www.dieuphap.com   
Trang Pháp Đàm 
A Ty` Đàm 
Bài Giảng   2
Bài Giảng   2.1
Bài   2.1.1
Bài   2.1.2
Bài   2.1.3
Thảo Luận  1
Thảo Luận  2
Thảo Luận  3
Thảo Luận  4
Thảo Luận  5
Bài Giảng   2.2
Bài   2.2.1
Bài   2.2.2
Thảo Luận  6
Bài   2.3A
Bài   2.3.1
Bài   2.3.2
Thảo Luận  7
Bài   2.3B
Bài   2.3.3
Thảo Luận  8
Thảo Luận  9
Thảo Luận  10



A Tỳ Đàm
Ging Giải và Tho Luận

Chân Đế Tục Đế - Bốn Thắng Pháp 

A Tỳ Đàm, Bài 2.2.2  Ngày 02 tháng 04 năm 2004


Minh Hạnh biên soạn &Cô Tu Nữ Diệu Tịnh hiệu đính



Sự Thật Tương Đối và Sự Thật Tuyệt Đối.



TT Thích Hoàng Pháp (Sư Trưởng): Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, kính bạch Chư Tăng, kính thưa quí Phật tử, như quí vị đă biết môn A Tỳ Đàm là môn tuyệt học của tôi, tôi đă đeo đuổi mấy chục năm rồi, nếu lời tôi giảng giải quí vị sẽ cho là một y' kiến riêng của mi`nh, do đó hôm nay theo lời yêu cầu của TT Trí Siêu, tôi xin chích một đoạn đọc rồi sau đó tôi xin có y' kiến trong vấn đề giữa hai pháp chân đế và tục đế, và gần đây chắc quí vị cũng thấy đó là việc ti`m hiểu pháp hành về thiền tuệ của ĐĐ Hộ Pháp, trong bộ này ĐĐ Hộ Pháp đă có triết một đoạn dậy rất hay.  Trong đoạn này để cho chúng ta thấy rơ y' và sự lợi ích của hai pháp chân đế và tục đế, phần tái bản lần sau trang 100 trong đề mục thuyết pháp (Desanà): 

 

 Đức Phật thuyết pháp tế độ chúng sanh thường dùng hai phương pháp:

 

1)Sammutidesanà: thuyết pháp theo sự thật ngôn ngữ chế định.

 

Ví dụ như Đức Phật sử dụng danh từ gọi là chúng sanh, con người, đàn ông, đàn bà, chư thiên, phạm thiên, con voi, con ngựa, ngôi nhà, chiếc xe v.v... mà người đời đặt ra có quy ước chế định, được lưu truyền đời này sang đời khác cho đến ngày nay mọi người đă chấp nhận xem như đó là sự thật.

 

2) Paramatthadesanà: Đức Phật thuyết pháp theo sự thật là chân đế, chân nghĩa pháp.

 

 Ví dụ Đức Phật thuyết pháp về tâm, tâm sở, sắc pháp, Niết bàn, danh pháp, sắc pháp, sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn, khổ đế, tập đế, đạo đế, diệt đế v.v... Đó là nói theo chân đế, bởi vi` Đức Phật có hai loại trí tuệ đặc biệt mà bậc ThánhThinh văn không có, đó là:

 

- Thứ 1 là Indriyaparopariyan~àn.a: là trí tuệ biết rơ căn duyên cao thấp của chúng sanh.

 

 

 - Thứ 2 là Àsavànusayan~àn.a:là trí tuệ thấy biết rơ nghiệp quả và phiền năo ngủ ngầm của chúng sanh.

 

Rồi khi tế độ chúng sanh, Đức Phật quán xét căn duyên của mỗi chúng sanh nên thuyết pháp bằng cách nào.   Nếu ai trong tiền kiếp từng nghe pháp, học hỏi về nghĩa pháp tức là chân đế, trước tiên đức Phật thuyết pháp về sự thật do ngôn ngữ chế định làm nền tảng, rồi tiếp theo thuyết pháp về sự thật chân nghĩa pháp, để hướng dẫn tâm trí của chúng sanh ấy, nếu chúng sanh nào tiền kiếp chưa từng nghe hay là chưa từng học hỏi về chân nghĩa pháp, tức là pháp chân đế, thi` Ngài cũng phải phương tiện thuyết cho nên sự thuyết pháp của Đức Phật chắc chắn đem lại lợi ích tiến hoá lợi lạc cho chúng sanh trong kiếp hiện tại cũng như trong đời vị lai.

