TỔ ĐÌNH MINH ĐĂNG QUANG
PHẬT HỌC TỪ ĐIỂN
BUDDHIST DICTIONARY
VIETNAMESE-ENGLISH
THIỆN PHÚC
Bo
Bó Buộc: To bind—To
chain—To enfetter.
Bỏ: To abandon.
Bỏ Đạo: To abandon
one’s religion.
Bỏ Đạo Phật: To
abandon the Buddhist order.
Bỏ Ngoài Tai: To
pay no attention to.
Bỏ Nhà: To desert
one’s home.
Bỏ Phí Thì Giờ: To
waste one’s time.
Bỏ Quên: To leave
behind—To forget.
Bỏ Ra: To
eliminate.
Bỏ Rơi: To
abandon—To desert—To drop—To foresake.
Bỏ Sót: To omit—To
miss out—To leave out—To drop out.
Bỏ Tù: To
imprison—To incarcerate—To put someone in prison.
Bóc Lột: To
exploit—To take advantage of someone—To clean someone out
Bói Toán:
Divination—Fortune teller.
Bỏn Xẻn:
Avaricious—Stingy—Stinginess.
Đức
Phật dạy trong Kinh Pháp Cú: “Người tham lam bỏn xẻn không thể sanh lên
cõi trời, người ngu si không ưa tán dương việc bố thí, nhưng người trí
thấy bố thí lại tùy hỷ công đức và tương lai họ sẽ dự hưởng phần an
lạc.”—The Buddha taught in the Dharmapada Sutra, verse 177: “Misers cannot
go to the heaven, fools cannot indeed praise charity. A wise man rejoices
in alsmgiving and thus becomes happy thereafter.”
Bong Bóng: Bubble.
Bong Bóng Nước: A
water buble
Bóng: Abhasa
(skt)—Shadow.
Bóng Ảo Tưởng Của Vũ
Trụ: The bubble of the universe
Bóng Dáng: Abha or
Paribimba (skt)—Shadow—Reflected image.
Bóp Méo: To distort
Bố:
1) Vải:
Cloth.
2) Phân
bố: To spread.
3) Lo sợ:
Uttras or Santras (skt)—Fear—Afraid.
Bố Đại Hòa Thượng:
Vị Đại Tăng còn có hiệu là Trường Đinh Tử, với chiếc túi vải trên lưng
(vào thế kỷ thứ 10, vị hòa thượng có hình dáng đẩy đà chậm chạp, trán nhăn
bụng phệ, đi đâu lũ trẻ cũng thường hay bu theo chọc ghẹo Ngài)—Great
Reverend—Pu-Tai Ho-Shang—Cloth-bag monk, an erratic monk (in the tenth
century, usually depicted, scantily clad and surrounded by children).
Bố Đát Na: Putana
(skt)—Bố Đơn Na—Phú Đa—Đà Na—Đơn Na—Một loại quỷ cái làm hại trẻ, một loại
quỷ đói hôi hám, và thành công nhứt trong các loài quỷ—A female demon
poisoning or the cause of wasting in a child; interpreted as a stinking
hungry demon, and the most successful of demons.
Bố Đạt Lạp: Potala
(skt)—Phổ Đà La—Tu viện của Đức Đạt Lai Lạt Ma tại thủ đô La Sa—The
monastery of the Dalai Lama in Lhasa.
Bố Đơn Na: Putana
(skt)—A female demon—See Bố Đát Na.
Bố Giáo: Truyền bá
giáo pháp ra ngoài—To publish—To spread abroad the doctrine.
Bố Lợi Ca: Purika
(skt)—Một loại bánh—A kind of cake.
Bố Lỗ Ba: See Bố Lỗ
Bà Bì Đề Ha.
Bố Lỗ Bà Bì Đề Ha:
Purva-Videha or Videha (skt)—Một trong những đại châu ở về phía đông núi
Tu Di—One of the great continents east of Sumeru.
Bố Lỗ Na Bạt Đà La:
Purnabhadra (skt)—Một trong tám tên tướng của Dạ Xoa—One of the eight
yaksa generals.
Bố Lộ Sa: Purusa
(skt)—Bố Lỗ Sa—Bổ Lô Sa—Người—Trượng phu—Sĩ phu—Man—Mankind—A Man—Man as
Narayana the soul and origin of the universe—The soul—Supreme being.
Bố Ma: Làm cho ma
quỷ sợ hãi, một từ dùng để gọi Tỳ Kheo—To terrorize the demons or
Scare-demon, a term used to call Bhiksu.
Bố Như Điểu Phạt Da:
Punyopaya (skt)—Na Đề—Nadi (skt)—Một vị sư miền Trung Ấn, được kể lại như
là vị đã mang sang Trung Hoa 1.500 kinh sách Đại và Tiểu Thừa vào khoảng
năm 655 sau Tây Lịch. Đến năm 656 ông được gửi sang đảo Côn Lôn trong biển
Nam Hải (có lẽ là Côn Sơn của Việt Nam) để tìm một loại thuốc lạ—A monk of
central India, said to have brought over 1,500 texts of the Mahayana and
Hinayana schools to China 655 AD. In 656 AD he was sent to Pulo Condore
Island in the China Sea for some strange medicine.
Bố Sứ: Pausa
(skt)—The tenth month in India.
** For more information,
please see Thập Nhị
Nguyệt.
Bố Tát:
Upavasatha—posadha—Uposana (skt)—Uposatha (p)—Bố Sa Tha—Bố Sái Tha—Bao Sa
Đà—Bố Tát Đà Bà—Ưu Bổ Đà Bà—Bát La Đế Đề Xá Da Mị (Pratidesaniya)—Tiếng
Hán dịch là Tịnh Trụ, Thiên Trúc hay Trưởng Dưỡng. Theo phép của người
xuất gia cứ nửa tháng một lần (vào ngày rằm, 29 hoặc 30), chúng Tăng Ni
tập hợp thuyết giới kinh, khiến cho mọi người đều trụ trong tịnh giới và
trưởng dưỡng thiện pháp. Trong khi đó người tại gia thì giữ tròn tám giới
trong sáu ngày chay để đoạn trừ ác nghiệp và trưởng dưỡng thiện
pháp—Fasting—A fast—The nurturing or renewal of vows by abiding in retreat
for spiritual refreshment. The Buddhist monks and nuns should meet at the
new, full moons, 29th and 30th to read the Pratimoksa Sutra for their
moral edification. Also disciples at home should observe the fast days
(1st, 15th, 29th, 30th ) and the eight commands.
Bố Tát Hộ: Từ ngữ
dùng gọi Bố tát Giới Trai cho người tu tại gia, vì ưu bà tắc và ưu bà di
tại gia giữ tám giới mà thành Bố Tát (tại tâm thì gọi là hộ, tại thân khẩu
thì gọi là giới)—A term for the lay observance of the first eight
commandments on fast days, and it is used as a name for those commands.
Bố Tát Nhựt: Những
ngày Bố Tát là những ngày rằm, 29 và 30 trong tháng—The fast days are the
15th, 29th, and 30th of the moon.
Bố Thí: Dana (skt).
(I) Nghĩa
của Bố Thí—The meanings of Dana:
1) Theo
từ Hán Việt, Bố có nghĩa là rộng lớn hay không có giới hạn, Thí có nghĩa
là cho. Bố Thí là cho một cách rộng lớn, cho không giới hạn—According to
Vietnamese-Chinese terms, Bố means wide or unlimited, Thí means giving. Bố
Thí means to give without any limits.
2) Đàn
Na—To give alms—Alms (money, food, clothes offered to the
poor)—Generosity—Charity—To bestow—Bố thí thực phẩm hay pháp giáo, đưa đến
lợi lạc cho đời nầy và đời sau trong kiếp lai sanh, xao lãng hay từ chối
không bố thí sẽ có hậu quả ngược lại. Đức Phật dạy: “Tham lam chính là đầu
mối của các sự khổ đau trong vòng luân hồi sanh tử. Vì hễ có tham là có
chấp giữ; có chấp giữ là còn bị trói buộc; còn bị trói buộc tức là chưa
giải thoát; chưa giải thoát tức là còn luân hồi sanh tử; còn luân hồi là
còn làm chúng sanh; còn làm chúng sanh là còn tiếp tục chịu các cảnh khổ
đau phiền não.” Vì thấy các mối nguy hại của tham lam, nên Đức Phật đã
nhấn mạnh với chúng sanh về pháp môn bố thí—Almsgiving of food or
doctrine, with resultant benefits now and also hereafter in the form of
reincarnation, as neglect or refusal will produce the opposite
consequences. The Buddha taught: “Greed is the origin of various pains and
sufferings in the cycle of births and deaths. For if there is greed, there
is attachment; if there is attachment, there is bondage; if there is
bondage, there is the cylcle of briths and deaths; if there is a cycle of
rebirths, one is still a sentient being; if one is still a sentient being,
there are still pains, sufferings, and afflictions.” Realizing the
calamities from greediness, the Buddha emphasized a dharma door of
generosity.
3) Trong
phần giảng giải Kinh Bát Đại Nhân Giác, Thiền Sư Thích Nhất Hạnh đã giải
thích về “Bố Thí” như sau: Bố Thí là cho ra đồng đều, có nghĩa là làm san
bằng sự chênh lệnh giàu nghèo. Bất cứ hành động nào khiến cho tha nhân bớt
khổ và thực thi công bằng xã hội đều được xem là “Bố Thí.”—In the
explanation of the Sutra on The Eight Realizations of the Great Beings,
Zen Master Thích Nhất Hạnh explained “Practicing Generosity” as follow:
‘Practicing generosity means to act in a way that will help equalize the
difference between the wealthy and the impoverished. Whatever we do to
ease others’ suffering and create social justice can be considered
praticing generosity.
4) Một
trong lục Ba La Mật: One of the six paramitas—Bố Thí là hạnh tu đầu của
sáu phép Ba La Mật. Ba La Mật có nghĩa là đưa người sang bờ bên kia, tức
là bờ giải thoát; giải thoát khỏi bệnh tật, nghèo đói, vô minh, phiền não,
sanh tử—Practicing generosity is the first of the six paramitas. Paramita
means to help others reach the other shore, the shore of liberation from
sickness, poverty, hunger, ignorance, desires and passions, and birth and
death.
5) Người
tu theo Phật phải nên biết hai chữ “Bố thí” và “Cúng dường” cũng đồng một
nghĩa—Buddhists should know that both concepts of “giving to charity” and
“making offerings” mean the same thing:
·
Ở nơi chúng sanh thì gọi là “Bố thí.”—With regard to
sentient beings, this act is called “Giving.”
·
Ở nơi cha mẹ, cùng các bậc thầy tổ và chư Thánh nhân thì gọi
là cúng dường—With regard to parents, religious teachers, Patriarchs, and
other enlightened beings, this act is called “Making offerings.”
(II) Chúng sanh Bố Thí—Sentient Beings Giving: Có hai loại chúng sanh bố
thí—There are two types:
1) Thí
Chủ Hay người cho—The benefactor: Người có tâm thanh tịnh, từ bi, đem của
cải, tiền bạc, vân vân, của mình ra mà phân phát cho các kẻ thọ lãnh—This
is an individual who has peace, purity, and compassion, and uses his or
her wealth of possessions and money to distribute and give to
beneficiaries.
2) Người
nhận—Receiver: Tức là người nhận của cải, tiền bạc từ nơi thí chủ—The
individual who receives the possessions or money from the benefactors.
(I) Các
loại Bố Thí—Categories of Dana:
1)
See Nhị Bố Thí.
2)
See Tam Bố Thí.
3)
See Tứ Bố Thí.
4)
See Ngũ Bố Thí.
5)
See Thất Bố Thí.
6)
See Bát Bố Thí.
7)
Đại Bố Thí: Great giving—Đại bố thí tức là sự bố thí mà thí
chủ sẽ có những phước báo lớn trong kiếp nầy hay kiếp tới. Có mười ba loại
đại bố thí—This is the giving that will bring the benefactors great
meritorious retributions in this life and next life. There are thirteen
kinds of great giving.
a) Bố thí
đúng thời đúng lúc. Nghĩa là kẻ thọ thí đang lúc rất cần khổ và quẩn bách
mà mình kịp thời giúp đở: Give at the right time and moment. This means to
give with perfect timing when someone is in desperate need.
b) Bố thí
cho người hành chánh đạo, hay những vị đang giảng dạy Phật pháp, các bậc
xuất gia tu hành chân chánh: Give to those who cultivate the proper path.
This means to give to those who are on the path of enlightenment in
Buddhism, which is to give to ordained Buddhists whose cultivated conducts
are true and consistent with the Buddha’s teaching.
c) Bố thí
cho người bệnh và người trị bệnh: Give to the ill and the healer.
d) Bố thí
cho người giảng thuyết chánh pháp của Phật, tức là những bậc tu hành giảng
giải kinh điển, hoằng dương Phật pháp: Give to those who speak and
elucidate the proper dharma of Buddhism, i.e., Dharma Masters who teach
the sutras and propagate the Buddha Dharma.
e) Bố thí
cho người sắp sửa đi xa: Give to those who are about to go on a long
journey.
f) Bố
thí cho quốc vương bị mất ngôi đang trên đường bôn tẩu và bị khổ ách của
kẻ thù: To give to a king who has lost the throne and is searching for
safety to evade the enemy.
g) Bố thí
cho gnười bị quan quyền bức bách, không có nơi nương tựa: Give to those
who are helpless against authority.
h) Bố thí
cho người tật bệnh, đau khổ, hành hạ thân xác: Give to those who are
handicapped, those enduring pain, suffering, and torture.
i) Bố
thí cho chư Tăng Ni đủ đầy giới đức, đúng lúc đúng thời: Give to Bhiksus
and Bhiksunis who maintain their virtuous precepts, at the right time and
moment.
j) Bố
thí cho người tu cầu trí huệ, như những vị tu hành nghèo khổ, thanh tịnh
nơi chốn núi rừng để cầu trí huệ giải thoát, chớ không phải những kẻ tu
hành giàu sang ở thành thị, có đầy đủ chùa tháp đồ sộ, kinh dinh: Give to
those who cultivate for wisdom, i.e., those who practice mendicant
conducts, having peace and purity in the isolated mountains and forests,
praying to attain wisdom of enlightenment. Thus, there are not people who
cultivate in luxury and wealth in great cities who enjoy all modern
conveniences.
k) Bố thí
cho các loài súc sanh, như loài chim, cá, vân vân: Give to various
animals, i.e., birds, fish, etc.
l)
Khuyên người khác bố thí, hoặc tùy hỷ nơi người bố thí cùng các việc bố
thí. Tức là tự mình vì nghèo khổ nên không thể bố thí, nhưng khi thấy
người khác làm việc bố thí thì mình vui mừng khen ngợi và tán đồng. Đức
Phật gọi đây là “Tùy Hỷ Công Đức.” Việc tùy hỷ nầy rất ư là quan trọng, vì
có lắm kẻ không bố thí, nhưng cảm thấy khó chịu khi thấy người khác bố
thí. Người Phật tử nên cẩn trọng tránh tánh tự kỷ nhỏ nhen nầy: Encourage
others to give or rejoice in seeing others give. This means if one is
unable to give because one has no means or ability to give, yet when
seeing others give, one is able to rejoice and be happy for the giver by
prasing that person. The Buddha called this “Rejoice in others virtues
and merits.” This is important because sometimes when people cannot give
but seeing others give makes them extremely uneasy. As Buddhists, it is
important to avoid this selfish nature.
m) Bỏ mạng
ra để thế mạng cho người: Sacrifice one’s life to save another person’s
life.
8)
Vô thượng Bố thí—Boundless Giving: Loại bố thí mà thí chủ có
được phước báo lớn lao không thể nghĩ bàn được. Có năm loại vô thượng bố
thí—This type of giving will bring the benefactors infinite and endless
meritorious retributions. There are five categories.
a) Bố thí
hay cúng dường ở nơi Đức Phật: Give to the Buddha.
b) Bố thí
hay cúng dường ở nơi chúng Tăng Ni: Give to the Sangha, or community of
ordained Buddhist monks or nuns.
c) Bố thí
ở nơi người thuyết giảng chánh pháp: Give to those who speak and eludicate
the Proper Dharma.
d) Bố thí
hay cúng dường ở nơi cha: Give to one’s father.
e) Bố thí
hay cúng dường ở nơi mẹ: Give to one’s mother.
9)
See Thập Nhị Chơn Thật Hảo Tâm Bố Thí Nhơn.
10)
See Ngũ Giả Danh Hảo Tâm Bố Thí Nhơn.
(II) Tại sao
chúng ta nên thực hành hạnh bố thí?—Why should we practice Giving?—Theo
Thượng Tọa Thích Hải Quang trong Thư Gửi Người Học Phật, có 14 điều khiến
chúng ta nên bố thí—According to Venerable Thích Hải Quang in Letters to
Buddhist Followers, there are fourteen reasons for us to practice
Giving.
1)
Của đem bố thí cho người rồi mới chính là của ta, chớ của còn ở
trong nhà chẳng phải là của ta. Vì quả báo tốt đẹp của sự bố thí nầy sẽ đi
theo mình đời đời kiếp kiếp, thế nên mới gọi là của mình. Còn của ở trong
nhà thì không phải là của mình, mà nó là của năm ông chủ sau đây—Giving
possessions are truly what is ours, but remaining possessions inside our
homes, really not belong to us. This is true because the wholesome
retributions of giving will be with us forever from life to life;
therefore, they are ours. In contrast, the possessions inside our homes
are not really ours, but they belong to the following five masters:
·
Nước lụt dâng lên cuốn trôi tất cả: Floodwater will rise to take away
everything.
·
Lửa
dữ thiêu rụi tất cả: Raging fire will burn down everything.
·
Thân quyến phung phí phá tán: Family and relatives waste and destroy.
·
Tham quan, giặc cướp và trộm cắp lấy đi tất cả: Corrupted officials,
bandits and thieves will take away everything.
·
Tiền thuốc men cho bệnh hoạn ốm đau: Spending for medications for
sicknesses.
2)
Của đã bố thí thì vững chắc, còn của chưa bố thí thì chẳng vững
chắc. Vì của đã bố thí rồi thì được quả báo đáp đền cho mình đời đời, chớ
không mất, đúng theo luật nhân quả, tất cả những gì mình làm đều phải có
đền trả, dù chúng ta có tái sanh bất cứ ở đâu và dưới bất cứ hình thức
nào. Còn của chưa bố thí cũng sẽ bị năm ông chủ trên (1) phá tán lúc nào
không hay: Given possessions are secured, but remaining possessions are
not secured. For possessions that have been given will have their own
appropriate retributions holding them for us for many lives to come
without being lost. No matter where we are born in whatever life, they
will always follow us, as stated in the Law of Karma, whatever you do, it
will find its way back to you. Whereas, possessions that have not been
given, may be taken by the above mentiond five masters in (1).
3)
Của đã bố thí thì vui ngày sau, còn của chưa thí thì vui hiện tại.
Nghĩa là kiếp nầy bố thí thì kiếp sau hay nhiều kiếp sau nữa, phước báo
bố thí sẽ theo mình hoài nên luôn được giàu sang sung túc. Còn của ở trong
nhà hay của chưa bố thí bất quá chỉ mang lại cho mình sự giàu sang đầy đủ
, vui vẻ trong kiếp hiện tại nầy mà thôi: Given possessions are the
happines of the future, but remaining possessions are only the hapines of
the present. This means if we give in this lie, then in the next life or
many future lives after, the meritorious retributions from giving will
follow us and we will always have wealth and luxury. Whereas the remaining
possessions, things that we have not given or we are not willing to give,
will bring us wealth, luxury, and hapiness in the present life.
4)
Của đã bố thí thì khỏi phải mất công giữ gìn còn của còn lại chúng
ta phải ra công giữ gìn. Nghĩa là của bố thí đã thuộc về người khác, nên
họ cần giữ gìn, chớ mình khỏi lo giữ gìn nữa. Còn của còn lại trong nhà
thì chúng ta phải luôn luôn giữ gìn vì sợ mất trộm: Given possessions do
not need to be safeguarded, but remaining possessions must be safeguarded.
For possessions that are given will now belong to others and it is up to
them to safeguard their possessions, we do not have to worry about
safeguarding those possessions any longer. Whereas, remaining possessions
in our homes must be carefully watched because if we don’t, we fear they
will be taken away from us.
5)
Của đã bố thí thì chúng ta khỏi phải bị tham ái trói buộc; trong
khi của còn lại thì càng thêm tham ái. Nghĩa là khi đã bố thí rồi thì dứt
được tham ái nơi tiền của. Của còn lại thì cứ làm cho mình càng tăng thêm
tâm tham lam, luyến ái nơi chúng: Given possessions will no longer be
bound by greedy desires; whereas remaining possessions will increase
greed. This means if we are able to give, then we will be able to
eliminate our greedy desires toward money and possessions. However, the
remaining possessions will increase our greed and attachment to them.
6)
Của đã thí giúp ta chẳng còn bận lòng; trong khi của còn lại sẽ làm
chúng ta thêm bận lòng. Nghĩa là của đã bố thí rồi thì khỏi cần phải bận
tâm lo nghĩ chi nữa, chớ của còn lại thì chúng ta cứ nghĩ nhớ tới hoài vì
sợ ngày nào đó chúng ta sẽ mất chúng: Given possessions are no longer
worrisome, but remaining possessions are worrisome. If possessions that
are given away, it is no longer necessary for us to worry or think about
them, but if they remain, here will be constant worrying that someday they
will be taken way from us.
7)
Của đã bố thí thì chẳng lo sợ, còn của còn lại chúng ta sẽ phải lo
sợ mãi. Của đã bố thí thì chúng ta không còn lo sợ năm ông chủ cướp đọat,
chớ của còn lại thì chúng ta cứ hồi hộp lo sợ chúng sẽ bị năm ông chủ ra
tay cướp đoạt không biết lúc nào: Given possessions are no longer feared,
but remaining posessions must be feared. If possessions are given, then
there is no fear that the “five masters” will steal from us, but if they
remain, they will make us fearful and anxious that the “five masters” can
come and steal them away at any moment.
8)
Của đã thí là cột trụ Chánh đạo, còn của còn lại là cột trụ của ma.
Nghĩa là đã bố thí rồi thì sau nầy sẽ đạt được bố thí Ba La Mật, thành một
vị Bồ Tát; trong khi của còn lại vì lòng keo kiết bỏn xẻn, thì kiếp sau
nầy chúng ta sẽ thành ra con ma đói: Given possessions are the pillars of
the Proper Path, but remaining posessions are the pillars of the devil. If
we give, then one day we will attain the Giving Paramita and become a
Maha-Bodhisattva; while remaining possessions due to stinginess and
frugality wull result in being a hungry ghost in the next life.
9)
Của đã bố thí thì vô tận, còn của còn lại thì hữu hạn. Nghĩa là khi
đã bố thí rồi thì đời đời kiếp kiếp được phước điền vô tận, chớ của còn
lại chỉ là hữu hạn, tức là bất quá chỉ có ở trong kiếp nầy rồi thôi, chớ
kiếp sau không còn nữa: Given possessions are boundless, but remaining
possessions are limited. This means possessions that are given will be the
meritorious retributions for many reincarnations to come, but remaining
possessions are limited and will only be available in this life, but will
not be there in the next.
10)
Của đã bố thí thì vui, chớ của còn thì khổ bởi phải lo giữ gìn:
Given possessions will bring hapines, but remaining possessions will cause
suferings because they must be safeguarded.
11)
Của đã bố thí giúp chúng ta lìa gút trói, chớ của còn lại khiến ta
càng thêm trói buộc. Nghĩa là khi đã đem của đi bố thí rồi thì chúng ta
khỏi bị tâm tham lam trói buộc, chớ của còn lại thì mình cứ luôn luôn bị
lòng tham lam của cải trói buộc hoài, đi đâu cũng đều bận tâm lo lắng:
Given possessions will lead to greater freedom, but remaining possessions
will lead to greater imprisonment. If we are able to give, then, though we
are still bound, we have freedom to some degree, but remaining possessions
will entrap us even more, so no matter where we go, we are always worrying
about them.
12)
Của đã thí là lộc, chớ của còn lại chẳng phải là lộc. Nghĩa là của
đã bố thí là phước lộc ở kiếp nầy, qua đến kiếp sau sẽ cành được tốt đẹp
hơn; chớ của còn lại không phải là phước lộc vì một ngày nào đó chúng ta
sẽ tiêu sạch: Given possessions are meritorious, but remaining possessions
are not meritorious because someday we will spend them all.
13)
Của bố thí là sự nghiệp của bậc đại trượng phu, chớ của còn lại
chẳng phải là sự nghiệp của bậc đại trượng phu. Nghĩa là người chân thật
đại trượng phu mới biết bố thí, chớ kẻ ngụy đại trượng phu thì không bao
giờ biết bố thí, mà trái lại cứ bo bo giữ của: Given possessions are the
practices of a great gentleman, but remaining possessions are not the
practices of a great gentleman. Only a person who is truly a great
gentleman will know to give. While a pretender will never know to give,
but will maintain and hold on to everything he or she owns.
14)
Của bố thí được Phật khen ngợi, trong khi của còn lại thì được phàm
phu khen ngợi. Nghĩa là người biết bố thí vì hợp được với tâm từ bi vô
lượng của Phật, Bồ Tát nên được Phật và Bồ Tát khen. Còn kẻ keo kiết thì
hợp với tâm phàm phu nên chỉ có phàm phu khen ngợi, chớ Phật và Bồ Tát thì
chê: Given possessions are praised by the Buddha, but remaining
possessions are praised by ordinary people. This means those who give
accord with the minds of the Buddhas of infinite compassion, so these
people are praised by the Buddhas and Bodhisattvas. Those who are selfish
and stingy accord with the minds of ordinary people and will be praised by
ordinary people. They wil not be praised the Budhas and Bodhisattvas.
(III)
Những ý tưởng khởi sanh khi có người đến cầu bố thí—Thoughts arise
when there are people coming to ask for charity: Cũng theo Thượng Tọa
Thích Hải Quang trong Thư Gởi Người Học Phật, Đức Phật dạy hàng Phật tử Bồ
Tát tại gia thực hành hạnh bố thí. Khi thấy người đến xin thí thì phải
luôn phát khởi lên trong tâm những ý tưởng sau đây để tránh các sự buồn
tiếc, hối hận, tức tối, hoặc khởi sanh các niệm tham sân si đối với người
xin thí, mà làm giảm bớt hoặc mất đi các công đức bố thí của mình—Also
according to Venerable Thích Hải Quang in the Letters to Buddhists
Followers, the Buddha taught that lay Buddhists Bodhisattvas should
practice the “Conduct of Giving.” When someone comes to ask for
assistance, it is important to give rise to the following thoughts in
order to avoid having regrets, sadness, anger, or giving rise to various
thoughts of greed, hatred, and ignorance toward the receiver of charity,
only to decrease or lose the virtues and merits they would have obtained
from the acts of practicing charity.
1)
Vì thuận theo lời Phật dạy—Following the teachings of the Buddha:
Khi thấy người đến xin thí ở nơi ta, thì ta phải dụng tâm chơn chánh mà
tưởng nghĩ rằng tất cả chư Phật mười phương ba đời do nơi thành tựu được
Bố Thí Ba La Mật mà chứng đắc được đạo quả Bồ Đề Vô Thượng. Nay ta là con
của Phật, nếu muốn được giải thoát hay được thành Phật, ắt phải hành theo
lời Phật dạy là phải siêng năng tu tập hạnh bố thí để diệt trừ các tâm
tham lam, keo kiết, vân vân, và như thế thì các việc bố thí mà ta thực
hành ngày hôm nay đây chính là thuận theo lời Phật dạy—When someone needs
assistance, we should use the sincere mind to think that all the Buddhas
in the ten directions across the three time-spans of past, present, and
future are able to attain the Ultimate Enlightenment because of their
ability to fully realize the “Giving Paramita.” Now that we are Buddha’s
children, if we wish to attain enlightenment or to become Buddha, it is
absolutely essential for us to follow the Buddha’s teachings. We should
practice His Teachings. We must diligently cultivate the conduct of giving
in order to eliminate various mind states of greed, selfishness, and
stinginess. In this way, our practice of giving of today demonstrate we
are following the teachings of the Buddhas.
2)
Khởi sanh ý tưởng thiện hữu tri thức—Giving rise to the thought
that asking person is a good knowledgeable advisor: Khi thấy người đến cầu
xin bố thí ở nơi mình thì mình phải tưởng nghĩ—When someone comes and asks
for assistance, we should think:
a)
Từ nhiều kiếp trong quá khứ cho đến ngày nay, ta vì tham lam, keo
kiết, nên chỉ biết thâu góp, tích chứa cho thật nhiều, chớ không chịu xả
thí. Nếu có xả thí thì lại sanh lòng hối tiếc, sầu buồn, hoặc bố thí mà
trong tâm không được hoan hỷ, thanh tịnh. Vì thế mà chúng ta cứ mãi làm
một bạt địa phàm phu sanh tử, nổi trôi trong sáu nẻo luân hồi. Kiếp nầy ta
như vậy, biết rồi đây kiếp kế sẽ ra sao? Của cải kiếp trước của ta bây giờ
ở đâu? Còn của cải trong kiếp nầy cũng thế, bởi vì khi ta chết đi rồi thì
tất cả đều bỏ lại hết chớ chẳng mang theo được thứ gì. May mắn thay, kiếp
nầy nhờ ta biết đạo, biết rõ những lời Phật dạy về hạnh bố thí, vậy thì
tại sao nay ta không chịu dõng mãnh thực hành để trừ bỏ cái tánh keo kiết
kinh niên cố hữu nầy đi?: From many lives in the past until now, we have
been unbelievably greedy and stingy; thus, gathering and accumulating as
much as possible are the only things we have known, while we refuse to
give and let go of anything. Or even when we did give, we still feel
regrets and sadness later, or we may have given but our minds were not
peaceful and joyous while giving. Therefore, we continue to remain as
unenlightened mortals drifting and drowning in the six realms of the cycle
of rebirths. If we are like this in this life, who knows what we will be
like in the nex life! Where are all of our possessions from the former
lives? It will be the same way with the possessions of this life because
once we die, we must leave behind everything, as we will not be able to
bring anything along with us. Fortunately, in this life, we are
knowledgeable of Buddhism, we know clearly the Buddha’s teachings with
regard to the conducts of giving. So why should we not courageously
practice what we know in order to eliminate our old selfish greedy
habits?
b)
Nay ta vừa phát tâm muốn thực hành hạnh bố thí thì liền có người
đến xin thí. Quả là điều may mắn cho ta lắm. Vì nhờ có người nầy mà: Now
immediately after we have just developed our minds to carry out the
conduct of giving, someone comes to ask for assistance. It is truly a good
opportunity. Because owing to this person:
·
Chúng ta mới bỏ được lòng tham lam keo kiết đã theo ta từ quá khứ kiếp cho
đến hôm nay: We are able to abandon the greed and selfishness that have
followed us from the infinite past to the present.
·
Chúng ta mới thành tựu được tâm “Xả Bỏ” và hạnh “Bố Thí” của Thánh nhân:
We are able to accomplish the mind of “Letting Go” and the giving conduct
of a saintly being.
·
Chúng ta sẽ thành tựu được các quả vị giải thoát xuất thế trong tương lai:
We will be able to accomplish the various fruits of enlightenment and
liberation in the future.
·
Người đến xin thí nầy đích thực là thiện tri thức của ta, là ân nhân của
ta, và cũng là nhơn giải thoát cho ta vậy: The person who has asked us is
truly our good knowledgeable advisor, our benefactor, as well as our cause
for enlightenment.
·
Do
khởi sanh ra các ý tưởng đúng theo chánh pháp như vậy, cho nên chúng ta
rất vui lòng và hân hạnh thực hành việc bố thí mà không có chút do dự hay
ngại ngùng chi cả: If one is able to give rise to and hold on to these
thoughts, that good charitable person will feel happy and honored from
giving without having the slightest worries and regrets.
3)
Khởi sanh ý tưởng đời khác giàu sang hay được phước báo của cõi Dục
Giới—Giving rise to the thought of wealth and luxury in another life or
attaining the meritorious retributions in the Desire World: Khi thấy có
người đến xin thí ở nơi ta, thì ta phải tưởng nghĩ như vầy—When seeing the
needy person approaching us, we should hold the following thought:
a)
Y theo lời Phật dạy thì tất cả các hạnh bố thí đều được quả báo tốt
đẹp, hoặc ở nơi cõi người làm kẻ giàu sang hưởng phước; hoặc là sanh lên
cõi trời làm thiên tử với đầy đủ thiên phước vi diệu. Nói về công đức của
sự bố thí, cho dù trong tâm ta không hề khởi sanh ý tưởng là muốn cầu giàu
sang sung sướng về sau nơi cõi trời người, nhưng phước báo của sự bố thí
ấy nó sẽ tự nhiên đến với chúng ta: Just as the Buddha taught, all
conducts of giving will result in wholesome retributions. This means one
will be a wealthy person reaping merits in the human realm or will be born
in Heaven to be a Heavenly Being with complete supreme blessings of the
Heaven. Talking about the merits and virtues of the conduct of giving, if
we practice conduct of giving, even if our minds do not give rise to the
wish of being rich and wealthy in the future in Heaven or Human realms,
those meritorious retributions from giving will come to us naturally.
b)
Kiếp hiện tại đây ta được giàu sang, bạc tiền sung túc, lên xe
xuống ngựa, vân vân, đó là nhờ ở nơi kiếp trước ta đã có thực hành hạnh bố
thí rồi, cho nên kiếp nầy mới được hưởng phước báo tốt đẹp như vậy: In the
present life, we are wealthy, having extra money to spend on nice cars,
homes, etc. because in the former life, we practiced giving. Thus, in this
life we are able to reap the wholesome karmic retribution in this way.
c)
Nay ta cứ phóng mắt nhìn ra bên ngoài xã hội và chung quanh ta,
thấy còn có rất nhiều người sống đời nghèo nàn, thiếu hụt hoặc vất vả nhọc
nhằn trong kiếp tôi đòi, hèn hạ, vân vân. Ấy là vì kiếp trước họ nặng lòng
xan tham, keo kiết, không bao giờ biết mở lòng bố thí, cho nên kiếp nầy
mới phải bị quả báo nghèo thiếu, nhọc nhằn như vậy: If we just look to the
outside world and our surrounding, it will be obvious how many people live
in poverty, not having enough of anything, but must struggle to make it
from day to day. It is because in their former lives, these people were
consumed with greed, stinginess, and never opened their hearts to give to
anyone. Consequently, in this life, they must suffer and struggle in
povery as their karmic retributions.
d)
Chúng ta may mắn nhờ phước báo tốt đẹp nên kiếp nầy được cao sang
trọng vọng, vậy thì ta càng phải nên bố thí nhiều hơn nữa, để cho—We are
fortunate to be able to rely on the wholesome karma of the past enabling
us to live luxurious lives; therefore, we should give more so that:
·
Phước lành của chúng ta ngày càng thêm tăng trưởng: The wholesome merits
of the present will increase with each passing day.
