068 Paṭṭhāna
HT Sán Nhiên giảng ngày 29 tháng 7, 2023
Minh Hạnh đã nghe để học và, xin ghi chép tóm tắt theo sự hiểu của chính mình từ video giảng "068 - Paṭṭhāṇa" do HT Sán Nhiên giảng. Minh Hạnh xin chia sẻ đến qúi Thiện Tri Thức, nếu có gì sai sót xin lượng tình tha thứ, xin từ bi chỉ dạy, Minh Hạnh vô vàng cảm tạ.
Con xin thành kính cảm tạ ơn HT Sán Nhiên đã thuyết giảng bài pháp rất hữu ích để chúng con tu tập. Cũng xin chân thành cảm ơn đến qúi anh chị trong ban Hoằng Pháp của Trung Tâm Việtnamese American Mahasi Meditation Center.
Nguyện đem công đức này hồi hướng đến tứ ân phụ mẫu, đến tất cả Chư Thiên, Vua Trời Đế Thích, các Ngài Tứ Đại Thiên Vương, và tất cả chúng sanh đồng thành Phật đạo. Nguyện cho vợ chồng con và các con cháu đời này và mãi mãi những đời sau có chánh tín và chánh trí.
Mọi sự copy, phát tán, in ấn xin ghi rõ nguồn gốc và tên người ghi chép là Minh Hạnh
Minh Hạnh
Thiền sinh hỏi: Pháp Thực Tính có Đồ Đạo làm cảnh nó duyên với một Pháp Thực Tính mà cũng là đồ đạo cảnh qua nhân duyên. Rồi tiếp theo nói là Nhân làm Duyên với Đạo Cảnh.
Pháp Thực Tính đầu có phải là nhân không, và Pháp thực tính nhì mà nói có phải là Uẩn tương ưng không ?
HT trả lời: Một Tam Đề có 3 Pháp : Đạo Cảnh, Đạo Nhân, Đạo Trưởng.
Tà Đạo Đồ Đạo (Trung Đạo) Chánh Đạo
Cảnh Nhân Trưởng
Cảnh
Thí dụ như Đồ Đạo, nếu Cảnh của Đồ Đạo, Cảnh của Đạo nó có những gì là Cảnh của Đạo. Đạo có Cảnh gì thì mình mới nói được. Rồi Nhân làm duyên với Đạo này là cái gì, Trưởng làm duyên với Đạo này là cái gì, mình phải nói.
Thì bây giờ mình nói Đồ Đạo có 2 là: Tà Đạo và Chánh Đạo. Rồi Đồ Đạo là Trung Đạo. Thì mình mới nói được.
Vậy thì, nếu ta nói vế bên phải đi về Chánh Đạo thì:
- Cảnh của Chánh Đạo là gì, mình ghi xuống.
- Nhân của Chánh Đạo là gì, mình ghi xuống.
- Trưởng của Chánh Đạo là gì, mình ghi xuống.
Còn nếu đi vế bên trái là Tà Đạo, thì:
- Cảnh của Tà Đạo là gì, mình ghi xuống.
- Nhân của Tà Đạo là gì, mình ghi xuống.
- Trưởng của Tà Đạo là gì, mình ghi xuống.
Mình phải tìm ra nó, thì ban đầu mình tìm ra,
- khi nói tới Tà Đạo có 4 chi : Tà tinh tấn (Micchāvāyāmo), Tà niệm (Micchāsati), Tà định (Micchāsamādhi), Tà kiến (Micchādiṭṭhi)
- Chánh Đạo có 8 chi, Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm, Chánh Định
- Hành Đạo (Trung Đạo)
Cảnh của Tà Đạo là gì ? Thí dụ, trong Tà Đạo có Tà Tinh Tấn. Trong Chánh Đạo có Chánh Tinh Tấn.
Thì Cảnh của Tà Đạo, giờ mình lấy Tà Tinh Tấn. Tên ăn trộm có Tà Tinh Tấn, nó tinh tấn để lấy được tài sản của người gia chủ. Còn người Phật tử có Chánh Tinh Tấn mong cầu giải thoát chấm dứt khổ đau sinh tử. Hai cái đó khác nhau, tên ăn trộm cũng có tinh tấn, như tinh tấn đó là tà, không trong sạch, chỉ muốn ăn cắp tài sản của người ta thôi.
Bây giờ mình nói Tà Tinh Tấn thì có Chánh Tinh Tấn.
Thì Cảnh của Tà Tinh Tấn là :
- Tài sản làm cho ăn trộm tinh tấn lên.
- Bóng đêm tiếp tay cho ăn trộm.
- Khổ đau làm cho tên ăn trộm tinh tấn.
- Khổ thú làm cho tên ăn trộm tinh tấn.
Cảnh của Chánh Tinh Tấn là:
- Níp-bàn làm Cảnh cho bậc Thánh nhân, cho người tu tập hướng tới Đồ Đạo làm Cảnh là cảnh Níp-bàn, cảnh Giải Thoát chấm dứt khổ đau. Thì Cảnh đó là Đồ Đạo.
Thì cái này là Cảnh, trong đó có khổ đau, cảnh an vui, cảnh địa ngục hay cảnh Níp-bàn. Mấy cảnh đó làm duyên cho mấy phương pháp đó hiện bày. Sư chưa nói tới Duyên.
Nhân
Nhân có 2 là
- Nhân Bất Thiện
- Nhân Thiện
Nhân Thiện có 3 :
- Vô Tham
- Vô Sân
- Vô Si.
Do đó, Đồ Đạo làm Nhân thì chỉ có nhân Thiện thôi là vô tham, vô sân, vô si, đưa nó đi tới con đường chấm dứt khổ đau.
