Thủy
(I) Parajika
Tứ Đọa: Parajikas
(skt)—Tứ Ba La Di—Tứ Cực Trọng Cảm Đọa Tội—Tứ Khí—Tứ Trọng—Chữ Parajika
được lấy từ gốc chữ Bắc Phạn Para và Jika có nghĩa là ĐỌA. Tứ Đọa có nghĩa
là bốn tội Ba La Di thoái đọa pháp hải và bị khai trừ khỏi Tăng Chúng.
Theo quan điểm xuất gia của Phật giáo thì những vi phạm nầy được xem là có
tính chất nghiêm trọng. Bất cứ vị Tăng nào, bất kể thứ bậc và thâm niên
trong Giáo Đoàn, hễ phạm phải một trong Tứ Ba La Di nầy sẽ bị trục xuất
khỏi Giáo Đoàn. Một khi bị trục xuất sẽ không bao giờ được phép trở lại
Giáo Đoàn (bất cứ hệ phái nào trong Phật Giáo). Những vị nầy sẽ vĩnh viễn
bị đọa lạc. Vì thế mà Đức Phật khuyến cáo chư Tăng Ni phải cẩn trọng đừng
để vướng phải một trong Tứ Ba La Di nầy—The four grave prohibitions or
sins—The word Parajika is derived from the Sanskrit root Para and Jika
which means that makes DEFEAT. Four parajikas mean four causes of falling
from grace and final excommunication or expulsion of a monk or nun.
According to the monastic point of view, these offences are regarded as
very serious in nature. Any monks, regardless of their ranks and years in
the Order, violate any one of these offences, are subject to expulsion
from the Order. Once they are expelled, they are never allowed to join the
Order again. They are defeated foreverTherefore, the Buddha cautioned all
monks and nuns not to indulge in any one of them:
Theo Đại Thừa và Tiểu
Thừa—According to the Mahayana and Hinayana:
1)
Sát: Giết hại chúng sanh—Vadha-himsa (skt)—Killing—See Sát Sanh.
2)
Đạo: Trộm Cắp—Adattadana (skt)—Stealing—See Trộm Cắp.
3)
Dâm Dục: Phạm tội thông dâm—Abrahmacarya (skt)—Adultery—Sexual
immorality or bestiality—See Dâm.
4)
Vọng: Vọng ngữ hay nói dối—Uttaramanusyadharma-pralapa (skt)—False
speaking—Falsity—See Nói Dối, and Nói Lời Đâm Thọc.
(II) Sangadisesa
Thập Tam Giới Tăng Tàn:
Sanghadisesa (skt)—Theo Luật Tạng, mười ba giới tổn hại Tăng Tàn khiến chư
Tăng phạm phải sẽ bị tạm thời trục xuất khỏi giáo đoàn. Vị Tăng nào phạm
phải sẽ bị Tăng chúng quy định thời gian bị tạm trục xuất. Đến khi mãn hạn
trục xuất, người phạm tội phải ra trước Tăng chúng xin được tái gia nhập
vào giáo đoàn. Không có sự chấp thuận của Tăng chúng, người phạm tội không
thể trở lại giáo đoàn—According to the Vinaya Pitaka (Book of Discipline),
Part I, translated into English by I.B. Horner, thirteen offences which
entail monks temporary expulsion from the Order. Indulging in any one of
these offences, monks are required to leave the Order for a period of time
fixed by the assembly of monks. After that time, offenders present
themselves before the Order to beg for a reinstatement. Without the
permission from the assembly of monks, offenders cannot return to the
Order.
1)
Cấm cố ý lấy tay tự làm sự dâm, ngoại trừ trong giấc mộng: Not to
intentionally discharge of semen, except during a dream.
2)
Cấm rờ mình đàn bà, như nắm tay, rờ búi tóc, rờ rẫm tay chân, vân
vân: Not to come into physical contact with a woman, such as holding her
hand, or holding a braid of her hair, or rubbing against any one of her
limbs.
3)
Cấm chọc ghẹo dụ dỗ đàn bà: Not to offend a woman with lewd words
concerned with unchastity.
4)
Cấm khoe phép tinh tấn với đàn bà, nói rằng ‘Các bà phải phụ trợ
một người như tôi, đức hạnh vẹn toàn, sống đời phạm hạnh’ với ý muốn quan
hệ tới việc dâm dục: Not to speak in praise of ministering to sensure
pleasure for self in the present of women, saying: “Ladies, this is the
highest kind of ministration, that a woman should minister to one like me,
virtuous, of good conduct, leading the Brahma-life” with the meaning to
connect with sexual intercourse.
5)
Cấm làm mai, cưới gã hay môi giới cho sự hẹn hò: Not to act as a
go-between for a woman with a man in mind or for a man with a woman in
mind, whether as a wife or as a mistress, or acting as an agent for
arranging the meeting of two persons for sexual indulgence.
6)
Cấm tự ý cất phòng sái luật (12 sãy bề dài và 7 sãy bề ngang, và
không trình với Tăng chúng chỗ cất, bởi vì vị ấy có thể cất phòng ở chỗ
không có khoảng trống bao quanh sẽ dẫn đến sự bại hoại): Not to build a
hut in an unlawful manner (not in accordance with measure of twelve spans
in length and seven spans in width, and not bring the assembly of monks
for marking out a site, for a monk should beg himself for a site which
involves destruction and which has not an open space round it).
7)
Không trình chỗ cất phòng, mặc dù tự ý thí chủ cất cho: Fail to
bring for marking out a site, even though there is a benefactor who is
willing to build and donate a vihara.
8)
Cấm cáo gian một vị Tỳ Kheo khác một tội gì mà không có thật: Not
to accuse falsely (unjustly or wrongly) a monk with an unfounded charge.
9)
Cấm dùng cách nầy thế kia để phá sự hòa hiệp của giáo hội: Not to
do things to destroy the harmony of the Order.
10)
Cấm nghi quấy một vị Tỳ Kheo khác một điều gì mà không có thật: Not
to suspect a monk with a groundless charge.
11)
Cấm binh vực kẻ phá hoại sự hòa hiệp ở giáo hội: Not to side with
someone who creates schism to destroy the harmony of the Order.
12)
Nếu vị Tăng cưỡng lý khi làm quấy, chẳng chịu nghe lời khuyên giải.
Nếu Tăng chúng hỏi ba lần mà vẫn không chịu nghe lời, vị nầy phạm tội Tăng
Tàn: If a monk who commits evil conduct or misbehavior, and his evil
conduct is seen or heard, that monk should be admonished up to three times
by the assmebly of monks to allow him to give up his course. If after
being admonished, he gives up that course, it is good. If he does not give
up, it is an offence entailing a formal meting of the Order.
13)
Cấm không trang nghiêm, làm quấy ác cho kẻ khác bắt chước: Not to
lead a solemnly brahma life, to be a bad example for others to imitate.
(III) Aniyata
Nhị Giới Bất Định:
Aniyata (skt)—Nghĩa của từ “Aniyata” là bất định. Nhị giới bất định là hai
giới phạm liên hệ tới tình dục mà sự vi phạm còn mơ hồ, không rõ ràng. Tuy
nhiên, tùy theo trường hợp và tánh chất nghiêm trọng của nó mà người phạm
tội nầy sẽ bị tạm thời trục xuất khỏi giáo đoàn—The meaning of the term
“Aniyata” is “Indefinite.” Two offences of indefinite are connected with
activities of sex. It depends on circumstances and the seriousness of the
offence, offenders can be temporarily expelled from the Order.
1)
Cấm ngồi nói chuyện với đàn bà nơi chỗ vắng vẻ đáng nghi ngờ, có
thể đưa đến những hoạt động về tình dục. Nếu vị Tỳ Kheo cứ thật thà xưng
tội, thì giáo hội sẽ y như lời khai mà trị. Nếu lời của Tỳ Kheo không
giống như lời của Ưu Bà Di trong cuộc, thì giáo hội sẽ y theo lời của vị
Ưu Bà Di mà trị: Not to sit down together with a woman in a lonely place
which can lead to activities of sex. If the monk confesses, the Order will
base on his confession for punishment. If he fails to confess or his
confession does not match with the woman lay follower’s confession, the
Order will base on what the woman lay follower’s confession to determine
his punishment.
2)
Cấm ngồi nói chuyện với đàn bà nơi kín đáo riêng tư có thể dẫn đến
việc hành dâm. Hình phạt cũng giống như điều (1) vừa kể trên: Not to sit
down together with a woman in a private, covered place in such a way which
may develop into a situation of sexual intercourse. Punishment is same as
in (1).
(IV) Nissaggiya-pacittiya
Tam Thập Giới Xả Đọa Tỳ
Kheo (Tăng): Nissaggiya-pacittiya (skt)—Từ Nissaggiya-pacittiya gốc
Nam Phạn, có hai phần: phần thứ nhất là Nissaggiya có nghĩa là từ bỏ; phần
thứ hai Pacittiya có nghĩa là điều giải trước giáo đoàn. Con người thường
có khuynh hướng sa ngã; vì thế dù đã gia nhập vào cuộc sống tự viện, chư
Tăng Ni vẫn thỉnh thoảng vi phạm luật sống trong tự viện, như chấp nhận
quá số vật dụng hằng ngày được Đức Phật quy định cho Tăng Ni. Chính vì thế
mà Đức Phật đã đặt ra thanh quy tự viện, nhằm giúp chư Tăng Ni tránh phạm
phải lỗi lầm. Đây là ba mươi giới mà người phạm tội phải giải thích trước
giáo đoàn và phải bị phạt cấm phòng sáu bữa—The Nissaggiya-pacittiya has
two components: the word Nissaggiya means giving up; and the word
Pacittiya means reconciliation or expiation. A man by his true nature is
subject to lapses; therefore, even after joining the monastic life, the
monk sometimes, makes transgression of the monastic rules, i.e., accepting
things of daily use in excess of the number allowed by the Buddha is not
proper for monks and nuns. Thus, the Buddha set forth rules that help
making monks and nuns free from transgressions. These are thirty offences
which require explanation and punishment for the offenders is six-day room
retention.
1)
Cấm cất giữ dư chăn áo quá mười ngày: Not to wear or keep an extra
robe for more than ten days.
2)
Cấm bỏ chăn áo ở một nơi khác, trong một đêm: Not to leave robes
and sleeping material in another place, even for one night (monks should
not be away, separated from the three robes, even for one night).
3)
Khi áo rách mất, có người cúng dường vải, dù không đúng thời (trai
tăng tự tứ) vị Tăng vẫn có thể nhận. Khi nhận là phải may cho nhanh; tuy
nhiên, nếu không đủ vải may, có thể để dành chờ có thêm, nhưng cấm để dành
vải quá một tháng: When robes worn out, and the robe-material is accrued
to the monk, even not at the right time, it may be accepted by that monk
if he so wish. Having accepted it, it should be made up quickly. But if it
is not sufficient for him, that robe-material may be laid aside by that
monk for a month at most.
4)
Cấm bảo Tỳ Kheo Ni xa lạ, giặt nhuộm hay cất giữ áo cho mình: A
monk should not get a soiled robe washed or dyed or beaten by a nun who is
not in relation.
a)
Tuy nhiên, nếu không ai bảo mà vị Tỳ Kheo Ni ấy tự giặt, hay vị ấy
giặt một cái áo chưa xài thì không phạm tội: However, if she washes it
unasked, or if he makes her wash an unused robe, there is no offence.
b)
Nếu người mà vị Tỳ Kheo sai giặt áo là một người tập sự hay Sa Di
Ni, thì không phạm tội: If it is washed by a female probationer or by a
female novice, there is no offence.
5)
Cấm nhận áo của một Tỳ Kheo lạ, trừ sự đổi áo mới: Not to accept a
robe from the hand of a nun who is not in relation, except in exchange.
6)
Cấm hỏi xin áo với nam nữ thí chủ, trừ khi thắt ngặt (khi áo bị mất
hay bị hư hại): A monk should not ask a man or woman householder for a
robe, except at the right time (robe is stolen or destroyed).
7)
Cấm nhận nhiều chăn áo quá bộ, trừ khi thắc ngặc: Not to accept
more than an inner and upper robes (if a monk is offered robe-material for
many robes, then at most he should accept enough for an inner and an upper
robe. If he accepts more than that there is an offence of expiation
involving forfeiture).
8)
Cấm tự ý muốn kiểu cắt may, khi có một thí chủ định sắm cho áo:
When there is a householder plans to offer robe-material, or robe-fund, a
monk should not design the robe as he wishes.
9)
Cấm tự ý muốn kiểu cắt may, khi có nhiều thí chủ định sắm cho: When
there are two or more householders plan to offer robe-material or
robe-fund, a monk should not design the robe as he wishes.
10)
Cấm nhận tiền để may áo, và hối thúc Giáo Hội may liền: Not to
obtain robe-fund and urge the Order to make the robe immediately.
11)
Cấm dùng chăn áo bằng tơ, lụa, hàng, mặc dầu có pha lộn vải: A monk
should not cause a rug to be made mixed with silk.
12)
Cấm dùng ngọa cụ màu đen rặt, không có pha lộn màu khác: A monk
should not cause a rug to be made of pure black sheep’s wool.
13)
Cấm dùng ngọa cụ màu trắng rặt, không có pha lộn màu khác: A monk
should not cause a new rug to made of pure white (if a monk should cause a
new rug to be made not taking two portions of pure black sheep’s wool, the
third of white, the fourth of reddish brown colors, there is an offence of
expiation involving forfeiture).
14)
Cấm chưa đúng sáu năm, mà sắm thêm ngọa cụ khác: A monk should not
get rid of a rug if it’s less than six years old (a new rug which a monk
has made should last for six years. If, within six years, whether he has
got rid of or has not got rid of that former rug, but he has a new rug
made, except on the agreement of the Order, there is an offence of
expiation involving forfeiture).
15)
Cấm lấy ngọa cụ mới, che cho cái cũ làm mau hư: Not to take the new
rug to wrap around the old rug in order to disfigure it.
16)
Cấm khi viễn hành có ai cúng vải, mà ôm đi xa quá ba ngàn thước:
Sheep’s wool may accrue to a monk as he is going along a road. It may be
accepted by a monk, if he likes; but having accepted it, it should be
conveyed in his own hands for three yojanas at the utmost. If he carries
further than that, there is an offence of expiation involving forfeiture.
17)
Cấm biểu Tỳ Kheo Ni xa lạ, giặt, nhuộm, hay cất gĩ vải cho mình: A
monk should not have sheep’s wool washed or dyed or combed by a nun who is
not in relation.
18)
Cấm nhận tiền bạc vàng, gởi hoặc bảo kẻ khác nhận thế: A monk
should not take gold and silver, nor should he ask another person to take
for him.
19)
Cấm buôn bán đồ quý báu: A monk should not engage in various
transactions in which gold and silver is used.
20)
Cấm buôn bán bất luận vật gì: A monk should not engage in any kinds
of bartering.
21)
Cấm giữ thêm một cái bát, cất quá mười ngày: A monk should not keep
an extra bowl for more than ten days.
22)
Cấm kiếm bát mới tốt, mặc dầu đúng năm mà cái cũ vẫn còn xài được:
A monk should not get another new bowl in exchange for the old bowl, even
though the old bowl is very old, but is still usable (If a monk sould get
another new bowl in exchange for a bowl mended in less than five places,
there is an offence of expiation involving forfeiture. That bowl is to be
forfeited by that monk to the company of monks, and whatever the last bowl
belonging to that company of monks, that should be given to this monk with
the words: “Monk, this is a bowl for you; it should be kept until it
breaks.” That is the proper course in this case).
23)
Cấm để dành thuốc, đường, dầu, quá bảy ngày, trừ khi đau bệnh mà có
người cúng dường: A monk should not store medicine, sugar, fresh butter,
oil, honey, etc. for over seven days, except when he is ill.
24)
Cấm xin vải choàng tắm mùa mưa trước một tháng, dùng trước 15 ngày:
A monk should not look for robe-material as a cloth for the rain a month
before the monsoon, and put it on fifteen days before the monsoon starts.
25)
Cấm giận hờn đòi lại áo khi đã cho người rồi: A monk should not
give a robe to another monk and then take it back because he is angry or
displeased of that monk.
26)
Cấm đem chỉ cho thợ dệt xa lạ dệt áo cho mình khi có người cúng: A
monk should not ask a man or a woman householder who is not a relation to
weave his robe (saying this robe-matrial is being especially woven for me,
please make it long and wide, and make it evenly woven, well woven and
well scraped, etc).
27)
Cấm ra kiểu ni cho thợ dệt, khi thí chủ dệt áo cho mình: A monk
should not ask for yarn, or should not have robe-material woven by
weavers; nor should he put forward a consideration with regard to
measurements, i.e., make it long and wide and rough, and make it evenly
woven and well woven and well scraped and well combed.
28)
Cấm đã lãnh áo trước kỳ, mà khi đến lệ lại còn hỏi nữa: A monk
should not obtain the robe before the robe-season, lay it aside, and ask
again during the robe-season.
29)
Sư ẩn cư khi về Giáo Hội, cấm gởi áo nhà quen quá 6 ngày: Having
spent the rains up to the full moon of the rains, in case a monk who is
staying in such lodgings as those jungle lodgings which are held to be
dangerous and frightening, so desires, he may lay aside one of his three
robes inside the a house; and should there be any reason for that monk to
be away, separated from that robe, that monk can be away and separated
from that robe for at most six nights. Should he be away, separated from
that robe for longer than that, except on the agreement of the Order,
there is an offence of expiation involving forfeiture.
30)
Cấm lén lấy một món đồ gì của Giáo Hội: A monk should not take any
things that belong to the Order.
(V) Pacittiya
Cửu Thập Nhị Giới Đọa:
Pacittiya (skt)—Theo Luật Tạng, 90 giới Ba Dật Đề, nếu phạm một trong
những tội nầy mà chí thành phát lồ sám hối trước Tăng chúng, thì tội được
tiêu khiên. Nếu không chí thành phát lồ sám hối, chẳng những sẽ trở ngại
cho việc khởi sanh thiện pháp, mà sẽ còn bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc
sanh—According to The Book of Discipline, Part II and III, translated into
English by I.B. Horner, ninety-two Pacittiya offences which require
confession and repentance. If a monk doing any of them, makes a confession
of it before the Sangha with clear heart, he will become free from the
offence. If he doesn’t, the offence itself will not only obstruct his
development of wholesome acts, but it will also cause his rebirth in lower
realms, i.e., hell, hungry ghosts, or animal.
1)
Cấm cho rằng phải một việc sai trái: A monk should not tell a
conscious lie (telling a conscious lie means the words, the utterance, the
speech, the talk, the language, the intimation, the un-ariyan statement of
one intent upon deceiving with words, saying: “I have not seen what I have
seen, heard what I have not heard, sensed what I have not sensed, etc).
2)
Cấm chê bai làm người rủn chí: A monk should not should not speak
insulting speech to discourage people.
3)
Cấm nói lưỡi hai chiều đâm thọc làm cho người ta giận nhau: A monk
should not speak slandering speech to cause people to break their harmony.
4)
Cấm để cho người chưa thọ đại giới thuyết pháp. Tuy nhiên, nếu cùng
bậc thiện hữu tri thức tại gia nghiên cứu kinh điển thì không phạm giới Ba
Dật Đề: A monk should not make one who is not ordained to speak dharma
line by line. However, if a monk studies together with lay good advisors,
there is no offence of Pacittiya.
5)
Cấm ở quá hai đêm chung với người chưa thọ giới nhà sư: A monk
should not lie down in a sleeping place with one who is not ordained for
more than two nights.
6)
Cấm ở chung nhà với đàn bà trong một đêm: A monk should not lie
down in a sleeping place with a woman.
7)
Cấm một mình thuyết pháp cho đàn bà nghe, dù chỉ năm sáu câu mà
không có đàn ông trí thức tham dự: A monk should not teach dharma to women
in more than five or six sentences, except a learned man is present.
8)
Cấm khoe mình đắc đạo có phép thần thông với người chưa thọ đại
giới: A monk should not speak of a condition of furthermen to one who is
not ordained.
9)
Cấm học tội một vị Tỳ Kheo khác với người chưa thọ giới nhà sư: A
monk should not speak of another monk’s very bad offence to one who is not
ordained.
10)
Cấm đào đất, cuốc đất, hay sai người đào cuốc: A monk should not
dig the ground or have it dug.
11)
Cấm đốn cây: A monk should not destroy vegetable growth.
12)
Cấm tranh cãi nhiều lời làm cho người ta phiền nhiễu: A monk should
not argue to disturb other people.
13)
Cấm chê bai, khi dễ, nói ác, hay xúc phạm đến vị Sư Trị Sự trong
Giáo Hội: A monk should not defame or look down or bad mouth in
criticizing the headmaster of the Order.
14)
Cấm dùng đồ của chùa mà bỏ ở ngoài, làm cho hư bể: A monk should
not spread in the open air a chair or a mattress or a stool belonging to
the Order, setting forth, but does not removed or have it removed, to
cause it destroyed.
15)
Cấm dùng đồ của chùa, khi đi không dẹp cất: A monk should not
spread a sleeping place or having it spread in a dwelling belonging to
the Order, setting forth, but should neither remove it nor have it
removed
16)
Cấm khi đi lữ hành, giành chỗ nằm của một người khác: A monk should
not lie down in a sleeping place in a dwelling belonging to the Order,
knowing that he is encroaching upon the space intended for a monk arrived
first.
17)
Cấm đuổi hay sai đuổi một vị Tỳ Kheo không hạp ý mình ra khỏi
phòng: Out of angry and displeased, a monk should not throw out another
monk or cause him to be thrown out from a dwelling place belonging to the
Order.
18)
Nếu ở phần trên gác, khi giăng mùng lót ván, cấm để cây rớt trúng
người: A monk who dwells in a lofty cell with an upper part, in a dwelling
place belonging to the Order. He should not cause any boards or removable
feet of his couch to fall down to hurt other people.
19)
Khi lợp tịnh xá, cấm dùng đồ quá nhiều chất nặng khiến bị sập: A
monk should not cover his dwelling place with heavy material that collapse
to harm other people.
20)
Cấm lấy nước dùng khi biết trong nước ấy có côn trùng: A monk
should not sprinkle grass or clay, or should not have them sprinkled if he
knows that the water contains life.
21)
Khi không có lệnh của Giáo Hội sai đi, cấm dạy đạo, đọc giới bổn
với Tỳ Kheo Ni: A monk should not exhort nuns if there is no order from
the Sangha.
22)
Mặc dầu có lệnh Giáo Hội, cấm thuyết pháp với chúng Tỳ Kheo Ni từ
buổi chiều tối đến sáng: Even though agreed upon by the Order, a monk
should not exhort nuns after sunset.
23)
Khi không có lệnh của Giáo Hội, cấm đi đến khu của Tỳ Kheo Ni để
hỏi han hay cỗ võ: When there no order from the Sangha, a monk should not
approach nun’s quarters, and exhort them.
24)
Cấm nói giễu rằng các vị sư đi thuyết pháp cho Tỳ Kheo Ni cốt chỉ
để ăn uống no say: A monk should not joke that the elder monks are
exhorting nuns for the sake of gain.
25)
Cấm tặng áo cho Tỳ Kheo Ni xa lạ, trừ khi mua dùm hoặc đổi áo mới:
A monk should not give robe-material to a nun who is not a relation,
except in exchange.
26)
Cấm may áo hay nhờ ai may áo cho Tỳ Kheo Ni xa lạ: A monk should
not sew or cause a robe to be sewn for a nun who is not a relation.
27)
Cấm đi chung với Tỳ Kheo Ni dầu từ làng nầy tới làng kia, trừ khi
ngặt nghèo (trường hợp ngặt nghèo ở đây phải được giáo hội đồng ý là đường
xá nguy hiểm và ghê sợ đến nỗi người đi đường phải mang vũ khí): A monk
should not have arranged together with a nun to go along the same road,
even among villages, except at the right time (in this case, the right
time must be agreed upon by the Order that the road is dangerous and
frightening that one must go with a weapon)
28)
Cấm hẹn nhau đi chung một thuyền, trừ khi qua đò: A monk should not
have arranged together with a nun to embark in a boat and to go either
upstream or downstream, except for crossing over to the other bank on a
ferry.
29)
Cấm ăn cơm của thí chủ đãi, khi nhờ có Tỳ Kheo Ni nói vào thí chủ
mới chịu đãi: A monk should not eat alms-food knowing that it was procured
through the intervention of a nun.
30)
Cấm ngồi chung với Tỳ Kheo Ni, ở một chỗ che khuất: A monk should
not sit down in a private place together with a nun.
31)
Cấm ăn đến hai buổi cơm một ngày, hai buổi hai ngày trong một nhà:
A monk should not eat more than one meal at a public house, nor should he
eat two meals in two days at the same house.
32)
Cấm ăn nhiều buổi cơm, ở nhiều chỗ trong một ngày, trừ khi đau yếu:
A monk should not eat more than one meal and residing at various locations
in one day, except when he is ill.
33)
Cấm ăn no rồi mà ăn lại nữa, nhưng khi còn đói có thể hỏi thêm: A
monk should not eat solid food or soft food that is not left over when he
feels full (satisfied); however, when he is still hungry, he can ask for
more food.
