034 Paṭṭhāna
HT Sán Nhiên giảng ngày 08 tháng 10, 2022
Minh Hạnh đã nghe để học và, xin ghi chép tóm tắt theo sự hiểu của chính mình từ video giảng "034 - Paṭṭhāṇa" do HT Sán Nhiên giảng. Minh Hạnh xin chia sẻ đến qúi Thiện Tri Thức, nếu có gì sai sót xin lượng tình tha thứ, xin từ bi chỉ dạy, Minh Hạnh vô vàng cảm tạ.
Con xin thành kính cảm tạ ơn HT Sán Nhiên đã thuyết giảng bài pháp rất hữu ích để chúng con tu tập. Cũng xin chân thành cảm ơn đến qúi anh chị trong ban Hoằng Pháp của Trung Tâm Việtnamese American Mahasi Meditation Center.
Nguyện đem công đức này hồi hướng đến tứ ân phụ mẫu, đến tất cả Chư Thiên, Vua Trời Đế Thích, các Ngài Tứ Đại Thiên Vương, và tất cả chúng sanh đồng thành Phật đạo. Nguyện cho vợ chồng con và các con cháu đời này và mãi mãi những đời sau có chánh tín và chánh trí.
Namo Buddhaya
Minh Hạnh
Tà kiến (Micchādiṭṭhi) trái ngược với Chánh Kiến (Sammādiṭṭhi), chúng đối nghịch nhau.
Chữ Sammā là Chánh và chữ Micchā là Tà, 2 chữ đối nghịch nhau.
Còn chữ diṭṭhi là kiến, chỉ nghĩa là thấy.
Tà Kiến Micchādiṭṭhi căn gốc của nó là Tham Phần (tham, tà kiến, ngã mạn).
Tà kiến nằm trong tham phần, căn gốc của nó là tham phần. Mà tham phần nằm trong bất thiện biến hành là si phần.
Mình đi theo thứ lớp, trực tiếp vô Micchādiṭṭhi này thuộc về tham phần.
Vì tham mà thấy sai chấp lầm.
Còn nếu không tham thì thấy đúng và không có lầm sai. Cái gốc của nó là Micchādiṭṭhi này thuộc tham phần, mà dưới bọn tham phần này có bọn si phần là bất thiện biến hành (si, vô tàm, vô quí, trạo cử).
Mình đi vô từng chi pháp, mình thấy ra được sự tu tập của mình.
Thấy sai chấp lầm là vì tham, mà tham gốc là si, si là chủ mọi bất thiện. Si là bất thiện biến hành, nằm trong phần bất thiện biến hành. Chính đó, thì si làm mê mờ che hết.
Chánh Kiến (Sammādiṭṭhi) gốc thuộc về Tuệ Đạo, là 2 chi của Bát Chánh Đạo; Chánh Kiến, Chánh Tư Duy.
Si và Tuệ, trái ngược nhau.
Sammādiṭṭhi với Chánh Kiến, Chánh Tư Duy thuộc Tuệ Đạo.
Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng thuộc về Giới Đạo.
Chánh Tinh Tấn, Chánh Định thuộc về Định Đạo.
Thì Chánh Kiến thuộc Tuệ Đạo, thuộc về trí tuệ. Trí tuệ ngược với si. Trí tuệ là vô si.
Viết chi pháp ra mình sẽ thấy.
Tà Kiến có 2:
1. Thường Kiến là chấp có
2. Đoạn Kiến là chấp không.
Bây giờ mình nhìn trở lại.
Chánh Kiến (Sammādiṭṭhi) thuộc về tuệ có 2:
1. Vô Thường = là Vô Tướng
2. Vô Ngã = là Rỗng Không
Chánh Kiến, Sư không nói khổ đau. Trong Chánh Kiến, mình nhìn thấy với trạng thái Vô Thường và Vô Ngã, người có tuệ họ nhìn thấy. Còn phàm phu nhìn thấy trên khổ đau. Do đó, 2 cái đối nhau.
Người tà kiến chấp tất cả thường tồn chấp có. Cần nhớ, gốc đầu tiên để trị thân kiến kāyadiṭṭh là không phải chấp có, chấp tôi, chấp ngã, chấp có linh hồn. Chấp thường linh hồn, sau khi mình bỏ xác thân này, linh hồn tiếp tục đi nữa, và linh hồn bất hoại, nó đi qua và nó sống theo trạng thái của nó. Đức Phật Ngài không nhìn nhận điều đó.
Đức Phật Ngài nói không có linh hồn, Đức Phật Ngài nói chỉ có tâm thức thôi. Mà tâm thức này chỉ có 2 chức năng thôi là tục sinh và tử, nó không có chức năng khác.
Khi tâm tử thì tâm tái sinh. Ngày xưa Ngài Tịnh Sự gọi là tục sinh, nhưng sau này Sư coi trong tự điển thì không có chữ tục sinh, chỉ có chữ tái sinh, là tái tục nó đi tiếp tục kiếp sống mới.
Thì giữa Tâm Tử và Tâm Tái Sinh nó là Paṭisandhi citta mà ông Phạm Kim Khánh dịch là Kiết Sinh Thức.
Paṭisandhi = Kiết Sinh, là cấu kết nhau giữa đời sống này với đời sống kia, đời sống cũ đời sống mới
citta = Thức
Paṭisandhi citta là Kiết Sinh Thức, ngày hôm nay mình dùng là Tái Sinh Tâm, hay là Tâm Tái Sinh.
Paṭisandhi citta tức là sau khi chết thì tái sinh liền theo kiếp sống nối tiếp, không có khoảng trống của tâm Tử và Tâm Tái Sinh, nghĩa là Tâm Tử thì Tâm Tái Sinh lên liền không có khoảng trống.
Vậy thì khi mình Tử Tâm nào thì mình tái sinh Tâm Đó
Thí dụ:
Khi tử với tâm tham, thì mình tục sinh với tâm tham.
Khi tử với tâm sân, thì mình tục sinh với tâm sân.