Trưởng
Còn nếu Trưởng thì chỉ có Thẩm Trưởng (là Tâm Sở Trí Tuệ)
Do đó, khi nói tới chữ "Nhân", Đồ Đạo làm Nhân thì nó có 3 nhân Thiện vô tham, vô sân, vô si.
Nhưng đứng ở góc độ Đồ Đạo làm Trưởng thì chỉ có Thẩm Trưởng là nhất. Dục, Cần, Tâm, Thẩm, cũng được, nếu mà nói trên đường tu tập có tứ Trưởng cũng được. Nhưng trong phần Cảnh trong phần Bất Thiện thì có 3 thôi là Dục, Cần, Tâm
Cần Trưởng, Dục Trưởng, Tâm Trưởng. Nếu bất thiện thì không có tâm.
Muốn vô chi tiết này thì mình phải đi trở lại quyển I Paṭṭhāṇa. Quí Phật tử phải coi Đồ Đạo Duyên, Nhân Duyên, Trưởng Duyên, lọc ra Năng Duyên, Sở Duyên, Địch Duyên của mỗi cái.
Đồ Đạo làm Cảnh, Đồ Đạo Nhân, Đồ Đạo Trưởng.
Nếu mà Đồ Đạo làm Cảnh thì bắt đầu mình vô Cảnh Duyên. Cảnh Duyên có 3 là : Năng, Sở, Địch
Đồ Đạo Nhân, có Nhân Duyên. Nhân Duyên có 3 là : Năng, Sở, Địch.
Đồ Đạo Trưởng có Trưởng Duyên. Trưởng Duyên có 3 là : Năng, Sở, Địch.
Mình kết học 3 cái đó lại, Năng Duyên nào vô Năng Duyên nào, gọi là tấu hợp.
Qua phần hiệp lực thì tổng quát lại hết tất cả như là mẫu số chung, có Ghatanà – Hiệp Lực và Sabhàga - Tấu Hợp, qua phần đó mình mới vô Địch, rồi vô trong 7 Pháp Paṭṭhāṇa. Rồi trong 4 cách : thuận, nghịch, thuận nghịch, nghịch thuận mới ra được.
7 Pháp của Paṭṭhāṇa :
1) Paticcavàra – Giai đoạn Liên Quan
2) Sahajàtavàra – Giai đoạn Câu Sanh,
3) Paccayavàra – Giai đoạn Duyên Sinh,
4) Nissayavàra – Giai đoạn Y Chỉ,
5) Sansatthavàra – Giai đoạn Tương Tạp, hay là hỗn hòa,
6) Sampayuttavàra – Giai đoạn Tương Ưng,
7) Panhàvàra – Giai đoạn Vấn Đề.
Phải đi 7 Pháp đó với 4 cách: thuận, nghịch, thuận nghịch, nghịch thuận. Pháp Tam Đề là vậy, chứ không nói suông.
Trung Đạo là mình hành, còn Chánh Đạo là phương pháp. Mình muốn hành Đồ Đạo (Trung Đạo) theo phương pháp Chánh Đạo thì mình biết đường đi.
Khi nắm được ý thì mới ra được chủ đề mình muốn giải quyết. Ưu tư của người tu là phải tìm ra cách giải quyết khổ đau của mình.
Có 2 loại khổ đau là : Khổ đau hiệp thế
Khổ đau siêu xuất thế gian.
Thì cả 2 lộ này mình phải thấy.
Khổ đau hiệp thế là trong Tam Giới.
Khổ đau siêu xuất thế gian trong Tam Giới này nó chỉ là cảnh người tu mình nhắm tới.
Như vậy thì minh phân tích để tìm ra.
Ở trong thế gian này mình bị nặng phần kiết sử, hay bị nặng phần triền cái, hay nặng về lậu hoặc. Mình phải học, phải viết ra bảng vẽ. Mình đưa ra chủ đề và trong mục nào. Ba cái kiết sử, triền cái, lậu hoặc mình có hết thì mình ôm hết không từ chối. Nếu có triền cái mình đánh dấu vào, ta có khổ đau này, những triền cái này nó đeo ta phiền não lắm ; hôn trầm, thùy miên, tham sân, hoài nghi, phóng dật hối hận, trạo hối theo ta, ghi xuống.
Kiết sử đưa vô Đồ Đạo mình phải đi. Triền Cái này nó chỉ là Cảnh để cho mình đối diện nó thôi. Lậu hoặc là Trưởng mình phải biết cái mạnh của nó, thì mình phải đặt ra.
Khi đi học cũng vậy, mình phải coi một bài học, cái nào là trọng tâm, cái nào là tiểu tiết, cái nào đưa tới giải quyết, cái nào chỉ là bối cảnh thôi. Mình phải biết.
Thì kiết sử, Sư nói đó là trọng tâm của mình để mà đi tới thì mình nói tới tà kiến, ngó qua bên triền cái nó có không, ngó bên lậu hoặc nó có không hay là tà kiến chỉ có trong kiết sử thôi, mình ráp vô.
Trong Triền Cái có :
- Tham Triền Cái.
- Sân Triền Cái.
- Trạo Hối Triền Cái.
- Hoài Nghi Triền Cái
- Hôn Thùy Triền Cái.
- Vô Minh Triền Cái.
Triền Cái, nếu nói theo Abhidhamma thì thêm Vô Minh Triền Cái. Nếu nói theo Nikaya chỉ có 5 chi.
Thì kiết sử là thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ, 3 hạ phần kiết sử này là Đồ Đạo của mình phải đi tới.
Bây giờ ráp vô.