34)
Cấm lãnh đồ ăn nhiều quá mà không chia sớt cho vị khác (Khi vị sư
đi hay được mời thỉnh đến nhà thí chủ và được cúng dường hai hay ba bát
bột nhồi mật để mang về, vị Tăng ấy có thể nhận. Nếu muốn nhiều hơn thế là
phạm tội Ba Dật Đề. Nếu nhận về tự viện mà không chia lại cho chư Tăng
trong tự viện cũng bị phạm tội Ba Dật Đề): When receiving a lot of
alms-food, a monk must share them with other monks in the Order. If not,
there is an offence of Pacittiya (If a monk, going up to a family, and was
invited to take cakes or barley-gruel, two or three bowlfuls may be
accepted by the monk. Should he accept more than that, there is an offence
of Pacittiya. Should he accept two or three bowfuls, take these cakes back
from there and would not share with other monks in the monastery, there is
an offence of Pacittiya).
35)
Cấm ăn no rồi mà ăn lại nữa, nhưng khi còn đói có thể hỏi thêm: A
monk should not eat solid food or soft food that is not left over when he
feels full (satisfied); however, when he is still hungry, he can ask for
more food.
36)
Cấm ép vị sư khác ăn no rồi mà phải ăn lại nữa: A monk should not
ask another monk who has eaten, who is satisfied, to take solid or soft
food that is not left over.
37)
Cấm ăn sái giờ từ quá ngọ tới ngọ hôm sau: A monk should not eat or
partake solid or soft food at the wrong time (wrong time means afternoon
has passed until sunrise).
38)
Cấm để dành đồ ăn cách đêm đặng hôm sau khỏi đi khất thực: A monk
should not eat or partake of solid food or soft food that was stored so
that he doesn’t have to go begging for alms-food the next day
39)
Cấm hỏi đồ ăn mỹ vị, trừ cơn đau phải tùy món cần dùng: A monk who
is not ill should not ask for sumptuous foods (sumptuous foods include
ghee, fresh butter, oil, honey, fish, meat, milk, curds, etc.).
40)
Cấm dùng và để đồ ăn vào miệng, món chẳng phải của cúng dường: A
monk should not convey to his mouth nutriment not given.
41)
Cấm trao tay thí đồ ăn cho lõa thể hay nam nữ ngoại đạo: A monk
should not give with his own hand solid food or soft food to a naked
ascetic, or to a wanderer or to a female wanderer.
42)
Cấm oán ghét, kiếm cớ làm cho một vị sư khác bơ vơ nhịn đói: A monk
should not find fault to dismiss another monk from going into a village
for alms-food to cause that monk to starve.
43)
Cấm đi vào nhà có đồ ăn mà ngồi xuống: A monk should not intrude
and sit down in a house with food.
44)
Cấm lãnh đồ ăn rồi, mà còn ngồi lại chỗ kín, trong nhà có đàn bà
đẹp: After receiving alms-food, a monk should not sit down in a private
place on a secluded seat together with a woman.
45)
Cấm ngồi gần đàn bà chỗ chán chường (chỗ riêng tư có thể đưa đến
việc hành dâm): A monk should not sit down together with a woman in a
private place (that can lead to the development of sexual intercourse).
46)
Cấm nếu không được mời mà tự ý đến nhà gia chủ trước giờ ăn, trừ
phi đó là lúc phát áo (sau mùa an cư kiết hạ): Whatever monk, being
invited and being provided with a meal, not having asked for permission if
a monk be there, should call upon families before a meal or after a meal,
except at a right time, there is an offence of expiation. In this case, a
right time is the time of giving robes, the time of making robes:
47)
Ngoại trừ lúc bệnh, cấm nhận trước lời mời đến nhà gia chủ trước kỳ
hạn đến bốn tháng: When a monk is not ill, an invitation to accept a
requisite for four months may be accepted, unless there be a renewed
invitation, unless there be a permanent invitation. If one should accept
for longer than that, there is an offence of expiation.
48)
Cấm xem diễn binh tập trận: A monk should not go to see an army
fighting.
49)
Nếu vì lý do gì đó mà phải đến viếng trại binh, cấm ở chung với
quân binh hai ngày: If there is some reason for a monk to go to visit the
army, that monk should not stay with the army for two nights.
50)
Nếu phải viếng trại binh, cấm đi xem sự tập tành ngựa voi, quân
binh đấu võ: If a monk, staying with the army for less than two nights, he
should not go see a sham-fight or to the troops in array or to the massing
of the army or to see a review of the army.
51)
Cấm uống rượu men, các thứ rượu, thuốc hút, á phiện, trầu cau: A
monk should not drink fermented liquor and spirits, nor should he smoke
opium, nor should he chew betel.
52)
Cấm lấy tay thọc lét để chọc cười những vị Tăng khác: A monk should
not tickle with the fingers to make other monks laugh.
53)
Cấm chơi thể thao hay giởn cợt một cách quá tự do dưới nước: A monk
should not playing in the water (sporting in the water).
54)
Cấm bất tuân và khinh dễ lời quở trách cản ngăn: A monk should not
disrespect any blame or warning from the elder monks.
55)
Cấm dọa nạt làm cho một vị Tỳ Kheo khác kinh sợ: A monk should not
frighten another monk.
56)
Cấm vô cớ chụm lửa chỗ trống, trừ khi đau yếu, lạnh lẽo hay trong
đêm tối: If he is not ill, a monk should not warm himself, kindle or cause
a fire to be kindled.
57)
Cấm tắm tới hai lần trong nửa tháng, trừ khi đau yếu, dơ hay nực
vào trời hè: A monk should not bathe at intervals of less than half a
month, except at a right time, i.e., the time of illness, the body is
dirty, or too hot during the summer time.
58)
Cấm nhận, mặc, hay dùng chăn áo, màu vải trắng, mà phải nhuộm lại
cho xấu trước khi dùng: A monk should not obtain or wear a robe (white)
that has no disfigurement of black, dark green or muddy colors. If a monk
makes use of a new robe without taking any one mode of disfigurement (of
the three modes of disfigurements), there is an offence of expiation.
59)
Cấm lấy lén lại đồ, áo đã cho người ta rồi: A monk should not get
back things that he already offered to another monk. If a monk assigns a
robe to a monk or to a nun or to a female probationer or to a male novice,
then make use of it or take it back to give to another monk, there is an
offence of expiation.
60)
Cấm giễu cợt mà giấu, hoặc xúi người dấu đồ của người khác (như
bát, áo, vải, vân vân): A monk should not hide or cause to hide another
monk’s bowl or robe or cloth, even in fun.
61)
Cấm cố ý giết chết mạng thú vật: A monk should not intentionally
deprive a living thing of life.
62)
Cấm uống nước mà mình biết là có trùng: A monk should not knowingly
make use of water that contains living things.
63)
Cấm khiêu gợi sự rầy rà sau khi đã êm thuận: A monk should not
knowingly open up for a further formal act a legal question already
settled according to rule.
64)
Cấm dấu tội thô tục, chọc ghẹo, giao dâm của một Tỳ Kheo (tội thô
tục nầy liên hệ đến Tứ Ba La Di hay Thập Tam Giới Tăng Tàn): A monk should
not knowingly conceal another monk’s very bad offence (an offence that
involves defeat and the thirteen entailing a formal meeting of the Order).
65)
Cấm nhận vào hàng Tỳ Kheo, kẻ nào chưa đúng 20 tuổi trọn: A monk
should not knowingly confer the Upasampada Ordination on an individual
under twenty years of age.
66)
Cấm đi chung với gian nhân, dầu từ làng nầy hay làng kia cũng vậy:
A monk should not have arranged together with a caravan set on theft,
should not knowingly go along the same high road, even among villages.
67)
Cấm đi chung với đàn bà dầu từ làng nầy tới làng kia cũng vậy, trừ
khi ngặt nghèo: A monk should not have arranged together with a woman to
go along the same road (see the last part of number 27).
68)
Cấm nói “Tôi hiểu giáp pháp được truyền dạy bởi Đức Thiện Thệ, mà
khi tu theo những pháp nầy sẽ có những trở ngại.” Chư Tăng sẽ hỏi đi hỏi
lại người phạm lỗi nầy ba lần. Nếu người ấy vẫn khư khư không sửa, thì
người ấy phạm luật Ba Dật Đề: Whatever monk should speak thus: “In so far
as I understand dhamma taught by the Blessed One, it is that in following
those things called stumbling-blocks by the Blessed One, there is no
stumbling-block at all;” that monk should be spoken to by the monks thus:
“Do not, venerable one, speak thus, do not misrepresent the Blessed One,
misrepresentation of the Blesed One is not all seemly, and the Blessed One
certainly would not speak thus; in many a figure, your reverence, are
things that are stumbling-blocks called stumbling-blocks by the Blessed
One, and in following these there is a veritable stumbling-block.” And if
that monk, when he has been spoken to thus by the monks, should persist as
before, that monk should be admonished by the monks up to the third time
for giving up that course. If being admonished up to the third time, he
should give it up, that is good. But if he should not give it up, there is
an offence of expiation.
69)
Cấm ăn uống và giao thiệp, hay nói chuyện với vị sư nói sái quấy: A
monk should not knowingly eat together with or be in communion with or
lie down in a sleeping place with a monk who speaks uncorrectly about the
Buddha-Dharma and misinterprets the Buddha.
70)
Cấm giữ tại chùa và để hầu mình, kẻ Sa Di nói sái quấy: A monk
should not knowingly allow the novice who speaks uncorrectly about the
Buddha-Dharma and misinterprets the Buddha, should not encourage that
novice, should not support, should not eat with that novice, nor should he
lie down in a sleeping place with that novice .
71)
Cấm chối tội nói rằng không biết để đi hỏi lại: A monk, being
spoken to by monks regarding a rule, should speak thus: “Your reverences,
I will not train myself in this rule of training until I have inquired
about it of another experienced monk who is expert in discipline.” There
is an offence of Pacittiya. He should say: “Monks, it should be learnt, it
should be inquired into, it should be investigated by a monk who is
training.”
72)
Cấm nói phá rằng đọc giới bổn là phiền hà vô ích: When the
Patimokkha is being recited, a monk should not disparaging the rule of
training by sayng thus: “On what account are the lesser and minor rules of
training recited? They only tend to remorse, to vexation, to perplexity.”
73)
Cấm chối tội nói rằng tại mình không thuộc giới bổn: A monk should
not avoid being blamed by saying that he does not understand the
Patimokkha (Whatever monk, while the Patimokkha is being recited every
half-month, should speak thus: “Only now I do understand that this rule
is, as is said, handed down in a clause, contained in a clause, and comes
up for recitation every half-moth; if other monks should know concerning
this monk has sat down two or three times before, not to say oftener,
while Patimokkha was being recited, there is not only no freedom for that
monk on account of his ignorance, but he ought to be dealt with according
to the rule for the offence into which he has fallen there, and further
confusion should be put on him, saying: ‘Your reverence, this is bad for
you, this is badly gotten by you, that you, while the Patimokkha is being
recited, do not attend applying yourself properly.”
74)
Cấm giận mà đấm một vị Tỳ Kheo khác: When angry and displeased, a
monk should not give another monk a blow.
75)
Cấm giận mà vả, hay vặn tay một vị Tỳ Kheo khác: When angry and
displeased, a monk should not raise the palm of the hand against another
monk.
76)
Cấm cáo gian để làm hại rằng vị Tỳ Kheo khác phạm giới Tăng Tàn: A
monk should not defame another monk with an unfounded charge of an offence
entailing a formal meeting of the Order.
77)
Cấm cố ý nói vì cảm thấy thương xót một vị Tăng rằng: “Không bao
giờ vị ấy cảm thấy an ùi dù chỉ trong một lúc.”: Whatever monk should
intentionally arouse remorse in a monk thinking, “There will be no comfort
for him even for a moment,” if having done it for just this object, not
for another, there is an offence of expiation.
78)
Cấm học đi học lại, chuyện cãi lẫy gây gổ, sau khi đã êm thuận: A
monk should not stand overhearing other monks when they are quarrelling,
disputing.
79)
Cấm làm cản trở không cho thi hành điều mà giáo hội đã quyết nghị:
A monk should not first consent for ligitimate acts, and afterwards engage
in criticism.
80)
Cấm phá khuấy làm gián đoạn buổi hội nghị, bằng cách đứng dậy hay
bước ra ngoài: A monk should not break or interrupt the meeting, not
giving the consent by rising up or departing from his seat when the Order
is engaged in decisive talk.
81)
Cấm nói vị Tăng khác được áo vì sự quen biết với Giáo Hội: Whatever
monk, having given away a robe by means of a complete Order, should
afterwards engage in criticism, saying: “The monks are appropriating a
benefit belonging to the Order according to acquaintanceship,” there is an
offence of expiation.
82)
Nếu biết ai lấy của Giáo Hội mà không báo là phạm tội Ba Dật Đề:
Whatever monk should knowingly appropriate to an individual an apportioned
benefit belonging to the Order, there is an offence of expiation.
83)
Cấm vào cung vua thình lình, không chờ đợi được nghinh tiếp: A monk
should not suddenly enter the threshold of the king palace without waiting
to be welcome.
84)
Cấm lượm, hay sai lượm của quấy vật bỏ rơi, trừ khi nào biết rõ chủ
nhân mà muốn cất giùm: A monk should not pick up or cause another to pick
up treasure or what is considered to be treasure, except when he knows the
owner and picks to set aside for the owner to take it.
85)
Cấm vào làng sái giờ, trừ ra có việc của Giáo Hội: A monk should
not enter a village at the wrong time, unless the Order instructs him to
go for some kind of urgent thing to be done.
86)
Cấm dùng ống đựng kim bằng xương, sừng, ngà: A monk should not have
a needle-case made of bone or ivory or horn
87)
Cấm ngồi ghế cao (cao hơn tám lóng tay), nằm giường rộng, chiếu lớn
xinh đẹp: A monk should not sit on a couch or chair with the legs higher
than eight finger-breadths
88)
Cấm dồn ghế, nệm, gối bằng gòn tốt: A monk should not have a couch
or a chair made covered with good cotton.
89)
Cấm trải ngọa cụ choán chỗ rộng quá: A monk should not sit or lie
on a large piece of sleeping bag (oversize). When a piece of cloth to sit
upon is being made for a monk, it must be made to a proper measure. This
is the proper measure: in length two spans, in breadth one and a half
spans. In exceeding this measure, there is an offence of expiation.
90)
Cấm dùng vải giẻ nhiều quá để bó chỗ đau (bốn gang chiều dài và hai
gang chiều rộng): A monk should not use oversize itch-cloth (four spans in
length and two spans in breadth).
91)
Cấm dùng chăn tắm lớn quá: A monk should not use oversize towel or
cloth for the rains. When a cloth for the rains is being made for a monk,
it must be made to a proper measure: six spans in length, two and a half
spans in breadth.
92)
Cấm mặc áo rộng dài như áo của Phật (áo của Phật chiều dài chín
gang, chiều rộng sáu gang): A monk should not have a robe made the measure
of the Buddha’s robe, or more (the measures for the Buddha’s robe are nine
spans in length and six spans in breadth).
(VI) Patidesaniya
Tứ Giới Hối Quá:
Patidesaniya (skt)—Theo Luật Tạng, chữ Patidesaniya là gốc chữ Bắc Phạn,
có nghĩa là phát lồ xưng ra sự vi phạm luật xuất gia trước Giáo Hội. Bốn
giới Ba La Đề Xá Ni là những vi phạm mà hình phạt phải được Giáo Hội quyết
định—According to the Vinaya Pitaka, the word Patidesaniya is a Sanskrit
word means a confession of an offence or some sort of transgression of
monastic rules which ought to be confessed before the Order, and the
punishments for these offences are decided by the Order.
1)
Cấm chẳng đau mà ăn nhờ đồ của Tỳ Kheo Ni xa lạ: A monk should not
eat or partake of solid food or soft food, having accepted it with his own
hand from the hand of a nun who is not a relation.
2)
Cấm chẳng từ chối Tỳ Kheo Ni nói với thí chủ đãi cơm cho mình (khi
thí chủ mời chư Tăng đến nhà thiết đãi Trai Tăng. Nếu có một vị Tỳ Kheo Ni
đến bên bảo thí chủ đem đến cho chư Tăng món cà ri, món cơm, vân vân. Vị
Tăng phải quở trách ngay vị Tỳ Kheo Ni ấy “Ni sư nên đứng qua một bên khi
chư Tăng đang thọ dụng.” Nếu không là phạm phải tội Ba La Đề Xá Ni): When
a householder invites a monk to come to the family. If a nun comes to be
standing as though giving directions, saying: “Here give curry, give
cooked rice here,” that nun should be rebuked by the monk, saying: “Stand
aside, sister, while the monks eat.” If not, the monk violates the
Patidesaniya.
3)
Cấm xin mãi một nhà, làm cho người ta nghèo túng: A monk should not
keep begging for foods at the same house to cause them to be poor because
of their continuous offerings.
4)
Cấm sư ẩn cư ở chỗ nguy hiểm, để có sự nguy hại cho thí chủ khi đem
cơm tới cho mình: A monk should not reside in those jungle lodgings that
are dangerous and frightening for donators who travel to offer foods and
drinks.
(VII) Sekhiyadhamma
Giới Chúng Học Tăng:
Sikkka-karaniya (skt)—Sekhiya (p)—Tiếng Phạn gọi là Thức Xoa Ca La Ni—Theo
Luật Tạng, Thức Xoa Ca La Ni là một trăm giới cần học trong sinh hoạt hằng
ngày—According to the Vinaya Pitaka, Sikkka-karaniya includes one hundred
rules of conduct which are connected with daily activities.
1)
Cái chăn phải vận từ nịch lưng tới nửa ống chân, chứ không được
xăn, để phủ trùm rún và hai đầu gối. Nếu ai để chăn xăng lên hay lòng
thòng ra ngoài, dù phía trước hay phía sau, đều bị phạm tội Thức Xoa Ca La
Ni: A monk should wear the inner robe all round for covering the circle of
the navel and the circles of the knees. Whoever out of disrespect dresses
with an inner robe hanging down in front or behind, there is an offence of
wrong-doing.
2)
Bộ áo ba cái phải mặc cho có thứ lớp: A monk should wear the upper
robe even al round (whoever out of disrespect puts on an upper robe
hanging down in front or behind, there is an offence of wrong-doing).
3)
Chẳng nên đi vào nhà cư sĩ mà không mặc áo che mình: A monk should
not, out of disrespect, having uncovered the body, go among the houses.
4)
Chẳng nên ngồi trong nhà cư sĩ mà không mặc áo che mình: A monk
should not, out of disrespect, sit down among the house without proper
clothes.
5)
Chẳng nên đi vào nhà cư sĩ mà múa tay: A monk should not go
fidgeting amidst the houses (making play with hand or foot).
6)
Chẳng nên ngồi trong nhà cư sĩ mà múa tay: A monk should not sit
fidgeting in inhabited areas (making play with hand or foot in the
houses).
7)
Chẳng nên đi vào nhà cư sĩ mà mắt trông bên nầy, bên kia. Mắt vị ấy
chỉ nên nhìn xuống và xa về phía trước chỉ khoảng bề ngang một luống cày:
A monk should not go among the houses with eyes glanced around. He should
go amidst the houses with eyes cast down looking only a plough’s distance
ahead.
8)
Chẳng nên ngồi trong nhà cư sĩ mà mắt trông bên này, bên kia. Mắt
vị ấy chỉ nên nhìn xuống và xa về phía trước khoảng bề ngang một luống
cày: A monk should not sit down in the houses with eyes glanced around. He
should sit down amidst the houses with eyes cast down looking only a
plough’s distance ahead.
9)
Chẳng nên đi vào nhà cư sĩ mà lật áo lên tới vai: A monk should not
go among the houses with robes lifted up to the shoulders, either on one
side or on both (if out of disrespect having lifted up the robe on one
side or on both, there is an offence of wrong-doing).
10)
Chẳng nên ngồi trong nhà cư sĩ mà lật áo lên tới vai: A monk
should not sit down amidst the houses with robes lifted up to the
shoulders, either on one side or on both.
11)
Chẳng nên cười cợt khi đi vào nhà cư sĩ: A monk should not go into
the houses with loud laughter.
12)
Chẳng nên cười cợt khi ngồi trong nhà cư sĩ: A monk should not sit
down in the houses with loud laughter.
13)
Chẳng nên gây tiếng động, dù nhỏ, khi đi vào và ngồi trong nhà cư
sĩ: With little noise wil I go sit down amidst the houses, is a training
to be observed. One should go sit down amidst the houses with little
noise.
14)
Cấm khinh mạn gây nên tiếng động lớn khi đi vào và ngồi trong nhà
cư sĩ: Whoever out of disrespect, making a loud noise, a great noise, goes
sits down amidst the houses, there is an offence of wrong-doing.
15)
Chẳng nên đi vào nhà cư sĩ mà lay chuyển thân mình: A monk should
not go amidst the houses swaying the body. He should hold the body
straight.
16)
Chẳng nên ngồi trong nhà cư sĩ mà lay chuyển thân mình: A monk
should not sit down amidst the houses sway the body. He should hold the
body straight.
17)
Cấm đánh đàng xa khi đi vào và ngồi trong nhà cư sĩ: Not swaying
the arms will I go sit down amidst the houses, is a training to be
observed. One should not go sit down amidst the houses swaying the arms.
One should go sit down holding the arms straight.
18)
Cấm khinh mạn, tay vừa đánh đàng xa vừa đi vào và ngồi tại nhà cư
sĩ: Whoever out of disrespect, the arms swaying , goes sits down amidst
the houses bending the arms, there is an offence of wrong-doing.
19)
Cấm lắc lư đầu khi đi vào nhà cư sĩ: Not swaying the head will I go
sit down amidst the houses, is a training to be observed. One should not
go sit down amidst the houses swaying the head. One should go sit down
holding the head straight.
20)
Cấm khinh mạn, vừa đi vào nhà cư sĩ mà đầu vừa lắc lư: Whoever out
of disrespect, the head swaying , goes sits down amidst the houses bending
the head, there is an offence of wrong-doing.
21)
Chẳng nên đi vào nhà cư sĩ mà chắp tay sau lưng hay chống nạnh: A
monk should not enter any lay people’s houses with the arms placed on the
hips, or with the hands on both sides and the elbows turned outwards
(akimbo).
22)
Chẳng nên ngồi trong nhà cư sĩ mà chắp tay sau lưng hay chống nạnh:
A monk should not sit down in lay people’s houses with the arms akimbo
(arms place on the hips, or hands on both sides and elbows turned
outwards).
23)
Cấm ngồi trong nhà cư sĩ mà ngẫng đầu cao: One should not go sit
down muffled up amidst the houses.
24)
Cấm ngồi trong nhà cư sĩ mà mặc áo: Whoever out of disrespect goes
sits down amidst the houses, having dressed himself, including his head,
in the upper robe, there is an offence of wrong-doing.
25)
Chẳng nên ngồi chồm hổm trong nhà cư sĩ: A monk should not crouch
down on the heels (sit arms akimbo) in the lay people’s houses.
26)
Cấm ngồi trong nhà cư sĩ mà lè lưỡi hay chống tay lên hàm: One
should not sit down amidst the houses lolling. Whoever out of disrespect
sits down amidst the houses lolling, there is an offence of wrong-doing.
27)
Phải để ý khi lãnh cơm: A monk should accept almsfood attentively.
Whoever out of disrespect accepts almsfood inattentively, as though
desirous of throwing it away, there is an offence of wrong-doing.
28)
Cấm nhận thực phẩm cúng dường mà ngó qua ngó lại: One should accept
almsfood thinking of the bowl. Whoever out of disrespect accepts almsfood,
looking about here and there, there is an offence of wrong-doing.
29)
Cấm nhận quá nhiều cà ri: Almsfood with equal curry should be
accepted. Whoever out of disrespect accepts too much curry, there is an
offence of wrong-doing.
30)
Chẳng nên xới cơm lên che khuất đồ ăn đặng lãnh thêm nữa: A monk
should not hide (cover up) sauce and curries with rice out of desire to
get more. One should accept almsfood at an even level. Whoever out of
disrespect accepts heaped-up almsfood, there is an offence of wrong-doing.
31)
Lãnh cơm và đồ ăn đủ rồi, phủ cái bát lại, vừa ăn vừa quán tưởng.
Những ai bất kính, ăn đồ khất thực mà không quán tưởng là phạm tội: After
accepting enough alms-food, a monk should cover the bowl; then he should
sit straight up, eat and contemplate at the same time. Whoever out of
disrespect eats almsfood inattentively, there is an ofence of wrong-doing.
32)
Cấm ngó qua ngó lại khi thọ dụng thức ăn cúng dường: One should eat
almsfood thinking of the bowl. Whoever out of disrespect eats almsfood
looking about here and there, there is an offence of wrong-doing.
33)
Cấm lựa thức ăn khi thọ dụng đồ cúng dường: One should eat almsfoos
on continuous alms-tour. Whoever out of disrespect eats almsfood, having
chosen here and there, there is an offence of wrong-doing.
34)
Cấm ăn quá nhiều cà ri khi thọ dụng đồ cúng dường: Almsfood with
equal curry should be eaten. Whoever out of disrespect eats too much
curry, there is an offence of wrong-doing.
35)
Món nào xúc trước thì ăn trước: A monk should eat the alms-food
working down from the top without making exceptions (choosing or selecting
foods). One should eat almsfood not having chosen from the top. Whoever
out of disrespect eats almsfood having chosen from the top, there is an
offence of wrong-doing.
