www.dieuphap.com   
Trang Pháp Đàm 
A Ty` Đàm 
Bài Giảng   2
Bài Giảng   2.1
Bài   2.1.1
Bài   2.1.2
Bài   2.1.3
Thảo Luận  1
Thảo Luận  2
Thảo Luận  3
Thảo Luận  4
Thảo Luận  5
Bài Giảng   2.2
Bài   2.2.1
Bài   2.2.2
Thảo Luận  6
Bài   2.3A
Bài   2.3.1
Bài   2.3.2
Thảo Luận  7
Bài   2.3B
Bài   2.3.3
Thảo Luận  8
Thảo Luận  9
Thảo Luận  10



A Tỳ Đàm
Ging Giải và Tho Luận


Chân Đế Tục Đế - Bốn Thắng Pháp

A Tỳ Đàm, Bài 2-2 Thảo Luận 6   Ngày 2 tháng 4 năm 2004

Sự thật tương đối và sự thật tuyệt đối.

Câu thảo luận: Pháp Chân Đế có thể coi là không thay đổi hay không ?


Minh Hạnh thực hiện


TT Trí Siêu: kính bạch TT Giác Đẳng, để cho hội chúng thấy rơ cái nhi`n của người tu tập đối với tục đế chế định. Mặc dầu là một khái niệm quy ướt, một sự thi thiết giả lập, nhưng không thể tách rời trong cuộc sống của chúng ta, kể cả việc tu hành trong tất cả những pháp mà Đức Thế Tôn thuyết để hướng dẫn các việc tu tập đời sống phạm hạnh này. Tất cả từ ngữ Đức Thế Tôn sử dụng đều phải dùng đến phương tiện tục đế, nếu như không có được phương tiện tục đế, một sự thật tương đối này thi` chúng ta không thể hiểu nhau được, chúng ta cũng không biết được Đức Phật nói cái gi`, thuyết cái gi`, dậy cái gi`.

Cũng nên lưu y', hiểu danh chế định, nhưng chúng ta cũng phải biết rơ về vấn đề chủ chế định nữa, có sự quan hệ với nhau như thế. Và bây giờ chúng ta sẽ được nghe TT Giác Đẳng tri`nh bày cho chúng ta trong phần bài học ngày hôm nay, khi mà chúng ta bàn đến vấn đề chân đế. Chân đế là một sự thật bản thể tuyệt đối, được ví dụ giống như vàng, co`n tục đế giống như những món nữ trang tạo từ nơi vàng, cho dù hi`nh thức hay tên gọi thế nào thi` tất cả nữ trang cũng đều là vàng.

Ở đây chúng ta thấy rơ nó đóng vai tṛ mà Ngài Jotika có định nghĩa theo chữ paramattha sacca định nghĩa như chủ của chế định, và do vậy cho nên pháp chân đế phải dùng để chúng ta hiểu rơ. Pháp chân đế này được tri`nh bày 4 phần, tức là trong phần thứ nhất thuộc về tâm (citta) thứ hai là tâm sở (cetasika) thứ ba là sắc pháp (rùpa) và thứ tư là (Nibbàna) tức là Niết bàn, đó là 4 pháp chân đế.

Kính bạch TT GiácĐẳng, xin TT hoan hỷ đóng góp y’ nghĩa về pháp chân đế điều gọi là không hề thay đổi như Ngài Jotika đă định nghĩa, quá khứ thế nào thi` hiện tại, vị lai cũng như vậy, không hề thay đổi cho nên gọi là chân đế, vậy y’ nghĩa này chúng ta có thấy mâu thuẫn với pháp được thuyết rằng “Tất cả pháp hữu vi là vô thường hay không và y’ nghĩa của pháp chân đế và ư nghĩa vô thường của các pháp hữu vi thi` ở đây vấn đề này cần được làm sáng tỏ như thế nào. Xin cung thỉnh TT Giác Đẳng. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

TT Giác Đẳng: Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, kính bạch quí Ngài và thưa quí Phật tử. Chữ chân đế (paramattha), trước khi nói về y' nghĩa đặc biệt th́ trước hết chúng ta phải nói một điểm, đây là một trong những cuộc tranh luận rất lớn ở trong lịch sử Phật học. Nói tranh luận lớn bởi vi` đề tài này là một đề tài khó hiểu, tuy vậy theo nhiều nhà sử học thi` những khái niệm về pháp chân đế đă khiến cho một số các hệ phái Phật Giáo sau này không có cơ sở phát triển, khi họ dùng chữ “phương tiện” để diễn tả Đạo Phật hay diễn tả chân ly' và thậm chí có nhiều vị đă lên án một cách gay gắt rằng truyền thống A Tỳ Đàm là một truyền thống của Phật Giáo Theravada, Phật Giáo Nam Truyến.