Kiết sử tà kiến mà ta nói là thân kiến sakkàyaditti Hữu Thân Kiến này nằm trong triền cái nào ? Tham có 2 loại : Tương Ưng Kiến và Bất Tương Ưng Kiến. Vậy thì Kiết Sử nằm trong Tham Thân Kiến. Nếu mà nó lập đi lập lại, nó là Kiết Sử, mà nó thoáng qua nó là Triền Cái.
Nhưng Tà Kiến lọt qua bên phần Lậu Hoặc thì Tà Kiến nằm ở Kiến Lậu.
Nếu phân tích được thì mình mới ra được mình mới tu được, mình mới giải quyết nó được.
Kiết Sử ta nói anh Thân Kiến này đứng về bên Triền Cái nó thuộc về Tham Tương Ưng Kiến. Đứng về bên Lậu Hoặc nó là Kiến Lậu, còn mình muốn sâu nữa thì mình bổ túc vô.
Nếu chưa ta nói sơ sơ thôi
anh tà kiến này, kiết sử, thân kiến thuộc về kiết sử này nó thuộc loại nào ? Mình nói Kiến Lậu.
Nhưng nếu nói qua Thân Kiến này vô minh triền cái
Kiến có 2 : Tà Kiến và Chánh Kiến.
Tà Kiến - Tâm Sở Tà Kiến (1 trong 3 bọn Tham Phần).
Nếu nói về chi pháp thì Tà Kiến là Tâm Sở Tà Kiến, là 1 trong 3 bọn Tham Phần (Tham, Tà Kiến, Ngã Mạn)
4 pháp Bất Thiện là : Sân, Tận, Lận, Hối.
Chánh Kiến (Tâm Sở Trí Tuệ).
Khi nào mình có Chánh Kiến ? Khi mình có Trí Tuệ thì mình có Chánh Kiến.
Khi nào họ có Tà Kiến ? Khi mình có Tâm Tham là mình có Tà Kiến. Tại vì Tâm Sở không đứng một mình, mình phải biết liền.
Như vậy thì, khi mình có Thân Kiến kiết sử tức là mình có Tâm Tham Tương Ưng Kiến (đôi thứ 1 và đôi thứ 3)
đôi thứ nhất
1) Tâm Ðại Thiện, Thọ Hỷ, Tương Ưng Trí, Vô Trợ (somanassasahagataṃ ñāṇasampayuttaṃ asaṅkhārikam)
2) Tâm Ðại Thiện, Thọ Hỷ, Tương Ưng Trí, Hữu Trợ (somanassasahagataṃ ñāṇasampayuttaṃ sasaṅkhārikam)
đôi thứ ba
5) Tâm Ðại Thiện, Thọ Xã, Tương Ưng Trí, Vô Trợ (upekkhāsahagataṃ ñāṇasampayuttaṃ asaṅkhārikam)
6) Tâm Ðại Thiện, Thọ Xã, Tương Ưng Trí, Hữu Trợ (upekkhāsahagataṃ ñāṇasampayuttaṃ sasaṅkhārikam)
Vậy thì khi các Phật tử nhìn vô Thân Kiến Kiết Sử của mình mà mình niệm được Niệm Xứ thì nó sẽ có 2 cái, Tâm trong Tâm, Tâm Chánh Kiến nhìn thấy Tâm Tà Kiến.
Nhìn vô Thân Kiến Kiết Sử có Niệm Xứ thì có 2 là :
1. Tâm Thiện
2. Tâm Tham.
Mình niệm được Pháp, Trạch Pháp Giác Chi nằm trong Pháp Triền Cái.
Tại vì Thân Kiến thuộc về Tâm Sở thì Tâm này phải là Tâm Thiện
Khi Tâm Thiện của mình Niệm thuộc về Tâm Niệm Xứ. Tâm Thiện thấy Tâm Tham. Tâm Chánh Kiến nhìn thấy Tâm Tà Kiến.
Tâm Tham có cảnh mới sinh ra Tâm. Cảnh Tâm Sở Nghiệp và Tác Ý nó bắt đầu nhìn.
Tâm Tham này có Cảnh thấy sai trách lầm, Cảnh này là Cảnh gì ? Tâm Tà Kiến, lúc bấy giờ mình phải nằm trong Ngũ Thủ Uẩn Kiến ; Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức, của "Tôi", trong "Tôi", ở trong "Tôi" trong phần Ngũ Thủ Uẩn Kiến.
Giờ mình nói Cảnh nằm trong Cảnh nào ? Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức, bất kỳ 1 trong 5 cái này, Cảnh đang sinh lên thì Tâm nhíp vào thì Tâm Đại Thiện Tương Ưng Trí bắt vô Niệm. Thì lúc bấy giờ Tâm Tham, Cảnh cảnh này Sinh / Diệt rớt vô cái Diệt, Tâm Đại Thiện Tương Ưng Trí bắt được thì kiết sử Diệt, trong 1 sát na.
(Tâm Đại Thiện Tương Ưng Trí 'Vô Tham, Vô Sân, Vô Si' nhìn vào Tâm Tham thì Tham diệt, nhin vào tâm Si thì Si diệt, nhìn vào Tâm Sân thì Sân diệt, trong 1 sát na.)
Khi Tâm bắt vô được, khi mà nó Diệt rồi, mà cái Niệm kiến mình có kiết sử diệt.
Tâm Đạo bắt được lúc nào là bắt lúc đó.
Mình viết xuống mình mới ra được chi pháp, còn nói suông thì không được.
Nên cái quan trọng của pháp Niệm Xứ chỗ cốt lõi là mình phải biết cách vận hành và kỹ thuật của Niệm và mình biết ráp lại.
Thế thì khi ta nói kiết sử nào cũng vậy.