36)
Cấm che lấp cà ri để được cúng dường thêm: One should not cover up
the curry or the condiment with conjey, desiring something more. Whoever
out of disrespect covers up the curry or the condiment with conjey,
desiring something more, there is an offence of wrong-doing.
37)
Chẳng nên hỏi canh ngon, hoặc món lạ, trừ khi đau yếu phải tùy món
cần dùng: A monk should not ask for sauce and/or rice for his own
appetizing unless he is sick.
38)
Chẳng nên thấy vị khác lãnh đồ ăn mà sanh lòng thèm muốn. Chẳng nên
nhìn sang bát của người khác có ý thèm thuồng, nếu không là phạm tội: A
monk should not look enviously at another’s bowl. One should not look at
others’ bowls captious-mindedly. Whoever out of disrespect looks at
others’ bowls captious-mindedly, there is an offence of wrong-doing.
39)
Chẳng nên ăn miếng lớn: When eating alms-food, a monk should not
make up too large a mouthful. Whoever out of disrespect makes up too large
a mouthful, there is an offence of wrong-doing.
40)
Cấm để nguyên miếng đồ ăn dài mà cho vào miệng: One should make up
a piece of food into a round. Whoever out of disrespect makes up a long
piece of food, there is an offence of wrong-doing.
41)
Chẳng nên há miệng lớn, mà đút đồ ăn (chẳng nên há miệng trước khi
miếng đồ ăn được đưa đến miệng): A monk should not open the mouth till the
mouthful is brought to it. Whoever out of disrespect opens the mouth when
the mouthful is not brought close, there is an offence of wrong-doing.
42)
Chẳng nên cho nguyên bàn với thức ăn tay vào miệng khi đang ăn: One
should not put the whole hand into the mouth while eating. Whoever out of
disrespect puts the whole hand into the mouth while eating, there is an
offence of wrong-doing.
43)
Chẳng nên nói chuyện, khi ngậm một miệng đồ ăn: A monk should not
talk with the mouth full (talk with a mouthful in the mouth). Whoever out
of disrespect talks with a mouthful in the mouth, there is an offence of
wrong-doing.
44)
Chẳng nên lấy cơm vò viên, mà thảy vào miệng: When eating
alms-food, a monk should not make up a round mouthful (eat tossing up
balls of food). Whoever out of disrespect eats tossing up bals of food,
there is an offence of wrong-doing.
45)
Chẳng nên ăn trám vàm đến nỗi rớt ra: A monk should not eat
scattering rice or lumps of boiled rice about. Whoever out of disrespect
eats breaking up the mouthfuls, there is an offence of wrong-doing.
46)
Chẳng nên đưa đồ ăn má bên này, qua má bên kia như khỉ: A monk
should not eat stuffing out the cheeks like a monkey (stuffed the cheek on
one side or on both). Whoever out of disrespect eats, having stuffed cheek
on one side or on both, there is an offence of wrong-doing.
47)
Chẳng nên quơ tay trong khi ăn: A monk should not eat shaking the
hand about. Whoever out of disrespect eats shaking the hands about, there
is an offence of wrong-doing.
48)
Cấm không được ăn những mảng cơm rời rạc: One should not eat
scattering lumps of boiled rice. Whoever out of disrespect eats scattering
lumps of boiled rice, there is an offence of wrong-doing.
49)
Chẳng nên lè lưỡi ra, hay lấy lưỡi liếm: A monk should not eat put
out the tongue, or eat licking or wiping, either the hand or the bowl.
50)
Chẳng nên nút đồ ăn trong khi ăn hay nút môi chùn chụt: A monk
should not suck the alms-food loudly, or smack the lips loudly.
51)
Chẳng nên nhai lớn tiếng hay phát ra tiếng gió: A monk should not
eat making loud sound or noise, or making a hissing sound.
52)
Chẳng nên liếm tay khi đang ăn: One should not eat licking the
fingers.
53)
Chẳng nên liếm chén khi ăn: One should not eat licking the bowl.
54)
Chẳng nên liếm môi khi đang ăn: One should not eat licking the
lips.
55)
Chẳng nên cầm bình uống nước mà chẳng rữa tay: A monk should not
accept a drinking-water pot or cup with the hands soiled with food.
56)
Chẳng nên tạt nước rữa bát với cơm cặn lợn cợn ra sân của thí chủ:
A monk should not throw out amidst the houses, rinsings of the bowl with
lumps of boiled rice (bowl washing water which has rice grains in it).
57)
Chẳng nên vị tình thuyết pháp cho kẻ vô lễ, cầm dù: A monk should
not teach Dharma to someone with an umbrella or a sunshade in his hand who
is not sick.
58)
Chẳng nên vị tình thuyết pháp cho kẻ vô lễ, không đau bệnh mà cầm
gậy: A monk should not teach Dharma to someone with a stick (staff) in his
hand and who is not sick.
59)
Chẳng nên vị tình thuyết pháp cho kẻ vô lễ, cầm dao: A monk should
not teach Dharma to someone with a knife in his hand.
60)
Chẳng nên vị tình thuyết pháp cho kẻ vô lễ, cầm giáo: A monk should
not teach Dharma to someone with a spear (lance) in his hand.
61)
Chẳng nên vị tình thuyết pháp cho kẻ vô lễ, đi guốc: A monk should
not teach Dharma to someone mounted on clogs (wooden shoes).
62)
Chẳng nên vị tình thuyết pháp cho kẻ vô lễ, đi dép: A monk should
not teach Dharma to someone wearing sandals who is not sick.
63)
Chẳng nên vị tình thuyết pháp cho kẻ vô lễ, cỡi ngựa, đi kiệu: A
monk should not teach the law to someone in a vehicle who is not sick.
Whoever out of disrespect teaches Dhamma to someone in a vehicle and who
is not ill, there is an offence of wrong-doing.
64)
Chẳng nên vị tình thuyết pháp cho kẻ vô lễ, nằm trên giường hay nằm
dưới đất trong khi mình ngồi: A monk should not sit to teach Dharma to
someone lying on a bed and who is not ill, or even lying on the ground.
65)
Chẳng nên vị tình thuyết pháp cho kẻ vô lễ, ngồi rong khi mình
đứng: A monk should not teach Dharma, standing, to someone who is sitting
down, and who is not sick
a)
Chẳng nên vị tình thuyết pháp cho kẻ vô lễ, ngồi trên ghế trong khi
mình ngồi dưới đất (ngồi chỗ tốt trong khi mình ngồi chỗ xấu): A monk
should not sit down on the ground to teach Dharma to someone sitting on a
seat and who is not ill.
b)
Chẳng nên vị tình thuyết pháp cho kẻ vô lễ, ngồi chỗ cao trong khi
mình ngồi chỗ thấp: A monk should not teach Dharma, having sat down on a
low seat, to someone sitting on a high seat and who is not ill.
66)
Chẳng nên vị tình thuyết pháp cho kẻ vô lễ che đầu: A monk should
not teach the law to someone with head covered (with a turban on his head)
and who is not sick.
67)
Chẳng nên vị tình thuyết pháp cho kẻ vô lễ dùng khăng quấn đầu: A
monk should not teach Dharma to someone wearing a head wrapping (whose
head muffled up) and who is not sick.
68)
Khi mình ngồi dưới đất, chẳng nên vị tình thuyết pháp cho kẻ không
có bệnh mà vô lễ ngồi trên ghế: Having sat down on the ground, dhamma
should not be taught to someone siting on a seat and who is not ill.
69)
Khi mình ngồi ghế thấp, chẳng nên vị tình thuyết pháp cho kẻ không
có bệnh mà vô lễ ngồi trên ghế cao: Dhamma should not be taught, having
sat down on a low seat, to someone sitting on a high seat and who is not
ill.
70)
Khi mình đứng, chẳng nên vô tình thuyết pháp cho kẻ không có bệnh
mà vô lễ ngồi: A monk should not teach Dhamma, standing, to someone who is
sitting down and who is not ill.
71)
Chẳng nên vị tình thuyết pháp cho kẻ vô lễ, đi trước mà mình đi
sau: A monk should not teach Dharma, going or walking behind, to someone
going or walking in front and who is not ill.
72)
Chẳng nên vị tình thuyết pháp cho kẻ vô lễ, đứng ở giữa đường mà
mình đứng ở bên đường: A monk should not teach Dharma, standing beside (at
the side of) a path, to someone standing on a path (in the middle of the
path).
73)
Khi đứng chẳng nên tự tiện khạc nhổ: One must not ease or spit
oneself standing if not ill. Whoever out of disrespect eases or spits
himself standing if not ill, there is an offence of wrong-doing.
74)
Nếu chẳng phải bệnh, chẳng nên tự tiện khạc nhổ vào cây xanh: A
monk should not ease himself or spit, if not ill, on green corn.
75)
Nếu chẳng phải bệnh, chẳng nên tự tiện khạc nhổ xuống nước: A monk
should not ease himself or spit in the water.
(VIII)
Adhikarana-samatha
Thất Diệt Tranh Pháp:
Theo Kinh Phúng Tụng trong Trường Bộ Kinh, có bảy pháp dùng để hòa giải
mỗi khi có sự tranh cãi giữa chư Tăng—Saptadhikarana-samatha
(skt)—According to the Sangiti Sutta in the Long Discourses of the Buddha,
there are seven rules given in the Vinaya for settling disputes among
monks (disputes arise from arguments, misconduct, judgment and punishment,
correctness of a religious observance)—Seven rules for the participation
and settlement of disputed questions that have been raised:
1)
Tự Thuận: Ưng dữ hiện tiền tỳ ni—Sammukha-vinaya (skt)—Face to face
evidence, or appeal to the law .
2)
Ức Niệm: Ưng dữ ức niệm tỳ ni (có chứng cớ rằng mình không
biết)—Smrti-vinaya (skt)—Witness or proof—Recollection.
3)
Bất Tri: Ưng dữ bất tri tỳ ni (nói quyết rằng quên)—Amudha-vinaya
(skt)—Irresponsibility—Mental derangement.
4)
Đa Nhơn Mích Tội: Chuyển lên giáo hội phân xử—Pratijnakaraka-vinaya
(skt)—Decision by majority vote or verdict.
5)
Ưng Dữ Tự Ngôn Trị: Tự ăn năn xin lỗi—Tatsvabhavaisiya-vinaya
(skt)—Voluntary confession.
6)
Đa Mích Tội Tướng: Giao cho một vị sư quảng đại phân
xử—Yadbhuyasikiya-vinaya (skt)—Condemnation of unconfessioned sin, make a
statement and ask thrice for judgment.
7)
Như Thảo Phú Địa: Cùng niệm Phật khỏa lấp—Trnastaraka-vinaya
(skt)—Covering the mud with straw—Covering over with grass.
Cụ Túc Giới Tỳ Kheo Ni:
Ba trăm bốn mươi tám giới cho Tỳ Kheo Ni—Three hundred forty-eight moral
precepts for nuns—Tỳ Kheo Ni là vị đã nhận biết rõ ràng bản chất của đời
sống. Vị ấy nhận biết rằng cuộc sống tại gia dẫy đầy trở ngại như con
đường đầy bụi bậm. Ngược lại, cuộc sống xuất gia như bầu trời cao rộng,
với tràn đầy không khí tươi mát. Vì thế vị ấy quyết từ bỏ cuộc sống trần
tục để sống đời một vị nữ tu. Khi gia nhập Giáo Đoàn Ni, ngoài việc cạo
tóc và mặc áo vàng, vị ấy còn phải học lý thuyết và thực hành giáo lý nhà
Phật, cũng như giữ giới luật mà Đức Phật đã đặt ra. Tuy nhiên, thường thì
trẻ dưới 20 tuổi không được thọ giới Tỳ Kheo Ni trừ phi nào có những
trường hợp đặc biệt. Phật tử nào muốn xuất gia phải sống tu trong chùa ít
nhất là hai năm để học và hành nghi lễ Phật giáo và sáu luật cho Sa Di
Ni. Sau đó nếu thấy được thì Thầy viện chủ sẽ cho thọ giới Tỳ Kheo Ni—A
Bhiksuni is she who has fully realized the true nature of life. She
understands that the life of a lay person is full of obstacles as a path
of dust. In the contrary, the life of a Bhiksu or Bhiksuni is just like
the open sky with full of fresh air. Therefore, she decides to abandon the
domestic life and takes up the life of a Bhiksuni. When she joins the
Order of Nuns, beside getting her head shaved and putting on the yellow
robe, she must learn the theoretical and practicing teachings of the
Buddha and keeps all Bhiksuni rules and regulations set forth by the
Buddha. Children under 20 are usually not allowed to take the Bhiksuni
precepts unless they are out-of-the ordinary in their abilities. Female
Buddhists who wish to become a nun must live in a temple for at least two
years to learn Buddhist rituals and practices and the six rules for a
female novice (see Thập Giới Sa Di II B). Thereafter, if the headmaster
deems them being fit and ready to become a nun, only then do they take the
Bhiksuni precepts. These rules include:
(I)
Kiết Giới Bát Ba La Di (tám đại giới): Parajika (skt)—Eight
Defeats—See Bát Đọa
(II)
Kiết Giới Thập Thất Tăng Tàn hay Mười bảy giới Tăng Tàn giáng cấp
hay tạm thời bị trục xuất khỏi Giáo Đoàn: Sanghadisesa (skt)—Seventeen
offences which lead to a temporary expulsion of a nun out of the Order of
Nuns—See Thập Thất Giới Tăng Tàn.
(III)
Kiết Giới Tam Thập Xả Đọa hay Tam Thập Giới Phá Sự Thanh Bần (ba
mươi giới phá sự thanh bần): Nissaggiya-pacittiya (skt)—Đây là ba mươi
trường hợp vi phạm cần phải được giải thích và sám hối trước Giáo
Đoàn—Thirty offences which require explanation and repentance in front of
the Order—See Tam Thập Giới Xả Đọa Của Chư Ni.
(IV)
Kiết Giới Xả Đọa: Pacittiya (skt)—Kiết Giới Bách Thất Thập Bát Đọa
hay Bách Thất Thập Bát Giới Hành theo Đại Thừa và Khất Sĩ (một trăm bảy
mươi tám giới phạt quỳ hương): One hundred seventy-eight offences which
lead to expiation, according to Mahayana Budhism and Sangha Bhiksu
Buddhism—See Bách Thất Thập Bát Giới Ba Dật Đề.
(V)
Kiết Giới Hối Quá hay tám giới đặc biệt xả đọa: Patidesaniya-dhamma
(p)—Tám giới vi phạm đời sống xuất gia phạm hạnh mà hình phạt là phải xin
sám hối trước Giáo Đoàn—Eight offences of disobeying the rules of monastic
life outlined in the Vinaya pitaka. The punishment for such trangression
is the confession and repentance of the offence before the Order—See Bát
Giới Hối Quá.
(VI)
Kiết Giới Chúng Học: Sekhiya-dhamma (skt)—Gồm một trăm trường hợp
vi phạm trong cuộc sống hằng ngày của Ni chúng—Including one hundred
offences connected with the Bhiksuni’s daily activities.
a)
Có 75 giới chúng học theo hệ phái Nguyên Thủy—There are
seventy-five Sekhiya rules in Theravadan Buddhism—See Thất Thập Ngũ Giới
Chúng Học.
b)
Có một trăm giới chúng học theo hệ phái Đại Thừa và Khất Sĩ: There
are one hundred Sekhiya rules for Bhiksunis in Mahayana Buddhism and
Sangha Bhiksu Buddhism—See See One Hundred Rules of Conduct for Nuns.
(VII)
Thất Diệt Tranh Pháp: Seven rules for the participation and
settlement of disputed questions that have been raised—See Thất Diệt Tranh
Pháp.
Cụ Túc Giới Tỳ Kheo Ni
Phật Giáo Nguyên Thủy: See Cụ Túc Giới Tỳ Kheo Ni.
(I) Parajika
Bát Đọa: Parajikas
(skt)—Ba La Di—Bát Cực Trọng Cảm Đọa Tội—Chữ Parajika được lấy từ gốc chữ
Bắc Phạn Para và Jika có nghĩa là ĐỌA. Bát Đọa có nghĩa là tám tội Ba La
Di thoái đọa pháp hải và bị khai trừ khỏi Tăng Chúng. Theo quan điểm xuất
gia của Phật giáo thì những vi phạm nầy được xem là có tính chất nghiêm
trọng. Bất cứ vị Ni nào, bất kể thứ bậc và thâm niên trong Giáo Đoàn, hễ
phạm phải một trong Bát Ba La Di nầy sẽ bị trục xuất khỏi Giáo Đoàn. Một
khi bị trục xuất sẽ không bao giờ được phép trở lại Giáo Đoàn (bất cứ hệ
phái nào trong Phật Giáo). Những vị nầy sẽ vĩnh viễn bị đọa lạc. Vì thế mà
Đức Phật khuyến cáo chư Tăng Ni phải cẩn trọng đừng để vướng phải một
trong những Ba La Di nầy—The eight grave prohibitions or sins—The word
Parajika is derived from the Sanskrit root Para and Jika which means that
makes DEFEAT. Eight parajikas mean eight causes of falling from grace and
final excommunication or expulsion of a monk or nun. According to the
monastic point of view, these offences are regarded as very serious in
nature. Any nuns, regardless of their ranks and years in the Order,
violate any one of these offences, are subject to expulsion from the
Order. Once they are expelled, they are never allowed to join the Order
again. They are defeated forever. Therefore, the Buddha cautioned all
monks and nuns not to indulge in any one of them:
Theo cả Đại Thừa lẫn Tiểu
Thừa—According to both Mahayana and Hinayana:
1)
Sát: Giết hại chúng sanh—Vadha-himsa (skt)—Killing—See Sát Sanh.
2)
Đạo: Trộm Cắp—Adattadana (skt)—Stealing—See Trộm Cắp.
3)
Dâm Dục: Phạm tội thông dâm—Abrahmacarya (skt)—Adultery—Sexual
immorality or bestiality—See Dâm.
4)
Vọng: Vọng ngữ hay nói dối—Uttaramanusyadharma-pralapa (skt)—False
speaking—Falsity—See Nói Dối, and Nói Lời Đâm Thọc.
5)
Cấm một Ni cô rờ rẫm, chà xát hay xoa bóp người nam từ xương cổ trở
xuống tới đầu gối: The action like enjoying rubbing, touching and pressing
against a male person below the collar-bone and above the circle of the
knees with some desire by a nun is treated as a serious offence which
makes her defeated in the spiritual life.
6)
Cấm một Ni cô nắm tay nắm áo người nam, đứng gần, nói chuyện, hay
đề nghị gặp gỡ hay hẹn hò với người nam ở nơi kín đáo: It is a serious
offence named Parajika for a nun who with some desire consents to hold the
hand of a male person, his outer cloak, standing near him, holding a talk
with him or suggesting to go a rendez-vous, consent to meet him or enter
into a covered place and dispose the body for such purpose.
7)
Cấm một Ni cô dấu tội của những Ni cô khác: A nun should not
conceal a knowingly Parajka offence of some other nuns entails her to be
defeated in the monastic life.
8)
Cấm đi theo một vị Tỳ Kheo hay Tỳ Kheo Ni đã bị trục xuất khỏi Giáo
Đoàn: A nun who follows a Bhikkhu or a Bhikkhuni who have been suspended
by the Sangha even after thrice admonitions by other nuns is an act of
Parajika for the nun.
(II) Sanghadisesa
Thập Tam Giới Tăng Tàn:
Sanghadisesa (skt)—Theo Luật Tạng, mười ba giới tổn hại Tăng Tàn khiến chư
Tăng phạm phải sẽ bị tạm thời trục xuất khỏi giáo đoàn. Vị Ni nào phạm
phải sẽ bị Giáo Đoàn quy định thời gian bị tạm trục xuất. Đến khi mãn hạn
trục xuất, người phạm tội phải ra trước Giáo Đoàn xin được tái gia nhập
vào giáo đoàn. Không có sự chấp thuận của Giáo Đoàn, người phạm tội không
thể trở lại giáo đoàn—According to the Vinaya Pitaka (Book of Discipline),
Part I, translated into English by I.B. Horner, thirteen offences which
entail nuns temporary expulsion from the Order. Indulging in any one of
these offences, nuns are required to leave the Order for a period of time
fixed by the assembly of monks and nuns. After that time, offenders
present themselves before the Order to beg for a reinstatement. Without
the permission from the assembly of monks and nuns, offenders cannot
return to the Order.
1)
Cấm một Ni cô nói lời ganh ghét về bất cứ ai: Whatever nun should
be one who speaks in envy concerning anyone (a householder or a
householder’s sons or brothers or a slave or a workman and even concerning
a wanderer who is a recluse, that nun has fallen into a matter that is an
offence at once, entailing a formal meeting of the Order involving being
sent away).
2)
Cấm một Ni cô che chở cho một người bị tội chết mà không có phép
của Giáo Hội: Whatever nun should knowingly receive a woman thief found to
merit death, without having obtained permission from a king or an Order or
a group or a guild or a company, unless she is allowable, that nun has
fallen into a matter that is an offence at once, entailing a formal
meeting of the Order involving being sent away.
3)
Cấm một Ni cô đi vào làng một mình (hay đi bên kia bờ sông một
mình, hay đi trong đêm tối một mình): Whatever nun should go among village
alone, or should go to the other side of a river alone, or should be away
for a night alone, or should stay behind a group alone, that nun has
fallen into a matter that is an offence at once, entailing a formal
meeting of the Order involving being sent away.
4)
Nầu không có phép của Giáo Hội, cấm phục giới cho một vị Tỳ Kheo Ni
khác đã bị giáo hội phạt: Whatever nun, without having obtained permission
from the Order which carried out the proceedings in accordance with the
rule, the discipline, the teacher’s instruction, not having learnt the
group’s desire, should restore a nun suspended by a complete Order, that
nun has fallen into a matter that is an offence at once, entailing a
formal meeting of the Order involving being sent away.
5)
Cấm nhận đồ thí từ tay một người nam đầy dục vọng: Whatever nun,
filled with desire, having accepted with her own hand from the hand of a
man who is filled with desire, solid food or soft food, should eat it or
partake of it, that nun has fallen into an offence entailing a formal
meeting of the Order.
6)
Cấm một Ni cô xúi một vị Ni cô khác thọ dụng đồ ăn của một tín thí
nam đầy dục vọng: Whatever nun should speak thus: “What can this man,
whether he is filled with desire or not filled with desire, do to you,
lady, since you are not filled with desire? Please, lady, eat or partake
of the solid food or the soft food which this man is giving to you, you
having accepted it with your own hand.” That nun has fallen in an offence
entailing a formal meeting of the Order.
7)
Vị nào phỉ báng Phật, Pháp, Tăng. Ni đoàn nên hỏi ba lần xem coi vị
ấy có sám hối hay không. Nếu sám hối thì không tội. Nếu không sám hối là
phạm tội Tăng Tàn: Whatever nun, angry, displeased, should speak thus: “I
repudiate the enlightened one… I repudiate the training. What indeed are
these recluses who are recluses, daughters of the Sakyans? For there are
other recluses, conscientious, scrupulous, desirous of training; I will
lead the Brahma-life among these.” That nun should be spoken to thus by
the nuns: “Do not, lady, angry, displeased, speak thus: “I repudiate the
enlightened one…I will lead the Brahma-life among these.” Be satisfied,
lady, dhamma is well preached, lead the Brahma-life for the utter ending
of ill. And if that nun, being spoken to thus by the nuns, persists as
before, that nun should be admonished by the nuns up to a third time for
giving up that course. If being admonished up to a third time, she should
give it up, that is good. If she should not give it up, that nun has
fallen into an offence entailing a formal meeting of the Order.
8)
Cấm một Ni cô nói rằng người khác làm sai vì ham muốn hay vì sợ
sệt.” Nếu vị Ni nào nói như vậy, Ni chúng sẽ hỏi ba lần. Sau ba lần mà vị
nầy cũng chưa chịu sám hối là phạm tội Tăng Tàn: Whatever nun, overthrown
in some legal question, angry, displeased, should speak thus: “The nuns
are following a wrong course through desire… and the nuns are following a
wrong course through fear.” That nun should be spoken to thus by the nuns:
“Do not, lady, overthrown in some legal question, angry, displeased, speak
thus, ‘the nuns are following a wrong course through desire… and the nuns
are following a wrong course through fear.’ The lady herself may go wrong
from desire, and she may go wrong from hatred and she may go wrong from
stupidity and she may go wrong from fear.” And if this nun, being spoken
to thus by the nuns, persists as before, that nun should be admonished by
the nuns up to a third time for giving up that course. If being admonished
up to a third time, she should give it up, that is good. If she should not
give it up, that nun has fallen into an offence entailing a formal meeting
of the Order.
9)
Nếu vị Ni cưỡng lý khi làm quấy, chẳng chịu nghe lời khuyên giải.