·
Trong các kiếp vị lai về sau ta sẽ tránh thoát được các quả báo thiếu
thốn, nghèo cùng: An in the future lives, we will avoid the karmic
consequences of not having enoungh.
·
Do
vì khởi sanh ra được các ý tưởng đúng pháp như vậy cho nên người thiện
nhân ấy rất vui lòng và hân hạnh hành việc bố thí mà không chút do dự ngại
ngùng: If one is able to hold these thoughts that are true to the Proper
Dharma, the good person will feel happy and honored to give without having
sadness, regrets, and resentments.
4)
Vì hàng phục ma quân—In order to conquer evil: Khi có người đến xin
thí ở nơi ta, thì ta phải tưởng nghĩ rằng bố thí để tiêu diệt hai cái
tánh Tham và Xan—When someone asks us for assistance, we should think that
practicing the conduct of giving will help us eliminate the two evil
characteristics of greed and stinginess.
5)
Với người đến xin có ý thưởng thân thuộc—Look upon those who ask
for charity as family and friends: Khi có người đến xin thí ở nơi ta, thì
ta phải có ý tưởng rằng từ quá khứ kiếp đến nay, trong sáu nẻo luân hồi,
chúng sanh cứ theo hành nghiệp bản hữu mà lăn lên, lộn xuống, hằng luôn
thay mặt đổi hình, có khi làm quyến thuộc lẫn nhau, nhưng đến kiếp nầy vì
chuyển đời, cách ấm, bị vô minh che lấp, nên không nhận ra nhau mà thôi.
Ngày hôm nay ta phát tâm bố thí đây và người đến xin thí nầy, biết đâu quá
khứ họ là thân thuộc của ta, hoặc trong kiếp tương lai họ sẽ trở thành kẻ
trong vòng lục thân của ta cũng không chừng. Vì nghĩ tưởng như vậy nên
chúng ta vui lòng mà bố thí kgông có chút lòng hối hận, hay nuối ciếc chi
cả. Đây gọi là vì tưởng thân thuộc mà bố thí: When someone asks for
assistance, we should think that from infinite past till now, in the six
realms in the cycle of rebirths, sentient beings continue to follow their
karmic actions to go up and down constantly, changing their appearances;
sometimes they are relatives and friends, but once they pass on to another
life, covered by ignorance, they are no longer able to recognize one
another. Today we develop the mind to give because those asking for
assistance can very well be our family and friends of the past or, who
knows, it is possible, in the future lives they will become a part of our
immediate or extended family. Having these thoughts we should be happy to
give without the slightest regrets or feel we have given in vain.
6)
Với vô biên chúng sanh có ý tưởng xuất ly—In the process of endless
births gives rise to the thought of liberation: Khi có người đến xin thí
thì ta nghĩ rằng chư Phật hoặc chư Bồ Tát cùng với các bậc giải thoát đại
thánh nhân khác sở dĩ chứng đắc được đạo quả Bồ Đề, giải thoát ra khỏi
vòng sanh tử là do nơi thành tựu được hạnh Bố Thí Ba La Mật. Nhờ chứng
đắc được Bố Thí Ba La Mật mà quý ngài không còn sanh tử luân hồi nữa, còn
chúng ta thì nay bỏ thân nầy, rồi sanh ra nơi kiếp khác, mang thân khác,
cứ như thế mà xoay chuyển trong sáu nẻo luân hồi, hết tử rồi sanh, hết
sanh rồi tử, từ vô lượng vô biên kiếp xa xưa cho đến hôm nay mà vẫn không
sao thoát ra được. Cho nên hôm nay chúng ta phải quyết tâm và phát nguyện
sẽ hành hạnh bố thí nầy không thối chuyển; các người đến xin thí nầy đều
thật là ân nhân của ta, đều là nhơn duyên lớn làm cho ta thành tựu được Bố
Thí Ba La Mật về sau nầy vậy. Có như thế thì ta mới được xuất ly, được
giải thoát ra khỏi vòng vô lượng vô biên kiếp đời sanh tử trong tương lai:
When someone asks us for assistance, we should think that all Buddhas and
Bodhisattvas, as well as other greatly enlightened sages were able to
attain the Bodhi Mind and are liberated from the cycle of rebirths because
they were able to attain the conduct of Giving Paramita. Owing to the fact
that they have achieved the Giving Paramita, these greatly enlightened
beings are able to eliminate the cycle of reincarnations. As for us,
sentient beings, in the near future we will abandon this body and then we
will be born with another body in another life and will continue to go up
and down in the six realms of the cycle of rebirths. In this way, from
infinite and endless aeons ago to the present, we have lived and died,
died and lived, and yet we are still unable to free ouselves from this
vicious cycle of birth and death. Therefore, in this life, we must be
determined to develop the vow to practice the conduct of giving without
regression. All sentient beings who come to us for assistance are our
benefactors and are great opportunities for us to attain the Giving
Paramita in the future. Only practicing this we will be able to attain
enlightenment and find liberation from infinite and endless lives of
births and deaths in the future.
7)
Dùng sự bố thí với ý tưởng như là phương tiện để nhiếp thọ hết
thảy chúng sanh: Using the conduct of giving as a means of assistance to
all sentient beings.
8)
Khởi sanh ý tưởng chứng đạo Bồ Đề—Giving rise to the thought of
attaining the path of enlightenment: Khi thấy có người đến xin thí ở nơi
ta, thì ta phải khởi tâm nghĩ tưởng như vầy—When we see a needy person
approaching us, we want to hold the following thoughts:
a)
Trong lục độ Ba La Mật của chư đại Bồ Tát và chư Phật đã chứng đắc
thì Bố Thí Ba La Mật là độ đứng đầu hết thảy. Sở dĩ quý ngài thành tựu
được Bố Thí Độ nầy là nhờ quý ngài đã từng hành hạnh bố thí với tâm bất
thối chuyển trong vô lượng vô biên kiếp đời quá khứ mà không bao giờ biết
mỏi mệt, chán nản và ngưng nghỉ. Vì thế nên quý ngài mới huân tập được vô
lượng vô biên phước báo thù thắng không thể nghĩ bàn, các phước báo ấy nếu
như đem bố thí cho mười hai loại chúng sanh khắp mười phương thế giới
trong vô lượng vô biên kiếp cũng không bao giờ cùng tận cả vì phước báo
của quý ngài vốn là vô tận: Among the Six Paramita Practices attained by
Maha-Bodhisattvas and the Buddhas, the giving paramitas is first. These
Virtuous Beings are able to attain the Giving Paramita because they have
often carried out the conducts of giving with a non-retrogression mind in
infinite and innumerable kalpas in the past, but are never tired, bored,
nor will they rest and stop such practices. Therefore, they are to
accumulate infinite, endless, and unimaginably supreme meritorious
retributions. If those who meritorious retributions were used to give to
all the sentient beings in the ten directions of infinite universes for
infinite and innumerable kalpas they would still have some left the
meritorious blessing of the Maha-Bodhisattvas are inherently limitless.
b)
Vả lại, hiện nay quý ngài đã chứng đắc được các giai vị Bồ Tát
trong hàng thập Thánh hay Thập Địa Bồ Tát, và đang trên đường đi đến sự
thành tựu được quả vị vô thượng Bồ Đề của Phật trong tương lai, đó là nhờ
quý ngài biết đem công đức của các việc bố thí kia mà hồi hướng cho chúng
sanh và cầu đắc thành được Bồ Đề Phật quả: Furthermore, at the present
time, they have attained the various enlighten stages of
Maha-Bodidattvahood, and are on their way to the realization of the
Ultimate Enlightenment.
c)
Nay ta là Phật tử Bồ Tát tại gia thì ta cũng nên học y như hạnh của
quý ngài. Nghĩa là ta cũng nên tùy theo khả năng của mình mà thực hành
hạnh bố thí. Các hạnh bố thí như thế, nếu như có gây tạo nên công đức
hoặc phước lành chi chúng ta sẽ không nguyện cầu sanh về cõi Trời người để
hưởng phước báo, bởi vì dù cho có hưởng phước báo tốt đẹp thế mấy nơi cõi
nhơn thiên đi nữa, rốt lại cũng không thể nào thoát ra khỏi vòng luân hồi
sanh tử được. Ngược lại, chúng ta sẽ hồi hướng các phước báo đó để trang
nghiêm cho đạo quả Bồ Đề vô thượng của ta trong tương lai. Chúng ta sẽ bố
thí không ngừng nghỉ: As lay Buddhists, cultivating for Bodhisattvahooc,
we should also follow these enlightened beings’ virtuous paths. This means
we should work within our means and limitations to practice the conduct of
giving. If our conducts of giving result in any wholesome virtuous or
meritorious consequences, then we should not vow or pray to be reborn in
the Heaven or Human realms in order to reap those meritorious
retributions. This is because no matter how much pleasure we may enjoy
from those wholesome meritorious retributions in the heaven and human
realms, in the end, we will be able to escape and free ourselves from the
cycle of birth death. In contrast, we should be determined to dedicate all
those merits and virtues to adorn our future state of Ultimate
Enlightenment. We continue to give without resting.
(IV)
Những lời Phật dạy về “Bố Thí” trong Kinh Pháp Cú—The Buddha’s teachings
on “Giving” in the Dharmapada Sutra:
1) Vì có
tín tâm hoan hỷ nên người ta mới bố thí, trái lại kẻ có tâm ganh ghét
người khác được ăn, thì ngày hoặc đêm kẻ kia không thể nào định tâm
được—Some people give according to their faith, or according to their
pleasure. He who is envious of others’ food and drink, will not attain
tranquility by day or by night (Dharmapada 249).
2) Nhưng
kẻ nào đã cắt được, nhổ được, diệt được tâm tưởng ấy, thì ngày hoặc đêm,
kẻ kia đều được định tâm—He who fully cut off, uprooted and destroyed such
feeling, gain peace by day and by night (Dharmapada 250).
3) Trong
các cách bố thí, pháp thí là hơn cả; trong các chất vị, pháp vị là hơn cả;
trong các hỷ lạc, pháp hỷ là hơn cả; người nào trừ hết mọi ái dục là vượt
trên mọi đau khổ—No gift is better than the gift of Truth (Dharma). No
taste is sweeter than the taste of truth. No joy is better than the joy
of Truth. No conquest is better than the conquest of craving; it
overcomes all suffering (Dharmapada 354).
4) Cỏ làm
hại rất nhiều ruộng vườn, tham dục làm hại rất nhiều thế nhân. Vậy nên bố
thí cho người lìa tham, sẽ được quả báo lớn—Human beings are damaged by
lust just as weeds damage the fields. Therefore, what is given to those
who are lustless, yields great reward (Dharmapada 356).
5) Cỏ làm
hại rất nhiều ruộng vườn, sân nhuế làm hại rất nhiều thế nhân. Vậy nên bố
thí cho người lìa sân, sẽ được quả báo lớn—Human beings are damaged by
hatred in just the same manner as weeds damage the fields. Therefore, to
give to those who are free from hatred, yields great reward (Dharmapada
357).
6) Cỏ làm
hại rất nhiều ruộng vườn, ngu si làm hại rất nhiều thế nhân. Vậy nên bố
thí cho người lìa si, sẽ được quả báo lớn—Human beings are damaged by
delusion just like weeds damage the fields. Therefore, to give to those
who are free from delusion, yields great reward (Dharmapada 358).
7) Cỏ làm
hại rất nhiều ruộng vườn, ái dục làm hại rất nhiều thế nhân. Vậy nên bố
thí cho người lìa dục, sẽ được quả báo lớn—Human beings are damaged by
craving just like weeds damage the fields. Therefore, to give to those who
rid of craving, yields great reward (Dharmapada 359).
Bố Thí Ba La Mật:
Charitable Giving-Paramita.
·
See Bố Thí.
·
Chúng ta phải bằng mọi cách giúp đở lẫn nhau. Khi bố thí,
không nên ấp ủ ý tưởng đây là người cho kia là kẻ được cho, cho cái gì và
cho bao nhiêu, được như vậy thì kiêu mạn và tự phụ sẽ không sanh khởi
trong ta. Đây là cách bố thí vô điều kiện hay bi tâm dựa trên căn bản bình
đẳng. Bố thí Ba la mật còn là cửa ngõ đi vào hào quang chư pháp, vì nhờ đó
mà trong từng giây phút, chúng ta làm cho chúng sanh hoan hỷ cũng như làm
trang nghiêm cõi Phật; nhờ Bố thí Ba la mật mà chúng ta chỉ dạy và hướng
dẫn chúng sanh lìa bỏ tánh tham lam bỏn xẻn—Paramita-charitable giving—One
should help other people, as best as one can, to satisfy their needs. When
giving charity, one does not cherish the thought that he is the giver, and
sentient beings are the receivers, what is given and how much is given,
thus, in one’s mind no arrogance and self-conceit would arise. This is an
unconditioned alms-giving or compassion on equlity basis—Dana paramita is
also a gate of Dharma-illumination; for with it, in every instance, we
cause creatures to be pleasant, we adorn the Buddhist land, and we teach
and guide stingy and greedy living beings.
·
Có người cho rằng rằng mình chỉ có thể bố thí khi mình có
nhiều tiền bạc. Điều nầy không đúng. Vài người có nhiều tiền bạc đôi khi
ít chịu bố thí, hoặc giả nếu có bố thí cũng chỉ để mua danh mua lợi hay
lấy lòng người xung quanh. Những người có lòng thương người lại ít khi
giàu có. Tại vì sao? Trước nhất, vì họ hay có lòng chia xẻ với người những
gì họ có. Thứ nhì, họ không có ý định làm giàu trên sự nghèo khó khốn cùng
của kẻ khác. Chính vì vậy mà Đức Phật nhắc nhở chúng ta về pháp bố thí Ba
La Mật. Bố thí Ba La Mật là cho một cách bình đẳng, không phân biệt thân
sơ, bạn thù—Some people think that they can only practice generosity if
they are wealthy. This is not true. Some people who are wealthy seldom
practice generosity. If they do, they do with the aim of gaining fame,
merit, profiting, or pleasing others. Generous and compassion people are
seldom rich. Why? First of all, because they always share whatever they
have with others, secondly because they are not willing to enrich their
lives financially at the cost of others’ poverty. Thus, the Buddha
reminded us on the “Generosity-Paramita.” Generosity-Paramita means to we
should consider everyone equally when we practice charitable giving, not
discriminating agaisnt anyone, i.e. to give alms to relatives, and not to
give alms to enemies, etc.
** For more information,
please see Lục Độ
Ba La Mật in
Vietnamese-English Section.
Bố Thí Pháp: To
preach Buddha-dharma—Nhận biết sự hiểm nguy của sanh tử nên nhắc cho người
khác biết những lời Phật dạy với hy vọng cuối cùng họ sẽ hiểu và vượt
thoát khỏi luân hồi sanh tử—Realizing mortal danger so to preach others
about Buddha’s teachings with the hope that they will eventually
understand and be able to escape the cycle of births and deaths.
Bố Thí Vô Sở Trụ:
No Attachment in acts of charity—Theo Kinh Kim Cang, Đức Phật nhắc nhở Tu
Bồ Đề về Bố Thí Vô Sở Trụ như sau—According to the Diamond Sutra, the
Buddha reminded Sibhuti about “acts of charity without attachment” as
follows:
·
Ông Tu Bồ Đề! Bồ Tát thực hành phép bố thí phải nên “Vô sở
trụ.” Nghĩa là không nên trụ vào sắc mà làm bố thí, không nên trụ vào
thanh, hương, vị, xúc, pháp mà làm bố thí. Ông Tu Bồ Đề! Tại sao mà Bồ Tát
không nên trụ vào sắc tướng mà bố thí như thế? Vì nếu Bồ Tát không trụ vào
hình sắc mà bố thí, thì phúc đức đó không thể suy lường được—Subhuti !
Bodhisattvas in truth have no attachment in cts of charity. One should not
attach to sight while giving. One should not attach to sound, smell,
taste, touch, or conciousness in giving. Subhuti ! Bodhisattvas should
give without attachment. Why ? If they do, the merits and virtues are
immeasurable.
·
Lại
nữa, ông Tu Bồ Đề! Bồ Tát không trụ vào hình tướng mà bố thí, thì phúc đức
đó cũng nhiều như thế, không thể suy lường được—Also, Subhuti!
Bodhisattvas who give without attachment have equal amounts of merit and
virtue. It is incomprehensible and immeasurable.
·
Ông
Tu Bồ Đề! Nếu tâm của Bồ Tát còn trụ vào pháp sự tướng mà làm hạnh bố
thí, thì cũng ví như người ở chỗ tối tăm, không thể trông thấy gì hết, còn
nếu Bồ Tát làm hạnh bố thí mà tâm không trụ trược vào sự tướng, thì như
người có con mắt sáng, lại được ánh sáng của mặt trời, trông thấy rõ cả
hình sắc sự vật—Subhuti! If Bodhisattvas give with attchments, they are
walking in darkness and see nothing. If Bodhisattvas give witohout
attachments, they are walking under the sunand everything is clear.
Bố Tự Quán: Phép
quán các mẫu tự Phạn của tông phái Chân Ngôn, bằng cách viết chữ “a” hoặc
các chữ khác lên thân thể hành giả—A Shingon meditation on the Sanskrit
letter “a” and others, wrtten on the devotee’s own body.
Bố Úy Thí: Bố thí
bằng cách giúp người trút bỏ nỗi lo âu sợ hãi—Almsgiving to remove one’s
fear.
Bồ: Cỏ bồ—A kind of
fragant grass.
Bồ câu:
Pigeon—Dove.
Bồ Câu Đi Thơ:
Carrier-pigeon.
Bồ Câu Mái:
Hen-pigeon.
Bồ Câu Trống:
Cock-pigeon.
Bồ Công Anh:
Dandelion.
Bồ Đào: Wine.
Bồ Đào Nha:
Portugal.
Bồ Đề: Bodhi
(skt)—Awakening—Enlightenment.
(A) Nghĩa
của Bồ Đề—The meanings of Bodhi:
1) Đạo
(dịch theo cũ): Marga (skt)—The way.
2) Giác
(dịch theo mới): Sambodhi (skt)—To be aware, or to perceive.
3) Toàn
trí: Perfect wisdom.
4) Tâm
giác ngộ: The state of bodhi, illuminated or enlightened mind.
5) Theo
Kinh Hoa Nghiêm, Bồ đề thuộc về chúng sanh; nếu không có chúng sanh thì
chư Bồ tát sẽ không bao giờ đạt được chánh đẳng chánh giác: According to
the Avatamsaka Sutra, Bodhi (enlightenment) belongs to living beings.
Without living beings, no Bodhisattva could achieve Supreme, Perfect
Enlightenment.
(B) Phân
loại Bồ Đề—Categories of Bodhi:
1) Tam Bồ
Đề: Three kinds of Bodhi—See Tam Chủng Bồ Đề.
2) Ngũ
Chủng Bồ Đề: Five stages of enlightenment—See Ngũ Bồ Đề.
3) Tam
Phật Bồ Đề: Three Bodhi or wisdom of each of the Trikaya—See Tam Phật Bồ
Đề.
4) Tam
Thần Bồ Đề: See Tam Phật Bồ Đề.
Bồ Đề Đa La:
Bodhitara (skt)—See Bồ Đề Đạt Ma.
Bồ Đề Đạo: See Xuất
Thế Gian Đạo.
Bồ Đề Đạo Tràng:Bodhimanda
(skt)—Bồ đề đạo tràng, gần bên bờ Ni Liên Thiền thuộc bang Bihar trung Ấn,
còn gọi là Giác Thành vì đây là nơi Đức Phật đã đạt thành chánh quả. Bồ đề
đạo tràng tọa lạc gần thành phố Gaya. Người ta nói nó là trung tâm địa
cầu; chư Bồ Tát trước khi thành Phật đều phải ngồi tại chỗ nầy. Riêng đối
với Phật tử thuần thành, thì không có nơi nào đáng chú ý và thiêng liêng
hơn nơi Đức Phật thành đạo: Bồ Đề Đạo Tràng. Nhiều lăng tẩm và đền đài
nguy nga đã được dựng lên khắp nơi quanh đây. Tập ký sự của nhà hành hương
Phật Giáo trung Hoa là Huyền Trang đã cho chúng ta một cái nhìn bao quát
về sự huy hoàng của thánh địa nầy trong thời quá khứ. Theo Giáo Sư P.V.
Bapat trong Hai Ngàn Năm Trăm Năm Phật Giáo, Huyền Trang cho rằng ngôi đền
Bồ Đề (Bodhi) ban đầu là do vua A Dục dựng lên. Theo một trong những bia
ký, sau khi lên ngôi được mười năm, vua A Dục đã đến chiêm bái nơi nầy mà
tên gọi trong bia là Sambodhi, và rất có nhiều khả năng là nhà vua đã cho
dựng lên ngôi đền trên thánh địa nầy. Tuy nhiên, ngày nay không thể tìm ra
một dấu tích nào của ngôi đền nầy nữa. Ngôi đền nầy đã được hồi phục và
tân tạo nhiều lần. Qua sự mô tả của Huyền Trang thì ngôi đền, chủ yếu là
qua hình dạng và dáng vẻ bề ngoài hiện nay của nó, đã có từ thế kỷ thứ 17.
Đền Đại Bồ Đề ở Miến Điện là một nguyên mẫu của ngôi đền lớn nầy. Theo như
chúng ta thấy hiện nay thì đền Mahabodhi ở Bodh-Gaya cao gần 50 mét và gồm
một thân thẳng hình kim tự tháp. Đền có nhiều tầng khác nhau. Đền có một
tượng Phật mạ vàng, chạm vào mặt đất để tượng trưng cho sự thành đạo
thiêng liêng. Xung quanh ngôi đền nầy hiện nay còn vô số di tích mà trong
đó quan trọng nhất là những đoạn lan can bằng đá đại diện cho hai thời kỳ
xây dựng khác nhau, thời kỳ đầu vào khoảng thế kỷ thứ hai trước Tây lịch,
và thời kỳ sau vào đầu triều đại Gupta. Trong vùng kế cận có bảy thánh địa
khác mà theo truyền thuyết là những nơi Đức Thế Tôn đã trải qua bốn mươi
chín ngày tĩnh tịch sau khi chứng đắc Phật quả—Bodhi Gaya—Buddha-Gaya—A
place near the bank of Nairanjana River in Central India (Bihar), also
called the Citadel of Enlightenment because it was where the Buddha
attained enlightenment or supreme wisdom (bodhi). Bodhi-Gaya is located
near the town of Gaya. It is said to be diamond-like, the navel or centre
of the earth; every bodhisattva sits down on such a seat before becoming
Buddha. To the devout Buddhists, there is no place of greater interest or
sanctity than the holy spot of the Buddha’s enlightenment: Bodh-Gaya.
Sacred shrines and stately monuments were raised all around and the
account of the Chinese pilgrim, Hsuan-Tsang, gives us a glimpse of the
past splendor of this sanctified place. According to Prof. P.V. Bapat in
The Twenty-Five Hundred Years of Buddhism, Hsuan-Tsang ascribes the
erection of the original Bodhi shrine to Emperor Asoka. According to one
of his rock edits, Asoka visited this place, which is called Sambodhi in
the inscription, when he had been consecrated ten years, and it is more
than probable that the great emperor constructed a shrine on this holy
spot. However, no vestiges os such a shrine can be found at present. This
shrine has been restored and renovated many times. From the description of
Hsuan-Tsang, it appears that the shrine, essentially in its present shape
and appearance, existed already in the seventh century A.D. The Mahabodhi
temple in Burma is a prototype of this grand temple. As it now stands, the
Mahabodhi shrine at Bodh-Gaya is approximately 160 feet high and consists
of a straight pyramidal tower with many storeys. The shrine enshrines a
great gilded figure of the Buddha touching the earth which symbolizes the
supreme event of enlightenment. Around the shrine lie innumerable remains
of which the most important are portions of the stone railing which
represent two different periods of construction, the earlier going back to
about the second century B.C., and the latter to the early Gupta period.
In the immediate vicinity are situated seven sacred sites, which,
according to tradition, were identical with those where the Buddha is said
to have passed seven tranquil weeks in the enjoyment of his Buddhahood.
Bồ Đề Đạt Ma:
Bodhidharma (skt)—Bồ Đề Đa La—Bồ Đề Đạt Ma vốn là thái tử thứ ba của vua
Kancipura Nam Ấn. Ông là một Tăng sĩ học giả uyên thâm người Ấn, thần huệ
sáng thông, nghe đâu ngộ đó. Ngài vâng lời Thầy là Bát Nhã Đa La
(Prajnatara) đến triều đình Trung quốc vào khoảng năm 520 sau Tây lịch,
với mục đích phổ biến hệ thống triết học của ông—Bodhidharma was the third
son of the King of Kancipura, South India. He was a deeply learned Indian
Buddhist monk at that time. He was a man of wonderful intelligence, bright
and far reaching; he thoroughly understood everything that he ever
learned. He obeyed the instruction of his teacher, Prajnatara, Bodhidharma
started for the East in China in 520 A.D., with the special purpose of
propagating his system of philosophy.
·
Vua Lương Võ Đế vời Tổ đến Nam Kinh để triều kiến. Vua hỏi:
“Từ khi tức vị đến nay, trẫm đã cho tạo chùa, sao chép kinh điển và độ
Tăng rất nhiều. Công đức như vậy lớn như thế nào?” “Không có công đức gì
cả,” là câu trả lời. Tổ lại nói tiếp: “Tất cả những công việc ấy chỉ là
những quả báo nhỏ của một cái thân hữu lậu, như bóng theo hình, tuy có mà
không phải thật.” Võ Đế hỏi: “Vậy đúng nghĩa thế nào là công đức?” Bồ Đề
Đạt Ma đáp: “Đó là sự thanh tịnh, giác ngộ, sự hoàn mãn, và thâm thúy.
Công đức như thế không xây dựng bằng phương tiện thế gian.” Võ Đế lại hỏi:
“Thế nào là Thánh Đế đệ nhất nghĩa? “Tổ trả lời: “Rỗng tuếch, không có
Thánh Đế gì hết.” Vua lại hỏi tiếp: “Vậy ai đang diện kiến trẫm đây?” Tổ
nói: “Không biết.” Võ Đế không hiểu Tổ muốn nói gì. Sau cuộc nói chuyện
nổi tiếng với vua Hán Vũ Đế, Tổ đã vượt dòng Dương Tử và đến Lạc Dương,
kinh đô của Bắc Ngụy. Sau một thời gian ở đây, Tổ đến Ngũ Đài Sơn và trú
tại Thiếu Lâm Tự, nơi đây ngài diện bích (ngồi xoay mặt vào tường) trong 9
năm trường—The Emperor Wu-Ti invited him to Nanking for an audience. The
Emperor said: “Since my enthronement, I have built many monasteries,
copied many holy writings and invested many priests and nuns. How great
is the merit due to me?” “No merit at all,” was the answer. Bodhidharma
added: “All these things are merely insignificant effects of an imperfect
cause. It is the shadow following the substance and is without real
entity.” The emperor asked: “Then , what is merit in the true sense of the
word?” Bodhidharma replied: “It consists in purity and enlightenment,
completeness and depth. Merit as such cannot be accumulated by worldly
means.” The emperor asked again: “What is the Noble Truth in its highest
sense?” Bodhidharma replied: “It is empty, no nobility whatever.” The
emperor asked: “Who is it then that facing me?” Bodhidharma replied: “I do
not know, Sire.” The Emperor could not understand him. Bodhidharma was
famous for his interview with Emperor Han Wu Ti. But after that,
Bodhidharma went away. He crossed the Yangtze River and reached the
capital, Lo-Yang, of Northern Wei. After a sojourn there he went to Mount
Wu-T’ai-Shan and resided in the Shao-Lin Temple where he meditated (facing
the wall) for nine years in silence and departed.
·
Qua cuộc đối thoại với Võ Đế, ta thấy rõ rằng cốt lõi chủ
thuyết của Tổ Bồ Đề Đạt Ma là triết lý “Không Tánh” (sunyata), mà cái
không thì không thể nào chứng minh được. Do đó, Bồ Đề Đạt Ma cũng đã đối
đáp dưới hình thức phủ định. Khi nói về ảnh hưởng của đạo Phật trên đời
sống và nền văn hóa của người Trung Hoa, chúng ta không thể không nói đến
khuynh hướng bí hiểm nầy của triết lý Bồ Đề Đạt Ma, vì rõ ràng là khuynh
hướng nầy đã tác động nhiều trên sự hình thành tinh thần Phật giáo Trung
Hoa, và từ đó xuất hiện Phật giáo Thiền tông—As is clear from the dialogue
between the emperor and Bodhidharma, the essential core of Bodhidharma’s
doctrine is the philosophy of emptiness (sunyata), and sunyata is beyond
demonstration of any kind. Therefore, Bodhidharma also replied in the
negative form. When we speak of the Buddhistinfluence on the life and
literature of the Chinese people, we should keep this mystic trend of
Bodhidharma’s philosophy in mind, for there is no doubt that it has had a
great deal to do with the moulding of the spirit of Chinese Zen
Buddhism.
·
Theo các sử gia thì Bồ Đề Đạt Ma bác bỏ việc đọc tụng kinh
điển. Do đó hệ thống triết học của ông khiến cho các tu viện ít chú trọng
về kiến thức mà thiên về trầm tư thiền định nhiều hơn. Theo Bồ Đề Đạt Ma,
Phật tử nên để ý đến thiền, vì chỉ cần hành thiền là có thể đạt đến giác
ngộ. Do đó ông chỉ dịch có mỗi quyển Đại Bát Niết Bàn Kinh Luận
(Mahaparinirvana-sutra-sastra). Ông là vị tổ thứ 28 của dòng Thiền Ấn Độ
và là sơ tổ của dòng Thiền Trung Quốc. Các học giả vẫn còn không đồng ý
với nhau về việc Bồ Đề Đạt Ma đến Trung Hoa từ lúc nào, ở lại đó bao lâu,
và mất vào lúc nào, nhưng nói chung giới Phật tử nhà Thiền chấp nhận rằng
Bồ Đề Đạt Ma đến Nam Trung Hoa bằng thuyền vào khoảng năm 520 sau Tây
Lịch, sau một nổ lực không kết quả để thiết lập giáo thuyết của mình tại
đây, ông đã đến Lạc Dương thuộc miền bắc Trung Hoa, và cuối cùng ông định
cư tại chùa Thiếu Lâm. Ngài đã mang sang Trung Quốc một thông điệp thù
thắng, được tóm gọn trong mười sáu chữ Hán sau đây, dù rằng người ta chỉ
nhắc đến thông điệp nầy về sau thời Mã Tổ—According to historians,
Bodhidharma denied canon reading, and his system therefore made the
Buddhist monasteries much less intellectual and much more meditative than
they were ever before. According to Bodhidharma, Buddhists should stress
on meditation, because by which alone enlightenment can be attained.
Bodhidharma was the 28th Indian (in line from the Buddha) and first Zen
Patriarch in China. Scholars still disagree as to when Bodhidharma came to
China from India, how long he stayed there, and when he died, but it is
generally accepted by Zen Buddhists that he came by boat from India to
southern China about the year 520 A.D., and after a short, fruitless
attempt to establish his teaching there he went to Lo-Yang in northern
China and finally settled in Shao-Lin Temple. Bodhidharma came to Chine
with a special message which is summed in sixteen Chinese words, even
though Zen masters only mentioned about this message after Ma-Tsu:
Bất
lập văn tự
Giáo
ngoại biệt truyền
Trực chỉ
nhân tâm
Kiến tánh
thành Phật.
“A special
tranmission outside the
scriptures;
No
dependence upon words and letters
Direct pointing at the soul of man;
Seeing into one’s nature and the
attainment og Buddhahood.”