Khi chết mình tham tài sản, tham của cải, tham thân bằng quyến thuộc, mình quyến luyến thì mình tục sinh trở lại làm chó, heo, bò, gà, người thân, ở gần đó. Tử tâm nào tái sinh tâm đó.
Còn tâm sân, mình tử tâm sân, mình giận con, giận của, giận tài sản, giận người nào làm cho mình giận, nhất là mấy người sinh con đầu lòng, mà gọi là sản hậu. Sản hậu tức là khi mới sinh ra máu huyết chưa thông còn ứ phải một thời gian ra hết thì mới sạch, thì một người nào đến nói một câu chọc tức, thì máu sản hậu dồn lên đứng tim, chết vì sân, cái đó nặng lắm, nhất là người nữ sinh con đầu lòng mà bị sản hậu mà người chồng hay người mẹ chồng nói đứa nhỏ này không phải con tôi, tức giận sản hậu lên. Thì đó là sân sẽ rớt xuống địa ngục, cảnh địa ngục là cảnh sân.
Nên các quí Phật tử phải biết tâm tử là cái nền cái móc nên gọi là kiết là kết, nó cấu kết lại cho một kiếp sống mới. Do đó, nếu người khôn người trí mình làm cái tốt thì mới câu sinh qua cái tốt. Còn người ngu hay là người vô minh phàm phu làm việc xấu thì câu sinh qua cái xấu. Mình làm chứ không ai làm hết. Mà nếu như có một ngoại nhân, người thứ hai người thứ ba tác động tâm mình mà mình không tu thì mình chịu, chứ mình không đổ thừa họ được, có khi những người đó là cái nghiệp của họ đổ ra cho có người tới phá, mình không có đổ thừa, và mình không có sai lầm, mình chỉ có ráng lo tu.
Do đó, khi tâm tử với tâm sinh, thì người tà kiến nói linh hồn là bất biến. Thí dụ là người thì mình chết lại sinh ra làm người nữa. Đức Phật Ngài nói không phải.
Nếu hồn có linh, thì nó không đi làm sai được. Linh hồn, nghĩa là cái hồn nó linh, nó khôn ngoan sáng suốt thì nó không làm chuyện sai.
Nhưng Đức Phật nói chỉ có tâm thức làm cho người đó đi thôi, chứ không có cái nào mà làm được hết.
Câu 'khôn 3 năm dại 1 giờ', mình tu cả đời mà phút chót, giờ cận tử mà mình chỉ một phút phóng dật, sân nổi lên, bị thất niệm, phóng dật, mình đi tục sinh liền với tâm tính của mình, chứ không đổ thừa ai.
Người tà kiến chấp thường hằng là người chủ quan, người đó nói không cần tu, 100 % mình là người thì sau khi chết mình được sinh trở lại cõi người, không bao giờ rớt vô cõi thú, chỉ loài thú chết thì tái sinh làm loài thú. Họ nghĩ vậy đó, họ nghĩ họ đi theo linh hồn của họ. Đó là chấp thường chấp có.
Chấp đoạn là chấp không, một số người họ cũng thờ Đức Phật, họ chấp sau khi chết đi không trở về báo cho thân bằng quyến thuộc họ biết, họ nghĩ là chết là hết, họ không về báo cho thân bằng quyến thuộc là họ đi đâu để người nhà biết mà chuẩn bị. Do đó, họ thấy sai chấp lầm, chấp đoạn là chấp ngắn, hay họ chấp không, họ nói không có sự tục sinh, không có sự luân hồi, không có nhân quả, không có phước tội, tất cả đều chấp không, làm cái gì gói gọn trong kiếp này, không có trả quả báu hay có phước báu gì.
Thì ở bên Chánh Kiến nhìn vô góc độ chấp không là họ nhìn vô chi pháp là hợp thành và tan rã với trạng thái vô ngã.
Sự hợp thành này gồm có 2 thành phần là Danh và Sắc.
Sắc có 2 thành phần là sắc Đại Hiển và sắc Y Sinh. Sắc Đại Hiển và Sắc Y Sinh hợp thành Sắc.
Danh gồm 2 thành phần là Tâm và Tâm Sở. Tâm và Tâm Sở hợp thành Danh.
Những yếu tố sinh ra tâm, những yếu tố sinh ra tâm sở, những yếu tố sinh ra sắc Đại Hiển, những yếu tố sinh ra sắc Y Sinh, đều có nguyên nhân sinh ra. Khi nào nhân này mất, nhân này hoại thì vô ngã, nó rã liền.
Giống như chiếc xe là sự hợp thành, được ráp từ phần này và phần kia ráp lại. Khi mình tháo ra từng con ốc, cái vè, bánh xe, tháo ra từng cái chiếc xe trở thành rỗng không.
Tâm có nguyên nhân sinh ra nó, tâm sở có nguyên nhân sinh ra nó. Sắc Đại Hiển có nguyên nhân sinh ra nó, Sắc Y Sinh có nguyên nhân sinh ra nó. Mấy yếu tố này đều có nguyên nhân hay có tác nhân sinh ra nó. Mà những tác nhân này hoại thì những cái này hoại.
Với người trí nhìn thấy góc độ này họ nhận thức được, họ không có chấp sai chấp lầm cái này.
Còn người mà vô văn phàm phu không trí họ theo cách họ nghĩ biết thôi. Ngay cả những người trí thức mà không hiểu lời dạy của Đức Phật, người đứng ngoài tôn giáo họ cũng không biết.
Thí dụ như những người có đức tin với các tôn giáo khác họ cho rằng là thần linh hay Thượng Đế của họ, đấng Sáng Chủ tạo ra họ áp đặt ra họ, họ sống theo đó, sau khi chết họ trở về cõi vĩnh hằng của họ.
Nhưng thật ra Đức Phật Ngài không nói như vậy. Người nhìn thấy được Vô Thường và Rỗng Không, Đức Phật gọi là người có Chánh Kiến, là người thấy đúng. Còn người không thấy được những yếu tố này thì Đức Phật nói là người tà kiến, người thấy sai.
Người tà kiến, thấy sai chấp lầm gốc là tham.