Nếu Ni chúng hỏi ba lần mà vẫn không chịu nghe lời, vị nầy phạm tội Tăng
Tàn (Cấm một Ni cô sống theo tập khí, ác danh, ác đạo, hay che dấu tội lỗi
của người khác): If a nun who commits evil conduct or misbehavior, and her
evil conduct is seen or heard, that nun should be admonished up to three
times by the assmebly of nuns to allow her to give up her course. If after
being admonished, she gives up that course, it is good. If she does not
give up, it is an offence entailing a formal meeting of the Order (in case
nuns live in company, of evil habits, of evil repute, of evil ways of
living, vexing the Order of nuns, concealing one another’s sins, those
nuns should be spoken to thus by the nuns: “Sisters are living in
company…concealing one another’s sins. Let the ladies desist; the Order
praises this detachment in sisters, But if these nuns. And if this nun,
being spoken to thus by the nuns, should persists as before, that nun
should be admonished by the nuns up to a third time for giving up that
course. If being admonished up to a third time, she should give it up,
that is good. If she should not give it up, that nun has fallen into an
offence entailing a formal meeting of the Order).
10)
Cấm nghi quấy một vị Tỳ Kheo Ni khác một gì mà không có thật: Not
to suspect a nun with a groundless charge.
11)
Cấm binh vực kẻ phá hoại sự hòa hiệp ở giáo hội: Not to side with
someone who creates schism to destroy the harmony of the Order.
12)
Cấm không trang nghiêm, làm quấy ác cho kẻ khác bắt chước: Not to
lead a solemnly brahma life, to be a bad example for others to imitate.
13)
Cấm dùng cách nầy thế kia để phá sự hòa hiệp của giáo hội: Not to
do things to destroy the harmony of the Order.
(III) Nissaggiya-pacittiya
Tam Thập Giới Xả Đọa Tỳ
Kheo (Ni): Nissaggiya-pacittiya (skt)—Từ Nissaggiya-pacittiya gốc Nam
Phạn, có hai phần: phần thứ nhất là Nissaggiya có nghĩa là từ bỏ; phần thứ
hai Pacittiya có nghĩa là điều giải trước giáo đoàn. Con người thường có
khuynh hướng sa ngã; vì thế dù đã gia nhập vào cuộc sống tự viện, chư Tăng
Ni vẫn thỉnh thoảng vi phạm luật sống trong tự viện, như chấp nhận quá số
vật dụng hằng ngày được Đức Phật quy định cho Tăng Ni. Chính vì thế mà Đức
Phật đã đặt ra thanh quy tự viện, nhằm giúp chư Tăng Ni tránh phạm phải
lỗi lầm. Đây là ba mươi giới mà người phạm tội phải giải thích trước giáo
đoàn và phải bị phạt cấm phòng sáu bữa—The Nissaggiya-pacittiya has two
components: the word Nissaggiya means giving up; and the word Pacittiya
means reconciliation or expiation. A man by his true nature is subject to
lapses; therefore, even after joining the monastic life, the monk
sometimes, makes transgression of the monastic rules, i.e., accepting
things of daily use in excess of the number allowed by the Buddha is not
proper for monks and nuns. Thus, the Buddha set forth rules that help
making monks and nuns free from transgressions. These are thirty offences
which require explanation and punishment for the offenders is six-day room
retention.
1)
Cấm cất giữ dư chăn áo quá mười ngày: A nun should not wear or keep
an extra robe for more than ten days.
2)
Cấm bỏ chăn áo ở một nơi khác, trong một đêm: a nun should not
leave robes and sleeping material in another place, even for one night
(nuns should not be away, separated from the three robes, even for one
night).
3)
Khi áo rách mất, có người cúng dường vải, dù không đúng thời (trai
tăng tự tứ) vị Ni vẫn có thể nhận. Khi nhận là phải may cho nhanh; tuy
nhiên, nếu không đủ vải may, có thể để dành chờ có thêm, nhưng cấm để dành
vải quá một tháng: When robes worn out, and the robe-material is accrued
to the nun, even not at the right time, it may be accepted by that nun if
she so wish. Having accepted it, it should be made up quickly. But if it
is not sufficient for her, that robe-material may be laid aside by that
nun for a month at most.
4)
Cấm hỏi xin áo với nam nữ thí chủ, trừ khi thắt ngặt (khi áo bị mất
hay bị hư hại): A nun should not ask a man or woman householder for a
robe, except at the right time (robe is stolen or destroyed).
5)
Cấm nhận nhiều chăn áo quá bộ, trừ khi thắc ngặc: a nun should not
accept more than an inner and upper robes (if a nun is offered
robe-material for many robes, then at most she should accept enough for an
inner and an upper robe. If she accepts more than that there is an offence
of expiation involving forfeiture).
6)
Cấm tự ý muốn kiểu cắt may, khi có một thí chủ định sắm cho áo:
When there is a householder plans to offer robe-material, or robe-fund, a
nun should not design the robe as he wishes.
7)
Cấm tự ý muốn kiểu cắt may, khi có nhiều thí chủ định sắm cho: When
there are two or more householders plan to offer robe-material or
robe-fund, a nun should not design the robe as he wishes.
8)
Cấm nhận tiền để may áo, và hối thúc Giáo Hội may liền: A nun
should not obtain robe-fund and urge the Order to make the robe
immediately.
9)
Cấm nhận tiền bạc vàng, gởi hoặc bảo kẻ khác nhận thế: A nun should
not take gold and silver, nor should she ask another person to take for
her.
10)
Cấm buôn bán đồ quý báu: A nun should not engage in various
transactions in which gold and silver is used.
11)
Cấm buôn bán bất luận vật gì: A nun should not engage in any kinds
of bartering.
12)
Cấm kiếm bát mới tốt, mặc dầu đúng năm mà cái cũ vẫn còn xài được:
A nun should not get another new bowl in exchange for the old bowl, even
though the old bowl is very old, but is still usable (If a nun should get
another new bowl in exchange for a bowl mended in less than five places,
there is an offence of expiation involving forfeiture. That bowl is to be
forfeited by that nun to the company of nuns, and whatever the last bowl
belonging to that company of nuns, that should be given to this nun with
the words: “Nun, this is a bowl for you; it should be kept until it
breaks.” That is the proper course in this case).
13)
Cấm đem chỉ cho thợ dệt xa lạ dệt áo cho mình khi có người cúng: A
nun should not ask a man or a woman householder who is not a relation to
weave her robe (saying this robe-matrial is being especially woven for me,
please make it long and wide, and make it evenly woven, well woven and
well scraped, etc).
14)
Cấm ra kiểu ni cho thợ dệt, khi thí chủ dệt áo cho mình: A nun
should not ask for yarn, or should not have robe-material woven by
weavers.
15)
Cấm giận hờn đòi lại áo khi đã cho người rồi: A nun should not give
a robe to another monk and then take it back because she is angry or
displeased of that nun.
16)
Cấm để dành thuốc, đường, dầu, quá bảy ngày, trừ khi đau bệnh mà có
người cúng dường: A nun should not store medicine, sugar, fresh butter,
oil, honey, etc. for over seven days, except when she is ill.
17)
Cấm đã lãnh áo trước kỳ, mà khi đến lệ lại còn hỏi nữa: A nun
should not obtain the robe before the robe-season, lay it aside, and ask
again during the robe-season.
18)
Cấm lén lấy một món đồ gì của Giáo Hội: A nun should not take any
things that belong to the Order.
19)
Cấm mua sắm đồ cho một người đàn ông: A nun should not do any
shopping for a man.
20)
Cấm dùng làm của riêng mình món đồ người ta cúng cho Giáo Hội: a
nun should not take away any thing that is offered to the Order.
21)
Cấm dùng làm của riêng mình món đồ mà một cô khác trao ra để giao
cho Giáo Hội: A nun should not take away anything that another nun offers
to the Order.
22)
Cấm dùng đồ của thí chủ cho về việc khác: A nun should not use the
donations from lay Buddhists for personal purposes.
23)
Cấm nhơn danh Giáo Hội mà sắm đồ riêng cho mình: A nun should not
gain any personal gains on behalf of the Order.
24)
Cấm có đến hai cái bát để thay đổi: A nun should not keep an extra
bowl.
25)
Cấm chứa nhiều đồ tốt đẹp: A nun should not store beautiful things,
such as art crafts, pictures, etc.
26)
Cấm hứa cho một cô khác vải bó rịt trong cơn đau mà không cho: A
nun should not brak her promise to give cloth for bandage to another nun.
27)
Cấm đổi lấy áo của thí chủ cho, chớ không lấy áo của Giáo Hội phát
(vì áo của thí chủ tốt hơn): A nun should not exchange the robe which is
given by the Order for another one from lay Buddhists.
28)
Cấm bất bình, giận hờn đòi lại áo khi đã cho người rồi: A nun
should not give a robe to another nun and then take it back because he is
angry or displeased of that nun.
29)
Cấm dùng may áo mùa đông đến bốn xấp vải: A nun should not use more
than four batches of cloth for heavy (winter) clothes. It is advisable for
a nun to bargain for a heavy cloth for four bronzes. If she bargains one
worth more than that, she commits the offense of expiation.
30)
Cấm dùng may áo mùa hè trên hai xấp rưỡi vải: A nun should not use
more than two and a half batches for light (summer) clothes. Bargaining
for light clothes should be made for at most two and half bronzes. If she
bargains a light cloth worth more than that, she commits an offense of
expiation involving forteature.
Pacittiya
One hundred sixty-six
rules for Bhiksunis—Pacittiya (skt)—Theo Luật Tạng, Pacittiya là 166 giới
Ba Dật Đề dành cho Ni chúng, nếu phạm một trong những tội nầy mà chí thành
phát lồ sám hối trước Tăng Ni chúng, thì tội được tiêu khiên. Nếu không
chí thành phát lồ sám hối, chẳng những sẽ trở ngại cho việc khởi sanh
thiện pháp, mà sẽ còn bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh—According to
the Book of Rules (Vinaya Pitaka), one hundred sixty-six Pacittiya
offences which require confession and repentance. If a nun committed any
of them, makes a confession of it before the Sangha (Order of monks and
nuns) with clear heart, she will become free from the offence. If she
doesn’t, the offence itself will not only obstruct her development of
wholesome acts, but it will also cause her rebirth in lower realms, i.e.,
hell, hungry ghosts, or animal.
1)
Cấm ăn ngũ tân như tỏi, hành, hẹ, nén, kiêu: A nun should not eat
the five forbidden pungent roots, i.e., garlic, onion, leeks, etc.
2)
Cấm bất tuân chẳng cạo chơn mày: A nun should not disobey the law
by not shaving the eyebrows.
3)
Cấm vỗ tay: In slapping with the palms of the hands, there is an
offence of expiation.
4)
Cấm dồi phấn: In application of lac, there is an offence of
expiation.
5)
Cấm dùng quá hai lóng tay nước để rữa những chỗ kín trong thân: If
a nun is taking an ablution with water (washing the private parts in the
body), she may take at most a measure of two finger-joints. For whoever
exceeds this, there is an offence of expiation.
6)
Cấm một Ni một Sư uống nước chung và quạt cho nhau: A nun should
not stand with drinking water or with a fan close to a monk while he is
eating or drinking.
7)
Cấm nướng xay hạt tươi hay bảo người nướng xay hạt tươi: Whatever
nun, having asked for raw grain or having had it asked for, or having
roasted it or having caused it to be roasted, or having pounded it or
having caused it to be cooked, should eat it, there is an offence of
expiation.
8)
Cấm quăng ra ngoài rào, đồ đại, tiểu tiện khi đêm: A nun should not
throw out the excriment or urine or rubbish or remains of food over a wall
or a fence.
9)
Cấm đại, tiểu tiện làm dơ cây cối, hay quăng đồ đại tiểu tiện hay
đồ ăn thừa lên mùa màng: A nun should not go to stool or urinate to cause
pollution in the area of vegetables, plants or trees. A nun should not
throw out or should not cause to throw out excrement or urine or rubbish
or the remains of food on to the crops.
10)
Cấm xem ca múa hát xướng: A nun should not go to see dancing or
singing or music.
11)
Cấm nói chuyện với đàn ông chỗ vắng vẻ: A nun should not speak with
a man in a secluded place (it is not proper for a nun to stand with a man
or talk to him alone in a secluded place, i.e., in the dark of the night
when there is no light). In doing so, she commits an offence which
requires expiation.
12)
Cấm gặp và nói chuyện với đàn ông chỗ chán chường: A nun should not
meet and talk with a man in a private place.
13)
Cấm cùng đứng hay cùng nói chuyện với người nam ngoài đường: A nun
should not stand together with a man, nor should she talk with a man in an
open place.
14)
Cấm cùng đứng hay cùng nói chuyện với người nam trong xe, nơi ngỏ
cụt, góc đường, hay nói rỉ tay với người nam: A nun should not stand
together with a man, nor should she talk with him on a carriage road or
in a cul-de-sac or at cross-roads, nor should she whisper in his ear.
15)
Cấm đi vào nhà cư gia trước giờ ăn, ngồi xuống, rồi ra đi thình
lình không cho chủ nhà hay: A nun should not enter lay people’s houses
before a meal, sit down and leave the house without asking the owner’s
permision.
16)
Cấm vào nhà cư gia sau bữa ăn mà chủ nhà không hay biết rồi ngồi
nằm nơi đó: A nun should not enter the house of a lay person after a meal,
and sit or lie down at ease without informing the householder or asking
for the householder’s permision.
17)
Cấm vào nhà cư gia mà chủ nhà chẳng hay biết rồi tự tiện ở lại đêm
nơi đó: A nun should not enter the house of a lay person at the wrong time
(from sunset to sunrise) without informing the owner, then stay overnight
without asking for permision of the owner.
18)
Cấm một vị Ni vì hiểu lầm mà làm cho người nầy khinh dễ người kia:
A nun, because of a misapprehension, because of a misunderstanding, should
not make someone look down upon another.
19)
Cấm một vị Ni nguyền rủa chính mình hay người khác: A nun should
not curse herself or another with hell.
20)
Cấm khóc lóc hay đấm ngực. Nếu đấm ngực mà không khóc, hay khóc mà
không đấm ngực cũng vẫn phạm tội: A nun should not weep or strike herself
again and again. If she strikes but does not weep, there is an offence of
wrong-doing. If she weeps, but does not strike, there is an offence of
wrong-doing.
21)
Cấm tắm dưới nước mà chẳng có choàng tắm: A nun should not bathe
naked. It is not advisable for a nun to take a bath without clothes or
having no dress at all. If she does so, she commits an offence of
expiation.
22)
Cấm dùng choàng tắm rộng quá thước tất: A nun should not use a
bathing cloth beyond the measure prescribed for the Nun. When a bathing
cloth is being made for a nun, it must be made to a proper measure. This
is the proper meausre: in length four spans, in width two spans. For her
who exceeds this measure, should she make or arrange to make a bathing
cloth beyond the measure prescribed for the Nun, there is an offence of
expiation (The Book Of The Discipline, I.B. Horner, 1997).
23)
Cấm may một cái áo để quá năm ngày: A nun should neither sew or
make effort to have the robe sewn beyond the limit of five days. Whatever
nun, having unsewn or having made another unsewn a nun’s robe, if she is
not afterwards prevented should neither sew it nor should make an effort
to get it sewn, except on the fourth and fifth days, there is an offence
of expiation.
24)
Cấm đi ra ngoài với áo khoát quá năm ngày: Whatever nun should
miss not going about in an outer cloak for five days, there is an offence
of expiation.
25)
Cấm mặc đồ của một cô khác mà không hỏi trước: A nun should not
wear a robe of someone else without permision (a nun should not wear a
robe that should be handed back).
26)
Cấm có ý cản trở sự phát áo của Giáo Hội: A nun should not put an
obstacle in the way of a group’s receiving robe or in legal distribution
of robe material in the Sangha.
27)
Cấm nhơn danh Giáo Hội, phát áo và vải rồi để dành lại một ít cho
mình: A nun should not hold back a legally valid division of
robe-material.
28)
Cấm đưa đồ may áo cho bất cứ ai mà không có phép của Giáo Hội: A
nun should not give recluses’ robe-material to anyone without permission
from the Order, i.e., a householder or to a wanderer or to a female
wanderer.
29)
A nun, when an expectation of robe-material is not sure, should not
let the robe-season pass.
30)
Cấm nhơn danh Giáo Hội phát vải may áo mà để lại một ít cho mình: A
nun should not hold back a legally valid removal of the kathina
(privileges).
31)
Cấm hai cô nằm chung, trừ khi đau yếu: Two nuns should not share
one couch, except when they are ill. If not, they commit the offence of
expiation.
32)
Cấm hai cô cùng đắp chung: Two nuns should not share one
covering-cloth.
33)
Cấm làm cho vị Ni khác khó chịu: A nun should not intentionally
cause discomfort to another nun.
34)
Cấm chẳng săn sóc người ở gần mình trong cơn đau bệnh: A nun who
should neither attend to an ailing woman who lives with her, nor should
she make an effort to get her attended to, commits the offence of
expiation.
35)
Cấm trong mùa mưa đuổi một cô đi chỗ khác, sau khi mình đã tìm xong
chỗ ngụ: Whaterver nun, having given quarters to a nun, should, angry,
displeased, throw her out or have her thrown out, commits the offence of
expiation.
36)
Cấm thân cận và ở chung nhà với đàn ông: A nun should not keep
company with a man (whatever nun should keep company with a householder or
with the householder’s son, that nun should be spoken to thus by the nuns:
“Do not, lady, keep company with a householder and with a householder’s
son. Let the lady desist, the Order praises such detachment in a sister.”
But if that nun, being spoken to thus by the nuns, should persist as
before, that nun should be admonished by the nuns up to the third time for
giving up that course. If she should give up, while being admonished up to
the third time, that is good. If she should not give up, there is an
offence of expiation).
37)
Cấm đi quanh vùng nguy hiểm: A nun should not go on alms-tour
within a dangerous region. Her disobeying the rule is the committing of an
offence of expiation.
38)
Cấm đi quanh xứ lộn xộn: A nun should not go on alms-tour within a
chaotic region.
39)
Cấm đi lúc mùa mưa, vì có thể dẫm lên và giết hại sâu bọ: A nun
should not walk on almstour duirng the rains, for she may tread on worms
and other insects.
40)
Chẳng nên đi khất thực xa nơi an cư kiết hạ, dù chỉ là năm sáu do
tuần (see Do Tuần): A nun, during the rains, should not set out on
almstour, even for a distance of five or six yojanas.
41)
Cấm đi xem đền đài cung điện của vua: A nun should not go to see a
king’s palace, including the king’s pleasure house, a picture gallery, a
park, or a pleasure grove, or a lotus pond (it is said that if she goes to
any of the above mentioned places, she commits the offence of expiation).
42)
Cấm ngồi trên giường ván của cư gia: A nun should not make use of a
sofa or a divan at the house of a lay person.
43)
Cấm tự mình kéo chỉ quay tơ: A nun should not spin yarn.
44)
Cấm ra tay làm việc cho người cư gia: A nun should not do household
work for a lay person. Leading the holy life, a nun should not do the
household work. If she does so, she commits an offence of expiation.
45)
Cấm trước hứa giải quyết ổn thỏa những vấn đề liên quan đến pháp
luật, nhưng sau lại không chịu giải quyết: A nun, being spoken to by a
nun, saying: “Do come, lady, and settle this elgal question, and having
answered, ‘Very good,’ yet if she is not afterwards prevented, should
neither settle it nor should make an effort to get it settled, there is an
offence of expiation.
46)
Cấm trao tay thí đồ ăn cho kẻ ngoại đạo: A nun should not give with
her own hand solid food or soft food to a heretics. According to The Book
Of The Discipline, translated into English by I.B. Horner in 1997, if a
nun gives with her own hand solid food or soft food to a householder, a
male or female wanderer, she commits an offence of expiation.
47)
Cấm lấy y phục của người tại gia mặc vào: A nun should not wear
clothes of lay people (her househole robe).
48)
Cấm vị Ni chưa xả bỏ nơi cư trú mà đi khất thực: A nun, not having
given up her dwelling, should set out on almstour, there is an offence of
expiation.
49)
Cấm vị Ni học kiến thức thế tục. Nếu học cách viết chữ thì không
phạm tội: A nun should never learn worldly (secular, not connected with
the goal) knowledge. There is no offence if she learns writings.
50)
Cấm vị Ni dạy kiến thức thế tục: A nun should not teach worldly
knowledge.
51)
Cấm vào tịnh xá chư Tăng mà không xin phép: a nun should not enter
a monastery without asking for permision.
52)
Cấm nhiếc mắng mấy Ni cô khác: A nun should not revile or abuse
other nuns. In doing so she commits the offence of expiation.
53)
Cấm nóng nảy la lối trước đám đông: A nun, being quick tempered,
should abuse a group, there is an offence of expiation.
54)
Cấm ăn nữa khi đã ăn no hay có người khác mời ăn thêm: A nun, being
invited or being satisfied, should eat or partake of solid food or soft
food, there is an offence of expiation.
55)
Cấm ghen ghét hằn học: A nun should be one who is grudging as to
families, there is an offence of expiation.
56)
Cấm họp nhau trong mùa mưa ở một xứ không có chư Tăng: A nun should
not spend the rains in a residence where there is no monk. In case of
violation of the instruction and staying during the rainy season in a
monastery without monk, she commits the offence of expiation (the Buddha
has made the rules for the nuns to enter into rainy season retreat in a
monastery whre there are also monks. Probably this has been done with the
consideration of providing them guardianship).
57)
Cấm đến cuối mùa mưa quên đọc lại với Giáo Hội chư Tăng những điều
nghe thấy: After the rainy season retreat, if a nun does not invite the
Order of Monks and Nuns in respect of three matters: that is what was seen
or heard or suspected, she commits the offence of expiation.
58)
Cấm đi đến chỗ hô hào cổ võ: A nun should not go for exhortation or
for communion.
59)
Cấm quên hỏi Giáo Hội cầu thầy thuyết pháp và đọc giới bổn: A nun
should not forget her general duty of asking the Order of the monks the
dates of the observance day and preaching Dharma day. Every half month a
nun should desire two things from the Order of monks: the asking as to the
date of the Observance day and the approaching for exhortation. For her
who transgresses this, there is an offence of expiation.
60)
Cấm khi bệnh không có Giáo Hội cho phép mà để người khác cắt hoặc
bó cho mình: It is not proper for a nun to make a boil or scab that has
formed on the lower part of her body to be operated by a man without the
permision of the Order; she should not also get it washed or smeared,
bound up or unbound by a man. Doing so, she commits the offence of
expiation.
61)
Cấm cho nhập đạo một cô có thai: A nun should not ordain a pregnant
woman. In case of doing so, she commits the offence of expiation.
62)
Cấm cho nhập đạo một cô còn có con nhỏ: A nun should not ordain a
woman giving suck (it is forbidden for a nun to ordain a woman giving
suck). In case of violation of the rule, she commits an offence of
expiation.
63)
Cấm cho nhập hàng Ni cô một người chưa tập sự hai năm: A nun should
not ordain a probationer who has not trained for two years in the six
rules. Even after reaching the age of twenty years, a married girl is not
fit for ordination, if she is not trained for two years in six rules (see
Thập Giới II B).
64)
Cấm cho nhập đạo mà chẳng được Giáo Hội chư Tăng thị nhận: A nun
should not ordain a married girl without obtaining the permision from the
Order, even though the girl has completed twenty years of age and has
trained for two years in the six rules. In case of doing so, she commits
the offence of expiation.
65)
Cấm cho nhập đạo một cô gái kết hôn chưa được 12 năm: A nun should
not ordain a girl married for less than twelve years.
66)
Cấm cho nhập đạo một cô gái, dù đã kết hôn trên mười hai năm, nhưng
mà chưa tập sự được hai năm: A nun should not ordain a girl, even though
she married over twelve years, but has not trained for two years in the
six rules.
67)
Cấm cho nhập đạo một cô dù đã kết hôn trên mười hai năm và đã tập
sự trên hai năm, nhưng chẳng được Giáo Hội chư Tăng thị nhận: A nun should
not ordain a girl married for more than twelve years and has been trained
for over two years without obtaining the permision from the Order. In case
of doing so, she commits the offence of expiation.
68)
Cấm đã thâu nhận học trò mà không lo dạy dỗ trong hai năm tập sự:
After ordaining a woman, a nun should keep her under supervision and
should help her for two years in training in six rules. It is a general
rule for a nun to give ordained woman instructions for two years. In
disobeying this she commits the offence of expiation.
69)
Cấm bắt người mình cho thọ giới phục dịch mình trong hai năm:
Whatever nun for two years should not wait upon an ordained woman
instructor, there is an offence of expiation.
70)
Cấm khi đã cho một người thọ giới rồi để cho người đó đi xa, dù chỉ
xa năm hoặc sáu do tuần (see Do Tuần): Whatever nun, having ordained the
woman who lives with her, should neither withdraw her nor have her
withdrawn even to a distance of five or six yojanas, there is an offence
of expiation.
71)
Cấm cho nhập hàng Ni cô một người chưa đúng hai mươi tuổi trọn: A
nun should not ordain a maiden under twenty years of age. In case of
violation of the rule, she commits an offence of expiation.
72)
Cấm cho nhập hàng Ni cô một người chưa tập sự hai năm, dù cô nầy đã
trên hai mươi tuổi: A nun should not ordain a probationer who has not
trained for two years in the six rules. Even after reaching the age of
twenty years, a married girl is not fit for ordination, if she is not
trained for two years in six rules (see Thập Giới II B).
