067 Paṭṭhāna
HT Sán Nhiên giảng ngày 22 tháng 7, 2023
Minh Hạnh đã nghe để học và, xin ghi chép tóm tắt theo sự hiểu của chính mình từ video giảng "067 - Paṭṭhāṇa" do HT Sán Nhiên giảng. Minh Hạnh xin chia sẻ đến qúi Thiện Tri Thức, nếu có gì sai sót xin lượng tình tha thứ, xin từ bi chỉ dạy, Minh Hạnh vô vàng cảm tạ.
Con xin thành kính cảm tạ ơn HT Sán Nhiên đã thuyết giảng bài pháp rất hữu ích để chúng con tu tập. Cũng xin chân thành cảm ơn đến qúi anh chị trong ban Hoằng Pháp của Trung Tâm Việtnamese American Mahasi Meditation Center.
Nguyện đem công đức này hồi hướng đến tứ ân phụ mẫu, đến tất cả Chư Thiên, Vua Trời Đế Thích, các Ngài Tứ Đại Thiên Vương, và tất cả chúng sanh đồng thành Phật đạo. Nguyện cho vợ chồng con và các con cháu đời này và mãi mãi những đời sau có chánh tín và chánh trí.
Mọi sự copy, phát tán, in ấn xin ghi rõ nguồn gốc và tên người ghi chép là Minh Hạnh
Minh Hạnh
Bài nào cũng vậy Sư không bao giờ đi trực tiếp vô, tại vì quí Phật tử chưa đủ mấy bờ thành thì Sư không dám đi thẳng vô, Sư phải bổ túc từ bên ngoài khi quí Phật tử đầy đủ hết các bộ phận đó rồi mình mới lấy cái lõi ra. Trong Trung Bộ Kinh, Kinh Lõi Cây nói rất rõ, có người bỏ qua lõi cây, bỏ qua giác cây, bỏ qua vỏ trong, bỏ qua vỏ ngoài, chặt cành lá, lấy chúng mang đi, tưởng rằng đó là lõi cây. Mình không như vậy, mình phải đi từ ngoài đi vô.
Thì khi mình nói tới Tam Đề Đồ Đạo Maggārammanatika hay là Đạo Duyên thì phải biết 2 cái là chánh đạo và tà đạo.
Thế thì khi nói tới chánh đạo và tà đạo, cái đúng và cái sai, là do ở tri kiến của mình.
Khi quí Phật tử nói tôi đang đi chánh đạo, bà này đi tà đạo thì trong lời nói đó có tri kiến của mình, nên Đức Phật Ngài nói Trung Đạo Majjhima Magga. Đứng bên ngoài mình nhìn vô chỉ có Chánh Đạo và Tà Đạo. Nhưng đối với Đức Phật Ngài xuyên suốt mới có Trung Đạo, mà con người mình không chịu học, mình ôm được Chánh Đạo là mừng rồi.
Thí dụ như cô ra ngoài chợ mua hàng đúng hiệu đúng chất lượng thì mình mừng rồi, còn người nào mua sai hàng không đúng chất lượng thì họ lo. Thì trong 2 cái đó đều rớt vô cái bẫy của họ. Nó không trung tính, nó có một là đúng, hai là sai
Tàm (Hiri) và Quí (Ottapa) Ngài còn nói black dhamma pháp đen và white dhamma pháp trắng, không có trạng thái pháp xám (pháp trung), chỉ trắng hay đen thôi. Nhưng trong cả hai cái đó đều có cái "Tôi".
Do đó, đối với Đức Phật Ngài Trung Đạo Majjhima Magga, tức là con đường này xa lánh cực đoan và xa lánh tiêu cực của thái quá bất cập của nó, một bên là khổ hạnh, một bên là lợi dưỡng, đi con đường Trung Đạo.
Thì khi lấy con đường Trung Đạo để đi, mình không đi Chánh Đạo hay Tà Đạo mà đi con đường Trung Đạo là mình lấy Pháp Thực Tính hay Pháp Chân Đế thì mới ra con đường tu tập.
Chánh Kiến nếu không phải là Thánh Kiến thì vẫn Chánh Kiến là của tôi. Thánh Kiến là pháp.
Chánh Kiến và Thánh Kiến là sao ? Tứ Đế mà mình nói là Khổ Đế của tôi là mình có Chánh Kiến thì không phải là Thánh Kiến của Khổ Đế, nó khác nhau.
Do đó, khi nhìn thấy Pháp, muốn biết được là mình phải giữ được trí tuệ của mình nhìn thấy được Pháp còn không thì không được. Vậy thì khi mình nói tôi thấy Khổ, Tập, Diệt, Đạo, tôi biết được Khổ, Tập, Diệt, Đạo, và tôi đang hành Khổ, Tập, Diệt, Đạo, thì mình có Chánh Kiến này là mình đang có cái "Tôi" của mình không rời.
Ông Sư ở chung chùa của người ta hay ở chung với tập thể Tăng đoàn của người ta thì ông có tập thể, ông ở trong tập thể đó. Nhưng sau một thời gian ông tách ra sống một mình, ông có chùa, ông có trú xứ, ông có cái "Tôi" của ông, cho dù ông đúng, ông cũng ở trong đó.
Chứ không như Đức Phật khi ông Cấp Cô Độc cũng dường chùa Kỳ Viên Tự Ngài cũng ra đi về núi Linh Thứu. Khi bà Visakha cúng dường Đông Phương Tự Pubbārāma Ngài cũng về núi Linh Thứu. Khi vua Bình Sa Vương cúng dường Trúc Lâm Tự Ngài cũng về núi Linh Thứu. Ngài có nhận, Ngài có ở, Ngài có hành đạo, Ngài có chỉ dẫn tu tập, Ngài giải đáp tất cả các Pháp ở đó, 19 năm ở tại Kỳ Viên Tự, 7 năm tại Đông Phương Tự Pubbārāma, Nhưng Ngài vẫn lấy núi Linh Thứu làm trú xứ, nhưng ở đó không có phòng, không có mái che, không có vách tường. Thì mình phải cẩn thận, làm sao mình tách cái "Tôi" đó ra.
Có một người Ba La Môn tới nói với Đức Phật : "Bạch Đức Thế Tôn, con tất cả các Pháp sinh lên trong tâm con."
- Không, Sunata, chính cái đó đã có.
Ông giựt mình, trước nay ông nghĩ là đúng.
Không phải là mình giữ cái khói, khói bay tới mình lấy tay chụp nhưng nó bay qua luôn, Pháp không phải như vậy, không ai giữ được khói giữ được làn hơi.
Nên mình mới thấy Đức Phật Ngài có, rồi không liền.
Còn mình đây nếu có mà đúng mình giữ, không sai, nhưng mình mới chỉ là bắt đầu thôi, mới chỉ là sơ học giả đang đi trên con đường buông bỏ, chứ chưa phải là người đã bỏ, mình đang học buông bỏ, chứ chưa phải là người đã bỏ. Hai cái đó khác nhau.
Có người học sống buông bỏ hay lắm, "cái này không phải của tôi", buông liền. Nhưng khi người ta khen mình, "cái này là tôi làm như vậy mà" "Tôi đã cố gắng làm cái này tới nay tôi mới có, mình giữ lại, chưa buông cả 2; khen và chê.
