CUDDASAMO PARICCHEDO


CHƯƠNG THỨ MƯỜI BỐN

 

1/- Therassa vacanaṃ sutvā rājā bhiyyo pasīdayī,
aladdhā campakaṃ pupphaṃ therassa abhihārayi.


Lắng nghe lời nói của vị trưởng lão, đức vua càng tăng thêm niềm tịnh tín rồi đã bảo dâng lên vị trưởng lão bông hoa chăm-pa còn chưa được tiếp nhận.

 

2/- Thero campakapupphāni pamuñcittha mahītale,
tatthāpi paṭhavī kampi aṭṭhamaṃ paṭhavikampanaṃ.


Vị trưởng lão đã ném các bông hoa chăm-pa ở trên mặt đất. Cũng tương tợ như thế, trái đất đã rúng động; (đây là) sự rúng động lần thứ tám của trái đất.

 

3/- Imaṃ acchariyaṃ disvā rājasenā saraṭṭhakā,
ukkuṭṭhisaddaṃ pavattiṃsu celukkhepaṃ pavattitha.


Sau khi chứng kiến sự việc phi thường ấy, đoàn quân của đức vua cùng với cư dân trong xứ sở đã vang lên tiếng reo hò và đã thực hiện việc ném tung lên các tấm vải.

 

4/- Kimatthāya mahāvīra aṭṭhamaṃ paṭhavikampanaṃ,
byākarohi mahāpañña suṇoma tava bhāsato.


“Thưa đấng đại hùng, sự rúng động lần thứ tám của trái đất là do nguyên nhân gì? Thưa bậc đại trí tuệ, xin ngài hãy giảng giải. Chúng tôi sẽ lắng nghe lời ngài nói.”

 

5/- Tathāgatassa dhātuyo aṭṭhadoṇā sārīrikā,
ekaṃ doṇaṃ mahārāja āharitvā mahiddhikā.
6/- Idh’okāse nīdhahitvā thūpaṃ kārenti sobhanaṃ,
saṃvegajananaṭṭhānaṃ bahūjanapasādanaṃ.


“Tâu đại vương, có tám phần (doṇa) xá-lợi di thể của đức Như Lai. Các vị có đại thần lực sẽ mang lại một phần và an trí ở nơi đây, tại chỗ này, rồi sẽ xây dựng ngôi bảo tháp tuyệt đẹp, là sự kiện làm động tâm và đem lại niềm tin cho số đông người.”

 

7/- Samāgatā janā sabbe rājasenā saraṭṭhakā,
ukkuṭṭhisaddaṃ pavattiṃsu mahāpaṭhavikampane.


Tất cả mọi người gồm đoàn quân của đức vua cùng với cư dân trong xứ sở đã tụ họp lại và đã vang lên tiếng reo hò trong sự rúng động của đại địa cầu.

 

8/- Tissārāme vasitvāna vītivattāya rattiyā,
nivāsanaṃ nivāsetvā pārupetvāna cīvaraṃ.


Sau khi đã ngụ qua đêm ở tại tu viện Tissārāma, vị trưởng lão đã quấn y nội và khoác thượng y.

 

9/- Tato pattaṃ gahetvāna pāvisi nagaraṃ puraṃ,
piṇḍacāraṃ caramāno rājadvāraṃ upāgami.


Sau đó đã cầm lấy bình bát rồi đi vào kinh thành. Trong khi đi khất thực, vị trưởng lão đã đi đến cổng hoàng cung.

 

10/- Pāvisi nivesanaṃ rañño nisīditvāna āsane,
bhojanaṃ tattha bhuñjitvā pattaṃ dhovitvāna pāṇinā.


Ngài đã đi vào chỗ cư ngụ của đức vua rồi đã ngồi xuống chỗ ngồi. Tại nơi ấy, ngài đã thọ dụng vật thực rồi đã dùng bàn tay rửa sạch bình bát.

 

11/- Bhuttāvī anumodetvā nikkhamitvā nivesanā,
puramhā dakkhiṇadvārā uyyāne nandane tadā.
12/- Kathesi thero suttantaṃ aggikkhandhopamaṃ varaṃ,
tattha pāṇasahassānaṃ dhammābhisamayo ahū.


Sau khi thọ thực xong và đã tùy hỷ công đức, vị trưởng lão đã rời khỏi hoàng cung và thành phố bằng cánh cổng phía nam. Sau đó, ở tại khu vườn Nandana, vị trưởng lão đã thuyết giảng bài kinh quý báu “Ví Dụ về Đám Lửa.” Tại nơi ấy, đã có một ngàn người chứng ngộ Giáo Pháp.