73)
Cấm cho nhập đạo một cô dù đã trên hai mươi tuổi và đã tập sự trên
hai năm, nhưng chẳng được Giáo Hội chư Tăng thị nhận: A nun should not
ordain a married girl without obtaining the permision from the Order, even
though the girl has completed twenty years of age and has trained for two
years in the six rules. In case of doing so, she commits the offence of
expiation.
74)
Cấm một vị Ni chưa có mười hai năm tu hành mà cho người khác thọ
giới: A nun should not ordain other nuns while she is less than twelve
years of standing.
75)
Vị Ni dù đã tu trên mười hai năm mà không được giáo hội cho phép
cũng không được cho người khác thọ giới cụ túc: A nun who has completed
twelve years of standing, but who is not agreed upon by the Order, should
not ordain other nuns.
76)
Cấm hứa nếu ai dễ dạy thì cho nhập đạo, kế không giữ lời: A nun
should not first promise to ordain a trainable woman, then later breaks
her promise.
77)
Cấm hứa nếu ai cúng áo thì cho nhập đạo, kế không giữ lời: A nun
should not promise another nun for ordination, in a gain of a robe and
afterwards breaks her promise, her such doing is an offence of expiation.
Whatever nun, having said to a probationer: “If you, lady, will give me a
robe, then will I ordain you.” If afterwards, she should neither ordain
her nor should she make an effort to get her ordained, there is an offence
of expiation.A nun should not promise to ordain a woman who seems to be
trainable, and afterwards breaks her promise.
78)
Vị Ni nào trước hứa với người tập sự: “Nếu người chịu đợi ta hai
năm sau ta sẽ cho người thọ cụ túc giới,” nhưng sau đó chẳng những không
cho người thọ cụ túc, mà còn không cố gắng tìm cách cho người thọ cụ túc:
Whatever nun, having said to a probationer: “If you, lad, will wait upon
me for two years, then will I ordain you,” yet if she is not afterwards
prevented, should neither ordain her nor should make an effort to get her
ordained, there is an offence of expiation.
79)
Vị Ni nào cho thọ cụ túc người tập sự có dan díu với đàn ông, và có
quan hệ tới bạo động là phạm giới: Whatever nun shold ordain a probationer
who keeps company with men, who keeps company with youths, who is violent,
there is an offence of expiation.
80)
Cấm nhận một kẻ tu tập vào hàng Ni cô thiệt thọ, nếu người nhà kẻ
ấy chẳng thuận: A nun should not ordain a probationer without the consent
of the parents and husband. If a nun ordain a probationer without such
consent, she commits an offence of expiation.
81)
Cấm cho thọ giới một Ni cô để lấy lòng vị Tăng cao hạ: Whatever nun
should ordain a probationer by showing favoritism to monks placed on
probation, there is an offence of expiation.
82)
Cấm mới nhập giáo đoàn chưa được một năm mà thâu nhận người khác
cho thọ giới cụ túc: A nun who joined the Order less than a year, should
not ordain a probationer.
83)
Cấm cho thọ cụ túc giới hai người trong một năm: A nun should not
ordain two probationers in one year.
84)
Cấm vị Ni cô mang dù hay giày dép: A nun should not use a sunshade
(umbrella) and sandals.
85)
Nếu không có bệnh, cấm ni cô không được đi kiệu hay đi xe: A nun
who is not ill, should not go in a vehicle.
86)
Nếu không có bệnh, cấm ni cô mặc áo choàng ngoài: A nun should not
wear a petticoat if she is not ill.
87)
Cấm dồi mài trang điểm thân mình: A nun should not apply any
cosmetic powder, nor should she wear ornaments.
88)
Cấm ni cô tắm với nước thơm: A nun should not bathe with scented
ground sesamum.
89)
Cấm ni cô xoa dầu hay bảo một ni cô khác xoa bóp: A nun should not
cause herself to be rubbed with ointment, or should cause herself to be
massaged by another nun.
90)
Cấm ni cô xoa dầu hay bảo người tập sự xoa bóp: A nun should not
cause herself to be rubbed with ointment, or should cause herself to be
massaged by a probationer.
91)
Cấm ni cô ngồi trước mặt một vị Tăng mà không xin phép trước: A nun
should not sit down on a seat in front of a monk without asking for
advanced permission.
92)
Cấm ni cô vấn hỏi một vị Tăng mà không xin phép trước: A nun should
not ask a question of a monk without asking for advanced permission.
93)
Cấm vào làng mà chẳng mặc áo Ni cô: A nun should not enter the
village without her vest (robe).
94)
Vị ni cô nào không có bệnh mà xin bơ để dùng là phạm tội: Whatever
nun who is not ill, having had ghee asked for, should partake of it, it
should be confessed by that nun, saying: “I have fallen, ladies, into a
blameworthy matter, unbecoming, which ought to be confessed; I confessed
it.” There is an offence of expiation.
95)
Vị ni cô nào không có bệnh mà xin dầu, mật, sữa, và bơ đặc để dùng
là phạm tội: Whatever nun who is not ill, having had oil, honey, milk,
curds asked for, should partake of it, it should be confessed by that nun,
saying: “I have fallen, ladies, into a blameworthy matter, unbecoming,
which ought to be confessed; I confessed it.” There is an offence of
expiation.
96)
Cấm cho rằng phải một việc sai trái:A nun should not tell a
conscious lie (telling a conscious lie means the words, the utterance, the
speech, the talk, the language, the intimation, the un-ariyan statement of
one intent upon deceiving with words, saying: “I have not seen what I have
seen, heard what I have not heard, sensed what I have not sensed, etc).
97)
Cấm chê bai làm người rủn chí: A nun should not should not speak
insulting speech to discourage people.
98)
Cấm nói lưỡi hai chiều đâm thọc làm cho người ta giận nhau: A nun
should not speak slandering speech to cause people to break their harmony.
99)
Cấm để cho người chưa thọ đại giới thuyết pháp. Tuy nhiên, nếu cùng
bậc thiện hữu tri thức tại gia nghiên cứu kinh điển thì không phạm giới Ba
Dật Đề: A nun should not make one who is not ordained to speak dharma line
by line. However, if a nun studies together with lay good advisors, there
is no offence of Pacittiya.
100)
Cấm ở quá hai đêm chung với người chưa thọ giới nhà sư: A nun
should not lie down in a sleeping place with one who is not ordained for
more than two nights.
101)
Cấm khoe mình đắc đạo có phép thần thông với người chưa thọ đại
giới: A nun should not speak of a condition of furthermen to one who is
not ordained.
102)
Cấm đào đất, cuốc đất, hay sai người đào cuốc: A nun should not dig
the ground or have it dug.
103)
Cấm đốn cây: A nun should not destroy vegetable growth.
104)
105)
Cấm chê bai, khi dễ, nói ác, hay xúc phạm đến vị Sư Trị Sự trong
Giáo Hội: A nun should not defame or look down or bad mouth in criticizing
the headmaster of the Order.
106)
Cấm dùng đồ của chùa mà bỏ ở ngoài, làm cho hư bể: A nun should not
spread in the open air a chair or a mattress or a stool belonging to the
Order, setting forth, but does not removed or have it removed, to cause it
destroyed.
107)
Cấm dùng đồ của chùa, khi đi không dẹp cất: A nun should not spread
a sleeping place or having it spread in a dwelling belonging to the
Order, setting forth, but should neither remove it nor have it removed
108)
Cấm khi đi lữ hành, giành chỗ nằm của một người khác: A nun should
not lie down in a sleeping place in a dwelling belonging to the Order,
knowing that he is encroaching upon the space intended for a monk arrived
first.
109)
Cấm đuổi hay sai đuổi một vị Tỳ Kheo Ni không hạp ý mình ra khỏi
phòng: Out of angry and displeased, a nun should not throw out another nun
or cause her to be thrown out from a dwelling place belonging to the
Order.
110)
Nếu ở phần trên gác, khi giăng mùng lót ván, cấm để cây rớt trúng
người: A nun who dwells in a lofty cell with an upper part, in a dwelling
place belonging to the Order. She should not cause any boards or removable
feet of her couch to fall down to hurt other people.
111)
Khi lợp tịnh xá, cấm dùng đồ quá nhiều chất nặng khiến bị sập: A
nun should not cover her dwelling place with heavy material that collapse
to harm other people.
112)
Cấm lấy nước dùng khi biết trong nước ấy có côn trùng: A nun should
not sprinkle grass or clay, or should not have them sprinkled if he knows
that the water contains life.
113)
Cấm đi chung với một vị Tỳ Kheo dầu làng nầy hay làng kia, trừ khi
ngặt nghèo (trường hợp ngặt nghèo ở đây phải được giáo hội đồng ý là đường
xá nguy hiểm và ghê sợ đến nỗi người đi đường phải mang vũ khí): A nun
should not have arranged together with a monk to go along the same road,
even among villages, except at the right time (in this case, the right
time must be agreed upon by the Order that the road is dangerous and
frightening that one must go with a weapon)
114)
Cấm hẹn nhau đi chung một thuyền với một vị Tỳ Kheo, trừ khi qua
đò: A nun should not have arranged together with a monk to embark in a
boat and to go either upstream or downstream, except for crossing over to
the other bank on a ferry.
115)
Cấm ăn đến hai buổi cơm một ngày, hai buổi hai ngày trong một nhà:
A nun should not eat more than one meal at a public house, nor should he
eat two meals in two days at the same house.
116)
Cấm ăn nhiều buổi cơm, ở nhiều chỗ trong một ngày, trừ khi đau yếu:
A nun should not eat more than one meal and residing at various locations
in one day, except when she is ill.
117)
Cấm ăn no rồi mà ăn lại nữa, nhưng khi còn đói có thể hỏi thêm: A
nun should not eat solid food or soft food that is not left over when she
feels full (satisfied); however, when she is still hungry, she can ask for
more food.
118)
Cấm lãnh đồ ăn nhiều quá mà không chia sớt cho vị khác (Khi vị sư
đi hay được mời thỉnh đến nhà thí chủ và được cúng dường hai hay ba bát
bột nhồi mật để mang về, vị Tăng ấy có thể nhận. Nếu muốn nhiều hơn thế là
phạm tội Ba Dật Đề. Nếu nhận về tự viện mà không chia lại cho chư Tăng
trong tự viện cũng bị phạm tội Ba Dật Đề): When receiving a lot of
alms-food, a nun must share them with other nuns in the Order. If not,
there is an offence of Pacittiya (If a nun, going up to a family, and was
invited to take cakes or barley-gruel, two or three bowlfuls may be
accepted by the nun. Should she accept more than that, there is an offence
of Pacittiya. Should she accept two or three bowfuls, take these cakes
back from there and would not share with other monks in the monastery,
there is an offence of Pacittiya).
119)
Cấm ép vị sư khác ăn no rồi mà phải ăn lại nữa: A nun should not
ask another nun who has eaten, who is satisfied, to take solid or soft
food that is not left over.
120)
Cấm ăn sái giờ từ quá ngọ tới ngọ hôm sau: A nun should not eat or
partake solid or soft food at the wrong time (wrong time means afternoon
has passed until sunrise).
121)
Cấm để dành đồ ăn cách đêm đặng hôm sau khỏi đi khất thực: A nun
should not eat or partake of solid food or soft food that was stored so
that she doesn’t have to go begging for alms-food the next day
122)
Cấm hỏi đồ ăn mỹ vị, trừ cơn đau phải tùy món cần dùng: A nun who
is not ill should not ask for sumptuous foods (sumptuous foods include
ghee, fresh butter, oil, honey, fish, meat, milk, curds, etc.).
123)
Cấm dùng và để đồ ăn vào miệng, món chẳng phải của cúng dường: A
nun should not convey to her mouth nutriment not given.
124)
Cấm trao tay thí đồ ăn cho lõa thể hay nam nữ ngoại đạo: A nun
should not give with her own hand solid food or soft food to a naked
ascetic, or to a male wanderer or to a female wanderer.
125)
Cấm oán ghét, kiếm cớ làm cho một vị sư khác bơ vơ nhịn đói: A nun
should not find fault to dismiss another nun from going into a village for
alms-food to cause that nun to starve.
126)
Cấm đi vào nhà có đồ ăn mà ngồi xuống: A nun should not intrude and
sit down in a house with food.
127)
Cấm đi đến nhà cư sĩ trước bữa ăn nếu không được mời trước:
Whatever nun, being invited and being provided with a meal, not having
asked for permission if a nun be there, should call upon families before a
meal or after a meal, except at a right time, there is an offence of
expiation. In this case, a right time is the time of giving robes, the
time of making robes:
128)
Khi không có bệnh, cấm nhận đồ cần dùng trước hạn kỳ bốn tháng:
When a nun is not ill, an invitation to accept a requisite for four months
may be accepted, unless there be a renewed invitation, unless there be a
permanent invitation. If one should accept for longer than that, there is
an offence of expiation:
129)
Cấm xem diễn binh tập trận: A nun should not go to see an army
fighting.
130)
Nếu vì lý do gì đó mà phải đến viếng trại binh, cấm ở chung với
quân binh hai ngày: If there is some reason for a nun to go to visit the
army, that nun should not stay with the army for two nights.
131)
Nếu phải viếng trại binh, cấm đi xem sự tập tành ngựa voi, quân
binh đấu võ: If a nun, staying with the army for less than two nights, she
should not go to see a sham-fight or to the troops in array or to the
massing of the army or to see a review of the army.
132)
Cấm uống rượu men, các thứ rượu, thuốc hút, á phiện, trầu cau: A
nun should not drink fermented liquor and spirits, nor should she smoke
opium, nor should she chew betel.
133)
Cấm lấy tay thọc lét để chọc cười những vị Ni cô khác: A nun should
not tickle with the fingers to make other nuns laugh.
134)
Cấm chơi thể thao hay giởn cợt một cách quá tự do dưới nước: A nun
should not playing in the water (sporting in the water).
135)
Cấm bất tuân và khinh dễ lời quở trách cản ngăn: A nun should not
disrespect any blame or warning from the elder nuns.
136)
Cấm dọa nạt làm cho một vị Tỳ Kheo khác kinh sợ: A nun should not
frighten another nun.
137)
Cấm vô cớ chụm lửa chỗ trống, trừ khi đau yếu, lạnh lẽo hay trong
đêm tối: If she is not ill, a nun should not warm herself, kindle or cause
a fire to be kindled.
138)
Cấm tắm tới hai lần trong nửa tháng, trừ khi đau yếu, dơ hay nực
vào trời hè: A monk should not bathe at intervals of less than half a
month, except at a right time, i.e., the time of illness, the body is
dirty, or too hot during the summer time.
139)
Cấm nhận, mặc, hay dùng chăn áo, màu vải trắng, mà phải nhuộm lại
cho xấu trước khi dùng: A nun should not obtain or wear a robe (white)
that has no disfigurement of black, dark green or muddy colors. If a nun
makes use of a new robe without taking any one mode of disfigurement (of
the three modes of disfigurements), there is an offence of expiation.
140)
Cấm lấy lén lại đồ, áo đã cho người ta rồi: A nun should not get
back things that she already offered to another nun. If a nun assigns a
robe to a monk or to a nun or to a female probationer or to a male novice,
then make use of it or take it back to give to another nun, there is an
offence of expiation.
141)
Cấm giễu cợt mà giấu, hoặc xúi người dấu đồ của người khác (như
bát, áo, vải, vân vân): A nun should not hide or cause to hide another
nun’s bowl or robe or cloth, even in fun.
142)
Cấm cố ý giết chết mạng thú vật: A nun should not intentionally
deprive a living thing of life.
143)
Cấm uống nước mà mình biết là có trùng: A nun should not knowingly
make use of water that contains living things.
144)
Cấm khiêu gợi sự rầy rà sau khi đã êm thuận: A nun should not
knowingly open up for a further formal act a legal question already
settled according to rule.
145)
Cấm đi chung với gian nhân, dầu từ làng nầy hay làng kia cũng vậy:
A nun should not have arranged together with a caravan set on theft,
should not knowingly go along the same high road, even among villages.
146)
Cấm nói mình đã hiểu giáo pháp của Đấng Thiện Thệ làm trở ngại cho
những ai tu theo. Ni chúng sẽ hỏi vị nầy ba lần. Nếu vị ấy vẫn không chịu
sám hối, tức là phạm tội Ba Dật Đề: Whatever nun should speak thus: “In so
far as I understand dhamma taught by the Blessed One, it is that in
following those things called stumbling-blocks by the Blessed One, there
is no stumbling-block at all;” that nun should be spoken to by the nuns
thus: “Do not, venerable one, speak thus, do not misrepresent the Blessed
One, misrepresentation of the Blesed One is not all seemly, and the
Blessed One certainly would not speak thus; in many a figure, your
reverence, are things that are stumbling-blocks called stumbling-blocks by
the Blessed One, and in following these there is a veritable
stumbling-block.” And if that monk, when he has been spoken to thus by the
monks, should persist as before, that nun should be admonished by the nuns
up to the third time for giving up that course. If being admonished up to
the third time, she should give it up, that is good. But if she should not
give it up, there is an offence of expiation.
147)
Cấm ăn uống và giao thiệp, hay nói chuyện với vị Ni cô nói sái
quấy: A nun should not knowingly eat together with or be in communion
with or lie down in a sleeping place with a nun who speaks uncorrectly
about the Buddha-Dharma and misinterprets the Buddha.
148)
Cấm giữ tại chùa và để hầu mình, kẻ Sa Di Ni nói sái quấy: A nun
should not knowingly allow the female novice who speaks uncorrectly about
the Buddha-Dharma and misinterprets the Buddha, should not encourage that
novice, should not support, should not eat with that novice, nor should
she lie down in a sleeping place with that novice .
149)
Cấm chối tội nói rằng không biết để đi hỏi lại: A nun, being spoken
to by nuns regarding a rule, should speak thus: “Your reverences, I will
not train myself in this rule of training until I have inquired about it
of another experienced nun who is expert in discipline.” There is an
offence of Pacittiya. She should say: “Nuns, it should be learnt, it
should be inquired into, it should be investigated by a nun who is
training.”
150)
Cấm nói phá rằng đọc giới bổn là phiền hà vô ích: When the
Patimokkha is being recited, a nun should not disparaging the rule of
training by sayng thus: “On what account are the lesser and minor rules of
training recited? They only tend to remorse, to vexation, to perplexity.”
151)
Cấm chối tội nói rằng tại mình không thuộc giới bổn: A nun should
not avoid being blamed by saying that she does not understand the
Patimokkha (Whatever monk, while the Patimokkha is being recited every
half-month, should speak thus: “Only now I do understand that this rule
is, as is said, handed down in a clause, contained in a clause, and comes
up for recitation every half-month; if other nuns should know concerning
this nun has sat down two or three times before, not to say oftener, while
Patimokkha was being recited, there is not only no freedom for that nun on
account of her ignorance, but she ought to be dealt with according to the
rule for the offence into which she has fallen there, and further
confusion should be put on her, saying: ‘Your reverence, this is bad for
you, this is badly gotten by you, that you, while the Patimokkha is being
recited, do not attend applying yourself properly.”
152)
Whatever nun should intentionally arouse remorse in a nun thinking,
“There will be no comfort for her even for a moment,” if having done it
for just this object, not for another, there is an offence of expiation.
153)
Cấm học đi học lại, chuyện cãi lẫy gây gổ, sau khi đã êm thuận: A
nun should not stand overhearing other nuns when they are quarrelling,
disputing.
154)
Cấm làm cản trở không cho thi hành điều mà giáo hội đã quyết nghị:
A nun should not first consent for ligitimate acts, and afterwards engage
in criticism.
155)
Cấm phá khuấy làm gián đoạn buổi hội nghị, bằng cách đứng dậy hay
bước ra ngoài: A nun should not break or interrupt the meeting, not giving
the consent by rising up or departing from her seat when the Order is
engaged in decisive talk.
156)
Cấm nói vị Ni khác được áo của Giáo Hội vì sự quen biết: Whatever
nun, having given away a robe by means of a complete Order, should
afterwards engage in criticism, saying: “The nuns are appropriating a
benefit belonging to the Order according to acquaintanceship,” there is an
offence of expiation.
157)
Whatever nun should knowingly appropriate to an individual an
apportioned benefit belonging to the Order, there is an offence of
expiation.
158)
Cấm vào cung vua thình lình, không chờ đợi được nghinh tiếp: A nun
should not suddenly enter the threshold of the king palace without waiting
to be welcome.
159)
Cấm lượm, hay sai lượm của quấy vật bỏ rơi, trừ khi nào biết rõ chủ
nhân mà muốn cất giùm: A nun should not pick up or cause another to pick
up treasure or what is considered to be treasure, except when she knows
the owner and picks to set aside for the owner to take it.
160)
Cấm vào làng sái giờ, trừ ra có việc của Giáo Hội: A nun should not
enter a village at the wrong time, unless the Order instructs her to go
for some kind of urgent thing to be done.
161)
Cấm dùng ống đựng kim bằng xương, sừng, ngà: A nun should not have
a needle-case made of bone or ivory or horn
162)
Cấm ngồi ghế cao (cao hơn tám lóng tay), nằm giường rộng, chiếu lớn
xinh đẹp: A nun should not sit on a couch or chair with the legs higher
than eight finger-breadths
163)
Cấm dồn ghế, nệm, gối bằng gòn tốt: A nun should not have a couch
or a chair made covered with good cotton.
164)
Cấm trải ngọa cụ choán chỗ rộng quá: A nun should not sit or lie on
a large piece of sleeping bag (oversize). When a piece of cloth to sit
upon is being made for a nun, it must be made to a proper measure. This is
the proper measure: in length two spans, in breadth one and a half spans.
In exceeding this measure, there is an offence of expiation.
165)
Cấm dùng vải giẻ nhiều quá để bó chỗ đau (bốn gang chiều dài và hai
gang chiều rộng): A nun should not use oversize itch-cloth (four spans in
length and two spans in breadth).
166)
Cấm mặc áo rộng dài như áo của Phật (áo của Phật chiều dài chín
gang, chiều rộng sáu gang): A nun should not have a robe made the measure
of the Buddha’s robe, or more (the measures for the Buddha’s robe are nine
spans in length and six spans in breadth).
(VI) Patidesaniya
Tứ Giới Hối Quá:
Patidesaniya (skt)—Theo Luật Tạng, chữ Patidesaniya là gốc chữ Bắc Phạn,
có nghĩa là phát lồ xưng ra sự vi phạm luật xuất gia trước Giáo Hội. Bốn
giới Ba La Đề Xá Ni là những vi phạm mà hình phạt phải được Giáo Hội quyết
định—According to the Vinaya Pitaka, the word Patidesaniya is a Sanskrit
word means a confession of an offence or some sort of transgression of
monastic rules which ought to be confessed before the Order, and the
punishments for these offences are decided by the Order.
1)
Cấm chẳng đau mà ăn nhờ đồ của Tỳ Kheo Ni xa lạ: A monk should not
eat or partake of solid food or soft food, having accepted it with his own
hand from the hand of a nun who is not a relation.
2)
Cấm chẳng từ chối Tỳ Kheo Ni nói với thí chủ đãi cơm cho mình (khi
thí chủ mời chư Tăng đến nhà thiết đãi Trai Tăng. Nếu có một vị Tỳ Kheo Ni
đến bên bảo thí chủ đem đến cho chư Tăng món cà ri, món cơm, vân vân. Vị
Tăng phải quở trách ngay vị Tỳ Kheo Ni ấy “Ni sư nên đứng qua một bên khi
chư Tăng đang thọ dụng.” Nếu không là phạm phải tội Ba La Đề Xá Ni): When
a householder invites a monk to come to the family. If a nun comes to be
standing as though giving directions, saying: “Here give curry, give
cooked rice here,” that nun should be rebuked by the monk, saying: “Stand
aside, sister, while the monks eat.” If not, the monk violates the
Patidesaniya.
3)
Cấm xin mãi một nhà, làm cho người ta nghèo túng: A monk should not
keep begging for foods at the same house to cause them to be poor because
of their continuous offerings.
4)
Cấm sư ẩn cư ở chỗ nguy hiểm, để có sự nguy hại cho thí chủ khi đem
cơm tới cho mình: A monk should not reside in those jungle lodgings that
are dangerous and frightening for donators who travel to offer foods and
drinks.
(VII) Sekhiyadhamma
Giới Chúng Học Ni:
Sikkka-karaniya (skt)—Sekhiya (p)—Tiếng Phạn gọi là Thức Xoa Ca La Ni—Theo
Luật Tạng, Thức Xoa Ca La Ni là một trăm giới cần học trong sinh hoạt hằng
ngày—According to the Vinaya Pitaka, Sikkka-karaniya includes one hundred
rules of conduct which are connected with daily activities.
1)
Cái chăn phải vận từ nịch lưng tới nửa ống chân, chứ không được
xăn, để phủ trùm rún và hai đầu gối. Nếu ai để chăn xăng lên hay lòng
thòng ra ngoài, dù phía trước hay phía sau, đều bị phạm tội Thức Xoa Ca La
Ni: A nun should wear the inner robe all round for covering the circle of
the navel and the circles of the knees. Whoever out of disrespect dresses
with an inner robe hanging down in front or behind, there is an offence of
wrong-doing.
2)
Bộ áo ba cái phải mặc cho có thứ lớp: A nun should wear the upper
robe even al round (whoever out of disrespect puts on an upper robe
hanging down in front or behind, there is an offence of wrong-doing).
3)
Chẳng nên đi vào nhà cư sĩ mà không mặc áo che mình: A nun should
not, out of disrespect, having uncovered the body, go among the houses.