Điển hi`nh như các bộ Thanh Tịnh Đạo và những lời dậy của những vị Thiền Sư về phương pháp hành thiền quán, được xem như bất cứ một hành giả nào muốn đạt đến một y' trí chân thật của các pháp, thi` người đó phải tự mi`nh nhận thấy danh và sắc trong y' nghĩa tuyệt đối của nó chứ không phải qua cách suy diễn ở bên ngoài.

Cho dù thế nào đi nữa thi` khi chúng ta nói đến A Tỳ Đàm chúng ta đề cập đến pháp chân đế, như chúng ta đă nghe TT Trí Siêu đề cập đến ban năy về pháp chân đế là tâm thuộc tánh của tâm ,vật chất, và Niết bàn. Chúng ta có thể nói rằng pháp chân đế bao gồm tất cả vật chất và hiện tượng của tâm ly' nói chung, cái gi` thuộc về hữu vi và cái gi` thuộc về vô vi tất cả được chia ra làm 4 pháp, và chúng ta thường nghe ở trong các bản dịch truyền thống là tâm vương, tâm sở, sắc pháp, và Niết bàn. Dĩ nhiên chúng tôi có một chút y' kiến để đề cập đến ở đây là thiền vipassana, và thuộc tánh của tâm, tâm sở là một điều chúng tôi sẽ tri`nh bày sau này khi đề cập đến phần thứ hai quan trọng này.

Nhưng nói đại loại, khi chúng ta đề cập đến A Tỳ Đàm, môn A Tỳ Đàm đă tri`nh bày nhận thức nhiều thi` giờ để tri`nh bày 4 thức pháp chân đế, và y' nghĩa của pháp chân đế là một trong những khái niệm tiên khởi là chúng ta không kể một cách hời hợt khi chúng ta bước vào thế giới của A Tỳ Đàm. Nói một cách khác, lấy một thí dụ thường thức ở bên ngoài khi chúng ta học về văn học hay tất cả các môn học về nhân văn về mỹ học thi` chúng ta có những môn học có giá trị, những giá trị tương đối mang tánh cách ướt lệ theo thời theo xứ.

Ví dụ có một lần chúng tôi đă đề cập đến quan niệm về mỹ học thời xa xưa, người ta nói về cái đẹp của người phụ nữ từ đời nhà Đường hay thời Cổ Hy Lạp, khi nói về cái đẹp của người phụ nữ, thi` người phụ nữ phải tro`n trịa đầy đặn chứ không gầy ốm như hôm nay. Ở trong thế kỷ 20 này, có lẽ trước sự dư giả của thực phẩm và bây giờ một số lớn người phụ nữ, đặc biệt ở các quốc gia kỹ nghệ, sức nặng hơi quá nhiều do đó người ta có khuynh hướng quan niệm rằng, một người đẹp tức là người có thân hi`nh skinner tức là không mập mà thon và gầy, và nét gầy cũng là một nét về mỹ học của thời này. Cái quan niệm về đẹp ốm như vậy là quan niệm có tánh cách ướt lệ chảy theo thời đại, ướt lệ theo khuynh hướng và lúc đó người ta nói đẹp thi` đi với quan niệm như vậy, quan niệm đó không có một giá trị tồn tại theo thời gian .

Nhưng có một thứ khác ngoài văn học, ngoài mỹ học ra chúng ta biết rằng có môn học về khoa học tự nhiên chẳng hạn, đặc biệt về toán học đ̣i hỏi sự chính xác, sự chính xác này nó dựa trên những con số, và tất nhiên chúng ta không nói rằng tất cả những khái niệm về toán học đều đề cập đến chân đế. Nhưng chúng ta có thể nói rằng ngay cả trong môn học của loài người, trong kho tàng kiến thức của loài người thi` chúng ta thấy rằng khoa học nhân văn gần với quan niệm tục đế, khoa học tự nhiên nó gần với chân đế theo cái nhi`n mà chúng ta gọi là tạm, thí dụ là như vậy.

Chân đế được hiểu như vậy đó là những gi` thuộc về bản thể, đă là bản thể, thí dụ như tâm biết là biết cảnh, và sắc là những gi` cấu tạo bởi bốn đại, hoặc giả là thuộc tánh của tâm có đồng sanh đồng diệt, đồng nương với tâm, thi` những điều đó không thay đổi theo thời gian, phải nói như vậy thôi, nó không khác hơn được.