Người không có tham, họ thấy sinh diệt, thấy có thay đổi. Còn người tham, họ thấy cái gì cũng thường tồn hằng hữu, ngay cả cuộc sống mình thấy nó thay đổi. Nhưng người tham họ không thấy họ thay đổi, họ không thấy họ già, không thấy bịnh hay là họ không thấy mất sức khỏe hay họ không thấy tuổi thọ họ cắt giảm dần dần, người nào tới nói 'hôm nay trông thấy chị già, thấy anh già', lúc đó họ mới giật mình. Chứ bình thường họ không thấy.
Đánh răng, súc miệng, đứng trước kiếng hàng ngày mình không nhận ra. Nhưng nó thay đổi từng sát na, thay đổi từng phút giây, Sắc thay đổi, Danh thay đổi mà không thấy.
Nên Đức Phật nói vì tham, vì mình tham sinh quí tử, mình mê trên đời này, mình không thấy cái gì thay đổi, không thấy gì hoại diệt. Nhưng khi mình thức tỉnh được và bắt đầu biết thì lúc đó Đức Phật Ngài nói mình có Chánh Kiến rồi, mình mới thấy có sự thay đổi, thấy sự biến hoại, thấy sự hư hỏng, thấy sự tan rã, mình mới thức tỉnh.
Bà hoàng hậu Malika không cho các cung nữ trong hoàng cung nói với bà tiếng vô thường. Mấy cô cung nữ đi nghe Đức Phật thuyết về hoàng cung bàn tán nhau lời Đức Phật dạy Vô Thường. Bà hoàng hầu Malika cấm không cho nói. Một lần bà có duyên tới nghe Đức Phật thuyết pháp, Đức Phật cho hai người con gái đẹp trẻ đứng hầu quạt Ngài. Bà nói Đức Phật nói sắc là vô thường sao có hai người con gái đẹp đứng hầu quạt, bà hiếu kỳ đến gần. Lúc đó Đức Phật đang độ bà, Ngài dùng thần thông làm 2 người con gái đang từ 18 tuổi trở thành 25, 30, rồi tới già, bắt đầu sụm xuống rồi thành tử thi tan rã, bà mới giật mình. Đức Phật Ngài độ được bà.
Nhưng thật ra sắc pháp mình hoại diệt như vậy, nhanh lắm, nhưng con người mình không chịu nhìn thấy. Lúc mình làm việc hay là mình sống mình bắt nhiều cảnh, mình chạy theo những sự lôi cuốn trong dục trần nên mình không thấy, tới lúc mình ngồi lại, thí dụ, tối ngồi niệm Phật hay ngồi thiền hay tu tập mình mới thấy mình yếu vì sức khỏe của mình, mình mới giật mình. Nhưng ban ngày mình không thấy, như các cô trẻ làm việc cần lực như đô vật (dollar vật) nên quên, về tới nhà lúc đó là hoảng kinh hết, hay là nhìn qua các quí cụ đây già quá vậy, còn mấy cô đang già mà không thấy, thật ra nó đang hoại diệt.
Nên người chấp thường đồng nghĩa là chấp có. Thường là dài. Tức là liên tục không gì thay đổi hết, kiếp này qua kiếp kia không thay đổi. Giống như VN có câu 'con vua được làm vua, đệ tử ở chùa thì quét lá đa', đó là chấp thường, không có gì thay đổi, như câu 'số nghèo đi đến xứ mô cũng nghèo, cây khô tưới nước vẫn khô', đó là chấp thường.
Còn người chấp đoạn đồng nghĩa với chấp không. Đoạn là ngắn. Chấp không là, chết là hết, không có phước không có tội, không có quả báo, không có nhân quả, đó là chấp không.
Tà Kiến có 2 là Chấp Thường và Chấp Đoạn
Chánh Kiến có 2 là: Vô Thường (Vô Tướng) và Vô Ngã (Rỗng Không)
Thì trong pháp tu của mình Đức Phật Ngài dạy có 2 pháp: Vô Thường và Vô Ngã.
Tới phần tà kiến có 3:
1. Vô Nhân Kiến là không có tác nhân, không có nhân quả
2. Vô Hành Kiến là không có vận hành, không có hiện bày
3. Vô Hữu Kiến là không có gì cả, rỗng không, không có gì hết.
Người tà kiến chấp 3 như sau:
Người chấp Vô Nhân (không có tác nhân --> không có hệ quả - không nhân không quả là vô nhân)
2. Vô Hành (không có vận hành --> không có hiện hành - không tạo tác)
3. Vô Hữu (rỗng không -> không có) không có người mẹ, không có người cha không có tội, không có phước.
Trong 3 phần này thì ở
Người có Chánh Kiến có 3:
1. Vô Tướng --> Chứng đắc trên sự về Vô Thường
2. Vô Nguyện --> Chứng đắc trên sự Khổ Đau
3. Rỗng Không --> Chứng đắc trên sự Vô Ngã Người có Chánh Kiến đi tới trạng thái nhìn thấy Tam Tướng hay 3 Thực Tướng (Vô Thường, Khổ Đau, Vô Ngã) này hiện hữu trong các Pháp Hữu Vi. Trong mọi pháp hữu vi có 3 thực tướng là Vô Thường, Khổ Đau, Vô Ngã.
Như vậy thì trong 3 cái Vô Thường, Khổ Đau, Vô Ngã, cái nào là chính cái nào là phụ, mình phải biết, trong 3 tướng nó xuất hiện như chiếc bánh ú 3 mặt mình phải biết cái nào chính cái nào phụ.
Vô Thường nó thay đổi hoài, nó không hiện hữu một bản ngã nào.
Khổ Đau nó hiện bày hoài. Khổ đau có 3 là; khổ khổ, hành khổ, hoại khổ, nó thay đổi hoài, nó không có một bản ngã nào. Mình vừa thấy khổ đây thì nó hành khổ rồi, vừa thấy hành khổ thì nó hoại khổ, nó bắt đầu ra cái khổ khác.