Và chính cái đó quân ma chụp mình liền. Nên quí Phật tử nhớ con đường tu của mình không phải mình chạy nghiệp, không phải mình chạy phiền não ma, mình còn dính với đội quân ma nữa mà nó âm thầm đi theo, ngay cả Đức Phật Ngài đắc đạo rồi nó vẫn đi theo Ngài. Còn không đi theo được, bắt không được, như một tảng đá trơn chu, không có vật thể nào trên tảng đá này, ta tìm hoài không có một cái gì trên tảng đá khô khan này ta mới bỏ đi, ác ma nói với Đức Phật ta đi theo 7 năm ta không tìm thấy một cái gì lợi ích trên tảng đá khô khan này hết nên ta bỏ đi. Thì Đức Phật Ngài sống như vậy đó, ác ma buông bỏ đi, rồi nó chạy tới đệ tử của Ngài người nào cũng có, người phàm cũng có người xuất gia cũng có người tại gia có, thì nó mới bắt được. Nó nói Đức Phật như tảng đá ta theo dõi suốt 24/24 không thấy từ ý, từ lời, từ hành động, không thấy Ngài có một sơ hở nào hết, không tìm ra được cái gì hết.
Như con dã can không tìm ra khe hở nào trong cái mai của con rùa nên nó không xé con rùa ra được thì nó bỏ đi thôi.
Thì quí Phật tử tu mà mình tìm được mấy cái đó là mình đang có một lộ trình đi thẳng vô đó và không có quanh co lạc lối lạc đường.
Cho dù câu ngạn ngữ của người Miến Điện "anh đi lạc đường anh càng có nhiều gạo" thì không phải tìm gạo mà mình đi lạc đường. Đọc câu ngạn ngữ này, bây giờ mình đi lạc đường để mình có nhiều gạo, không phải, mình cố gắng làm sao đừng có cả 2 luôn, không bị lạc đường mà không cần có nhiều gạo nữa, làm đúng nhiệm vụ của mình thôi, đi đúng đường, trở về đúng giờ, có đủ để mà sài, chứ không có theo.
Những cái đó là chuyện mình phải biết, đó là lương tâm chơn chánh của mình chứ không thể nào nói được, mà lương tâm chơn chánh này chỉ có mình biết thôi và 2 người khác biết được đó là Chư Thiên và ác ma, 2 người đó luôn luôn theo lương tâm của mình, không thể nào thoát.
Hồi xưa Mẹ Sư nói: "Con làm gì làm nhưng con không chạy thoát được tòa án lương tâm của mình, nó xét xử rất công bằng, chính sự công bằng đó nó mới dạy cho con nên người được, chứ còn không thì con không thành người tốt được."
Che dấu người này che dấu người kia, trốn chỗ này trốn chổ kia, nhưng lương tâm và Chư Thiên và ác ma biết được hết. Mình không che dấu được 3 điều đó. Mình có 3 phần; Lương Tâm, Chư Thiên, Ác Ma.
Thiền sinh hỏi: về Chánh Tư Duy.
Đức Phật Ngài nói trong mỗi vấn đề mình phải dùng trí tuệ. Nếu nói đi vô chi tầm: Ly tham, ly sân, ly oán hận. Vừa thấy mình nhảy vô liền, đó là mình chưa ly tham. Mình không được thì mình sân, đó là ly sân chưa được. Ly oán hận mình buồn tủi trách móc, cũng chưa được, hay là chưa hưởng được Pháp này.
Cái đó không phải, cái trước là Chánh Kiến, cái này là Chánh Tư Duy. Do đó, trước một cái pháp mà mấy cô lấy Tư Tiền, Tư Hiện, Tư Hậu, hay là có tư duy ly tham, ly sân, ly si, trước một pháp mình lấy Tuệ Văn, Tuệ Tư, Tuệ Tu, chứ không đi 3 cái đó.
Không đi tác ý và mình không đi tư duy, đã có Chánh Kiến rồi, thì trước một pháp mình phải Văn, Tư, Tu, chứ không phải ly tham, ly sân, ly oán hận. Không có, cái cửa ngõ nó đi như vậy.
Tuệ Văn chỉ là pháp.
Tuệ Tư chỉ có pháp. Ly tham là còn cái "Tôi"
Tuệ Tu là mình phải tu tập, mình phải sửa.
Có 3 cái đó thôi, thì Chánh Tư Duy không còn gì phải lo.
Trong cái kia có Tuệ Tư rồi thì anh này mới dạy cái này.
Thì Tuệ Tu của Chánh Kiến sẽ dạy Chánh Tư Duy của Tuệ Tư nó dẫn dắt.
Lúc nào cũng phải Văn, Tư, Tu, có trạng thái mình có biết không và mình có tư duy đúng không, và mình có thật sự tu tập không.
Sư vẫn nói đời sống của mình là một trường thi, và trường thi này cho mình 2: một là thi đậu, hai là thi rớt. Và quí Phật tử có thể thi rớt nhiều lần hơn là thi đậu, hay có thể thi đậu nhiều hơn thi rớt là do nơi mình tu tập. Có nhiều người tu rớt hoài, cả người xuất gia họ cũng tu rớt, mà có khi những người tại gia họ tu đậu
Thời Đức Phật có vị cư sĩ tên là Citta, là một người cư sĩ hộ Tăng Anagarika cho chùa mà vị trụ trì là đệ tử của Đức Phật mà không biết gì hết, tất cả việc trong chùa lớn nhỏ gì cũng phải hỏi ông Citta là một cư sĩ tại gia chỉ đến chùa nghe Pháp Đức Phật rồi đi về, nhưng ông đắc quả Thánh và ông chỉ dẫn vị trụ trì. Đó là vị trụ trì tu mà thi rớt, còn ông Citta là người cư sĩ tại gia tu mà thi đậu.
Do đó, khi mình nói tới thì mình thấy Tầm đi xuống xa quá rồi. Tại vì Tầm là nhắm trúng mục đích, Chánh Tư Duy là nhắm trúng mục đích của mình. Mục đích của mình là cái gì ?
Chánh Tư Duy - Right resolve
- Goal (mục tiêu)
- Destination (điểm đến)
Đầu tiên mình vô Chánh Tư Duy là mình nhìn thấy Pháp đang có sắc, thinh, khí, vị, xúc, mình nhắm trúng là mình không bắt cảnh nào khác hơn.
Giống như có một vị thầy dạy học trò lấy tay chỉ mặt trăng, học trò nhìn lên mặt trăng nhưng nhìn thấy có nhiều sao chung quanh mặt trăng, thì người học trò không nhắm trúng vì vừa thấy mặt trăng mà vừa thấy các vị sao nữa.
Vậy thì khi nhìn vô cảnh sắc phải nhìn đúng pháp cảnh sắc chứ không nghe không thấy gì cảnh sắc mình đang bắt. Cũng như hành giả niệm hơi thở vô ra phồng lên và xẹp xuống thì hành giả phải nhắm trúng khi phồng lên khi xẹp xuống, là không bắt hụt. Nếu hành giả nhìn vô khi phồng lên sao thấy chưa rõ, hay là bữa nay mình thấy nó yếu là mình nhắm lệch rồi, chỉ nhắm trúng cái phồng lên xẹp xuống thôi, trong vị trí đó, trong bao tử mình hay trong lồng ngực của mình khi nó phồng lên xẹp xuống, đó là nhắm trúng, mà hành giả lệch một cái là không trúng mục tiêu của mình.
Như thế thì khi mình ngắm trúng mục đích, cái phồng cái xẹp thì cái đó phải là goal (mục tiêu) của mình đi tới. Như vậy thì hành giả tu Vipassana là mình đi tìm cái phồng cái xẹp này thì là không phải mục tiêu của mình. Thì khi hành giả chưa đi tới mục tiêu thì cũng chưa đến điểm đến cuối cùng (Destination).
- Khi mình nhắm trúng mục đích rồi thì mình sinh trở lại làm người.
- Mình đạt được mục tiêu này thì mình sinh về thiên.
- Điểm đến cuối cùng là đi tới Níp-bàn.