·
Tổ Bồ Đề Đạt Ma và môn đệ của ông, Huệ Khả, người mà tổ đã
truyền pháp, luôn là đề tài của công án Thiền Vô Môn cũng như bức tranh
nổi tiếng của Sesshu, một họa sĩ lừng danh của Nhật Bản. Huệ Khả, một học
giả nổi tiếng thời bấy giờ, tìm đến Bồ Đề Đạt Ma lúc ông đang tọa thiền,
phàn nàn với ông rằng mình không an tâm và làm thế nào để tâm được an. Bồ
Đề Đạt Ma đuổi Huệ Khả đi, bảo rằng muốn đạt được an tâm phải tu lâu và
khó nhọc không tự phụ và nản lòng. Sau khi đứng hàng giờ dưới tuyết, Huệ
Khả bèn chặt đứt bàn tay trái của mình để dâng lên Bồ Đề Đạt Ma. Bấy giờ
tin chắc vào lòng chân thành và quyết tâm của Huệ Khả, Bồ Đề Đạt Ma nhận
Huệ Khả làm môn đệ—Bodhidharma and Hui-K’e, his disciple to whom he had
transmitted the Dharma, are always the subject of koan in the “No Gate
Zen” as well as of a famous painting by Sesshu, Japan’s greatest painter.
Hui-K’e, a scholar of some repute, complains to Bodhidharma, who is
silently doing meditation, that he has no peace of mind and asks how he
can acquire it. Bodhidhrma turns him away, saying that the attainment of
inward peace involves long and hard disciple and is not for the conceited
and fainthearted. Hui-K’e, who has been standing outside in the snow for
hours, implores Bodhidharma to help him. Again he is rebuffed. In
desperation he cuts off his left hand and offers it to Bodhidharma. Now
convinced of his sincerity and determination, Bodhidharma accepts him as a
disciple.
·
Câu chuyện trên đây nhấn mạnh đến tầm quan trọng mà các
thiền sư buộc vào kẻ khao khát sự an tâm vào việc tọa thiền, vào lòng chân
thành và khiêm tốn, sự kiên nhẫn và nghị lực như là những tiên đề trong sự
đạt thành đạo vô thượng. Vì thương kẻ tinh thành nên Tổ bèn chỉ cho chân
đạo: “Bích quán là phép an tâm (see Bích Quán) , tứ hạnh là phép phát hạnh
(see Tứ Hạnh), phòng ngừa sự chê hiềm là phép thuận vật, và đừng chấp
trước là phương tiện tu hành cũng như cứu độ chúng sanh.”—This story
emphasizes the importance which Zen masters attach to the hunger for
self-realization, to meditation, and to sincerity and humility,
perserverance and fortitude as prerequisites to the attainment of the
highest truth. He was moved by the spirit of sincerity of Hui-K’o, so he
instructed him: “Meditating facing the wall is the way to obtain peace of
mind, the four acts are the ways to behave in the world, the protection
from slander and ill-disposition is the way to live harmoniously with the
surroundings, and detachment is the upaya to cultivate and to save
sentient beings.”
·
Khi ở chùa Thiếu Lâm, Tổ thường dạy nhị tổ bằng bài kệ
sau—When he lived at Shao-Lin temple, he always taught the second
patriarch with this verse:
Ngoài dứt chư duyên
Trong không toan tính
Tâm
như tường vách
Mới
là nhập đạo
(Externally keep you away from all relationships, and, internaly, have no
hankerings in your heart; when your mind is like unto a straight-standing
wall you may enter into the Path).
·
Sau chín năm ở Thiếu Lâm, Tổ muốn trở về Thiên Trúc, bèn
gọi môn nhân đến bảo: “Ngày ta lên đường sắp đến, các ngươi thử trình xem
chỗ sở đắc của mỗi người về Đạo Thiền.” Bấy giờ ông Đạo Phó bạch: “Theo
chỗ thấy của tôi, chẳng chấp văn tự, chẳng lìa văn tự, đó là chỗ sở dụng
của đạo.” Tổ nói: “Ông được phần da của ta.” Ni Tổng Trì bạch: “Chỗ hiểu
của tôi nay như Khánh Hỷ (A Nan) nhìn vào nước Phật A Súc (Bất Động Như
Lai), thấy một lần không thấy lại được.” Tổ nói: “Bà được phần thịt của
tôi.” Đạo Dục bạch: “Bố đại vốn không, năm ấm chẳng thật, chỗ thấy của tôi
là không có gì sở đắc hết.” Tổ nói: “Ông được phần xương của tôi.” Sau
cùng, Huệ Khả đến đảnh lễ Tổ, xong cứ thế mà đứng thẳng, chứ không nói gì.
Tổ nói: “Ông được phần tủy của tôi.” Những ngày cuối cùng của Tổ Bồ Đề Đạt
Ma ở Trung Quốc không ai biết rõ, sư đi đâu và thị tịch hồi nào. Có người
nói sư băng qua sa mạc trở về Ấn Độ, cũng có người nói sư qua Nhật—After
nine years at Shao-Lin temple, the Patriarch wished to return to India. He
called in all his disciples before him, and said: “The time is come for me
to depart, and I want to see what your attainments are.” Tao-Fu said:
“According to my view, the truth is above affirmation and negation, for
this is the way it moved.” The Patriarch said: “You have got my skin.”
Then Nun Tsung-Ch’ih said: “As I understand it, it is like Ananda’s
viewing the Buddhaland of Akshobhya Buddha: it is seen once and never
again.” The Patriarch said: “You have got my flesh.” Tao-Yu said: “Empty
are the four elements and non-existent the five skandhas. According to my
view, there is not a thing to be grasped as real.” The Patriarch said:
“You have got my bone.” Finally, Hui-K’o reverently bowed to the master,
then kept standing in his place and said nothing. The Patriarch said: “You
have my marrow.” Nobody knows his whereabout and when he passed away. Some
people say that he crossed the desert and went to India, and others say
that he crossed the sea to go to Japan.
Bồ Đề Lưu Chi:
Bodhiruci (skt).
(I) Bồ Đề
Lưu Chi thứ nhất—The first Bodhiruci: Bồ Đề Cốt Lộ Chi—Đạo Hy—Một vị sư
người Bắc Ấn Độ, đến Lạc Dương khoảng năm 508 sau Tây Lịch, dưới thời nhà
Ngụy. Ông đã phiên dịch 30 bộ kinh. Theo lịch sử Phật Giáo Trung Quốc, thì
vị Bồ Đề Lưu Chi nầy đã lập ra Thập Địa Tông (Dasabhumika school)—A monk
from northern India who arrived at Lo-Yang in 508 A.D., under the Wei
dynasty. He translated 30 works.
(II) Bồ Đề
Lưu Chi thứ hai—The second Bodhiruci: Giác Ái (571-727)—Một vị Tăng thuộc
miền Nam Ấn vào thế kỷ thứ bảy. Vào thời gian đầu triều đại nhà Đường,
nhiều tu sĩ Phật giáo nổi danh từ Tích Lan và Ấn Độ đến Trung Hoa. Bồ Đề
Lưu Chi thuộc số tu sĩ Phật giáo ngoại quốc đến ở lâu dài tại Trung Hoa.
Tên Ngài là Đạt Ma Lưu Chi (Dharmaruci), được Vũ Hậu cho đổi thành Bồ Đề
Lưu Chí. Ông đã dịch 53 bộ kinh vào những năm 693-713 sau Tây Lịch—A monk
from Southern India in the seventh century. During the days of the early
T’ang dynasty, many renowned Buddhist monks came to China from Ceylon and
India. Bodhiruci was among those foreign Buddhists who came to settle
permanently in China. His original name was Dharmaruci. His name was
changed to Bodhiruci by the order of the Empress Wu. He translated 53
works in 693-713 A.D. He passed away in 727, at the age of 156.
Bồ Đề Mạn Đà La:
Bodhi Seat—Bồ Đề Đạo Tràng, nơi Đức Phật đã đạt được đại giác—Truth Plot,
holy site, place of Enlightenment—The place where the Buddha attained
Enlightenment.
Bồ Đề Môn: Cửa giác
ngộ; cửa đông trong bốn cửa của nghĩa địa—The gate of enlightenment; east
gate of the four gates of a cemetery.
Bồ Đề Ngữ: Speaking
bodhi—Words of the truth.
Bồ Đề Ni: Bhojaniya
(skt)—Còn gọi là Bồ Thiện Ni, là những thức ăn chính của Tăng Ni—To be
eaten, edible; what is suitable as the fare of monks and nuns, proper
food.
Bồ Đề Phần:
Bodhyanga (skt)—The seven branches of bodhi-illumination—See Thất Giác
Chi.
Bồ Đề Phần Pháp:
See Thất Giác Chi.
Bồ Đề Sở: See Bồ Đề
Tự.
Bồ Đề Tát Đỏa: See
Bồ Tát.
Bồ Đề Tâm:
Bodhicitta (skt).
(A) Nghĩa của
Bồ Đề Tâm—The meanings of Bodhi-mind:
1) Theo
Kinh Hoa Nghiêm, Đức Phật đã dạy: “Nầy thiện nam tử! Bậc Bồ Tát phát lòng
Vô Thượng Bồ Đề là ‘khởi lòng đại bi cứu độ tất cả chúng sanh. Khởi lòng
cúng dường chư Phật, cứu cánh thừa sự. Khởi lòng khắp cầu chánh pháp, tất
cả không sẻn tiếc. Khởi lòng thú hướng rộng lớn, cầu nhứt thiết trí. Khởi
lòng đại bi vô lượng, khắp nhiếp tất cả chúng sanh. Khởi lòng không bỏ rơi
các loài hữu tình, mặc áo giáp kiên thệ để cầu Bát Nhã Ba La Mật. Khởi
lòng không siểm dối, vì cầu được trí như thật. Kởi lòng thực hành y như
lời nói, để tu đạo Bồ Tát. Khởi lòng không dối với chư Phật, vì gìn giữ
thệ nguyện lớn của tất cả Như Lai. Khởi lòng nguyện cầu nhứt thiết trí,
cùng tận kiếp vị lai giáo hóa chúng sanh không dừng nghỉ. Bồ Tát dùng
những công đức Bồ Đề Tâm nhiều như số bụi nhỏ của cõi Phật như thế, nên
được sanh vào nhà Như Lai. Nầy thiện nam tử! Như người học bắn, trước phải
tập thế đứng, sau mới học đến cách bắn. Cũng thế, Bồ Tát muốn học đạo nhứt
thiết trí của Như Lai, trước phải an trụ nơi Bồ Đề Tâm, rồi sau mới tu
hành tất cả Phật pháp. Thiện nam tử! Ví như vương tử tuy hãy còn thơ ấu,
song tất cả đại thần đều phải kính lễ. Cũng thế, Bồ Tát tuy mới phát Bồ Đề
tâm tu Bồ Tát hạnh, song tất cả bậc kỳ cựu hàng nhị thừa đều phải kính
trọng nể vì. Thiện nam tử! Như thái tử tuy đối với quần thần chưa được tự
tại, song đã đủ tướng trạng của vua, các bầy tôi không thể sánh bằng, bởi
nhờ chỗ xuất sanh tôn quý. Cũng thế Bồ Tát tuy đối với tất cả nghiệp phiền
não chưa được tự tại, song đã đầy đủ tướng trạng Bồ Đề, hàng nhị thừa
không thể sánh bằng, bởi nhờ chủng tánh đứng vào bậc nhứt. Thiện Nam Tử !
Như người máy bằng gỗ, nếu không có mấu chốt thì các thân phần rời rạc
chẳng thể hoạt động. Cũng thế, Bồ Tát nếu thiếu Bồ Đề tâm, thì các hạnh
đều phân tán, không thể thành tựu tất cả Phật pháp. Thiện nam tử ! Như
chất kim cương tất cả vật không thể phá hoại, trái lại nó có thể phá hoại
tất cả vật, song thể tánh của nó vẫn không tổn giảm. Bồ Đề tâm của Bồ Tát
cũng thế, khắp ba đời trong vô số kiếp, giáo hóa chúng sanh, tu các khổ
hạnh, việc mà hàng nhị thừa không thể muốn làm đều làm được, song kết cuộc
vẫn chẳng chán mõi giảm hư.”—According to the Avatamsaka Sutra, the Buddha
taught: “Good Buddhists! In Bodhisattvas arise the Bodhi-mind, the mind of
great compassion, for the salvation of all beings; the mind of great
kindness, for the unity with all beings; the mind of happiness, to stop
the mass misery of all beings; the altruistic mind, to repulse all that is
not good; the mind of mercy, to protect from all fears; the unobstructed
mind, to get rid of all obstacles; the broad mind, to pervade all
universes; the infinite mind, to pervade all spaces; the undefiled mind,
to manifest the vision of all Buddhas; the purified mind, to penetrate all
knowledge of past, present and future; the mind of knowledge, to remove
all obstructive knowledge and enter the ocean of all-knowing knowledge.
Just as someone in water is in no danger from fire, the Bodhisattva who is
soaked in the virtue of the aspiration for enlightenment or Bodhi mind, is
in no danger from the fire of knowledge of individual liberation. Just as
a diamond, even if cracked, relieves poverty, in the same way the diamond
of the Bodhi mind, even if split, relieves the poverty of the mundane
whirl. Just as a person who takes the elexir of life lives for a long time
and does not grow weak, the Bodhisattva who uses the elexir of the Bodhi
mind goes around the mundane whirl for countless eons without becoming
exhausted and without being stained by the ills of the mundane whirl.
2) Tâm Bồ
Đề là tâm giác ngộ, tâm thấy được bản mặt thật của chư pháp, tâm tin nơi
nhân quả và Phật tánh nơi chúng sanh cũng như luôn dụng công tu hành hướng
về quả vị Phật: Bodhi mind—The great mind—The mind for or of Bodhi—The
Mind of Enlightenment—The awakened or enlightened mind—The mind that
perceives the real behind the seeming, believes in moral consequences, and
that all have the Buddha-nature, and aims at Buddhahood.
3) Bồ Đề
Tâm liên hệ tới hai chiều hướng—The spirit of enlightenment, the
aspiration to achieve it, the mind set on Enlightenment. It involves two
parallel aspects:
·
Thượng cầu Phật Đạo: The determination to achieve
Buddhahood—Above is to seek Bodhi.
·
Hạ hóa chúng sanh: The aspiration to rescue all sentient
beings—Below is to save or transform all beings.
4) Kinh
Đại Tỳ Lô Giá Na nói: “Bồ Đề Tâm làm nhân, đại bi làm căn bản, phương tiện
làm cứu cánh.” Ví như người đi xa, trước tiên phải nhận định mục tiêu sẽ
đến, phải ý thức chủ đích cuộc hành trình bởi lý do nào, và sau dùng
phương tiện hoặc xe, thuyền, hay phi cơ mà khởi tiến. Người tu cũng thế,
trước tiên phải lấy quả vô thượng Bồ Đề làm mục tiêu cứu cánh; lấy lòng
đại bi lợi mình lợi sanh làm chủ đích thực hành; và kế đó tùy sở thích căn
cơ mà lựa chọn các pháp môn hoặc Thiền, hoặc Tịnh, hoặc Mật làm phương
tiện tu tập. Phương tiện với nghĩa rộng hơn, còn là trí huệ quyền biến tùy
cơ nghi, áp dụng tất cả hạnh thuận nghịch trong khi hành Bồ Tát đạo. Cho
nên Bồ Đề Tâm là mục tiêu cần phải nhận định của hành giả, trước khi khởi
công hạnh huân tu—The Mahavairocana Sutra says:
“The
Bodhi Mind is the cause
Great
Compassion is the root
Skillful means are the ultimate.”
For
example, if a person is to travel far, he should first determine the goal
of the trip, then understand its purpose, and lastly, choose such
expedient means of locomotion as automobiles, ships, or planes to set out
on his journey. It is the same for the cultivator. He should first take
Supreme Enlightenment as his ultimate goal, and the compassionate mind
which benefits himself and others as the purpose of his cultivation, and
then, depending on his references and capacities, choose a method, Zen,
Pure Land or Esoterism, as an expendient for practice. Expedients, or
skillful means, refer, in a broader sense, to flexible wisdom adapted to
circumstances, the application of all actions and practices, whether
favorable or unfavorable, to the practice of the Bodhisattva Way. For this
reason, the Bodhi Mind is the goal that the cultivator should clearly
understand before he sets out to practice.
5) Kinh
Hoa Nghiêm nói: “Nếu quên mất Bồ Đề Tâm mà tu các pháp lành, đó là ma
nghiệp.” Lời nầy xét ra rất đúng. Ví như người cất bước khởi hành mà chẳng
biết mình sẽ đến đâu, và đi với mục đích gì, thì cuộc hành trình chỉ là
quanh quẩn, mỏi mệt và vô ích mà thôi. Người tu cũng thế, nếu dụng công
khổ nhọc mà quên sót mục tiêu cầu thành Phật để lợi mình lợi sanh, thì bao
nhiêu hạnh lành chỉ đem đến kết quả hưởng phước nhơn thiên, chung cuộc vẫn
bị chìm mê quanh quẩn trong nẻo luân hồi, chịu vô biên nỗi khổ, nghiệp ma
vẫn còn. Như vậy phát tâm Bồ Đề lợi mình lợi người là bước đi cấp thiết
của người tu—The Avatamsaka Sutra says: “To neglect the Bodhi Mind when
practicing good deeds is the action of demons.” This teaching is very true
indeed. For example, if someone begins walking without knowing the
destination or goal of his journey, isn’t his trip bound to be circuitous
, tiring and useless? It is the same for the cultivator. If he expends a
great deal of effort but forgets the goal of attaining Buddhahood to
benefit himself and others, all his efforts will merely bring merits in
the human and celestial realms. In the end he will still be deluded and
revolved in the cycle of Birth and Death, undergoing immense suffering. If
this is not the action of demons, what, then, is it? For this reason,
developing the Supreme Bodhi Mind to benefit oneself and others should be
recognized as a crucial step.
(B) Đặc tánh
của Bồ Đề Tâm—Special characteristics of Bodhicitta: Theo Thiền Sư Suzuki
trong Đại Thừa Phật Giáo Khái Luận, Bồ Đề tâm là đặc tánh quan trọng nhất
của Bồ Tát, nên thuyết giảng về siêu việt tánh của Bồ Đề Tâm trong Triết
Học Trung Quán của Ngài Long Thọ có nhấn mạnh về các đặc tánh của Bồ Đề
Tâm như sau—According to Zen Master Suzuki in the Outlines of Mahayana
Buddhism, Bodhicitta is the most important characteristic of Bodhisattva,
thus on the basis of Nagarjuna’s Discourse on the Transcendentality of the
Bodhicitta, he gives a detailed description of Bodhicitta as thus:
1) Bồ Đề
Tâm siêu việt tất cả mọi hạn định của ngũ uẩn, thập nhị xứ, thập bát giới.
Nó không phải cá biệt mà là phổ quát: The Bodhicitta is free from all
determinations, the five skandhas, the twelve ayatanas, and the eighteen
dhatus. It is not particular, but universal.
2) Từ bi
chính là bản chất của Bồ Đề Tâm, vì thế tất cả Bồ Tát coi Bồ Đề tâm là lý
do tồn tại của họ: Love is the esence of the Bodhicitta, therefore, all
Bodhisattvas find their reason of being in this.
3) Bồ đề
tâm cư ngụ trong trái tim của bình đẳng tánh, tạo nên những phương tiện
giải thoát cho cá nhân: The Bodhicita abides in the heart of sameness
(samata) creates individual means of salvation (upaya).
(C) Phân loại
Bồ Đề—Categories of Bodhi-Mind:
1) See
Nhị Chủng Bồ Đề.
2) Tam
Chủng Bồ Đề: Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong Niệm Phật Thập Yếu, đem
công đức niệm Phật để cầu phước lợi nhỏ nhen ở thế gian, tất không hợp với
bản hoài của Phật, cho nên hành giả phải vì sự thoát ly khỏi vòng sống
chết luân hồi mà niệm Phật. Nhưng nếu vì giải thoát cho riêng mình mà tu
niệm, cũng chỉ hợp với bản hoài của Phật một phần ít mà thôi. Vậy bản hoài
của Phật như thế nào? Bản hoài đích thực của Đức Thế Tôn là muốn cho tất
cả chúng sanh đều thoát vòng sanh tử, đều được giác ngộ như Ngài. Cho nên
người niệm Phật cần phải phát Bồ Đề tâm. Bồ Đề nghĩa là “Giác.” Trong ấy
có ba bậc—Three kinds of Bodhi-minds—According to Most Venerable Thích
Thiền Tâm in The Pure Land Buddhism in Theory and Practice, exchanging the
virtues of Buddha Recitation for the petty merits and blessings of this
world is certainly not consonant with the intentions of the Buddhas.
Therefore, practitioners should recite the name of Amitabha Buddha for the
purpose of escaping the cycle of Birth and Death. However, if we were to
practice Buddha Recitation for the sake of oue own salvation alone, we
would only fulfill a small part of the Buddhas’ intentions. What, then, is
the ultimate intention of the Buddhas? The ultimate intention of the
Buddhas is for all sentient beings to escape the cycle of Birth and Death
and to become enlightened, as they are. Thus, those who recite Amitabha
Buddha’s name should develop the Bodhi-Mind or the Aspiration for Supreme
Enlightenment. The word “Bodhi” means “enlightened.” There are three main
stages of Enlightenment.
a) Thanh
Văn Bồ Đề: The Enlightenment of the Sravakas or Hearers.
b) Duyên
Giác Bồ Đề: The Enlightenment of the Pratyeka Buddhas or the
Self-Awakened.
c) Phật
Bồ Đề: Người niệm Phật phát tâm Bồ Đề, chính là phát tâm cầu quả giác ngộ
của Phật; quả vị ấy cùng tột không chi hơn, siêu cả hàng Thanh Văn Duyên
Giác, nên gọi là Vô Thượng Bồ Đề. Tâm nầy gồm hai chủng tử chính, là từ bi
và trí huệ, hay phát xuất công năng độ thoát mình và tất cả chúng sanh—The
Enlightenment of the Buddhas. What Pure Land practitioners who develop the
Bodhi Mind are seeking is precisely the Enlightenment of the Buddhas. This
stage of Buddhahood is the highest, transcending those of the Sravakas and
Pratyeka Buddhas, and is therefore called Supreme Enlightenment or Supreme
Bodhi. This Supreme Bodhi Mind contains two principal seeds, compassion
and wisdom, from which emanates the great undertaking of rescuing oneself
and all other sentient beings.
** For more information,
please see Tam
Chủng Bồ Đề Tâm.
3) See
Lục Tâm.
4) See
Tám Cách Phát Bồ Đề Tâm.
(D) Làm cách
nào để phát Tâm Bồ Đề?—How to develop the Bodhi Mind?—Phát Bồ Đề Tâm như
trên đã nói, có thể tóm tắt trong Tứ Hoằng Thệ Nguyện:
“Chúng
sanh vô biên thệ nguyện độ
Phiền
não vô tận thệ nguyện đoạn
Pháp
môn vô lượng thệ nguyện học
Phật
đạo vô thượng thệ nguyện thành.”
Theo Hòa
Thượng Thích Thiền Tâm trong Niệm Phật Thập Yếu, không phải chỉ nói suông
“Tôi phát Bồ Đề Tâm” là đã phát tâm, hay mỗi ngày tuyên đọc Tứ Hoằng Thệ
Nguyện, gọi là đã phát Bồ Đề Tâm. Muốn phát Bồ Đề Tâm hành giả cần phải
quán sát để phát tâm một cách thiết thật, và hành động đúng theo tâm
nguyện ấy trong đời tu của mình. Có những người xuất gia, tại gia mỗi ngày
sau khi tụng kinh niệm Phật đều quỳ đọc bài hồi hướng: “Nguyện tiêu tam
chướng trừ phiền não…” Nhưng rồi trong hành động thì trái lại, nay tham
lam, mai hờn giận, mốt si mê biếng trễ, bữa kia nói xấu hay chê bai chỉ
trích người, đến bữa khác lại có chuyện tranh cãi gây gổ buồn ghét nhau.
Như thế tam chướng làm sao tiêu trừ được? Chúng ta phần nhiều chỉ tu theo
hình thức, chứ ít chú trọng đến chỗ khai tâm, thành thử lửa tam độc vẫn
cháy hừng hực, không hưởng được hương vị thanh lương giải thoát của Đức
Phật đã chỉ dạy. Cho nên ở đây lại cần đặt vấn đề “Làm thế nào để phát Bồ
Đề Tâm?” Muốn cho tâm Bồ Đề phát sanh một cách thiết thực, chúng ta nên
suy tư quán sát để phát tâm theo sáu yếu điểm như sau (see Lục
Tâm)—Awakening the Bodhi Mind, as indicated earlier, can be summarized in
the four Bodhisattva vows as follows:
“Sentient beings
are numberless,
I vow to save
them all;
Afflictions are
inexhaustible,
I vow to end
them all;
Dharma foors are
boundless,
I vow to master
them all;
Buddhahood is
unsurpassable,
I vow to attain
it.”
However,
according to Most Venerable Thích Thiền Tâm in the Pure Land Buddhism in
Theory and Practice, it is not enough simply to say “ I have developed the
Bodhis Mind,” or to recite the above verses every day. To really develop
the Bodhi Mind, the practitioner should, in his cultivation, meditate on
and act in accordance with the essence of the vows. There are cultivators,
clergy and lay people alike, who, each day, after reciting the sutras and
the Buddha’s name, kneel down to read the transference verses: “I wish to
rid myself of the three obstructions and sever afflictions…” However,
their actual behavior is different, today they are greedy, tomorrow they
become angry and bear grudges, the day after tomorrow it is delusion and
laziness, the day after that it is belittling, criticzing and slandering
others. The next day they are involved in arguments and disputes, leading
to sadness and resentment on both sides. Under these circumstances, how
can they rid themselves of the three obstructions and sever afflictions?
In general, most of us merely engage in external forms of cultivation,
while paying lip service to “opening the mind.” Thus, the fires of greed,
anger and delusion continue to flare up, preventing us from tasting the
pure and cool flavor of emancipation as taught by the Buddhas. Therefore,
we have to pose the question, “How can we awaken the Bodhi Mind?” In order
to develop a true Bodhi Mind, we should ponder and meditate on the
following six critical points—See Lục Tâm.
Bồ Đề Thọ:
Bodhidruma, Bodhitaru, or Bodhivrksa (skt)—Đạo Thọ—Giác Thọ.
1) Cây Bồ
đề hay cây trí tuệ, dưới gốc cây nầy Phật đã đạt được đại giác và thành
Phật tại Bồ Đề Đạo Tràng hơn 2.500 năm về trước: Bodhi-tree; the wisdom
tree, i.e. the tree under which Sakyamuni attained his enlightenment and
became Buddha at Bodha Gaya over 2,500 years ago.
2) Cây
Pippala mà Trong Pháp Hiển Truyện gọi sai là cây Bối Đa: The Pippala or
Asvattha, wrongly identified by Fa-Hsien as the palm-tree.
3) Trong
Tây Vực Ký của Huyền Trang đời nhà Đường, gọi là cây Tất Bát La cao đến
400 bộ, luôn bị chặt phá, mà vào thời đó vẫn còn cao đến bốn năm chục bộ:
In the Records of the Western Lands of Hsuan-Tsang, it is described as an
evergreen, to have been 400 feet high, been cut down several times, but in
the T’ang dynasty still to be 40 or 50 feet.
4) Một
nhánh của nó được vua A dục đưa sang Tích Lan trồng và hiện vẫn còn tươi
tốt đến bây giờ: A branch of it is said to have been sent by Asoka to
Ceylon, from which sprang the celebrated Bo-tree still flourishing
there.
Bồ Đề Tát Đỏa: Bồ
Tát, một chúng sanh giác ngộ, và nguyện chỉ đạt được đại giác một khi cứu
độ hết thảy chúng sanh—Bodhisattva—A being of enlightenment—One who has
Bodhi or perfect wisdom as his essence—One whose beings or essence is
bodhi whose wisdom is resulting from direct perception of Truth with the
compassion awakened thereby. Enlightened being who is on the path to
awakening, who vows to forego complete enlightenment until he or she helps
other beings attain enlightenment.
Bồ Đề Thọ Thần: Vị
Thần Nữ hộ trì cây Bồ Đề—The goddess-guardian of the Bo-tree.
Bồ Đề Tràng:
bodhimanda (skt)—Bồ Đề Đạo Tràng—Nơi Đức Phật thành đạo là Kim Cang Tọa
dưới cội Bồ Đề, bên bờ sông Ni Liên Thiền, nước Ma Kiệt Đà—A place, plot,
or site of enlightenment in Magadha, especially Sakyamuni’s under the
bodhi-tree.
** For more information,
please see Bồ Đề
Đạo Tràng.
Bồ Đề Tử: Dùng làm
chuỗi—Used for rosaries.
1) Hạt Bồ
Đề cứng, lấy từ một loại cỏ ở Hy Mã Lạp Sơn: Bodhi seeds or beads, the
hard seeds of a kind of Himalayan grass.
2) Hạt Bồ
Đề lấy từ cây Bồ Đề trên núi Thiên Thai: Seeds of a tree at T’ien-T’ai.
Bồ Đề Tự:
Bodhi-Vihara (skt)—Chùa Bồ Đề, một tên được đặt cho nhiều tự viện—Temple
of or for Enlightenment, a name used for many monasteries.
Bồ Đề Viên: Nghĩa
trang của tự viện—The bodhi garden—The temple cemetery.
Bồ Đoàn: Vật dụng
ngồi thiền hay quỳ lạy. Bồ đoàn là cái gối được độn đầy bằng vỏ cỏ bồ, hay
bông gòn, hình tròn (nên gọi là bồ đoàn)—A sitting mat, rush cushion, or
hassock. A mat usually filled with kapok and covered with dark blue
fabric, on which the practitioner sits when practicing meditation. It is
usually round.
Bồ Hòn: Soapberry,
which is very bitter.
Bồ Hóng: Soot.
Bồ Liễu: Tên của
hai loại cây có cọng mềm yếu, ý nói bản chất của sự mềm yếu của phụ
nữ—Names of two plants which have slender stalks—Nature of delicate
constitution of a woman or girl.
Bồ Nhìn: Puppet.
Bồ Tát: Bodhisattva
(skt).
(A) Nghĩa
của Bồ Tát—The meanings of Bodhisattva:
1) Theo
Đại Trí Độ Luận, chữ Bodhi có nghĩa là con đường hành đạo của chư Phật,
chữ sattva là bản chất của thiện pháp. Bồ Tát là vị có tâm cứu giúp tất cả
chúng sanh vượt qua dòng sông sanh diệt—According to the
Mahaprajnaparamita sastra, Bodhi means the way of all the Buddhas, and
Sattva means the essence and character of the good dharma. Bodhisattvas
are those who always have the mind to help every being to cross the stream
of birth and death.
2) Đại
Đạo Tâm Chúng Sanh (dịch theo cũ): All beings with mind for the truth.
3) Đại
Giác Hữu Tình (dịch theo mới). Bồ Tát là bậc tầm cầu sự giác ngộ tối
thượng, không phải chỉ cho chính mình mà cho tất cả chúng sanh: Conscious
beings of or for the great intelligence, or enlightenment. The Bodhisattva
seeks supreme enlightenment not for himself alone but for all sentient
beings.
4) Người
tu theo Đại Thừa, xuất gia hay tại gia, thượng cầu đại giác, hạ hóa chúng
sanh (tự giác, giác tha): A Mahayanist, whether monk or layman, above is
to seek Buddhahood, below is to save sentient beings (he seeks
enlightenment to enlighten others).
5) Chúng
sanh tu hành và xem lục độ Ba La Mật như là phương cách cứu độ và giác
ngộ. Mục đích của Bồ Tát là cứu độ chúng sanh. Bốn bản chất vô lượng của
Bồ Tát là Từ vô lượng, Bi vô lượng, Hỷ vô lượng và Xả vô lượng. Một người,
hoặc Tăng Ni, hay Phật tử tại gia đạt quả vị Niết bàn trong cương vị một
Thanh Văn, hay Duyên Giác, nhưng vì lòng đại bi thương xót chúng sanh, nên
không vào Niết bàn mà tiếp tục đi trong Ta Bà để cứu độ chúng sanh. Trong
lòng của Bồ Tát luôn có Bồ Đề Tâm và nguyện lực. Bồ Đề tâm bao gồm trí tuệ
siêu việt là lòng đại bi. Nguyện lực là sự quyết tâm kiên định để cứu
thoát tất cả chúng sanh—Bodhisattva—Who makes the six paramitas (lục độ)
their field of sacrificial saving work and of enlightenment. The objective
is salvation of all beings—Four infinite characteristics of a bodhisattva
are kindness (từ), pity (bi), joy (hỷ), self-sacrifice (xả)—A person,
either a monk, a nun, a layman or a laywoman, who is in a position to
attain Nirvana as a Sravaka or a Pratyekabuddha, but out of great
compassion for the world, he or she renounces it and goes on suffering in
samsara for the sake of others. He or she perfects himself or herself
during an incalculable period of time and finally realizes and becomes a
Samyaksambuddha, a fully enlightened Buddha. He or she discovers the Truth
and declares it to the world. His or her capacity for service to others is
unlimited. Bodhisattva has in him Bodhicitta and the inflexible resolve.
There are two aspects of Bodhicitta: Transcendental wisdom (Prajna) and
universal love (Karuna). The inflexible resolve means the resolve to save
all sentient beings—See Bodhisattva.
6) Theo
trường phái Đại Thừa, Bồ Tát từ chối nhập Niết Bàn cho đến khi nào thực
hiện xong lời nguyện là cứu độ hết thảy chúng sanh. Ngoài ra, Bồ tát còn
xem hết thảy chúng sanh như chính mình nên không nở ăn thịt—According to
the Mahayana schools, the bodhisattvas are beings who deny themselves
final Nirvana until, accomplishing their vows, they have first saved all
the living—An enlightened being who, deferring his own full Buddhahood,
dedicates himself to helping others attain liberation. Besides, the
Bodhisattva regards all beings as himself ought not to eat meat.
