www.dieuphap.com   
Trang Pháp Đàm 
A Ty` Đàm 
Bài Giảng   2
Bài Giảng   2.1
Bài   2.1.1
Bài   2.1.2
Bài   2.1.3
Thảo Luận  1
Thảo Luận  2
Thảo Luận  3
Thảo Luận  4
Thảo Luận  5
Bài Giảng   2.2
Bài   2.2.1
Bài   2.2.2
Thảo Luận  6
Bài   2.3A
Bài   2.3.1
Bài   2.3.2
Thảo Luận  7
Bài   2.3B
Bài   2.3.3
Thảo Luận  8
Thảo Luận  9
Thảo Luận  10



A Tỳ Đàm
Ging Giải và Tho Luận

Chân Đế Tục Đế - Bốn Thắng Pháp 

A Tỳ Đàm, Bài 2.3.2  Ngày 03 tháng 04 năm 2004


Minh Hạnh biên soạn & Tu Nữ Diệu Tịnh hiệu đính

Bốn Pháp Bản Thể.

Tỳ khưu Giác Đẳng


3.3   Tâm (citta) được định nghĩa là sự biết cảnh hay tri giác. Đây là đề tài lớn nhất của Tạng A Tỳ Đàm. Tâm chuyên chở sự hoạt dụng của nhân quả, và do vậy, là phần quan trọng nhất của sự hiện hữu. Sự tồn tại bền bỉ của tâm thức vượt ngoài hạn cuộc của không gian có thể nói là tâm điểm cho bất cứ chủ đề nào về nhân sinh quan và vủ trụ quan. Ngài Nànaponika, một danh tăng người Đức, đă khẳng định rằng không có bất cứ một ngành học nào trong kho tàng trí tuệ của nhân loại có những tŕnh bày chi tiết, khúc chiết về tâm thức hơn là tạng A Tỳ Đàm. Tuy vậy không có một cơ sở lư luận nào đủ để mô tả A Tỳ Đàm của Tạng Pàli ủng hộ cho khái niệm "duy thức" cũng như đủ yếu tố để nói A Tỳ Đàm là một môn "pháp tướng tông" như một số luận sư sau nầy đă đưa ra. Nói một cách khác, mặc dù tâm (citta) có một vị trí quan trọng nhưng không phải là tất cả.


TT Thích Hoàng Pháp (Sư Trưởng) giảng: Kính bạch Chư Tăng, kính thưa qúi vị; nói về môn A Tỳ Đàm này, nếu chúng ta nhi`n về qúa tri`nh lịch sử Phật Giáo và ti`m hiểu ra nguồn gốc thi` chúng ta sẽ thấy điểm rất thú vị. Vi` nếu như chúng ta biết về lịch sử là môn A Tỳ Đàm này tối thiểu cũng được biết đến, đó là kỳ kết tập Tam Tạng lần thứ ba ở Ấn Độ trong thời vua A Dục, lúc đó bấy giờ là 234 tới 236 sau khi Đức Phật Niết bàn, và so với môn Duy Thức Học do Ngài Thế Thân, Vô Trước thảo luận thi` sau Đức Phật viên tịch là 900 năm.  Với thời gian dài như vậy hơn 9 thế kỷ qua, tương đối 1000 năm, nếu chúng ta nhớ kỹ thời điểm, mà xét hơi kỹ lưỡng thi` tương đối như vậy. 


Nếu như chúng ta chịu khó nghiên cứu về môn Duy Thức Học, thi` thấy Ngài Thế Thân đầu tiên Ngài tu một hệ phái khác là phái Đại Thừa bây giờ được phát triển. Ban đầu cũng một trong những phái thuộc về chi nhánh của Theravada, nhưng sau đó đến với phái Nhất Thiết Hữu Bộ để học A Tỳ Đàm của phái Nhất Thiết Hữu Bộ.  Luận A Tỳ Đàm của Nhất Thiết Hữu Bộ không giống như A Tỳ Đàm của Thượng Tọa Bộ hay  Theravada.  Và sau đó Ngài Thế Thân đă viết ra bộ Câu Xá Luận và lấy tinh hoa của bộ luận A Tỳ Đàm của phái Nhất Thiết Hữu Bộ. 


vi` có lời thách thức không ai có thể phá được, như là “khua dân đánh trống đi nghe vo`ng thành”. Mà sau đó vị luận sư Chánh Ly’ viết ra một bộ chính ly' luận đả bác đi, Ngài Thế Thân buộc phải nói lên là "Mặc dầu Câu Xá Luận tôi có thêm bớt trong phần đó là lỗi của tôi, nhưng chỉ có Đức Phật mới có quyền xét đúng hay sai" y' muốn là tránh ly' luận, như cái câu trách của Ngài Thế Thân vậy.