Nhưng người không hiểu, người không có Tuệ Văn, thì nghĩ tôi nắm đúng mục tiêu rồi, tôi nắm đúng mục đích, mà cái mục đích này không phải tôi làm ra cái tác ý của mình muốn có. Mình phải coi lại, vì chưa đủ.
Nên Chánh Tư Duy chưa đủ, phải có Chánh Kiến dẫn đường. Nếu hành giả đi đúng mục tiêu, giữ điểm đích mà không có Chánh Kiến dẫn đường. Chánh Kiến là người dẫn đường cho mình đi. Thì Chánh Tư Duy sẽ bỏ vô Chánh Ngữ, sẽ bỏ vô Chánh Nghiệp, bỏ vô Chánh Mạng trong Giới Đạo làm theo cái đó rồi xong xuôi thì bỏ vô phần Định Đạo (Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm, Chánh Định) theo Tư Duy, mất phần Chánh Kiến dẫn đường.
Chánh Tư Duy không phải là người dẫn đường.
Chánh Kiến là người dẫn đường.
Chánh Tư Duy phải lệ thuộc vô Chánh Kiến. Chánh Tư Duy mình nó thì không được phải có Chánh Kiến dẫn đường.
Final Goal là mục đích tối hậu.
Mục đích tối hậu = chân lý tối hậu (Ultimate reality) của pháp, không phải của mình, mình không có trong đây thì mới được, nếu không là mình đi hoài không ra.
Nên Đức Phật Ngài trong Bát Chánh Đạo hay Bát Thánh Đạo Ngài đặt Chánh Kiến Chánh Tư Duy thuộc phần Tuệ Đạo đứng đầu, xong phần Tuệ rồi qua phần Giới rồi mới qua Định. Nếu mình không có Tuệ thì Giới không được, Định không làm được.
Trong Bát Chánh Đạo: Tuệ Đạo, Giới Đạo, Định Đạo.
Tuệ Đạo nằm đầu trong Bát Chánh Đạo, có 2 chi là Chánh Kiến và Chánh Tư Duy. Chánh Kiến chỉ dẫn cho Chánh Tư Duy con đường. Rồi Chánh Tư Duy mới giữ cho Giới hoàn thành. Rồi Giới kèm Chánh Định không để lung lay hay bị phóng dật.
Đức Phật Ngài tìm ra đã có từ trước từ 20 tăng kỳ trước, đã có từ trước dạy cũng như Sư, nhưng Sư nguyện Chánh Đẳng Chánh Giác bây giờ trong kiếp này Sư đang nguyện Chánh Đẳng Chánh Giác, Sư đang thừa hưởng Bát Chánh Đạo của Đức Phật Thích Ca, thì tới ngày Sư tu Sư thành Phật thì lúc bấy giờ Sư ôn lại cái này thôi, và Sư không đi con đường nào khác nữa, và Sư không lập ra con đường nào khác nữa, đi con đường này là đã thành rồi, không có pháp nào của Sư, con đường đó chỉ là nối tiếp thôi, và các Ngài đã thành rồi.
Do đó, mình mới thấy là Ngài đặt Tuệ trước. Nếu như mình không có Tuệ thì đi tu không được. Giới và Định là 2 phần tu, còn Tuệ là mình phải có mới tu được, tu mà không có Trí Tuệ không tu được, tu là sửa, nhưng mình không có Trí Tuệ làm sao sửa.
Thí dụ như một cái máy bị hư hay xe hư, hay dụng cụ hư mà mình không có kiến thức để sửa thì làm sao mình sửa.
Do đó, phần Tuệ là đỉnh cao để dạy phần Giới và Định. Trong sự tu mình phải có Trí Tuệ mới tu được, chứ không tu ngang được, không tu theo ý kiến hay kiến thức của mình được. Các vị Bồ Tát cũng vậy cũng đi theo truyền thống, thời Đức Phật Gotama khi còn là Sĩ Đạt Đa Ngài đi ra ngoài kinh thành đi theo Alarama Kalama và Uddaka Ramaputta sống cuộc sống khổ hạnh, ép xác, không ăn, nhịn đói, rồi đưa lưỡi lên nóc họng để nín thở, Ngài ngất xỉu. Sau đó Ngài tỉnh dậy bỏ đi. Cây đờn 3 giây này căng quá nên giây bị đứt, giây trùng quá đờn không được, phải căng vừa khéo. Ngài xuống con suối gần đó tắm rửa, tắm xong thì phước Ngài trổ sinh, bà Sujata cúng dường Đức Phật bát cháo sữa.
Sau khi thọ thực Ngài ngồi thiền trở lại Ngài mới thấy Thiên Nhãn Minh là trí tuệ đầu tiên là kiến giải Dassanena, kiến chấp của mình không bằng kiến giải, kiến giải mới phá được kiến chấp Dassanena Pahàtabba Kiến Giải Phóng Khí hay là Kiến Giải Đoạn Trừ. Mình kiến chấp mình tu không được.
Tu Giới mà không có trí tuệ thì là giới kiến chấp, là giới cấm thủ chấp giữ mà khư khư nói mình đúng, là giới cấm thủ Sìlabbatupàdàna là giới chấp này không trong sạch không cao thượng, nhưng vì không biết mình cứ giữ.
Thời Đức Phật, Ngài đi tới các vị Bà La Môn họ sống trong trạng thái giữ giới, những vị tu sĩ Bà La Môn sống lỏa thể, những tu sĩ sống trong trạng thái kiến chấp của họ, không ăn không uống đứng giữa trời, đứng một chân, đứng ngoài nắng v.v... Ngài nói cái này không đúng, họ đang giữ giới, họ không làm điều ác. Trong khi đó từ trong kiến của họ nhìn ra nói ta không được làm điều ác trong vòng do tuần, hay là mấy dặm, đó là ta giữ giới, còn qua khỏi đó ta làm không sao, ta vẫn trong sạch. Thì những cái đó, Đức Phật nói như vậy không đúng. Cũng như mình thôi. Giới này là không phải, giới kiến chấp.
Nên khi Thiên Nhãn Minh, cái đầu tiên của Ngài, Ngài thấy được là kiến giải diệt được kiến chấp, mà kiến giải này là được nhìn ở trên trạng thái sinh diệt chân thực tính của tất cả các pháp.
Chân thực tính nghĩa là bản chất, Ngài Tịnh Sự dịch là thực tính, cái tính thực của nó, bản chất của nó có cái "Tôi" của nó.
Khi nhìn thấy được chân thực tính của nó thì mới thấy kiến chấp của mình sai, mình không làm chủ được chân thực tính.
Thiên nhãn của Ngài thấy rồi là kiến giải của Ngài phá được kiến chấp. Qua được phần Túc Mạng Minh, minh thứ 2 Ngài nhìn là do con người mình đi trôi lăn nhiều kiếp này qua kiếp kia. Giống như cục đá lăn lóc ngoài trời thì rong rêu cát bụi sẽ bám vào càng ngày càng dầy lên, nguyên thủy của cục đá không có, nếu mình gột rửa rong rêu cát bụi trên cục đá thì bản chất nó không có, nó chỉ có sinh diệt của nó là đủ rồi, nhưng mình còn bỏ vô hỉ nộ ái ố, thất tình lục dục, những lậu hoặc của mình thì nó bị biến chất. Nên canh hai Ngài nhìn thấy Túc Mạng Minh. Thì tại sao trôi lăn lóc vậy ? Thì tại vì nó chìm lâu quá. Canh ba Ngài đạt Lậu Tận Minh Ngài mới diệt lậu hoặc, cũng do Trí Tuệ của Ngài chứ không có kiến chấp nào.