4)
Chẳng nên ngồi trong nhà cư sĩ mà không mặc áo che mình: A nun
should not, out of disrespect, sit down among the house without proper
clothes.
5)
Chẳng nên đi vào nhà cư sĩ mà múa tay: A nun should not go
fidgeting amidst the houses (making play with hand or foot).
6)
Chẳng nên ngồi trong nhà cư sĩ mà múa tay: A nun should not sit
fidgeting in inhabited areas (making play with hand or foot in the
houses).
7)
Chẳng nên đi vào nhà cư sĩ mà mắt trông bên nầy, bên kia. Mắt vị ấy
chỉ nên nhìn xuống và xa về phía trước chỉ khoảng bề ngang một luống cày:
A nun should not go among the houses with eyes glanced around. He should
go amidst the houses with eyes cast down looking only a plough’s distance
ahead.
8)
Chẳng nên ngồi trong nhà cư sĩ mà mắt trông bên này, bên kia. Mắt
vị ấy chỉ nên nhìn xuống và xa về phía trước khoảng bề ngang một luống
cày: A nun should not sit down in the houses with eyes glanced around. He
should sit down amidst the houses with eyes cast down looking only a
plough’s distance ahead.
9)
Chẳng nên đi vào nhà cư sĩ mà lật áo lên tới vai: A nun should not
go among the houses with robes lifted up to the shoulders, either on one
side or on both (if out of disrespect having lifted up the robe on one
side or on both, there is an offence of wrong-doing).
10)
Chẳng nên ngồi trong nhà cư sĩ mà lật áo lên tới vai: A nun should
not sit down amidst the houses with robes lifted up to the shoulders,
either on one side or on both.
11)
Chẳng nên cười cợt khi đi vào nhà cư sĩ: A nun should not go into
the houses with loud laughter.
12)
Chẳng nên cười cợt khi ngồi trong nhà cư sĩ: A nun should not sit
down in the houses with loud laughter.
13)
Cấm không được đi vào và ngồi trong nhà cư sĩ mà gây tiếng động ồn
ào: With a loud noise will I go sit down amidst the houses, is a training
to be observed. One should go sit down amidst the houses with little
noise.
14)
Cấm ngồi trong nhà cư sĩ mà gây tiếng động ồn ào: Whoever out of
disrespect, making a loud noise, a great noise, goes sits down amidst the
houses, there is an offence of wrong-doing.
15)
Chẳng nên đi vào nhà cư sĩ mà lay chuyển thân mình: A nun should
not go amidst the houses swaying the body. He should hold the body
straight.
16)
Chẳng nên ngồi trong nhà cư sĩ mà lay chuyển thân mình: A nun
should not sit down amidst the houses sway the body. He should hold the
body straight.
17)
Chẳng nên đi vào và ngồi trong nhà cư sĩ mà quơ múa tay, mà ngược
lại tay phải thẳng: Not swaying the arms will I go sit down amidst the
houses, is a training to be observed. One should not go sit down amidst
the houses swaying the arms. One should go sit down holding the arms
straight.
18)
Chẳng nên vì bất kính mà đi vào và ngồi trong nhà cư sĩ mà quơ múa
tay: Whoever out of disrespect, the arms swaying, goes sits down amidst
the houses bending the arms, there is an offence of wrong-doing.
19)
Chẳng nên đi vào và ngồi trong nhà cư sĩ mà đầu cổ lắc lia: Not
swaying the head will I go sit down amidst the houses, is a training to be
observed. One should not go sit down amidst the houses swaying the head.
One should go sit down holding the head straight.
20)
Chẳng nên đi vào và ngồi trong nhà cư sĩ mà ưởn cổ hay gục đầu:
Whoever out of disrespect, the head swaying , goes sits down amidst the
houses bending the head, there is an offence of wrong-doing.
21)
Chẳng nên đi vào nhà cư sĩ mà chắp tay sau lưng hay chống nạnh: A
nun should not enter any lay people’s houses with the arms placed on the
hips, or with the hands on both sides and the elbows turned outwards
(akimbo).
22)
Chẳng nên ngồi trong nhà cư sĩ mà chắp tay sau lưng hay chống nạnh:
A nun should not sit down in lay people’s houses with the arms akimbo
(arms place on the hips, or hands on both sides and elbows turned
outwards).
23)
Cấm ngồi trong nhà cư sĩ mà lè lưỡi hay chống tay lên hàm: One
should not go sit down muffled up amidst the houses.
24)
Chẳng nên đi vào nhà cư sĩ, vừa ngồi vừa mặc áo: Whoever out of
disrespect goes sits down amidst the houses, having dressed himself,
including his head, in the upper robe, there is an offence of wrong-doing.
25)
Chẳng nên ngồi chồm hổm trong nhà cư sĩ: A nun should not crouch
down on the heels (sit arms akimbo) in the lay people’s houses.
26)
Chẳng nên ngồi trong nhà cư sĩ mà quần áo lòng thòng, thân người uể
oải: One should not sit down amidst the houses lolling. Whoever out of
disrespect sits down amidst the houses lolling, there is an offence of
wrong-doing.
27)
Phải để ý khi lãnh cơm: A nun should accept almsfood attentively.
Whoever out of disrespect accepts almsfood inattentively, as though
desirous of throwing it away, there is an offence of wrong-doing.
28)
Phải để ý khi tín chủ bố thí thực vật vào bát, chứ không được ngó
qua ngó lại: One should accept almsfood thinking of the bowl. Whoever out
of disrespect accepts almsfood, looking about here and there, there is an
offence of wrong-doing.
29)
Phải lãnh cà ri vừa phải, chứ không được nhận quá nhiều: Almsfood
with equal curry should be accepted. Whoever out of disrespect accepts too
much curry, there is an offence of wrong-doing.
30)
Chẳng nên xới cơm lên che khuất đồ ăn đặng lãnh thêm nữa: A nun
should not hide (cover up) sauce and curries with rice out of dsire to get
more. One should accept almsfood at an even level. Whoever out of
disrespect accepts heaped-up almsfood, there is an offence of wrong-doing.
31)
Lãnh cơm và đồ ăn đủ rồi, phủ cái bát lại, vừa ăn vừa quán tưởng.
Những ai bất kính, ăn đồ khất thực mà không quán tưởng là phạm tội: After
accepting enough alms-food, a monk should cover the bowl; then she should
sit straight up, eat and contemplate at the same time. Whoever out of
disrespect eats almsfood inattentively, there is an ofence of wrong-doing.
32)
Lúc ăn nên luôn quán tưởng về bát cơm mà mình thọ dụng, chứ không
được ngó quanh ngó quất: One should eat almsfood thinking of the bowl.
Whoever out of disrespect eats almsfood looking about here and there,
there is an offence of wrong-doing.
33)
Cấm lựa thức ăn khi ăn: One should eat almsfoods on continuous
alms-tour. Whoever out of disrespect eats almsfood, having chosen here and
there, there is an offence of wrong-doing.
34)
Khi thọ thực, phải ăn vừa phải cà ri chứ không tùy tiện ăn một cách
thái quá: Almsfood with equal curry should be eaten. Whoever out of
disrespect eats too much curry, there is an offence of wrong-doing.
35)
Món nào xúc trước thì ăn trước: A nun should eat the alms-food
working down from the top without making exceptions (choosing or selecting
foods). One should eat almsfood not having chosen from the top. Whoever
out of disrespect eats almsfood having chosen from the top, there is an
offence of wrong-doing.
36)
Không nên che khuất cà ri để mong được lãnh thêm: One should not
cover up the curry or the condiment with conjey, desiring something more.
Whoever out of disrespect covers up the curry or the condiment with
conjey, desiring something more, there is an offence of wrong-doing.
37)
Chẳng nên hỏi canh ngon, hoặc món lạ, trừ khi đau yếu phải tùy món
cần dùng: A nun should not ask for sauce and/or rice for his own
appetizing unless he is sick.
38)
Chẳng nên thấy vị khác lãnh đồ ăn mà sanh lòng thèm muốn. Chẳng nên
nhìn sang bát của người khác có ý thèm thuồng, nếu không là phạm tội: A
nun should not look enviously at another’s bowl. One should not look at
others’ bowls captious-mindedly. Whoever out of disrespect looks at
others’ bowls captious-mindedly, there is an offence of wrong-doing.
39)
Chẳng nên ăn miếng lớn: When eating alms-food, a nun should not
make up too large a mouthful. Whoever out of disrespect makes up too large
a mouthful, there is an offence of wrong-doing.
40)
Nên làm miếng tròn mà ăn cho vừa miệng, chứ không nên đưa miếng dài
vào trám cả miệng: One should make up a piece of food into a round.
Whoever out of disrespect makes up a long piece of food, there is an
offence of wrong-doing.
41)
Chẳng nên há miệng lớn, mà đút đồ ăn (chẳng nên há miệng trước khi
miếng đồ ăn được đưa đến miệng): A nun should not open the mouth till the
mouthful is brought to it. Whoever out of disrespect opens the mouth when
the mouthful is not brought close, there is an offence of wrong-doing.
42)
Cấm cho nguyên bàn tay với thức ăn vào miệng khi đang ăn: One
should not put the whole hand into the mouth while eating. Whoever out of
disrespect puts the whole hand into the mouth while eating, there is an
offence of wrong-doing.
43)
Chẳng nên nói chuyện, khi ngậm một miệng đồ ăn: A nun should not
talk with the mouth full (talk with a mouthful in the mouth). Whoever out
of disrespect talks with a mouthful in the mouth, there is an offence of
wrong-doing.
44)
Chẳng nên lấy cơm vò viên, mà thảy vào miệng: When eating
alms-food, a monk should not make up a round mouthful (eat tossing up
balls of food). Whoever out of disrespect eats tossing up bals of food,
there is an offence of wrong-doing.
45)
Chẳng nên ăn trám vàm đến nỗi rớt ra: A nun should not eat
scattering rice or lumps of boiled rice about. Whoever out of disrespect
eats breaking up the mouthfuls, there is an offence of wrong-doing.
46)
Chẳng nên đưa đồ ăn má bên này, qua má bên kia như khỉ: A nun
should not eat stuffing out the cheeks like a monkey (stuffed the cheek on
one side or on both). Whoever out of disrespect eats, having stuffed cheek
on one side or on both, there is an offence of wrong-doing.
47)
Chẳng nên quơ tay trong khi ăn: A nun should not eat shaking the
hand about. Whoever out of disrespect eats shaking the hands about, there
is an offence of wrong-doing.
48)
Chẳng nên ăn cơm mà làm rơi rớt: One should not eat scattering
lumps of boiled rice. Whoever out of disrespect eats scattering lumps of
boiled rice, there is an offence of wrong-doing.
49)
Chẳng nên lè lưỡi ra, hay lấy lưỡi liếm: A nun should not eat put
out the tongue, or eat licking or wiping, either the hand or the bowl.
50)
Chẳng nên nút đồ ăn trong khi ăn hay nút mội chùn chụt: A nun
should not suck the alms-food loudly, or smack the lips loudly.
51)
Chẳng nên nhai lớn tiếng hay phát ra tiếng gió: A nun should not
eat making loud sound or noise, or making a hissing sound.
52)
Chẳng nên liếm tay khi đang ăn: One should not eat licking the
fingers.
53)
Chẳng nên liếm chén khi ăn: One should not eat licking the bowl.
54)
Chẳng nên liếm môi khi đang ăn: One should not eat licking the
lips.
55)
Chẳng nên cầm bình uống nước mà chẳng rữa tay: A nun should not
accept a drinking-water pot or cup with the hands soiled with food.
56)
Chẳng nên tạt nước rữa bát với cơm cặn lợn cợn ra sân của thí chủ:
A nun should not throw out amidst the houses, rinsings of the bowl with
lumps of boiled rice (bowl washing water which has rice grains in it).
57)
Chẳng nên vị tình thuyết pháp cho kẻ vô lễ, cầm dù: A nun should
not teach Dharma to someone with an umbrella or a sunshade in his hand who
is not sick.
58)
Chẳng nên vị tình thuyết pháp cho kẻ vô lễ, không đau bệnh mà cầm
gậy: A nun should not teach Dharma to someone with a stick (staff) in his
hand and who is not sick.
59)
Chẳng nên vị tình thuyết pháp cho kẻ vô lễ, cầm dao: A nun should
not teach Dharma to someone with a knife in his hand.
60)
Chẳng nên vị tình thuyết pháp cho kẻ vô lễ, cầm giáo: A nun should
not teach Dharma to someone with a spear (lance) in his hand.
61)
Chẳng nên vị tình thuyết pháp cho kẻ vô lễ, đi guốc: A nun should
not teach Dharma to someone mounted on clogs (wooden shoes).
62)
Chẳng nên vị tình thuyết pháp cho kẻ vô lễ, đi dép: A nun should
not teach Dharma to someone wearing sandals who is not sick.
63)
Chẳng nên vị tình thuyết pháp cho kẻ vô lễ, cỡi ngựa, đi kiệu: A
nun should not teach the law to someone in a vehicle who is not sick.
Whoever out of disrespect teaches Dhamma to someone in a vehicle and who
is not ill, there is an offence of wrong-doing.
64)
Chẳng nên vị tình thuyết pháp cho kẻ vô lễ, nằm trên giường hay nằm
dưới đất trong khi mình ngồi: A nun should not sit to teach Dharma to
someone lying on a bed and who is not ill, or even lying on the ground.
65)
Chẳng nên vị tình thuyết pháp cho kẻ vô lễ, ngồi rong khi mình
đứng: A nun should not teach Dharma, standing, to someone who is sitting
down, and who is not sick
a)
Chẳng nên vị tình thuyết pháp cho kẻ vô lễ, ngồi trên ghế trong khi
mình ngồi dưới đất (ngồi chỗ tốt trong khi mình ngồi chỗ xấu): A nun
should not sit down on the ground to teach Dharma to someone sitting on a
seat and who is not ill.
b)
Chẳng nên vị tình thuyết pháp cho kẻ vô lễ, ngồi chỗ cao trong khi
mình ngồi chỗ thấp: A nun should not teach Dharma, having sat down on a
low seat, to someone sitting on a high seat and who is not ill.
66)
Chẳng nên vị tình thuyết pháp cho kẻ vô lễ che đầu: A nun should
not teach the law to someone with head covered (with a turban on his head)
and who is not sick.
67)
Chẳng nên vị tình thuyết pháp cho kẻ vô lễ dùng khăng quấn đầu: A
nun should not teach Dharma to someone wearing a head wrapping (whose head
muffled up) and who is not sick.
68)
Khi mình ngồi dưới đất, chẳng nên vị tình thuyết pháp cho kẻ không
có bệnh mà vô lễ ngồi trên ghế: Having sat down on the ground, dhamma
should not be taught to someone siting on a seat and who is not ill.
69)
Khi mình ngồi ghế thấp, chẳng nên vị tình thuyết pháp cho kẻ không
có bệnh mà vô lễ ngồi trên ghế cao: Dhamma should not be taught, having
sat down on a low seat, to someone sitting on a high seat and who is not
ill.
70)
Khi mình đứng, chẳng nên vô tình thuyết pháp cho kẻ không có bệnh
mà vô lễ ngồi: A nun should not teach Dhamma, standing, to someone who is
sitting down and who is not ill.
71)
Chẳng nên vị tình thuyết pháp cho kẻ vô lễ, đi trước mà mình đi
sau: A nun should not teach Dharma, going or walking behind, to someone
going or walking in front and who is not ill.
72)
Chẳng nên vị tình thuyết pháp cho kẻ vô lễ, đứng ở giữa đường mà
mình đứng ở bên đường: A nun should not teach Dharma, standing beside (at
the side of) a path, to someone standing on a path (in the middle of the
path).
73)
Khi đứng chẳng nên tự tiện khạc nhổ: One must not ease or spit
oneself standing if not ill. Whoever out of disrespect eases or spits
himself standing if not ill, there is an offence of wrong-doing.
74)
Nếu chẳng phải bệnh, chẳng nên tự tiện khạc nhổ vào cây xanh: A nun
should not ease himself or spit, if not ill, on green corn.
75)
Nếu chẳng phải bệnh, chẳng nên tự tiện khạc nhổ xuống nước: A nun
should not ease himself or spit in the water.
Cụ Túc Vô Khuyết:
Complete without lack.
Của Báu: Precious
things.
Của Bố Thí: Alms.
Của Cải:
Wealth—Property.
Của Cải Tích Lũy:
Hoard of acquired wealth.
Của Chìm Của Nổi:
Hiden wealth and material (real estate) wealth.
Của Chung: Common
property.
Của Gian: Stolen
things.
Của Hối Lộ: Bribe.
Của Hồi Môn:
Dower—Marriage settlement in favor of daughter.
Của Phi Nghĩa:
Ill-gotten gains.
Của Quý: See Của
Báu.
Của Rẻ Là Của Hôi:
Cheap things are usually valueless.
Của Riêng: Private
property.
Của Rơi: Things
someone has dropped.
Của Thiên Trả Địa:
Ill-goten, ill-spent.
Của Tư Hữu:
Personal property.
Cúc:
1)
Bông cúc—Chrysanthemum.
2)
Cúc dục: Nuôi dưỡng—To nourish.
Cúc Dục: To bring
up.
Cúc Đa: Upagupta
(skt)—See Hai Mươi Tám Tổ Ấn Độ in Vietnamese-English Section.
Cúc Đăng: Một loại
đèn cúng trong chùa, thuờng trước bàn Phật—A chrysanthemum-shaped lamp
used in temples, usually in front of the Buddha.
Cúc Lợi Nhai Na:
Kuryana or Kuvayana (skt)—Theo Eitel trong Trung Anh Phật Học Từ Điển, Cúc
Lợi Nhai Na là một vương quốc cổ nằm về phía tây nam Ferghana, phía bắc
thượng nguồn sông Bác Xoa (Oxus), bây giờ là Kurrategeen—According to
Eitel in The Dictionary of Chinese-English Buddhist Terms, Kuvayana is an
ancient kingdom south-west of Ferghana, north of the upper Oxus, the
present Kurrategeen.
Cúi: To bend—To
bow.
Cúi Chào: To bow to
someone.
Cúi Đầu Cầu Nguyện:
To bow one’s head in prayers.
Cùn Nhụt:
Blunt—Dull.
Cung:
1)
Cây cung: Dhanus (skt)—A bow.
2)
Cung điện: A palace—Mansion.
3)
Cung kính: Respect—Reverence.
Cung Bàn Trà: Quỷ
Cung Bàn Trà—Kumbhanda demons—See Kumbandha in Sanskrit/Pali-Vietnamese
Section.
Cung Bạn Trà: See
Kumbandha in Sanskrit/Pali-Vietnamese Section.
Cung Cấp: To
supply—To furnish.
Cung Cầu: Supply
and demand.
Cung Chúc: To wish
respectfully.
Cung Chúc Tân Xuân:
Happy New Year.
Cung Điện Thành Quách
Trên Núi Kỳ Xà Quật: The City of Royal Palaces on Mount Grdhrakuta.
Cung Hạ: To
congratulate.
Cung Hành: To do
something by oneself.
Cung Hiến: To
offer.
Cung Kiến Na Bổ La:
Konkanapura (skt)—Theo Eitel trong Trung Anh Phật Học Từ Điển, Cung Kiến
Na Bổ La là một vương quốc cổ nằm về bờ biển phía tây của Ấn Độ, bao gồm
các vùng Konka, Goa, và phía bắc Kanara—According to Eitel in The
Dictionary of Chinese-English Buddhist Terms, Konkanapura, an ancient
kingdom on the West Coast of India, including Konkan, Goa, and North
Kanara.
Cung Kính:
Respectful—Reverent—Worship.
Cung Kính Cúi Đầu:
To bow respectfully.
Cung Kính Đi Nhiễu:
Respectfully circumambulating (circling on foot).
Cung Kính Thí: Cung
kính cũng là một cách cúng dường—Worship as an offering.
Cung Kính Thỉnh Phật
Thuyết Pháp: Reverently asked the Buddha to preach the dharma.
Cung Kính Thỉnh Sư
Thuyết Pháp: Reverently asked the master to preach the dharma.
Cung Miếu: Royal
temples.
Cung Môn: Door of
the imperial palace.
Cung Nga:
Maid-servant of the queen.
Cung Ngự Đà:
Konyodha (skt)—Theo Eitel trong Trung Anh Phật Học Từ Điển, Cung Ngự Đà
được ngài Huyền Trang nói đến là một vương quốc cổ của những người không
tin Phật, nằm về phía đông nam Orissa, có lẽ bây giờ là thị trấn
Ganjam—According to Eitel in The Dictionary of Chinese-English Buddhist
Terms, Konyodha, an ancient kingdom mentioned by Hsuan-Tsang as a
stronghold of unbelievers; it is said to be in south-east Orissa, possibly
the present Ganjam town.
Cung Nữ: Imperail
maids—See Cung Nga.
Cung Phi: Imperail
concubine.
Cung Phụng: To
offer.
Cung Quảng: Palace
in the moon.
Cung Thai: Thai
cung nơi những người niệm Phật vãng sanh mà còn nghi ngờ nơi Đức Phật A Di
Đà sẽ được về ở tại đây trong 500 năm cho đến khi đủ công đức sanh về Tịnh
Độ—The palace womb, where those who call on Amitabha but are in doubt of
him are confined for 500 years, devoid of the riches of Buddha-truth, till
born into th Pure Land—See Nghi Thành Thai Cung.
Cung Ứng: To
equip—To supply—To furnish.
Cung Tỳ La: Còn gọi
là Kim Tỳ La, dịch là cá sấu—A crocodile.
Cúng: Puja (skt)—To
offer or honour in worship—To supply—To offer to Buddha.
Cúng Cụ: Cúng
Vật—Các lễ vật dâng cúng lên chư Phật và chư Bồ Tát như hoa, hương (đồ
bôi), nước, nhang, thức ăn, đèn—Offerings, i.e. flowers, unguents, water,
incense, food, light.
** For more information,
please see Lục Cúng
Cụ.
Cúng Dường:
(I)
Nghĩa của Cúng Dường—The meanings of offerings—Cung cấp nuôi dưỡng
hay cúng dường những thứ lễ vật như thức ăn, hương, hoa, nhang, đèn, kinh
sách, giáo thuyết, vân vân—To support—To offer—To make offerings to—To
make offerings of whatever nourishes, e.g. food, goods, incense, lamps,
scriptures, the doctrine, etc, any offerings for body or mind.
(II)
Phân loại Cúng Dường—Categories of offerings:
(A)
Nhị Cúng Dường—There are two kinds:
1)
Tài cúng dường: Offerings of goods.
2)
Pháp cúng dường: Offerings of the Buddah truth.
** For more information, please see Nhị Cúng
Dường.
(B)
Tam Cúng Dường: Three kinds of offerings—See Tam Cúng Dường.
(C)
Tứ Cúng Dường: Four kinds of offerings—See Tứ Cúng Dường, and Tứ
Sự.
(D)
Ngũ Cúng Dường: Five kinds of offerings—See Ngũ Cúng Dường.
(E)
Lục Cúng Dường: Six kinds of offerings—See Lục Cúng Dường.
(F)
Thập Cúng Dường: Ten kinds of offerings—See Thập Cúng Dường.
(III)
Những lời Phật dạy về “Cúng Dường” trong Kinh Pháp Cú—The Buddha’s
teachings on “Offerings” in the Dharmapada Sutra:
1)
Mỗi tháng bỏ ra hàng ngàn vàng để sắm vật hy sinh, tế tự cả đến
trăm năm, chẳng bằng trong giây lát cúng dường bậc chân tu; cúng dường bậc
chân tu trong giây lát thắng hơn tế tự quỷ thần cả trăm năm—Month after
month, even though one makes an offerings of a thousand for a hundred
years, yet it is no better than one moment that he pays homage to a saint
who has perfected himself (Dharmapada 106).
2)
Cả trăm năm ở tại rừng sâu thờ lửa, chẳng bằng trong giây lát cúng
dường bậc chân tu; cúng dường bậc chân tu trong giây lát thắng hơn thờ lửa
cả trăm năm—Should a man, for a hundred years, tend the sacrificial fire
in the forest, yet it is no better than just one moment he honours the
saint who has perfected himself; that honour is indeed better than a
century of fire-sacrifice or fire-worship (Dharmapada 107).
3)
Suốt một năm bố thí cúng dường để cầu phước, công đức chẳng bằng
một phần tư sự kính lễ bậc chính trực (chánh giác)—Whatever alms or
offering a man has done for a year to seek merit, is no better than a
single quarter of the reverence towards the righteous man (Dharmapada
108).
4)
Thường hoan hỷ, tôn trọng, kính lễ các bậc trưởng lão thì được tăng
trưởng bốn điều: sống lâu, đẹp đẽ, tươi trẻ, khỏe mạnh—For a man who has
the habit of constant honour and respect for the elder, four blessings
will increase: longevity, beauty, happiness, and good health (Dharmapada
109).
5)
Kẻ nào cúng dường những vị đáng cúng dường, hoặc chư Phật hay đệ
tử, những vị thoát ly hư vọng, vượt khỏi hối hận lo âu—Whoever pays homage
and offering, whether to the Buddhas or their disciples, those who have
overcome illusions and got rid of grief and lamentation (Dharmapada 195).
