056 Paṭṭhāna
HT Sán Nhiên giảng ngày 23 tháng 4, 2023
Minh Hạnh đã nghe để học và, xin ghi chép tóm tắt theo sự hiểu của chính mình từ video giảng "056 - Paṭṭhāṇa" do HT Sán Nhiên giảng. Minh Hạnh xin chia sẻ đến qúi Thiện Tri Thức, nếu có gì sai sót xin lượng tình tha thứ, xin từ bi chỉ dạy, Minh Hạnh vô vàng cảm tạ.
Con xin thành kính cảm tạ ơn HT Sán Nhiên đã thuyết giảng bài pháp rất hữu ích để chúng con tu tập. Cũng xin chân thành cảm ơn đến qúi anh chị trong ban Hoằng Pháp của Trung Tâm Việtnamese American Mahasi Meditation Center.
Nguyện đem công đức này hồi hướng đến tứ ân phụ mẫu, đến tất cả Chư Thiên, Vua Trời Đế Thích, các Ngài Tứ Đại Thiên Vương, và tất cả chúng sanh đồng thành Phật đạo. Nguyện cho vợ chồng con và các con cháu đời này và mãi mãi những đời sau có chánh tín và chánh trí.
Namo Buddhaya
Minh Hạnh
Ngũ Ma, Devaputta mãra là một trong Ngũ Ma
Deva = Thiên
putta = Tử (con trai)
Mãra = Ma
Devaputta Mãra là Thiên Tử Ma
Maccu Mãra là Tử Thần Ma
Những Mãra họ có năng lực riêng.
Thí dụ như, mình bị bệnh, mỗi một căn bệnh nó có năng lực riêng của bệnh đó, những con virus nhỏ nó có căn bệnh của nó và nó có chức năng có năng lực của nó để nó tấn công khán thể của mình hay tấn công cơ thể của mình.
Cũng vây, trong khi mình tu tập, hay trong đời sống hành ngày của mình bị Mãra tấn công. Chẳng hạn như Phiền não ma (Kilesamāra) tấn công mình thì lúc đó mình gục ngã liền. Tuy nhiên, tổng quát lại hết thì tất cả Mãra không qua được Pāramī (Ba La Mật).
Do đó, Ma, Ác Ma, Chư Thiên Ma, Tử Thần Ma, Pháp Hành Ma, Ngũ Uẩn Ma (Khandha Mãra), hay là Phiền Não Ma v.v... không đối chọi được Pāramī (Ba La Mật). của mình.
Do đó, khi Bồ Tát (Bodhisatta) ngồi dưới gốc cây Assattha trên cái bồ đoàn. Khi Ngài chưa đắc đạo thì không gọi là cây Bồ Đề, sau khi Ngài đắc đạo mới gọi là cây Bodhi Tree, chỉ dành cho các vị Phật, Bodhi Tree là cây Giác Ngộ của một vị đã chứng đắc Giác Ngộ dưới cội cây này thì cây này mới được gọi là Bodhi Tree còn không thì mình nói là cây đa, cây cổ thụ.
Thì khi mà Ác Ma cưỡi voi cùng với binh ma tới tấn công Ngài Bodhisatta (Bồ Tát) Ngài đang ngồi dưới gốc cây, tất cả các vị Chư Thiên Dạ Xoa hay các vị thân bằng quyến thuộc hay những người mến mộ Ngài lúc Ngài ngồi tinh tấn tu hành họ bỏ chạy hết, chỉ có Pāramī của Ngài hành trong 22 tăng kỳ ở bên Ngài để mà sống chết với Ngài thôi, chứ không bỏ đi.
Mình nhìn mới thấy, trong khi nguy khốn, trong khi mình khổ sở vì gặp khó khăn không có ai cứu mình bằng chính mình cứu mình bằng năng lực của mình có tu tập mình mới có kết quả, chứ mình cầu nguyện bên ngoài chỉ có một phần nào thôi, có khi được có khi không.
Đọc lại trong 10 Balamat.
Mười pháp Ba la mật (Dasapāramī) là:
1. Bố thí Ba la mật (Dānapāramī), Bồ tát xả tài với tâm nguyện giải thoát.
2. Trì giới Ba la mật (Sīlapāramī), Bồ tát thu thúc thân hành, khẩu hành trong sạch với tâm nguyện giải thoát.
3. Xuất ly Ba la mật (Nekkhammapāramī), Bồ tát tâm lìa bỏ sự tham muốn trong trần thế, chỉ hướng tâm đến mục đích giải thoát.
4. Trí tuệ Ba la mật (Paññāpāramī), Bồ tát rèn luyện trí sáng suốt, trau giồi sự hiểu biết đúng chân lý nhân quả, với mục đích chứng đắc quả giải thoát.
5. Tinh tấn Ba la mật (Viriyapāramī), Bồ tát năng nỗ lực trong mọi việc, bỏ tâm lười biếng, với mục đích chứng đắc quả giải thoát.
6. Nhẫn nại Ba la mật (Khantipāramī) Bồ tát kham nhẫn với mọi nghịch cảnh, chịu đựng, không nổi giận oán thù, làm như vậy với mục đích đạt đến giải thoát.
7. Chân thật Ba la mật (Saccapāramī) vì mục đích giải thoát, Bồ tát tôn trọng sự thật, nói lời chân thật không giả dối.
8. Chí nguyện Ba la mật (Adhiṭṭhānapāramī), Bồ tát có ý tưởng giải thoát luôn giữ vững, tâm nguyện giải thoát luôn kiên định, không xao lãng.
9. Từ tâm Ba la mật (Mettāpāramī), với mục đích giải thoát, Bồ tát nhiếp phục sân hận, luôn an trú từ tâm đối với mọi loài.
10. Hành xả Ba la mật (Upekkhāpāramī), Bồ tát với mục đích giải thoát giữ tâm bình thản, không dao động trước sự đời khen, chê, vui, khổ, được, mất, vinh, nhục.
Đọc lại 10 Balamat thì có những lúc Ngài được Mẹ của Ngài là một vị Sơn Thành ở trên núi xuống để độ Ngài, giúp đỡ Ngài, những lúc Ngài hoạn nạn, đó là hy hữu may mắn thôi, còn ngoài ra Pāramī của các vị Bồ Tát, của các vị Hành Pháp có tu tập họ mới cứu họ được.
Để bổ túc lại những tuần trước giảng về Tuệ Tu, Tuệ Văn, Tuệ Tư. Nhưng tới Tuệ Tu, Sư nói Pāramī (Ba La Mật), thì Sư đọc lại quyển tự điển thấy rõ là chỉ có Pāramī (Ba La Mật) cứu mình thôi.
Do đó, trong đời sống hàng ngày các quí Phật tử gặp 1 trong những Ngũ Ma, thì chỉ có Pāramī (Ba La Mật) để vượt qua thôi, nhưng nó linh hoạt, không có cố định một cách thiên kiến hay định kiến nào về một Pāramī (Ba La Mật) nào, tuy nhiên nền tảng gốc căn bản của người hành Pāramī (Ba La Mật) là Trí Tuệ.