 

Lợi ích về sự ngôn ngữ chế định, trong chú giải kinh ananganasutta dậy rằng: Đức Phật thuyết giảng sự thật theo ngôn ngữ chế định về con người đem lại lợi ích có 8 trường hợp như sau:

 

1)  Để cho con người biết hổ thẹn ghê sợ tội lỗi: Nếu Đức Phật thuyết giảng “ngũ uẩn, danh pháp, sắc pháp, nên biết hổ thẹn về tội lỗi, nên biết ghê sợ về tội lỗi”, thi` các hàng đệ tử lắng nghe, sẽ nghi ngờ thắc mắc rằng: “Ngũ uẩn, danh pháp, sắc pháp nào nên biết hổ thẹn tội lỗi hay là nên biết ghê sợ tội lỗi?” 

 

Nhưng khi Đức Phật thuyết pháp rằng: “Này Tỳ khưu, Tỳ khưu ni hay là cận sự nam hay cận sự nữ nên có sự ghê sợ tội lỗi, nên biết hổ thẹn tội lỗi”.  Thi` các hàng đệ tử lắng nghe, sẽ  hiểu rơ, không nghi ngờ thắc mắc nữa.  Do đó, Đức Phật thuyết pháp dùng con người làm nền tảng.

 

2) Để chứng tỏ mỗi chúng sinh đều có nghiệp là của riêng mi`nh: Nếu Đức Phật thuyết giảng rằng: “Ngũ uẩn, danh pháp, sắc pháp đều có nghiệp riêng của mi`nh”, thi` các hàng đệ tử lắng nghe, sẽ không hiểu, nghi ngờ thắc mắc rằng: “Ngũ uẩn, danh sắc có nghiệp riêng của mi`nh?”.  Nhưng khi Đức Phật thuyết giảng rằng: “Mỗi chúng sanh đều có nghiệp riêng của mi`nh” thi` các đệ tử lắng nghe, sẽ hiểu rơ, không co`n gi` thắc mắc.

 

Do đó, Đức Phật thuyết pháp dùng con người làm nền tảng.

 

3)  Để làm cho nổi bậc công việc của mỗi người: Nếu Đức Phật thuyết giảng rằng “Ngôi chùa Jetavana do ngũ uẩn, danh pháp, sắc pháp ấy xây cất:, thi` hàng để tử lắng nghe, sẽ  không biết người nào xây cất, thắc mắc nghi ngờ, nên Đức Phật phải giảng rằng “Ngôi chùa Ky` Viên Jetavana do ông trưởng giả Anàthapin.d.ika Cấp Cô Độc xây cất, ngôi chùa Pubbàrama do bà V́sakhà xây cất”, các hàng để tử lắng nghe sẽ hiểu rơ, không nghi ngờ thắc mắc. Do Đó Đức Phật thuyết pháp dùng con người làm nền tảng.

 

4) Để biết rơ người phạm tội vô gián trọng ác nghiệp v.v...: Nếu Đức Phật thuyết giảng rằng: “Ngũ uẩn, danh pháp, sắc pháp này phạm phải trọng ác nghiệp giết cha, giết mẹ, giết bậc Thánh A La Hán, làm thân Phật chảy máu, chia rẽ Tăng chúng”, thi` hàng đệ tử lắng nghe sẽ không biết ai, nghi ngờ thắc mắc vi` không biết ai phạm nghiệp vô gián. Nên Đức Phật thuyết giảng vua Ajàtasattu giết phụ vương tên là Bimbisàra. Tỳ khưu Đề Bà Đạt Đa làm thân phật chảy máu, chia rẽ Tăng chúng”,  thi` các hàng đệ tử lắng nghe, biết được người phạm tội vô gián trọng ác nghiệp không co`n nghi ngờ . Do đó Đức Phật thuyết pháp dùng con người làm nền tảng.