Khổ khổ, hành khổ, hoại khổ, trong 3 cái khổ này thì hành khổ là phá nhất, hoại khổ thì nó diệt rồi, còn cái khổ khổ là cái đã có rồi. Thì Khổ là cái quả, cái Hoại là cái mất, cái Hành là tác nhân, nó không đứng yên, nó vận hành luôn luôn nên mình mới khổ, mình khổ trong trạng thái đó.
Do đó, trong 3 cái Vô Thường, Khổ Đau, Vô Ngã, 3 thực tướng này cái nào là chính, cái nào là phu., cái nào là lớn cái nào là nhỏ?
Mình nói chính yếu của nó là Vô Ngã. Vì Vô Ngã mình mới thấy Vô Thường. Vì Vô Ngã mình mới thấy Khổ Đau.
Trong 3 cái này, trong Tam Tướng, tà kiến này thì Vô Hữu là chính, Vô Hành, Vô Nhân nằm trong Vô Hữu.
Vô Nhân là mình tin không có. Vô Nhân là Vô Hữu, không có tác nhân, không có hệ quả.
Vô Hành là không có vận hành gì hết, tức là không có sự vận hành là Vô Hữu.
Vô Thường là Vô Ngã, Khổ Đau là Vô Ngã. Vô Ngã là nó là Vô Ngã.
Chính người tu họ có trí sẽ nhìn dưới góc độ của Vô Ngã nó hiện bày ra các pháp vô thường là khổ đau. Còn người không tu, họ đụng vô khổ, họ bám níu cái khổ đau này, họ bị đau khổ nhưng họ vẫn bám, họ phải sống, họ phải đấu tranh vật lộn với căn bịnh họ đang có, họ không chịu buông, họ tạ ơn Trời Phật, tạ ơn Chúa cho họ sự sống này.
Khi người không có tu khi khổ đau tới họ bám níu chứ không phải họ thức tỉnh.
Còn người trí đệ tử Đức Phật khi khổ đau tới họ thức tỉnh liền, họ mới không có bám nữa, họ buông, do đó họ mới gọi là giải thoát.
Nên khi mỗi trường hợp nào, người Phật tử cũng vậy, người xuất gia cũng vậy, họ muốn cầu sự giải thoát nhưng trong tâm của họ đang bám níu thì chữ cầu giải thoát này không thấy và họ không thấy và họ cũng không biết nữa.
Rohitassa một vị Thiên Tử, ông này trẻ, một đêm xuống gặp Đức Phật nói: 'Con muốn được giải thoát. Bạch Đức Thế Tôn, con có khả năng bay từ quả địa cầu này tới quả địa cầu khác, từ chân trời này qua chân trời kia, bay khắp nơi chỉ một tích tắc'.
Đức Phật nói: 'Giải thoát trong thân này chứ đâu giải thoát trong thế gian'.
Thì quí Phật tử muốn cầu giải thoát ra khỏi thế gian này, nhưng tâm đang dính mắc vô cái thân này, thì sự giải thoát này không có.
Nên khi Đức Phật nói trong sải tay này, đây là Khổ, đây là Tập, đây là Diệt, đây là Đạo, trong xác thân này, một sải tay này, chứ không đi cả thế gian này tìm ra sự giải thoát.
Như vậy thì, khi quí Phật tử nhận được thỉnh cầu, hay sự cầu cứu: "Con muốn cầu được giải thoát." "Con muốn được giải thoát." Thì chính họ đang bám, họ không có buông, ngay cả khổ của họ, họ cũng đang bám, chứ họ không thức tỉnh cái rỗng không của cái khổ, và chính họ cũng rỗng không chứ không có gì để họ bám, để họ ra khỏi cái khổ, họ không nhận ra được
Ngay khi Ngài Ananda đi kinh hành suốt đêm, Ngài bám vào pháp của Đức Phật dạy, 84,000 pháp môn Ngài Ananda nắm hết trong tâm nên không ra được, tới khi Ananda buông hết, về tới phòng chạm tới gối là đắc đạo quả liền, là do ông buông.
Nên chữ giải thoát là trong ý thức hệ hay do trí tuệ của một Chánh Kiến mới giải thoát được, chứ không thể bởi một tà kiến hay sự bám níu giữ lấy để mà giải thoát được.
Thì khi thấy Vô Nhân là Vô Hữu, Vô Hành là Vô Hữu. Vô Hữu là gốc, nó ra trạng thái không có tác nhân, không có hệ quả từ gốc của nó là Vô Hữu, mọi cái đều vô hữu hết, bác hết, mọi thứ đều không có.
Đó là Sư nói phần Chánh Kiến chia theo tà kiến có 3 loại. Thì mình phải biết cái nào là gốc. Với người bình thường họ trực nhận cái khổ đau. Người có sự tri thức họ trực nhận cái vô thường, nhưng bậc trí thấy được vô ngã, họ đứng rõ ràng thấy không có chi là làm chủ, ta không làm chủ được cái gì hết trước mọi pháp hữu vi không có gì mình chủ hết, đều có hành vi tạo tác của yếu tố Nhân hết.
Do đó, những cái này là quí Phật tử đi trên trạng thái Chánh Kiến này
Chánh Kiến có 3:
1. Vô Tướng --> Chứng đắc trên sự về Vô Thường
2. Vô Nguyện --> Chứng đắc trên sự Khổ Đau
3. Rỗng Không --> Chứng đắc trên sự Vô Ngã
Vô Thường này là tại vì mình không làm chủ được nó, nó muốn đổi thay là của nó.
Khổ Đau này mình không làm chủ được nó vì nó có mãnh lực của sự tạo tác của nó ra.
Vô Ngã này chính nó không hiện hữu được.
Do đó trong 3 cái này; Vô Thường, Khổ Đau, Vô Ngã, mỗi tốc độ nhận thức và người liễu tri chứng đắc họ khác biệt với nhau.
Như vậy thì, trong đời sống hàng ngày quí Phật tử thấy cái gì tác động mạnh nhất trong sự nhận thức của mình?
Trong đời sống hàng ngày quí Phật tử thường nói Vô Thường, chứ không bao giờ nói không ai làm chủ ai được hết, trạng thái đó mình mới thấy người mà không có ai làm chủ mình được, họ thấy bởi bậc trí.