Mình phải hành Pāramī (Ba La Mật) không gián đoạn, Ác Ma không chừa ai hết, nó tấn công hết, nó cai quản cả tam giới, Vô Sắc Giới, Sắc Giới, Dục Giới trong tay của Ác Ma.
Ngũ ma (Māra), sự phá hoại, sự đem lại bất hạnh, sự xấu xa:
1. Phiền não ma (Kilesamāra). Phiền não phá hoại thiện pháp và làm cho chúng sanh bị bất hạnh luân hồi nên gọi là ma.
2. Ngũ uẩn ma (Khandhamāra). Ngũ uẩn có thực tính đổi thay biến hoại, luôn là tính chất khổ đau, đem lại sự suy sụp, nên gọi là ma.
3. Pháp Hành ma (Abhisaṅkhāramāra). Nghiệp thiện ác tạo ra quả luân hồi, kết buộc vào vòng sanh tử khổ đau triền miên, nên gọi là ma.
4. Thiên tử ma (Devaputtamāra). Hạng thiên thần nhiều uy lực trong cõi trời dục giới nhưng có tính đố kỵ, hay quấy phá người tu tập hiền thiện, cản trở sự tu tiến của người tu hành, nên gọi là ma.
5. Tử thần ma (Maccumāra). Sự chết luôn cướp đoạt mạng sống và tạo nên nỗi ám ảnh sợ hãi cho chúng sanh, nên gọi là ma.
Trong Trung Bộ Kinh, bài kinh 50, kinh Hàng Ma Màratajjanìya sutta, nói trong một kiếp quá khứ Ngài Mục Kiền Liên là Ác Ma Dusi phá đệ tử của Đức Phật Kakusandha, Ác Ma Dusi chui vào bụng của Chí Thượng Thinh Văn vị thị giả của Đức Phật Kakusandha, vì thế Ngài Mục Kiền Liên bị đọa nhiều kiếp.
Do đó, mình phải biết Ác Ma không có chừa ai hết, chỉ có một con đường Ác Ma tha thôi, là sống dưới đời sống Ác Ma là Ác Ma không bắt mình, nếu đi ngược lại với Ác Ma là con đường đó mình bị diệt vong vì Ác Ma không cho.
Con đường nào đi ngược với Ác Ma ? Là con đường tu, Ác Ma không giải thoát, Ác Ma đắm chìm trong ngũ dục. Còn mình đi ngược lại với Ác Ma, mình ly tham, ly sân, ly si, thoát khỏi lục dục những sự cám dỗ thì Ác Ma tung lưới bắt mình.
Khi người ta tinh tấn tu tập, họ thắng được Phiền Não Ma, họ tinh tấn tu tập họ thắng được Pháp Hành Ma, họ tinh tấn tu tập họ thoát được Ngũ Uẩn Ma họ không dính mắc vô thân kiến, tuy nhiên lúc bấy giờ Tử Thần Ma bắt người đó đi. Do đó, có những người chết trong khi họ đang tu tập họ cũng còn trẻ, đó là Tử Thần Ma.
Do đó, một là mình không biết được thành quả của mình tu tập Pāramī (Ba La Mật) của mình có bao nhiêu ? Hai là mình không biết được là tuổi thọ của mình sẽ như thế nào ?
Còn Phiền Não Ma lúc nào cũng có hết, cái vui cũng là Phiền Não Ma, cái buồn cũng là Phiền Não Ma, cái khổ cũng là Phiền Não Ma, nó là mặt trái và mặt phải mình không để bị lầm, vui buồn sướng khổ là Phiền Não Ma.
Chẳng hạn như bữa cơm mà đầy thức ăn cũng là một Phiền Não Ma, nó sẽ đưa mình vô bẫy sập của nó trong lục dục (sắc, thinh, khí, vị, xúc, pháp).
Mình lo sợ Phiền Não Ma, mình lo sợ Pháp Hành Ma, mình lo sợ Ngũ Uẩn Ma, cái tà kiến về thân của mình trong tâm mình phá mình ghê lắm, nhưng mình không biết Tử Thần Ma gõ cửa lúc nào, cái chết nó đến lúc nào, cái đó mình phải ngừa phòng hết, không giúp gì mình khi mình quay lại nhìn nó, mình chỉ đi tới với Pāramī (Ba La Mật) của mình thôi, đó là kỹ thuật cao.
Kỹ thuật cao là mình không quay lại dòm ngó coi ai đi với mình hay ai đang theo dõi mình, mình không có thì giờ làm chuyện đó, chỉ có một điểm là đi tới với Pāramī (Ba La Mật) mình hành, phải trao dồi liên tục, việc thiện nào cũng làm, cho mình cho người, lúc nào mình cũng phải làm với pháp tu tập chân chánh của mình, thì may ra nó sẽ trổ quả thì mới bảo vệ được mình trên con đường tu tập của mình được an toàn thôi, chứ còn không thì không thoát khỏi cái Ngũ Ma, dụ dỗ đủ mọi cách để khống chế mình.
Thế nào là Tối Hành Ma Abhisaṅkhāra Mãra ?
Abhisaṅkhāra Mãra là Tối Hành Ma
Abhisaṅkhāra = Tối Hành
Mãra = Ma
Hành có 3:
- Phúc Hành
- Phi Phúc Hành
- Tối Thắng Hành
Hành có 3 nằm ở Vô Minh duyên Hành của Thập Nhị Nhân Duyên hay Liên Quan Duyên Sinh Avijjã paccaya Saṅkhāra.
Saṅkhāra (Hành) có 3 mà thành 6
Avijjã paccaya Saṅkhāra
Avijjã = Vô minh
paccaya = duyên
Saṅkhāra = hành
Vô Minh duyên Hành.
Vô Minh là bát bất tri (8 điều không biết):
1) Bất tri khổ đế
2) Bất tri tập đế
3) Bất tri diệt đế
4) Bất tri đạo đế
5) Bất tri nhân đã qua (quá khứ)
6) Bất tri quả hiện tại
7) Bất tri nhân quả liên quan
8) Bất tri Liên Quan Tương Sinh.
Không chỉ là một, mà phải 8 bất tri mới thành một vô minh, 8 điều này mới hình thành một vô minh, chứ không thể nào nói vô minh suông, kể một không đủ mà kể 7 điều cũng không trúng, phải kể đúng 8.
Paccaya là duyên, có 2 duyên làm ra được pháp hành là: Thường Cận Duyên và Dị Thời Nghiệp Duyên. Hai duyên này làm duyên từ Vô Minh ra tới Hành.
Thường Cận Y là cái gì mà nó thường xuyên gần gủi, lân cận, gọi là cận y. Người lân cận gần gủi mình, đó là một mãnh lực, tại vì họ có thể là tác động mình, họ xúi mình mà họ không làm, đó là Thường Cận Y, đó là một mãnh lực duyên, xúc sinh bảo hộ.
Cái thứ hai là Dị Thời Nghiệp là nghiệp lực quá khứ mình đã gieo trồng rồi bây giở trổ sinh ra.