 

5)  Để làm đề mục rải về tứ vô lượng tâm:  Nếu Đức Phật thuyết pháp rằng: “Hành giả nên niệm rải tâm từ đến ngũ uẩn, danh pháp, sắc pháp. Nên tùy niệm rải tâm bi, niệm rải tâm từ bi hỷ xả đến danh pháp, sắc pháp, ngũ uẩn”,  là những đối tượng không rơ ràng.   Hành giả không thể làm đề mục để tiến hành tu tập tứ vô lượng tâm. Nhưng khi Đức Thế Tôn nói là “Hành giả đem tâm từ rải đến chúng sanh đáng yêu đáng mến, hành giả nên rải tâm từ đến đối tượng đang ở cảnh khổ v.v...” thi` người đệ tử hành giả sẽ hiểu rơ mỗi đối tượng để rải tâm một cách rơ ràng, để có thể đắc chứng các bậc thiền cao hơn.  Do đó Đức Phật thuyết pháp dùng con người nói chung làm nền tảng. 

 

6)  Để ứng dụng vào trí tuệ túc mạng minh: Nếu Đức Phật thuyết giảng rằng “Tiền kiếp của ngũ uẩn là sanh làm ngũ uẩn thế này thế này, ngũ uẩn ấy đă tạo ra balamật như thế này, thế này”,  thi` các đệ tử lắng nghe, sẽ không hiểu, không biết ngũ uẩn nào tạo balamật cho ngũ uẩn nào.  Nhưng khi Đức Phật thuyết rằng trong tiền kiếp của Như Lai sanh làm hoàng thái tử Vessantara mẫu hậu là Phussatà, phụ vương là San~jeyya trị vi` kinh đô Jetuttara, khi Bồ Tát Vessantara trưởng thành, phụ vương đă truyền ngôi báu, bắt kết hôn v.v... và có hoàng hậu Maddi và hoàng tử Jàli và công chúa Kanhà”,  thi` như vậy người đệ tử sẽ hiểu sẽ biết được.  Do đó Đức Phật thuyết pháp dùng chúng sanh làm nền tảng.

 

7) để phân biệt được bậc có giới đức trong sạch xứng đáng thọ lănh tứ vật dụng:  nếu Đức Phật giảng dậy rằng:  “nên bố thí cúng dường đến ngũ uẩn, danh sắc, hay sắc pháp có giới trong sạch sẽ được nhiều phước thiện, nhiều phước báu”, thi` các hành đệ tử lắng nghe, thắc mắc: “Nên bố thí đến ngũ uẩn nào, danh sắc nào sẽ được nhiều phước báu”, nhưng khi Đức Phật thuyết pháp “nên làm phước bố thí đến các vị bậc giới đức trong sạch được phước báu”,  thi` các hang đệ tử lắng nghe, sẽ hiểu biết được, không nghi ngờ thắc mắc nữa. Do đó, Đức Phật thuyết pháp dùng con người làm nền tảng.

8) Để ǵn giữ sự thật ngôn ngữ ở trong đời không bị mai một:  Đức Phật thuyết pháp giảng dạy với mục đích tế độ chúng sinh, để giải thoát cảnh khổ. Điều quan trọng đầu tiên, chúng sinh nghe hiểu rơ giáo pháp của Ngài. Cho nên Đức Phật vẫn phải dùng đến những danh từ Ngôn ngữ chế định - mà người đời thường dùng để thông tin truyền đạt ư nghĩ, tư tưởng với nhau - để thuyết giảng chánh pháp.

Như vậy, chúng sinh sẽ hiểu rơ được chánh pháp rồi tiến hành thiền tuệ, dẫn đến sự chứng ngộ chân lư Tứ thánh đế, chứng đắc Thánh Đạo, Thánh Quả và Niết Bàn, giải thoát cảnh khổ tử sanh luân hồi trong ba giới bốn loài.

Do đó, Đức Phật dùng Ngôn ngữ chế định, cốt để ǵn giữ sự thật ngôn ngữ ở đời không bị mai một.

Đó là 8 điều lợi ích của sự thật theo Ngôn ngữ chế định.

