www.dieuphap.com   
Trang Pháp Đàm 
A Ty` Đàm 
Bài Giảng   2
Bài Giảng   2.1
Bài   2.1.1
Bài   2.1.2
Bài   2.1.3
Thảo Luận  1
Thảo Luận  2
Thảo Luận  3
Thảo Luận  4
Thảo Luận  5
Bài Giảng   2.2
Bài   2.2.1
Bài   2.2.2
Thảo Luận  6
Bài   2.3A
Bài   2.3.1
Bài   2.3.2
Thảo Luận  7
Bài   2.3B
Bài   2.3.3
Thảo Luận  8
Thảo Luận  9
Thảo Luận  10



A Tỳ Đàm
Ging Giải và Tho Luận


Chân Đế Tục Đế - Bốn Thắng Pháp

A Tỳ Đàm, Bài 2, Thảo Luận 1   Ngày 27 tháng 3 năm 2004

 

Minh Hạnh thực hiện

 

Ngày 27 tháng 3 năm 2004

 

TT Giác Đẳng:  Kính bạch  TT Trí Siêu, có một khái niệm là tất cả các pháp đều có trạng thái, đều có thể nhận thức bởi tâm, không có pháp nào không nằm trong nhận thức của tâm, kể cả Niết Bàn tức là pháp không có điều kiện, pháp vô vi thi`cũng có thể nhận thức bởi đạo và bởi quả.  Bạch TT Trí Siêu và chính vi` vậy A Tỳ Đàm đă tạo nên một tranh luận rất lớn về sự xác nhận cái trạng thái, và dĩ nhiên sự dị biệt giữa pháp này và pháp khác, và trong sự xác nhận khẳng định như vậy đă loại bỏ bao nhiêu cái quan niệm mang tánh cách trừu tượng, mang tánh cách siêu hi`nh.  Về sau này với những phong trào phát triển mang tánh cách bộ phái Phật Giáo đă đặc biệt nói đến một từ ngữ gọi là bất khả tư nghi`, trong quan niệm bất khả tư nghi` đề cập đến những trạng thái pháp, hoàn toàn nằm ngoài sự lănh hội, nằm ngoài sự nhận định của tâm thức, thi` theo TT Trí Siêu với định nghĩa về pháp là những gi` có trạng thái, những gi` có tự tánh.  Trạng thái và tự tánh này có thể nhận thức bởi tâm thi` có một pháp gi` khái niệm về A Tỳ Đàm mà nó nằm ở trong chữ bất khả tư nghi` có nghĩa là pháp đó không thể nghĩ bàn, không thể lănh hội, không thể nhận thức được bởi tâm hay không? Thi` xin TT Trí Siêu cho biết về điểm này.

 

TT Trí Siêu: Kính bạch TT Giác Đẳng, thưa quí vị: Thực ra vấn đề bất khả tư nghi` chúng ta đem nói đến ở đây, như vậy theo vị trí của mi`nh, vai tro` của mi`nh thi` những vấn đề đó nó vượt ngoài sự nhận thức, bởi vi` với tâm phàm phu của chúng ta thi` cái khả năng về nhận thức có giới hạn.  Nhưng có điều chúng ta nói rằng nếu đă là pháp, là những gi` có tự tánh, thi` không có pháp gi` không thể được nhận thức bằng tâm, chỉ có điều là có những pháp phổ cập tất cả chúng sanh đều có thể nhận thức, nhưng có những pháp thi` bị giới hạn không thể nhận thức được.  Và ở đây chúng ta cũng nói trên 3 vấn đề.

 

Thứ nhất nhằm khi sự hiểu biết của mỗi cá nhân, độ nhận thức của mỗi cá nhân có sự giới hạn cho nên biết được pháp này mà không biết được pháp khác, điều đó cũng bị hạn chế sự nhận thức đối với các pháp.