Chẳng hạn mình không biết Khổ Đế, rồi mình làm hành động Khổ Đế do bởi Tập Đế thì ra Dị Thời Nghiệp. Dị Thời Nghiệp sẽ đưa ra hành động hôm nay mình có.
Saṅkhāra là Hành động, có 6 pháp hành:
1) Thân hành
2) Ngữ hành
3) Ý hành
Không biết cũng nói, không biết cũng nghĩ, đó là Vô Minh duyên Hành, do đó, mình phải cẩn thận, hành động đó, hành động về thân, hành động về lời, hành động về ý của mình, coi chừng có mãnh lực của Dị Thời Nghiệp bởi Vô Minh tạo ra
4) Phúc Hành (là làm việc thiện mà mình không biết)
5) Phi Phúc Hành (là làm việc bất thiện mà mình không biết)
6) Tối Thắng Hành (là tu tập Thiền Sắc Giới, Thiền Sắc Giới, Thiền Vô Sắc Giới mà mình không biết)
Họ thao tác ra họ sinh về trời Sắc Giới, Vô Sắc Giới, mà họ không biết những gì mình làm, đó cũng thuộc một pháp hành do bởi Vô Minh tạo tác.
Cái đó, có những người họ sinh về Sắc Giới, họ sinh về Vô Sắc Giới, họ an trú trong đó như Phạm Thiên Baka. Sơ Thiền Sắc Giới chỉ có một Đại Phạm Thiên thôi, và có 1000 Phạm Phụ Thiên và Phạm Chúng Thiên vô số.
Những người tu tập Thiền Sắc Giới chứng đắc Sơ Thiền thì có khi là Phạm Chúng Thiên là hàng dân chúng. Phạm Phụ Thiên là hàng quan, Đại Phạm Thiên là hàng vua. Mà cõi Đại Phạm Thiên cõi Sơ Thiền Sắc Giới chỉ có một Đại Phạm Thiên thôi.
Thì Baka là Đại Phạm Thiên cõi Sơ Thiền Sắc Giới, Ngài ở đó rất lâu, các vị Phạm Thiên kia đi tục sinh hết rồi, thì Đức Phật Ngài phải lên độ vị Đại Phạm Thiên Baka, Đức Phật Ngài dùng trí tuệ (trong bài kệ Cảm Thắng Ma Vương ở câu thứ 8, Ác Ma cũng đi theo phá.
Quí Phật tử coi lại bài kinh 49 quyển Giáo Án Trung Bộ Kinh. Kinh Phạm Thiên Thỉnh Cầu.
Phạm Thiên Baka khởi sinh ác tà kiến
Bài kinh 50 trang 267 là kinh Quở Trách Ác Ma,
HT Minh Châu gọi là Kinh Hàng Ma, không có hàng ma, Đức Phật Ngài không có hàng phục ma mà Ngài chỉ quở trách, anh làm sai tôi quở trách anh, lúc đó là Ngài Mục Kiền Liên là Ác Ma trong bài kinh này, quí Phật tử đọc bài kinh này rất là hay, hay hơn kinh Nhật Tụng.
Bài kinh 49 là Phạm Thiên Baka khởi sinh ác tà kiến là ông thấy ông sống lâu, thì bắt đầu ông nghĩ ông đắc Nip-bàn rồi, ông đắc đạo quả rồi, Đức Phật nói không, Phạm Thiên Baka chưa có Níp-bàn, chưa đắc đạo quả, vẫn còn là phàm chưa là thánh.
Ở đây, không sanh không già không chết, ông sống lâu, ông nghĩ.
Trong phần Chánh Kinh trang 261.
I. Đức Phật liễu tri Phạm Thiên Baka khởi sanh Ác Tà Kiến.
Khi Đức Phật trú ngụ tại gốc cây Tàla trong rừng Subhagavana, ở tại Ukkatthà, với tự Tâm của Ngài biết được Tâm của Phạm Thiên Baka khởi lên Ác Tà Kiến (ditthigata) như sau "Cái này (Idam) là thường hằng, là thường tại, là toàn diện, không biến hoại, không sanh, không già, không chết, không diệt, không khởi, và ngoài cái nầy ra thì không có sự giải thoát (Nissarana) nào khác hơn".
Phần II Ác Ma hiện bày việc ngăn cản với Đức Phật. (trang 262)
Ác Ma lên tới Sắc Giới luôn để ngăn cản Đức Phật không cho Đức Phật đi độ, nhưng Ngài có tâm từ.
Phần III. Đức Phật thuyết giảng cho Ác Ma: (trang 262)
- Nầy Ác Ma, ta biết ngươi. Chớ có nghĩ rằng ta không biết ngươi. Ngươi là Ác Ma.
- Nầy Ác Ma, phàm là Phạm Thiên, Phạm Thiên Chúng, Phạm Thiên quyến thuộc, tất cả đều nằm trong tay của ngươi, tất cả đều nằm trong quyền lực của ngươi.
- Nầy Ác Ma, và ngươi không nên nghĩ rằng Ta nằm trong tay của ngươi, không nên nghĩ rằng Ta nằm trong quyền lực của ngươi.
Đức Phật giảng cho Ác Ma làm những điều đó, đó là Phi Phúc Hành, anh làm những điều đó không có phước đâu.
Ông Baka nằm ở trong Tối Thắng Hành bởi vô minh, ông hưởng mà ông không biết. Còn Ác Ma cản Đức Phật đừng có độ Phạm Thiên Baka là Phi Phúc Hành. Những cái đó mình phải biết, đừng có bao giờ lọt vô cái sai lầm đó, đó gọi là ác tà kiến.
Một người nằm trong Tối Thắng Hành thì họ cũng lọt hết vô trong Bát Bất Tri không hiểu nhân quả, họ ở trong đó thì tà kiến sinh lên, ông khởi sinh tà kiến, ông nói ông không già không chết, ông không thấy được Khổ Đế, ông đang ở trong Tập Đế mà không biết, ông không thấy con đường ra Diệt Đế, ông chưa có Níp-bàn, và ông không biết Bát Chánh Đạo, ông ngồi với Pháp Hành của Sắc Giới mà ông lên cõi Phạm Thiên thôi.
Rồi Ngài thuyết pháp độ Phạm Thiên Baka, rồi Baka nêu lên quan điểm tà kiến của mình. Rồi Đức Phật thể hiện thần thông. Rồi Ngài nói nếu như Baka là Alahan rồi Níp-bàn rồi thì biến mất đi, Như Lai biến mất, ngươi cũng biến mất, và Đức Phật biến mất ông chỉ nghe âm thanh của Đức Phật thôi, ông tìm Đức Phật không thấy, Đức Phật nói: "này Baka thấy Như Lai không ?". Ông tìm không thấy, tại vì Alahan có lục thần thông, mà cái đó là iddhi-vidha thần túc thông, chỉ vị Alahan mới hiện bày ra iddhi-vidha thần túc thông được, mới biến mất được, khi đó Baka mới biết mình sai rồi.
Đức Phật muốn độ Baka Ngài phải dùng trí toàn giác của Ngài. Trí toàn giác mới dẹp được vô minh mới chỉ ra được Pháp Hành của họ sai, tức là bẻ gãy được Vô Minh thì Hành mới gẫy.