Chúng tôi có một lần xem một cuốn phim nói về cách sinh hoạt văn hoá của người Machu, tức là một giống dân rất là văn minh, có thể nói rằng khi người Tây Ban Nha đặc chân đến Nam Mỹ, thi` họ đă có những nền văn minh rất là rực rỡ, chúng ta ti`m thấy thành phố Machu nằm trên trường núi cách Lima không xa ở Peru. Thưa quí vị khi đọc những công tri`nh của họ ti`m hiểu về một xă hội liên quan đến luật , liên quan đến cái vui cái buồn, liên quan đến cuộc sống của họ thi` chúng ta tự hỏi một điều rằng một nền văn hoá hoàn toàn biệt lập đối với thế giới ở bên ngoài. Thí dụ như chúng ta nói lục địa Á Châu, lục địa người Âu Châu liên hệ với nhau qua vùng Trung Đông, Tiểu Á. Nhưng vùng đất này hoàn toàn biệt lập địa dư thời bấy giờ, hầu như nhân loại ở Âu Châu và Á Châu hoàn toàn không biết tới, về sau này Kha Luân Bố mới khám phá ra Châu Mỹ, và các giáo sĩ do`ng trên tiếp xúc đầu tiên với bộ tộc này. Chúng ta thấy họ có nền văn minh rất giống với nhân loại ở trên các vùng đất khác, có nghĩa là từ trong cách diễn tả sự đau khổ cho đến diễn tả niềm vui cho đến trật tự trong xă hội có lớn có nhỏ và cái quan hệ giữa người già người trẻ v.v....

Thi` thưa quí vị có những hiện tượng của tâm ly' và hiện tượng của vật chất, và hiện tượng đó không có bị chi phối bởi thời gian hay không gian. Khi con người vui thi` con người cười, khi buồn thi` khóc và khi mi`nh ham muốn nhiều thi` sanh ra lo sợ, sanh ra phiền năo, tất cả những thứ đó nó sự thật đương nhiên có ở trong cuộc đời này và đây là một quan niệm có thể nói rằng rất cổ điển của xă hội Ấn Độ, nếu chúng ta muốn nhi`n toàn bộ văn học Phật Giáo là một phần xă hội của Ấn Độ.

Để nói về một y' niệm mà nó vượt ngoài tánh cách ướt lệ mang dấu ấn của thời gian, thi` chân đế nó đă trở thành một khoa học tự nhiên, mặt dầu thời xưa người ta không gọi nó như vậy, nhưng đây là những điều mà thời nào, lúc nào cũng không thay đổi. Lấy một thí dụ hồi năy TT Trí Siêu có đề cập đến một cách nói cổ điển mà từ xưa đến giờ chúng ta thường nghe là vàng thi` lúc nào nó cũng là vàng, cho dù người thợ kim hoàn có khéo tay tạo nó thành ra những chiếc nhẫn, hoặc giả là dây chuyền v.v... Nhưng dù hi`nh thức nào, tên gọi nào thi` cái bản chất vàng nó vẫn là vàng.

Thi` ở trong quá khứ hiện tại và vị lai khi chúng ta đề cập đến pháp chân đế về những hiện tượng về tâm, hiện tượng về thuộc tánh của tâm, hiện tượng về sắc pháp, hiện tượng về Niết bàn. Nếu chúng ta nói về Niết bàn thi` cả những pháp đó nó vốn không có mảy may thay đổi và không bị chi phối bởi quốc độ, bởi thời gian, bởi văn hoá, nó như vậy thi` phải làm như vầy. Chữ chân đế được hiểu nếu chúng ta muốn hiểu chữ chân đế thi` chúng ta phải nhi`n tính tương đối của nó đối với tục đế, thi` chúng ta mới thấy được cái giá trị rơ ràng chân đế và tục đế.

Thưa quí vị trong Tạng A Tỳ Đàm, đồng thời có rất nhiều điểm mà chúng ta phải đào sâu lại vấn đề chân đế và tục đế, bởi vi` như chúng tôi thưa với quí vị khi năy là trong truyền thống lịch sử của Đạo Phật, pháp chân đế, tục đế đă trở thành một đề tài lớn khả lấp sự phân hoá và có những sự chống đối gay gắt nhau nhiều cách và do`ng tư tưởng được sản sanh sau này của Phật Giáo, bên cạnh đó thi` ngay cả quan niệm để lănh hội pháp chân đế nó cũng là cái quan niệm đặc biệt tế nhị đối với phương diện nhân quả, tế nhị đối với phương diện thực hành thiền quán và nó tế nhị ở trong sự giả lập cái từ ngữ mà chúng ta đề cập đến trong Phật học và riêng ở trong Tạng A Tỳ Đàm. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Minh Hạnh Biên Soạn