7) Bồ Tát
là một chúng sanh đã có sẵn bản chất hoặc tiềm năng của trí tuệ siêu việt
hoặc chánh giác tối thượng, là bậc đang đi trên con đường đạt tới trí tuệ
siêu việt. Bồ Tát là một chúng sanh có khả năng thành Phật. Với sự tự tại,
trí tuệ và từ bi, Bồ Tát biểu thị một thời kỳ cao của Phật quả, nhưng chưa
phải là một vị Phật toàn giác. Sự nghiệp tu hành của bậc Bồ Tát kéo dài
nhiều đời nhiều kiếp, mỗi đời Ngài đều thực hành lục độ và thập địa để cầu
đắc quả chánh giác tối hậu, đồng thời lấy sự phấn đấu vĩ đại và tâm kiên
nhẫn phi thường và không ngừng tự hy sinh để mưu cầu sự tốt đẹp cho tất cả
chúng sanh—A Bodhisattva is one who has the essence or potentiality of
transcendental wisdom or supreme enlightenment, who is on the way to the
attainment of transcendental wisdom. He is a potential Buddha. In his
self-mastery, wisdom, and compassion, a Bodhisattva represents a high
stage of Buddhahood, but he is not yet a supremely enlightened, fully
perfect Buddha. His career lasts for aeons of births in each of which he
prepares himself for final Buddhahood by the practice of the six
perfections (paramitas) and the stages of moral and spiritual discipline
(dasabhumi) and lives a life of heroic struggle and unremitting
self-sacrifice for the good of all sentient beings—See Bồ Đề Tâm.
8) Bồ Tát
là người đã giác ngộ, tự hiến đời mình trợ giúp người khác đạt giải thoát.
Với sự tự tại, trí huệ và từ bi, Bồ Tát biểu thị một giai đoạn cao của
Phật quả nhưng chưa phải là một vị Phật giác ngộ vô thượng viên mãn hoàn
toàn—Bodhisattva is an enlightening being who, defering his own full
Buddhahood, dedicates himself to helping others attain liberation. In his
self-mastery, wisdom, and compassion a Bodhisattva represents a high stage
of Buddhahood, but he is not yet a supreme enlightened, fully perfected
Buddha.
(B) Phân
loại Bồ Tát—Categories of Bodhisattvas:
1) Nhị
Chủng Bồ Tát: Two kinds of bodhisattva—See Nhị Chủng Bồ Tát.
2) Nhị
Chủng Bồ Tát Thân: Two kinds of bodhisattva’s body.
(C) Đặc tính
của Bồ Tát—Characteristics of Bodhisattva:
1) Bồ Tát
không chán ghét thứ gì trong bất cứ thế giới nào mà ngài bước vào, vì biết
rằng hết thảy các pháp như ảnh tượng phản chiếu: The Bodhisattva does not
detest anything in whatever world he may enter, for he knows (praijna)
that all things are like reflected images.
2) Ngài
không đam mê trong bất cứ con đường nào mà ngài bước đi, vì biết rằng tất
cả chỉ là sự hóa hiện: He is not defiled in whatever path he may walk, for
he knows that all is a transformation.
3) Ngài
không thấy mỏi mệt trong bất cứ nỗ lực nào điều phục chúng sanh, vì biết
rằng tất cả là vô ngã: He feels no fatigue whatever in his endeavor to
mature all beings, for he knows that there is nothing to be designated as
an ego-soul.
4) Ngài
nhiếp hóa chúng sanh không hề mỏi mệt vì từ bi là tinh thể của ngài: He is
never tired of receiving all beings, for he is essentially love and
compassion.
5) Ngài
không sợ phải trải qua nhiều kiếp, vì thấy rõ rằng sinh tử và năm uẩn như
ảo tượng: He has not fear in going through all kalpas, for he understands
(adhimukta) that birth-and-death and all the skandhas are like a vision.
6) Ngài
không hủy diệt bất cứ con đường hiện hữu nào, vì biết rằng hết thảy các
giới (dhatu) và xứ (ayatana) đều là pháp giới (dharmadhatu): He does not
destroy any path of existence, for he knows that all the Dhatus and
Ayatanas are the Dharmadhatu.
7) Ngài
không có thiên chấp về các đạo vì biết rằng hết thảy tư tưởng đều như
quáng nắng: He has no perverted view of the paths, for he knows that all
thoughts are like a mirage.
8) Ngài
không bị ô nhiễm dù khi đang ở trong cõi của hàng chúng sanh xấu ác, vì
biết rằng hết thảy các thân đều chỉ là những giả tượng: He is not defiled
even when he is in the realm of evil beings, for he knows that all bodies
are mere appearances.
9) Ngài
không hề bị lôi cuốn bởi những tham dục, vì đã hoàn toàn chế ngự tất cả
những gì được khải thị: He is never enticed by any of the evil passions,
for he has become a perfect master over things revealed.
10) Ngài đi
bất cứ ở đâu một cách vô cùng tự tại, vì đã hoàn toàn kiểm soát những giả
tướng: He goes anywhere with perfect freedom, for he had full control over
all appearances.
Bồ Tát Câu Hội Tại Vườn
Kỳ Thọ Cấp Cô Độc Viên để Nghe Phật Thuyết Kinh Hoa Nghiêm: These
bodhisattvas are among the five hundred Bodhisattvas gathered in the
Garden of Anathapindaka in the Jeta Gorve to hear Sakyamuni Buddha to
preach The Flower Oranment Scripture:
(A) Chư Bồ
Tát—Bodhisattvas: Trong số năm trăm Bồ tát nầy thì Bồ Tát Phổ Hiền và Văn
Thù làm Thượng thủ—Among these 500 Bodisattvas, Samantabhadra and Manjusri
Bodhisattvas stand out prominently as the two leaders.
1) Phổ
Hiền: Samatabhadra.
2) Văn
Thù: Manjusri.
3) Quang
Diệm Tràng: Endowed with Perspicacious Knowledge.
4) Tu Di
Tràng: Endowed with Sumeru Knowledge.
5) Bửu
Tràng:Endowed with Adamantine Knowledge.
6) Vô
Ngại Tràng: Endowed with Unemotional Knowledge.
7) Hoa
Tràng: Endowed with Blossoming Knowldege.
8) Ly Cấu
Tràng: Endowed with Unattached Knowledge.
9) Ly
Trần Tràng: Endowed with Undefiled Knowledge.
10) Nhựt
Tràng: Endowed with Sunlike Knowledge.
11) Nguyệt
Tràng: Endowed with Moonlike Knowledge.
12) Phổ Quang
Tràng: Endowed with Radiant Knowledge.
13) Quang Ảnh
Sơn Oai Lực: Endowed with Mountainlike Knowledge.
14) Bửu Oai
Lực: Jewel Energy.
15) Đại Oai
Lực: Great Energy.
16) Kim Cang
Trí Oai Lực: Knowledge Thunderbolt Energy.
17) Ly Trần
Cấu Oai Lực: Undefiled Energy.
18) Chánh
Pháp Nhựt Oai Lực: Energy of the Sun of Truth.
19) Công Đức
Sơn Oai Lực: Virtue Mountain Energy.
20) Phổ Kiết
Tường Oai Lực: Universal Light Energy.
21) Địa Tạng:
Earth Matrix (Store).
22) Hư Không
Tạng: Sky Matrix.
23) Liên Hoa
Tạng: Lotus Calyx.
24) Bửu Tạng:
Jewel Matrix.
25) Nhựt
Tạng: Sun Matrix.
26) Tịnh Đức
Tạng: Matrix of Virtue.
27) Thiện
Nhãn: Good Eye.
28) Tịnh
Nhãn: Pure Eye.
29) Ly cấu
Nhãn: Undefiled Eye.
30) Vô Ngại
Nhãn: Unobstructed Eye.
31) Phổ Kiến
Nhãn: All-Seeing Eye.
32) Phổ Quán
Nhãn: Perceptive Eye.
33) Thanh
Liên Hoa Nhãn: Lotus Eye.
34) Kim Cang
Nhãn: Adamantine Eye.
35) Bửu Nhãn:
Jewel Eye.
36) Hư Không
Nhãn: Space Eye.
37) Joy Eye:
Hỷ Nhãn.
38) Phổ Nhãn:
Universal Eye.
39) Thiên
Quan: Celestial Crown.
40) Phổ Chiếu
Thập Phương Quan: All-Illuminating Crown.
41) Nhứt
Thiết Phật Tạng Quan: Crown of Jewels Which Give Birth to All Buddhas.
42) Nhứt
Thiết Thế Gian Quan: Crown Beyond All Worlds.
43) Siêu Nhứt
Thiết Thế Gian Quan: Crown of jewels Illuminating All Things in the
Cosmos.
44) Bất Khả
Hoại Quan: Invincible.
45) Trì Nhứt
Thiết Như Lai Sư Tử Tòa: Crown of Jewels Inset with the Lion Thrones of
All Buddhas.
46) Phổ Chiếu
Pháp Giới Hư Không: Crown Illuminating the Space of the Whole Cosmos.
47) Phạm
Vương Kế: Lord Brahma.
48) Long
Vương Kế: Crest of Lord of Dragons.
49) Nhứt
Thiết Nguyện Hải Âm Bửu Vương: Crest of Most Excellent Jewels of the Sound
of the Ocean of All Vows.
50) Nhứt
Thiết Hóa Phật Quang Mink Kế: Crest of Light Emanated by All Buddhas.
51) Nhứt
Thiết Phật Quang Minh Ma Ni Kế: Crest of Spew of Jewels Emanating the
Halos of All Buddhas.
52) Nhứt
Thiết Thị Hiện Hư Không Bình Đẳng Tướng Ma Ni Vương Trang Nghiêm Kế: Crest
Adorned with Jewels Showing the Nondifferentiation of All Surfaces of
Space.
53) Thị Hiện
Nhứt Thiết Như Lai Thần Biến Ma Ni Vương Tràng Võng Thùy Phúc Kế: Crest
Covered with a Net of the Finest Jewels Representing the Lights Magically
Produced by All Buddhas.
54) Xuất Nhứt
Thiết Phật Chuyển Pháp Luân Âm Kế: Crest of Sound of the Wheel of Teaching
of All Buddhas.
55) Thuyết
Nhứt Thiết Danh Tự Âm Kế: Crest Uttering the Names of Everything in Past,
Present, and Future.
56) Đại
Quang: Great Light.
57) Ly Cấu
Quang: Undefiled Light.
58) Bửu
Quang: Jewel Light.
59) Ly Nhiễm
Quang: Light of Undefiled Energy.
60) Nhựt
Quang: Sun Light.
61) Thiên
Quang: Celestial Light.
62) Pháp
Quang: Light of Truth.
63) Tịch Tịnh
Quang: Light of Peace.
64) Tự Tại
Quang: Dispassionate Light.
65) Phước Đức
Tràng: Torch of Virtue.
66) Trí Huệ
Tràng: Torch of Knowledge.
67) Pháp
Tràng: Torch of Truth.
68) Thần
Thông Tràng: Torch of Superknowledge.
69) Quang
Tràng: Torch of Light.
70) Hoa
Tràng: Flower Torch.
71) Ma Ni
Tràng: Torch of Enlightenment.
72) Phạm
Tràng: Torch of Brahma.
73) Phổ Quang
Tràng: Torch of Universal Illumination.
74) Bửu
Tràng: Jewel Torch.
75) Phạm Âm:
Brahma Sound.
76) Đại Địa
Âm: Earth Roaring Sound.
77) Thế Chủ
Âm: Voice of a World Leader.
78) Sơn Tướng
Kích Âm: Sound of Mountains Colliding.
79) Hàng Ma
Âm: Sound of Crushing All Armies of Demons.
80) Đại Bi
Phương Tiện Vân Lôi Âm: Sound Emitted by All Didactic Devices of Great
Compassion.
81) Chấn Nhứt
Thiết Pháp Giới Âm: Voice Pervading.
82) Chấn Nhứt
Thiết Hải Lôi Âm: Sound Emitted by Ovean of All Unverses.
83) Tức Nhứt
Thiết Thế Gian Khổ An Ủi Âm: Sound of Stopping the Sufferings of All
Worlds and Giving Comfort.
84) Pháp
Thượng: Born of Truth.
85) Thắng
Thượng: Born of Excellence.
86) Trí
Thượng: Born of Knowledge.
87) Phước Đức
Tu Di Thượng: Born of a Polar Mountain of Vitue.
88) Công Đức
San Hô Thượng: Born of Radian of Virtues.
89) Danh Xưng
Thượng: Born of Splendor.
90) Phổ Quang
Thượng: Born of Universal Illumination.
91) Đại Từ
Thượng: Born of Great Kindness.
92) Trí Hải
Thượng: Born of a Store of Knowledge.
93) Phật
Chủng Thượng: Born of the Family of Buddhas.
94) Quang
Thắng: Glowing Splendor.
95) Đức
Thắng: Preeminent Virtue Splendor.
96) Thượng
Thắng: Exalted Splendor.
97) Phổ Minh
Thắng: Radian Splendor.
98) Pháp
Thắng: Splendor of Truth.
99) Nguyệt
Thắng: Splendor of the Moon.
100)
Hư Không Thắng: Splendor of the
Sky.
101)
Bửu Thắng: Jewel Splendor.
102)
Tràng Thắng: Splendor of
Brilliance.
103)
Trí Thắng: Splendor of
Knowledge.
104)
Ta La Tự Tại Vương:
Mountain
Lord.
105)
Pháp Tự Tại Vương: Lord of
Truth.
106)
Tượng Tự Tại Vương: Lord of
the
World.
107)
Phạm Tự Tại Vương: Lord
Brahma.
108)
Chúng Tự Tại Vương: Lord of
the
Masses.
109)
Thần Tự Tại Vương: Lord of
the Gods.
110)
Tịch Tịnh Tự Tại Vương:
Lord of
Peace.
111)
Bất Động Tự Tại Vương:
Immutable
Lord.
112)
Thế Lục Tự Tại Vương:
Mighty
Lord.
113)
Tối Thắng Tự Tại: Eminent
Lord.
114)
Tịch Tịnh Âm: Supreme
Tranquil
Voice.
115)
Vô Ngại Âm: Unobstructed
Voice.
116)
Địa Chấn Âm: Voice of
Earth.
117)
Hải Chấn Âm: Voice of the
Ocean.
118)
Lôi Chấn Âm: Voice of
Thunder.
119)
Pháp Quang Âm: Voice of
the Light
of Truth.
120)
Hư Không Âm: Voice of
Space.
121)
Thuyết Nhứt Thiết Chúng
Sanh
Thiện Căn Âm: Voice
of
Encouragement of All Past
Vows.
122) Hư
Không Giác: Spacelike
Awareness.
123)
Trí Giác: Knowing
Awareness.
124)
Ly Cấu Giác: Unattached
Awareness.
125)
Ly Nhiễm Giác: Undefiled
Awareness.
126)
Tịnh Giác: Purified
Awareness.
127)
Phổ Chiếu Tam Thế Giác:
Awareness
of All Times.
128)
Quảng Đại Giác: All-
Observing
Awareness.
129)
Thần Lực Giác: Powerful
Awareness.
130)
Pháp Giới Quang Minh Giác:
Awareness
of Ways to the Reality Realm.
(B) Mười đặc
tính của chư Bồ Tát nầy—Ten characteristics of these Bodhisattvas: Năm
trăm vị Bồ tát nầy thảy đều sinh ra từ hạnh nguyện Phổ Hiền và có mười đặc
tính như sau—All the Bodhisattvas are said to have issued from the life
and vows of Samantabhadra Bodhisattva, and have the following ten
qualifications:
1) Công
hạnh của các ngài không còn bị vướng mắc, vì có thể hiện thân khắp trong
tất cả cõi Phật: They are unattached in their conduct because they are
able to expand themselves in all the Buddha-lands.
2) Họ
hiển hiện vô số thân, vì có thể đi đến bất cứ nơi nào có Phật: They
manifest innumerable bodies because they can go over wherever there are
Buddhas.
3) Họ có
nhãn quan thanh tịnh và vô ngại, vì họ có thể thấy được những thần biến
của chư Phật: They are in possession of an unimpeded and unspoiled
eyesight because they can perceive the miraculous transformations of all
the Buddhas.
4) Họ có
thể du hành bất cứ nơi đâu không bị giới hạn vào một xứ sở nào, vì họ hằng
đến khắp tất cả những chỗ chư Phật thành Chánh Đẳng Chánh Giác: They are
able to visit anywhere without being bound to any one locality because
they never neglect appearing in all places where the Buddhas attain to
their enlightenment.
5) Họ có
ánh sáng không giới hạn, vì có thể soi tỏ biển Phật pháp bằng ánh sáng trí
tuệ của mình: They are in possession of a limitless light because they can
illumine the ocean of all the Buddha-truths with the light of their
knowledge.
6) Họ có
khả năng biện tài không bao giờ cùng tận, vì ngôn ngữ của họ không ô
nhiễm: They have an inexhaustible power of eloquence through eternity
because their speech has no taint.
7) Họ an
trụ nơi trí tuệ vô đẳng, biết rõ không cùng tận như hư không vì công hạnh
của họ thanh tịnh vô cấu: They abide in the highest wisdom which knows no
limits like space because their conduct is pure and free from taints.
8) Họ
không cố định tại một nơi nào vì họ tự hiện thân tùy theo tâm niệm và
nguyện vọng của hết thảy chúng sanh: They have no fixed abode because they
reveal themselves personally in accordance with the thoughts and desires
of all beings.
9) Họ
không bị mê muội vì họ biết rằng không có pháp và không có ngã trong thế
giới của chúng sanh: They are free from obscurities because they know that
there are rally no beings, no soul-substances in the world of being.
10) Họ có
siêu việt trí bao la như hư không, vì soi tỏ hết thảy Pháp giới bằng màn
lưới quang minh của chính họ: They are in possession of transcendental
knowledge which is as vast as space because they illumine all the
Dharmadhatus with their nets of light.
Bồ Tát Chuẩn Đề:
Cunde (skt)—Hóa thân của Quán Âm Ma Ha Bồ Đề Tát Đỏa. Vị Bồ tát có 18 tay
tiêu biểu cho lục căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý), lục đại (sắc, thinh,
hương, vị, xúc, pháp), và lục thức (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý)—A
transformation body of the Avalokitesvara Maha-Bodhisattva. This Maha
Bodhisattva has 18 arms which symbolizes 6 faculties (sight,hear, smell,
taste, touch, mind), 6 elements (form, sound, scent, flavor, bodily
sensation, and all other elements in general) , and 6 consciousnesses
(sight, hearing, smell, taste, touch, and mind).
Bồ Tát Có Thể Vào Ra
Sanh Tử Mà Không Bị Chướng Duyên Nhiễu Loạn: Bodhisattvas are free to
enter and exit births and deaths unhindered and uniterrupted by
obstructing conditions.
Bồ Tát Di Lặc:
Đương Lai hạ sanh Di Lặc Tôn Phật—Nhứt sanh bổ xứ Bồ Tát—Maitreya
Bodhisattva—Buddha-to-be—One-life Bodhisattva.
Bồ Tát Diệu Kiến:
Wonderful Sight Bodhisattva.
Bồ Tát Đại Bi Quán Thế
Âm: Kuan Shi Yin Bodhisattva of Great Compassion—See Bồ Tát Quán Thế
Âm.
Bồ Tát Đại Hạnh Phổ
Hiền: Bồ Tát thực hiện hạnh nguyện siêu việt của chư Phật, thường cỡi
voi sáu ngà tượng trưng cho lục Ba La Mật. Ngài nổi tiếng với mười hạnh
nguyện mà chúng ta hằng trì tụng trong Kinh Nhật Tụng—Universal Worthy,
Bodhisattva of Great Conduct—Samantabhadra Bodhisattva foremost in
practice. Bodhisattva who personifies the transcendental practices and
vows of the Buddhas, usually depicted seated on a six-tusked elephant (six
paramitas). He is best known for his ten great vows which we recite every
day in Daily reciting Sutra.
Bồ Tát Đại Sĩ:
Những Bồ Tát lớn như Văn Thù, Quán Âm, Phổ Hiền, Thế
Chí—Bodhisattva-Mahasattva (skt)—A Great Bodhisattva (Manjusri, Kuan Shi
Yin, Samantabhadra,Mahasthama-prapta, etc).
Bồ Tát Đại Thế Chí:
Mahasthama-prapta Bodhisattva—Vị Bồ Tát đã đạt được đại lực—Bodhisattva
who has attained Great Strength.
Bồ Tát Đại Trí Văn Thù
Sư Lợi: Manjushri Bodhisattva of Great Wisdom (foremost in wisdom).
Bồ Tát Đạo:
Bodhisattva path, or the way or discipline of the bodhisattva.
1) Tự
lợi, lợi tha, giác hạnh viên mãn: To benefit self and benefit others,
leading to Buddhahood.
2) Thượng
cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh: Above to seek bodhi, below to transform
all beings.
Bồ Tát Địa Tạng:
Ksitigarbha—Earth Store Bodhisattva, one with foremost in vows).
Bồ Tát Giới: Giới
cho chư Bồ Tát, gồm mười giới trọng và 48 giới khinh—The commandments for
Bodhisattvas—The commandments or prohibitions for bodhisattvas and monks,
including ten primary and 48 secondary precepts.
** For more information,
please see Lục Ba
La Mật, Mười Giới
Trọng, and Bốn Mươi
Tám Giới Khinh.
Bồ Tát Hạnh:
Bodhisattva practice (cult)—Bồ Tát Hạnh theo truyền thống Phật Giáo Đại
Thừa (một vị Bồ Tát muốn thực hành Bồ Tát Hạnh phải trước hết phát tâm Bồ
Đề, đối với chúng hữu tình phải có đầy đủ tâm từ bi hỷ xả không ngằn mé.
Ngoài ra, Bồ Tát phải luôn thực hành hành nguyện độ tha với lục Ba La Mật.
Cuối cùng vị ấy phải lấy Tứ Nhiếp Pháp trong công việc hoằng hóa của
mình)—Bodhisattva practice (Bodhisattva’s practising) according to the
tradition of Northern Buddhism.
1) Phát
Bồ Đề Tâm: To to vow to devote the mind to bodhi (bodhicita)—See Bồ Đề
Tâm.
2) Thực
hành Tứ Vô Lượng Tâm: To practise the four immeasurables—See Tứ Vô Lượng
Tâm.
3) Thực
hành Lục Độ Ba La Mật: To practise the six Paramitas—See Lục Độ Ba La Mật.
4) Thực
hành Tứ Nhiếp Pháp: To practise the four all-embracing virtues—See Tứ
Nhiếp Pháp.
5) Theo
Kinh Duy Ma Cật—According to the Vimalakirti Sutra:
·
Bồ Tát là những vị có tiếng tăm, đều đã thành tựu trí hạnh
Đại Thừa. Do nhờ sự chỉ giáo của chư Phật mà các ngài đã làm thành bức
thành hộ pháp, giữ gìn Chánh Pháp, diễn nói pháp âm tự tại vô úy như sư tử
hống giáo hóa chúng sanh, danh đồn xa khắp mười phương. Người đời không
cầu thỉnh mà các sẵn sàng đến chúng hội để tuyên lưu Tam Bảo, không để dứt
mất. Các ngài hàng phục tất cả ma oán, ngăn dẹp các ngoại đạo; sáu căn
tam nghiệp thân khẩu ý đều thanh tịnh; trọn lìa năm món ngăn che và mười
điều ràng buộc. Tâm thường an trụ nơi lý vô ngại giải thoát. Nhờ niệm định
tổng trì và và tâm bình đẳng mà các ngài có khả năng biện tài thông suốt
không hề trở ngại. Các ngài đã thành tựu Lục Ba La Mật, các hạnh bố thí,
trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ, cũng như giáo pháp
phương tiện thiện xảo lợi mình lợi người thảy đều đầy đủ. Tuy nhiên, với
các ngài, những thành tựu nầy không có nghĩa là làm lợi cho chính họ, mà
các ngài đã được đến bậc vô sở đắc mà không khởi pháp nhẫn (vô sinh pháp
nhẫn). Các ngài có khả năng tùy thuận diễn nói pháp luân bất thối; khéo
hiểu rõ chân tướng vạn pháp, thấu biết căn cơ chúng sanh; oai đức bao trùm
đại chúng và thành tựu pháp vô úy—Bodhisattvas are those who were well
known for having achieved all the perfections that lead to the great
wisdom. They had received instructions from many Buddhas and formed a
Dharma-protecting citadel. By upholding the right Dharma, they could
fearlessly give the lion’s roar to teach sentient beings; so their names
were heard in the ten directions. They were not invited but came to the
assemble to spread the teaching on the Three Treasures to transmit it in
perpetuity. They had overcome all demons and defeated heresies; and their
six faculties, karmas of deeds, words and thoughts were pure and clean;
being free from the (five) hindrances and the (ten) bonds. They had
realized serenity of mind and had achieved unimpeded liberation. They had
achieved right concentration and mental stability, thereby acquiring the
uninterrupted power of speech. They had achieved all the (six)
paramitas: charity (dana), discipline (sila), patience (ksanti), devotion
(virya), serenity (dhyana) and wisdom (prajna), as well as the expedient
method (upaya) of teaching which completely benefit self and others.
However, to them these realizations did not mean any gain whatsoever for
themselves, so that they were in line with the patient endurance of the
uncreate (anutpattika-dharma-ksanti). They were able to turn the wheel of
the Law that never turns back. Being able to interpret the (underlying
nature of) phenomena, they knew very well the roots (propensities) of all
living beings; they surpassed them all and realized fearlessness.
·
Các
ngài dùng công đức trí tuệ để trau sửa tâm mình, bằng cách lấy tướng tốt
trang nghiêm thân hình sắc tướng dung nhan bậc nhất, vì thế bỏ hẳn tất cả
trang sức tốt đẹp trong đời. Danh tiếng các ngài cao xa vượt hẳn núi Tu
Di. Lòng tin thậm thâm của các ngài bền chắc không bị phá vở như kim
cương. Pháp bảo của các ngài soi khắp, và mưa cam lồ tuôn đổ nơi nơi.
Tiếng thuyết pháp của các ngài là thậm thâm vi diệu bậc nhất—They had
cultivated their minds by means of merits and wisdom with which they
embellished their physical features which were unsurpassable, thus giving
up all earthly adornments. Their towering reputation exceeded the height
of Mount Sumeru. Their profound faith (in the uncreate) was unbreakable
like a diamond. Their treasures of the Dharma illuminated all lands and
rained down nectar. Their speeches were profound and unsurpassable.
·
Các ngài đã thâm nhập lý duyên khởi, dứt bỏ các tập khí kiến
chấp sai lầm, thoát khỏi nhị biên. Các ngài diễn nói các pháp không sợ sệt
như sư tử hống, những lời giảng nói như sấm vang. Các ngài không thể bị
hạn lượng hạn chế, vì các ngài đã vượt ra ngoài sự hạn lượng—They entered
deep into all (worldly) causes, but cut off all heretical views for they
were already free from all dualities and had rooted out all (previous)
habits. They were fearless and gave the lion’s roar to proclaim the
Dharma, their voices being like thunder. They could not be gauged for
they were beyond all measures.
·
Các ngài tự chứa nhóm rất nhiều Pháp Bảo như Hải Đạo Sư. Các
ngài hiểu rõ nghĩa thậm thâm của các pháp, biết rõ hiện trạng qua lại
trong các cảnh thú và hành vi tốt xấu trong tâm niệm của chúng sanh. Các
ngài đã đạt đến trạng thái gần như trí tuệ tự tại vô thượng của chư Phật,
đã thành đạt thập lực vô úy, và thập bát bất cộng. Dù các ngài đã ngăn
đóng các cửa nẻo ác thú, các ngài vẫn hiện thân trong năm đường hóa độ
chúng sanh, làm vị đại y vương khéo trị lành các bệnh, tùy theo trường hợp
cá nhân mà cho thuốc một cách công hiệu. Vì thế mà các ngài đã thành tựu
vô lượng công đức, trang nghiêm thanh tịnh vô lượng cõi Phật. Chúng sanh
nào được nghe danh thấy hình đều được lợi ích vì các hành động của các
ngài đều không uổng phí. Vì thế các ngài đều đã thành tựu mọi công đức
tuyệt hảo—They had amassed all treasures of the Dharma and acted like
(skillful) seafaring pilots. They were well versed in the profound
meanings of all Dharmas. They knew very well the mental states of all
living beings and their comings and goings (within the realms of
existence). They had reached the state near the unsurpassed sovereign
wisdom of all Buddhas, having acquired the ten fearless powers (dasabala)
giving complete knowledge and the eighteen different characteristics (of a
Buddha as compared with Bodhisattvas (avenikadharma). Although they were
free from (rebirth in ) evil existences, they appeared in five mortal
realms as royal physicians to cure all ailments, prescribing the right
medicine in each individual case, thereby winning countless merits to
embellish countless Buddha lands. Each living being derived great benefit
from seeing and hearing them, for their deeds were not in vain. Thus they
had achieved all excellent merits.
** For more information,
please see Bồ Tát
Đạo.
Bồ Tát Hộ Pháp:
Dharma Protector Bodhisattva.
Bồ Tát Long Thọ:
Bodhisattva Nagarjuna.
Bồ Tát Lớn: Đại Bố
Tát---Bodhisattva Mahasattva.
Bồ Tát Ma Ha Tát:
Bodhisattva-Mahasattvas (skt)—Bồ Đề Tát Đỏa Ma Ha Tát Đỏa—Đại Chúng
Sanh—Giác Hữu Tình (dịch mới) hay những Bồ Tát Địa Thượng, cao hơn tất cả
chúng sanh, ngoại trừ Phật—Bodhisattva Mahasattva is the perfect
Bodhisattva, greater than any other being except a Buddha.
Bồ Tát Mã Minh:
Asvaghosa (skt) Ashvaghosha (p) Bodhisattva.
Bồ Tát Nguyệt Quang
Biến Chiếu: Universal Moonlight Brilliance Bodhisattva.
Bồ Tát Nhựt Quang Biến
Chiếu: Universal Sunlight Brilliance Bodhisattva
Bồ Tát Ở Trong Sự Sanh
Tử Đáng Sợ, Phải Y Nơi Sức Công Đức Của Như Lai: Theo Kinh Duy Ma Cật,
sự sanh tử đáng sợ, Bồ Tát nên luôn luôn y nơi sức công đức của Như
Lai—According to the Vimalakirti Sutra, in his fear of birth and death, a
Bodhisattva should always rely on the power of the Tathagata’s moral
merits.
·
Ngài Văn Thù Sư Lợi hỏi Duy Ma Cật: “Sự sanh tử đáng sợ, Bồ Tát phải y nơi
đâu?”—Manjusri asked Vimalakirti: “On what should a Bodhisattva rely in
his fear of birth and death?”
·
Ông
Duy Ma Cật đáp: “Bồ Tát ở trong sanh tử đáng sợ đó, phải y nơi sức công
đức của Như Lai.”—Vimalakirti replied: “A Bodhisattva should always rely
on the power of the Tathagata’s moral merits.”
·
Ngài Văn Thù Sư Lợi hỏi: “Bồ Tát muốn y sức công đức của Như Lai, phải trụ
nơi đâu?”—Manjusri asked: “What should he do to win support from the power
of the Tathagata’s moral merits?”
·
Duy
Ma Cật đáp: “Bồ Tát muốn y sức công đức của Như Lai, phải trụ nơi chỗ độ
thoát tất cả chúng sanh.”—Vimalakirti replied: “ He should liberate all
living beings in order to win support from the power of the Tathagata’s
moral merit.”
Bồ Tát Phổ Hiền:
Bodhisattva Samantabhadra—See Bồ Tát Đại Hạnh Phổ Hiền.
Bồ Tát Quán Thế Âm:
Avalokitesvara (skt)—Bồ Tát của lòng Đại Bi và tầm thinh cứu khổ. Cũng còn
được gọi là Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, một trong ba vị Đại Sĩ của Tịnh Độ.
Hai vị khác là A Di Đà và Đại Thế Chí—Bodhisattva of compassion and deep
listening (observer of the world’s sounds). Also called Kwan Yin,The
bodhisattva of compassion—One of the three Pure Land Sages. The others
being Buddha Amitabha and Bodhisattva Mahasthamaprapta (Đại Thế Chí).
** For more information,
please see
Avalokitesvara in
Sanskrit/Pali-
Vietnamese Section.
Bồ Tát Phật Quảng:
Bodhisattva Universally Expansive.
Bồ Tát Sợ Nhân, Chúng
Sanh Sợ Quả: Bodhisattvas fear (are afraid of) causes; living beings
fear effects (results or consequences)—Bồ Tát vì sợ quả ác về sau, cho nên
chẳng những tránh gieo ác nhân trong hiện tại, mà còn tinh tấn tu hành cho
nghiệp chướng chóng tiêu trừ, đầy đủ công đức để cuối cùng đạt thành Phật
quả. Còn chúng sanh vì vô minh che mờ tâm tánh nên tranh nhau gây tạo lấy
ác nhân, vì thế mà phải bị nhận lấy ác quả. Trong khi chịu quả, lại không
biết ăn năn sám hối, nên chẳng những sanh tâm oán trách trời người, mà lại
còn gây tạo thêm nhiều điều ác độc khác nữa để chống đối. Vì thế cho nên
oan oan tương báo mãi không thôi—Because the Bodhisattvas are afraid of
bad consequences in the future, not only they avoid planting evil-causes
or evil karma in the present, but they also diligently cultivate to
gradually diminish their karmic obstructions; at the same time to
accumulate their virtues and merits, and ultimately to attain Buddhahood.