Vô Minh diệt, Hành diệt, Hành diệt thì danh sắc diệt, danh sắc diệt thì lục nhập diệt.
Rồi Ác Ma thuyết phục Đức Phật đừng độ Baka. Đức Phật bác bỏ sự thuyết phục của Ác Ma.
Phần Kết Luận trang 266. Ác Ma thất bại không thể thuyết phục được Đức Phật.
Như vậy, vì Ác Ma đã thất bại không thể thuyết phục được Đức Phật, và vì có lời thỉnh cẩu của Phạm Thiên, Do đó Pháp Thoại này cũng được gọi là Phạm Thiên Thỉnh Cầu.
Thì bài kinh đó, như có Phật tử hỏi thế nào là Tối Thắng Hành ?
- Là người về chỗ Sắc Giới, họ tưởng là họ Níp-bàn rồi, nhưng cái đó là Tối Thắng Hành của Vô Minh, họ chưa giải thoát, họ hiểu lầm, do đó, cái con đường đi về cõi trời Sắc Giới, Vô Sắc Giới là con đường đó còn trong luân hồi, vẫn còn ở trong cõi phàm phu, chưa là Thánh, chưa diệt được kiết sử mà lọt trong bẫy sập của Liên Quan Tương Sinh.
Trong kinh Quở Trách Ác Ma.
Thì lúc bấy giờ Bài kinh này thuật lại câu chuyện ác nghiệp mà tiền thân Moggallana đã tạo ra
Trang 267
B. Duyên Khởi:
Pháp Thoại nầy là Đại Trưởng Lão MahaMoggallana thuật lại câu chuyện quả Ác Nghiệp mà tiền thân của Ngài đã tạo ra khi còn là Ác Ma, để giải thích Ác Ma đang tạo Ác Nghiệp trong người của Đại Trưởng Lão.
Lúc có một kiếp Ngài Mục Kiền Liên là Ác Ma chui vô bụng của thị giả của Đức Phật Kakusandha Sau đó Ngài bị rớt xuống địa ngục.
Đức Phật Kakusandha là Phật Câu Lưu Tôn là một trong 5 vị Phật ở trong địa cầu này.
3. Đức Phật Kakusandha khuyên giáo Chư Tỳ Khưu thoát khỏi phiền nhiễu bởi Ác Ma Dùsi (trong quá khứ Mục Kiền Liên là Ác Ma Dùsi ).
Đức Phật Ngài nói có 2 hạng Phật tử đến với chùa, 2 hạng Phật tử này là Ác Ma Dùsi là tiền thân của Mục Kiền Liên đã làm ra, một hạng Phật tử tới chùa họ kich thích Ác Ma Dùsi nhập vô trong các Phật tử, họ kích thích tới cúng dường tán thán khen ngợi Chư Tăng, để Chư Tăng quên đường tu tập mà tự mãn sinh lên.
Thứ hai, hạng người thứ 2 tới chùa để chửi mắng, công kích, phỉ báng Chư Tăng, để Chư Tăng phiền não lui sụt tu tập.
Hai hạng người đó, Đức Phật Ngài trong Buddhavamsa Biên Niên Sử Chư Phật giải bày cho Chư Tăng thoát khỏi cái lưới của Ác Ma nhập vô trong các Phật tử để chinh phục phá quấy đời sống tu tập của Chư Tăng. Họ tới cúng dường, người tu phải chánh niệm tỉnh giác để không lọt vô, họ tới phỉ báng chửi mắng mình, nhà Sư cũng phải chánh niệm tỉnh giác đừng để rơi vô âm mưu của họ.
Trang 269
4. Ác Ma lại tạo ra Ác Nghiệp với đệ tử của Đức Phật.
a. Ác Ma Dùsi lại khởi lên suy nghĩ như sau "Ta không biết chỗ đến và chỗ đi của các vị Tỳ Khưu có giới hạnh và Thiện tánh nầy. Vậy ta hãy nhập vào hàng Bà La Môn gia chủ và xúi giục để đi đến tán thán, tôn trọng, đảnh lễ và cúng dường các vị Tỳ Khưu có giới hạnh và Thiện tánh. Do xúi giục đi đến tán thán, tôn trọng, đảnh lễ và cúng dường các vị Tỳ Khưu có giới hạnh và Thiện tánh, thì các vị Tỳ Khưu nầy đổi tâm và như thế Ta mới có dịp để chi phối chúng".
b. Ác Ma Dùsi nhập vào hàng gia chủ Bà La Môn và đi đến tán thán, tôn trọng, đảnh lễ và cúng dường các vị Tỳ Khưu.
5. Đức Phật Kakusandha khuyến giáo Chư Tỳ Khưu thoát khỏi phiền nhiễu bởi Ác Ma Dùsi.
- Nầy Chư Tỳ Khưu, những vị gia chủ Bà La Môn đã bị Ác Ma Dùsi nhập vào và tạo ra Ác Nghiệp phiền nhiễu đến các người. Vậy các người hãy sống quán tưởng bất tịnh trên Thân, quán tưởng vì nghịch với vật thực, quán tưởng bất khả lạc với tất cả thế gian, quán tưởng Vô Thường đối với tất cả Hành.
Đức Phật Ngài chỉ các Pháp Hành để Phật tử ngừa, nhưng Ác Ma nhập vô người Phật tử để quấy rồi thì nhà Sư được Đức Phật Ngài dạy để mà tránh, khen cũng không được, phỉ báng cũng không được, cả hai lãnh vực đó tốt nhất đóng cửa chùa tịnh cư thiền định. Nên ngày xưa Ngài Tịnh Sự đóng cửa chùa ngày đêm, Ngài không cho ai vô để Ngài dạy Sư, nghèo khổ cũng được để sống thanh bình lạc đạo, vậy mà thoát khỏi bẫy sập này. Họ tới cúng dường cũng là một cái lưới, mà họ tới chửi mắng cũng là một cái lưới, hai cái đó mình phải giữ tâm không để bị chi phối, không để bị tác động. Khi được cúng dường nhiều quá mình lấy cũng tạo ra tội, khi bị chửi mắng buồn phiền nghĩ quẩn cũng tạo ra tội.
Hai cái đó Đức Phật Ngài không quở trách các vị Tỳ Khưu, nhưng Ngài quở trách tâm Ác Ma phá đệ tử Đức Phật cho không có con đường giải thoát được.
Sau khi học hết Paṭṭhāṇa xong Sư giảng xen kẽ qua kinh Nikaya. Trung Bộ Kinh có 152 bài, Trường Bộ Kinh có 34 bài. Mỗi bài có ý nghĩa Pháp Hành để mình tu tập.
Trong đời sống mình không biết, chính cái đó mình chỉ còn cái tốt nhất là giữ Tâm, tại vì Ác Ma nhập vô nếu mình không giữ Tâm mình, nhất là mình tu hành mà có một số thành quả rồi dễ bị tấn công, phải cẩn thận không được khinh xuất, không thể nào dễ dui được.
Câu di huấn tối hậu trước khi Đức Phật Ngài viên tịch: "Này Chư Tỳ Khưu, các Pháp là Vô Thường chớ nên phóng dật dễ dui mà phải tinh cần nỗ lực tu tập."