Lợi ích về sự thật theo Chân nghĩa pháp tức là theo chân đế: Hành giả tiến hành thiền tuệ(tức là thiền quán), điều quan trọng đầu tiên cần phải học hỏi hiểu biết rành rẽ thông thạo về pháp Chân đế, có 4 pháp: tâm, tâm sở, sắc pháp, Niết Bàn, được phân chia thành những pháp như: ngũ uẩn, 12 xứ, 18 giới,... tóm tắt c̣n 2 pháp là:

- Sắc phápDanh pháp

Sự thật Chân nghĩa pháp không thể thấy rơ, biết rơ bằng trí tuệ do học hỏi , hoặc trí tuệ do tư duy, mà chỉ thấy rơ, biết rơ bằng trí tuệ do tiến hành thiền tuệ mà thôi.

Kết quả của sự thật theo ngôn ngữ chế định. Trong đời này, có số người chỉ biết sự thật theo Ngôn ngữ chế định, mà không hiểu biết sự thật theo Chân đế, nên không hiểu rơ danh pháp, sắc pháp là pháp vô ngă. Số người ấy, thường phát sanh tà kiến theo chấp ngă , cho là ta, của ta, người, của người, chúng sinh, vật này, vật kia,... dễ phát sanh mọi phiền năo, tự làm khổ ḿnh, làm khổ người, tự làm khổ cả hai.

 

Kết quả của sự thật theo Chân nghĩa pháp (chân đế).Trong đời này, bậc Thánh nhân đă thấy rơ, biết rơ sự thật theo Chân đế là pháp vô ngă, có thiền tuệ chánh kiến, Thánh Đạo chánh kiến, Thánh Quả chánh kiến, đă diệt đoạn tuyệt được ngũ uẩn tà kiến rồi, nên không c̣n chấp ta, người, chúng sinh, vật này, vật kia,...

Trong cuộc sống hằng ngày, các bậc Thánh nhân vẫn biết rơ sự thật theo ngôn ngữ chế định dùng để giao tiếp với mọi người: như thuyết pháp, nói đạo, thông tin, truyền đạt ư nghĩ của ḿnh. Nhưng đặc biệt bậc Thánh nhân không có chấp ngă. Cho nên, phiền năo không phát sanh, không tự làm khổ ḿnh, không làm khổ người, hay làm khổ cả hai.

Đó là điều lợi ích về sự thật Chân nghĩa pháp.

Kính bạch Chư Tăng, kính thưa quí vị Phật tử, tôi vừa trích một đoạn giải thích về chú giải trong quyển "Ti`m Hiểu Pháp Hành Thiền Tuệ" của ĐĐ Hộ Pháp để đọc ra cho quí vị thấy tôi nói có sách mách có chứng, và đồng thời cũng để cho quí vị có cơ hội hiểu y' nghĩa này thật sự như vậy. 

 

Nếu chúng ta dùng ngôn ngữ chế định thi` không thể nào bước qua lănh vực thiền quán cho được, thí dụ như bây giờ chúng ta tu tập thiền quán  nhưng vướng vào tư tưởng như chúng ta buổi đầu là dùng phương tiện chế định danh những động tác đó để cho người hành, thí dụ như đi, bước, đụng, đạp v.v.. nhưng đây chỉ là phương tiện mà thôi, chứ sự thật không có trạng thái này mà có thể đưa đến thấy rơ sự thật bằng chân như trí là tathavacana, tại sao như vậy?, vi` với trí tuệ chân như trí thi` phải thấy đúng sự thật, tức là sự thật như thế nào thi` thấy rơ như thế đó, nhưng vẫn phải dùng ngôn ngữ thông thường để tỏ ra hiểu.

 

Nhưng bước qua lănh vực thiền quán thi` phải thấy bằng cặp mắt thấy rơ sự thật, thấy rơ bản chất thật, và môn A Tỳ Đàm Abhidhamma hay là Vi Diệu Pháp này, theo sự nhận xét và đánh giá thi` quí vị đă đi được nửa đoạn đường của con đường thiền quán, tại sao như vậy?