6)
Công đức của người ấy đã cúng dường các bậc tịch tịnh vô úy ấy,
không thể kể lường—The merit of him who reverences such peaceful and
fearless Ones cannot be measured by anyone (Dharmapada 196).
7)
Hàng Tỳ kheo dù được chút ít cũng không sinh tâm khinh hiềm, cứ
sinh hoạt thanh tịnh và siêng năng, nên đáng được chư thiên khen
ngợi—Though receiving little, if a Bhikhshu does not disdain his own
gains, even the gods praise such a monk who just keeps his life pure and
industrious (Dharmapada 366).
Cúng Dường Hương Hoa:
Phật tử cúng dường hương hoa là bên ngoài tỏ lòng kính trọng Phật. Khi
cúng dường hoa, chúng ta nên nghĩ rằng hoa nầy rồi sẽ tàn phai héo úa và
hoại diệt đi, chúng ta cũng sẽ hoại diệt như vậy, không có một thứ gì trên
đời nầy đáng cho ta bám víu—To offer flowers and incense—Buddhists offer
flowers and incense to the Buddha as an outward form of respect to the
Buddha. When we offer flowers, we think that as those flowers fade we also
fade and die; therefore, there is nothing in this world for us to cling
on.
Cúng Dường Phật: An
offering to Buddha.
Cúng Dường Tràng Phan
Bảo Cái: Offering pennants and banners to the Buddhist temple.
Cúng Dường Vô Lượng Chư
Phật Trong Quá Khứ: To serve countless Buddhas in the past.
Cúng Phật: To offer
to Buddha.
Cúng Phụng:
1)
Cúng dường: To offer.
2)
Vị sư chủ lễ trong Đại Hùng Bảo Điện: The monk who serves at the
great altar.
Cúng Rằm: Full Moon
Ceremony.
Cúng Thiên: Thiên
Cúng—Cúng dường các vị Trời, Phạm Thiên, Đế Thích Thiên, Công Đức Thiên,
Hoan Hỷ Thiên—To make offerings to the devas, Brahma, Indra, etc.
Cúng Tổ: To worship
ancestors.
Cúng Trướng: Đời
nhà Đường chư Tăng Ni phải đăng ký ba năm một lần—The T’ang dynasty
register, or census of monks and nuns, supplied to the government every
three years.
Cúng Trướng Vân:
Mây của các vị Bồ Tát phụng sự Như Lai—The cloud of Bodhisattvas who serve
the Tathagata.
Cùng:
1)
Nghèo—Impoverished—Exhausted—Poor.
2)
Xem xét tường tận: To investigate throroughly.
Cùng Chung: In
common.
Cùng Dân: The poor.
Cùng Đinh: The
needy—The outcast—See Kinh Cùng Đinh in Appendix E.
Cùng Đường: To be
helpless.
Cùng Kế: To be at
one’s wit end.
Cùng Khổ: Poor and
miserable
Cùng Kiệt: To be at
the end of one’s resources.
Cùng Lúc: At the
same time.
Cùng Ngày: On the
same day.
Cùng Nhân: Poor
man.
Cùng Quẫn:
Destitute—Destitution.
Cùng Sinh Tử Uẩn:
Chấm dứt cái uẩn căn bản dẫn đến luân hồi sanh tử—To exhaust the
concomitants of reincarnation—To be free from transmigration.
Cùng Tận: At the
end—At last.
Cùng Tử: Chàng Cùng
Tử trong Kinh Pháp Hoa—The poor son, or prodigal son, of the Lotus sutra.
Củng Cố: To
consolidate.
Cũng: Also—Too.
Cũng Thế: Likewise.
Cụng Ly: To touch
(clink) glasses before drinking.
Cuộc Diện: Cục
diện—Situation.
Cuộc Đấu Trí:
Intellectual contest.
Cuộc Điều Tra:
Investigation—Inquiry.
Cuộc Đời:
Life—Existence.
Cuộc Nói Chuyện: A
conversation.
Cuộc Sống Bất Hạnh:
A wretched life
Cuộc Sống Cao Quý:
Noble life—Unblemished life.
Cuộc Sống Giác Ngộ:
An enlightened life.
Cuộc Sống Hạnh Phúc:
A happy life.
Cuộc Sống Hèn Mọn:
Ignoble life.
Cuộc Sống Khổ Hạnh:
Life of asceticism.
Cuộc sống mong manh:
Life is uncertain.
Cuộc Sống Thế Tục:
A lay life.
Cuộc Sống Thuần Khiết:
An unblemished life.
Cuộc Sống Tự Tại: A
carefree life.
Cuộc Sum Họp Dù Đầm Ấm
Và Vui Vẻ Thế Mấy Rồi Cũng Tới Hồi Chia Tay: An emotional reunion, no
matter how much sweet and joy will ultimately end in separation.
Cuộc Sum Họp Nào Rồi
Cũng Tan: Any reunion will soon end in separation.
Cuộc Vui:
Entertainment.
Cuối Cùng:
Eventually—Last but not least.
Cuối Mùa: The end
of the season.
Cuối Năm: End of
the year.
Cuốn Gói: To pack
off.
Cuồn Cuộn: To curl
(upwards).
Cuống: Dối
trá—Deception—Lying—Imposition.
Cuống Cuồng: To
lose one’s head.
Cuồng:
Mad—Deranged—Wild.
Cuồng Bạo: Mad and
cruel.
Cuồng Cẩu: A mad
dog (deluded mind).
Cuồng Hoa: Hoa dốm
nhảy múa trước mắt—dancing flowers before the eyes.
Cuồng Huệ: Kẻ trí
tuệ bị tán loạn mà phát cuồng (định mà không tuệ gọi là si định, giống như
người mù cưỡi ngựa tất phải té nhào; ngược lại tuệ mà không định gọi là
cuồng tuệ, giống như đèn bảo trước gió lung linh không soi sáng được
gì)—Foolish wisdom—Clever but without calm meditation.
Cuồng Loạn:
Distracted.
Cuồng Loạn Vãng Sanh:
Người gây tội tạo nghiệp ngay lúc lâm chung, tâm thần tán loạn sợ hãi,
thấy ngọn lửa trong địa ngục, giơ tay lên nắm bắt giữa không trung. Đang
lúc ấy mà có cơ duyên có người khuyên niệm được hồng danh chư Phật mười
lần hay ngay cả một lần cũng được vãng sanh Tịnh Độ—Saved out of terror
into the next life; however, distressed by thoughts of hell as the result
of past evil life, ten repetition or even one, of the name of Amitabha
ensures entry into his Paradise.
Cuồng Ngôn: Foolish
talk.
Cuồng Nhiệt:
Excessive enthusiasm
Cuồng Tâm Tứt, Bồ Đề Lộ:
When your perverted mind is expelled, it is precisely Bodhi mind.
Cuồng Thiền: Mad
Zen—Thiền bậy bạ, không đúng theo Chánh Pháp Phật Giáo. Người tu theo loại
thiền nầy thường bị âm ma ám nhập trở nên điên cuồng. Cuồng Thiền cũng bao
gồm những kẻ không thực hành mà nói thực hành, không đắc mà nói đắc, ngày
ngày họ hãy còn ăn thịt uống rượu mà vỗ ngực xưng tên là Thiền Sư nầy
nọ—Mad Zen is a false method of practicing Zen. It is erronous and not
according to the proper Dharma teachings of the Buddha. People who follow
this type of Zen practice are often possessed by demonic spirits and
eventually become mad. Mad Zen also includes those who never practice but
saying practicing, never obtaining enlightenment but saying obtaining
enlightenment, those who are still eating sentient beings’ flesh and
drinking wine everyday, but always pretending themselves as Zen Master.
Cuồng Tín:
Fanaticism.
Cuồng Tuệ: See
Cuồng Huệ.
Cuồng Túy: Dead
drunk.
Cuồng Tượng: Vọng
tâm mê cuồng ví như voi điên—A mad elephant, such is the deluded mind.
Cuồng Vọng: Crazy
ambition.
Cụt Hứng: To lack
inspiration.
Cư: See Cư Ngụ.
Cư Luân:
Ajnata-Kaudinya (skt)—A Nhã Kiều Trần Như.
Cư Ngụ: To dwell—To
reside.
Cư Nhân Hạnh: Hạnh
của người tại gia—The virtue of the lay disciple.
Cư Sĩ: Grhapati or
Kulampuriso (p)—Kulapati or Kulapurusha (skt)—Câu La Bát Để—Ca La Việt—A
chief (head) of a family—A landlord—Householder—The master of a
household—Lay devotee.
·
Người của gia đình tốt hay người đáng tôn kính: A person of
good family or a respectable person.
·
Người chủ gia đình tu tại gia hay Phật tử tại gia—A
householder who practises Buddhism at home without becoming a monk—See Ưu
Bà Tắc in Vietnamese-English Section, and Upasaka in
Sanskrit/Pali-Vietnamese Section.
Cư Sĩ Nam: Upasaka
(p & skt)—Cận sự nam—Layman—See Upasaka.
Cư Sĩ Nữ: Upasika
(p & skt)—Cận sự nữ—Laywoman—See Upasika.
Cư Sĩ Thuần Thành:
Devout layman—Sincere layman.
Cư Sĩ Truyện:
Truyện biên soạn tiểu sử hành trạng của những Phật tử tại gia hết lòng vì
đạo (do Bành Tế Thanh đời nhà Thanh biên soạn)—A compilation giving
biography of many devout Buddhists.
Cư Xử: To behave—To
conduct oneself.
Cứ: To lay hold of.
Cứ Điểm: Important
base.
Cứ Sự: According to
fact.
Cứ Theo: According
to.
Cừ Khôi:
Outstanding.
Cử:
1)
Cất lên—To raise (a thing, a matter, subject, etc.).
2)
Toàn thể: All—The whole.
Cử Chỉ: Gesture.
Cử Động: Movements.
Cử Gia: Toàn
gia—The whole family.
Cử Hành: To obey
and do the Buddha’s teaching.
Cử Lễ: To
celebrate—To begin to celebrate.
Cử Nhân: Nguời đã
hoàn tất bằng Đại Học bốn năm—One who has finished four-year college
degree.
Cử Tọa:
Audience—Hearer.
Cử Tri:
Voter—Elector.
Cữ: To abstain
Cữ Ăn: To be on a
diet.
Cữ Ăn Ngũ Vị Tân:
Not to eat the five pungent roots—For more information, see Ngũ Tân in
Vietnamese-English Section.
Cưï:
Lớn—Nhiều—Great.
Cự Ích: Lợi ích lớn
lao—Great benefit.
Cự Lại: Chống
lại—To resist.
Cự Ma: Gomaya
(skt)—Phân bò—Cow-dung.
Cự Phách: Eminent
person.
Cự Thưởng Di:
Kausambi (skt)—Kosambi or Vatsa-pattana (p)—Câu Diễm Di—Câu La Cù—Vương
quốc của vua Udayana với kinh đô nổi tiếng được ghi lại trong Tây Vực Ký.
Nơi có một hình tượng Phật thật lớn. Đây là một trong những thành phố cổ
nhứt của Ấn Độ—The country of King Udayana in “Central India” with a
famous capital mentioned in the Vogage to the West. There was a great
image of the Buddha. It was one of the most ancient cities of India.
Cự Tuyệt: To
refuse—To decline.
Cửa: Gate—Door.
Cửa Ải: Frontier
passage.
Cửa Chính: Main
door (entrance).
Cửa Địa Ngục: Gates
of the hells.
Cửa Đóng: Closed
door.
Cửa Hở: Half-open
door.
Cửa Giải Thoát:
Theo Phật giáo Đại thừa, cửa giải thoát của Bồ Tát nằm ngay bên trong tự
tánh, chứ không phải bên ngoài. Cửa mở rộng bằng tu tập Lục Ba La Mật và
trì giới cụ túc—The gate of diliverence—Door of liberation—According to
the Mahayana Buddhism, Bodhisattva door of liberation is within our
self-nature, not outside. The door open through practice, cultivation of
the paramitas and holding the complete precepts.
Cửa Không:
Pagoda—Temple—Monastery
Cửa Khổng:
Confucianist School
Cửa Phật: Pagoda.
Cửa Thánh: Saint
door.
Cửa Thiên Đàng: The
gates of heaven.
Cửa Thiền: Pagoda.
Cực:
1)
Cực biên: Extreme.
2)
Cực điểm: Điểm cao nhất—Highest point—Apex.
3)
Cực độ: Utmost—Ultimate.
Cực Diệu: Cực kỳ
huyền diệu—Of utmost beauty, wonder, or mystery.
Cực Địa: Đạt được
vị trí cao nhất trong tất cả, như Phật—Reaching the ground; utmost;
fundamental principle; the highest of all, i.e. Buddha.
Cực Điểm: Maximum.
Cực Đoan: Extreme.
Cực Đoan Chủ Nghĩa:
Extremism.
Cực Đoan Đam Mê Lạc Thú:
The extreme of indulgence in pleasure.
Cực Độ: Highest
degree.
Cực Giác: Tên khác
của Diệu giác—Profound enlightenment, or utmost awareness—See Diệu Giác.
Cực Hình: Tortures.
Cực Hữu: Extreme
right.
Cực Hỷ Địa: Còn gọi
là Hoan Hỷ Địa, địa thứ nhất trong Thập Địa Bồ Tát (Bồ Tát sau khi đã hoàn
thành tu hành trong đệ nhất A tăng kỳ, từ vô thủy đến nay, giờ mới phát ra
chân vô lậu mà đạt đến lý nhất phần nhị không, dứt bỏ hết phiền não phân
biệt, nhân đó mà lìa bỏ được cái tính phàm phu, trở thành Bồ Tát pháp
thân, ở vào ngôi vị cực sinh hoan hỷ địa)—The stage of utmost joy, the
first of the ten stages of Bodhisattva—See Thập Địa Phật Thừa (1).
Cực Khổ: Extremely
miserable.
Cực Lạc: Sukhavati
(skt).
1)
Nơi hỷ lạc cực độ: Extremely happy, ultimate Bliss, highest joy.
2)
Tên một cõi Phật, quốc độ của Đức Phật A Di Đà, còn gọi là Tây
Phương Tịnh Độ, còn gọi là An Dưỡng, An Lạc, Vô Lượng Thanh Tịnh Độ, Vô
Lượng Quang Minh Độ, Vô Lượng Thọ Phật Độ, Liên Hoa Tạng Thế Giới, Mật
Nghiêm Quốc, hay Thanh Thái Quốc: name of the Land of Ultimate Bliss, or
the Pure Land of Amitabha in the West—See A Di Đà.
Cực Lạc Báo Hóa:
See Nhị Độ (A).
Cực Lạc Hóa Sanh:
Vãng sanh vào cõi Cực Lạc bằng cách hóa sanh qua Liên Hoa—Birth in the
happy land of Amitabha by formation throught the Lotus.
Cực Lạc Quốc Độ:
The Land of Ultimate Bliss.
Cực Lạc Thế Giới:
Sukhavati (skt)—The world of utmost joy—See Cực Lạc.
Cực Lạc Thế Giới A Di
Đà Phật: Amitabha Buddha of the Land of Ultimate Bliss.
Cực Lạc Quốc Độ Thành
Tựu: The realization (achievement) of the land of ultimate bliss.
Cực Lạp: Vị Tăng có
tuổi hạ lạp cao nhất trong giáo đoàn—The oldest monk in the orders
(highest number of years in the orders).
Cực Lòng: Despair.
Cực Lực:
Energetically—Strongly.
Cực Lược Sắc: Phần
tử nhỏ nhất mà vật thể có thể được phân tách, đó là nguyên tử—The smallest
perceptible particle into which matter can be divided, an atom.
Cực Nan Thắng Địa:
Hàng thứ năm trong Thập Địa Bồ Tát, còn gọi là Nan Thắng Địa, là giai đoạn
mà vị Bồ Tát vượt qua những khó khăn—The stage in which the Bodhisattva
has overcome his worst difficulties, the fifth stage—See Thập Địa Phật
Thừa (5).
Cực Nhiệt Địa Ngục:
Pratapana, or Mahapratapana (skt)—Địa ngục nóng nhất, địa ngục thứ bảy
trong tám địa ngục nóng—The hottest hell, the seventh of the eight
hells—See Địa Ngục (A) (a) (7).
Cực Nhọc: To work
hard.
Cực Quả: Chứng quả
cực chỉ, hay quả vị giác ngộ tối thượng của Phật—The highest fruit,
perfect Buddha-enlightenment.
Cực Quang: Ultimate
light.
Cực Quang Tịnh:
Utmost light-purity.
Cực Quang Tịnh Thiên:
Còn gọi là Cực Quang Âm Thiên, cõi trời cao nhất trong Sắc Giới Nhị Thiền
Thiên; cõi được tái thành lập đầu tiên ngay khi vũ trụ hoại diệt, và trong
đó Phạm Thiên và chư Thiên khác ra đời—Pure heaven of utmost light, the
highest of the second dhyana heavens of the form-world; the first to be
re-formed after a universal destruction and in it Brahma and devas come
into existence—See Thiên (III) (B).
Cực Tả: Extreme
left.
Cực Thánh: Vị Thánh
cao nhất, chỉ Đức Phật—The highest saint, Buddha.
Cực Thịnh: Apogee.
Cực Tịnh: Thanh
tịnh cực độ—Utmost quiescence, or mental repose, meditation, trence.
Cực Tôn: Bậc Tôn
túc đáng tôn kính nhất, hay Đức Phật—The highest revered one, Buddha.
Cực Trí: Điểm cao
tột độ—Utmost, ultimate, final point, reaching to.
Cực Vi: Paramanu
(skt).
1)
Còn gọi là Cực Tế Trần, Cực Vi Trần, cách dịch cũ là Lân Hư, một
nguyên tử hay là đơn vị vật chất phân tích đến nhỏ nhất, không thể phân
chia được nữa, chỉ được nhìn thấy bằng mắt chư Thiên, chứ không thấy được
bằng mắt người thường. Cho tới bây giờ người ta vẫn còn bàn cãi về sự hiện
hữu của cực vi, có hiện hữu, có vĩnh hằng không thay đổi hay không—An
atom, especially as a mental concept, in contrast with a material atom
which has a centre and the six directions, an actual but imperceptible
atom, seven atoms make a molecule, the smallest perceptible aggregation,
called an anu; the perceptibility is ascribed to the deva-eye rather than
to the human eye. There is much disputationas to whether the ultimate atom
has real existence or not, whether it is eternal and immutable and so on.
2)
Theo Hữu Bộ Tông (tông phái với quan niệm “ngã không pháp hữu”),
cực vi có ba loại—According to the Sarvastivadah (the sect with the
concept of “the self is empty, the Dharma exists.”), there are three kinds
of atoms.
a)
Cực vi chi vi: Phần nhỏ bé nhất của thập sắc gồm ngũ căn và ngũ
cảnh hay ngũ trần (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân; và sắc, thanh, hương, vị,
xúc. Phần thực sắc nầy không thể nào chia nhỏ ra được nữa nên gọi là cưc
vi chi vi)—An atom, (especially as a mental concept), the smallest parts
of the ten rupa, including the five faculties or pancendriyani, and the
objects of five senses.
b)
Sắc tụ chi vi: Một nguyên tử vật chất gồm một nhân và sáu hướng bao
quanh nhân nguyên tử nầy (sắc tụ chi vi như sắc, thanh, v.v. vừa kể trên
cực vi chi vi tụ họp lại mà trở thành phần tối cực vi về mặt vật chất.
Chúng không đơn độc sinh ra, mà phải do cái nầy dựa vào cái kia mà cùng
nảy sinh)—A material atom which has a centre and six directions, an actual
but imperceptible atom.
c)
Vi trần: Bảy nguyên tử làm một vi trần, đây là phần tử nhỏ nhất mà
chỉ có mắt của các vị trời mới nhìn thấy, chứ không thể thấy được bằng mắt
thịt của người phàm—Seven atoms make a molecule, the smallest perceptible
aggregation is ascribed to the deva-eye rather than to the human eye.
Cực Vi Trần: Fine
motes of dust.
Cực Vị: Ngôi vị
chứng ngộ cao nhất hay Phật quả—The highest stage of enlightenment, that
of Buddha.
Cứng Cổ: See Cứng
đầu.
Cứng Đầu:
Stubborn—Obstinate—Head-strong—Stiff-necked—Pigheaded.
Cứng Họng: To
remain silent—To be speechless.
Cứng Nhắt: Rigid.
Cước: Chân—Fot—Leg.
Cước Bố: Tấm vải
lau chân—Foot-towel.
Cười: To laugh.
Cười Ầm Lên: To
burst out laughing.
Cười Chê: To make
fun of.
Cười Gằn: To laugh
sarcastically.
Cười Khanh Khách:
To laugh heartily.
Cười Khinh Bỉ: To
laugh scornfully—To laugh contemptuously.
Cười Một Mình: To
laught quietly to oneself.
Cười Nhạo: To laugh
at someone.
Cười Om Sòm: To
laugh loudly.
Cương:
1)
Cứng nhắc: Stiff—Rigid.
2)
Mạnh mẽ rắn chắc—Firm—Determined—Hard—Decided—Strong—Forceful—To
force—To strengthen.
3)
Sợi dây: A net rope—Bond.
Cương Duy: Vị kiểm
soát công việc trong chùa—The controller of a monastery.
Cương Già: Sông
Hằng—The Ganges River.
Cương Lĩnh:
Fundamental.
Cương Mục: Outline.
Cương Ngạnh:
Stubborn.
Cương Nhu: Hard and
soft.
Cương Quyết:
Determined—Decided—Determination.
Cương Sa Lạc:
Samsara (skt)—Dòng luân hồi sanh tử—The course of transmigration.
Cương Thổ:
Territory.
Cương Thường: Cang
thường—Constant obligations of morality—The restraints of society—Social
nexus.
Cương Trực:
Upright.
Cương Yếu:
Fundamental—Essential.
Cương Yếu Niệm Phật:
Vì sự sanh tử, mà phát tâm Bồ đề với tín nguyện sâu niệm trì Hồng danh
Phật A Di Đà cho đến lúc vãng sanh Tịnh Độ—The core (kernel) of the Pure
Land Method: “Because of the birth and death, develop the Bodhi mind with
deep faith and vow to recite Amitabha Buddha’s name until the time of
rebirth in the Pure Land.”
Cường:
Strong—Forceful—Violent.
Cường Bạo:
Fierce—Violent.
Cường Dũng: Strong
and brave.
Cường Đại: Strong
and big.
Cường Đạo: Đạo
tặc—Bandit—Robber—Pirate .
Cường Hào: Man of
influence in the village.
Cường Kiện: Strong.
Cường Lực:
Strength.
Cường Ngạnh:
Stubborn.
Cường Nhược: Strong
and weak.
Cường Phú: Rich and
mighty.
Cường Thịnh:
Properous.
Cường Tráng:
Virgorous—Forceful.
Cưỡng: Compulsory.
Cưỡng Bách: To
force.
Cưỡng Bức: To make
someone to do something by force.
Cưỡng Lại: To
resist—To stand up against.
Cướp bóc: To rob.
Cướp Lời: To
interrupt.
Cưu:
1)
Cuộc thăm dò: A tally.
2)
Phiếu bầu (làm bằng gỗ hay giấy): Ballot (made of wood or paper).
Cưu Bàn Trà:
Kumbhanda (skt)—See Kumbhanda in Sanskrit/Pali-Vietnamese Section.
Cưu Cưu Tra:
Kukkuta (skt)—Loài kê điểu—A fowl.
Cưu Cưu Tra Bộ: Tên
tiếng Phạn của Kê Dẫn Bộ, một trong số 18 bộ của Tiểu Thừa—Sanskrit name
for Kukkuta Sect, one of the eighteen Hinayana sects.
Cưu Di La: Kokila
(skt)—Tên một loài chim cu—A kind of cuckoo.
Cưu Ma La: Kumara
(skt).
1)
Đồng tử: A youth—A child.
2) See Câu Thi Na.
3) Thái tử: A prince.
Cưu Ma La Đa:
Kumaralabdha (skt)—Còn gọi là Câu Ma La La Đa, Củ Ma La Đa, Cưu Ma La Đà,
Cưu Ma La Đạt, Hán dịch là Đồng Hào, Đồng Thủ, Đồng Thụ, Đồng Tử—Tên của
hai vị sư nổi tiếng, một là Cưu Ma La Đa sống thời vua A Dục (theo Duy
Thức Thuật Ký, sau khi Đức Phật nhập diệt khoảng 100 năm, ở nước Đát Xoa
Kiều La, phía bắc Thiên Trúc, có ngài Cưu Ma La Đa, dịch là Đồng Thủ đã
làm ra “Cửu Bách Luận.” Rồi 400 năm sau mới ra đời một vị khác cũng tên
Cưu Ma La Đa làm tổ đời thứ 19 ở Ấn Độ), hai cũng là Cưu Ma La Đa là vị tổ
thứ 19 ở Ấn Độ—Names of two noted monks, one during the period of Asoka,
of the Sautrantika sect; the other Kumaralabdha, or Kumarata, the
nineteenth patriarch.
Cưu Ma La Già:
Kumaraka (skt)—See Cưu Ma La.