Bây giờ ta nói về Hoài Nghi là Triền Cái, hay Hoài Nghi là kiết sử, hay Hoài Nghi này là Lậu Hoặc, mình bắt đầu bỏ vô.
Mình muốn nói về pháp để mình thấy về pháp Hoài Nghi. Hay ta nói về Tâm Niệm Xứ để mình thấy được Tâm Si Hoài Nghi.
Khi ta đưa vô chi pháp. Khi Thân Kiến này là Tâm Sở hay là Tâm, nói Tâm Sở là Tâm Sở Tà Kiến. Nếu là Tâm thì nó thuộc Tâm Tham Tương Ưng Kiến, chứ nó không phải Tâm Tham Bất Tương Ưng Kiến.
Do đó, tới giai đoạn qua khỏi Tâm Đạo thứ 1 là Tâm Thất Lai, qua tới Tâm Đạo thứ 2 là Tâm Nhất Lai là châm vô Tâm Tham Bất Tương Ưng Kiến chứ không còn bận tâm với vấn đề Tâm Tham Tương Ưng Kiến nữa.
Nên tham đó là Tham thô hay là vi tế thì mình mới tìm ra được Tâm Tham Tương Ưng Kiến là Tâm thô của hàng Thất Lai, lên tới hàng Nhất Lai bắt đầu giảm xuống chỉ còn là Tham Bất Tương Ưng Kiến thôi.
Đi tới Bất Lai thì từ Hỷ qua tới Xả diệt luôn 2 cái đó. Giữa Nhất Lai với Bất Lai là Hỷ với Xả còn, nhưng tới Bất Lai, tâm tham không còn Hỷ Xả diệt luôn hết Tham Bất Tương Ưng Trí và Tương Ưng Trí, Hỷ Xả hết.
Hỷ là thô, Xả là tế,
Do đó mình hỏi Bất Lai vượt Tham tế, Nhất Lai vượt Tham thô, Thất Lai vượt Tham Tương Ưng Kiến.
Mình phân tích từng chi pháp.
Khi ta nói tới bài kinh Niệm Xứ, dưới phương pháp nào mình dùng Tâm Niệm Xứ, nếu biết cách dùng. Khi ta nói tới Tâm Niệm Xứ thì ta nói Tâm với Tâm. Nếu ta muốn đối xử với kiết sử thì ta đối xử với Triền Cái ta có Tâm với Tâm thì giải quyết được mấy cái đó chỉ mục tiêu của Niệm Xứ, mục tiêu của Paṭṭhāṇa là Tam Tướng.
Mà nếu như đi qua phần Samadhi thì không đứng trong phần Vipassana trong Tứ Niệm Xứ này thi lấy chi Thiền để áp chế Triền Cái thôi chứ không có Kiết Sử, nó nằm ở đó và chờ cơ hội tấn công lại.
Mình cứ viết ra tuần tự theo trên bảng như Sư viết.
để hình 068 - 43.07
Ta nói Thân Kiến, ta nói Hoài Nghi, Giới Cấm Thủ.
Hoài Nghi (Vicikiccha): có 2 loại là . Hoài nghi thông thường và hoài nghi có tội.
Hoài nghi có tội có 8 :
1. Satthari kaṅkhati - Hoài nghi ân đức Phật.
2. Dhamme kaṅkhati - Hoài nghi ân đức Pháp.
3. Saṅghe kaṅkhati - Hoài nghi ân đức Tăng.
4. Sikkhāya kaṅkhati - Hoài nghi về tam học (giới - định - tuệ).
5. Hoài nghi về quá khứ.
6. Hoài nghi về vị lai.
7. Hoài nghi về hiện tại.
8. Hoài nghi về liên quan duyên sinh.
Nhưng nói về hoài nghi về chi pháp là Tâm Sở Hoài Nghi, là Tâm Si Hoài Nghi. Thì Tâm Si Hoài Nghi, Tâm Si Phóng Dật.
Vậy thì nếu nói về Triền Cái, nó thuộc về Hoài Nghi Triền Cái.
Nếu nói về Kiết Sử thì nó thuộc về Hoài Nghi Kiết Sử.
Còn nếu về Lậu Hoặc nó thuộc về Vô Minh Lậu.
Như vậy thì khi ta có Tâm Si Hoài Nghi, thì Tâm Si Hoài Nghi này nó thuộc loại nào ? Tâm Si Hoài Nghi có Tâm Sở Si Hoài Nghi.
Si Hoài Nghi, Vô Tàm, Vô Quí, Trạo Cử thuộc bọn 4 Si Phần, bọn Bất Thiện Biến Hành.
Tâm Si Hoài Nghi thuộc loại 4 Si Phần, nó thuộc Bất Thiện Biến Hành, tức là có một lượi, không tách rời, khi có là có luôn 4 cái (Si Hoài Nghi, Vô Tàm, Vô Quí, Trạo Cử) nó là biến hành, không tách rời. Si mà Vô Tàm Vô Quí thì Trạo Cử liền. Nó thuộc loại 4 Si Phần. Nó thuộc Tâm Sở Si, nó có Si, Vô Tàm, Vô Quí, Trạo Cử hay là Phóng Dật. Mà kèm theo là mỗi Tâm Sở Bất Thiện nào mà có thì có 4 cái Si, Vô Tàm, Vô Quí, Trạo Cử nó vô hết.
Như vậy thì khi ta đi qua phần Hoài Nghi Kiết Sử, nó thuộc 1 trong 3 hạ phần kiết sử thì phải dùng tâm nào để niệm xứ nó, nó thuộc về Tâm Niệm Xứ Bất Thiện.