Phải cố gắng nỗ lực cho tới ngày mình viên tịch hay mình đạo quả mới thôi. Ngài Paṇdita nói ít nhất Sotàpatti Thất Lai chứ đừng để rớt xuống 4 đường ác đạo.
Mình đi trên đường giống như đi qua một cái cầu khỉ bên dưới là hầm hố, thú dữ rồi sóng to gió lớn mà cái cầu đi rất bấp bênh nếu không đi cẩn thận lọt xuống thì mạng vong. Do đó, mình phải ráng lo tu tập. Mà cái tu tập này không có gì bằng Pāramī (Ba La Mật) chứ mình không đi thông thường được.
Trong quyển Chính Thị Kim Sinh, Ngài Paṇdita dẫn chứng trường hợp Sumedha là người dâng thân này nằm xuống cho Đức Phật Dipankara Phật Nhiên Đăng đi ngang qua, tại vì Ngài không làm kịp con lộ đó thì phải hiến thân luôn thì Sư dẫn chứng lại trong bài kinh.
Trường hợp Subhadda rất là hy hữu, Ngài Subhadda là một vị Bà La Môn ở một đẳng cấp cao quí trong xã hội thời đó, ông ở ngay tại Kusinara. Khi Đức Phật Ngài về Kusinara viên tịch, ông nghe được ông tới để thỉnh cầu Đức Phật thuyết pháp, thì Ngài Ananda là thị giả của Đức Phật từ chối nói là không được vì Đức Thế Tôn mệt lắm rồi. Thì ông xin lần thứ 2, lần thứ 3, Ngài Ananda đuổi ông đi về. Lúc đó Đức Phật nằm nghỉ trên tảng đá nghe được Ngài gọi cho Subhadda vào,
Subhadda vào và hỏi: Có giáo pháp nào ngoài giáo pháp của Đức Thế Tôn ra mà đưa đến đạo quả Thánh nhân không ?
Đức Phật nói 2 câu: "Như Lai không còn thì giờ để giải thích, nhưng Như Lai tuyên bố ngoài Giáo Pháp của Như Lai ra không có đệ nhất Sa Môn, đệ nhị Sa Môn, đệ tam Sa Môn, đệ tứ Sa Môn, Ngài khẳng định chỉ có con đường Bát Chánh Đạo của Giáo Pháp của Đức Phật mới có con đường của Thánh nhân".
Đệ nhất Sa Môn là Thất Lai, đệ nhị Sa Môn là Nhất Lai, đệ tam Sa Môn là Bất Lai, đệ tứ Sa Môn là Vô Sinh.
Thì Subhadda xin xuất gia, Đức Phật Ngài mới phá lệ, tại vì người ngoại đạo hay người ngoài giáo pháp thì phải qua 6 tháng thử thách làm giới tử, Nhưng Ngài ngoại lệ cho Subhadda xuất gia.
Ananda mới đem ra ngoài cạo râu cạo tóc rồi truyền Pháp Vô Thường rồi dắt trở vô Đức Phật cho đề mục, thì Subhadda lấy đề mục đó đi kinh hành ngay ngày hôm đó đắc quả Alahan và viên tịch ngày hôm đó.
Khi một người xuất gia với Đức Phật đểu được Ngài cho đề mục của tập khí của mình để mà tu tập. Bà Pajapati Gotami dì mẫu của Đức Phật cũng được Đức Phật cho đề mục để tu tập mang đến đạo quả.
Sư có ghi lại hết tích chuyện đó trong quyển Chính Thị Kim Sinh. Thì bà Mẹ Kế Mẫu Gotami sau khi Hoàng Hậu Maya mất sinh về cung trời Tusita thì người dì mẫu Gotami đem về nuôi, mà cùng một ngày sinh ra với Hoàng Hậu Maya sinh Siddhattha (Sĩ Đạt Ta) thì dì mẫu Gotami sinh Nanda. Khi Hoàng Hậu Maya mất thì bà dì mẫu đem về nuôi với bầu sữa của di mẫu để dành cho Siddhattha (Sĩ Đạt Ta) thôi, còn con ruột của mình là Nanda phải mượn bà vú nuôi cho uống sữa, bà dành hết tình thương cho Siddhattha (Sĩ Đạt Ta) nên Đức Phật Ngài mới thương, sau khi vua Tịnh Phạn mất thì trong hoàng cung buồn lắm, tại vì khi vua Tịnh Phạn mất 3 điều xảy ra; Đức Phật đi, cháu nội là Rahula (La Hầu La) cũng đi, rồi tới vua Tịnh Phạn cũng mất, trong hoàng cung chỉ còn phụ nữ, những người đàn ông đi hết, luôn cả người thợ cắt tóc là Upali cũng bỏ đi tu theo Đức Phật.
Thì mấy người phụ nữ cũng rủ nhau đi xuất gia nhưng bị Đức Phật Ngài từ chối, tại vì người nữ mà đi tu thì Giáo Pháp Như Lai sẽ bị cắt thành nửa, Ngài Ananda xin Đức Phật Ngài cho nữ giới vô tu. Đức Phật nói người nữ phải thọ 8 điều (bát kinh pháp) thì mới cho. Bà Dì Mẫu được nhận vào tu.
Bát Kỉnh Pháp
1 Một Tỳ kheo ni, dầu có trăm tuổi hạ khi gặp thầy Tỳ kheo mới thọ giới Cụ túc cũng phải chào hỏi, đảnh lễ và thực hành tất cả những bổn phận thích nghi đối với vị Tỳ kheo.
2- Một Tỳ kheo ni không được khiển trách hay nặng lời đối với một vị Tỳ kheo trong bất kỳ trường hợp nào.
3- Tỳ kheo ni không được ngăn Tỳ kheo xét tội, thuyết giới, tự tứ hay nói lỗi của Tỳ kheo. Trái lại, Tỳ kheo được quyền cử tội Tỳ kheo ni.
4- Muốn thọ trì Cụ túc giới phải thông qua hai bộ Tăng: Tỳ kheo ni và Tỳ kheo
5- Nếu Tỳ kheo ni phạm tội hữu dư (Tăng tàn) thì phải đến trước hai bộ Tăng thực hành pháp Ý hỷ (Ma na đỏa) trong thời gian nửa tháng.
6- Nửa tháng phải đến bên Tỳ kheo tăng cần cầu dạy bảo.
7- Không được an cư kiết hạ ở địa phương nào không có Tỳ kheo ở.
8- Khi an cư xong, phải đến Tỳ kheo tăng cầu ba sự tự tứ: thấy, nghe và nghi.
Thì vô tu bà làm bộ y cúng dường Đức Phật, Đức Phật Ngài không nhận và nói cúng dường cho Chư Tăng.
Trong tiền kiếp quá khứ bà Dì Mẫu Gotami đã từng cúng dường 5 vị Độc Giác Phật y áo. Tức là khi bà ra đời sống bà đều cúng dường y cho các vị Độc Giác Phật, do chủng tử đó bà mới được làm Dì Mẫu của bậc Chánh Đẳng Giác kiếp chót. Rồi kiếp chót này bà cũng làm bộ y nhưng Đức Phật không nhận lời mà kêu cúng dường cho Chư Tăng thì phước lớn hơn, đó là tác ý.