However, sentient beings complete constantly to gather evil-causes;
therefore, they must suffer evil effect. When ending the effect of their
actions, they are not remorseful or willing to repent. Not only do they
blame Heaven and other people, but they continue to create more evil karma
in opposition and retaliation. Therefore, enemies and vengeance will
continue to exist forever in this vicious cycle.
Bồ Tát Tại Gia:
Layperson Bodhisattva—Layperson-precept Bodhisattva.
Bồ Tát Tạng: Tên
chung của các kinh điển Đại Thừa, như Pháp Hoa hay Hoa Nghiêm, hàm chứa
phép tu chứng quả Bồ Tát—The Mahayana scriptures or canon (the Lotus
sutra, or the Hua-Yen sutra), i.e. those of the Bodhisattva schools.
Bồ Tát Tăng:
Bodhisattva-sangha (skt)— Chư Tăng Đại Thừa, có tranh cải cho rằng chư
Tăng Tiểu Thừa cũng là những Bồ Tát Tăng—Mahayana monks, though there has
been dispute whether Hinayana monks may be included.
Bồ Tát Thanh Tịnh Đại
Hải chúng: Bodhisattva of Ocean-Wide Assembly.
Bồ Tát Thánh Chúng:
Bồ Tát Thánh là những vị Bồ Tát từ sơ địa trở lên, đã cắt đứt mê lầm phiền
não, đối lại với Bồ Tát phàm là những vị chưa cắt đứt mê hoặc—The
Bodhisattva saints who have overcome illusion, from the first stage
upwards, as contrasted with ordinary Bodhisattvas.
Bồ Tát Thập Địa:
The ten stages in a Bodhisattva’s progress—See Thập Địa.
Bồ Tát Thập Trụ:
The ten grounds—See Thập Trụ.
Bồ Tát Thế Thân:
Vasubandhu.
Bồ Tát Thiện Tài:
Sudhana (skt)—Good Wealth Bodhisattva.
Bồ Tát Thừa:
Bodhisattvayana (skt)—Một trong ngũ thừa dạy tu hành theo Lục độ Ba la
mật để tự giác và giác tha (nhị lợi: tự lợi lợi tha). Mục đích chính là
cứu độ chúng sanh và thành Phật quả. Vì mục đích của Bồ Tát thừa là đạt
tới Phật tánh tối thượng, nên Bồ Tát Thừa cũng còn được gọi là Phật Thừa
hay Như Lai Thừa—Bodhisattva way—One of the five vehicles which teaches
the observance of the six paramitas the perfecting of the self and the
benefits of others. The objective is the salvation of all beings and
attaining of Buddhahood. The aim of Bodhisattvayana is the attainment of
Supreme Buddhahood. Therefore, it is also called the Buddhayana or
Tathagatayana.
Bồ Tát Tính:
Bodhisattva-nature, or character.
Bồ Tát Vaø Nhị
Thừa: Bodhisattva and the Two Vehicles—Trong Kinh Lăng Già, Đức Phật
nhắc Mahamati về sự khác biệt giữa Bồ tát và hàng Nhị Thừa như sau: “Này
Mahamati, sự khác biệt giữa Bồ Tát và hàng Nhị Thừa như sau: Nhị Thừa
không thể tiến qua địa thứ sáu và tại đó chư vị nhập Niết Bàn. Trong khi
vị Bồ Tát ở địa thứ bảy, đi qua một kinh nghiệm tâm linh hoàn toàn mới,
được gọi là anabhogacarya và có thể được dịch là một đời sống vô mục đích
hay vô công dụng. Nhưng được hộ trì bởi thần lực chư Phật là cái năng lực
nhập vào các đại nguyện mà vị Bồ Tát thiết lập đầu tiên khi ngài mới khởi
đầu sự nghiệp của ngài và giờ đây ngài thiết định nhiều phương pháp cứu độ
khác hẳn nhau nhằm lợi lạc cho chúng sanh u mê lầm lạc của ngài. Từ quan
điểm tuyệt đối về chân lý tối hậu mà vị Bồ Tát đạt được, thì không có sự
tiến bộ của tâm linh như thế trong đời sống của ngài, vì ở đây quả thực
không có tầng bậc, không có sự thăng tiến tương tục mà riêng chân lý là
không có tướng trạng và tách ly hoàn toàn với sự phân biệt—In the
Lankavatara Sutra, the Buddha reminded Mahamati: “Oh Mahamati, the
distinction between the Bodhisattva and the Two Vehicles is emphasized, as
the latter are unable to go up further than the sixth stage where they
enter into Nirvana. At the seventh stage, the Bodhisattva goes through an
altogether new spiritual experience known as anabhogacarya, which may be
rendered “a purposeless life.” But , supported by the majestic power of
the Buddhas, which enters into the great vows first made by the
Bodhisattva as he started in his career, the latter now devises various
methods of salvation for the sake of his ignorant and confused
fellow-beings. But from the absolute point of view of the ultimate truth
in the Lankavatara Sutra,attained by the Bodhisattva, there is no such
graded course of spirituality in his life; for here is really no gradation
(krama), no continuous ascension (kramanusandhi), but the truth (dharma)
alone which is imageless (nirabhasa), and detached altogether from
discrimination.
Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi:
Bodhisattva Manjusri—See Bồ Tát Đại Trí Văn Thù Sư Lợi.
Bồ Tát Vô Tận Ý:
Boundless Mind Bodhisattva.
Bồ Tát Vô Trước:
See Asangha Asamgra Bodhisattva trong phần Phạn/Pali-Vietnamese.
Bồ Tát Xuất Gia:
Bodhisattva Sangha.
Bồ Thiện Ni: See Bồ
Đề Ni.
Bổ:
1) Bắt
giữ: To arrest—To catch.
2) Vá,
sửa, phục hồi lại—To patch—To repair—To restore.
Bổ Ca La: Pudgala
(skt)—See Phú Già La.
Bổ Đà: Potala
(skt)—Tên của một ngọn núi nổi tiếng ở Trung Quốc—Name of a famous
mountain in China.
Bổ Đà Lạc Ca:
Potala, or Potalaka (skt).
1) Tên
một hải cảng thời cổ thuộc cửa sông Ấn Hà, có người gọi là Thattha, người
ta nói rằng đây là quê hương của tổ tiên Phật Thích Ca: An ancient
sea-port on the Indus, identified by some with Thattha, said to be th
ancient home of sakyamuni ancestors.
2) Quang
Minh Sơn nằm về phía đông nam của Malakuta, ở đó có vị Bồ Tát tên là Quán
Thế Âm: A mountain south-east of Malakuta, reputed as the home of
Avalokitesvara Bodhisattva.
3) Hải
Đảo Sơn, nằm về phía đông Ningpo, trung tâm của Ngài Quán Âm: The island
of Pootoo, east of Ningpo, the Kuan-Yin centre.
4) La Sa
Phổ Đà ở Tây Tạng, nơi trú ngụ của Đức Đạt Lai Lạt Ma, tái sanh của Ngài
Quán Âm Bồ Tát—The Lhasa Potala in Tibet, the seat of the Dalai Lama, an
incarnation of Avalokitesvara Bodhisattva.
Bổ Đặc Già La:
Pudgala (skt)—See Phú Già La.
Bổ Già La: Pudgala
(skt)—See Phú Già La.
Bổ Khuyết: To
complete—To complement.
Bổ La Phược: Purva
(skt)—See Bổ La Phược Vĩ Nễ Hạ.
Bổ La Phược Vĩ Nễ Hạ:
Purva-videha (skt)—Đông Thắng Thần Châu—The eastern continent—See Tứ Châu
(4).
Bổ Lặt Nã: Purna
(skt)—See Phú Lâu Na.
Bổ Lư Sa: Purusa
(skt)—Còn gọi là Bô Sa, Bố Lộ Sa, Bổ Lũ Sa, Phú Lâu Sa, Phú Lũ Sa, Phù Lưu
Sa, nghĩa là trượng phu hay người—Man personified—Man collectively or
individually—The soul of the universe.
Bổ Nhiệm:
Appointment.
Bổ Sa: Pusya
(skt)—Sao quỷ, một trong 28 ngôi sao—One of the twenty-eight stars—The
demonous asterism.
Bổ Sắt Trí:
Paustika (skt)—Còn gọi là Báo Sắt Trí Ca, hay Bổ Sắt Ca, có nghĩa là tăng
ích pháp—Promoting advancement, invigorating, protective.
Bổ Tâm: To fortify
the heart.
Bổ Xứ:
1) Người
sửa chữa và chiếm cứ nơi trống trải: One who repairs, or occupies a
vacated place.
2) Sau
khi vị Phật trước đã nhập diệt, vị sau thành Phật mà bổ sung vào đó, thì
gọi là bổ xứ, như Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật ra đời tiếp nối Đức Phật Thích
Ca Mâu Ni: A Buddha who succeeds a Buddha, as Maitreya is to succeed
Sakyamuni.
Bổ Yết: Bukhara
(skt)—Vị trí mà bây giờ gọi là Bokhara—The present Bokhara.
Bổ Yết Sa:
Paulkasa, Pukkasa, or Pulkasa (skt)—Còn gọi là Bốc Yết Sa.
1) Tên
một giống người hạ tiện ở Ấn Độ ngày xưa, cha thuộc giai cấp thủ đà la, mẹ
thuộc giai cấp sát đế lợi: An aboriginal, or the son of a “sudra” father
and of a “kshatriya” mother, interpreted as low caste, scavenger.
2) Còn ám
chỉ những người không tin luật nhơn quả của nhà Phật: Also an unbeliever
in the Buddhist doctrine of law of retribution.
Bộ:
1) Bộ
Anh: Foot.
2) Bộ
lạc: A tribe—A group.
3) Bộ
phận: Division—Section.
4) Bộ
sách: A work in volumes—A heading or section of a work.
5) Bước
đi: Pada (skt)—Step—Pace.
6) Cuốn
sổ: A notebook.
7) Sổ bộ:
Register.
Bộ Chấp: Chấp kiến
của tông phái—The tenet of a sect, or school.
Bộ Chủ: Vị tổ khai
sáng ra tông phái—The founder of a sect, or school, or group.
Bộ Cú La: Vakula
(skt).
1) Tên
của một đệ tử thông thái của Phật: Name of an intelligent disciple of
sakyamuni.
2) Tên
của một loài quỷ: Name of a demon.
Bộ Dẫn Đà:
1) Thủy
tinh hay sao Thủy—The planet Mercury.
2) Phật:
A Buddha.
Bộ Đa: Bhuta (skt).
1) Bộ đa
có nghĩa là đã sinh ra: Been, become, produced, formed, being, existing,
etc. interpreted as the consciously existing;
2) Bộ đa
cũng có nghĩa là tứ đại đất, nước, lửa, gió, được nắm bắt bởi sự xúc
chạm: The four great elements, earth, fire, wind, water, as apprehended
by touch.
3) Bộ đa
lại có nghĩa là loài quỷ tự sinh (loài quỷ do cha mẹ sinh ra gọi là dạ
xoa): Bhuta also means a kind of demon produced by metamorphosis.
4) Chân
như: The bhutatathata.
Bộ Giáo: Bộ và giáo
(lời dạy của Đức Phật thuận theo thứ tự thời gian, cũng như sự nông sâu
của giáo thuyết)—The sutras, or canon, and their exposition.
Bộ La Hán: A set of
Arahants.
Bộ Tha: Phật
Đà—Buddha.
Bộ tộc Sakya: Tên
của một bộ tộc tại Bắc Ấn trong đó Cồ Đàm hay Phật Thích Ca Mâu Ni được
sanh ra dưới tên Thái tử Sĩ Đạt Đa—Sakya tribe—Name of a tribe dwelling in
Northern India in which Gotama, or Sakyamuni Buddha was born as Prince
Siddhartha.
Bộc:
1) Dòng
thác—A torrent—A cataract—A cascade.
2) Nô
bộc: A servant.
Bộc Lộ: To
disclose.
Bộc Lưu: Ogha
(skt)—Dòng thác hay dòng thác của dục vọng và phiền não—A torrent, the
stream of passion, or illusion.
Bộc Na: Dấu tréo
ngón tay, cách thứ tư trong mười hai cách đặt những bàn tay vào nhau—A
digital sign; the fourth of the twelve ways of placing the hands together.
Bộc Phát: To break
out suddenly.
Bôi: Cái tách—A
cup.
Bôi Bẩn: To blur.
Bôi Bỏ: To
delete—To cross out.
Bôi Độ: Pei-Tu—Một
vị sư vào thế kỷ thứ năm. Tương truyền sư thường qua sông bằng một cái
tách hay một cái chén, nhân đó người ta gọi ông là Bôi Độ—A fifth century
Buddhist monk said to be able to cross a river in a cup or a bowl, hence
his name.
Bôi Lọ: To
dishonor—To discredit.
Bối: Sankha (skt).
1) Vỏ
sò—A shell—A conch.
2) Có giá
trị: Valuables—Riches.
3) Loa
pháp: Cái loa bằng vỏ ốc dùng trong pháp sự, thổi báo hiệu thời gian tiến
hành pháp sự hay tập họp đại chúng—A large trumpet sounded to call the
assembly together.
4) Lưng:
Back—Behind—To turn the back on—To go contrary to—To carry on the back.
Bối Chính: Quay
lưng ngoảnh mặt với Phật Pháp—To turn the back on Buddha-truth.
Bối Chung: Loa vỏ
ốc và chuông—Conch and bell.
Bối Diệp: See Bối
Đa.
Bối Đa: Pattra
(skt)—Tên một loài cây kè mọc tại xứ Ma Kiệt Đà, dùng làm vật liệu viết
sách (cao từ sáu đến bảy trượng, mùa đông không rụng lá, lá mỏng và mịn có
thể dùng để viết chữ)—Palm leaves from the Borassus flabelli-formis, grown
in Magadha, used for writing material.
Bối Đa La Diệp: See
Bối Đa.
Bối Điệp: Kinh văn
được viết trên lá bối—Pattra tablets, sutras written on palm leaves.
Bối Niệm: Chán ghét
sanh tử, muốn sống yên ổn nơi Niết Bàn—To turn one’s back on the
transmigration life and abide quietly in the nirvana-mind.
Bối Rối:
Disconcert—Bewildered—Embarrassed—Abashed.
Bối Văn: Kinh văn
được viết trên lá bối—The scriptures written on palm leaves—See Bối Đa.
Bối Xả: Vứt bỏ ham
muốn của thế tục—To turn the back on and leave the world.
Bồi Bổ: To enrich.
Bồi Dưỡng: To bring
up.
Bồi Hồi:
Anxious—Worried—Uneasy.
Bồi Thẩm: Juror.
Bồi Thường: To
compensate—To make up for.
Bội:
1) Đi
theo: To accompany—Associated with.
2) Thêm
vào: To add.
3) Trợ
giúp: To assist.
Bội Ân:
Ungrateful—False-hearted—Unthankful—Thankless-Ingratitude.
Bội Đạo: To
abjure—To abandon one’s original religion—To apotatize.
Bội Giáo: See Bội
Đạo.
Bội La Phược:
Bhairava (skt)—Tên của các vị Thần Siva, Visnu, hay các chư Thiên, hay của
Kim Cang Thần—The terrible name of Siva, also of Visnu and other devas,
and of the guardian spirits of the Buddhist order.
Bội Nghĩa:
Ungrateful—Unthankful—Thankless.
Bội Nghịch: To
revolt—To rebel.
Bội Nguyện: To
break one’s vow.
Bội Phản: To
betray.
Bội Thệ: To break
one’s oath.
Bội Thực:
1) Ăn quá
nhiều nên bị chứng khó tiêu hóa: To have an indigestion.
2) Cùng
ăn với ai: To keep one company at meals.
Bội Tín: breach of
trust.
Bội Ước: To break
one’s words (promises).
Bôn: Chạy trốn—To
run away.
Bôn Đồ Lợi (Ca):
Pundrika (skt).
1) Bạch
liên hoa—The white lotus.
2) Địa
ngục cuối cùng trong tám địa ngục lạnh lớn: The last of the eight great
cold hells.
Bôn Na Già:
Puspanaga (skt)—Cây Long Hoa hay Long Thọ, mà dưới gốc nó Đức Phật Di Lặc
đã giác ngộ thành Phật—The flowering dragon-tree under which Maitreya is
said to have attained enlightenment.
Bôn Na Phạt Đơn Na:
Pundra-vardhana (skt)—Một vương quốc cổ trong xứ Bengal—An ancient kingdom
and city in Bengal.
Bôn Nhưỡng Sá La:
Punyasala (skt)—Nhà tế bần hay nơi trú ngụ cho người bệnh và người
nghèo—Almshouse or asylum for sick and poor.
Bốn Cách Đối Trị Tham
Sân Si: Nghiệp tham sân si biểu hiện dưới nhiều hình thức, không thể
tả xiết! Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong Niệm Phật Thập Yếu, có bốn
cách đối trị tham sân si. Tùy theo trường hợp, hành giả có thể dùng một
trong bốn cách nầy để đối trị tham sân si—The karma of greed, anger and
delusion manifest themselves in many forms, which are impossible to
describe fully. According to Most Venerable Thích Thiền Tâm in The Pure
Land Buddhism in Theory and Practice, there are four basic ways to subdue
them. Depending on the circumstances, the practitioner can use either one
of these four methods to counteract the karma of greed, anger and
delusion.
1) Dùng
Tâm Đối trị: Suppressing afflictions with the mind—Người mê với bậc giác
ngộ chỉ có hai điểm sai biệt: tịnh là chư Phật, nhiễm là chúng sanh. Chư
Phật do thuận theo tịnh tâm nên giác ngộ, đủ thần thông trí huệ; chúng
sanh bởi tùy nơi trần nhiễm nên mê hoặc, bị luân hồi sanh tử. Tu Tịnh Độ
là đi sâu vào Niệm Phật Tam Muội để giác ngộ bản tâm, chứng lên quả vị
Phật. Vậy trong niệm Phật, nếu thấy bất cứ một vọng niệm vọng động nào
khác nổi lên, liền phải trừ ngay và trở về tịnh tâm. Đây là cách dùng tâm
để đối trị—There are only two points of divergence between the deluded and
the enlightened, i.e., Buddhas and Bodhisattvas: purity is Buddhahood,
defilement is the state of sentient beings. Because the Buddhas are in
accord with the Pure Mind, they are enlightened, fully endowed with
spiritual powers and wisdom. Because sentient beings are attached to
worldly Dusts, they are deluded and revolve in the cycle of Birth and
Death. To practice Pure Land is to go deep into the Buddha Recitation
Samadhi, awakening to the Original Mind and attaining Buddhahood.
Therefore, if any deluded, agitated thought develops during Buddha
Recitation, it should be severed immediately, allowing us to return to the
state of the Pure Mind. This is the method of counteracting afflictions
with the mind.
2) Dùng
Lý Đối Trị: Suppressing afflictions with noumenon—Nếu khi vọng niệm khởi
lên, dùng tâm ngăn trừ không nổi, phải chuyển sang giai đoạn hai là dùng
đến quán lý. Chẳng hạn như khi tâm tham nhiễm nổi lên, quán lý bất tịnh,
khổ, vô thường, vô ngã. Tâm giận hờn phát khởi, quán lý từ, bi, hỷ, xả,
nhẫn nhục, nhu hòa, các pháp đều không—When deluded thoughts arise which
cannot be suppressed with the mind, we should move to the second stage and
“visualize principles.” For example, whenever the affliction of greed
develops, we should visualize the principles of impurity, suffering,
impermanence, and no-self. Whenever the affliction of anger arises, we
should visualize the principles of compassion, forgiveness and emptiness
of all dharmas.
3) Dùng
Sự Đối Trị: Supressing afflictions with phenomena—Những kẻ nặng nghiệp,
dùng lý đối trị không kham, tất phải dùng sự, nghĩa là dùng đến hình thức.
Thí dụ, người tánh dễ sân si, biết rõ nghiệp mình, khi phát nóng bực hay
sắp muốn tranh cãi, họ liền bỏ đi và uống từ một ly nước lạnh để dằn cơn
giận xuống. Hoặc như kẻ nặng nghiệp ái, dùng lý trí ngăn không nổi, họ lựa
cách gần bậc trưởng thượng, làm Phật sự nhiều, hoặc đi xa ra để quên lãng
lần tâm nhớ thương, như câu châm ngôn “xa mặt cách lòng.” Bởi tâm chúng
sanh y theo cảnh, cảnh đã vắng tức tâm mất chỗ nương, lần lần sẽ phai
nhạt—People with heavy karma who cannot suppress their afflictions by
visualizing principles alone, we should use “phenomena,” that is external
forms. For example, individuals who are prone to anger and delusion and
are aware of their shortcomings, should, when they are on the verge of
bursting into a quarrel, immediately leave the scene and slowly sip a
glass of cold water. Those heavily afflicted with the karma of
lust-attachment who cannot suppress their afflictions through
“visualization of principle,” should arrange to be near virtuous Elders
and concentrate on Buddhist activities or distant travel, to overcome lust
and memories gradually as mentioned in the saying “out of sight, out of
mind.” This is because sentient beings’ minds closely parallel their
surroundings and environment. If the surroundings disappear, the mind
loses its anchor, and gradually, all memories fade away.
4) Dùng
Sám Tụng Đối Trị: Suppressing afflictions with repentance and
recitation—Ngoài ba cách trên từ tế đến thô, còn có phương pháp thứ tư là
dùng sám hối trì tụng để đối trị. Sự sám hối, niệm Phật, trì chú hoặc tụng
kinh, mà giữ cho đều đều, có năng lực diệt tội nghiệp sanh phước huệ. Vì
thế thuở xưa có nhiều vị trước khi thọ giới hay sắp làm Phật sự lớn,
thường phát nguyện tụng mấy muôn biến chú Đại Bi, hoặc một tạng kinh Kim
Cang Bát Nhã. Thuở xưa, các cư sĩ khi họp lại Niệm Phật Đường để kiết
thất, nếu ai nghiệp nặng niệm Phật không thanh tịnh, hay quán Phật không
được rõ ràng, vị Pháp sư chủ thất thường bảo phải lạy hương sám. Đây là
cách đốt một cây hương dài, rồi thành kính đảnh lễ hồng danh Phật sám hối,
cho đến khi nào cây hương tàn mới thôi. Có vị suốt trong thời kỳ kiết thất
bảy ngày hoặc hai mươi mốt ngày, toàn là lạy hương sám—In addition to the
above three methods, which range from the subtle to the gross, there is
also a fourth: repentance and the recitation of sutras, mantras and the
Buddha’s name. If performed regularly, repentance and recitation eradicate
bad karma and generate merit and wisdom. For this reason, many cultivators
in times past, before receiving the precepts or embarking upon some great
Dharma work such as building a temple or translating a sutra, would vow to
recite the Great Compassion Mantra tens of thousands of times, or to
recite the entire Larger Prajna Paramita Sutra, the longest sutra in the
Buddha canon. In the past, during lay retreats, if a practitioner had
heavy karmic obstructions and could not recite the Buddha’s name with a
pure mind or clearly visualize Amitabha Buddha, the presiding Dharma
Master would usually advise him to follow the practice of “bowing
repentance with incense.” This method consists of lighting a long incense
stick and respectfully bowing in repentance while uttering the Buddha’s
name, until the stick is burnt out. There are cases of individuals with
heavy karma who would spend the entire seven or twenty-one days retreat
doing nothing but "bo“ing with incense."
Bốn Cách Hàng Phục
Phiền Não: Four ways for a Buddhist to subdue afflictions—See Hàng
Phục Phiền Não.
Bốn Cách Nhìn Về Pháp
Giới: Theo Thiền Sư Suzuki trong Thiền Luận Tập III, ý niệm về bốn
cách nhìn về Pháp Giới khởi sáng từ những đại Thiền sư như Pháp Tạng, Trí
Nghiễm, Đỗ Thuận, và Trừng Quán, nhưng do sự thiết định cuối cùng của
Trừng Quán mà triết lý Hoa Nghiêm được đồng nhất với thuyết Tứ Pháp
Giới—Theo Thiền Sư D.T. Suzuki in Essays in Zen Buddhism, Book III, the
idea of the fourfold Dharmadhatu originated from Fa-Tsang, Chi-Yen,
Tu-Shun, and Têng-Kuan, but is was by final formulation of Têng-Kuan that
the philosophy of the Gandavyuha came to be identified with the doctrine
of the fourfold Dharmadhatu—See Tứ Pháp Giới.
Bốn Cách Trả Lời Câu
Hỏi: Four ways of answering questions—Theo Kinh Phúng Tụng trong
Trường Bộ Kinh, có bốn cách trả lời câu hỏi—According to the Sangiti
Sutta, there are four ways of answering questions:
1) Trả
lời câu hỏi một cách dứt khoát: Ekamsa-vyakaraniyo-panho (p)—The question
to be answered directly.
2) Trả
lời câu hỏi bằng cách phân tích: Vibhajja-vyakaraniyo-panho (p)—
Requiring an explanation.
3) Trả
lời câu hỏi bằng cách chất vấn: Patipuccha-vyakaraniyo-panho (p)—Requiring
a counter-question.
4) Trả
lời câu hỏi bằng cách giả lơ hay bỏ qua: Thapaniyo-panha (p)—To be set
aside.
Bốn Cảnh: Four
sights.
Bốn Chân Lý Cao Thượng:
The four Noble Truths:
1) Khổ
đế: The Truth of suffering.
2) Tập
đế: The Truth of the cause of suffering.
3) Diệt
đế: The Truth of the end of suffering.
4) Đạo
đế: The Truth of the Path that leads to the end of suffering.
** See Tứ Diệu Đế.
Bốn Cõi Duy Tâm:
Chỉ một tâm nầy mà có đủ đầy bốn cõi—This single mind encompasses the four
kinds of lands in their totality:
1) Cõi
Phàm Thánh Đồng Cư: The land of common residence of beings and Saints.
a) Phàm
Thánh Đồng Cư Tịnh Độ: Common Residence Pure Land.
b) Phàm
Thánh Đồng Cư Uế Độ: Như là cõi Ta Bà trong quốc độ nầy có phàm có Thánh ở
chung lẫn, mà phàm và Thánh đều có hai hạng—Common Residence Impure Land
where all ordinary beings and saints reside together. There are two types
of both ordinary people and saints:
·
Ác Chúng Sanh (địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, a tu la): Evil
beings (hells, hungry ghosts, animals, and asuras).
·
Thiện Chúng Sanh (trời và người): Good beings (devas and
humans).
2) Cõi
Phương Tiện Hữu Dư: The land of Expediency.
3) Cõi
Thật Báo Vô Chướng Ngại: The land of True Reward.
4) Cõi
Thường Tịch Quang: The land of Eternally tranquil light serenity and
illumination.
Bốn Cõi Tịnh Độ:
Four kinds of Pure Land—Theo các tông Tịnh Độ và Thiên Thai, cõi Tịnh Độ
của Đức Phật A Di Đà có bốn cõi—According to the Pure Land and T’ien-T’ai
schools, there are four realms in the Pure Land:
1) Phàm
Thánh Đồng Cư Độ: Nơi tất cả chúng sanh, từ Thánh đến phàm trong sáu
đường, cùng cư ngụ (từ địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, a tu la, nhơn, Thiên,
Bồ Tát, Phật)—The Land of Common Residence of Beings and Saints, or the
land where all beings, saints and Ordinary Beings of the six lower worlds,
dwell together (hells, hungry ghosts, animals, asuras, men, devas,
Bodhisattvas, abd Buddhas).
a) Đồng
Cư Tịnh Độ: Common Residence Pure Land.
b) Đồng
Cư Uế Độ: Common Residence Impure Land.
2) Phương
Tiện Tịnh Độ: Nơi cư ngụ của các bậc A La Hán và Bồ Tát cấp thấp—The Land
of Expediency, inhabited by Arhats and lesser Bodhisattvas.
3) Thực
Báo Tịnh Độ: Nơi cư ngụ của các bậc Bồ Tát ở cấp cao—The Land of Reward,
inhabited by the highest Bodhisattvas.
4) Thường
Tịch Quang Tịnh Độ: Nơi cư ngụ của chư Phật—The Land of Eternally
Quiescent Light, in which the Buddhas dwell.
Bốn Dòng Thác Sanh Tử:
Bốn dòng thác sanh tử của phàm nhân tục tử. Người trí muốn đến bến bờ giác
ngộ phải vượt qua những dòng thác nầy—The four torrents which sweep off
ordinary people in the cycle of births and deaths. In order to reach
liberation and enlightenment, one (wise people) must cross over these
torrents:
(A)
1) Dòng
thác Tham Dục: The torrent of desires.
2) Dòng
thác Sân Hận: The torrent of Anger (hatred).
3) Dòng
thác Tà Kiến: The torrent of Wrong Views.
4) Dòng
thác Si Mê: The torrent of Ignorance.
(B)
1) Dòng
thác Kiêu Mạn: The torrent of Pride.
2) Dòng
thác Nghi Hoặc: The torrent of Doubts.
3) Dòng
thác Tà Kiến: The torrent of Wrong Views.
4) Dòng
thác Si Mê: The torrent of Ignorance.
(C)
1) Dòng
thác Sát Hại: The torrent of Harming or Killing other sentient beings.
2) Dòng
thác Đạo Tặc: The torrent of Stealing.
3) Dòng
thác Dâm Dục: The torrent of Lust.
4) Dòng
thác Tà Vọng: The torrent of Wrong Views.
Bốn Đại Sự Trong Đời Tu:
Four serious matters in any cultivator’s life:
1) Tâm:
Citta (skt)—Mind—Phật dạy tâm yên cảnh lặng. Như vậy, sự quyết định trong
tâm cũng là sự quyết định Phật quả trong tương lai—The Buddha taught:
“When the mind is still, all realms are calm.” Therefore, the issue of
certainty is a determination of our future Buddhahood.
2)
Nghiệp: Karma (skt)—Có thể nghiệp đời trước hay đời nầy. Tuy nhiên, Hòa
thượng Thích Thanh Từ, một thiền sư nổi tiếng trong lịch sử Phật giáo Việt
Nam cận đại đã khẳng định: “Tu là chuyển nghiệp.” Như vậy nhân tạo nghiệp
của bất cứ đời nào, đều có thể chuyển được—Can be previous or present
karma. However, Most Venerable Thích Thanh Từ, a famous Zen Master in
recent Vietnamese Buddhist history confirmed that: “Cultivation means
transformation of karma.” Therefore, no matter what kind of karma, from
previous or present, can be transformed.
3) Nhân:
Hetu (skt)—Cause—Dụng công tu hành sao cho không tạo thêm nhân mới. Cổ đức
dạy: “Bồ tát sợ nhân, chúng sanh sợ quả.” Dù hãy còn là phàm phu, chúng ta
nên biết sợ nhơn để không hái quả—Try to zealously cultivate so that we
establish no causes. Ancient sages always reminded that “Bodhisattvas fear
causes, ordinary people fear results.” Even though we are still ordinary
people, try to know to fear “causes” so that we don’t have to reap
“results.”
4) Duyên:
Pratyaya (skt)—Conditions—Duyên là những hoàn cảnh bên ngoài. Nếu đạo lực
yếu thì chúng ta có thể bị hoàn cảnh bên ngoài lôi cuốn; tuy nhiên nếu đạo
lực cao thì không có thứ gì có thể lôi cuốn mình được, như lời của Lục Tổ
Huệ Năng: “không phải phướn động, cũng không phải gió động, mà chính tâm
mình động.” Như vâng giữ đúng theo lời tổ dạy, thì không có duyên nào có
thể làm phân bón cho kiếp luân hồi được—Conditions are external
circumstances. If our cultivation power is weak, we can be attracted by
external conditions; however, if our cultivation power is strong, no
external environments can attract us. The sixth patriarch told the monks
in Kuang Chou that: “It is not the wind moving, and it is not the flag
moving, it is our mind moving.” So if we follow the teachings of the sixth
patriarch, no external environments can be fertilizers to our cycle of
births and deaths.
Bốn Đề Mục Thiền Vô Sắc:
The four immaterial states—See Tứ Không Xứ.
Bốn Điều Cần Thiết Cho
Cuộc Sống Xuất Gia: The four necessaries of a monk:
1) Ăn:
Food—Một vị Tỳ Kheo chỉ nên khất thực—A Bhikhsu should get his food
through alms-begging.
2) Mặc:
Clothes—Một vị Tỳ Kheo chỉ nên mặc y bá nạp bằng những vải cũ rách—A
Bhikhsu should wear old and cast-off garments.
3) Ở:
Dwelling—Nhà của một vị Tỳ Kheo qua đêm là dưới gốc cây hay trên phiến
đá—Home for a Bhikhsu is where night finds as under a tree or on a rock.
4) Bịnh:
Medicine—Thuốc của một vị Tỳ Kheo làm bằng lá cây (có chỗ nói nước đái)—A
Bhikhsu should use medicine made from leaves (in some sutras mentioned
Urine).
Bốn Điều Không Thể Đạt
Được: The four unattainables:
1)
Perpetual youth—Trẻ mãi không già.
2) No
sickness—Không ốm đau bịnh hoạn.
3)
Perenial life—Sống trường cửu.
4) No
death—Bất tử.