Cưu Ma La Già Địa:
Còn gọi là Cưu Ma La Phù Địa, Cưu Ma La Phù Đa Địa, hay Đồng Tử Địa, Đồng
Chân Địa, Đồng Tướng Địa, vân vân. Tên gọi chung cho Bồ Tát Địa, sắp sửa
bước lên Phật Địa cũng như một vị Thái tử sắp lên ngôi vua—Kumaraka-stage,
or Kumara-bhuta, youthful stage, i.e. a bodhisattva state or condition,
e.g. the position of a prince to the throne.
Cưu Ma La Già Viêm:
Kumarayana (skt)—Cha của Ngài Cưu Ma La Thập—Father of Kumarajiva—See
Kumarajiva in Sanskrit/Pali-Vietnamese Section.
Cưu Ma La Thập: See
Kumarajiva in Sanskrit/Pali-Vietnamese Section.
Cưu Mang: To
bear—To keep up.
Cưu Na La: Kunala
(skt)—See Cưu Di La.
Cứu: Cứu độ—To
save—To rescue—To prevent from ill.
Cứu Bạt: Cứu ra
khỏi những khổ sở—To save and drag out of suffering.
Cứu Bạt Minh Đồ:
Cứu ra khỏi nổi khổ của địa ngục—To save and drag out of suffering in the
hells.
Cứu Cánh:
1)
Mục đích cuối cùng: End—Final—At the end—Finality—Utmost.
2)
Nghiên cứu tỉ mỉ: Examine exhaustively.
3)
Phật Giáo không xem lợi ích vật chất là cứu cánh của hạnh phúc
trong đời sống: Buddhism does not consider material welfare as an end in
happiness in life.
Cứu Cánh Giác: Một
trong bốn bậc giác theo Đại Thừa Khởi Tín Luận, đây là lúc Bồ Tát đạt đến
mức giác ngộ tròn đầy tột cùng hay đạt tới ngôi vị Phật—The supreme
enlightenment (that of Buddha), one of the four kinds of enlightenment
mentioned in the Awakening of Faith.
** For more information,
please see Tứ Giác.
Cứu Cánh Lạc: Diệu
lạc của Niết Bàn—The supreme joy (nirvana).
Cứu Cánh Pháp Thân:
The supreme Dharmakaya—The highest conception of Buddha as the absolute.
Cứu Cánh Phật: Phật
trong chân lý tối thượng—The fundamental, ultimate or supreme Buddha, who
has complete comprehension of truth—Buddha in his supreme reality.
** For more information,
please see Lục Tức
Phật.
Cứu Cánh Tức: Vị
thứ sáu trong lục Tức Vị theo thuyết của tông Thiên Thai, giai đoạn trí
tuệ giác liễu chân lý tròn đầy—The stage of complete comprehension of
truth, being the sixth stage of the T’ien-T’ai School.
**For more information,
please see Lục Tức
Phật.
Cứu Cánh Vị: Phật
quả tối thượng, giai đoạn cao nhất trong năm giai đoạn tiến đến Phật Quả
của Phật Giáo Đại Thừa—The supreem class or stage of Buddhahood, the
highest of the five stages of attainment of Buddhahood.
** For more information,
please see Ngũ Vị
(C).
Cứu Chỉ Thiền Sư:
Zen Master Cứu Chỉ—Thiền sư Việt Nam, quê ở Chu Minh, Bắc Việt. Khi hãy
còn nhỏ, ngài đã làu thông Khổng Lão, nhưng ngài than phiền rằng Khổng
chấp “hữu,” Lão chấp “vô,” chỉ cò đạo Phật là không chấp vào đâu cả. Từ đó
ngài xuất gia làm đệ tử của Thiền sư Định Hương tại chùa Cảm Ứng, và trở
thành Pháp tử đời thứ 7 dòng Vô Ngôn Thông. Về sau, ngài dời về chùa Từ
Quang trên núi Tiên Du để tu khổ hạnh. Vào thời đó, Tể Tướng Dương Đạo xây
chùa Diên Linh và thỉnh ngài về trụ. Không thể từ chối, ngài về trụ trì
tại đây và viên tịch ba năm sau đó—A Vietnamese Zen Master from Chu Minh,
North Vietnam. When he was still young, he was good in both Tao and
Confucian, but complaining that Confucian attached to the “existing” and
Tao attached to the “non-existing.” Only Buddhism attached to none. He
left home and became a disciple of Định Hương at Cảm Ứng Temple, and
became the Dharma heir of the seventh generation of the Wu-Yun-T’ung Zen
Sect. Later, he moved to Từ Quang Temple on Mount Tiên Du to practise
ascetics. At that time, prime minister Dương Đạo built Diên Linh Temple on
Mount Long Đội and invited him to stay there. He could not refuse the
order. He stayed there for thee years and passed away.
Cứu Độ:
Salvation—To emancipate—Saving—Rescue and ferry—Taking across.
Cứu Giải: to
deliver.
Cứu Hộ: Cứu độ và
bảo hộ—To save and protect.
Cứu Hộ Nhứt Thiết Chúng
Sanh Ly Chúng Sanh Tướng Hồi Hướng: First Dedication in the ten
dedications—To save all sentient beings without any mental image of
sentient beings—Theo lời dạy của Đức Thế Tôn trong Kinh Hoa Nghiêm, phẩm
25—Thập Hồi Hướng, chư Bồ Tát cứu hộ chúng sanh giải thoát khỏi chúng sanh
tướng, chư Bồ Tát nghĩ rằng—According to the Buddha in The Flower
Adornment Sutra, chapter 25, Ten Dedications, Enlightening Beings save
other sentient beings without any mental image of sentient beings,
Enlightening Beings think that:
1)
Nguyện đem những thiện căn nầy làm lợi ích khắp chúng sanh—May
these roots of goodness universally benefit all sentient beings:
a.
Làm cho họ thanh tịnh đến nơi rốt ráo: Causing them to be purified.
b.
Đến bến bờ rốt ráo: To reach the ultimate shore.
c.
Lìa hẳn vô lượng khổ não của địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh và
A-tu-la: To forever leave the innumerable pains and afflictions of the
realms of hells, hungry ghosts, animals and asuras (titans).
2)
Đại Bồ Tát lúc trồng thiện căn, nguyện đem thiện căn của mình hồi
hướng như vầy—When the great Enlightening Beings plant these roots of
goodness, they dedicate their won roots of goodness thus:
a.
Tôi sẽ làm nhà cho tất cả chúng sanh để họ thoát khỏi tất cả sự
khổ: I should be a hostel for all sentient beings, to let them escape from
all painful things.
b.
Tôi sẽ làm chỗ cứu hộ cho tất cả chúng sanh, khiến họ đều được giải
thoát phiền não: I should be a protector for all sentient beings, to let
them all be liberated from all afflictions.
c.
Tôi sẽ làm chỗ quy-y của tất cả chúng sanh, khiến họ đều được xa
lìa sự bố úy: I should be a refuge for all sentient beings, to free them
from all fears.
d.
Tôi sẽ làm chỗ xu hướng cho tất cả chúng sanh, khiến họ được đến
nơi nhứt thiết trí: I should be a goal for all sentient beings, to cause
them to reach universal knowledge.
e.
Tôi sẽ làm chỗ an ổn cho tất cả chúng sanh, khiến họ được an ổn rốt
ráo: I should make a resting place for all sentient beings, to enable them
to find a place of peace and security.
f.
Tôi sẽ làm ánh sáng cho tất cả chúng sanh, khiến họ được trí quang
diệt si ám: I should be a light for all sentient beings, to enable them to
attain the light of knowledge to annihilate the darkness of ignorance.
g.
Tôi sẽ làm đèn để phá tối vô minh cho họ: I should be a torch for
all sentient beings, to destroy all darkness of nescience.
h.
Tôi sẽ làm đèn cho tất cả chúng sanh, khiến họ an trụ nơi rốt ráo
thanh tịnh: I should be a lamp for all sentient beings, to cause them to
abide in the realm of ultimate purity.
i.
Tôi sẽ làm Đạo sư cho tất cả chúng sanh dẫn dắt họ vào pháp chơn
thiệt: I should be a guide for all sentient beings, to lead them into the
truth.
j.
Tôi sẽ làm Đại Đạo Sư cho tất cả chúng sanh, ban cho họ trí huệ lớn
vô ngại: I should be a great leader for all sentient beings, to give them
great knowledge.
3)
Đại Bồ Tát đem những thiện căn hồi hướng như vậy, bình đẳng lợi ích
tất cả chúng sanh, rốt ráo đều khiến họ được nhứt thiết trí: Great
Enlightening Beings dedicate all foundations of goodness in this way, to
equally benefit all sentient beings and ultimately cause them all to
attain universal knowledge.
a.
Đại Bồ Tát lợi ích hồi hướng cho hàng chẳng phải thân hữu đồng như
đối với hàng thân hữu của mình: Enlightening Beings’ protection of and
dedication to those who are not their relatives or friends are equal to
those for their relatives and friends.
b.
Bồ Tát đã nhập tánh bình đẳng của tất cả pháp, với tất cả chúng
sanh không có một quan niệm là chẳng phải thân hữu: Enlightening Beings
enter the equal nature of all things, they do not conceive a single
thought of not being relatives or friends.
c.
Giả sử có chúng sanh nào đem lòng oán hại Bồ Tát, Bồ Tát nầy cũng
vẫn thương mến họ với tâm bi mẫn, trọn không hờn giận: Even if there be
sentient beings, who have malicious or hostile intentions toward the
Enlightening Beings, still the Enlightening Beings also regard them with
the eye of compassion and are never angered.
4)
Bồ Tát luôn làm thiện tri thức cho khắp cả chúng sanh—They are good
friends to all sentient beings:
a.
Đem Chánh Pháp giảng thuyết cho chúng sanh, khiến họ tu tập:
Explain the right teaching for sentient beings, so that they may learn and
practice it.
5)
Bồ Tát hồi hướng vì—Enlightening beings dedicate because:
a.
They are just as the ocean which cannot be changed or destroyed by
all poisons—Chư Bồ Tát như biển cả, không thể biến hoại bởi chất độc. Tất
cả những kẻ ngu mông, vô trí, vô ân, sân độc, kiêu mạn, mê tối, không biết
pháp lành, cũng không làm bức hại hay loạn động tâm Bồ Tát được: The
various oppressive afflictions of all the ignorant, the unwise, the
ungrateful, the wrathful, those poisoned by covetousness, the arrogant and
conceited, the mentally blind and deaf, those who do not know what is
good, and other such evil sentient beings, cannot disturb the Enlightening
Beings.
b.
Ví như mặt nhựt hiện ra nơi thế gian—Just as the sun, appearing in
the world:
·
Chẳng do vì kẻ sanh manh mà lại ẩn đi không sáng: Not
concealed
because those who are born blind do not see it.
·
Lại cũng chẳng vì sương mù hay a-tu-la, cây diêm phù đề, gộp
cao, hang sâu, bụi khói hay mây mù che chướng: Not hidden by the
obstruction of such things as mirages, eclipses, trees, high mountains,
deep ravines, dust, mist, smoke, or clouds.
·
Lại cũng chẳng vì thời tiết biến đổi mà ẩn đi không sáng:
Not concealed by the change of seasons.
c.
Chư Bồ Tát hồi hướng với phước đức lớn, với tâm sâu rộng:
Enlightening Beings dedicate with great virtues, with deep and broad
minds.
d.
Hồi hướng vì muốn rốt ráo công đức trí huệ, nên đối với pháp thắng
thượng lập chí nguyện pháp quang chiếu khắp thấy tất cả nghĩa, nơi các
pháp môn trí huệ tự tại, thường vì lợi ích chúng sanh mà tu pháp lành,
chẳng bao giờ lầm sanh lòng tổn hại chúng sanh: They dedicate because they
want ultimate virtue and knowledge, their minds aspire to the supreme
truth; the light of truth illumines everywhere and they perceive the
meanings of everything. Their knowledge freely commands all avenues of
teaching, and in order to benefit all sentient beings they always practice
virtuous ways, never mistakenly conceiving the idea of abandoning sentient
beings.
6)
Chẳng vì chúng sanh tệ ác mà rời bỏ chẳng tu hồi hướng: They do not
reject sentient beings and fail to cultivate dedication because of the
meanness of character of sentient beings, or because their eroneous will,
ill-will and confusion are hard to quell.
7)
Chỉ dùng giáp trụ đại nguyện để tự trang nghiêm, luôn cứu hộ chúng
sanh không thối chuyển: They just array themselves with the armor of great
vows of Enlightening Beings, saving sentient beings without ever
retreating.
8)
Chẳng vì chúng sanh vô ân mà thối Bồ Tát hạnh, bỏ Bồ Đề đạo: They
do not withdraw from enlightening activity and abandon the path of
enlightenment just because sentient beings are ungrateful.
9)
Chẳng vì ở chung với kẻ phàm ngu mà lìa bỏ tất cả thiện căn như
thật: They do not get sick of sentient beings just because ignoramuses
altogether give up all the foundations of goodness which accord with
reality.
10)
Chẳng vì chúng sanh thường sanh lỗi ác khó nhẫn thọ được mà sanh
lòng nhàm mỏi: They do not retreat because sentient beings repeatedly
commit excesses and evils which are hard to bear.
11)
Đại Bồ Tát chẳng phải chỉ vì cứu hộ một chúng sanh mà tu các thiện
căn hồi hướng vô thượng Bồ Đề, mà chính vì cứu hộ khắp tất cả chúng sanh
vậy: Great Enlightening Beings do not cultivate roots of goodness and
dedicate them to complete perfect enlightenment just for the sake of one
sentient being; it is in order to save and safeguard all sentient beings
everywhere that they cultivate roots of goodness and dedicate them to
unexcelled complete perfect enlightenment.
12)
Chẳng phải vì thanh tịnh một Phật độ, tin một Đức Phật, thấy một
Đức Phật, rõ một pháp, nhưng chính vì thanh tịnh khắp tất cả Phật độ, tin
khắp tất cả chư Phật, thấy khắp tất cả chư Phật, hiểu tất cả Phật pháp mà
phát khởi đại nguyện tu các thiện căn hồi hướng vô thượng Bồ Đề: It is
not purify just one Buddha-land, not because of belief in just one
Buddha, not just to see one Buddha, not just to comprehend one doctrine
that they initiate the determination for great knowledge and dedicate it
to unexcelled complete perfect enlightenment. It is to purify all
Buddha-lands, out of faith in all Buddhas, to serve all Buddhas, to
understand all Buddha-teachings, that they initiate great vows, cultivate
the foundations of goodness, and dedicate them to unexcelled complete
perfect enlightenment.
13)
Chư Bồ Tát nguyện rằng: “Do thiện căn của tôi đây, nguyện tất cả
các loài, tất cả chúng sanh đều được thanh tịnh, công đức viên mãn, chẳng
bị trở ngại hư hoại, không cùng tận, thường được tôn trọng, chánh niệm
chẳng quên, được trí huệ quyết định, đủ vô lượng trí, ba nghiệp thân khẩu
ý tất cả công đức viên mãn trang nghiêm.”—Enlightening Beings vow that:
“By my roots of goodness, may all creatures, all sentient beings, be
purified, may they be filled with virtues which cannot be ruined and are
inexhaustible. May they always gain respect. May they have right
mindfulness and unfailing recollection. May they attain sure discernment.
May they be replete with immeasurable knowledge. May all virtues of
physical, verbal and mental action fully adorn them.”
14)
Do những căn lành nầy—By these roots of goodness:
a.
Khiến tất cả chúng sanh thừa sự cúng dường tất cả chư Phật không bỏ
qua: They will cause all sentient beings to serve all Buddhas, to their
unfailing benefit.
b.
Khiến chúng sanh khởi lòng tin chư Phật thanh tịnh không hư hoại:
They will cause all sentient beings’ pure faith to be indestructible.
c.
Khiến chúng sanh được nghe chánh pháp dứt các sự nghi hoặc và nhớ
không quên: They will cause all sentient beings to hear the true teaching,
cut off all doubt and confusion, remember the teaching without forgetting
it.
d.
Khiến chúng sanh tu hành đúng pháp: They will cause all sentient
beings to cultivate in accord with the teaching.
e.
Khiến chúng sanh cung kính chư Phật: They will cause sentient
beings to develop respect for the enlightened.
f.
Khiến thân nghiệp chúng sanh thanh tịnh và an trụ vô lượng thiện
căn rộng lớn: They will cause sentient beings to act with purity, to rest
securely on innumerable great foundations of goodness.
g.
Khiến chúng sanh lìa hẳn sự nghèo cùng: They cause all sentient
beings to be forever free from poverty.
h.
Khiến chúng sanh đầy đủ thất thánh tài (see Thất Thánh Tài): They
cause all sentient beings to be fully equipped with the seven kinds of
wealth (faith, vigor, shame, learning, generosity, concentration and
wisdom).
i.
Khiến chúng sanh thường theo chư Phật tu học, thành tựu vô lượng
thiện căn thắng diệu: They cause all sentient beings to always learn from
the Buddha, to perfect innumerable roots of goodness.
j.
Tỏ ngộ bình đẳng: They cause sentient beings to attain impartial
understanding.
k.
Trụ nhứt thiết trí: To abide in omniscience.
l.
Dùng vô ngại nhãn bình đẳng nhìn chúng sanh: To look upon all
sentient beings equallywith unobstructed eyes.
m.
Các tướng hảo trang nghiêm thân không tỳ vết: To adorn their bodies
with all marks of greatness, without any flaws.
n.
Lời nói tinh diệu: Beautiful voices.
o.
Công đức viên mãn: Replete with all fine qualities.
p.
Các căn điều phục: To have control over their senses.
q.
Thành tựu thập lực: To accomplish the ten powers (see Thập Lực).
r.
Tâm lành đầy đủ: To be filled with good will.
s.
Không chổ y trụ: To dwell or depend on nothing.
t.
Khiến tất cả chúng sanh đều được sự vui của Phật, trụ nơi chỗ Phật
an trụ: To cause all sentient beings to attain the enjoyments of
Buddhahood and abide in the abode of Buddhas.
15)
Thấy chúng sanh gây tạo ác nghiệp, chịu nhiều sự khổ, vì thế mà
không thấy được Phật, chẳng nghe được pháp, nên chư Bồ Tát quyết đi vào ác
đạo, thay thế các chúng sanh chịu các sự khổ, khiến họ được giải thoát:
Seeing sentient beings doing all sorts of bad things and suffering all
sorts of misery and pain, and being hindered by this from seeing the
Buddha, hearing the teaching and recognizing the community, the
enlightening beings vow to enter those states of woe, take on the various
miseries in place of the sentient beings, to cause them to be free.
16)
Chư Bồ Tát chịu khổ như vậy, nhưng lại chẳng kinh sợ mà còn tinh
tấn tu hành chẳng nhàm mỏi vì muốn—Enlightening Beings suffer pain in this
way, but they are not discouraged. In the contrary, they vigorously
cultivate without ceasing beause:
a.
Quyết muốn đảm nhiệm chúng sanh khiến họ được giải thoát: They are
determined to carry all sentient beings to liberation.
b.
Quyết muốn cứu vớt chúng sanh xuất ly khổ nạn và những chỗ sanh già
bệnh chết: They are determined to save all sentient beings and to enable
them to attain emancipation, so that they can be free from the realm of
pain and troubles of birth, old age, sickness, and death.
c.
Quyết muốn cứu hộ chúng sanh thoát khỏi cảnh lưu chuyển tà kiến vô
trí cũng như mất các pháp lành: They are determined to save all sentient
beings from revolving in erroneous views, bereft of qualities of goodness.
d.
Quyết muốn cứu hộ các chúng sanh—They are determined to save all
sentient beings:
·
Bị lưới ái vấn: Sentient beings are wrapped up in the web of
attachments.
·
Bị lọng si che lấp: covered by the shroud of
ignorance.
·
Nhiễm cõi hữu lậu theo mãi không rời: Clinging to all
existents, pursuing them
unceasingly.
·
Vào trong lồng củi khổ não: Entering the cage of suffering.
·
Thực hành nghiệp ma: Acting like maniacs.
·
Phước trí đều hết: Totally void of virtue or
knowledge.
·
Thường ôm lòng nghi hoặc: Always doubtful and confused.
·
Chẳng thấy chỗ an ổn: They do not perceive the place of
peace.
·
Chẳng biết đạo xuất ly: They do not know the path of
emancipation.
·
Ở trong sanh tử luân hồi mãi: They revolve in birth and
death without rest.
·
Luôn bị ngập chìm trong khổ bùn lầy: Always submerged in the
mire of suffering.
17)
Bồ tát chẳng vì tự thân mà cầu giải thoát, nhưng lại muốn đem chỗ
tu hành của mình làm cho chúng sanh—They are not seeking liberation for
themselves, but they want to use what they practice to cause all sentient
beings:
a.
Được thành bực trí huệ vô thượng: Become supreme sovereign of
knowledge.
b.
Được nhứt thiết trí: To attain the omnicient mind.
c.
Qua khỏi vòng sanh tử: To cross over the flow of birth and death.
d.
Được thoát tất cả khổ: To be free from all suffering.
18)
Bồ Tát nguyện vì khắp tất cả chúng sanh chịu đủ sự khổ, khiến họ
đều ra khỏi hố sanh tử khổ: They vow to accept all sufferings for the sake
of all sentient beings, and enable them to escape from the abyss of
immeasurable woes of birth and death.
19)
Bồ Tát luôn nguyện vì khắp tất cả chúng sanh mà tận vị lai kiếp
chịu tất cả khổ trong các ác đạo nơi tất cả thế giới, nhưng vẫn luôn vì
chúng sanh mà tu thiện căn: They always vow to accept all sufferings for
the sake of all sentient beings in all worlds, in all states of misery
forever, but still always cultivate foundations of goodness for the sake
of all beings.
20)
Bồ Tát thà riêng mình chịu mọi sự khổ, đem thân chuộc tất cả ác đạo
chúng sanh, khiến họ được giải thoát, chớ chẳng để chúng sanh đọa nơi địa
ngục, súc sanh, ngạ quỷ, hay a-tu-la: They vow that they would rather take
all this sufferings on themselves than allow sentient beings to fall into
hell, animal, hungry ghost, and asura realms.
21)
Bồ Tát nguyện bảo hộ tất cả chúng sanh trọn chẳng rời bỏ. Đây là
lời nguyện thành thực vì cứu hộ chúng sanh mà phát tâm Bồ Đề, chớ chẳng
phải vì tự thân mà cầu đạo vô thượng: They vow to protect all sentient
beings and never abandon them. This is a sincere vow because they set
their mind on enlightenment in order to liberate all sentient beings, not
seeking the unexcelled way for their own sake.
22)
Bồ Tát chẳng phải vì cầu phước hưởng lạc trong ba cõi mà tu hạnh Bồ
Đề. Tại sao vậy?: They do not cultivate enlightening practice in search of
pleasure or enjoyment. Why? Because:
a.
Phước lạc thế gian chẳng gì chẳng khổ: Mundane pleasures are all
sufferings.
b.
Phước lạc thế gian là cảnh giới ma: Mundane pleasures are the
realms of maniacs.
c.
Chỉ có kẻ ngu mới tham trước phước lạc thế gian, chứ chư Phật thì
thường hay quở trách vì tất cả khổ nạn đều nhơn đó mà sanh: Only craved by
ignorant people, but scorned by Buddhas because all misery arises from
them.
d.
Tất cả ác đạo địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, a-tu-la, đến giận hờn,
kiện cáo, hủy nhục đều do tham trước ngũ dục mà ra: The anger, fighting,
mutual defamation and othe such evils of the realms of hells, ghosts,
animals and asuras are all caused by greedy attachment to objects of
desire.
e.
Kẻ tham ngũ dục thời xa lìa chư Phật, chướng ngại sanh thiên, huống
là được vô thượng Bồ Đề: By addiction to desires, one become estranged
from the Buddhas and hindered from birth in heaven, to say nothing of
unexcelled complete perfect enlightenment.
23)
Bồ Tát nguyện đem căn lành hồi hướng như vậy khiến tất cả chúng
sanh đều được—Enlightening Beings vow to dedicate roots of goodness to
enable all sentient beings to attain:
a.
Vui rốt ráo: Ultimate bliss.
b.
Vui lợi ích: Beneficial bliss.
c.
Vui bất thọ: The bliss of nonreception.
d.
Vui tịch tịnh: The bliss of dispassionate tranquility.
e.
Vui vô động: The bliss of imperturbability.
f.
Vui vô lượng: Immeasurable bliss.
g.
Vui bất xả ly sanh tử bất thối chuyển niết bàn: The bliss of not
rejecting birth and death yet not regressing from nirvana.
h.
Vui bất diệt: Undying bliss.
i.
Vui nhứt thiết trí: The bliss of universal knowledge.
24)
Bồ Tát nguyện vì chúng sanh mà làm—For all sentient beings, they
vow:
a.
Làm điều ngự sư: To be a charioteer.
b.
Làm chủ binh thần: To be a leader.
c.
Cầm đuốc đại trí chỉ đường an ổn khiến chúng sanh lìa hiểm nạn: to
be holding the torch of great knowledge and showing the way to safety and
peace, freeing them from danger.
d.
Dùng phương tiện khiến chúng sanh biết chơn thiệt nghĩa: To use
appropriate means to inform sentient beings of the truth.
e.
Nơi biển sanh tử, chư Bồ Tát làm thuyền trưởng khéo giỏi đủ trí đưa
các chúng sanh đến bờ kia: In the ocean of birth and death, they are
skillful captains of the ship, who know how to deliver sentient beings to
the other shore.