Mình thay thể vô, nó là Tâm Si Hoài Nghi thì mình có Tâm Đại Thiện Tương Ưng Trí.
Khi quí Phật tử nói tới phần Tâm Si Hoài Nghi này mà mình muốn diệt nó thuộc loại Si Hoài Nghi nó thuộc trong 3 hạ phần kiết sử mình phải dùng tới Tâm Đại Thiện Tương Ưng Trí mới diệt được chứ còn Tâm Đại Thiện thường thì không được.
Minh (vijjà) sinh Vô Minh (Avijjà) diệt,
Trí Tuệ sinh Hoài Nghi diệt.
Vậy thì trong đời sống hàng ngày, cũng như trong khi có khóa tu quí Phật tử sài Tâm Đại Thiện nào để mình tu ? Quí Phật tử có sài Tâm Đại Thiện Tương Ưng Trí suốt thời gian, hay chỉ sài Tâm Đại Thiện chung chung thôi ?
Vấn biết rằng một nhà học võ, cho dù là võ sư đi nữa, không phải lúc nào họ đi ra đường họ cũng gồng thế võ, mà đụng chuyện họ mới sài, có khi sài kịp có khi sài không kịp.
Nên quí Phật tử thấy chữ Đại Thiện Tương Ưng Trí để diệt được Tâm Si Hoài Nghi, 1 trong 3 kiết sử đầu tiên của Tâm Thất Lai là quí Phật tử sẽ yêu cầu phải xử dụng trí tuệ luôn luôn sắc bén.
Đầu tiên nhất Tâm Đại Thiện Tương Ưng Trí này đối diện với Si Hoài Nghi, Tâm trong Tâm.
Vậy thì khi nào có Tâm Đại Thiện Tương Ưng Trí, khi nào thấy có Tâm Si Hoài Nghi, lúc đó xử lý Tâm Si Hoài Nghi rồi xử lý Tâm Đại Thiện Tương Ưng Trí, hay là dùng Pháp nào trong sự tu tập này để diệt kiết sử ?
Khi Tâm Si Hoài Nghi khởi lên mình phải có Tâm Đại Thiện Tương Ưng Trí để Niệm nó, do đó chức năng Niệm rất là quan trọng, lúc này bây giờ không còn nằm trong pháp Niệm Xứ.
Pháp Niệm Xứ không giải quyết vấn đề này, khi mình tu lấy Tâm đối diện với Tâm thì mới ra được, muốn có Tâm Đạo thì phải có Tâm Đại Thiện Tương Ưng Trí diệt Tâm Bất Thiện là Tâm Kiết Sử, cái đó mình không còn thắc mắc nữa, đó là điều chắc chắn.
Như vậy thì khi Tâm Si Hoài Nghi khởi lên (1 trong 8 Hoài nghi) chắc chắn là quí Phật tử rớt trong 4 chi trong 8 hoài nghi, thì vị Thiền Sư mới lọc cho mình ra.
Quí Phật tử không hoài nghi Phật , không hoài nghi Pháp, không hoài nghi Tăng.
Quí Phật tử hoài nghi ta trong 3 thời và hoài nghi liên quan tương sinh. Duyên nào đưa tới, do đó, mình sinh hoài nghi. Minh cô đọng lại 4 hoài nghi này bắt đầu trí làm việc, bắt đầu lọc ra.
- Hoài nghi ta trong quá khứ, ta không rõ.
- Hoài nghi ta trong vị lai, vị lai chưa tới ta không biết.
- Hoài nghi ta trong hiện tại, ta làm đúng chưa ?
Quí Phật tử đi cái đó là đang đi trong Tâm Si Hoài Nghi với Tâm Si Phóng Dật chứ không có Tâm Đại Thiện Tương Ưng Trí, mà đang bị phóng dật.
Quí Phật tử đang ở trong Tâm Đại Thiện Tương Ưng Trí mà không sài Tâm Đại Thiện Tương Ưng Trí vì kỹ thuật mình không biết, các hành giả không biết nắm thì rớt qua Tâm Si Phóng Dật liền, mà mình không hay, mình đang ngồi thiền không kết quả.
Có cái key, nhưng Sư còn đi vòng vòng cho quí Phật tử nắm chỗ đó quan trọng lắm.
Khi quí Phật tử có 4 trong 8 hoài nghi, thì Sư gỡ thì quí Phật tử còn 2 cái trong 8 hoài nghi, ta trong hiện tại và liên quan tương sinh, ta đang ngồi đây ta sinh hoài nghi, nếu không dùng Đại Thiện Tương Ưng Trí thì rớt vô Si Phóng Dật, không có con đường nào chạy hết, trong khi đó mình ngồi thiền hoài, mình hành hoài, trong pháp hành bộ hành cũng vậy, trong tọa hành cũng vậy, trong trụ hành cũng vậy, trong ngọa hành cũng vậy, quí Phật tử luẩn quẩn như con kiến trong chén đường mà thôi.
Thiền sinh hỏi: Để diệt Tâm Hoài Nghi mình phải có Tâm Đại Thiện Tương Ưng Trí, là Tâm có Vô Tham, Vô Sân, Vô Si, mà Vô Si chính là Tâm để diệt hoài nghi phải không ?
HT trả lời. Không phải vậy, cô bị đang trong trạng thái phóng dật rồi, mình giải đáp không được là mình phóng dật liền
Khi ta đang ở trong nhóm hoài nghi, ta đang hoài nghi ta, pháp hành ta đi có đúng không, cái hoài nghi này, ta có Tương Ưng Trí này thì sẽ đi qua Si Phóng Dật. Tâm Si Hoài Nghi mà không giải đáp được thì rớt vô Tâm Si Phóng Dật. Tâm Si Phóng Dật là suy nghĩ để tìm câu giải đáp.