Do đó, khi mình nhìn Pháp, mình có thể kình cãi, bình luận trao đổi và thảo luận với kiến chấp, nhưng với một Chân Thực Tính thì mình chỉ có kiến giải và lý giải hay hiểu biết thôi. Khi nhìn được chân lý tối hậu thì mới ra được.
Ngay cả khi cái phồng và cái xẹp lên theo hơi thở của mình, mình nhìn thấy nó như vậy nhưng mình chưa hiểu được cái thật của nó là cái gì nữa. Hành giả nhìn phồng thấy đúng, nhìn xẹp thấy đúng, nhưng mình chưa hiểu phồng cái xẹp là cái gì, mình mới Thiên Nhãn, mình chưa hiểu được Túc Mạng, và chưa lậu tận trong cái phồng cái xẹp đó, đi 3 bước.
Như vậy thì khi mình đi tới phân tích, một nhà phân tích, Sư chưa nói tới vị chứng tri vị chứng đắc.
Một nhà phân tích. Thì cái phồng cái xẹp này mình thấy đúng, nhưng cái phồng cái xẹp này nó không có nghĩa của nó, nó có tác nhân của nó và nó có những điều kiện của nó. Mình nhìn được tác nhân và điều kiện của nó không ? Không nhìn được mấy cái này thì chưa được. Mình chỉ đứng ở cái phồng xẹp thôi, chứ mình chưa nhìn được tác nhân và phụ thuộc điều kiện của nó. Cái phồng cái xẹp này đơn thuần của nó vậy thôi. Do đó, người hành giả cứ ngồi thấy phồng xẹp thôi.
Khi tới Pa Auk, Ngài Sayadaw Pa Auk, Ngài nói Không chứng đắc được Thiền Chỉ tôi không dạy Vipassana cho. Qui ước của Pa Auk thiền viện là người thiền sinh phải qua 2 bước, phải Thiền Chỉ xong mới dạy Thiền Quán, Samadhi xong mới dạy Vipassana, chưa qua được Samadhi không qua được Vipassana.
Thế thì đi qua Samadhi thì qua Sắc Giới hay Vô Sắc Giới, Sơ Thiền hay Tứ Thiền, hay Tứ Thiền Sắc Giới, Tứ Thiền Vô Sắc Giới, thì quí Phật tử đi Vipassana qui ướt nào qui luật nào. Những người họ lý giải họ nói Ngài Upatisa ngày xưa đến gặp Ngài Assaji đâu có Samadhi đâu nghe một câu là chứng đắc rồi, còn Kolita được nghe Ngài Upatisa lập lại ông chứng đắc liền chứ không có Samadhi sao bây giờ lại có qui luật đó, đó là mình có kiến chấp rồi. Mà có kiến chấp là mình có lậu hoặc và khư khư như vậy, qui ước của tôi là vậy, quyết định của tôi là vậy, và cái đó là bất di bất dịch. Nó có những ngoại lệ, chứ không phải một chiều như vậy. Tại vì mình có quyền, mình là thầy mình dạy như vậy đó, nghe thì nghe, không nghe thì ráng chịu, nói như vậy người ta sợ người ta nghe thôi, nhưng mà không đúng, không cho người ta có ý kiến, thì cái đó là không được.
Thì bây giờ anh đi qua được phồng xẹp chưa ? tôi nói là anh chỉ có Samadhi thôi, anh không mất niệm, anh giữ đúng niệm, và anh không có phóng dật anh có chánh niệm, có trú niệm, có sự hiểu biết, anh không có hôn trầm, anh không có triền cái, anh đang ở trong tầm tứ. Mình suy nghĩ lại.
Nhưng tới khi mình tìm được nguyên nhân (tác ý và nguyên nhân) qua chức năng phồng xẹp thì hành giả mới thấy mỗi pháp sinh lên có cái Duyên, chính Duyên hiện bày các Pháp, mình tìm ra được tác nhân của nó rồi.
Khi Đức Phật Ngài đắc đạo quả Ngài thốt lên câu kệ mà Ngài nói là chánh trí : "Ta nên tìm người xây căn nhà này, và người xây căn nhà đó ta phá người xây căn nhà này, thì gui mè cột kèo căn nhà này mới xụp đổ được".
Thì tìm được người xây căn nhà, thì không phải tìm được người có phồng có xẹp, mà tìm ra người xây căn nhà, và người xây căn nhà này nó có nhân nào làm ra nó thì ra được phần mà cái đó mới là chính.
Tới canh ba Ngài chứng đắc Lậu Tận Minh, tại vì Ngài ở trong cái lậu, Ngài không có giác ngộ, và khi Ngài thấy các pháp lậu thì Ngài mới giác ngộ, thì Ngài mới thoát ra khỏi chìm đắm này.
Do đó, tất cả các Ngài nói; khi hành giải ngồi Định lâu thì sẽ sinh ra hôn trầm chứ không phải Định lâu mà sinh trí tuệ.
Thiền sinh hỏi: Thưa Sư, khi Sư nói về tà đạo với chánh đạo, thì giữa 2 cái đó là trung đạo, giống như Đức Phật đi con đường trung đạo, Sư cho một thí dụ như Chánh Kiến thấy được Tứ Đế. Nhưng Sư nói cái đó chỉ là Tứ Đế thôi chứ không phải là con đường trung đạo mà Đức Phật đi là sao ? con không hiểu. Thì ngay con đường Chánh Kiến đó tại sao có con đường trung đạo nữa
HT trả lời: Mấy cô biết không, khi mình nói chữ Trung Đạo là ra khỏi Tà Đạo và Chánh Đạo. Bây giờ mình nói Tứ Đế.
Tà Đạo Trung Đạo Chánh Đạo
Lạc Khổ Khổ
Thì Trung Đạo Tứ Đế về Khổ,
thì người Chánh Kiến thấy Khổ là Khổ,
còn người Tà Kiến thấy khổ là lạc.
Người Tà Kiến thấy ngược lại với người Chánh Kiến, vui thì thấy khổ, mà khổ thì thấy vui.
Người có Chánh Kiến nhìn thế gian này là khổ đau, nhưng người tà kiến họ nói : "Người nhìn thế gian này là khổ đau là người tiêu cực, tôi không nhìn thấy gì là khổ. Khổ sướng buồn vui là do mình, mình làm chủ nó mà, anh tiêu cực anh mới nói thế gian là khổ đau." Thì họ có kiến chấp của họ, có khi họ nói thế gian này màu hồng.
Còn người có Chánh Kiền nhìn thì thấy thế gian này chỉ có pháp đen chứ không có pháp trắng. Người Chánh Kiến thấy thế gian này là khổ, sinh ra đã là khổ, bệnh là khổ, già là khổ, chết là khổ, sinh tử biệt ly là khổ.
Còn người tà kiến nói thế gian này không có gì khổ, khổ sướng là do mình, chứ không ai làm cho mình khổ, anh là người tiêu cực, anh thủ anh giữ đi,
Nếu nhìn ra được thì mới thấy là người Tà Kiến đi ngược lại với Chánh Kiến.
Thì cái khổ người có Chánh Kiến thấy đúng, họ đứng lại họ không đi. Còn người Trung Đạo nhìn thấy họ đi tiếp tục, Khổ mình đi tới Tập, người Trung Đạo đi tiếp tới 3 bước. Còn người Tà Kiến thì ôm cái khổ mà cho là Lạc.
Người Trung Đạo là đi tới 3 bước ; tôi có Chánh Kiến, tôi có mục đích, tôi phải đi đến điểm đích.
Người Chánh Kiến đứng lại không đi tiếp. Như trong võ lâm chánh phải là họ đứng lại họ hưởng, tà phái lăn xăng đánh chính phái tại chánh phái đứng một chỗ.