 

13/- Desayitvāna saddhammaṃ uddharitvāna pāṇinaṃ,
uṭṭhāya āsanā thero tissārāme punāyasi.


Sau khi thuyết giảng Chánh Pháp và tiếp độ chúng sanh, vị trưởng lão đã rời chỗ ngồi đứng dậy rồi trở về lại tu viện Tissārāma.

 

14/- Tattha rattiṃ vasitvāna vītivattāya rattiyā,
nivāsanaṃ nivāsetvā pārupitvāna cīvaraṃ.


Sau khi đã cư ngụ qua đêm ở tại nơi ấy, vị trưởng lão đã quấn y nội và khoác thượng y.

 

15/- Tato pattaṃ gahetvāna pāvisi nagaraṃ puraṃ,
piṇḍacāraṃ caramāno rājadvāraṃ upāgami.


Sau đó đã cầm lấy bình bát rồi đi vào kinh thành. Trong khi đi khất thực, vị trưởng lão đã đi đến cổng hoàng cung.

 

16/- Pāvisi nivesanaṃ rañño nisīditvāna āsane,
bhojanaṃ tattha bhuñjitvā pattaṃ dhovitvāna pāṇinā.


Ngài đã đi vào chỗ cư ngụ của đức vua rồi đã ngồi xuống chỗ ngồi. Tại nơi ấy, ngài đã thọ dụng vật thực rồi đã dùng bàn tay rửa sạch bình bát.

 

17/- Bhuttāvī anumoditvā nikkhami nagarā puna,
divāvihāraṃ katvāna nandanuyyānamuttame.


Sau khi thọ thực xong, vị trưởng lão đã tùy hỷ công đức rồi lại rời khỏi thành phố và đã nghỉ trưa ở tại khu vườn Nandana cao quý.

 

18/- Kathesi tattha suttantaṃ asivisūpamaṃ subhaṃ,
pariyosāne sahassānaṃ dhammābhisamayo ahū.


Tại nơi ấy, vị trưởng lão đã thuyết giảng bài kinh quý báu “Ví Dụ về Nọc Rắn.” Đến khi chấm dứt, đã có một ngàn người chứng ngộ Giáo Pháp.

 

19/- Desayitvāna saddhammaṃ bodhayitvāna pāṇinaṃ,
āsanā vuṭṭhahitvāna tissārāmaṃ upāgami.


Sau khi thuyết giảng Chánh Pháp và giác ngộ chúng sanh, vị trưởng lão đã rời chỗ ngồi đứng dậy rồi trở về tu viện Tissārāma.

 

20/- Bhiyyo rājā pasanno’si aṭṭhame paṭhavikampane,
haṭṭho udaggo sumano rājā therānamabravī.


Đức vua càng tăng thêm lòng tịnh tín khi quả đất rúng động lần thứ tám. Với tâm tư thơ thới, mừng rỡ, phấn chấn, đức vua đã nói với các vị trưởng lão rằng:

 

21/- Patiṭṭhito vihāro ca saṅghārāmaṃ mahārahaṃ,
abhiññā pādakaṃ bhante mahāpaṭhavikampane.


“Thưa các ngài, chủng viện đã được thiết lập và rất xứng đáng là tu viện của hội chúng. Khi có sự rúng động của đại địa cầu, phải chăng thắng trí đã có nền tảng?”

 

22/- Na kho rāja ettāvatā saṅghārāmo patiṭṭhito,
sīmāsammannanaṃ nāma anuññātaṃ tathāgato.
23/- Samānasaṃvāsakaṃ sīmaṃ avippavāsaṃ ticīvaraṃ,
aṭṭhahi sīmānimittehi kittayitvā samantato.


“Tâu bệ hạ, cho đến khi tu viện của hội chúng đã được thiết lập vẫn chưa (có nền tảng). Đức Như lai đã quy định việc xác định ranh giới gồm có ranh giới đồng cộng trú, ranh giới không phạm tội vì xa lìa ba y sau khi đã định danh bằng tám điểm mốc ranh giới ở chung quanh.

 

24/- Kammavācāya sāventi saṅghā sabbe samāgatā,
evaṃ baddhāni sīmāni ekāvāso’ti vuccati.