Do đó, chỗ Thân Kiến. Chấp vô thân này một cách sai lầm, là vì sao? Họ không thấy được tướng Vô Ngã chứ không phải chấp vô Vô Thường, Khổ Đau, không thấy được tướng Vô Ngã
Sakkāyadiṭṭhi = Hữu Thân Kiến
Sa + kāya + diṭṭhi
dịch nghĩa:
Sa là hữu
kāya là thân
diṭṭhi là kiến
Bây giờ nói về chi pháp.
Sa --> Hữu --> Pháp
kāya --> thân --> gồm có 2 là Danh Pháp / Sắc Pháp
diṭṭhi là kiến ---> Pháp
Như vậy, khi ta nói tới diṭṭhi là kiến ---> Pháp --> nó thuộc về Danh Pháp.
Tà Kiến thuộc về Danh Pháp. (không sắc pháp)
Còn chấp về cái thân này; sắc, thọ, tưởng, hành, thức thuộc về Danh Pháp
Vậy thì, bước đầu tiên tới Sơ Đạo, Sơ Quả mình diệt thân kiến thì tâm của người đó với trí tuệ của người đó, tuệ đạo của họ, họ phải sài Danh Pháp, họ thấy Danh Pháp chớ không thấy Sắc Pháp.
Tuệ Đạo, tuệ thứ nhất diệt thân kiến là chỉ thấy Danh Pháp thôi chứ không thấy sắc pháp.
Thiền sinh hỏi: Thưa Sư, tức là tri kiến của họ là Danh Pháp, nhưng Danh Pháp đó họ thấy Danh Sắc một sắc pháp, tại vì thân kiến là 2 cái thấy là Danh và Sắc? Thì Tuệ Đạo, tuệ thứ nhất là thay đổi kiến là có Chánh Kiến, không có tà kiến vô trong thân mạng.....
HT trả lời: Thấy Danh Pháp thôi, không thấy Sắc Pháp. Nếu thấy Sắc Pháp là ở trong kiết sử.
Sư có nói lúc nãy, Tà Kiến Micchādiṭṭhi gốc của nó là tham, tham là Danh là tâm pháp danh, mình bám níu tâm của mình.
Vậy thì, bám níu tâm của mình, hay bám níu Danh này, hay bám níu Sắc này? Bám níu tâm mình không chịu thay đổi.
Do đó, Tuệ Đạo vô là Danh Pháp thôi chứ không bắt được sắc pháp, mà không bắt sắc pháp, không nhìn thấy sắc pháp. Tâm bám víu, cắt cái tâm bám víu, cắt cái danh pháp này, mới thoát ly được. Mình cứ bám vào không chịu thay đổi. Tất cả thuộc về Danh Pháp, không có cái nào thuộc về Sắc Pháp. Trong ý thức hệ của mình, trong ý thức giới của mình, trong ý nghĩ của mình, trong tri kiến của mình.
Tuệ Đạo đánh bể Danh Pháp chứ không đánh vô sắc pháp, không cần Sắc Pháp.
Tiến trình tiến tu đến Tuệ Đạo thứ nhất là tới tuệ thứ tư, tuệ thứ 5 là mất hết Sắc Pháp, chỉ còn Danh Pháp.
Anuloma là thuận tùng, tới là chuyển tộc. Tâm Thuận Tùng, Tâm Chuyển Tộc thuộc Danh Pháp. Nếu nói chi pháp là Đại Thiện Tương Ưng Trí. Tà Kiến là Bất Thiện Tương Ưng Si, nó thuộc si phần. Hai cái nghịch nhau.
Do đó, khi đi tới Đại Thiện Tương Ưng Trí mà tới tâm Thuận Tùng qua Chuyển Tộc nó thuộc về Danh Pháp, không bận tâm lo gì đến Sắc Pháp, nó đi rất nhanh từng sát na, 4 sát na là vô tới Đạo, Thuận Tùng, Cận Hành, Chuyển Tộc.
Vậy thì sau khi mình tìm ra được Sakkāyadiṭṭhi = Hữu Thân Kiến trên một trạng thái Tuệ Đạo thứ nhất mà nó liễu tri diệt được kiết sử này đầu tiên là trên Danh Pháp phá chấp cái bám giữ của cái thấy sai chấp lầm, Tuệ Đạo phá chấp cái đó.
Nếu không phá thấy sai chấp lầm này từ cơ bản lên tới định cao chịu không nổi.
Tà kiến gốc là tham, tham thuộc si bất thiện biến hành.
Qua đến Tuệ Đạo thứ 2 không diệt tà kiến, mà diệt tham thô.
Đến Tuệ Đạo thứ 3 diệt tham tế.
Giai đoạn đầu, tuệ thứ Nhất diệt tà kiến, thấy sai chấp lầm. Lên tuệ thứ 2 diệt tham. Tuệ thứ 3 diệt hết tham không còn dư xót.
Bây giờ chi pháp vào:
Chánh Kiến có 3:
1. Vô Tướng --> Chứng đắc trên sự về Vô Thường, chi pháp là Vô Tham
2. Vô Nguyện --> Chứng đắc trên sự Khổ Đau, chi pháp là Vô Sân
3. Rỗng Không --> Chứng đắc trên sự Vô Ngã, chi pháp là Vô Si.
Vô Ngã chi pháp là Vô Si
Vô Nguyện là Khổ Đau, chi pháp là Vô Sân
Vô Tướng là Vô Thường, chi pháp là Vô Tham.
Người đi từ Đại Thiện Tương Ưng Trí, Thuận Tùng đi qua Chuyển Tộc, Cận Hành, Chuyển Tộc, Đạo. Người đó sẽ chứng đắc một trong Tam Tướng này: Vô Ngã là Vô Si, Vô Nguyện là Vô Sân, Vô Tướng là Vô Tham.
Như vậy thì khi thân này hiện bày Danh và Sắc: thì: Danh khổ hay Sắc Khổ ?
- Danh --> Khổ ?
hay
- Sắc --> Khổ ?