Sau đó theo như tôi nhận biết, thi` Ngài Thế Thân quay sang nghiên cứu về chánh tạng A Tỳ Đàm Theverada, rồi cũng như trước học A Tỳ Đàm của Nhất Thiết Hữu Bộ sáng tạo ra bộ Câu Xá Luận. Nhưng ky` này Ngài nghiên cứu thêm A Tỳ Đàm và Thượng Tọa Bộ nên sáng tác ra bộ Duy Thức Luận. Bộ Duy Thức Luận này so ra rất xa môn A Tỳ Đàm của tạng Pali nhưng có những điểm chúng ta ti`m thấy hoan hỷ.  Ví dụ như nói vấn đề bát thức tâm, nếu chúng ta ti`m lại a lại gia hay mạc na thức, đây là Thế Thân đă gói trọn vẹn tâm của A Tỳ Đàm, của Thượng Tọa Bộ hay Theravada thi` 55 tâm là động tốc (Javana)v.v...


Co`n nói về a lại gia thức hay dị thục thức, đệ bát thức, hay âm tàng thức đây là gom những tâm quả làm việc trục sinh kiếp tử gói lại thành một thức nói riêng là đệ bát thức hay a lại gia thức cũng bằng nhị thục thức hay âm tàng thức. Nhất là từ khi tu tập triển thức lên tâm lên trí, ba trí đó thi` tôi rất thích dùng cái bóng hay cái tên trí này chỉ dùng cho trạng thái tu chứng.  Nếu đem ti`nh trạng chứng đắc A La Hán rồi là tâm duy tác (Kiriya) lúc bấy giờ thi` dính mắc tai, mũi, lưỡi, thân.  Các Ngài sử sự như thấy chỉ biết thấy, nghe chỉ là nghe v. v... Y' nghĩa này gọi là như Duy Thức, là thành sở tác trí, và với sự tu chứng quán thâm sâu đối với các pháp thấy, là hay chân như trí Yathabhùtam thấy sự thật như thế nào, biết rơ như thế đó thi` đó gọi là a lại gia quan sát trí. 


Và nhờ quan sát thấy giữa chúng sanh bằng; uẩn, xứ, giới đế, nên không co`n ngă chấp là người thú riêng biệt v.v...  Đây gọi là bi`nh đẳng tánh trí và nếu như chứng qủa vị A La Hán thật sự rồi đối cảnh, các vị không động tâm vi` phiền năo đoạt diệt thi` xem như là đại viên cảnh trí.  Đây là sự sáng tạo rất độc đáo của Ngài Thế Thân. 


Nhưng có những điểm dị biệt mà chúng tôi đang đánh dấu hỏi vi` khi Ngài Thế Thân chuyển sang Duy Thức luận như là Duy Thức Tam Thập Tụng v.v... chỉ những bài kệ tóm tắt chưa kịp giải ra thi` đă qua đời.  Những đệ tử về sau căn cứ những bài kệ đó giảng giải rộng, kể cả khi Ngài Trần Huyền Trang sang Ấn Độ học rồi đem về dịch giảng rộng, nên những bộ Duy Thức có những bộ khác nhau không giống.  Vi` khác nhau ở mỗi người một cách giải, cũng như Kim Cang có tới 52 nhà chú giải v.v... Nhưng mà ti`m ra những đặc điểm thi` thấy có những điểm rất gần, mặc dầu không phải nặng về Pháp Tướng Tông v.v.. Nhưng so sánh có những cái hứng thú với chúng ta, nếu người nào bên Phật tử Bắc Tông có học Duy Thức học, rồi qua học môn A Tỳ Đàm Nam Tông cũng tương đối không khó lắm, cũng giống như vị nào quen học Chú Lăng Nghiêm rồi sau này học kinh Pali cũng tương đối dễ, không đến đỗi khó là như vậy.


Chúng ta trở lại điều này thi` thấy A Tỳ Đàm là một, không thể nói để mô tả A Tỳ Đàm tạng Pali ủng hộ cho khái niệm Duy Thức là không đúng, bởi vi` gọi là ủng hộ thi` có trước có sau, ủng hộ cái trước đă có, nếu nói một cách khác thi` có thể nói là Duy Thức luận ủng hộ cho tạng A Tỳ Đàm là đúng.  Bởi vi` Duy Thức này đă có sau Phật diệt 900 năm, co`n nói về tạng A Tỳ Đàm thi` nếu là truyền thống ngày xưa chính Đức Phật Ngài đă giảng Màtikàla và sau này được sớ giải rộng ra phân tích từ đấy. Nhưng chúng ta được biết dầu cho có trễ nhất đi nữa thi` cũng được xem như tam tạng lần thứ ba, thi`sống trong thời gian đó vẫn là có trước lâu đối với Duy Thức, không 1000 thi` cũng 900 năm. Như vậy có thể nói Duy Thức là để ủng hộ, nhưng không phải hoàn toàn giống nhau đó là ly' do mà chúng ta phân tích. 