 

Dù qúi vị chưa thực hành thiền quán đi nữa, nhưng quí vị biết được pháp chân đế này dầu không diệt hoàn toàn vô minh, thi` quí vị cũng làm mỏng được vô minh một cách tương đối, tức là không có sự chấp ngă tôi, ta, anh, nó, người thú v.v... mà nhi`n với cặp mắt thấy rơ sự thật là bằng chân đế.  Đây là trường hợp có thể phát sanh gọi là bi`nh đẳng tánh trí, và khi có bi`nh đẳng tánh trí thi` tâm không bị bịnh phiền năo.

 

Vi` nếu không biết chân đế này thi` chúng ta có thể vướng vào thường kiến, nghĩ rằng người là người, thú là thú, chứ không bao giờ người chết rồi mà sanh làm thú cho được không thể tin được, thi` rơi vào thường kiến là sống sao chết lại sanh lai như thường.

 

 Nhưng nhi`n bằng cặp mắt chân đế thi` không có gi` khác lạ giữa con người với con thú, chỉ có khác cái bao bi` bên ngoài mà thôi, tôi dùng danh từ bao bi` như một vật gi` đó mà được cái hộp đóng ở bên ngoài nên gọi là bao bi`, cứ nhi`n cái bao bi` bên ngoài thi` thấy con heo, con chó, con trâu, con bo`, con người v.v... Nhưng thật sự bản chất bản thể thi` không có sự khác biệt giữa con người con thú. Tôi sử dụng cách này quán thường xuyên, và quán hoài mà không nhàm chán, càng thích tu tập, lập đi lập lại bằng cách thường quán. 

 

Có những lúc tôi ngồi nhi`n chung quanh có những vật gi` hay một động vật gi` đó để quán, có lúc tôi thấy con kiến bo` trên cục đá, tôi thử quán sát giữa con kiến và cục đá. Nếu trên phương diện lượng thi` con kiến nhỏ xiú bo` trên cục đá, cục đá có thể hàng mấy trăm ky', nhưng con kiến nhỏ xíu nếu bỏ lên cân chắc cân không nhảy. 

 

Nhưng thật ra thi` cục đá chỉ có sắc uẩn thôi, co`n con kiến nhỏ tí ti nhưng có tâm thức. Nếu phân biệt danh sắc thi` con kiến có cả hai phần danh sắc, cục đá chỉ có sắc.  Nếu phân theo ngũ uẩn, cục đá chỉ có sắc uẩn không có tứ danh uẩn, co`n con kiến có đủ ngũ uẩn, tức là có sắc thọ tưởng hành thức.

 

 Nếu thấy phân theo lục đại duyên khởi, thi` cục đá chỉ có 5 đại, tức là địa đại, thủy đại, phong đại, và không đại, nhưng con kiến kia thi` là có đủ 6 đại tức là có thêm thức đại.

 

Rồi quán theo 12 xứ và 18 giới, và tứ đế, thi` cục đá chỉ có một đế là khổ đế, tức là cục đá chỉ bị nóng, bị mưa thời tiết chịu không nổi nó bể, kể cả quả địa cầu này bể tung ra, thi` như cục đá nó co`n thi` nó thành thiên thể, thiên không trung.  Rồi với 5 tháng nó mo`n hao vi` cọ sát với gió v.v… rồi nó cũng tan đi, như vậy cục đá cũng có khổ đế, tức là chịu đựng không nổi rồi nó tan hay là hủy hoại.  Nhưng con kiến kia có được hai đế, khổ đế nó có đă đành, nhưng con kiến khi nó gặp nước uống, nó mừng, khi gặp thức ăn nó cũng thích, cũng tham, thi` như vậy nó có thêm tập đế.  Như vậy xét về tứ đế, thi` con kiến có tứ đế, cục đá có một đế thôi.

 

Rồi tôi so sánh con kiến với bản thân của tôi,xem có khác nhau như giữa cục đá với con kiến không, bây giờ tôi mới thấy giữa con kiến với tôi không có khác trên phương diện chân đế.  Dầu tôi được bốn mươi mấy, năm mươi ky’ thi` cũng là ngũ uẩn và con kiến nhỏ tí ti như vậy, nhưng nó cũng là ngũ uẩn. 