Ngay giữa trạng thái thân này (kāya) gồm 2 thành phần: danh và sắc, thể xác và tinh thần, xác thân này đau khổ hay là tinh thần đau khổ.
Do đó, quí Phật tử cứ đặt câu hỏi xuống.
Khi xác thân này nó hiện bày ra một khổ đau, hay hiện bày một vô thường nào, hay là một rỗng không nào thì Danh hay Sắc khổ ? Là Danh Khổ.
Lúc đó, mình đang phóng dật, không phải bị si mê hay lầm lạc, nhưng mình phóng dật, mình quên, mình để tâm chạy theo kiết sử của mình, cái thói quen, cái tập khí của mình, chứ thật ra mọi chuyện gì xảy ra là Danh, không là Sắc, sắc không có gì, nhưng mình có hệ lụy, máu chảy ruột mềm, mình đau lòng với cái sắc này và tâm của mình bị giao động, chứ thật ra mình có ý thức được thì không có cái gì để mình bị giao động hết, thì mình thấy nó hiện bày, cái mình đi tới.
Do đó, tại sao gọi là Thuận Tùng, là nó suôi theo pháp chứ không phải suôi theo kiết sử của mình. Còn mình không đi được Thuận Tùng này là kiết sử nó lôi mình ngã theo nó chứ mình không vượt qua được kiết sử này, mình ngã theo nó.
Thí dụ như người quen ăn 3 bữa một ngày, tới ngày thọ Bát Quan, sáng, trưa, tới chiều mình không được ăn, đó là luật, được uống sữa hay nước ngọt, nhưng không được ăn. Nếu mà mình Thuận Tùng thì mình qua được ngày Bát Quan đó dễ lắm.
Nhưng kiết sử, tập khí, thói quen, nó dằn co, tới đó mình bị gục ngã, mình không qua được trạng thái Thuận Tùng của giới, thì mình ngã theo kiết sử là mình phải ăn.
Mấy cô nhớ lần trên đường đi cô Hai Bài thấy trái nho cô nói: "cái này ngọt lắm chị hai" bà bức một trái bỏ vào miệng, Sư nói đừng có ăn vì đã 2 giờ rồi, bà vội nhổ ra, bà nói chút nữa Sư cho con xin giới lại. Đó là kiết sử rồi, đâu có thuận tùng được nữa, đi ngược trở lại.
Cho nên cái Thuận Tùng này là mình đi tới, kiết sử nó kéo mình lui lại với tập khí thói quen. Mà tập khí thói quen nó kéo mình ngược trở lại chi pháp của nó là tham, tà kiến, hay là phóng dật hay là trạng thái thất niệm. Còn nếu là Thuận Tùng là mình không phóng dật, mình có trạng thái trí tuệ mình suôi theo pháp.
Do đó, tà kiến gốc là tham. Rồi khi đi tới Danh Pháp thì lúc đó không có đặt vô Sắc được, mà chỉ có Danh thôi, mà tham này nó chen vô cái danh này với cái lôi kéo của kiết sử của thói quen này thì mình rời khỏi con đường đạo quả của mình.
Thí dụ, mình ngồi thiền tọa, 1 giờ ngồi, 1 giờ đi, nhưng tới 50 phút rồi 55 phút, còn suýt soát 5 phút mà đau quá chịu không nổi, mình bỏ ngồi và đứng lên thì mình không có thuận tùng. Nếu mình ngồi qua luôn 1 giờ thì là Thuận Tùng cái giới cái nguyện của mình. Cái giới mình nguyện ngồi 1 giờ, 1 giờ đi, thì mình thuận tùng nó là mình đã giữ được giới nguyện. Mình bẻ gãy nó, chỉ còn 5 phút mình chịu không nổi, vì đau quá, không có thuận tùng nữa, mà ngừng không ngồi hay không đi nữa. Trong lúc đó Sắc làm hay Danh làm? Tâm quyết định hay là Sắc này quyết định ? Lúc đó Sắc kêu ngừng hay Tâm kêu ngừng, không ngồi nữa vì đau quá?. Tâm kêu ngừng, chứ sắc không làm gì hết.
Thiền sinh: Thưa Sư, khi mình nói tà kiến nguồi gốc là tham, cho nên mặc dù mình nói tà kiến có 3, thì dụ nói tà kiến có 2 là thường và đoạn, mà cái thường đoạn đó gốc vẫn là do cái tham đó, thì người ta mới bám dính vô đó nên mới có cái thường kiến, người bám chắc vô đó mới có đoạn kiến, hoặc nó vô nhân, vô hữu, vô hành, nó cũng là bám dính, mà nó vô nhân mà bám víu nó mới vô hành
HT trả lời: si mới có tham, tại tham mới có tà kiến. Tà kiến gốc là tham, mà gốc tà kiến là si, nếu diệt trừ si thì mình không tham, mà trừ tham thì mình không có tà kiến, nó đi giây truyền.
Bây giờ mình nói, thế thì anh tham mà không có chánh kiến được mà có tà kiến, gốc của si là chỗ nào, là Bát Bất Tri (8 cái không biết), mà nếu như mình đang tu, mình đang niệm mà vẫn còn tham, vẫn còn tà kiến, vậy gốc của nó là phóng dật.
Hai cái gốc; si và phóng dật là thượng phần kiết sử. Si là vô minh, phóng dật là thượng phần kiết sử tới Alahan mới hết.
Phóng dật có 2 loại; phóng dật thông thường và phóng dật kiết sử. Phóng dật thông thường là chi mất niệm mất tỉnh giác. Nhưng thói quen lập đi lập lại hoài là phóng dật kiết sử thuộc thượng phần lên tới Alahan mới hết.
Do đó, thí dụ như mình học mình tu mình biết hết rồi, nhưng một chút phóng dật thôi là mình mất chánh niệm, mất phần sáng suốt, thì mình bắt đầu tham sân si, mình trở lại kiết sử đó liền, nó có sẵn.
Nên Đức Phật Ngài nói con người tu như người canh gác cửa bất cẩn một chút là kẻ gian hay là kẻ xấu nhập vô liền, nên phải cảnh phòng.