Khi mình có Chánh Kiến mình hoan hỉ không ? Mình hoan hỉ vì mình có Chánh Kiến, mình nhìn qua người Tà Kiến mình mừng vì mình có Chánh Kiến.
Do đó, người Trung Đạo là không ở bên Chánh, không đứng bên Tà, mà họ đi tới mục tiêu (goal), họ Trung Đạo, họ không đứng lại. Người Chánh Đạo họ đứng lại, Tà Đạo cũng đứng, chỉ người Trung Đạo là đi tới mục tiêu tối hậu.
Hai cái đó nó khác, phải cẩn thận, đừng có sai và đừng có đi trật đường.
Như vậy thì mình đứng chỗ nào ? Mình là người Chánh Đạo, hay người Trung Đạo ?
Do đó, mình thấy mình nói: "oh, tôi có Chánh Đạo chưa đủ, tôi phải đi Trung Đạo."
Người đi Chánh Đạo họ tự hào tự mãn, còn người Tà Đạo đi qua tiêu cực, người Trung Đạo tôi đi chưa đến mức tôi còn phải đi.
Do đó, Đức Phật Ngài dạy Trung Đạo, là không thái quá và không cực đoan, không có cái nào tiêu cực và yếm thế, lúc nào mình cũng cố gắng đi tới hoàn thành và chấm dứt lập nguyện của mình.
Cho dù mình có Chánh Kiến, cho dù mình thấy được Tứ Đế (Khổ, Tập, Diệt, Đạo) thì mục tiêu của mình là Trung Đạo là phải đi tới mục tiêu tối thượng.
Khi quí Phật tử giàu rồi, đâu muốn làm nữa. Khi nghèo mình làm hoài mà cũng không giàu được. Biết đủ là được là đi tới mức rồi. Người giàu họ đứng lại, người nghèo họ lò mò đi hoài, còn người biết đủ thì họ biết cái gì họ cần.
Người Trung Đạo là người phải đi tới mục đích, người Chánh Đạo đứng lại trong sự hiểu biết của mình, người Tà Đạo chết trong sự kiến chấp sai lầm.
Hành giải thấy phồng xẹp rồi nhưng chưa đủ, phải đi tìm nhân nào mà có phồng xẹp này, điều kiện nào mà có mà biết phồng xẹp này, cả 2 luôn. Rồi khi tìm được nhân đó thì mới tìm ra được căn gốc của nó thì mình mới bạt khởi cái căn của nó được, còn không thì không có đúng. Mỗi pháp nào nó đều có sự liên đới của nó có sợi dây liên kết.
Thí dụ như pháp cha con, vợ chồng, của cải tài sản đều có sự liên kết. Tại sao người ta nói có sự liên kết giữa cha và con, giữa chồng và vợ, nó có sợi dây liên hệ của nó, rồi mới tìm dây liên hệ đó, tìm ra được cái pháp của sự tạo ra giây liên hệ này, đó là điều quan trọng nhất.
Thiền sinh hỏi: Cái đó có phải là nói về 24 Duyên Hệ không ?
HT trả lời : Không, 24 Duyên Hệ đó là những cái keo (glue) thôi, và những cái gạch những nối mà keo (glue) này gắn vô mình chưa tìm ra. Cái gạch nối của 24 Duyên này là Thập Nhị Nhân Duyên, Liên Quan Tương Sinh :
1. Vô Minh duyên cho Hành (avijia-paccaya sankhara)
2. Hành duyên cho Thức (sankhara-paccaya vinnanam)
3. Thức duyên cho Danh Sắc (vinnanam-paccaya nama-rupam)
4. Danh Sắc duyên cho Lục Nhập (nama-rupam-paccaya salayatanam)
5. Lục Nhập duyên cho Xúc (salayatanam-paccaya phasso)
6. Xúc duyên cho Thọ (phassa-paccaya vedana)
7. Thọ duyên cho Ai (vedana-paccaya tanha)
8. Ai duyên cho Thủ (tanha-paccaya upadanam)
9. Thủ duyên cho Hữu (upadanam-paccaya bhavo)
10. Hữu duyên cho Sanh (bhava-paccaya jati)
11. Sanh duyên cho (jati-paccaya)
12. Lão Tử (jara-maranam)
Bây giờ mình nói Vô Minh duyên Hành thì có 2 Duyên là Thường Cận Y Duyên và Dị Thời Nghiệp Duyên, hai cái đó, Thường Cận Y Duyên và Dị Thời Nghiệp làm Vô Minh duyên Hành, thì mình biết cái này là cái sợi giây liên kết (link), nhưng Duyên cho minh không có, Hành không có, vậy mình thiếu Vô Minh như thế nào, thiếu Hành như thế nào, bỏ 2 cái keo (glue) này vô, loại này sài keo này vị trí này, cái đó 24 Duyên mình mới tìm ra được những vật liệu để mà tìm ra kết nối của cái giây liên kết này thôi. Mà chưa.
Người ta mới nói: nếu như cô biết được 24 Duyên, tại sao 24 Duyên không đứng lại.
24 Duyên còn 4 Pháp nữa ; Pháp thuận, pháp nghịch, pháp thuận nghịch, pháp nghịch thuận.
Rồi trong 24 duyên đó đâu có phải đứng ở đó đâu. Nó có 22 Tam Đề trong đó, mỗi một Tam Đề có 3 đề trong đó nó liên kết với nhau.
Như vậy thì tìm được 24 Duyên hay là tìm được 12 Liên Quan Tương Sinh.
Bây giờ Sư chỉ cách nhìn của Paṭṭhāṇa. Sư ngồi đây có mấy Duyên ?
Quí Phật tử ngồi trong lớp học này do bao nhiêu Duyên ? Thì trong 24 Duyên quí Phật tử nhìn vào sẽ thấy mình ngồi đây do bao nhiêu Duyên. Rồi người ta bẻ gãy 24 Duyên của quí Phật tử phải biết rồi.
Ở bên Phra Thai Ngài Tịnh Sự nói; trong một hội diễn đàn Chư Tăng, 2 vị cao Tăng, một vị hỏi: Ngài ngồi đây Ngài có bao nhiêu đế ?
Vị kia nói: "Tôi ngồi đây tôi có 2 đế."
Vị này hỏi: "Đế gì ?"
Vị kia nói : "Khổ Đế và Tập Đế."
Thì mình biết vị đó đạt được vị trí nào.
Còn thí dụ như người ta nói tôi ngồi đây tôi có 2 đế. Đế gì ? Đạo Đế và Diệt Đế.
Thì mình hiều người ngồi đây mà có 2 đế là Đạo Đế và Diệt Đế thì người này là người Thánh.
Đó là vượt qua khỏi duyên rồi, người ta nói tới Đế rồi, Đế cao hơn Duyên.
Còn hỏi ngồi đây có bao nhiêu Xứ, ngồi đây có bao nhiêu Giới, bao nhiêu Quyền, người ta nói Pháp chứ không nói "Tôi" Ta", không có bản ngã nam nữ.
Anh ngồi đây có bao nhiêu Giới ? Thập bát Giới
Anh ngồi đây có bao nhiêu Xứ ? Thập nhị Xứ
Bắt đầu tính ra là ra liền
Anh ngồi đây có bao nhiêu Quyền ? Thập nhị Quyền.
Đó là người nói Pháp chứ không nói "Tôi" Ta"
Đó là những cái link liên Kết những cái gạch nối.
Mà quí Phật tử không có nói. Nếu như nói những cái đó là mình không có cái "Tôi" "Ta", không có bản ngã không có một cái gì là Pháp hết đó.
Ở đây tôi có Xứ, có cảnh Thinh, rồi tôi có Nhĩ, tôi có phần Pháp Xứ, tôi biết được cái nghe, thì cái đó bắt đầu tìm ra được.