 

Nếu danh sắc thi` tôi cũng có hai phần danh sắc, con kiến cũng có hai phần danh sắc.

 

Nếu về sáu đại thi` con kiến cũng về sáu đại, tôi cũng sáu đại.

 

Phân biệt 12 xứ, tôi cũng có 12 xứ. 

 

Phân 18 giới, tôi có 18 giới, thi` con kiến cũng có 18 giới không có khác.

 

Phân tứ đế thi` con kiến kia cũng có khổ đế và tập đế, khổ đế là có danh sắc,có sanh diệt. Tập đế là trống mái, đực cái cũng có tham ái v.v… thi` như vậy nó có tập đế.  Thi` tôi cũng có hai đế, tức là tôi cũng có khổ đế và tập đế nếu những lúc tâm tham sanh khởi.

 

Co`n nếu xét về tứ đế, tôi cũng không hơn con kiến bởi vi` khi nào đắc đạo quả thi` là đạo đế, chính đạo đế mới thấy được Niết bàn là diệt đế, bây giờ tôi chưa đắc được đạo quả thi` kể như hai đế kia không có.  Thi` như vậy so sánh giữa tôi và con kiến về phương diện tứ đế, không có gi` khác nhau. 

 

Nhưng trên phương diện tục đế theo luân ly’ đạo đức con người thi` có khác, loài thú  không có tàm, không có quí, không có luân ly’, không có luật lệ bản năng thị dục của nó. Co`n con người thi` có luân ly’ đạo đức, phân biệt có tàm, có quí, khác một chút xíu nên Đức Phật Ngài nói: “Nếu như không có hai pháp tàm quí thi` giữa con người và loài bàng sanh không có khác nhau”.  Thú thi` không có cha mẹ, co`n con người nếu không có phép tàm quí thi` sẽ không có vấn đề cha, mẹ, anh, em, trống, mái, đực, cái nó có thể giống như nhau.  Người nhờ có pháp tàm quí khác hơn với loài bàng sanh, thật ra mỗi loài nó có luật lệ riêng, con kiến nó cũng có luật lệ của con kiến, con mối cũng có luật lệ của con mối, có khác nhau.  Kể cả người cũng vậy , người địa phương này có tập quán này, người địa phương khác có tập quán khác,chúng sanh có những luật lệ riêng.

 

Nhưng xét về trên mặt bản thể tục đế thi` không có gi` khác, nhưng nhi`n hoàn toàn bằng cặp mắt chân đế như vậy, thi` như đoạn kinh hồi năy tôi có nói trích dẫn khi nói chuyện với nhau.

 

Thí dụ: Như chúng ta muốn vào nhà tắm, mi`nh gơ cửa hỏi “có ai trong đó không”

 

Và nếu người kia trả lời: “không”

 

-  Nếu không thi` ai trả lời đó.

 

-  Ngũ uẩn trả lời, th́ danh sắc hỏi ngũ uẩn trả lời.

 

Nghe đối thoại như vậy chắc buồn cười lắm.  Chúng ta phải dùng là: “có ai đó không”, và trả lời là “có”, như vậy là biết có người rồi.

 

Nếu hỏi ai trong đó, trả lời là “tôi”.

 

-  Tôi là ai.

 

-  Tôi là ông Mít.  Rồi hỏi lại “Ai hỏi vây”

 

-  Tôi là ông Soài

 

Thi` ông Mít, ông Soài gi` đó.  Có tên như vậy thi` phân biệt được.  Thậm chí nuôi chó cũng phải đặt con chó Co`, chó Mực, nuôi con trâu cũng phải gọi con trâu Cui, trâu Sấm, trâu Sét  gi` đó.  Người sanh ra thi` phải có tên mà gọi, nên phải dùng cái phương tiện tục đế là để tỏ nhau, hiểu như vậy. 

 

Nhưng nếu dính vào phương diện tục đế như vậy thi` không bước qua được lănh vực thiền quán,.  Thấy như chân như thật thi` không thể phát lên bi`nh đẳng tánh trí thấy người, thú, chúng sanh trong ba giới bốn loài bằng danh sắc, bằng ngũ uẩn, bằng 6 đại hay bằng 12 xứ, bằng 18 giới hay bằng tứ đế được. 