Do đó, khi bị tà kiến là mình phải nói phóng dật rồi. Người Phật tử tại gia hay người xuất gia cũng vậy, mình đang tu, mình có tham, thấy sai chấp lầm thì mình chỉ nói họ là anh phóng dật rồi, chứ anh có chánh niệm không có phóng dật thì đâu có tham, anh không có tà kiến, không thấy sai chấp lầm, anh tỉnh giác anh biết, anh canh phòng. Không có trạng thái nó đột nhập vô được.
Nên Đức Phật nói người Chánh Niệm Tỉnh Giác canh phòng 6 căn ngày đêm thúc liễm chứ không để sơ hở, không để phóng dật thì mới được, sơ hở là nó đột nhập, nó ngủ ngầm trong tâm mình chứ không phải ở bên ngoài.
Mới nói như vầy, khi mình còn sống mình gìn giữ được sắc thân này, các căn này giữ được. Khi mình chết ở ngoài chưa nhập vô trong sình thúi ra rồi, nó thúi từ trong ra, chứ không phải ở ngoài nhập vào làm thân mình sình thúi.
Khi mình đang tu tập mình phải thấy Danh làm hết, Sắc không làm gì hết. Anh phóng dật, do đó mình đừng có nói người ta si, mình nói người ta si là mình nói sai, người ta chỉ phóng dật thôi.
Phóng dật có 2: Phóng dật thông thường, phóng dật kiết sử.
Phóng dật thông thường là thiếu Chánh Niệm (phóng dật triền cái).
Phóng dật kiết sử là thói quen tập khí, nó lập đi lập lại hoài.
Như vậy thì khi đang ngồi thiền, hay là trong đời sống hàng ngày mà mới để cái mũ xuống quay lại bị quên không biết để cái mũ ở đâu, mới để xâu chìa khóa xuống, chút nữa trở lại tìm xâu chìa khóa không biết để đâu, không nhớ, thì đó chỉ là triền cái phóng dật thông thường thôi. Nhưng mà quên.
Người tu, xuất gia hay tại gia cũng vậy phóng dật mà kiết sử, một thời gian sướng quá, vui quá, thích quá, quên con đường giải thoát, đó là phóng dật kiết sử. Người VN thấy cái đó mà không hiểu, ở bên VN họ khổ ghê lắm, họ khấn vái xin cho thoát ra khỏi nước này qua bên đây tôi tu tôi không ham làm, nhưng qua tới, khoan tu phải lo giấy tờ đã, phải lo sự sống đã, không nói tới chuyện tu chuyện vô chùa sống cô đơn, đó là mình đang bị phóng dật trước cảnh ngũ trần ngũ dục nó lôi kéo bắt đầu mình đi theo.
Thiền sinh hỏi: Thưa Sư, thí dụ mình bị phóng dật như mình hay quên, mà nó cứ xảy ra hoài thì nó trở thành kiết sử không?
HT trả lời: Nó trở thành kiết sử.
Người tu của mình chỉ bị cám dỗ thôi, Sắc, Thinh, Khí, Vị, Xúc, nó cám dỗ, mình lạc hướng tu, lạc hướng nguyện của mình là cầu giải thoát, chấm dứt khổ đau, không sinh tử, không luân hồi, không oan trái, không có kiết sử, nhưng một hồi mình bị nó cho mấy vị ngọt mà mình không có xuất ly, mình thấy khổ mà mình không có xuất ly thì mình đang bị phóng dật. Khổ thì mình nguyện tu, nhưng mà thấy sướng thì bắt đầu quên tu, ngừng lại, tạm ngừng tu, đó nó sẽ là kiết sử.
Thí dụ, như đang ngồi thiền nghe tiếng động, mình rời khỏi đề mục thiền để nghe tiếng động, mình chạy ra coi tiếng động gì, rồi mình nhớ lại là mình đang ngồi thiền mình lại chạy vô ngồi thiền lại, đó là phóng dật triền cái phóng dật thông thường thôi. Mình không bỏ cái niệm của mình, không bỏ đường tu của mình, không bỏ công phu của mình, không bỏ sự tu tập của mình thì đó là triền cái thôi.
Nhưng không tu nữa, bỏ không tu để lo cuộc sống thì bắt đầu trôi lăn, là phóng dật kiết sử. Mà khi đã phóng dật đi tới kiết sử là bọn si phần làm chủ hết.
Còn phóng dật triền cái, phóng dật thông thường, nó chỉ là bọn tham phần làm chủ thôi, tham làm chủ phút giây đó thôi. Mình tham, mình muốn nghe, muốn biết cái đó, cái tham làm chủ chứ mình không bị si làm chủ.
Nên phóng dật thông thường, phóng dật triền cái tham làm chủ là nhẹ.
Phóng dật kiết sử si làm chủ là nặng.
Khi tới kiết sử rồi, anh si làm chủ rồi không có lay chuyển họ được. Còn anh tham mình lay chuyển được.
Do đó, tham phần của bọn thân kiến tà kiến nó sơ đạo sơ quả, mà lên tới phóng dật kiết sử là thượng phần kiết sử phải diệt vô minh mới diệt được phóng dật, chưa diệt được vô minh phóng dật chưa hết được nó vẫn còn.
Năm thượng phần kiết sử; ái sắc, ái vô sắc, phóng dật, ngã mạn và vô minh.
Thì trường hợp đó phải cẩn thận.
Vậy thì, 5 thượng phần kiết sử:
1. Ái sắc,
2. Ái vô sắc
3. Ngã mạn
4. Phóng dật
5. Vô minh
Phải lưu ý:
Ngã mạn thuộc tham phần
Phóng dật thuộc si phần
Vô minh thuộc si.
Vậy thì tham tế, tham thô, tà kiến, tại sao còn có ngã mạn này. Sơ đạo, nhị đạo, tam đạo tham thô, tham tế hết, đến tam quả bất lai là hết tham rồi.
Ngã mạn thuộc thượng phần kiết sử, thuộc về tham phần, đến Bất Lai là hết tham, vậy tại sao ngã mạn còn ở tứ phần Alahan.