Bốn Điều Không Thể Xem
Thường: Four things which may not be treated lightly:
1) Một vị
thái tử trẻ, dù bây giờ trẻ, nhưng ngày nào đó ông ta có thể trở thành một
vị vua cai trị cả vương quốc: A young prince—Even though he is young now,
but someday he may become a king and rule the whole kingdom.
2) Một
con rắn con, dù nhỏ nhưng nọc độc của nó thể giết chết con người: A small
snake—Though small but its poison can kill people.
3) Một
đám lửa nhỏ, dù nhỏ thế mấy trong lúc nầy, nhưng một hai giờ sau hoặc một
hai ngày sau nó có thể tàn phá cả một khu rừng: A tiny fire—Even though it
is small at this very moment, but the next hour or next day, it can
destroy the whole immense forest.
4) Một
chú tiểu, tuy bây giờ làm tiểu nhưng có thể trở thành một vị La Hán hay Bồ
Tát về sau nầy: A novie (chú tiểu)—Even though a beginner at this time,
but he may become an arhat or a bodhisattva later.
Bốn Điều Tham Chiếu Lớn:
Mahapadesa (p)—Theo Đức Phật và Phật Pháp của Hòa Thượng Narada, trong khi
đi lang thang từ làng nầy qua làng khác, một ngày nọ Đức Phật đến
Bhoganagara và tại đây Ngài đã dạy Bốn Đại Giáo Pháp hay bốn điều tham
chiếu lớn, mà y cứ theo đó chúng ta có thể trắc nghiệm và làm sáng tỏ
những lời giáo huấn của Đức Phật—On his way to preach, the Buddha passed
from village to village. One day he arrived at Bhoganagara and there he
taught the four great citations or references by means of which the word
of the Buddha could be tested and clarified.
1) Một vị
Tỳ Kheo có thể nói rằng tôi nghe chính Đức Phật đã thốt ra như vầy: “Đây
là Giáo Lý, đây là Giới Luật, đây là Giáo Huấn của Đức Bổn Sư.” Những lời
ấy không nên được chấp nhận , cũng không nên bị loại bỏ ngoài tai. Không
chấp nhân, không gạt bỏ ngoài tai, mà phải nghiên cứu tường tận từng chữ,
từng tiếng, rồi đối chiếu và so sánh với kinh điển và giới luật. Nếu khi
so sánh kỹ càng mà thấy rằng nó không phù hợp với Kinh Luật, thì có thể
kết luận chắc chắn đây không phải là Phật ngôn, cần nên loại bỏ. Khi so
sánh và đối chiếu, thấy những lời ấy phù hợp với kinh điển và giới luật,
thì có thể kết luận chắc chắn đây chính là Phật ngôn—A monk may say thus,
from the mouth of the Buddha himself have I heard, have I received thus:
"This is the doctrine, this is the discipline, his is the teaching of the
Master.” The monk’s words should never be accepted nor rejected. Without
either accepting or rejecting such words, one should study throroughly
every word and syllable, then compare and contrast them with the Buddhist
sutras (discourses) and vinaya (disciplinary rules). If when so compared,
they do not harmonise with the discourses and do not agree with the
disciplinary rules, then you may come to the conclusion that this is not
the word of the Exalted One, this has wrongly grasped by the monk, now you
should reject it. If when compared and contrasted, the harmonise with the
discourses and agree with the disciplinary rules, you may come to a
conclusion that this is the word of the Exalted One, this has correctly
been grasped by the monk.
2) Lại
nữa, một vị Tỳ Kheo có thể nói rằng trong ngôi chùa kia có chúng Tăng sống
chung và có những vị sư lãnh đạo. Tôi nghe chính các sư ấy nói như thế
nầy: “Đây là Giáo Lý, đây là Giới Luật, đây là lời Giáo Huấn của Đức Bổn
Sư.” Khi nghe như vậy, không nên chấp nhận ngay, mà cũng không nên chối bỏ
ngoài tai, mà phải nghiên cứu tường tận từng chữ, từng tiếng, rồi đem đối
chiếu, so sánh với kinh luật, nếu thấy không phù hợp, thì có thể kết luận
đây không phải là Phật ngôn, cần phải loại bỏ. Nếu sau khi đối chiếu, so
sánh , mà thấy những lời ấy phù hợp với kinh luật, thì có thể kết luận
chắc chắn đây chính là Phật ngôn—Again a monk may say thus, in such a
monastery lives the Sangha together with leading Theras. From the mouth of
that Sangha have I heard, have I received thus: "“his is the doctrine,
this is the discipline, this is the Master’s teaching.” His words should
neither be accepted nor rejected. Without either accepting or rejecting
such words, study thoroughly every word and syllable, them compare and
contrast them with the sutras and disciplinary rules. If, when so compared
and contrasted, they do not harmonize with the discourses and do not agree
with the disciplinary rules, then you may come to the certain conclusion
that this is not the word of the Exalted One, thia has been wrongly
grasped by the monk, you should reject them. If, when compared and
contrasted, they harmonize with the discourses and agree with the
disciplinary rules, you may come to a certain conclusion that this is the
word of the Exalted One.
3) Lại
nữa, một vị Tỳ Kheo có thể nói rằng trong cảnh chùa kia có nhiều vị sư và
những vị cao Tăng học rộng, thông suốt Giáo Lý, hiểu rộng Kinh Luật và
Pháp Yếu và chính tôi nghe các vị ấy nói như vầy: “Đây là Giáo Pháp, đây
là Giới Luật, đây là Giáo Huấn của Đức Bổn Sư.” Khi nghe như vậy, không
nên chấp nhận, cũng không nên chối bỏ, mà phải nghiên cứu tường tận từng
chữ, từng tiếng, rồi đem đối chiếu và so sánh với kinh luật. Nếu thấy
những lời ấy không phù hợp với kinh luật, thì có thể kết luận chắc chắn
đây không phải là Phật ngôn, nên loại bỏ. Nếu sau khi đối chiếu so sánh,
thấy những lời ấy phù hợp, có thể kết luận chắc chắn đây chính là Phật
ngôn—Again a monk may say thus, in such a monastery dwell many Theras and
Bhikkhus of great learning, versed in the teachings, proficient in the
Dharma, Vinaya, and Matrices. From the mouth of those Theras have I haerd,
have I received thus: “This is the Dharma, this is the Vinaya, this is the
teaching of the Master.” His words should never be accepted nor rejected.
Without either accepting or rejecting such words, you should study
thoroughly every word and syllable, then compare and contrast them with
the sutras and disciplinary rules. If, when so compared and contrasted,
they do not harmonise with the discourses and do not agree with the
vinaya, you may come to a certain conclusion that this is not the word of
the Exalted One, then you should reject them. If, when compared and
contrasted, they harmonize with the sutras and agee with the Vinaya, you
then may come to a certain conclusion that this is the word of the Exalted
One.
4) Lại
nữa, một vị Tỳ Kheo có thể nói rằng trong ngôi chùa kia có vị Tăng cao hạ,
học rộng và thông suốt giáo lý, hiểu rộng kinh luật và các pháp yếu. Tôi
có nghe vị Tăng cao hạ ấy nói như vầy: “Đây là Giáo Pháp, đây là Giới
Luật, đây là Giáo Huấn của Đức Bổn Sư.” Nghe xong những lời nầy, không nên
chấp nhận hay chối bỏ, mà phải nghiên cứu tường tận từng chữ, từng tiếng,
rồi đem đối chiếu và so sánh với kinh luật, nếu thấy những lời ấy không
phù hợp với kinh luật, thì có thể kết luận rằng đây không phải là Phật
ngôn, phải loại bỏ. Ví bằng sau khi đối chiếu so sánh với kinh luật mà
thấy chúng phù hợp, thì có thể kết luận chắc chắn đây chính là Phật
ngôn—Again a monk may say this, in such a monastery lives an elderly monk
of great learning, versed in the teachings, proficient in the Dharma,
Vinaya, and Matrices. From the mouth of that Thera have I hard, have I
received thus: “This is the Dharma, this is the Vinaya, this is the
Master’s teaching.” His words should neither accepted nor rejected.
Without either accepting or rejecting such words, study throughly every
word and syllable, then compare and contrast them with the discourses and
the disciplinary rules. If, when compared and contrasted, they do not
harmonise with sutra and vinaya, you may come to a certain conclusion that
this is not the word of the Exalted one. If, it should be rejected. If,
when compared and contrast, they harmonise with the Sutra and agreed with
the Vinaya, you may come to a certain conclusion that this is the Master’s
teachings.
Bốn Đối Tượng Thích Hợp
Cho Việc Tập Trung Tư Tưởng: Theo Những Hạt Ngọc Trí Tuệ Phật Giáo của
Hòa Thượng Dhammananda, trong Thiền Phật Giáo có bốn mươi đối tượng thích
hợp mà bạn có thể phát triển tập trung; tuy nhiên, ngài đã đề nghị bốn đối
tượng sau đây—According to The Gems of Buddhism Wisdom written by Most
Venerable Dhammananda, in Buddhist meditation there are forty objects of
meditation that you can use to develop concentration; however, he
recommended the following four objects:
1) Đối
tượng phải trung tính; nếu nó gợi lên bất cứ cảm nghĩ mạnh mẽ về tham,
sân, vân vân, bạn không thể làm tâm bình tĩnh mà còn bị bồn chồn và khích
động: The object must be neutral; if it evokes any strong feelings of
lust, hate, etc., then you cannot calm your mind but will only make it
restless and agitated.
2) Đối
tượng có thể ở trong hay ở ngoài. Đối tượng ở trong là bên trong bạn. Thí
dụ đối tượng ở trong như hơi thở, lòng từ ái, từ bi vân vân. Đối tượng bên
ngoài có nghĩa là đối tượng ở bên ngoài bạn như hình Đức Phật, một đóa
hoa, ngọn núi, vòng ánh sáng, một ngọn lửa của ngọn nến vân vân: The
object can be either internal or external: An internal is inside you.
Examples of internal objects are breathing, loving-kindness, compassion,
etc. An external object means an object that is outside of you. Examples
of external objects are an image of the Buddha, a flower, a mountain, a
circle of light, a circle of light, a candle flame, etc.
3) Đối
tượng phải vừa ý, tâm có thể chấp nhận được; nếu tâm luôn bác bỏ đối
tượng, sự tập trung sẽ bị yếu đi: The object must be pleasing and
acceptable to the mind; if the mind constantly rejects the object, the
concentration will be weak.
4) Nhớ
rằng đối tượng có lúc thích hợp với bạn nhưng rất có thể không được tâm
chấp nhận vào lúc khác. Thí dụ, sau một cơn thịnh nộ, rất khó khăn cho bạn
sử dụng lòng từ ái như một đối tượng để tập trung. Vào những lúc như thế,
cảm xúc nóng giận tự nó có thể dùng là đối tượng tốt để tập trung:
Remember that the object that suits you at one time may not be acceptable
to the mind at another time. For example, after an outburst of anger, it
is difficult to use loving-kindness as an object of your concentration. At
such time, the emotion of anger itself might serve as a better object of
concentration.
Bốn Động Lực Giác Ngộ:
Four powers for attaining enlightenment:
1) Tự
lực: Independent personal power.
2) Tha
lực: Power derived from others.
3) Nghiệp
lực tiền kiếp: Power of good past karma.
4) Ngoại
lực: Power arising from environment.
Bốn Giai Cấp Ở Ấn Độ
Trong Thời Đức Phật: Four classes in Indian society during the time of
the Buddha—See Tứ Giai Cấp Ấn Độ.
Bốn Hạng Người: Đức
Phật phân chia tất cả nhân loại thành bốn hạng—The Buddha has classified
all mankind into four kinds.
1) Những
người làm việc vì lợi ích của chính mình, chứ không vì lợi ích của người
khác: Những người nầy chỉ phấn đấu loại bỏ tham sân si cho chính mình, chứ
không khuyến khích người khác loại bỏ tham sân si và cũng không làm phúc
lợi cho người khác—Those who work for their own good, but not for the good
of others. They are those who strive for the abolition of greed, hatred
and delusion in themselves, but they do not encourage others to abolish
greed, hatred and delusion and also do not do anything for the welfare of
others.
2) Những
người làm việc vì lợi ích của người, chứ không vì lợi ích của mình: Hạng
người nầy khuyến khích người khác loại bỏ nhược điểm con người và phục vụ
cho họ nhưng không tự mình tranh đấu loại bỏ nhược điểm của chính mình
(năng thuyết bất năng hành)—Those who work for the good of others, but not
for their own good. They are those who encourage others to abolish human
weaknesses and do some service to them, but do not strive for the
abolition of their own weaknesses.
3) Những
người làm việc không vì lợi ích của mình mà cũng chẳng vì lợi ích của
người: Hạng người nầy không tranh đấu để loại bỏ nhược điểm của chính mình
và cũng chẳng khuyến khích người khác loại bỏ các nhược điểm và cũng không
phục vụ tha nhân—Those who work neither for their own good nor for the
good of others. They are those who neither strive for the abolition of
their own weaknesses, nor do they encourage others to abolish their
weaknesses, nor do they do some service to others.
4) Những
người làm việc vì lợi ích của mình và cũng làm việc vì lợi ích của người:
Hạng người nầy tranh đấu để loại bỏ tư tưởng tội lỗi trong tâm của mình,
đồng thời giúp người khác loại bỏ tư tưởng tội lỗi trong tâm của họ—Those
who work for their own good as well as for the good of others. They are
those who strive for the abolition of evil thoughts from their minds and
at the same time help others abolish evil thoughts in their minds.
Bốn Hạng Người Mà Phật
Tử Không Nên Xem Là Bạn: Four types of people who can be seen as foes
in disguise—Theo Kinh Thi Ca La Việt, có bốn hạng người mà Phật tử không
nên xem là bạn—According to the Sigalaka Sutra, there are four types of
people who can be seen as foes in disguise:
1) Người
mà vật gì cũng lấy phải được xem không phải là bạn, dầu họ tự xem là bạn
mình: The man who takes everything.
Nầy gia
chủ tử, có bốn trường hợp người vật gì cũng lấy phải được xem như không
phải là bạn, dầu họ tự xem là bạn mình—The man who takes everything, can
be seen to be a false friend for four reasons:
·
Người gặp bất cứ vật gì cũng lấy: He takes everything.
·
Người cho ít mà xin nhiều: He wants a lot for very little.
·
Người vì sợ mà làm: What he must do, he does out of fear.
·
Người làm vì mưu lợi cho mình: He seeks his own ends.
2) Người
chỉ biết nói giỏi phải được xem không phải là bạn, dầu họ tự xem là bạn
mình: The great talker.
Này gia
chủ tử, có bốn trường hợp người chỉ biết nói giỏi phải được xem như không
phải là bạn—The great talker can be seen to be a false friend for four
reasons:
·
Tỏ lộ thân tình việc đã qua: He talks of favours in the
past.
·
Tỏ lộ thân tình việc chưa đến: He talks of favours in the
future.
·
Mua chuộc cảm tình bằng sáo ngữ: He mouths empty phrases of
goodwill.
·
Khi có công việc, tự tỏ sự bất lực của mình: When something
needs to be done in the present, he pleads inability owing to some
disaster.
3) Người
khéo nịnh hót phải được xem không phải là bạn, dầu họ tự xem là bạn mình:
The flatterer.
Này gia
chủ tử, có bốn trường hợp kẻ nịnh hót phải được xem như không phải là
bạn—The flatterer can be seen to be a false friend for four reasons:
·
Đồng ý các việc ác: He assents to bad actions.
·
Không đồng ý các việc thiện: He dissents from good actions.
·
Trước mặt tán thán: He praises you to your face.
·
Sau lưng chỉ trích: He disparages you behind your back.
4) Người
tiêu pha xa xỉ phải được xem không phải là bạn, dầu họ tự xem là bạn mình:
The fellow-spendthrift.
Này gia
chủ tử, có bốn trường hợp người tiêu pha xa xỉ phải được xem như không
phải là bạn, dầu họ tự cho là bạn của mình—The fellow-spendthrift can be
seen to be a false friend for four reasons:
·
Là bạn khi mình đam mê các loại rượu: He is a companion when
you indulge in strong drink.
·
Là bạn khi mình du hành đường phố phi thời: He is a
companion when you haunt the streets at unfitting times.
·
Là bạn khi mình la cà đình đám hý viện: He is a companion
when you frequent fairs.
·
Là bạn khi mình đam mê cờ bạc: He is a companion when you
indulge in gambling.
Bốn Hạng Người Mà Phật
Tử Nên Xem Là Bạn Trung Kiên: Four types of people who can be seen to
be loyal friends—Theo Kinh Thi Ca La Việt, có bốn hạng người mà Phật tử
nên xem là bạn trung kiên—According to the Sigalaka Sutra, there are four
types of people who can be seen to be loyal friends:
1) Người
bạn giúp đở phải được xem là bạn chân thật: The friend who is a helper.
Này gia
chủ tử, có bốn trường hợp , người bạn giúp đở phải được xem là bạn chân
thật—The helpful friend can be seen to be a loyal friend in four ways:
·
Che chở cho bạn khi bạn vô ý phóng dật: He looks after you
when you are inattentive.
·
Che chở của cải cho bạn khi bạn vô ý phóng dật: He looks
after your possessions when you are inattentive.
·
Là chỗ nương tựa cho bạn khi bạn sợ hãi: He is a refuge when
you are afraid.
·
Khi bạn có công việc sẽ giúp đở của cải cho bạn gấp hai lần
những gì bạn thiếu: When some business is to be done he lets you have
twice what you ask for.
2) Người
bạn chung thủy trong khổ cũng như vui phải được xem là bạn chân thật: The
friend who is the same in happy and unhappy times.
Này gia
chủ tử, có bốn trường hợp người bạn chung thủy trong khổ cũng như trong
vui phải được xem là người bạn chân thật—The friend who is the same in
happy and unhappy times can be seen to be a loyal friend in four ways:
·
Nói cho bạn biết điều bí mật của mình: He tells you his
secrets.
·
Giữ gìn kín điều bí mật của bạn: He guards your secrets.
·
Không bỏ bạn khi bạn gặp khó khăn: He does not let you down
in misfortune.
·
Dám hy sinh thân mạng vì bạn: He would even sacrifice his
life for you.
3) Người
bạn khuyên điều lợi ích phải được xem là bạn chân thật: The friend who
pints out what is good for you.
Này gia
chủ tử, có bốn trường hợp, người bạn khuyên điều lợi ích phải được xem là
bạn—The friend who points out what is good for you can be seen to be a
loyal friend in four ways:
·
Ngăn chận bạn không cho làm điều ác: He keeps you from
wrongdoing.
·
Khuyến khích bạn làm điều thiện: He supports you in doing
good.
·
Cho bạn nghe điều bạn chưa nghe: He informs you of what you
did not know.
·
Cho bạn biết con đường lên cõi chư Thiên: He points out the
path to Heaven.
4) Người
bạn có lòng thương tưởng phải được xem là bạn chân thật: The friend who is
sympathetic.
Này gia
chủ tử, có bốn trường hợp, người bạn thương tưởng phải được xem là người
bạn chân thật—The sympathetic friend can be seen to be a loyal friend in
four ways:
·
Không hoan hỷ khi bạn gặp hoạn nạn: He does not rejoice at
your misfortune.
·
Hoan hỷ khi bạn gặp may mắn: He rejoices at your good
fortune.
·
Ngăn chận những ai nói xấu bạn: He stops others who speaks
against you.
·
Khuyến khích những ai tán thán bạn: He commends others who
speak in praise of you.
Bốn Hạng Người Mộ Đạo:
Four kinds of devotees to Buddhism:
1) Tăng:
Bhiksus—Monks.
2) Ni:
Bhiksunis—Nuns.
3) Ưu bà
tắc: Upasakas—Laymen.
4) Ưu bà
di: Upasikas—Laywomen.
Bốn Hạng Vũ Trụ:
Four states of universe—See Tứ Chủng Vũ Trụ, and Tứ Pháp Giới.
Bốn Hoàn Cảnh Dẫn Đến
Thiền Công Án: Four circumstances that lead to the koan exercise—Theo
Thiền sư D.T. Suzuki trong Thiền Luận, Tập II, sự canh tân của lối tu tập
công án chắc chắn do bởi bốn hoàn cảnh sau đây—According to Zen master
D.T. Suzuki in the Essays in Zen Buddhism, the innovation of the koan
exercise was inevitable owing to the following four circumstances.
1) Nếu
Thiền học cứ trôi đều theo đà của nó, nó đã đi đến chỗ tự tiêu diệt do bản
chất thượng lư về học vấn và kinh nghiệm của nó: If the study of Zen had
run its natural course it would soon have come to its own extinction owing
to the aristocratic nature of its discipline and experience.
2) Bởi vì
dần dần Thiền đã cạn nguồn sáng tạo trong vòng hai hay ba trăm năm phát
triển sau thời Lục Tổ Huệ Năng, nên đã cần phải có một sinh khí mới mẻ
bừng tỉnh dậy để có thể sống còn, bằng cách ứng dụng một phương pháp triệt
để nào đó khả dĩ khuấy mạnh tâm thức Thiền: As Zen gradually exhausted its
creative originality in two or three hundred years of the development
after the time of the Sixth Patriarch Hui-Neng, it found that a new life
must be awakened in it, if it were to survive, by using some radical
method which would vigorously stir up the Zen consciousness.
3) Trải
qua một thời gian hoạt động sáng tạo, các chất liệu đã đuợc tập đại thành
gọi là ‘thoại đầu,’ ‘cơ duyên,’ hay ‘vấn đáp,’ chúng tạo thành cốt cách
của lịch sử Thiền; nhưng những cái nầy lại mở ngỏ cho giải thích của trí
thức, có hại cho sự chín mùi của kinh nghiệm Thiền: With the passing of
the age of creative activity there was an accumulation of materials known
as ‘stories,’ or ‘conditions,’ or ‘questions and answers,’ which made up
the bulk of Zen history; and this tended to invite intellectual
interpretation, ruinous to the maturing of the Zen experience.
4) Sự
sinh trưởng như tằm ăn dâu của thứ mặc chiếu Thiền kể từ khởi thủy của sử
Thiền là mối đe dọa hiểm nghèo nhất cho kinh nghiệm sống động của Thiền.
Cả hai xu hướng, chủ trương tịch mặc hay phái ‘mặc chiếu,’ và chủ trương
trực giác hay kinh nghiệm trí năng, ngay từ đầu đã tranh chấp nhau, nếu
không công khai thì cũng âm thầm: The rampant growth of Zen quietism since
the beginning of Zen history most dangerously threatened the living
experience of Zen. The two tendencies, quietism or the school of ‘silent
illumination,’ and intuitionalism or the school of noetic experience, had
been from the beginning , covertly if not openly, at war with each
other.
Bốn Loại Chúng Sanh:
See Bốn Loại Sanh Tử.
Bốn Loại Giới Luật Cao
Thượng: Theo Hòa Thượng Narada trong Đức Phật và Phật Pháp, một vị Tỳ
Kheo phải giữ bốn giới luật cao thượng. Vị nào phạm một trong bốn trọng
giới kể trên phải chịu tội “bất cộng trụ” và đương nhiên không còn là Tỳ
Kheo nữa. Nếu muốn trở lại đời sống tu hành, vị ấy phải xin xuất gia và
trở lại làm Sa Di—According to Most Venerable Narada in The Buddha and His
Teachings, a monk is expected to observe the four kinds of higher
morality. If a monk violates any one of the above precepts, he becomes
defeated or parajika, and automatically ceases to a a Bhikkhu. If he
wishes, he can re-enter the order and remain as a Sramanera or a novice:
1) Ba La
Đề Mộc Xoa: Patimokkha Sila (p)—Giới luật căn bản mà một vị Tỳ Kheo phải
trì giữ—The fundamental moral code, various rules which a monk is expected
to observe.
2) Giới
Thu Thúc Lục Căn: Indriyasamvara sila (p)—Morality pertaining to
sense-restraint.
3) Giới
Thanh Tịnh: Ajivaparisuddhi sila (p)—Morality pertaining to purity of
livelihood.
4) Giới
về cách xử dụng vật dụng hằng ngày: Paccayasannissita sila (p)—Morality
pertaining to the use of the necessaries of life.
Bốn Loại Hạnh Phúc Của
Người Cư Sĩ: Four kinds of bliss for lay-people—See Tứ Chủng Hạnh
Phúc.
Bốn Loại Nghiệp:
Kammacatukkam (p)—Four types of kamma (karma)—Theo A Tỳ Đạt Ma Luận (Vi
Diệu Pháp), có bốn loại nghiệp—According to the Abhidharma, there are four
types of kamma (karma):
(A) Theo
phương thức Tác Dụng—By Way of Function:
1) Nghiệp
Tái Tạo: Janaka (skt)—Productive Kamma (karma)—See Nghiệp Tái Tạo.
2) Nghiệp
Trợ Duyên: Upatthambaka (p)—Suportive kamma (karma)—See Nghiệp Trợ Duyên.
3) Nghiệp
Bổ Đồng: Upapilaka (p)—Còn gọi là nghiệp ngăn trở—Obstructive kamma
(karma)—See Nghiệp Ngăn Trở.
4) Nghiệp
Tiêu Diệt: Upaghstaka (p)—Destructive kamma (karma)—See Nghiệp Tiêu Diệt.
(B) Theo thứ
tự trổ quả—By order of ripening:
1) Trọng
Nghiệp: Garuka (p)—Weighty kamma (karma)—See Trọng Nghiệp.
2) Cận Tử
Nghiệp: Asanna (p)—Death-proximate kamma (karma)—See Nghiệp Cận Tử.
3) Thường
Nghiệp: Acinna (p)—Habitual kamma (karma)—See Thường Nghiệp.
4) Tích
Trử Nghiệp: Katatta (p)—Còn gọi là nghiệp tích tụ—Reserve kamma
(karma)—See Nghiệp Tích Tụ.
(C) Nghiệp
theo thời gian trổ quả—By time of ripening:
1) Hiện
Nghiệp: Ditthadhammavedaniya (p)—Immediately effective kamma (karma)—See
Hiện Nghiệp.
2) Hậu
Nghiệp: Upapajjavedaniya (p)—Subsequently effective kamma (karma)—See Hậu
Nghiệp.
3) Nghiệp
Vô Hạn Định: Aparapariyavedaniya (p)—Indefinitely effective kamma
(karma)—See Nghiệp Vô Hạn Định.
4) Nghiệp
Vô Hiệu Lực: Ahosi (p)—Defunct kamma (karma)—See Nghiệp Vô Hiệu Lực.
(D) Nghiệp
Theo nơi chốn mà trổ quả—By place of ripening:
1) Nghiệp
Bất Thiện: Unwholesome kamma (karma)—See Bất Thiện Nghiệp.
2) Nghiệp
Thiện Dục Giới: Wholesome kamma (karma) pertaining to the sense sphere.
3) Nghiệp
Thiện Sắc Giới: Wholesome kamma (karma) pertaining to the fine-material
sphere.
4) Nghiệp
Thiện Vô Sắc Giới: Wholesome kamma (karma) pertaining to the immaterial
sphere.
Bốn Loại Sanh Tử:
Tứ Chủng Sanh Tử—Four kinds of rebirth dependent on present deeds:
1) Từ chỗ
nghèo hèn tối ám sanh vào chỗ nghèo hèn tối ám: From obscurity and poverty
to be reborn in the same condition.
2) Từ chỗ
nghèo hèn tối ám sanh vào chỗ giàu sang vinh hiển: From obscurity and
poverty to be reborn in light and honor.
3) Từ chỗ
giàu sang vinh hiển sanh vào chỗ nghèo hèn tối ám: From light and honor to
be reborn in obscurity and poverty.
4) Từ chỗ
giàu sang vinh hiển sanh vào cõi trời: From light and honor to be reborn
in heavens.
Bốn Loại Tâm Vương:
Catubbidha-citta (p)—Theo A Tỳ Đạt Ma Luận (Vi Diệu Pháp), có bốn loại tâm
vương—According to the Abhidharma, there are four classes of
consciousness:
I. Tâm
thuộc Dục Giới—Kamavacaram (p)—Sense-sphere consciousness—See Tâm Dục
Giới.
II. Tâm
thuộc Sắc Giới: Rupavacaram (p)—Fine-material-sphere consciousness—See Tâm
Sắc Giới.
III. Tâm
thuộc Vô Sắc Giới: Arupavacaram (p)—Immaterial-sphere consciousness—See
Tâm Vô Sắc Giới.
IV. Tâm Siêu
Thế: Lokutaran (p)—Supermundane consciousness—See Tâm Siêu Thế.
Bốn Loại Vũ Trụ:
See Tứ Chủng Vũ Trụ, and Tứ Pháp Giới.
Bốn Mươi Đề Mục Hành
Thiền: Theo Vi Diệu Pháp, có bốn mươi đề mục hành thiền—According to
The Abhidharma, there are forty meditation subjects.
1-10) Thập
Đại: Kasina (p)—Ten kasinas—See Kasina in
Sanskrit/Pali-Vietnamese Section.
11-20)Mười Đề Mục về Bất Tịnh: Ten
Asubha (p)—See Mười Đề Mục Bất
Tịnh.
21-30) Mười
Đề Mục Suy Niệm: Anussati (p)—Ten recollections—See Mười Đề Mục Suy Niệm.
31-34)Tứ Vô Lượng Tâm:
Four illimitables—
See Tứ Vô Lượng
Tâm.
35) Một
Đề Mục Quán Tưởng: Sanna (p)—Một đề mục về tri giác—One perception—See
Nhất Quán (2).
36) Một
Đề Mục Phân Tách: One
Analysis—See
Một Đề Mục Phân Tách.
37-40)Bốn Đề Mục về Thiền
Vô Sắc: Four
subjects on the
immaterial states—See
Tứ Không Xứ.
Bốn Mươi Sáu Mùa An Cư
Kiết Hạ Của Đức Phật: Forty-six rainy season retreats of the Buddha.
1)
Rsi-patana.
2-4)
Vương Xá: Rajagrha (skt).
5) Tỳ Xá
Ly: Vaisali.
6)
Mankula-parvata.
7) Đao
Lợi Thiên: Trayastrimsa Heaven.
8)
Bhesakalavana (gần Summanra-giri).
9) Kiều
Thường Di: Kausambi.
10)
Parikeyyaka.
11) Nala.
12) Veranja.
13)
Caliya-parvata.
14) Tịnh Xá
Kỳ Hoàn trong thành Xá Vệ: Jetavana in Sravasti.
15) Thành Ca
Tỳ La Vệ: Kapilavastu.
16) Alavi.
17) Thành
Vương Xá: Rajagrha.
18-19) Caliya-parvata.
20) Thành
Vương Xá: Rajagrha.
21-46) Tịnh Xá Kỳ Hoàn trong thành Xá Vệ: Jetavana in Sravasti.
Bốn Mươi Tám Giới Khinh:
Forty Eight Secondary or Lighter Precepts which the Buddha taught all
Bodhisattvas in the Brahma-Net Sutra:
1) Giới
Kính Thầy Bạn: Respect toward Teachers and Friends.
2) Giới
Không Uống Rượu: Not to Drink Intoxicant Substances.
3) Giới
Không Ăn Thịt: Not to Deliberately Eat Meat.
4) Giới
Không Ăn Ngũ Vị Tân: Not to eat the Five Pungent Herbs (tỏi--garlic,
hẹ—chives, kiệu—leeks, hành—onions, hưng cừ—càri—asafoetida).
5) Giới
Không Chịu Phát Tâm Dạy người Sám Hối: Not to Be Willing to Teach
Repentence.
6) Giới
Không Cúng Dường Thỉnh Pháp: Not to Fail to Request the Dharma or Make
Offerings.
7) Giới
Không Đi nghe Pháp: Not to Fail to Attend Dharma Lectures.
8) Giới
Đan Tâm Phế Bỏ Đại Thừa: Not to Deliberately Turn Away from the Mahayana.
9) Giới
Không Khán Bịnh: Failing to Care for the Sick (both physical and mental).
10) Giới Chứa
Chấp Khí Cụ Sát Sanh: Not to Store Deadly Weapons.
11) Giới Đi
Sứ: Not to Serve as an Emissary.
12) Giới Buôn
Bán Phi Pháp: Not to Do Unlawful Businesses.
13) Giới Hủy
Báng Phật Pháp: Not to Slander the Buddha Dharma.
14) Giới
Phóng Hỏa: Not to Start Wildfire.
15) Giới Dạy
Giáo Lý Ngoài Đại Thừa: Not to Teach Non-Mahayana Dharma.
16) Giới Vì
Lợi Mà Giảng Pháp Lộn Lạo: Not to Expound External Theories for Own
Gaining.
17) Giới Cậy
Thế Lực Để Quyên Góp Tiền Của: Not to Rely on Others’ Powers such as
Officials to raise funds.
18) Giới
Không Thông Hiểu Mà Làm Thầy Truyền Giới: Not to serve as a Dharma
Transmission Teacher while not understanding sufficiently the Dharma and
the Moral Codes.
19) Giới
Lưỡng Thiệt: Not to Speak with Double-Tongued Speech.
20) Giới
Không Phóng Sanh: Fail to Liberate Sentient Beings.
21) Giới Đem
Sân Trả Sân, Đem Đánh Trả Đánh: Not to Return Anger for Anger, Blow for
Blow.
22) Giới Kiêu
Mạn, Không Thỉnh Pháp: Being Arrogant (Refuse instructions on the sutras
and moral codes from Dharma Master on account of his own intelligence) and
Refuse to request the Dharma.
23) Giới
Khinh Ngạo Không Dạy Pháp cho những người đang cầu hiểu pháp giới: Not to
Arrogantly refuse to Answer Dharma Law to Those Who Seek the meaning of
Sutras and Moral Codes.