Lại nữa có những điểm như khi năy chúng tôi nói rằng, sau này đệ tử hay người thừa kế giải những Duy Thức Tam Tạng tụng đọc theo những y' của những vị này mà có những điều hơi quá lệ.  Thí dụ như giải thích rằng mắt tai, nhăn thức nhĩ thức cho đến thân thức thi` không hằng mà cũng không thẳm, co`n y' thức thẳm mà không hằng.  Co`n nói về mạc na thức vừa hằng mà vừa thẳm, co`n a lại gia thức thi` hằng mà không thẳm. Phân tích như vậy chúng ta ti`m thấy có một cái gọi là hằng trong đó thi` không không được, vi` không thể hai tâm cùng sanh một lúc, nói theo A Tỳ Đàm thi` điểm mà hai thứ tâm cùng sanh một lúc, hay một tâm biết hai cảnh cũng không đúng, như Đức Phật dậy trong tâm. 


Lại nữa những bộ giải về Duy Thức cho rằng mạc na thức, a lại gia thức vẫn có mặt trong khi đối với nhập thiền duyệt 7 ngày vẫn có a lại gia thức và mạc gia thức hay vị trời vô tưởng. Co`n mạc gia thức và a lại gia thức thi` điều này so với A Tỳ Đàm không đúng, đă gọi là thiền duyệt tức cả tâm và tâm sở, tạm thời đi`nh chỉ ngưng hoạt động trong 7 ngày nên sát na thiền duyệt sau 7 ngày  A Na Hàm quả khởi lên, thi` xem như 7 ngày có một cái vô gián duyên (Anantarapaccayo) và nếu so sánh với vị trời vô tưởng 500 kiếp trái đất thi` tâm tử có lúc là nhân loại dưới này đến khi sanh lên làm Phạm thiên vô tưởng 500 kiếp trái đất như vậy cho đến lúc hết tuổi thọ thi` tâm tái sanh khởi lên, 500 kiếp trái đất đó là một Anantarapaccayo  vô gián duyên so sánh lại với thức tương đối thi` bằng người dục giới bi`nh thường chúng ta trong mỗi ngày mỗi lúc, thi` một khảy móng tay lại đă có tỷ sát na vô gián duyên tức là tâm trước trợ cho tâm sau.  So sánh như vậy chúng ta  thấy vấn đề vô gián duyên 500 kiếp của vô tưởng bằng 7 ngày nhập thiền duyệt và hai trường hợp bằng 1 phần tỷ của một tâm bi`nh thường của chúng ta sanh diệt như vậy.  So sánh về điểm này ta thấy A Tỳ Đàm và môn Duy Thức không hoàn toàn giống nhau, có những điểm dị đồng trong đó là những gi` mà tôi nhận xét ra để góp y' với quí vị trong câu thảo luận nói trên.


 Co`n nếu như bàn về tâm thi` xin TT Trí Siêu giảng về chữ citta hay tâm là có y’ nghĩa quan trọng bởi vi` tâm trong A Tỳ Đàm thi` dầu cho 89 hay 121 biết kể một đơn vị trong khi 52 tâm sở thi` không thể bớt ra phần nào, co`n tâm thi` chỉ kể có một trong y' nghĩa Àramman.am cintet́ti biết cảnh thi` gọi là tâm, co`n tâm biết thi` gọi là cảnh, kể cả Niết bàn cũng gọi là cảnh vi` khi tâm biết, nhưng Niết bàn không có cơi không phải nơi để chúng sanh nương gá đại y' là như vậy, thi` so với trạng thái tâm này, so với các bộ luận của Phật Giáo Bắc tông có những điểm dị đồng hoặc là so với tâm mà trong những câu hỏi như kinh Lăng Nghiêm có nơi Ngài Ananda hỏi 7 chỗ hỏi Đức Phật là tâm ở trong, ở ngoài, ở trên, ở dưới.  Đối với tạng A Tỳ Đàm thi` cách hỏi này không có ăn nhập vào đâu, bởi vi` dầu ở trong, ở ngoài, trong bụng bị sên lăi cắn đau bụng thi` vẫn là thân thức mà bên ngoài da hay dưới bàn chân bị đau rát thi` cũng là thân thức, trên đỉnh đầu ngứa ngứa cũng là thân thức, dầu ở trong, ở ngoài, thân cái gi` biết mà nương nơi con mắt thi` gọi là nhăn thức, cái thức biết sanh từ lỗ tai gọi là nhĩ thức v.v... Nhưng cũng từng chỉ trong một y' nghĩ duy nhất là biết cảnh và tâm nên không có gi` khác nhau cả.


 Đức Phật có thí dụ trong kinh tạng rơ ràng về điểm này là khi lửa nhúm từ củi thi` gọi là lửa củi, lửa từ phân ḅ thi` gọi là lửa phân bo` v.v... thi` tâm sanh lên căn nào thi` căn cứ vào chỗ nương tựa sanh lên mà cơi của tâm nhĩ căn, chớ bản thể pháp tính của tâm so với câu xá hay Duy Thức v.v... kể cả Thành Thực Luận thi` đôi lúc chúng ta sẽ thấy có những điểm dị đồng ở chỗ này. Đây là sự góp y' của tôi Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Minh Hạnh thực hiện