Mới đầu khi nghe như vậy thì bà buồn. Đức Phật mới dạy cho Ananda để nói lại cho Dì Mẫu Gotami là khi cúng dường cho Đức Phật đó là cá nhân tuyển thí, Tăng đoàn tuyển thí phước lớn hơn.
Do đó, Ngài muốn phá sai lầm của tập khí mà mình tu hay mình ở ngoài đời cũng vậy, mình sống cái gì cũng làm theo tập khí của mình, không bao giờ mình nhìn thấy pháp hết.
Khi Tăng đoàn xả thí thì lúc đó mình mới diệt thân kiến, diệt cố chấp hay tập khí của mình, tôi thương tôi thích thì mới cũng, còn không thương không thích tôi không cúng, cái đó là cá nhân tuyển thí mà trong tập khí của mình đã lựa chọn là sai.
Tăng đoàn tuyển thí là mình sống trong trạng thái Pāramī (Ba La Mật) . Còn quả báo của họ, họ cần, còn chuyện mình quả phước mình có, nhiều khi mình mượn họ để mình làm được. Đừng có đắn đo, chắc chiu suy nghĩ. Mình đi một cách rất an lạc.
Bài kinh Phạm Thiên Baka suy nghĩ tà kiến, suy nghĩ sai, ông nghĩ ông đắc đạo quả, thật ra không có. Thì lúc bấy giờ ông đang ở trong Tối Thắng Hành của sắc giới mà ông Baka đang có đang hưởng quả vị Đại Phạm Thiên cai quản cõi trời Sắc Giới, thì cái đó là Vô Minh duyên Hành ở trong phần Abhisaṅkhāra Mãra là Tối Hành Ma.
Năng lực của Mãra kinh khiếp, ở đâu họ cũng có mặt, và ngay cả vị đại đệ tử của Đức Phật Kakusandha đang đi theo Đức Phật.
Trang 267
C. Chánh Kinh:
1. Ác Ma tạo ra Ác Nghiệp với Đại Trưởng Lão MahàMoggallàna.
Đại Trưởng Lão MahàMoggallàna đang đi kinh hành ngoài trời, và Ác Ma đi vào bụng và ở trong bao tử của Ngài. Đại Trưởng Lão khởi Tâm suy nghĩ "nay sao bụng của Ta lại nặng nặng như có cái chi chất chồng quá đầy". Thế rồi, Đại Trưởng Lão từ chỗ kinh hành bước xuống, đi vào Tự Viện, và ngồi trên chỗ đã soạn sẵn. Sau khi ngồi, Đại Trưởng Lão tự chánh tư niệm và thấy được Ác Ma, liền thốt lên lời "Hãy đi ra, Ác Ma ! Hãy đi ra, Ác Ma ! Chớ có phiền nhiễu Như Lai và đệ tử Như Lai. Chớ có khiến cho ngươi bị bất hạnh, đau khổ lâu dài".
Nhưng Ác Ma lại nghĩ rằng Đại Trưởng Lão MahàMoggallàna không thấy và không biết. Như vậy, Đại Trưởng Lão lại nói với Ác Ma "Nầy Ác Ma, ta biết ngươi. Chớ có nghĩ rằng Ta không biết ngươi. Ngươi là Ác Ma. Chớ có phiền nhiễu Như Lai và đệ tử Như Lai. Chớ có khiến cho ngươi bị bất hạnh, đau khổ lâu dài".
Khi rõ biết rằng Đại Trưởng Lão liễu tri sự việc, Ác Ma đã từ miệng của Đại Trưởng Lão MahàMoggallàna bước ra.
Rồi Trưởng Lão Mục Kiền Liên mới kể lại chuyện thời gian Ác Ma hiện bày phá đệ tử Đức Phật.
Trong bài kinh này Đức Phật dạy cách ngự phòng Ác Ma chinh phục mình, không riêng cho người xuất gia, người tại gia cũng có, nên mình phải cẩn thận, lúc mình vui mình buồn mình khổ, mình bất toại nguyện, cái đó đang là Ác Ma nhập vô, có cơ hội là nhảy vô liền.
Do đó, mình phải cẩn thận, cái đó đều là Vô Minh duyên Hành bởi 2 duyên Thường Cận Y và Dị Thời Nghiệp Lực, 2 mãnh lực này đứng giữa làm duyên cho hành, mình không biết mình vẫn hành, đó là mãnh lực của Dị Thời Nghiệp và Thường Cận Y, 2 cái đó thường xuyên.
Có 3 điều, 3 điều này là một vị Giáo Thọ hay một vị Thiền Sư chỉ dạy cho người ta về vấn đề tâm linh về mặt tinh thần tu tập thì phải có 3 điều mình có rồi mình mới nói được người ta, không có không được.
1) Thứ nhất là mình phải linh xảo, tức là mình thuần thục trong vấn đề mình biết, mình phải linh xảo, sắc bén, khôn khéo trong mọi vấn đề mà người ta đang đề cập tới, mình có vấn đề đó trong việc mà kiến văn của mình linh xảo.
2) Thứ hai là mình phải có tri thức, lý luận phù hợp với kinh điển, phải kiên cố và xác thực chính xác với kinh điển, phải có một tri thức, kiến thức. Theorical là lý luận chứ không phải là lý thuyết, là lý luận là những cái mà mình biện luận một cách hợp lý và kiên cố (solid) mà xác thực đúng theo văn bản kinh điển, chứ không phải nói theo tư kiến của mình thì mới làm được.
Solid <---- Sound theorical knowledge of the scriptures (kiến thức lý thuyết vững chắc về kinh điển)
3) Điều thứ Ba, mình phải có lòng từ bi và lòng trắc ẩn (loving kindness và compassion) thì mình mới làm được điều đó. Lòng từ bi và lòng trắc ẩn phải chân thật.
Tóm tắt 3 điều:
- Thứ nhất, việc làm của mình, sự tu tập của mình hay là sự tu hành của mình phải thật sự hết sức linh xảo, khéo léo mình mới có.
- Thứ hai, tri thức, lý luận của mình phải kiên cố và xác thực, chứ không hư ngụy giả tạo, lời nói của mình có điểm chính logic chứ không uống nắn như con lươn theo kiểu như là ngụy biện kiến, người ta đụng chỗ này mình né, người ta đụng chỗ kia mình né, để mình nói ta đây mình biết kiến thức, nhưng mà sai lầm, mình đang Vô Minh duyên Hành ở trong ngữ hành bởi vô minh, và phải nằm ở trên góc độ Kinh Điển, chứ không phải ngoài kiến thức của mình, căn bản Phật có dạy, kinh có nói và có sách lưu lại thì cái đó mới an toàn
- Thứ ba, phải có lòng từ bi và lòng trắc ẩn
Bài 3 điều này là Ngài Paṇdita Ngài kiến nghị các vị Giáo Thọ.