Tâm Si Hoài Nghi mà sinh, nghi mà diệt là mình không có tôi trong đó.
Tâm Đại Thiện Tương Ưng Trí qua luôn Sinh / Diệt, không qua Tâm Si Hoài Nghi.
(Tâm Đại Thiện Tương Ưng Trí 'Vô Tham, Vô Sân, Vô Si' nhìn vào Tâm Tham thì Tham diệt, nhin vào tâm Si thì Si diệt, nhìn vào Tâm Sân thì Sân diệt, trong 1 sát na.)
để hình 068 - 1.03.22
Nghi kiết sử mất với Tâm Đại Thiện Tương Ưng Trí, thấy được pháp của nó, chứ không thắc mắc tại sao, tôi làm có đúng không, cái đó mình tránh không thắc mắc, chỉ có 1 sát na thôi, thấy được pháp của nó, chứ không thắc mắc. Sát na Niệm, sát na Định, sát na Tuệ bắt liền.
Thì sát na Định, sát na Niệm đây là Si Hoài Nghi. Sát na Định là trí tập trung vô đang sinh, và Tuệ tập trung vô đang diệt kiết sử dứt.
Còn không thì quí Phật tử đi loanh quanh trong phóng dật này
Mình đưa bài pháp này lên, đưa cái cột này lên, đưa cái chi pháp này lên, đưa Tam Đề này lên, đưa cách giải quyết mình lên là ra.
Áp dụng trong Đạo Cảnh, Đạo Nhân, Đạo Trưởng, đưa cột này lên, triền cái nè, kiết sử nè, lậu hoặc nè, đi vào trong pháp, pháp nào đang có là pháp đó mình có.
Pháp nào sinh lên nó chỉ là pháp Tâm biết và Tâm đang có, bắt cái đó.
Từ đó, mới thấy người đắc đạo Thất Lai không có hoài nghi, họ sài Tâm Đại Thiện Tương Ưng Trí, họ không có Thân Kiến, họ chỉ sống trong Đại Thiện Tương Ưng Trí, và họ sống không có một cái gì chấp thủ. Cũng là con người đó nhưng tâm của họ đã thanh lọc.
Mình áp dụng, rồi trắc nghiệm, thì khi gặp Cảnh bậc Thất Lai sẽ xử lý. Với một Cảnh người phàm phu họ hiện bày. Mình tìm ra được.
Như vậy, bây giờ mình áp dụng trong đời sống hàng ngày, như trong khóa tu, khi nào triền cái mình biết, khi nào kiết sử mình biết, khi nào lậu hoặc mình biết, mình phải thanh lọc liền, không cần phải hỏi, không cần phải suy tư nghĩ ngợi. Chứ không thể nào quí Phật tử còn thắc mắc, hay là không chuyên nghề, không chuyên nghiệp là không được.
Bây giờ mình nói thời tiết.
Thời tiết có mấy loại :
- Nóng. Nóng của thời tiết, hay nóng do mình nghĩ, mình biết, mình phải phân biệt được nóng của thời tiết hay nóng do mình nghĩ. Chứ không còn có trạng thái
- Lạnh. Lạnh của thời, hay lạnh do mình nghĩ
- ấm,
- mát,
Nếu không có Niệm, không có trí thì mình bung vô trạng thái nghĩ của mình. Câu nói "con nghĩ thời tiết nóng lạnh là của ông Trời cho" thì cũng là của mình.
Giữa 2 cái nóng, lạnh, nếu ta có Niệm --có --> Pháp --có --> Tâm, không bị chi phối trong đó.
Nếu có cái Niệm thì thời tiết chỉ là Pháp và Tâm mình biết Pháp đó thôi. Chứ mình không có nóng, lạnh cái suy nghĩ trong đó.
Một thí dụ thôi, thí dụ về thời tiết thì mình cũng vô Niệm, chỉ tại vì mình không có Niệm thôi, và mình thất Niệm, mình không có Trí, và mình chạy theo nghiệp lực rồi.
Do đó, chức năng của Niệm Xứ, chức năng sự tu tập của mình, chức năng xử lý của tình huống đó đến với mình, thân, ngự, ý, mình luôn luôn thấy rất là quan trọng, một chuyện nhỏ thôi, chỉ là thời tiết.
Giờ Sư cho một thí dụ lớn hơn và nó hấp dẫn lôi cuốn hơn : Vật Thực, nó mang tánh chất chủ quan hơn nữa, thời tiết nó còn là khách quan, tới vật thực mình thấy ngon, dở, tốt, xấu, thích hay không thích.
Nếu không có Niệm và mình chỉ thấy Pháp thôi thì mình mới có cái Tâm thì mình rớt trong trạng thái của Vật Thực lôi cuốn mình.
Mình đứng ở đây nó có 2 làn ranh, một bên là tu tập, một bên là trôi lăn, cứ để trôi lăn tới đâu thì tới mà họ vẫn nói là tương ưng, họ vẫn có Chánh Ngữ, chứ không có tà ngôn tà ngữ, không nói sai không nói bậy, nhưng họ sống trong trạng thái của mình.
Như vậy thì khi mình có Pháp này thì những triền cái hay kiết xử nó không xâm nhập vô, hay nó chỉ đạo mình, từ chút một chút thì bắt đầu mình đánh rớt kiết sử.
Kiết sử đó là kiết sử gì ? Kiết sử cái tôi của mình, cái thói quen của mình, thì thân ngự ý của mình bắt đầu hoàn chỉnh đi theo hướng đi của các bậc có trí tuệ, chứ mình không có luông tuồng nữa.