 

Vấn đề thứ hai là tất cả các pháp, như chúng ta nói theo nghĩa A Tỳ Đàm thi` nó đều trở thành cảnh của tâm, nhưng tùy theo loại tâm mà có đối tượng (abhiniropana) không phải tâm nào sanh khởi nó đều có trạng thái năng tri tất cả các các cảnh, bởi vậy cho nên ở đây mới có vấn đề gọi là (vinnàya dhamma) là có những pháp mà tâm ứng tri và  có những pháp tâm bất ứng tri. 

 

Có nghĩa là, ví dụ tâm nhăn thức, thi` đó là một loại tâm chỉ nhận thức được cảnh sắc thôi chứ không thể nào nhận thức được cảnh thinh, cảnh khí, cảnh vị, cảnh xúc hay là cảnh pháp, chữ pháp trong trường hợp này thi` tôi muốn sài theo nghĩa đối tượng của giác quan mà ngoài ra 5 đối tượng sắc, thinh, khí, vị, xúc. Kính thưa quí vị cũng vậy, tâm nhĩ thức nó chỉ biết được cảnh thinh thôi chớ không thể biết được cảnh sắc, cảnh khí, cảnh vị, cảnh xúc và cảnh pháp v.v… thi` trong trường hợp đó chúng ta cũng nên có sự nhận xét điểm này.  Đến như tâm siêu thế, tâm siêu thế (lokuttara citta) là một loại tâm xem như là tâm có mănh lực lớn lao nhất, và trong này được gọi là vô lượng, (appamannà dhamma) là pháp vô lượng, hay là pháp thinh lương. 

 

Đến nỗi như vậy tâm siêu thế vẫn không thể biết tất cả pháp, không thể nhận thức được tất cả các cảnh, vi` tâm siêu thế chỉ biết được cảnh siêu thế tức là cảnh Niết bàn mà thôi chứ không thể biết hết.  Sau này khi chúng ta học về đối tượng của tâm thi` lúc đó chúng ta sẽ phân tích có  6 cảnh hay là 6 đối tượng của tâm thức là 21 cảnh, lúc đó chúng ta sẽ ti`m hiểu thêm để chúng ta biết được tâm nào nhận thức cảnh gi` và không nhận thức được cảnh gi` thi` lúc đó chúng ta sẽ thấy rằng mặc dù với pháp có tự tánh có bản thể, nhưng không phải tất cả pháp ấy đều được toàn bộ tâm thức nhận hiểu, nhận biết mà tùy theo, đó là vấn đề thứ hai chúng tôi muốn đề cập đến.

 

Vấn đề thứ ba nữa, mặc dù tâm đó có thể biết được cảnh đó, nhưng vi` không có sự tác y' thi` không có nhận biết được, thí dụ khi nhi`n cảnh sắc, khi có sự tác y', lúc bấy giờ mới nhận thức được cảnh sắc đó, mặc dù đối tượng của con mắt phải là cảnh sắc.  Có khi nào quí vị đang nghĩ ngợi một việc gi` đó mà quí vị không nhi`n thấy được cảnh sắc phía trước, mặc dù lúc đó chúng ta vẫn đang mở mắt, mắt chúng ta vẫn đang hướng về phía trước, nhưng không nhận thức được là bởi vi` lúc ấy không có sự tác y' với cảnh sắc đó, mà chỉ là sự hoạt động của tâm pháp mà thôi về lộ y' thức v.v... thi` trong trường hợp này chúng tôi muốn nói đến 3 vấn đề mà pháp không được nhận thức.

 

Pháp không được nhận thức là bởi do tri`nh độ khả năng của mỗi người, của mỗi chúng sanh, pháp không được nhận thức bởi vi` chức năng hay vai tro` của mỗi một tâm nó tri cảnh khác, pháp không được nhận thức vi` không có sự tác y' (manasikàra) đối với đối tượng, thi` ở đây chúng tôi xin được tri`nh bày nghĩa này nhân câu thảo luận của TT Giác Đẳng, chúng tôi xin dứt lời. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Minh Hạnh Biên Soạn