Tất cả hội chúng hội tụ lại và được nghe lời thông báo của hành sự. Các ranh giới được xác định như thế gọi là ‘Một trú xứ.’

 

25/- Vihāraṃ thāvaraṃ hoti ārāmo suppatiṭṭhito,
idaṃ vutte ca therena rājāpi etadabravī.


Và chủng viện là được bền vững, tu viện là khéo được thiết lập.” Khi được vị trưởng lão nói điều ấy, đức vua cũng đã thưa rằng:

 

26/- Mama puttā ca dārā ca sāmaccā saparijjanā,
sabbe upāsakā tuyhaṃ pāṇena saraṇaṃ gatā.


“Những người con trai, các phi tần, cùng các quan đại thần và các người tùy tùng của trẫm, tất cả đều là cận sự của ngài và đã quy y bằng cả mạng sống.

 

27/- Yācāmi taṃ mahāvīra karohi vacanaṃ mama,
antosīmamhi okāse āsavantu mahājanā.


Thưa bậc đại hùng, trẫm thỉnh cầu ngài. Xin ngài hãy thực hiện lời yêu cầu của trẫm. Xin hãy để cho đám đông dân chúng cư ngụ ở khu vực bên trong ranh giới.

 

28/- Mettākaruṇā paretāya sadārakkho bhavissati,
pariccāgañca janehi rāja tuyhaṃ yadicchakaṃ.


Do tác động của tâm từ bi, sự hộ trì sẽ luôn luôn hiện hữu.” “Tâu bệ hạ, xin hãy phát tâm cống hiến theo như ý muốn của ngài.

 

29/- Saṅgho katapariccāgo sīmaṃ sammannayissati,
mahāpadumo kuñjaro ca ubho nāgā sumaṅgalā.
30/- Sovaṇṇanaṅgale yuttā paṭhame kuttamālake,
caturaṅginī mahāsenā saha therehi khattiyo.


Với sự cống hiến được thực hiện, hội chúng sẽ xác định ranh giới.” Ở tại thánh địa Kutta, cả hai con voi của hoàng cung là Mahāpaduma và Kuñjara lần đầu tiên đã được buộc vào lưỡi cày bằng vàng. Vị Sát-đế-lỵ cùng với các vị trưởng lão và đoàn quân vĩ đại gồm bốn loại binh chủng (đã hiện diện).

 

31/- Suvaṇṇaṃ naṅgalasītaṃ dassayanto arindamo,
samalaṅkataṃ puṇṇaghaṭaṃ nānārāgaddhajaṃ subhaṃ.


Đức vua đã cho trưng bày luống đất (được lật lên) bằng lưỡi cày bằng vàng, chum hũ chứa đầy (nước) đã được trang hoàng, và cờ xí nhiều màu xinh đẹp.

 

32/- Nānāpupphadhajākiṇṇaṃ toraṇañca mahagghiyaṃ,
bahucandijalamālā suvaṇṇanaṅgale kasi.


Cổng chào đắt giá có vô số cờ hoa giăng giăng, và nhiều tràng hoa rực rỡ ánh trăng. Đức vua đã cày những lưỡi cày bằng vàng.

 

33/- Mahājanapasādāya saha therehi khattiyo,
nagaraṃ padakkhiṇaṃ katvā nadītīraṃ upāgami.


Vì niềm tin của đám đông dân chúng, vị Sát-đế-lỵ cùng với các ngài trưởng lão đã nhiễu quanh thành phố rồi đã đi đến gần bờ sông.

 

34/- Mahāsīmā pariccāgā sītā suvaṇṇanaṅgale,
yaṃ yaṃ paṭhaviyaṃ yattha agamā kuttamālakā.


Ranh giới rộng lớn do sự cống hiến là các luống đất ở lưỡi cày bằng vàng (vạch ra) ở trên mặt đất, và theo đó họ đã trở về lại thánh địa Kutta.

 

35/- Sīmaṃ sīmena ghaṭite mahājanasamāgame,
akampi paṭhavī tattha paṭhamaṃ paṭhavikampanaṃ.


Khi tập thể đám đông dân chúng đã kết nối lại hai đầu ranh giới, tại nơi ấy trái đất đã rúng động và là sự rúng động lần thứ nhất của trái đất.

 

36/- Disvā acchariyaṃ sabbe rājasenā saraṭṭhakā,
aññamaññaṃ pamodiṃsu sīmārāmo bhavissati.