Sư bắt đầu áp dụng :
Thời tiết nếu đụng vô Thân Kiến của mình là Thọ, Thọ thì ra Tưởng, và mình có Hành, và quyết định của mình là Thức, từ Sắc của mình tiếp xúc.
Vật thực cũng vậy : Khi vật thực đụng vô Thân Kiến từ Sắc mình ra Thọ, Thọ ra Tưởng, Tưởng ra Hành, Hành ra Thức của Thân Kiến kiết xử khi mà liên quan đến vật thực.
Bây giờ mình làm sao ?
Do đó, với phương pháp Đức Phật Ngài dạy cho các chư Tỳ Khưu nhìn vật thực mà quán tưởng.
Pindapato là ôm bình bát đi khất thực. pato là cái bình bát
Nếu mình không tu, thời tiết có ảnh hưởng tới Thân Kiến của mình, vật thực ảnh hưởng tới Thân Kiến của mình, cái nhà cũng vô Thân Kiến của mình, cái khách quan cũng vô cái chủ quan của mình được. Thì Thân Kiến này nó thuộc trong chủ quan mà mình đã nuôi dưỡng nó, mình đã bảo vệ nó và mình đã sống với nó. Vì đụng vô cái tôi, cái ta là mình bắt đầu phản ứng ra vì mình không có tu. Giờ mình biết rồi thì mình tu.
Thời tiết tới chỉ là Sinh và Diệt thôi. Vật thực tới chỉ Sinh và Diệt thôi. Do đó, nó bên ngoài, mình là trong, mình cứ nuôi dưỡng nó rồi tự nhiên nó xâm nhập mình, mình nuôi dưỡng nó mình mở cửa cho nó xâm nhập vào.
Do đó, cái tu của mình là mình phải biết, cái đó là tuệ giác, Tuệ Tư, Tuệ Tu, mình phải biết cái kỹ thuật này.
Mình trở lại với thời tiết, mình chỉ có Niệm, mình thấy nó là các Pháp, mình có Tâm của mình có ở trong triền cái này không ? Tâm mình có ở trong kiết xử này không ? hay Tâm mình có Tương Ưng Trí không ? Tâm mình đang trong phàm hay đang tu tập để thành Thánh ? Đó là sự tu tập của mình thường xuyên để mình giữ được Chánh Niệm này rồi mình mới lần bước đi ra khỏi cái con đường Vô Minh, hay con đường mà luân hồi này.
Bất cứ cái gì nó đến với mình thì Thân Kiến tiết xúc trước, và mình không trách người ta, không trách pháp bên ngoài, mình chỉ trách mình là mình không tu pháp bên trong để cho nó thâm nhập vào.
Cửa nào cũng chết. vô cửa Sắc, mà vô được rồi thì Thọ, Tâm, Tưởng, Hành, Thức nó xen vào được, và nó có đường nó chạy theo.
Do đó, Thân Kiến là kiến chấp hay là tri kiến nhận thức, hai cái đó mình phải biết.
Kiến Chấp
Thân Kiến
Nhận Thức.
hai cái đó mình phải biết. Kiến chấp, kiến nhận thức làm sao mình biết. Có Cảnh thì sinh Tâm. Tâm có Cảnh, giữa hai cái đó cái nào quyết định ?
Có Cảnh --> Có Tâm
Một thiền sinh trả lời: Tôi có tu thì Tâm tôi quyết định. Còn tôi không tu thì tôi chạy theo Cảnh, Cảnh quyết định.
Nếu đây là Cảnh Níp-bàn quyết định hay Tâm Đạo quyết định ?
Ta nói Cảnh quyết định, Tâm chạy theo. Có khi mình nói Tâm quyết định, Cảnh không lay chuyển tôi được, tôi giữ được Tâm tôi. Vậy giữa Thánh nhân với phàm nhân mình có 2 cái đó.
Vậy thì khi Cảnh Níp-bàn với Tâm Đạo này ở trong vị trí nào ? Mình phải phân biệt, nếu mình không phân biệt được thì không có thể nào tu tập để giải quyết được kiết sử, triền cái hay lậu hoặc được
Cảnh chỉ có 3 :
- Cảnh Triền Cái
- Cảnh Kiết Sử
- Cảnh Lậu Hoặc.
Nếu nó là Cảnh Triền Cái ; Tham Triền Cái, Sân Độc Triền Cái, Hoài Nghi Triền Cái, Trạo Hối Triền Cái, Hôn Thụy Triền Cái. Cảnh đó là Cảnh Triền Cái, thì Tâm của quí Phật tử đang có là cái nào ?
Cảnh Níp-bàn, qua khỏi Triền Cái, qua Khỏi Kiết Sử, qua khỏi Lậu Hoặc là Cảnh Níp-bàn thì có Tâm Đạo
Có Cảnh có Tâm. Tâm nào Cảnh nào, cái nào là quyết định ?
Phải cẩn thận. Khi người ta nói Cảnh có Tâm có, Cảnh quyết định hay Tâm quyết định ? Quí Phật tử lúng túng. Người ta nói thêm, nếu có Cảnh Triền Cái thì Cảnh Triền Cái quyết định Tâm của mình không ?
Thì mình nói Cảnh Triền Cái có Tâm Triền Cái.
- Cảnh Kiết Sử có Tâm Kiết Sử.
- Cảnh Lậu Hoặc có Tâm Lậu Hoặc.
- Níp-bàn có Tâm Đạo.
Cảnh Triền cái là có Tâm Triền Cái
Cảnh Níp-bàn có Tâm Đạo.
Mình nhận định được thì mới tính tiếp được.