Những người nào có khát vọng để trở thành vị giáo thọ thì họ phải luyện tập 3 điều, nếu có đủ 3 điều này.
1) cái sự tu tập của mình phải linh xảo
2) Cái tri thức phải kiên cố và xác thực.
3) Phải có lòng từ bi và lòng trắc ẩn
Thì mình mới trở thành một vị Giáo Thọ
Khi một vị Giáo Thọ tôn giáo (a teacher spiritual), đặc trách về vấn đề giáo nghĩa giáo học, hay một vị Thiền Sư thì người ta phải đủ 3 điều kiện này, nếu mình chưa đủ 3 điều kiện này, nhất là điều kiện thứ 2, kiến thức mình không có đầy đủ trong văn bản Kinh Điển thì mình sẽ rớt trong tư kiến là biên kiến hay là định kiến hay là một cái tà kiến trong lời lẽ của mình nói ra, thứ hai nữa mình phải có lòng từ bi và lòng trắc ẩn loving kindness và compassion).
Ngài Paṇdita nói trước tiên tối trọng yếu (First and foremost) là mình phải thực hành có kết quả thì mình mới dạy người ta được, cũng như những bài kinh hồi đầu giờ Sư chia xẻ với quí Phật tử ráng đọc để cầu nguyện thì Sư trải nghiệm rồi là có kết quả, Sư có nghiệm rồi so với các văn bản kinh điển thời Đức Phật có xảy ra thì Sư mới chia xẻ với quí Phật tử được, với tâm từ và bi của Sư mới chia xẻ ra được, giờ quí Phật tử chỉ lấy đó áp dụng mới có kết quả, rồi từ đó mình cũng có, giờ mình áp dụng rồi mình chuyền cho thân bằng quyến thuộc của mình.
Ác Ma không buông tha ai hết, mà không phải chỉ Thiên Tử Ma mà Phiền Não Ma, Ngũ Uẩn Ma, Tử Thần Ma cũng tấn công mình được. Mình đang có bao nhiêu dự án cần thực hiện thì Tử Thần tới rước mình đi, coi như bỏ hết tất cả lại, sự nghiệp hay kế hoạch của mình buông bỏ lại hết. Do đó mình mới tìm ra 2 chủ đề.
Đây là Pháp Hành của mình để mình tiếp nối bài học tuần trước.
Trong Ngũ Ma:
1. Ngũ Uẩn Ma
2. Phiền Não Ma
3. Tối Thắng Ma hay Pháp Hành Ma
4. Tử Thần Ma
5. Thiên Ma
Cái nào là hiện hữu, cái nào không hiện hữu. Cái nào hiển lộ, cái nào ẩn tàng. Cái nào mình thấy, cái nào mình không thấy.
Trong đời sống hàng ngày của mình 5 loại ma này cái nào thường hiển lộ ?
Ngũ Uẩn Ma là Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Phiền Não Ma là tham, sân, si. Thiên Tử Ma là có hiện tượng ma hiện bày.
Khi đã gọi là Ma (māra) là mình không biết được. Mình nói là mình biết Phiền Não Ma là có, tham sân si mình thấy rõ, nhưng mà thật ra mình đã biết rõ rồi mà tại sao mình còn tham, sân, si, mình vẫn tham, sân, si, mình vẫn sống trong trạng thái Māra của mình chi phối.
Do đó, đối với Ngũ Ma mình không biết được, rồi người ta nói mình mới thức tỉnh nhẩy ra. Thấy nó hiển lộ chứ thực ra không phải, cái đó là cái tập khí của mình chứ không phải là māra. Mình đang sống trong tập khí của mình chứ không phải bị māra chinh phục, chứ không phải māra đang ở trong tâm mình.
Māra không ai biết được, còn cái biết của mình là do tập khí, là cái kiến chấp của mình, và mình phải thận trọng. Lúc mà nó hiển lộ ra mình tỉnh, mình trí mình có biết thì mình nhận diện được nó, còn không là mình ở trong nó, mình sập bẫy nó rồi, không thoát ra được.
Cái bẫy của māra, vô phương, đệ tử của Đức Phật Kakusandha vị thị giả của Đức Phật Kakusandha mà còn bị Ác Ma chui vào bụng, và ngay cả Ngài Mục Kiền Liên có thần thông mà còn bị Ác Ma chui vào bụng, tại sao Ngài bị Ác Ma chui vào bụng ? không biết được, thì cỡ như mình là chịu thua.
Mình không xác định được tính chất của māra. Phiền Não Ma là chính cái phiền não là māra đang nhiếp phục cái tâm mình, mình không thấy trong khi đó hay là mình đang nuôi dưỡng tập khí của mình lâu dài cái Dị Thời Nghiệp của Vô Minh duyên Hành đang hiện bày ra, mình không biết, phải cẩn thận.
Hai điều mà quí Phật tử cần nhớ, trong bài kinh Māra mà Sư viết ra, Sư để trong quyển Chính Thị Kim Sinh (in this very life) thì
3 cái; Ngũ Uẩn Ma, Phiền Não Ma, Pháp Hành Ma là chủ quan trong quan điểm của mình cố chấp dữ lắm, và
2 cái; Tử Thần Ma và Thiên Tử Ma là khách quan.
Người có kiến thức trên lý luận của văn bản Kinh Điển họ mới gỡ kiến chấp của mình thì mình mới bẻ gãy được cái đó ra.
Vậy thì:
- Khi nói tới Ngũ Uẩn Ma: Sắc, Thinh, Khí, Vị, Xúc, mình không biết, Sắc hoại diệt theo Pháp chứ không phải theo của Māra hay là theo của mình, mình không biết được.
- Khi nói tới Phiền Não Ma: Tham, Sân, Si, nó đi theo Pháp hay là Māra, mình không biết được
- Khi nói tới Pháp Hành Ma: Thân Hành, Ngữ Hành, Ý Hành, mình không có bao giờ mình ngờ, nghĩ, và mình không biết được hành động của mình tạo ra cho tới khi mình thức tỉnh ra "ủa, tôi như vầy mà tôi làm như vậy sao" thì việc đã xảy ra rồi, Thân Ngữ Ý rồi, phải cẩn thận.
- Khi nói tới Tử Thần Ma: Quí Phật tử không bao giờ nói rằng khi cái chết nó đến thì quí Phật tử mới thấy được Tử Thần Ma đối diện. Đức Phật nói "Hơi thở vô, hơi thở ra, là một Tử Thần Ma, đó là người có Chánh Niệm." Chứ không nói tới trạng thái sự chết đến với người đó, người đó mới có Tử Thần Ma hiện hữu. Trong hành động thân, ngữ, ý mà thiếu chánh niệm mình đã chết một lần với Tử Thần Ma.
Mình chết một lần với Thiên Ma, bẫy sập.
Do đó, phải cẩn thận với sở hành của mình, trong hành động của mình, Thân, Ngữ, Ý của mình.
Như vậy thì, trong phần Hành:
- 8 bất tri duyên Thân Hành, trong Thân Hành có 3: Phúc Hành, Phi Phúc Hành, Tối Thắng Hành.