24) Giới
Không Tu Tập Giáo Pháp Đại Thừa: Fail to Practice Mahayana Teachings.
25) Giới
Tri-Chúng Vụng Về: To Serve as an Unskilled Abbot or Unskilled Leadership
of the Assembly.
26) Giới
Riêng Thọ Lợi Dưỡng. Tất cả của cúng dường phải thuộc về Tăng già hay chùa
viện. Vì thế nhận cúng dường riêng là một hình thức ăn cắp của chùa viện:
Not to Accept Personal Offerings. All offerings should belong to the
Sangha or monasteries. Therefore, to accept personal offerings is a form
of stealing the possessions of the Sangha.
27) Giới Thọ
Biệt Thỉnh, không được nhận cúng dường riêng dù được mời đặc biệt đến nhà
Phật tử tại gia, vì làm như vậy cũng là một hình thức ăn cắp của Tăng già:
Not to Accept any offerings from Personal Invitations because to do so is
also to steal the possessions of the Sangha.
28) Giới Biệt
Thỉnh Tăng: Laypersons not to Issue Discriminatory Invitations.
29) Giới Tà
Mạng Nuôi Sống, không được làm thương mại trong bất cứ hoàn cảnh nào: Not
to Persue Improper Livelihoods such as engaging in the worldly businesses
under any circumstances.
30) Giới Quản
Lý thương mại cho Bạch Y (Phật tử tại gia): Not to Handle any Business
Affairs for the Laity.
31) Giới
Không Mua Chuộc. Khi thấy kẻ gian lấy trộm và đem bán hình tượng Phật,
Phật tử thuần thành phải bằng mọi cách mua lại: When Seeing Evil People
Steal and Sell Statues or Paintings of Buddhas, Devoted Buddhist must try
to repurchase (Buy Back) Clerics Along with Sacred Objects.
32) Giới Tổn
Hại Chúng Sanh (không mua bán dao, búa, gậy gộc; không lợi dụng địa vị để
tịch thu tài sản của dân chúng, không nuôi chó mèo và các loại gia súc
khác): Not to Harm Sentient Beings (selling knives, clubs, bows, arrows,
Abusing governmental position to confiscate people’s possessions, rasing
cats, dogs, or any animals).
33) Giới Tà
Nghiệp Giác Quán, không nhìn những hành động tà vạy như đánh lộn, bài bạc,
hay nghe nhạc, nghe đàn, sáo, vân vân: Not to Watch Improper Activities
such as fighting, gambling or to listen to sounds of conch shells, drum,
horns, guitars, flutes, songs or other music, etc.
34) Giới Tạm
Bỏ Bồ Đề Tâm: Tạm thời phế bỏ tâm Bồ đề là một giới khinh cho hàng phật
tử, nhứt là chư Tăng Ni—It is a Secondary Offense for a Buddhist to
Temporary Abandoning of Bodhi Mind, especially monks and nuns.
35) Giới
Không Phát Nguyện: Fail to Make Great Vows.
36) Giới
Không Phát Thệ: Thà uống nước đồng sôi hay quấn mình trong lưới sắt nóng,
hay nuốt banh sắt, nằm trên sắt nóng, hay nhảy vào vạc dầu sôi, hay chân
cẳng bị đao búa nóng chặt đứt, hay mắt bị trăm ngàn đao kiếm đâm thủng,
vân vân, chứ thệ quyết không phá giới—Fail to Take Solemn Oaths (would
rather jump into a raging blaze, wrap self a thousand times with red-hot
iron net, swallow red-hot iron pellets and drink molten iron, lie on a
bonfire or burning iron, be impaled for eons by hundred of spears, jump
into a caudron of boiling oil and roast for hundreds of thousands of eons,
be pulverized from head to toe by an iron sledge hammer, have both eyes
blinded by hundreds of thousands of swords, etc., should never break the
precepts).
37) Giới Vào
Chỗ Hiểm Nạn: Not to Travel in Dangerous Areas.
38) Giới Trái
Thứ Tự Tôn Ti: Not to Sit in the Improper Order Within the Assembly.
39) Giới
Không Tu Phước Huệ: Fail to Cultivate Merits and Wisdom.
40) Giới
Không Bình Đẳng Truyền Giới: Discrimination in Conferring the Precepts.
41) Giới Vì
Lợi Lộc Cá Nhân Mà Thuyết Giảng: Teaching for the Sake of Personal
Profits.
42) Giới Vì
Danh mà Giảng Giới cho Người Ác: Reciting the Precepts to Evil Persons
with a greed of fame.
43) Giới Cố
Mống Tâm Phạm Giới: Thoughts of Violating the Precepts.
44) Giới
Không Cúng Dường Kinh Luật: Fail to Honor the Sutras and Moral Codes.
45) Giới
không Giáo Hóa Chúng Sanh: Fail to Teach Sentient Beings.
46) Giới
Thuyết Pháp Không Đúng Pháp, Phật tử thuần thành nhứt là chư Tăng Ni phải
luôn phát đại bi tâm hóa độ chúng sanh: Preaching in an Inappropriate
Manner. A devoted Buddhist, especially monks and nuns, should always have
a mind of Great Compassion to teach and transform sentient beings.
47) Giới Chế
Hạn Phi Pháp, lợi dụng chức vị trong Tăng đoàn mà chế hạn giới luật đi
ngược với Phật pháp: Abuse high official position in the Order to
undetermine the moral code of the Buddhas and set Regulations Against the
Dharma.
48) Giới vì
danh lợi mà Phá Diệt Phật Pháp: To Destroy the Dharma For Fame or Profit.
** For more information,
please see Forty
Eight Secondary
Precepts which the
Buddha taught all
Bodhisattvas in the
Brahma-Net Sutra in
English-Vietnamese
Section.
Bốn Mươi Tám Lời Nguyện
Của Đức Phật A Di Đà: See Tứ Thập Bát Nguyện.
Bốn Nguyên Nhân Của Sự
Chết: Theo Phật giáo, có bốn nguyên nhân đưa đến cái chết—According to
Buddhism, death can occur in one of the four ways:
1) Mạng
Triệt: Ayukkhaya (p)—Mạng căn hay thọ mạng của mỗi loài đã hết. Điều nầy
giống như đèn tắt vì hết tim—Death can be due to the exhaustion of the
life span assigned to beings of that particular species. This is likened
to th wick in the lamp burns up.
2) Nghiệp
Dĩ: Kammakkhya (p)—Năng lượng nghiệp gây nên sự sanh của người chết đã
kiệt. Điều nầy giống như đèn tắt vì dầu trong đèn đã cạn—Death can be due
to the exhaustion of the Kammic energy that caused the birth of the
deceased. This is likened to the consumption of the oil in the lamp.
3) Mạng
Triệt Nghiệp Dĩ Đồng Thời: Ubbayakkhaya (p)—Sự chấm dứt cùng lúc của mạng
triệt và nghiệp dĩ. Điều nầy giống như đèn tắt vì cạn dầu tim lụn—Death
can be due to the exhaustion of both the life span and kamma energy. This
is likened the consumption of the oil in the lamp and the burning off of
the wick at the same time.
4) Bất
Đắc Kỳ Tử (vì tai nạn bất ngờ hay
những
biến cố bên ngoài). Điều nầy giống như đèn tắt vì gió hay người nào đó
thổi tắt: Upachedake (p)—Death can be due to external circumstances, such
as accidents, untimely happenings. This is likened to the effect of
external factors such as the wind or someone blows out the light.
Bốn Nguyên Nhân Gây Nên
Ác Nghiệp: Four causes of evil actions—Theo Kinh Thi Ca La Việt, có
bốn nguyên nhân gây nên ác nghiệp—According to the Sigalaka Sutra, there
are four causes of evil actions:
1) Ác
nghiệp làm do tham dục: Evil action springs from attachment.
2) Ác
nghiệp làm do sân hận: Evil action springs from ill-will.
3) Ác
nghiệp làm do ngu si: Evil action springs from ignorance.
4) Ác
nghiệp làm do sợ hãi: Evil action springs from fear.
Vì
thế Đức Phật dạy tiếp: “Này gia chủ tử, vì vị Thánh đệ tử không tham dục,
không sân hận, không ngu si, không sợ hãi, nên vị ấy không làm ác nghiệp
theo bốn lý do.” Thus the Buddha further taught: “If the Ariyan disciple
does not act out of attachment, ill-will, folly or fear, he will not do
evil from any one of the the four causes.”
Bốn Nguyên Nhân Khơi
Dậy Nhãn Căn: Four causes which cause the eye-sense to be
awakened—Trong Kinh Lăng Già, Đức Phật đã nhắc Mahamati về bốn nguyên nhân
khơi dậy nhãn căn—In the Lankavatara Sutra, the Buddha reminded Mahamati
about the four causes that cause the eye-sense to be awakened.
1) Chấp
vào thế giới sở kiến, không biết rằng đấy là do tâm tạo nên: Being
attached to the visible world, not knowing it is mind-made.
2) Bám
chặt vào các hình sắc do bởi tập khí của những suy luận không vững chắc và
những kiến giải sai lầm từ vô thỉ: The tenaciously clinging to forms due
to the habit-energy of unwarranted speculations and erroneous views from
beginningless time.
3) Tự
tính của chính cái thức: The self-nature of the Vijnana itself.
4) Quá
ham muốn cái phức tính của các hình sắc và tướng trạng: An eager desire
for the multitudinousness of forms and appearances.
** Do đó Đức Phật nói: “Này Mahamati! Do bởi bốn nguyên nhân khơi dậy
nhãn căn nầy mà các con sóng của các thức phát sinh được vận động ở trong
A Lại Da tuôn chảy như những dòng nước giữa biển. Này Mahamati, cũng như
trường hợp nhãn căn, các căn khác cũng vậy, sự nhận thức về thế giới đối
tượng xãy ra đồng thời và đều đặn trong tất cả các căn, các nguyên tử, và
các lỗ chân lông; cũng như tấm gương phản chiếu hình ảnh, và này Mahamati,
giống như gió làm biển động, biển tâm xao động bởi gió của cảnh giới và
những con sóng lồng lên không dứt. Nguyên nhân và sự biểu hiện về hoạt
động của nó không tách rời nhau, và vì khía cạnh nghiệp của thức được nối
kết chặt chẽ với khía cạnh bổn nguyên nên tự tính về hình sắc hay một thế
giới đối tượng không được xác quyết đúng đắn, và này Mahamati, do đó mà hệ
thống năm thức phát sanh. Này Mahamati, khi kết hợp năm thức nầy, thế giới
đối tượng được xem như là lý do của sự sai biệt và các đối tượng được nêu
định rõ ràng thì bấy giờ chúng ta có Mạt Na Thức. Do đó mà có sự sinh ra
của thân thể hay hệ thống các thức. Tuy nhiên, các thức ấy không nghĩ rằng
chúng phụ thuộc vào nhau mà gắn chặt vào thế giới sở kiến hay thế giới
sinh khởi từ chính cái tâm của người ta hay tự tâm sở hiện, và được cái
tâm ấy phân biệt. Các thức và Mạt Na Thức sinh khởi đồng thời, phụ thuộc
vào nhau, và không bị phá vỡ, mà mỗi thứ tự nhận lấy môi trường thể hiện
riêng—Thus, the Buddha said: “Oh, Mahamati! Owing to the four causes, the
waves of the evolving Vijnanas are set in motion in the Alaya which flows
like the water in the midst of the ocean. Oh Mahamati, as with the
eye-sense, so with the other senses, the perception of the objective world
takes place simultaneously and regularly in all the sense-organs, atoms,
and pores; it is like the mirror reflecting images, and oh Mahamati, like
the wind-tossed ocean, the ocean of mind is disturbed by the wind of
objectivity and the Vijnana-waves rage without ceasing. The cause and the
manifestation of its action are not separated the one from the other; and
on account of the karma-aspect of the Vijnana being closely united with
the original-aspect, the self-nature of form or an objective world is not
accurately ascertained, and, o Mahamati, thus evolves the system of the
five Vijnanas. When together, oh Mahamati, with these five Vijnanas, the
objective world is regarded as the reason of the differentiation and
appearances are definitely prescribed, we have the Manovijnana. Caused by
this is the birth of the body or the system of the Vijnanas. They do not,
however, reflect thus: ‘we, mutually dependent, come to get attached to
the visible world which grows out od one’s own mind and is discriminated
by it.’ The Vijnanas and Manovijnana rise simultaneously, mutually
conditioning, and not broken up, but each taking in its own field of
representations.
Bốn Nhân Sanh Tử Của
Con Cái: Children are born from four causes:
1) Báo ân
làm con đã mang với cha mẹ từ đời trước. Để trả ân đứa nhỏ phải sanh ra
làm con và trọn đời phục dịch lao khổ: Repaying past kindness which the
child incurred a debt of gratitude to the parents in previous lifetime. To
repay it, the child has come to be born in the parent’s household and will
attend painstakingly to their needs throughout their life.
2) Báo
oán hay đòi quả báo đối với những sai lầm đời trước của cha mẹ. Để đòi quả
báo cho những việc sai lầm của cha mẹ đời trước, trẻ con sanh vào gia đình
cha mẹ để làm con. Khi còn nhỏ chúng đã ngỗ nghịch, lúc lớn thì gây họa và
làm lụy đến mẹ cha. Khi cha mẹ còn sống thì không nuôi dưỡng, mà còn làm
nhục lây đến tổ tiên khi cha mẹ đã chết rồi—Repaying the past wrongs which
the parents committed in their previous life. To seek retribution, the
children have come to be born in their household. Thus when they are still
young, they are so unruly and when grown they will create misfortunes and
calamities implicating their parents. In old age the parents will be left
in want, and their treatment after the parents’ death will not only
dishonor them, but the shame will extend to the ancestors as well.
3) Vì trả
nợ đã thiếu cha mẹ từ đời trước nên sanh làm con, nếu nợ nhiều thì trả đến
mãn đời song thân, nếu nợ ít thì trả xong rồi đi—For repaying past debts,
the children have come to be reborn in their parents’ household. If it is
a great debt, repayment can be for the parents’ entire lifetime. If the
debt is small, repayment can cover part of the parents’ lifetime before
the children die.
4) Đòi nợ
đời trước mà cha mẹ đã thiếu mình bằng cách sanh vào làm con. Nếu nợ ít
thì cha mẹ chỉ lo nuôi nấng, ăn mặc, thuốc men, học hành, cưới gả. Nếu nợ
to thì lắm khi đứa con ăn xài phung phí phá tan sự nghiệp: To claim past
debts, the children have come to be reborn in the family. If the debt is
small, the parents will merely have to spend money to feed, clothe,
education, health and helping them getting married. If the debt is big,
the children may sometimes deplete all the parents’ assets.
Bốn Pháp Cần Phải Chứng
Ngộ: Four things to be realised—Theo Kinh Phúng Tụng trong Trường Bộ
Kinh, có bốn pháp cần phải chứng ngộ—According to the Sangiti Sutta in the
Long Discourses of the Buddha, there are four things to be realised:
1) Túc
mạng cần phải chứng ngộ bởi niệm: Former lives to be realised by
recollection.
2) Sanh
tử cần phải chứng ngộ bởi thiên nhãn: Passing-away and re-arising to be
realised by divine eye.
3) Tám
giác ngộ cần phải chứng ngộ bởi thân: Eight deliverances, to be realised
with the mental body.
4) Lậu
tận cần phải chứng ngộ bởi tuệ: The destruction of the corruptions, to be
realised by wisdom.
Bốn Phần Của Thức:
Theo Giáo Sư Junjiro Takakusu trong Cương Yếu Triết Học Phật Giáo, Pháp
Tướng Tông chủ trương mỗi thức có bốn phần với bản chất liên đới—According
to Prof. Junjiro Takakusu in “The Essentials of Buddhist Philosophy,” the
Dharmalaksana School believes that each of the consciousness has four
functional divisions of interdependent nature.
1) Tướng
Phần: Laksana-bhaga (skt)—Đối tượng bị thấy hay là hình bóng của đối tượng
ngoại tại phản ảnh trên mặt tâm thức—The objective or the seen portion.
The objective is a shadow image of an outer object reflected on the
mind-face.
2) Kiến
Phần: Darsana-bhaga (skt)—Chủ thể soi chiếu hay nhìn thấy và kinh nghiệm
nó—The subjective or the seeing portion illumines, sees and experiences
the outer object.
3) Tự
Chứng Phần: Saksatkari-bhaga (skt)—Tự chứng phần nhận thức hay biết được
chủ thể hay kiến phần đã thấy đối tượng (tướng phần) hay chỉ là hình ảnh
của đối tượng—The self-witness or the self-assuring portion. The
self-assuring portion see and acknowledge the subjective function. That is
to say, the self-assuring portion will know the subject has seen the
object or the shadow-image.
4) Chứng
Tự Chứng Phần: The rewitnessing of self-witness or the reassuring
portion—Chứng tự chứng phần hoàn thành tác dụng của tâm thức—The
rewitnessing of the self-witness completes the mental faculty.
Bốn Phương Cách Được Tự
Thể Mới: Attabhava-patilabha (p)—Four ways of getting a new
personality—Theo Kinh Phúng Tụng trong Trường Bộ Kinh, có bốn phương cách
được tự thể mới—According to the Sangiti Sutta in the Long Discourses of
the Buddha, there are four ways of getting new personality:
1) Tự thể
có được do ý chí của mình, không do ý chí của người khác: There is an
acquisition of personality that is brought about by one’s own volition,
not another’s.
2) Tự thể
có được do ý chí của người khác, chứ không do ý chí của mình: There is an
acquisition of personality that is brought about by another’s volition,
not one’s own.
3) Tự thể
có được do cả ý chí của mình lẫn ý chí của người khác: There is an
acquisition of personality that is brought about by both one’s own
volition and another’s.
4) Tự thể
có được không do ý chí của mình, cũng không do ý chí của người: There is
an acquisition of personality that is brought about by neither one’s own
volition, nor another’s.
Bốn Quốc Độ: Four
realms:
1) Phàm
Thánh đồng cư quốc độ: Realms where all classes dwell (men, devas,
Buddhas, disciples, nondisciples, the impure and the pure).
2) Phương
tiện hữu dư quốc độ: Temporary realms where the occupants have got rid of
evils, but still have to be reborn.
3) Thực
báo vô chướng ngại quốc độ: Realms of permanent rewards and freedom for
those who have attained bodhisattva rank.
4) Thường
tịch quang quốc độ: Realms of eternal rest and light of eternal spirit—The
abode of Buddhas.
Bốn Sắc Thái Tín Ngưỡng
Di Đà: Theo Tịnh Độ tông, Phật Di Đà thù thắng hơn cả trong số Ngũ Trí
Như Lai mặc dù quốc độ của Ngài ở Tây Phương chứ không ở Trung Ương, Ngài
là một trong những vị Phật chính trong Phật giáo. Do vậy chúng ta thấy
được các quan niệm của các tông phái Di Đà về vấn đề Phật Đà Luận của Đại
Thừa. Theo thuyết “Tánh Cụ” của tông Thiên Thai và “Lưỡng Bộ Bất Nhị” của
tông Chân Ngôn, nguyên lý “một trong tất cả và tất cả trong một” đã được
sẳn sàng chấp nhận. Trong số Ngũ Trí Như Lai, Đức Phật Di Đà ở phương Tây
có thể đồng nhất với Trung Ương Đại Nhật Như Lai, là Đức Phật của pháp
giới thể tánh. Các bản nguyện của Ngài, sự chứng quả Vô Lượng Quang và Vô
Lượng Thọ, và sự thiết lập Cực Lạc Quốc Độ được mô tả đầy đủ trong Kinh A
Di Đà. Lẽ đương nhiên khi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, trong Kinh Pháp Hoa,
ẩn dụ cho các đệ tử rằng không nên xem Ngài như vị Phật 80 tuổi già với
vóc người nhỏ thó, bởi vì Ngài thực sự là một vị Phật lâu đời lâu kiếp, và
hiện thân đầy khắp vũ trụ; phải coi Ngài như là một với Đức Phật Vô Lượng
Quang và Vô Lượng Thọ. Phật Thích Ca đã nhấn mạnh vào đức tin tuyệt đối
nơi Phật A Di Đà. Tín tâm là phương tiện duy nhất để giải thoát. Theo Giáo
Sư Junjiro Takakusu trong Cương Yếu Triết Học Phật Giáo, tín ngưỡng Di Đà
gồm có bốn sắc thái—According to the Pure Land Sects, Amitabha Buddha is
more than one of the five Buddhas, although his land is laid in the
Western Quarter; instead, he is one of the principal Buddha in Buddhism.
Thus we see the ideas of the Amitabha schools concerning the Buddhological
principle of Mahayana. According to the theory of “original immanence” of
T’ien-T’ai and the “two essences in one” theory of the Shingon, the
principle of “one-is-all and all-are-one” will be readily admitted. Of the
five Wisdom Buddhas, Amitabha of the West may be identical with the cenral
Mahavairocana, the Buddha of homo-cosmic identity. Amitabha’s original
vows, his attainment of Buddhahood of Inifite Light and Life, and his
establishment of the Land of Bliss are al fully described in the Sukhavati
text. It is but natural that Sakyamuni Buddha, who hinted to his disciples
in the Lotus Sutra not to regard Amitabha Buddha as a Buddha of eighty
years of age with a small stature, for he is in reality a Buddha of remote
ages and of world-wide pervasions, should be identified with the Budha of
Infinite Light and Life. A complete reliance on such a Buddha’s power will
be a reasonable outcome of this teaching. Sakyamuni Buddha insisted on an
absolute faith in Amitabha Buddha because faith alone being the cause of
salvation. According to Prof. Junjiro Takakusu in The Essentials of
Buddhist Philosophy, Amitabha-pietism is of four aspects:
1) Sắc
Thái Thiên Thai và Chân Ngôn, theo đó Phật Di Đà là một trong Ngũ Trí Như
Lai, ngự ở Tây phương, có Đức Đại Nhật Như Lai ở giữa: The aspect of
T’ien-T’ai and Shingon, in which Amitabha Buddha is one of the five Wisdom
Buddhas (Dhyani-Buddhas) governing the Western Quarter, having
Mahavairocana (the Great Sun Buddha) at the center.
2) Sắc
thái dung thông niệm Phật theo đó, giá trị của một người tin tưởng nơi
Phật A Di Đà có thể truyền đến người khác và ngược lại. Nghĩa là một tôn
giáo hỗ tương hỗ trợ bằng đức tin: The aspect of combining reciting
Amitabha Buddha’s name and cultivating (Yuzunembutsu), in which the value
of one’s faith in Amitabha is transferable to another or vice versa,
i.e., religion of mutual help with faith.
3) Sắc
thái của Tịnh Độ tông, theo đó tín ngưỡng Di Đà độc nhất chỉ được giảng
theo nơi tam kinh Tịnh Độ, đặc biệt căn cứ trên những lời nguyện của Đức
Phật A Di Đà: The aspect of the Pure Land Sect, in which Amitabha Buddha’s
faith is taught exclusively in accordance with the three Sukhavati texts
of the school, especially based on the Buddha’s vows.
4) Sắc
thái của tông Chân Ngôn, theo đó tín ngưỡng nầy được giảng dạy một cách
chặt chẽ theo nguyện thứ 18 của Phật A Di Đà, mô tả trong kinh Trường Di
Đà: The aspect of the Shingon Sect, in which the faith is taught strictly
in accordance with the eighteeth vow of Amitabha Buddha described in the
larger Sukhavati text—See Tứ Thập Bát Nguyện (18).
Bốn Sứ Mệnh Của Thiền
Tông Khi Chấp Nhận Lối Tu Tập Công Án: Theo Thiền Sư D.T. Suzuki trong
Thiền Luận, Tập II, các Thiền sư ở thế kỷ thứ 10 và 11 đã chấp nhận lối tu
tập công án cốt để thực hiện những sứ mệnh sau đây—According to Zen Master
D.T. Suzuki in the Essays in Zen Buddhism, the koan exercise adopted by
the Zen masters of the tenth and eleventh centuries was designed to
perform the following functions.
1) Đại
chúng hóa Thiền tông để chận đứng bản chất thượng lưu nó đưa Thiền đến chỗ
tự hủy: To popularize Zen in order to counteract native aristocracy which
tended to its own extinction.
2) Mang
lại một kích thích mới mẻ cho dòng phát triển tâm thức Thiền, có thế mới
thúc đẩy được sự thuần thục của kinh nghiệm Thiền: To give a new stimulus
to the development of Zen consciousness, and thus to accelerate the
maturing of the Zen experience.
3) Bẻ gãy
sự gia tăng của chủ trương duy trí trong Thiền: To check the growth of
intellectualism in Zen.
4) Cứu
Thiền khỏi bị chôn sống trong bóng tối của chủ trương tịch mặc: To save
Zen from being buried alive in the darkness of quietism.
Bốn Sự Thanh Tịnh Của
Các Loại Cúng Dường: Theo Trung Bộ, Kinh Phân Biệt Cúng Dường, có bốn
sự thanh tịnh của các loại cúng dường—According to The Middle Length
Discourses of the Buddha, Dakkhinavibhanga Sutra, there are four kinds of
purification of offering.
1) Cúng
dường được thanh tịnh bởi người cho, nhưng người nhận không thanh tịnh—The
offering that is purified by the giver, not by the receiver: Ở đây người
cho giữ gìn giới luật, theo thiện pháp, còn người nhận theo ác giới, ác
pháp. Như vậy, đây là loại cúng dường thanh tịnh bởi người cho, nhưng
không thanh tịnh bởi người nhận—Here the giver is virtuous, of good
character, and the receiver is immoral, of evil character. Thus the
offering is purified by the giver, not by the receiver.
2) Cúng
dường thanh tịnh bởi người nhận, nhưng không thanh tịnh bởi người cho—The
offering that is purified by the receiver, not by the giver: Ở đây người
cho theo ác giới, ác pháp, còn ngươiø nhận giữ giới, theo thiện pháp. Như
vậy, đây là sự cúng dường thanh tịnh bởi người nhận, nhưng không bởi người
cho—Here the giver is immoral, or evil character, and the receiver is
virtuous, of good character. Thus the offering is purified by the
receiver, not by the giver.
3) Loại
cúng dường không thanh tịnh bởi người cho, cũng không thanh tịnh bởi người
nhận—The offering that is purified neither by the giver nor by the
receiver: Ở đây người cho theo ác giới, theo ác pháp; và người nhận cũng
theo ác giới và ác pháp. Như vậy, đây là sự cúng dường không được thanh
bởi người cho và cũng bởi người nhận—Here the giver is immoral, of evil
character, and the receiver is immoral, of evil character. Thus the
offering is purified neither by the giver nor by the receiver.
4) Cúng
dường được thanh tịnh bởi người cho và cũng bởi người nhận—The offering
that is purified both by the giver and by the receiver: Ở đây người cho
giữ giới, theo thiện pháp; và người nhận cũng giữ giới, theo thiện pháp.
Như vậy dây là sự cúng dường được thanh tịnh bởi người cho và cũng bởi
người nhận—Here the giver is virtuous, of good character, and the receiver
is virtuous, of good character. Thus the offering is purified both by the
giver and by the receiver.
Bốn Thánh Tích: The
four sacred places—See Tứ Động Tâm.
Bốn Tiến Trình Tiến Đến
Phật Quả: Four courses of attainment or the four Caryas—Theo Kinh Đại
Sự, có bốn tiến trình tiến đến Phật Quả—According to the Mahavastu, there
are four courses of attainment:
1) Sơ
Hành: Prakrticarya (skt)—Trong đó người tu hành phải biết vâng lời cha mẹ,
vâng lời các sa môn cùng các Bà La Môn, và tôn kính người già, phải làm
việc thiện, phải khuyên người khác cúng dường và phải thờ cúng Đức Phật.
Khi còn ở ‘sơ hành’ thì người đó chỉ là một người thường chứ chưa phải là
Bồ Tát. Đức Phật Thích Ca đã trải qua sơ hành từ thời Đức Phật
Aparajitadhvaja—In this carya, an individual is expected to be obedient to
his parents, to the Sramanas and Brahmins, and to the elders, to perform
good deeds, to instruct others to offer gifts, and to worship the Buddhas.
While a being is in this carya, he is just a common being and not a
Bodhisattva. Sakyamuni Buddha practised this Carya from the time of
Aparajitadhvaja Buddha.
2) Quyết
Tâm Đạt Quả Bồ Đề: Pranidhi (skt)—Ở đây bao gồm sự quyết tâm của một người
để đạt đến quả Bồ Đề theo đúng trình tự. Đức Thích Ca Mâu Ni đã năm lần có
quyết tâm nầy trong quá nhiều kiếp sống của ngài: This consists in a
being’s resolving to attain Bodhi in due course. Sakyamuni took this
resolution five times in the course of his many existences as the ancient
Sakyamuni Buddha, whose life extended over aeons.
3) Sở Đắc
Phẩm Hạnh Phật: Anuloma (skt)—Đây là sự nối tiếp của sự quyết tâm đạt quả
Bồ Đề; gia đoạn nầy bao gồm sở đắc những phẩm hạnh cần thiết để trở thành
Phật. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni bắt đầu sở đắc những phẩm hạnh Phật vào
thời Đức Phật Samitavi. Trong giai đoạn thứ hai và thứ ba, một vị Bồ Tát
sở đắc các phẩm hạnh nói đến trong Jatakas và tiến từ địa thứ nhất lên địa
thứ tám. Đức Thích Ca Mâu Ni đã lên địa thứ bảy khi ngài sinh ra làm Hoàng
Tử Kusa: It is a continuation of the previous Carya, and consists in
acquiring the virtues necessary to become a Buddha. Sakyamuni began this
Carya at the time of Samitavi Buddha. During the second and third Caryas,
a Bodhisattva acquires the virtues mentioned in the Jatakas and advances
from the first to the eight bhumi. Sakyamuni reached the seventh bhumi,
when he was born as prince Kusa.
4) Bất
Hoàn: Avivarta or Anivartana (skt)—Đây gọi là bất hoàn. Bắt đầu khi Bồ Tát
đến địa thứ tám, khi ấy sẽ không có sự thối chuyển đối với bậc nầy. Khi
Đức Thích Ca Mâu Ni sanh làm Meghamanava, ngài đã đạt đến tiến trình thứ
tư nầy vào thời Phật Nhiên Đăng, vị nầy đã khẳng định sự thành đạt cuối
cùng của Phật Thích Ca trên đường chứng quả Bồ Đề. Điều nầy được Phật
Sarvabhibhu tái xác nhận khi Đức Thích Ca Mâu Ni sanh ra làm Tỳ Kheo
Abhiya. Sau đó, Bồ Tát được sinh ra vô số lần mới vượt qua các bhumis thứ
tám và thứ chín. Cuối cùng vị nầy tới địa thứ mười để được sinh ra làm
Jyotipalamanava và được Phật Ca Diếp (Kasyapa) ban cấp cho
Yauvarajyabhiseka, sau cùng trở thành vị thần trong cung trời Đâu Suất. Vị
nầy phải hoàn tất địa thứ mười khi làm Đức Phật Cồ Đàm dưới cội cây Bồ Đề:
This is called a non-returning Carya. It commences with the Bodhisattva
reaching the eighth Bhumi when retrogression becomes impossible for him.
When Sakyamuni was reborn as Meghamanava, he reached this Carya the time
of Dipankara Buddha, who confirmed his ultimate success in attaining
Bodhi. It was reconfirmed by Sarvabhibhu Budha when Sakyamuni was born as
Abhiya or Abhiji Bhikshu. Subsequently, the Bodhisattva was born
innumerable times in order to cross the eighth and ninth bhumis. He
ultimately reached the tenth bhumi to be born as Jyotipalamanava and given
Yauvarajyabhiseka by Kasyapa Buddha, at last becoming the god of gods in
the Tusita Heaven. He was to complete the tenth bhumi as Gautama Buddha
under the Bodhi tree at Gaya.
Bốn Tội Căn Bản:
The four deadly sins:
1) Sát
sanh: Killing.
2) Trộm
cắp: Stealing.
3) Nhục
dục: Carnality.
4) Nói
dối: Lying.
Bốn Tướng Của Âm Thanh
Của Đức Như Lai: Four charateristics of Buddha’s voice—Theo Kinh Hoa
Nghiêm, Phẩm Như Lai Xuất Hiện (37), âm thanh của Đức Như Lai có bốn
tướng—According to The Flower Ornament Scripture, Chapter Manifestation of
Buddha (37), there are four characteristics of Buddha’s voice.
1) Tướng
thứ nhất của âm thanh Như Lai—The first characteristic of Buddha-s voice:
Âm thanh của Đức Như Lai, chẳng từ thân phát ra, chẳng từ tâm phát ra, mà
có thể làm lợi ích cho vô lượng chúng sanh—Buddha’s voice does not come
from the body or from the mind, yet it can benefit infinite sentient
beings.
2) Tướng
thứ hai của âm thanh Như Lai—The second characteristic of Buddha’s voice:
Ví như tiếng vang do hang núi và âm thanh mà phát ra không có hình trạng,
chẳng ngó thấy được, cũng không phân biệt mà có thể theo dõi tất cả ngữ
ngôn. Cũng như vậy, âm thanh của Đức Như Lai không có hình trạng, chẳng
thấy được, chẳng phải có phương sở, chẳng phải không phương sở, chỉ tùy
nơi duyên dục giải của chúng sanh mà phát ra. Tánh âm thanh nầy rốt ráo,
không nói không bày, chẳng tuyên thuyết dược—Just as an echo arises due to
mountains, valley, and sound, and has no form, cannot be sen, and though
it has no discrimination can follow all words, so also is the voice of
Buddha; it has no form, cannot be seen, has no direction or location yet
it is not without direction and location; it just emerges according to the
conditions of sentient beings’ inclinations and understandings. Its nature
ultimately has no words, no information, and cannot be explained.