Niệm nào vô thì có Tâm đó. Tâm buồn ngủ Cảnh buồn ngủ, có Cảnh buồn ngủ có Tâm buồn ngủ. Trạng thái buồn ngủ, Tâm buồn ngủ. Tôi đang buồn ngủ tôi có Cảnh buồn ngủ, tôi đang có trạng thái hôn trầm thụy miên, Tâm tôi đang hôn trầm thụy miên.
Mình nhận thức được thì mình Niệm, lấy Tâm Đại Thiện, lấy Tâm Tương Ưng Trí.
Mình có Niệm thì có Pháp, có Pháp thì có Tâm.
Nếu quí Phật tử bỏ Thời Tiết hay Vật Thực vô thì quí Phật tử ở trong trạng thái của Tôi, Ta. Dứt khoát ta không làm nữa, giờ ta biết rồi, ta đang tu nên ta không lập đi lập lại những Cảnh này hoài được.
Như thế thì khi Niệm khởi lên thì mình chỉ coi đó là Sinh / Diệt chứ không có cái Tôi, thì mình Niệm được cái Diệt thì lúc đó là Tương Ưng Trí Tâm này bắt được Cảnh chứ không có Niệm.
Tại sao nó có ? Có lúc nào ? Tại sao cái này ?
Không phải là tư tưởng, còn triền cái, kiết sử, lậu hoặc, một luồng tâm, một tư tưởng, một suy nghĩ, một nhận thức bắt vô một sát na thôi, và khi nó sinh lên lúc nào mình cũng biết cái gì của nó là chắc chắn nhất cái đó là Thực Tính (Vô Thường, Khổ Đau, Vô Ngã), đó là bản chất cố hữu của nó không ai thêm, không ai bỏ vô và không ai tác động được, nó là như vậy, thì tôi có cái đó, thì mới ra, sát na Niệm mà mình Định được trong đó là sát na Định và sát na Tuệ biết được cái đó là Thực Tính ./.
-------------------------------------------
[402] Tám pháp cần đoạn trừ (Pahātabbā dhammā):
Đây là tám tà tánh, hay bát tà đạo (Micchattā):
1. Tà kiến (Micchādiṭṭhi), tri kiến sai lầm, sự hiểu không đúng chân lý, như thường kiến, đoạn kiến v.v...
2. Tà tư duy (Micchāsaṅkappo), sự suy nghĩ bất thiện, như ý tưởng tham dục, ý tưởng sân hận ý tưởng não hại.
3. Tà ngữ (Micchāvācā), lời nói bất chính, như nói dối, nói ly gián, nói độc ác, nói vô ích.
4. Tà nghiệp (Micchākammanto), hành động bất chính, như sát sanh, trộm cắp, tà dâm.
5. Tà mạng (Micchā-ājīvo), nuôi mạng bất chính, như làm nghề sát sanh, nghề trộm cướp, nghề lừa đảo...
6. Tà tinh tấn (Micchāvāyāmo), sự siêng năng bất chính, như siêng năng làm cho bất thiện pháp phát sanh.
7. Tà niệm (Micchāsati), sự vọng niệm, nhớ đến những điều mà làm cho ác bất thiện pháp sanh khởi.
8. Tà định (Micchāsamādhi), sự phóng dật, sự trụ tâm không kiên cố, làm cho bất thiện sanh khởi.
-------------------------------------------
Trong Tập Tứ Pháp Siêu Lý trang 17.
12) Tâm Đại Thiện (Mahā-kusala cittas) có nghĩa là Tâm không có tội lỗi và cho Quả an vui, vì thế được gọi là Thiện, và có khả năng sanh nhiều hơn tự bản thân. Tất cả đều là phần mở đầu của Thiền, Thắng Trí, Đạo Quả - như thế mới gọi là "Mahā - Đại". Khi kết hợp cả hai từ ngữ này gọi là Mahākusalacitta - Tâm Đại Thiện".
8 Tâm Đại Thiện (Mahā-kusala cittas)
đôi thứ nhất
1) Tâm Ðại Thiện, Thọ Hỷ, Tương Ưng Trí, Vô Trợ (somanassasahagataṃ ñāṇasampayuttaṃ asaṅkhārikam)
2) Tâm Ðại Thiện, Thọ Hỷ, Tương Ưng Trí, Hữu Trợ (somanassasahagataṃ ñāṇasampayuttaṃ sasaṅkhārikam)
đôi thứ hai
3) Tâm Ðại Thiện, Thọ Hỷ, Bất Tương Ưng Trí, Vô Trợ (somanassasahagataṃ ñāṇavippayuttaṃ asaṅkhārikam)
4) Tâm Ðại Thiện, Thọ Hỷ, Bất Tương Ưng Trí, Hữu Trợ (somanassasahagataṃ ñāṇavippayuttaṃ sasaṅkhārikam)
đôi thứ ba
5) Tâm Ðại Thiện, Thọ Xã, Tương Ưng Trí, Vô Trợ (upekkhāsahagataṃ ñāṇasampayuttaṃ asaṅkhārikam)
6) Tâm Ðại Thiện, Thọ Xã, Tương Ưng Trí, Hữu Trợ (upekkhāsahagataṃ ñāṇasampayuttaṃ sasaṅkhārikam)
đôi thứ tư
7) Tâm Ðại Thiện, Thọ Xã, Bất Tương Ưng Trí, Vô Trợ (upekkhāsahagataṃ ñāṇavippayuttaṃ asaṅkhārikam)
8) Tâm Ðại Thiện, Thọ Xã, Bất Tương Ưng Trí, Hữu Trợ (upekkhāsahagataṃ ñāṇavippayuttaṃ sasaṅkhārikam)
No comments:
Post a Comment