Sư ngồi đây có bao nhiêu duyên ? Sư ngồi đây có bao nhiêu Xứ ? Không biết.
Sư ngồi đây có bao nhiêu Giới ? Không biết
Sư ngồi đây có bao nhiêu Quyền ? Không biết
Sư ngồi đây có bao nhiêu Đé ? Không biết.
Thì nếu như 4 pháp đó : Xứ, Giới, Quyền, Đế. Quí Phật tử không biết thì nói toàn là chế định.
Bây giờ mình cũng vậy, thí dụ Phật tử ngồi ăn. Người ta hỏi:
- Trong khi bạn ăn bạn có bao nhiêu Xứ ?
- Trong khi bạn ăn bạn có bao nhiêu Giới ?
- Trong khi bạn ăn bạn có bao nhiêu Đế ?
- Trong khi bạn ăn bạn có bao nhiều Quyền ?
Trả lời : Tôi không biết.
Chính cái đó mình phải thấy mình sống trong trạng thái lậu hoặc của mình, mình chìm trong đó không bao giờ mình ra.
Như vậy, khi quí Phật tử ngồi thấy phồng và xẹp mà trả lời là tôi thấy phồng và xẹp thì vị Thiền Sư đã đồng ý chưa ?
Cũng như vậy, khi người ta hỏi khi bạn ngồi đây bạn có bao nhiêu Duyên, bao nhiêu Giới, bao nhiêu Đế, bao nhiêu Xứ, bao nhiêu Quyền ? Mà người ta nói tôi ngồi đây tôi có phồng xẹp thì mình biết người ta chưa có cái gì.
Mục đích mình nhắm tới không phải là Pháp, mục đích mình nhắm đây là cái "Tôi" mình đang có, như là mình lấy tấm gương xoi mình thấy tôi có cái này, tôi có cái này, chứ không nhìn thấy Pháp.
Vậy thì khi quí Phật tử tìm ra được không ngoài Duyên nữa, mà tìm ra ngoài Thập Nhị Nhân Duyên, 12 Liên Quan Tương Sinh.
Nếu nói tới Liên Quan Tương Sinh. Sư hỏi quí Phật tử ngồi đây có bao nhiêu Liên Quan Tương Sinh ?
Quí Phật tử nói có 2 là Vô Minh và Ái Dục.
Sư hỏi thế nào là Vô Minh mà cô ngồi đây ?
Thế nào là Ái Dục mà cô ngồi đây ?
Cũng nói không được.
Quí Phật tử ngồi đây cô có Thức, có Xúc, có Ái, có Thọ. Thì thế nào là Xúc, thế nào là Thức, thế nào là Ái, thế nào là Thọ ? Sai liền, cái đó mấy cô nhìn đi, cái Pháp là vậy đó.
Pháp tu trong khi thiền và cái pháp sống ngoài đời giống hay khác, có hai hay một ? Có một người mình hay là có 2 người mình ?
Thí dụ: Như một ông sư mà có người nói khó tính, và có người nói ông Sư thấy dễ thương. Một người nhìn thì thấy ông Sư khó tính, và một người khác nhìn thì thấy ông dễ thương. Như vây là ông có 2 rồi.
Tại sao cũng một ông Sư mà có 2 lời phê bình ? Đó là tại họ để ý kiến họ vô, mỗi người đều có ý kiến riêng của họ (tư kiến).
Bây giờ bỏ tư kiến, bỏ kiến chấp, không thương không ghét, thì chỉ thấy ông Sư là ông Sư.
Những cái đó là những sự thật mà quí Phật tử không thấy con người của mình.
Do đó, khi mình nói cái này rồi mình nhận xét cái kia rồi mình nhìn pháp mình đâu có ngừng, không có, mình thua rồi, làm sao mình nói chuyện tu của mình, làm sao mình sửa được, mà tới phút cuối nữa là ông Sư không thương, không ghét, ông Sư là ông Sư. Hỏi tới ông Sư này như thế nào ? Ông là ông Sư, không nói được, nói cái nào cũng trật hết nên không nói.
Vậy đó, một cái phồng và một cái xẹp, cái tu của mình thì quí Phật tử đứng lại trong góc độ nào và cô đạt góc độ nào ? Mình phải trăn trở, mình đứng lại góc độ nào và mình đã đạt được những gì đã đạt trong việc tu của mình, một ngày thôi, thì mình mới có hiệu quả được, mình mới kiểm nghiệm được. Những cái đó là cơ bản và cái đó là phổ thông mà mình không bao giờ nghiệm ra.
Thế thì mình ngồi mình có niệm không, có niệm, hay là mình có phồng xẹp,
- Tôi ngồi trong đời sống hàng ngày, tôi luôn luôn sống trong cái niệm và tôi không sống trong phóng dật, thân, ngữ, ý tôi luôn luôn kiểm soát, tôi không cần đến những gì bất thiện, con người của tôi mỗi ngày mỗi một cầu tiến, mỗi ngày mỗi cái thay đổi. Vậy mình tốt chưa, mình đạt được chưa, mình nói như vậy đó.
- Còn mình nói, một ngày tôi chưa được tốt, một ngày tôi còn những khiếm khuyết, một ngày tôi còn tạo ra những lỗi lầm, tôi còn chưa sửa đổi được.
Cả hai.
Sư kể câu chuyện để làm dẫn chứng.
Có 30 vị thanh niên thuê một cô gái kỹ nữ đi vào rừng cắm trại, nhưng cô kỹ nữ này trong thời gian 30 thanh niên dựng lều để sinh hoạt thì ăn cắp tiền rồi bỏ chạy. Khi họ phát hiện cô này ăn cắp tiền của mình thì họ đi tìm. Lúc đó có một vị tu sĩ đi ngang qua vị tu sĩ nhìn thấy cô kỹ nữ chạy ra, cô kỹ nữ nhìn thấy vị tu sĩ cô cười xã giao, vị tu sĩ thấy cô cười vị tu sĩ gật đầu chào rồi đi tiếp. Một lúc sau 30 thanh niên phát hiện cô kỹ nữ biến mất cùng với vàng bạc của mình mới chạy ra thì lúc đó ông sư đang đi tới bèn hỏi: Ngài có thấy một người con gái chạy ra đây không ? Ông Sư trả lời: Ta không thấy cô gái nào mà ta chỉ thấy hàm răng thôi.
Ông Sư đó nói thấy hàm răng chứ không thấy người, vậy ông Sư đó có nói láo không ?
Vậy thì mình lấy cái Pháp đó và mình hiểu được cái hiểu của mình. Đầu tiên nghe câu chuyện đó quí Phật tử suy nghĩ tại sao ông Sư thấy hàm răng thôi, và mình có trạng thái như ông Sư nếu mình thấy người con gái đó không ? Mình ngồi nghiệm lại liền.
Thì đó là pháp suy luận mà Ngài Paṇḍita dạy. Khi mình nhìn thấy một pháp mình phải coi các bậc Thánh nhân họ chứng đắc như vậy, mà tại sao họ chứng đắc. Đó là pháp suy luận mà Ngài Paṇḍita dạy.
Khi mình nhìn thấy một cái pháp mình phải coi các bậc Thánh nhân họ chứng đắc như vậy mà tại sao họ chứng đắc được mình có suy nghĩ như Ngài không ? để mình có con đường đi tới như Ngài không ? Chứ không phải mình nói theo kiểu mà nói suông như vậy được, hay là mình hiểu suông như vậy được.
Nếu như mình là ông Sư mà thấy một cô gái chạy ra, rồi một chút nữa có 30 thanh niên hỏi thì mình sẽ trả lời tôi thấy một cô con gái chạy ra. Cô ấy ra sao, rồi bắt đầu tả....