 

Những phần pháp này là công thức thiền quán do đó tôi thường nói toàn bộ tạng Abhidhamma ATỳ Đàm là những công thức thiền quán nếu như những người nào tu, muốn tu tập thiền quán, thi` tôi nghĩ trước nhất quí vị phải có học A Tỳ Đàm.  Co`n nếu như quí vị không muốn học A Tỳ Đàm,cứ ngồi rồi lâu lâu mi`nh ti`m mi`nh quán, thi` cũng có thể được, cũng giống như những bác học người ta ti`m những công thức tóan, ly’ v.v… bây giờ mi`nh cũng không muốn đi theo con đường đó, tự mi`nh khám phá ra cũng thể được, nhưng rất là hy hữu.  Nếu những nhà thiên tài họ phát minh ra công thức, mi`nh học theo công thức, mi`nh cũng được cái mà nhà phát minh bỏ ra bao nhiêu năm nghiên cứu. 

 

Thí dụ giây điện thôi, người đầu tiên mà phát minh ra rồi lần lần sau này chế ra công thức, muốn sử dụng điện phải làm như vầy, thi` những người học theo cũng có thể sử dụng được theo công thức đó rồi cũng có thể chế đèn v.v… y như người đầu tiên khám phá, nhưng nếu mi`nh không muốn theo, thi` mi`nh nói hồi đó ông Adison đâu học lớp trường nào đâu, chỉ học nửa chừng tới lớp hai, lớp ba rồi bị cô giáo đuổi ra rồi, mà làm sao có công thức chi, rồi mi`nh cũng bắt chước như ông cũng đi ti`m to`i. 

 

Cũng giống như những người chê rằng Tam Tạng nói chung, Tạng A Tỳ Đàm nói riêng là pháp học không cần, hành thiền chỉ cần hành thiền rồi ngồi đó và tự mi`nh khám phá ra thi` như vậy cũng được, nếu làm như vậy không được th́ có gi` là Toàn Giác hay Độc Giác khám phá ra chân lư.  Nhưng hàng Thinh Văn giống như sinh viên học sinh bây giờ, coi theo công thức đó, học theo công thức đó, hành theo công thức đó thi` mi`nh cũng được đắc chứng như Đức Phật, không có sự sai khác. 

 

Người khám phá đầu tiên chế ra đèn điện, sử dụng điện được thi` bây giờ mi`nh coi công thức đó mi`nh làm cũng được y như người khám phá đầu tiên.  Thi` Đức Phật nói về chân đế, về tứ diệu đế, danh từ buddhu hay dhamma buddhu là vị tự mi`nh Giác Ngộ.  Ngày nay chúng ta học theo những công thức thiền quán, uẩn xứ giới đế đó như Đức Phật đă dậy thi` chúng ta cần thực tập theo chúng ta cũng sẽ được đắc chứng đạo quả như Ngài đă đắc chứng, thấy biết như Ngài đă thấy biết Niết bàn cũng y như Ngài đă Giác Ngộ không có gi` khác cả. 

 

Đó là thành phần về y' nghĩ, tôi muốn đóng góp với quí vị trong rơom Diệu Pháp này vi` có lợi ích giữa hai phương tiện tục đế và chân đế chúng ta có thể dung nạp lẫn nhau. Nhưng nếu chấp thủ quá về phương diện tục đế, sẽ không thấy rơ được sự thực.

 

Nhưng nếu chúng ta hoàn toàn dùng sự thật và không dùng đến chân đế thi`:

 

Một là như Đức Phật Độc Giác.

 

Hai là như các vị Thiền Sư Trung Hoa là bậc bất văn tự, chỉ đánh đầu, la hét làm sao cho người kia làm sao thoát ngộ nhận ra cái y' đó, chứ không xuyên qua ngôn từ.

 

Thi` cách nào cũng là phương cách đại y' là như vậy, và sự lợi ích của tục đế và chân đế là như vậy.  Đây là sự đóng góp của tôi thể theo lời yêu cầu của TT Trí Siêu. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Minh Hạnh Biên Soạn