Sau khi chứng kiến sự kỳ diệu, tất cả đoàn quân của đức vua và cư dân trong xứ sở đã bày tỏ nỗi vui mừng với nhau rằng: “Sẽ có tu viện ở trong ranh giới.”

 

37/- Yāvatā sīmāparicchede nimittaṃ bandhiṃsu mālake,
paṭivedesi therānaṃ devānampiya-issaro.


Khi họ đã kết nối lại điểm mốc thành đường tròn theo như sự phân định ranh giới, đức vua Devānampiya đã thông báo đến các vị trưởng lão rằng:

 

38/- Katvā kattabbakiccāni sīmāya mālakassa ca,
vihāraṃ thāvaratthāya bhikkhusaṅghassa phāsukaṃ,
mamaṃ ca anukampāya thero sīmā nibandhatu.


“Sau khi đã thực hiện các phận sự cần thiết đối với ranh giới của khu vực nhằm đem lại sự vững bền cho tu viện và sự an lạc của hội chúng tỳ khưu, vì lòng thương tưởng đến trẫm xin ngài trưởng lão hãy kết ranh giới.”

 

39/- Sutvāna rañño vacanaṃ mahindo dīpajotako,
āmantayi bhikkhusaṅghaṃ sīmaṃ bandhāma bhikkhavo,
nakkhatte uttarāsāḷhe sabbe saṅghā samāgatā.


Nghe được lời nói của đức vua, bậc quang đăng Mahinda đã nói với hội chúng tỳ khưu rằng: “Này các tỳ khưu, chúng ta hãy kết ranh giới.” Vào ngày lễ hội của thượng huyền tháng Āsāḷha, toàn thể hội chúng đã tụ hội lại.

 

40/- Samānasaṃvāsakaṃ nāma sīmaṃ bandhittha cakkhumā,
vihāraṃ thāvaraṃ katvā tissārāmaṃ varuttamaṃ.


Vị có Pháp nhãn đã kết ranh giới gọi là đồng cộng trú ở tại nơi ấy và đã củng cố vững bền chủng viện Tissārāma vô cùng cao quý.

 

41/- Tissārāme vasitvāna vītivattāya rattiyā,
nivāsanaṃ nivāsetvā pārupitvāna cīvaraṃ.


Sau khi đã cư ngụ qua đêm ở Tissārāma, vị trưởng lão đã quấn y nội và khoác thượng y.

 

42/- Tato pattaṃ gahetvāna pāvisi nagaraṃ varaṃ,
piṇḍācāraṃ caramāno rājadvāraṃ upāgami.


Sau đó đã cầm lấy bình bát rồi đi vào thành phố cao quý. Trong khi đi khất thực, vị trưởng lão đã đi đến cổng hoàng cung.

 

43/- Gantvā nivesanaṃ rañño nisīditvāna āsane,
bhojanaṃ tattha bhuñjitvā pattaṃ dhovitvāna pāṇinā.


Ngài đã đi vào chỗ cư ngụ của đức vua rồi đã ngồi xuống chỗ ngồi. Tại nơi ấy, ngài đã thọ dụng vật thực rồi đã dùng bàn tay rửa sạch bình bát.

 

44/- Bhuttāvī anumoditvā nikkhami nagarā puna,
divāvihāraṃ karitvāna uyyāne nandane vare.


Sau khi thọ thực xong và đã tùy hỷ công đức, vị trưởng lão lại rời khỏi thành phố và đã nghỉ trưa ở tại khu vườn Nandana cao quý.

 

45/- Kathesi tattha suttantaṃ āsivisūpamaṃ tadā,
anamataggiyasuttaṃ ca cariyāpiṭakamanuttaraṃ.


Tại nơi ấy, vị trưởng lão đã thuyết giảng bài kinh “Ví Dụ về Nọc Rắn,” bài kinh “Luân Hồi Vô Số Kiếp”“Sưu Tập Hạnh Lành” tối thắng.

 

46/- Gomayapiṇḍa ovādaṃ dhammacakkappavattanaṃ,
mahānandanamhi tattheva pakāsesi punappunaṃ.


Ngài đã giảng giải lập đi lập lại lời giáo huấn “Viên Phẩn Bò” và bài kinh “Chuyển Pháp Luân” ở ngay tại nơi ấy, trong khu vườn Mahānandana.

 

47/- Iminā ca suttantena sattāhāni pakāsayi,
aṭṭha ca saṅghasahassāni pañca saṅghasatāni ca.
48/- Mocesi bandhanā thero mahindo dīpajotako,
ūnamāsaṃ vasitvāna tissārāme sahaggaṇo.