Do đó, thì ông Sư nói tôi thấy hàm răng. Mà 30 thanh niên đó đồng ý với câu trả lời đó.
Một câu chuyện nữa, Đức Phật Ngài đi tới thấy 30 người thanh niên đi tìm cô kỹ nữ, Ngài nói: "Tìm cái gì người con gái đó. Tìm chính mình mới là thiết thực" Nghe như vậy 30 người thanh niên đứng lại.
Khi Đức Phật Ngài nói cái đó phá mê liền. Tức là ta không đi tìm sự oan trái mà ta đi tìm cái nghiệp báo của mình mà ta trả về. Cái đó là cái điều kiện, là pháp điều kiện, chứ không phải là Liên Quan Tương Sinh, không phải là duyên, tìm được cái điều kiện. Tại sao mình đi tìm cái đó nếu mình có oan trái cái nghiệp nó tới giờ mình đi tìm thì nó vẫn còn oan trái, mình tìm cái nghiệp của mình đứng lại.
Cũng như Đức Phật nói với Aṅgulimāla: "Như Lai đã đứng lại còn ngươi chưa đứng lại thôi"
Ông Sư trả lời thấy hàm răng, Đức Phật trả lời tìm gì người con gái. Hãy tìm lại chính mình. Hãy tìm lại cái nghiệp chính mình đi.
Hai cái đó quí Phật tử dùng cái nào ?
Trả lời theo Đức Phật.
Thế thì quí Phật tử nói trả lời theo Đức Phật: Tìm gì cái người mình đi tìm, mà nhìn lại chính mình đi. Chính mình là đáng đi tìm thôi, vậy thì mình nhìn gì ở mình ?
Còn câu Như Lai đã đứng lại, còn ngươi chưa đúng lại. Thì Aṅgulimāla nói: Sa Môn đừng nói láo, ta rượt ba do tuần không đụng đến chéo y thì làm sao đứng lại ?
- Ta đứng lại từ thân, từ ngữ, từ ý, còn ngươi chưa đứng, chính cái đó ngươi đang chạy.
Thì Ngài nói cái đó là cái Pháp chứ Ngài đâu nói Chế Định, Ngài sống với Pháp Chân Thực Tính, chứ không phải là cái "Tôi" cái "Ta" của Ngài. Còn cái chạy cái đi là cái "Tôi" cái "Ta" của mình hiện bày.
Mình nhìn cái gì ? Và chính cái nhìn đó mình có hiểu cái nhìn của mình không ?
Có 3 điều, nếu nói Aṅgulimāla Đức Phật Ngài nói ta đã dừng lại rồi, tức là Ngài không có tạo. Còn câu hỏi mình nhìn cái gì, mình không có ngừng lại, mình còn tạo, mình còn nhìn.
Thì khi mình còn nhìn thì mình sẽ có 2 câu mình đi tìm.
- Thứ nhất, mình nhìn lại chính mình, đừng nhìn người khác.
- Thứ hai, chỉ thấy pháp thôi, chứ không thấy cái "Tôi" cái "Ta" của người.
Như vậy mình có 3 câu trả lời:
- Thứ nhất, Không nhìn
- Thứ hai, mà có nhìn thì nhìn chính mình.
- Thứ ba, mà có nhìn thì nhìn Pháp thôi, không có riêng tư, không có chi tiết
Aṅgulimāla không nhìn, không tạo, và ngừng. Ta đã đứng lại rồi; thân ta đứng, ngữ ta đứng, ý ta đứng, chỉ có ngươi chạy.
Rồi 30 thanh niên đi tìm, Đức Phật nói; tìm gì, tìm chính mình. Thì 30 thanh niên dừng lại.
Rồi ông Sư nhìn thấy hàm răng chứ không thấy con người.
Đó là pháp tu.
Giờ tôi không nhìn, mà có nhìn thì nhìn thế nào ? Trong vị trí nào nhìn và trong khi mình nhìn mình có pháp nào ?
Khi vế 1, vế 2, bất cứ lúc nào nó có nguyên nhân của nó mà Ngài mới nói pháp đó, chứ không phải mình có trong đó mình trả lời mình có cái này có cái kia, chưa biết, tới khi có mình mới biết trả lời chứ bây giờ mình có nhìn đâu. Chính quí Phật tử vẫn còn rớt trong cái "Tôi"
Với Aṅgulimāla thì Ngài mới nói như vậy. Ta đã đứng lại rồi; thân ta đứng, ngữ ta đứng, ý ta đứng, chỉ có ngươi chạy.
Với 30 thanh niên thì Ngài mới nói như vầy: tìm gì người con gái. Hãy tìm lại chính mình. Hãy tìm lại cái nghiệp chính mình đi.
Và ông Sư trả lời khi thấy cô gái chạy từ trong rừng ra : nhìn thấy hàm răng chứ không thấy con người.
Còn mình không nhìn thì mình không nói gì hết, nhưng mình biết vì trong kiến văn mình đã được nghe, hay được đọc, chứ mình không có ở trong những trường hợp này
Tôi không phải là Aṅgulimāla mà Đức Phật Ngài nói với tôi.
Tôi không phải là 30 thanh niên đi tìm cô gái mà Đức Phật Ngài nói với tôi.
Tôi không phải ông Sư nhìn thấy hàm răng của cô kỹ nữ đâu.
Tôi không có ở trong 2 trường hợp này.
Và trường hợp nào tôi biết 2 điều này, là do tuệ văn của tôi đã đọc qua.
Thì quí Phật tử mới nhìn ra đó là Trung Đạo. Hễ có Khổ Đế, thì có Tập Đế. Mà có thấy Tập Đế cũng không phải đứng lại, vì Tập Đế còn có Đạo Đế để diệt nó. Có Đạo Đế rồi cũng chưa đứng lại, phải có Diệt Đế mình mới tới Đạo được.
Hai cái đó là Tuệ Văn của mình.
Có Khổ Đế rồi thì phải có Tập Đế, rồi từ Tập Đế phải có Đạo Đế, có Đạo Đế rồi phải có Diệt Đế. Đó gọi là Trung Đạo.
Còn cái kia chỉ có Chánh Kiến Chánh Đạo thôi.
Không nhìn để không sinh chuyện, có nhìn thì chỉ nhìn chính mình thôi không nhìn ai hết
Tôi tự khắc kĩ trong lòng là không nhìn ai, mà có nhìn thì nhìn chính tôi, thì không có sinh chuyện, mà có nhìn thì nhìn đúng nó như vậy chứ không thêm bớt gì hết.
Chính cái đó. Trong khi Đức Phật Ngài ngồi dưới cội cây Ngài đang đi tìm đạo đêm đó Ngài đắc đạo quả tới sáng ngày hôm sau Ngài là Chánh Đẳng Chánh Giác, đầu tiên là Thiên Nhãn Minh, tiếp sau là Túc Mạng Minh, thứ ba là Lậu Tận Minh. Thì Ngài có Thiên Nhãn Ngài thấy sinh rồi tử, tử rồi sinh, và Ngài không nhìn chính mình, và Ngài không nhìn thấy pháp của nó đang có mà Ngài nhìn thấy được cái bản chất thực của cuộc sống.
Vậy thì khi đứng 3 vị trí này - Thứ nhất, Không nhìn, Thứ hai, mà có nhìn thì nhìn chính mình. Thứ ba, mà có nhìn thì nhìn Pháp thôi, không có riêng tư, không có chi tiết. Chính những điều này đặt con người mình trong trạng thái đang tu, thì mình phải biết việc làm của mình.
Mà trong việc tu mình đi con đường Trung Đạo thì tất cả mọi pháp này sinh lên thì mình phải biết là nó có sự thật của nó.