3) Tướng
thứ ba của âm thanh Như Lai—The third characteristic of Buddha’s voice:
a) Ví như
chư Thiên có pháp cổ lớn tên là ‘giác ngộ.’ Lúc chư Thiên tử nếu ham vui
phóng dật, thời pháp cổ nơi hư không phát ra tiếng bảo chư thiên đó rằng
‘Chư Thiên tử nên biết tất cả dục lạc thảy đều vô thường, hư vọng, điên
đảo, giây lát đã biến hoại, chỉ kẻ cuồng ngu mới tham luyến. Chư Thiên tử
chớ phóng dật, nếu phóng dật về sau sẽ đọa ác thú ăn năn dã muộn.’ Chư
Thiên tử nghe âm thanh nầy lòng rất kinh hãi, liền bỏ những sự dục lạc
trong thiên cung, cùng nhau đến chỗ Thiên vương cầu pháp tu hành: It is
like the heavens’ great drum of law, called awakener: when the celestials
act without restraint, the drum produces a voice in the sky saying, ‘You
should know that all pleasures are impermanent, unreal, illusory, changing
and disintegrating in a moment. They only fool the ignorant, causing
attachment. Don’t be indulgent, for the unrestrained fall into bad ways,
and it is of no use to regret afterward.’ The indulgent celestials, having
heard this voice, are greatly distressed and frightened; they leave the
pleasures in their own abodes, go to the king of gods, seek the truth and
practice the way.
b) Tiếng
của Thiên cổ không chủ, không làm, không khởi không diệt, mà có thể lợi
ích vô lượng chúng sanh. Phải biết Đức Như Lai lại cũng như vậy, vì muốn
giác ngộ chúng sanh phóng dật mà phát ra vô lượng diệu pháp âm thanh. Đức
Như Lai dùng những âm thanh nầy khắp trong pháp giới để khai ngộ chúng
sanh—The sound of that drum has no master, no maker, no origin, no
destruction, yet it can benefit infinite sentient beings. Know that the
Buddha likewise utters the voice of infinite sublime truths in order to
awaken indulgent beings. These voices pervade the cosmos, awakening the
beings therein.
·
Tiếng vô trước: The voice of non-attachment.
·
Tiếng chẳng phóng dật: The voice of nonindulgence.
·
Tiếng vô thường: The voice of impermanence.
·
Tiếng khổ: The voice of suffering.
·
Tiếng vô ngã: The voice of selflessness.
·
Tiếng bất tịnh: The voice of impurity.
·
Tiếng tịch diệt: The voice of annulment.
·
Tiếng Niết Bàn: The voice of Nirvana.
·
Tiếng vô lượng tự nhiên trí: The voice of measureless
spontaneous knowledge.
·
Tiếng Bồ Tát hạnh bất khả hoại: The voice of incorruptible
enlightening practices.
·
Tiếng trí địa vô-công-dụng của Như Lai đến tất cả chỗ: The
voice of all-pervasive effortless knowledge of Buddhas.
c) Vô số
chúng sanh được nghe âm thanh nầy đều rất hoan hỷ siêng tu pháp lành. Đều
ở nơi tự thừa mà cầu xuất ly. Những là hoặc tu Thanh Văn thừa, hoặc tu Độc
Giác thừa, hoặc tu Bồ tát vô thượng đại thừa. Nhưng âm thanh của Như Lai
vẫn không trụ ở phương sở, không có ngôn thuyết: Countless sentient
beings, having heard these voices, all become joyful and diligently
cultivate good ways, each seeking emancipation by their respective
vehicles of emancipation; that is, some practice the vehicle of listeners,
some practice the vehicle of individual awakening, and some practice the
unsurpassed Great Vehicle of enlightening beings. Yet the voice of Buddha
does not remain in any place; it has no speech.
4) Tướng
thứ tư của âm thanh Như Lai—The fourth characteristic of Buddha’s voice:
Ví như Tự Tại Thiên Vương có Thiên thể nữ tên là Thiện Khẩu. Nơi miệng
Thiên nữ nầy phát ra một âm thanh hay hòa cùng với trăm ngàn thứ nhạc,
trong mỗi thứ nhạc lại có trăm ngàn âm thanh sai khác. Thiên nữ Thiện Khẩu
từ nơi miệng phát ra một âm thanh mà thành vô lượng âm thanh. Phải biết
Đức Như Lai cũng như thế, từ trong một âm thanh phát ra vô lượng âm thanh,
tùy theo tâm sở thích sai khác của chúng sanh thảy đều đến khắp, đều làm
cho được hiểu—It is like the case of the celestial concubine of the great
lord god, name beautiful Mouth, whose voice corresponds to a hundred
thousand kinds of music, within each of which are also a hundred thousand
different tones. Just as that of goddess Beautiful Mouth produces
countless sounds in one utterance, in the same way Buddha produces
innumerable voices in one utterance, according to the differences in
mentalities of sentient beings, reaching them all and enabling them to
gain understanding.
Bồn: Cái chậu—A
Basin—A bowl.
Bồn Chồn:
Anxious—Uneasy—Worried.
Bồn Hội: The
All-Souls anniversary—See Vu Lan Bồn in Vietnamese-English Section, and
Ullambana in Sanskrit/Pali-Vietnamese Section.
Bổn:
1) Gốc:
Chánh yếu—Radical—Fundamental—Original—Principal—One’s own.
2) Bổn
sách: A volume of a book.
3)
Chính Đức Phật, chứ không phải là những dấu tích của Ngài—The Buddha
himself, contrasted with “traces” left by him among men to educate them.
Bổn Bất Sinh Tế:
Trạng thái vô sinh nguyên thủy, mỗi con người đều có một cái tâm thanh
tịnh tự nhiên, bất sinh bất diệt, không tùy thuộc vào những hệ lụy của
luân hồi sanh tử—The original status of no rebirth, every man has a
naturally pure heart, which is independent of the bonds of mortality.
Bổn Cao Tích Hạ:
Phật vì bổn nguyện độ sanh mà thị hiện trong hình tướng thấp hơn như làm
Bồ Tát chẳng hạn—The higher Buddha manifesting himself in lower form, i.e.
as a Bodhisattva.
Bổn Chất: Bản chất
sự vật, như nhãn thức duyên vào sắc cảnh, ảnh tượng bên ngoài hiện ra nơi
nhãn thức, còn sự thật sắc pháp do chủng tử của A Lại Da thức sanh ra, là
sở thác của ảnh tượng, gọi là bản chất—Original substance—The substance
itself or any real object of the senses.
Bổn Cứ: Mulagrantha
(skt)—The original text, or a quotation from it.
Bổn Duyên: Duyên
nguyên thủy của mọi hiện tượng—The original cause of any phenomenon.
Bổn Địa: Native
place—Natural position.
Bổ Địa Môn: Tự tánh
pháp thân của Đức Đại Nhựt Như Lai, là pháp thân thường trụ trong ba đời,
lý trí pháp tính đầy đủ hết thảy nhân quả và tròn đầy muôn đức—The
uncreated dharmakaya of Vairocana is eternal and the source of all things
and all virtue.
Bổn Địa Thân: See
Bổn Pháp Thân.
Bổn Địa Thùy Tích:
See Bổn Tích
Bổn Giác:
Prakriti-buddhi (skt)—Bổn Minh—Tâm thể của chúng sanh tự tánh thanh tịnh,
lìa mọi vọng tướng, sáng tỏ vằng vặc, chẳng phải do tu mà thành; đối lại
với “thủy giác” là bản tâm từ vô thủy đến nay bị vô minh che mờ. Thủy giác
chính là thể của bản giác (ngoài bản giác không có thủy giác)—Original
Bodhi (Bản giác hay sự giác ngộ có sẳn—Original awareness or inherent
enlightenment in the form of primal intelligence), awareness, wisdom or
knowledge, or the immanent mind in all things; as contrasted with initial
knowledge (thủy giác). There are two kinds of knowledge:
1) Lý bổn
giác—Fundamental Truth.
2) Tướng
bổn giác: Primal Intelligence—The immanent mind in all
things—Enlightenment.
Bổn Giác Chân Như:
Căn cứ vào tướng mà nói thì gọi là bổn giác, căn cứ vào thể mà nói thì gọi
là chân như. Bản giác là trí năng chứng, còn chân như là lý sở chứng. Hai
thứ lý trí nầy là toàn thể pháp thân Như Lai—The bhutatathata is the
corpus, or embodiment which is the fundamental truth (lý); the original
bodhi is the form of primal intelligence which is the knowledge or wisdom
(trí) of the bhutatathata. Together they form the whole wmbodiment of the
Buddha-dharmakaya.
Bổn Giáo: The
fundamental doctrine (of One Vehicle as declared in the Lotus Sutra).
Bổn Hành: Original
practice—Practice done in original situation or in the past or in past
lives.
Bổn Hạnh: Căn bản
hành động của Phật và Bồ Tát—The root of action—The method or motive of
attainment (Deeds or doings of a Buddha or bodhisattva).
Bổn Hạnh Bồ Tát Đạo:
The original practice of Bodhisattvas.
Bổn Hạnh tập Kinh:
A sutra of method or motive of attainment.
Bổn Hình: Hình
tướng nguyên thủy—Original form or figure—The substantive form.
Bổn Hoặc: Căn Bổn
Hoặc—Căn Bổn Phiền Não—Căn bản phiền não chiêu cảm lấy mê quả—The root or
origin of delusion.
** For more information,
please see Nhị Hoặc
and Tam Hoặc.
Bổn Hữu:
1) The
original or fundamental existing—Primal existence—Original dharma which is
complete in each individual—The present body and mind-The source or
substance of all phenomena.
2) Đời
Hiện Tại: The present life.
3) Thức
Thứ Tám: Alaya-vijnana (skt)—The eighth consciousness.
Bổn Hữu Gia: Phái
Bổn Hữu, một hệ phái của Pháp Tướng Tông—A division of Dharmalaksana
school.
Bổn Hữu Tu Sanh:
1) Bổn
Hữu: Phàm phu Thánh giả vốn dĩ đều như thế, đầy đủ không thiếu đức chân
như pháp tính: The original dharma which is complete in each individual.
a) Chân
Như Pháp Tính Đức: The virtue of the bhutatathata dharma-nature.
b) Cụ Túc
Vô Khuyết: Being complete without lack.
2) Tu
Sanh: Do lực quán hạnh mà khai phát đức “Bản Hữu” nầy, dần dần tu tập cho
Phật tính hiển hiện: The development of this original mind in the
individual , whether saint or common man, to the realization of
Buddha-virtue.
Bổn Lai: Prakriti
(skt)—Original or natural form of something—Original or primary substance.
·
Bản thể đầu tiên: Original nature.
·
Bản thể gốc: Original essence.
·
Hình thái cơ bản: Fundamental form.
·
Nguồn cội: Original sources.
·
Bản lai là điều kiện hay hình thái gốc, hay bản thể đầu tiên
của bất cứ thứ gì: Original or primary substance is an original or natural
form or condition of anything
·
Phật tánh xưa nay là bản tánh thật của chư pháp—Coming from
the root—Originally—Fundamentally—The original or Buddha-nature, which is
the real nature of all things.
Bổn Lai Không: Chư
pháp tùng bổn lai không hay chân như—All things come from the Void or
Absolute (Chân như).
Bổn Lai Pháp Nhĩ:
Tự Thủy Tự Nhiên—Vốn dĩ như thế, xưa nay vẫn thế, tự nhiên từ đầu—So from
the beginning.
Bổn Lai Thành Phật:
Lúc đứng ở “Kiến Địa” vạn vật nhất như thì chúng sanh và Như Lai đồng nhất
không khác (nếu giác ngộ thì phiền não là Bồ Đề, chúng sanh là Như Lai)
All things being of Buddha become Buddha.
Bổn Lai Vô Nhứt Vật:
Xưa nay không một vật, không lại thêm không hay đệ nhứt nghĩa không. Đây
là một đề mục thiền quán—Originally not a thing existing, or before any
thing existed. This is a subject for meditation.
Bổn Mạt:
1) Gốc và
ngọn: Root and twigs—Root and branch.
2) Khởi
thủy và Kết Thúc: First and last—Beginning and end.
Bổn Mẫu: Upadesa or
Matrka (skt)—Ưu Ba Đề Xá—Ma Đát Lý Ca—Tập hợp các kinh nghĩa nghị luận lại
mà thuyết minh, từ đó sinh ra các nghĩa riêng biệt của các kinh—The
original mother or matrix—The original sutra or work.
Bổn Mệnh Đạo Tràng:
Đền thờ sao bổn mệnh của nhà vua, với ý tưởng bảo vệ hoàng gia và đất
nước—Temple for worship of the emperor’s birth-star, for the protection of
the imperial family and the state.
Bổn Mệnh Nguyên Thần:
The year of birth (the year of one’s birth-star).
Bổn Mệnh Tinh: Sao
bổn mệnh, đặc biệt là một trong bảy vì sao (Thất Hùng Tinh) chế ngự năm
sanh—The life-star of an individual, the particular star of the seven
stars of Ursa Major which is dominant in the year of birth.
Bổn Mệnh Tú: Chòm
sao mà mình sanh ra—The constellation or star-group, under which an
individual is born—See Bổn Mệnh Tinh.
Bổn Minh: The
original light—The potential enlightenment in all beings.
** For more information,
please see
Bổn Giác.
Bổn Môn: Giáo pháp
căn bản của Phật trong mười bốn chương sau của Kinh Pháp Hoa—The original
or fundamental Buddha’s teachings, the last fourteen chapters of the Lotus
Sutra.
** For more information,
please see Bổn Tích
Nhị Môn.
Bổn Môn Bổn Tôn:
The especial honoured one of the Nichiren Sect, Svadi-devata, the Supreme
Being, whose mandala is considered as the symbol of the Buddha as
infinite, eternal, universal.
Bổn Môn Sự Quán:
Pháp Hoa Tông ở Nhật có pháp thiền Bổn Môn Sự Quán, quán phổ tánh Phật
đồng với mọi hiện tượng trong thế giới lập dị, tất cả chân lý nằm trong
năm chữ Diệu Pháp Liên Hoa Kinh—The Nichren Sect has a meditation on the
universality of the Buddha and the unity in the diversity of all his
phenomena, the whole truth being embodied in the Lotus Sutra, and in its
title of five words Wonderful-Law Lotus-Flower Sutra (Diệu Pháp Liên Hoa
Kinh), which are considered to be the embodiment of the eternal, universal
Buddha.
Bổn Môn Thập Diệu:
Ten wonders of the Buddha’s teachings:
1) Bổn
nhân: The initial impulse or causative stage of Buddhahood.
2) Bổn
quả: Its fruit or result in eternity, joy, and purity.
3) Quốc
độ: Buddha’s realm.
4) Cảm
ứng: His response to human needs.
5) Thần
thông: His supernatural powers.
6) Thuyết
pháp: His preaching.
7) Quyến
thuộc: His supernatural retinue.
8) Phúc
đức: His blessings.
9) Thọ
mệnh: His ternal life.
10) Niết bàn:
Nirvana.
Bổn Nguyện:
Purvapranidhana (skt).
·
Lời nguyện từ nguyên bổn của một vị Bồ Tát khi Ngài khởi đầu
sự nghiệp theo Bồ Tát Đạo của Phật Giáo Đại Thừa: An original vow made by
a Bodhisattva when he begins his career to follow Bodhisattvayana in the
Mahayana Buddhism.
·
Lời nguyện của Bồ Tát nguyện thành Phật độ chúng sanh:
Original Vow—Vow of the Buddha or Bodhisattva—The vow which Bodhisattvas
make when they resolve to become Buddha and save all sentient beings.
·
Bốn Mươi Tám Lời Nguyện của Phật A Di Đà khi Ngài còn là Bồ
Tát Pháp Tạng. Một trong những lời nguyện nầy có nguyện nếu bất cứ chúng
sanh nào chịu niệm hồng danh của Ngài từ mười đến một trăm lần vào lúc sắp
lâm chung, thì Ngài sẽ tiếp dẫn về Tây Phương Cực Lạc. Trong tất cả các
lời nguyện của Ngài có nói “Nếu không như thế, tôi nguyện sẽ không thành
Chánh Đẳng Chánh Giác.” Đó là trong quá khứ, còn bây giờ Ngài Pháp Tạng Bồ
Tát đã thành Phật; như vậy, tất cả các lời nguyện của Ngài đã thành hiện
thực. Bất cứ ai có đủ đầy Tín, Nguyện, và Hạnh đủ đầy đề sẽ được bảo đảm
vãng sanh Cực Lạc: The forty-eight vows of Amitabha Buddha. The Buddha’s
Original Vows refer to the Amitabha Buddha’s Forty-eight Great Vows, which
He made while He was still a Maha-Bodhisattva named Dharma Store
(Dharmakara) cultivating for Buddhahood. One of His vows was if any
sentient being recites His name from ten to one hundred times upon death,
He will come and deliver that being to the Ultimate Bliss World. In all of
His vows, He always ended with the same line: “If this does not happen, I
vow not to attain the Ultimate Enlightenment.” That was in the past, the
Dharma Store Maha-Bodhisattva is now a Buddha (Amitabha Buddha); thus,
this means his vows have all came true. Anyone who has Faith, Vow, and
Practice is guaranteed to gain rebirth to His Pureland—See Tứ Thập Bát
Nguyện.
·
Mười Hai Lời Nguyện của Phật Dược Sư: The twelve vows of
Medicine Master (Bhaishajya-Guru-Buddha)—See Mười Hai Lời nguyện Của Dược
Sư Lưu Ly Quang Phật.
Bổn Nguyện Dược Sư:
The twelve vows of Bhaishajya-Guru-Buddha (Medicine Master Buddha)—See
Mười Hai Lời Nguyện Của Dược Sư Lưu Ly Quang Phật.
Bổn Nguyện Dược Sư Kinh:
Kinh nói về mười hai lời bổn nguyện của Phật Dược Sư—The sutra that
mentioned about the twelve vows of Bhaishajya-Guru-Buddha.
** For more information,
please see Mười Hai Lời Nguyện Của Dược Sư Lưu Ly Quang Phật.
Bổn Nguyện Nhất Thực
Đại Đạo: Pháp Môn Tha Lực Niệm Phật—Đại bổn nguyện của Đức Phật A Di
Đà tiếp dẫn những ai tin và niệm hồng danh của Ngài—The great way of the
one reality of Amitabha’s vows, i.e. that of calling on his name and
trusting to his strength and not one’s own.
Bổn Nhị: Vợ của vị
tỳ kheo trước khi xuất gia—Wife of a monk before his retire from the
world.
Bổn Pháp Thân: Bổn
Thân—Bổn Địa Thân—Bản Pháp Thân tức là thực tướng pháp thân, để phân biệt
với hiện thân tạm thời—Fundamental person or embodiment of a Buddha or
bodhisattva, as distinct from his temporal manifestation.
Bổn Phận: Duty—To
do one’s duty
Bổn Phật: Phật tánh
nơi mỗi người—The Buddha-nature within oneself—The original Buddha.
Bổn Sanh Kinh:
Jataka (skt)—Xà Đà Dà—Bổn Sanh Kinh, một phần của Khuddaka-Nikaya. Chỉ
riêng phần nầy, có 547 truyện, là một phần quan trọng nhất của Kinh Tạng.
Đây là một trong 12 bộ Kinh Đại Thừa, còn gọi là Chuyện tiền thân Đức Phật
hay kinh văn mà Đức Như Lai nói về hành nghiệp tu hành của Ngài khi còn là
Bồ Tát. Kinh ghi lại những bài thuyết pháp của Đức Phật nhắc về các đời
trước của Ngài, hồi Ngài còn trong kiếp Bồ Tát. Kinh cũng nói về những bài
tiên đoán về sự thành Phật của Ngài tại Ấn Độ. Kinh được chia làm ba phần.
Phần đầu nói về cuộc đời Đức Phật Thích Ca Mâu Ni tại Ấn Độ. Phần thứ nhì
nói về tiền thân của Ngài. Phần thứ ba nói về mối tương giao cũng như
những nhân vật liên hệ giữa tiền thân và hiện kiếp của Ngài—Jataka Sutra,
Birth Stories or Past Lives Sutra, a part of the Khuddaka-Nikaya. The 547
Jatakas are by themselves the biggest section of the Sutra Pitaka. These
are stories of the Sakyamuni Buddha’s previous incarnations, one of the
twelve classes of sutras, one of the twelve Mahayana sutras. Legendary
stories of the Buddha’s past lives as a Bodhisattva. These stories depict
the series of good acts by which Sakyamuni was able to be reborn as the
Buddha in India. A Jataka story is traditionally divided into three parts.
The first introduces an incident in the life of Sakyamuni Buddha in India.
The second relates an incident in one of his past existences. The third
demonstrates the casual relationship between the incident in the past and
the one in the present, and identifies the persons involved in the past
incident with those living in the present.
** For more information,
please see Bổn Sự
Kinh.
Bổn Sanh Thuyết:
The stories thus told—See Bổn Sanh Kinh and Bổn Sự Kinh.
Bổn Sơ: Thoạt kỳ
thủy—In the beginning—Originally.
Bổn Sơn: Native
hill—A monk’s original or proper monastery.
Bổn Sư:
1)
Phật Thích Ca Mâu Ni: Sakyamuni.
2)
Thầy Bổn Sư: The original teacher or master.
Bổn Sư Hòa Thượng:
Upadhyaya.
1) Thầy
Bổn Sư hay vị sáng lập ra tông phái: An original teacher or founder.
2) Danh
Hiệu Phật A Di Đà: A title of Amitabha.
Bổn Sự Kinh:
Itivrttaka or Ityukta (skt)— Một trong mười hai bộ kinh, trong đó Đức Phật
kể về những chuyện tiền thân của các đệ tử cũng như các địch thủ đương
thời của Ngài. Bản kinh nầy cho thấy những ứng xử trong các cuộc đời trước
đây ảnh hưởng như thế nào đến những hoàn cảnh của cuộc đời hiện tại, theo
luật của “Nghiệp.” Nhiều câu chuyện nầy bắt nguồn từ những cổ tích dân
gian Ấn Độ, có trước khi Phật giáo xuất hiện, nhưng được Đức Phật lấy đó
làm truyện tiền thân của những đệ tử của Ngài. Hiện nay ngoài văn bản
tiếng Ba Li ra còn có những dịch bản tiếng Trung Hoa và tiếng Anh. Tuy
nhiên, dịch bản tiếng Hoa là căn cứ từ nguyên bản Bắc Phạn, chứ không phải
từ văn bản Ba Li—One of the twelve classes of sutras in which the Buddha
tells of the deeds of his disciples and other followers as well as his
foes in previous lives. They show how acts of previous lives influence the
circumstances of the present life according to the law of “Karma.” Many of
those stories are Indian folk tales from pre-Buddhist times; however, the
Buddha based on these stories to mention about previous lives of his
disciples. Nowadays, in addition to the text written in Pali, there are
translations in Chinese and English. However, the Chinese translation is
based on a lost sanskrit version, not the Pali one—See Bổn Sanh Kinh.
Bổn Tam Muội Da Ấn:
Ấn Tam Muội đầu tiên cho người tu khi đang tu tập, dùng hai bàn tay làm
thành hình hoa sen—The first samaya-sign to be made in worship—The forming
of the hands after the manner of a lotus.
Bổn Tâm: Bản tánh
của tâm từ nguyên thủy—The original heart or mind—The inner self—One’s own
heart—The inner self.
Bổn Tập Kinh: Kinh
nói về phương cách và động lực để đạt thành hay hành động của một vị Phật
hay Bồ Tát—A sutra of method or motive of attainment or deeds of a Buddha
or bodhisattva.
Bổn Thân:
Oneself—See Bổn Tâm.
Bổn Thệ: Thệ nguyện
căn bản của mỗi vị Phật hay Bồ tát (thệ nguyện mà chư Bồ Tát lập ra khi
trụ nơi “Nhân Địa”)—Original Covenant or Vow made by every Buddha or
Bodhisattva
Bổn Thời: Thời kỳ
Đức Phật đạt được đại giác—The original time, the period when Sakyamuni
obtained enlightenment.
Bổn Thư: Giáo Thư
Bổn Môn—The foundation books of any school.
Bổn Thức: Một trong
18 tên của A Lại Da thức, là căn bản của hết thảy các pháp hữu vi và vô vi
(gốc của tất cả các pháp)—The fundamental vijnana, one of the 18 names of
the Alaya-vijnana, the root of all things—See A Lại Da Thức.
Bổn Tích: Bồ Tát và
Phật do có pháp thân từ sơ địa trở lên do thực thân của mình biến thành
nhiều thân ứng hóa để hóa độ chúng sanh, như Phật Quán Âm với ba mươi ba
hình tướng khác nhau—The original Buddha or Bodhisattva and his varied
manifestations for saving all beings, i.e. Kuan-Yin with thirty-three
forms.
Bổn Tích Nhị Môn:
Hai môn bổn tích trong Kinh Pháp Hoa—A division of the Lotus Sutra into
two parts:
1) Pháp
Hoa Tích Môn: Mười bốn chương đầu trong Kinh Pháp Hoa liên hệ đến giai
đoạn đầu cuộc đời Đức Phật và những giáo thuyết trước đó—The first
fourteen chapters which related to the Buddha’s early life and previous
teaching.
2) Pháp
Hoa Bổn Môn: Mười bốn chương sau liên hệ đến giai đoạn sau khi Phật Thích
Ca thành đạo cho đến chúng hội Pháp Hoa, cũng như những giáo thuyết cho Bồ
Tát—The following fourteen chapters which related to the final revelation
of the Buddha as eternal and Bodhisattva doctrines.
Bổn Tịch: Thiền Sư
Bổn Tịch (?-1140)—Zen Master Bổn Tịch—Thiền sư Việt Nam, quê ở Tây Kết,
Bắc Việt. Lúc còn rất nhỏ ngài đã thông minh một cách lạ thường. Ngài xuất
gia làm đệ tử và thọ cụ túc giới với Thiền sư Thuần Chân. Ngài trở thành
Pháp tử đời thứ 13 dòng Thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sau đó ngài dời về chùa
Chúc Thành để hoằng pháp. Hầu hết cuộc đời ngài, ngài chấn hưng và hoằng
hóa Phật giáo tại Bắc Việt. Ngài thị tịch năm 1140—A Vietnamese Zen master
from Tây Kết, North Vietnam. He was extraordinarily intelligent when he
was very young. He left home and became one of the most outstanding
disciples of Zen master Thuần Chân. After he received complete precepts
and became the Dharma heir of the thirteenth generation of the Vinitaruci
Zen Sect, he went to stay at Chúc Thành Temple to expand Buddhism. He
spent most of his life to revive and expand Buddhism in North Vietnam. He
passed away in 1140.
Bổn Tính:
1) Bản
Tánh Tự Nhiên: The spirit one possesses by nature—One’s own nature.
2) Tự
Tánh Bản Lai: The Buddha-nature within.
Bổn Tịnh: Primal
pure.
Bổn Tịnh Thiền Sư:
Zen Master Bổn Tịnh (1100-1176)—Thiền sư Việt Nam, quê ở Vĩnh Khương, Bắc
Việt. Ngài xuất gia làm đệ tử của Thiền sư Mãn Giác tại chùa Giáo Nguyện.
Ngài là pháp tử đời thứ 9 của dòng Thiền Vô Ngôn Thông. Thoạt tiên, ngài
lên núi Chí Linh và trụ tại am Bình Dương để tu thiền. Về sau, ngài nhận
lời thỉnh cầu của Thành Dương Công về trụ tại chùa Kiền An để tiếp tục
chấn hưng và hoằng pháp cho đến khi ngài thị tịch năm 1176, thọ 77 tuổi—A
Vietnamese Zen master from Vĩnh Khương, North Vietnam. He left home and
became a disciple of Zen master Mãn Giác at Giáo Nguyên Temple. He was the
dharma heir of the ninth generation of the Wu-Yun-T’ung Zen Sect. First,
he went to Mount Chí Linh to stay at a small temple named Bình Dương to
practise meditation. Later, he accepted the invitation of Thành Dương Công
to stay at Kiền An Temple to revive and expand Buddhism until he passed
away in 1176, at the age of 77.
Bổn Tịnh Vô Lậu:
Primal pure.
Bổn Tôn:
Satyadevata (skt)—Sa Dã Địa Đề Phạ Đa.
1) Vị tối
tôn tối thắng trong cõi xuất thế gian—The Original Honoured One—The Most
Honoured of all Buddhas.
2) Trong
chư tôn lấy Bổn Tôn làm căn bản để tôn sùng—Chief object of worship in a
group, the specific Buddha being served.
Bổn Trụ Pháp:
Purvadharmasthitita or Pauranasthitidharmata (skt)—Cái chân lý vốn vẫn
thường trụ—Originally-abiding truth or reality.
Bổn Tự: See Bổn
sơn.
Bộn: Many—Much.
Bông: Flower.
Bông Hường: Rose.
Bông Lông:
Uncertain.
Bông Tai: Ear-ring.
Bồng: To carry a
child.
Bồng Bềnh: Floating
freely.
Bồng Lai:
Fairyland—Bồng lai Tiên đảo, chỗ ở của các bậc tu tiên theo Lão giáo đắc
đạo. Người phàm phu thế gian không thể thấy và đến được. Cõi nầy ở nơi bảy
lớp núi vàng hay “Thất Kim Sơn” bao bọc ở vòng ngoài núi Tu Di, hoặc là
các hải đảo trong biển Hương Thủy quanh núi Tu Di—Fairyland is the
dwelling area of those who cultivate and attain the path of Taoism. Human
beings of this world cannot physically see nor get there. These domains
are situated on the seven layers of “Golden Mountains” surrounding the
Mount Sumeru or the various islands in the Fragrance Ocean (an ocean
surrounding Mount Sumeru).
Bổng:
1) Bổng
trên cao: High in the air.
2) Cây
gậy: A stick.
3) Dâng
hay nhận bằng hai tay: To hold in both hands, offer, receive.
Bổng Lộc:
Benefits—Salary.
Bổng Vật: Dâng đồ
cúng dường bằng hai tay—To bear of offer gifts in both hans.
Bỗng Chốc:
Suddenly—All of a sudden.
Bỗng Trầm: Up and
down.
Bốp Tai: To slap
(smack) someone’s face.
Bộp Chộp:
Thoughtless—Inconsiderate.
Bột:
1) Cây
nẩy mầm: Shooting plants.
2) Sao
chổi: A comet.
Bột Đà: Buddha
(skt)—See Phật Đà.
Bột Già Di: Bhagai (skt)—Theo
Eitel trong Trung Anh Phật Học Từ Điển, Bột Già Di là một thành phố nằm về
phía nam Khotan, nơi có tượng Phật với đủ đầy 32 tướng tốt, được mang đến
đây từ Cashmere—According to Eitel in The Dictionary of Chinese-English
Buddhist Term, Bhagai is a city south of Khotan with a Buddha-statue which
exhibits all the thirty-two signs (laksanani), brought there from
Cashmere.
Bột Phát: To burst out.
Bột Sa: See Phất Sa.
Bơ Phờ: Tired—Exhausted—Worn
out.
Bơ Thờ: Thờ
ơ—Indifferent—Unconcerned.
Bờ Bến: Limit.
Bờ Cõi: Frontier—Limit.
Bờ Đại Giác: The shore of
Enlightenment—Shore of liberation.
Bơû: fragile—Friable—Crumbly.
Bỡ Ngỡ: To be inexperienced.
Bợ Đở: Nịnh nọt—To flatter.
Bợ Ngợ: Awkward.
Bới: To dig up—To make up—To
dig with fingers or paws.
Bới Lông Tìm Vết: To find fault
with—To be over critical.
Bới Móc: To dig out—To
denounce.
Bởi Sao: For what reason ? Why
?
Bởi Vậy: Because of
that—Therefore—Consequently.
Bờm: Mane (of a horse).
Bỡn Cợt: To joke—To trifle.
Bớt:
1) Birth
mark.
2) To
decrease—To reduce—To diminish.
Bớt Giận: To remit one’s anger.
Bớt Lần: To be on the reduce.
Bớt Tiêu: To reduce expenses.
---o0o---
Mục Lục Tự điển Phật Học
Việt-Anh
|
A
|
Ba |
Be |
Bi |
Bo |
Bu
| Ca
| Ch
| Co |
Cu
|
D
|
Đa
| Đe |
Đi |
Đo |
Đu
|
| E
|
G
|
Ha |
He |
Hi |
Ho |
Hy
|
I
| K
| La |
Le |
Li |
Lo |
Lu |
Ly
|
|
Ma
| Me |
Mi |
Mo |
Mu, My
|Na
| Ne |
Ng |
Nh
| Ni
| No
| Nu
|
| O
| Pha |
Phe
| Phi |
Pho |
Phu
| Q
| R
| S
| Ta |
Te |Tha
| Thă, Thâ |
| The |
Thi |
Tho |
Thu |
Ti |
To |
Tr |
Tu |
Ty
| U
| V
| X
| Y|
---o0o---
Mục Lục |
Việt-Anh | Anh -Việt |
Phạn/Pali-Việt
| Phụ Lục
---o0o---
Trình bày: Nhị
Tường
Cập nhật: 1-4-2006