- 8 bất tri duyên Ngữ Hành: Phúc Hành, Phi Phúc Hành, Tối Thắng Hành
- 8 bất tri duyên Ý Hành: Phúc Hành, Phi Phúc Hành, Tối Thắng Hành.
Do đó, 3 cái Thân Hành, Ngữ Hành, Ý Hành = 9 cái Phúc Hành, Phi Phúc Hành, Tối Thắng Hành, phải nắm bắt được, đường nào mình cũng bị lọt vô trong đó hết.
Trong 8 cái bất tri này, trong 9 cái với 3 Pháp Hành; Thân, Ngữ, Ý mà nó nằm ở trong cái Pháp Hành, trong Ngũ Uẩn Ma thì nhân ra được.
8 Bất Tri, trong 9 Pháp Hành Thân, Ngữ, Ý, nằm trong Phúc Hành, Phi Phúc Hành, trong Ngũ Uẩn Ma thì nhân ra được.
Phúc Hành có 5
Phi Phúc Hành có 5
Tối Thắng Hành có 5.
Mình ở trong một cái lưới. Một câu hỏi của một Phật tử về Tối Hành Ma, mà nó ra một cái lưới như vậy.
Trước một cái lưới đan chặc chẽ như vậy mà còn ma quái mù mịt mình không biết được, mình ưu tư, mình lo lắng sợ hãi thì mình đang sống trong bẫy sập của Phiền Não Ma, mình đang sống trong bẫy sập của Pháp Hành Ma tung lưới ra mình lọt vô trong đó, rồi mình chết đi sống lại trong Tử Thần Ma, rồi Thiên Ma đang sai khiến Tâm của mình làm mình mất đi cái hướng của mình. Không có để nó xảy ra như vậy, mình ở trong Pāramī (Ba La Mật) của mình, đừng để cho nó chi phối, đừng để cho nó tác động, đừng để cho nó dẫn dắt mình.
Như vậy thì mình nói cho ta cho người.
Ta Người
Thân Thân
Ngữ Ngữ
Ý Ý
2 loại này gọi là Sasaṅkhāra là hữu dẫn, hữu trợ. Cái này là Sasaṅkhāra thân, ngữ, ý ta, trợ dẫn ta, Sasaṅkhāra thân, ngữ, ý ta, trợ dẫn người.
Tâm đó là Tâm gì ? Tâm thứ hai, thứ tư, thứ sáu, thứ 8 là những tâm Sasaṅkhāra, mà những cái Tâm trước đó là asaṅkhāra tức là không có hữu dẫn. Do đó, với 2 cái đó nó có pháp nghịch lại. Về Pháp thì mình sài Đại Thiện Tương Ưng Trí vô dẫn, vô trợ, chứ không sài trạng thái hữu trợ, trạng thái đó sẽ bị dễ Sasaṅkhāra
Sasaṅkhāra là hữu dẫn, hữu trợ
asaṅkhāra là không hữu dẫn, không hữu trợ
Trong đời sống hàng ngày của mình sài Tâm Đại Thiện Tương Ưng Trí Vô Trợ, chứ không để asaṅkhāra để bị chinh phục bởi saṅkhāra (Hành) ./.
------------------------------------
Vô Minh là bát bất tri (8 điều không biết):
1) Bất tri khổ đế
2) Bất tri tập đế
3) Bất tri diệt đế
4) Bất tri đạo đế
5) Bất tri nhân đã qua (quá khứ)
6) Bất tri quả hiện tại
7) Bất tri nhân quả liên quan
8) Bất tri Liên Quan Tương Sinh.
----------------------------------------------------
[104] Ba thắng hành (Abhisaṅkhāra), pháp hành tạo tác, pháp làm nhân tạo quả dị thục:
1. Phúc hành (Puññābhisaṅkhāra), hành vi thiện tạo quả tốt làm thành thức tục sinh cõi vui hữu sắc. Ở đây chi pháp là Tư tâm sở tương ưng thiện dục giới và sắc giới.
2. Phi phúc hành (Apuññābhisaṅkhāra), hành vi bất thiện tạo quả xấu làm thành thức tục sinh cõi khổ. Ở đây chi pháp là Tư tâm sở tương ưng tâm bất thiện.
3. Bất động hành (Āneñjābhisaṅkhāra), hành vi thiện vi tế tạo quả thức tục sinh cõi vô sắc. Ở đây chi pháp là tư tâm sở tương ưng thiện vô sắc.
Ba loại hành này là nghiệp luân quá khứ hình thành do duyên vô minh, là chi Hành (Saṅkhāra) trong y tương sinh (Paṭiccasamuppāda).
----------------------------
Bát Kỉnh Pháp
1 Một Tỳ kheo ni, dầu có trăm tuổi hạ khi gặp thầy Tỳ kheo mới thọ giới Cụ túc cũng phải chào hỏi, đảnh lễ và thực hành tất cả những bổn phận thích nghi đối với vị Tỳ kheo.
2- Một Tỳ kheo ni không được khiển trách hay nặng lời đối với một vị Tỳ kheo trong bất kỳ trường hợp nào.
3- Tỳ kheo ni không được ngăn Tỳ kheo xét tội, thuyết giới, tự tứ hay nói lỗi của Tỳ kheo. Trái lại, Tỳ kheo được quyền cử tội Tỳ kheo ni.
4- Muốn thọ trì Cụ túc giới phải thông qua hai bộ Tăng: Tỳ kheo ni và Tỳ kheo
5- Nếu Tỳ kheo ni phạm tội hữu dư (Tăng tàn) thì phải đến trước hai bộ Tăng thực hành pháp Ý hỷ (Ma na đỏa) trong thời gian nửa tháng.
6- Nửa tháng phải đến bên Tỳ kheo tăng cần cầu dạy bảo.
7- Không được an cư kiết hạ ở địa phương nào không có Tỳ kheo ở.
8- Khi an cư xong, phải đến Tỳ kheo tăng cầu ba sự tự tứ: thấy, nghe và nghi.
------------------------------------------------------
Năm thứ ma (Māra), sự phá hoại, sự đem lại bất hạnh, sự xấu xa:
1. Phiền não ma (Kilesamāra). Phiền não phá hoại thiện pháp và làm cho chúng sanh bị bất hạnh luân hồi nên gọi là ma.
2. Ngũ uẩn ma (Khandhamāra). Ngũ uẩn có thực tính đổi thay biến hoại, luôn là tính chất khổ đau, đem lại sự suy sụp, nên gọi là ma.
3. Pháp Hành (Abhisaṅkhāramāra). Nghiệp thiện ác tạo ra quả luân hồi, kết buộc vào vòng sanh tử khổ đau triền miên, nên gọi là ma.
4. Thiên tử ma (Devaputtamāra). Hạng thiên thần nhiều uy lực trong cõi trời dục giới nhưng có tính đố kỵ, hay quấy phá người tu tập hiền thiện, cản trở sự tu tiến của người tu hành, nên gọi là ma.
5. Tử thần ma (Maccumāra). Sự chết luôn cướp đoạt mạng sống và tạo nên nỗi ám ảnh sợ hãi cho chúng sanh, nên gọi là ma.
No comments:
Post a Comment