Do đó, Đức Phật Ngài nói có 3 Pháp, mình phải thấy 3 Pháp:
1 - Vị ngọt.
2 - thì nó có sự nguy hiểm của nó
3 - và có sự thoát ly
Bất cứ một pháp nào lên, đó là bản chất của Pháp Thế Gian. Không có Pháp nào mà không có vị ngọt, nếu đầu tiên vô nói Pháp này có vị đắng, vị cay, vị mặn, vị chua, thì không phải.
Pháp nào cũng có pháp vị ngọt của thế gian, và trong pháp vị ngọt của thế gian nó có sự nguy hiểm của nó móc ở trong đó "Cá không được cắn câu, cá cắn câu cá rồi đời" Do nhận thức đó mình thoát ly.
Vậy thì khi cô nhìn thấy Khổ Đế (sự thật của khổ) Tập Đế (sự thật của những nguyên nhân). Đứng ở Khổ, Tập là có nhìn. Đứng ở Đế là có kiến thức.
Thấy Khổ Đế, mình chỉ nhìn thấy Đế thôi, đừng nhìn Khổ, thì mình mới ra. Thấy Tập Đế, mình chỉ nhìn thấy Đế thôi, chứ mình không có Tập, không bỏ mình vô trong Tập, không bỏ mình trong Khổ.
Bát Chánh Đạo; Đạo Đế thấy có sự thật chứ không thấy con đường đi thì lúc đó mình Diệt Đế mình thấy Đế thì mình mới Diệt. Hai pháp đó quí Phật tử phải biết tách ra.
Khổ Đế có 3 :
1. Khổ Khổ có 8: sinh, lão, bệnh, tử, ái biệt ly, oán tắng hội, cầu bất đắc, ngũ thủ uẩn.
2. Hành Khổ là nó luôn luôn vận hành, nó không đứng yên.
3. Hoại Khổ là nó luôn luôn hoại diệt, nó không có tồn tại.
Đế là sự chân thật, quí Phật tử đứng trong sự thật này để nhìn thì không lọt vô trong cái khổ của nó đang hiện bày một sự thật. Quí Phật tử đứng trong sự thật này nhìn thì không lọt vô cái khổ hiện bày một sự thật.
Vậy thì khi sinh là khổ hay là sự thật, thì quí Phật tử đứng chỗ nào ?
Sinh là Khổ Đế, nhưng đứng trong cái Khổ này thì bị chi phối trong 2 cái không nhìn và nhìn. Nhưng nếu nhìn thấy đó là sự thật, đó là bản chất thì không rớt vô đó.
Sinh là khổ là sự thật, thì mình sợ khổ trong cái sinh này không ?
Sinh là khổ có là sự thật không ? Vậy có sợ khổ trong cái sinh này không ?
Sinh là khổ, mình biết, và mình không sợ sự thật này. Tôi không sợ sinh và tôi không sợ khổ, tôi chỉ biết đó là sự thật và tôi không muốn đi con đường này, tôi có con đường để tôi đi, đó là Đế. Đế của Pháp mà mình đang đi chứ không phải Đế của Pháp mà mình đang biết.
Phải biết đó là Đế, Đế là tôi phải đi, chứ không phải Đế là tôi phải biết và tôi biết tôi không phải cái đó, tôi phải đi.
Đối với bậc Thánh nhân sau khi sinh đã tận, phạm hạnh đã thành là các Ngài biết con đường các Ngài đi.
Còn mình ở đây cái gì mình cũng sợ, cái gì mình cũng lo cũng nghĩ, mà cái gì mình cũng biết hết, nhưng mình không có đi, và mình không có biết.
Tôi biết sinh là khổ và con đường tôi đi là tôi phải đi, chứ tôi không đi vào con đường tôi biết khổ để tôi khổ.
Do đó, khi Đức Phật Ngài cũng như các bậc Thánh nhân thấy được thế gian này Vô Thường, Khổ Đau, Vô Ngã, các Ngài không có sợ nhưng Ngài phải đi để đi qua con đường Vô Thường, Khổ Đau, Vô Ngã này và không lập lại trong đời sống hàng ngày đây là kiếp chót của các Ngài.
Còn mình đây thấy thế gian này Vô Thường, Khổ Đau, Vô Ngã, thì mình làm gì ? Mình không có đi, mình nói thôi, và mình không có kết quả, mình không giải thoát được trạng thái Vô Thường, Khổ Đau, Vô Ngã, đã biết nhưng mình không ra được.
Biết Đế là sự thật và mình không sợ, và mình phải đi. Tôi không có trong cái đó và tôi không sợ cái đó, tôi biết đường tôi đi.
Thì cái sinh không làm cho mình bị dừng lại, cái già không làm cho mình dừng lại, cái chết không làm cho mình dừng lại, cái bệnh không làm cho mình dừng lại, mình vẫn phải đi. Ái biệt ly không làm cho mình dừng lại.
Bây giờ mình nói Vô Thường, Khổ Đau, Vô Ngã, mình biết nhưng mình không đi, mình chỉ nói thôi và mình không có ra. Mình phải đi.
Vậy thì biết sinh là khổ không ? có sợ không ?
Do đó, mình không có trong "không nhìn" và mình không có trong "có nhìn" thì trong Khổ Đế các bậc Thánh nhân nói "sinh, lão, bệnh, tử, ái biệt ly, oán tắng hội, cầu bất đắc, ngũ thủ uẩn là khổ." Thì mình ngẫm và biết rồi.
Do đó, khi người ta nghe pháp Phật mà nghe nửa câu người ta đắc đạo quả là gì ? Họ không có trong "không nhìn" và "có nhìn" .
Còn mình đây mình nghe mình nói Đức Phật nói đúng rồi, mình có trong đó.
Cái Khổ Đế biết không ? Có sợ không ? Không sợ, biết thôi, tới mình biết nó là như thế.
Hành Khổ biết không ? Có sợ không ? Biết thôi, không sợ
Hoại Khổ có biết không ? Có sợ không ? Biết thôi, không sợ
Khi nói câu nào thì có cái nghiệp của nó liền. Khi sợ nó thì đang ở trong Tâm Sân Đổng Lực của lộ trình tâm, trả lời trong trạng thái câu nói của người ta là mình dính vô cái nghiệp đó liền.
Sợ là Tâm Sân, còn cái biết là Đại Thiện Tương Ưng Trí, không có tạo ra nghiệp của giòng sinh tử.
cái key là chỗ đó, quí Phật tử rớt trong cái nghiệp của mình liền, và mình tạo mình không hay. Người ta chỉ gài mình một câu thôi là lộ ra liền, tôi không sợ thì tôi không tạo tâm sân, tôi có trí tôi làm ra là Đại Thiện Tương Ưng Trí, tôi không tạo ra nghiệp báo cho tôi, thì đâu có gì mà sợ.
Với bậc Thánh là ta giữ cái trí do đó Ngài không rớt vô trạng thái của nghiệp báo, còn mình đây không có trí mình tạo cái nào cũng có nghiệp báo, dù là nghiệp thiện, đừng nói tới nghiệp bất thiện.
Do đó, quí Phật tử thấy Tuệ mà có thì Giới mình giữ được, không nói tà ngữ, không nói sai sút một câu nào hết, và không có nghiệp báo nào hết trong lời nói của mình, lời nói mình chuẩn bị cho tạo tác nghiệp, và tôi sống trong Định, tôi có Chánh Niệm, tôi không rớt vô trạng thái tinh tấn sai lầm, mau mắn trả lời cũng là tinh tấn nhưng tinh tấn này không có niệm. Im lặng không trả lời là Chánh Niệm./.
No comments:
Post a Comment