Anuruddha đắc được tam quả Bất Lai đến hỏi Đức Sariputta tại sao tôi không đắc được Alahan. Ngài Sariputta nói: "vì ngã mạn mà hiền giả không đắc đạo quả Alahan được." Ngã mạn này thuộc thượng phần kiết sử.
Thì khi nói tới thượng phần kiết sử này thì Ngài Anuruddha về diệt ngã mạn này. Diệt bằng cách nào, trong khi Bất Lai họ đã chấm dứt hết tham rồi, mà tham thuộc bọn tham phần là tham, tà kiến, ngã mạn.
Như vậy thì Ngài chỉ diệt tham với tà kiến thôi sao? Bọn tham phần còn sót lại ngã mạn này. Mình nói về chi pháp nó trồng tréo nhau, Bất Lai coi như không còn tham, ngã mạn còn tham, mà nó thuộc Alahan mới diệt được. Minh học mình phải suy luận, phải suy nghĩ và phải động não phải trí tuệ thấy được cái này.
Bây giờ mình diệt ngã mạn cách nào?
Ngã mạn (Māna) có 9:
1. Hơn ỷ hơn (Seyyassa seyyo' hamasmī' ti māno).
2. Hơn ỷ bằng (Seyyassa s-diso' hamasmī' ti māno).
3. Hơn ỷ thua (Seyyassa hīno' hamasmī' ti māno).
4. Bằng ỷ hơn (Sadisassa seyyo' hamasmī' ti māno).
5. Bằng ỷ bằng (Sadisassa sadiso' hamasmī' ti māno).
6. Bằng ỷ thua (Sadisassa hīno' hamasmī' ti māno).
7. Thua ỷ hơn (Hīnassa seyyo' hamasmī' ti māno).
8. Thua ỷ bằng (Hīnassa sadiso' hamasmī' ti māno).
9. Thua ỷ thua (Hīnassa hīno' hamasmī' ti māno).
Trong các ngôn từ đều là chế định, ngôn tử giả định, các cô dùng từ ngữ nào kiếm cái ngã, cho tới người xuất gia họ không xưng "tôi", họ xưng "Sư" hay xưng "bần đạo" đi nữa họ cũng có cái ngã trong đó.
Đức Phật Ngài không dùng tử "tôi" "ta", Ngài dùng là "Như Lai", Chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai, các vị tới như thế rồi ra đi như thế, trong đó Ngài diệt bản ngã chưa hay bản ngã của Ngài đã hết chưa. Chính điểm này làm nhức đầu nhức óc trong sự tu tập của mình bị mâu thuẫn và mình không có giải đáp được bản ngã này và cái này gọi là ngã mạn thuộc thượng phần kiết sử bậc Alahan mới có mới diệt được.
Như vậy thì cái nào là tham thô mà Nhất Lai diệt được. Cái nào là tham tế bậc Bất Lai diệt tận gốc không còn tham tế, thô và tế hết. Thế thì cái nào còn dư xót, đến Alahan còn ngã mạn kiết sử này hiện hữu để họ diệt được. Điều này nằm trong Yamaka bộ Song Đối, bộ thứ 6 của Abhidhamma.
Như vậy thì đây là một nan giải cho sự tu tập của mình. Như vậy thì trong đời sống hàng ngày các quí Phật tử chỉ nằm trong thân kiến hay nằm cả hai vừa thân kiến vừa ngã mạn trong đời sống hàng ngày của chúng ta, người xuất gia người tại gia vừa thân kiến, vừa tà kiến, vừa ngã mạn.
Ngã mạn nào cũng có, có nhiều người nói tôi hết ngã mạn rồi, họ đang ỷ thua, hơn ỷ hơn, hơn ỷ bằng, hơn ỷ thua, bằng ỷ hơn, bằng ỷ bằng, bằng ỷ thua, thua ỷ hơn, thua ỷ bằng, thua ỷ thua, họ lúc nào cũng lọt trong 9 cái ngã mạn này hết.
Trong khi tu làm sao quí Phật tử diệt được cái ngã mạn này. Trong khi tu mà muốn diệt được cái ngã mạn này? Chỉ có Vô Ngã mới diệt được cái ngã mạn này.
Phải biết Bát Bất Tri mới ra được, chứ không lấy chi pháp si mà đối diện với pháp Vô Ngã được.
Biết Bát Bất Tri diệt được vô minh. Vô minh diệt ngã diệt./.
----------------------------------------
Vô Minh Avijjā có 8, còn gọi là bát bất tri là 8 điều mình không biết. Là bốn bất tri Tứ Đế + với bốn bất tri quá khứ, hiện tại, tương lai, và liên quan tương sinh:
1. Bất tri khổ (Dukkhe aññāṇaṃ), không thông hiểu về sự khổ ngũ thủ uẩn.
2. Bất tri khổ tập (Dukkhasamudaye aññāṇaṃ), không thông hiểu tập khởi của khổ.
3. Bất tri khổ diệt (Dukkhanirodhe aññāṇaṃ), không thông hiểu sự diệt khổ.
4. Bất tri đạo lộ khổ diệt (Dukkhanirodhagāminiyā paṭipadāya aññāṇaṃ), không thông hiểu con đường đưa đến diệt khổ.
5. Bất tri quá khứ (Pubbante aññāṇaṃ), không biết rằng mình đã từng hiện hữu ở quá khứ, có kiếp sống quá khứ.
6. Bất tri vị lai (Aparante aññāṇaṃ), không biết rằng mình sẽ có mặt trong tương lai, có kiếp sống sau.
7. Bất tri quá khứ vị lai (Pubbantāparante aññā-ṇaṃ), không biết có đời sống quá khứ và vị lai, tức là đời sống vui khổ hiện tại bị chi phối bởi quá khứ, và sở hành hiện tại ảnh hưởng vị lai.
8. Bất tri pháp liên quan tương sinh (Idappaccayatāpaṭiccasamuppannesu dhammesu aññāṇaṃ), không biết duyên khởi các pháp, sanh do nhân quả liên quan, như do vô minh có hành, do hành có thức v.v...