Và với bài kinh này, bậc quang đăng trưởng lão Mahinda đã giảng giải trong bảy ngày và đã giải thoát cho hội chúng gồm tám ngàn năm trăm người khỏi sự trói buộc, rồi đã cùng với hội chúng cư ngụ tại tu viện Tissārāma gần một tháng.

 

49/- Āsāḷhayā puṇṇamāse upakaṭṭhe ca vassake,
āmantayi sabbe there vassakālo bhavissati.


Vào ngày trăng tròn của tháng Āsāḷha lúc mùa mưa đã đến gần, ngài Mahinda đã nói với tất cả các vị trưởng lão rằng: “Mùa mưa sắp sửa đến.”

 

Mahāvihārapariggahaṇaṃ niṭṭhitaṃ.


Dứt sự thọ lãnh tu viện Mahāvihāra.

 

50/- Senāsanaṃ saṃsāmetvā mahindo dīpajotako,
pattacīvaramādāya tissārāmamhā nikkhami.


Bậc quang đăng Mahinda đã thu xếp chỗ trú ngụ rồi đã cầm y và bình bát rời khỏi tu viện Tissārāma.

 

51/- Nivāsanaṃ nivāsetvā pārupitvāna cīvaraṃ,
tato pattaṃ gahetvāna pāvisi nagaraṃ puna.


Ngài đã quấn y nội và khoác thượng y, sau đó đã cầm lấy bình bát rồi lại đi vào kinh thành.

 

52/- Piṇḍacāraṃ caramāno rājadvāraṃ upāgami,
pāvisi nivesanaṃ rañño nisīdiṃsu yathāsane.


Trong khi đi khất thực, ngài đã đi đến cổng hoàng cung rồi đã đi vào chỗ cư ngụ của đức vua. Các vị đã ngồi xuống chỗ ngồi thích hợp.

 

53/- Bhojanaṃ tattha bhuñjitvā pattaṃ dhovitvā pāṇinā,
mahāsamayasuttantaṃ ovādatthāya desayi.


Tại nơi ấy, sau khi thọ dụng vật thực và đã dùng bàn tay rửa sạch bình bát, ngài đã thuyết giảng bài kinh “Đại Hội” nhằm mục đích giáo giới.

 

54/- Ovaditvāna rājānaṃ mahindo dīpajotako,
āsanā vuṭṭhahitvāna anāpucchā apakkami.


Sau khi giáo giới cho đức vua, bậc quang đăng Mahinda đã rời chỗ ngồi đứng dậy ra đi không thông báo.

 

55/- Nagaramhā pācīnadvārā nikkhamitvā mahāgaṇī,
nivattetvā jane sabbe agamā yena pabbataṃ.


Sau khi rời khỏi thành bằng cổng thành phía đông, vị có đồ chúng đông đảo đã bảo tất cả mọi người quay trở về rồi đã đi đến ngọn núi.

 

56/- Rājānaṃ paṭivedesuṃ amaccā ubbiggamānasā,
sabbe deva mahātherā gatā missakapabbataṃ.


Các vị quan đại thần, với tâm tư hoảng hốt, đã thông báo với đức vua rằng: “Tâu bệ hạ, tất cả các vị đại trưởng lão đã đi đến núi Missaka.”

 

57/- Sutvāna rājā ubbiggo sīghaṃ yojetvā sandanaṃ,
abhiruhitvā rathaṃ khippaṃ saha devīhi khattiyo.


Nghe vậy, đức vua trở nên lo ngại liền cấp tốc bảo thắng xe chiến mã. Vị Sát-đế-lỵ cùng với các hoàng hậu đã lập tức bước lên xe ngựa.

 

58/- Gantvāna pabbatapādaṃ mahindathero mahāgaṇo,
nagaracatukkaṃ nāma rahadaṃ selanimmitaṃ.


Sau khi đi đến chân ngọn núi, ngài trưởng lão có đồ chúng đông đảo Mahinda đã đi đến hồ nước đã được tạo lập giữa các tảng đá có tên là Nagaracatukka.

 

59/- Tattha nahātvā pivitāna ṭhito pāsāṇamuddhani,
sīghaṃ vegena sedāni nippahetvāna khattiyo.


Sau khi tắm ở tại nơi ấy, ngài đã uống nước rồi đứng ở trên tảng đá. Vị Sát-đế-lỵ đã mau chóng đổ ra nhiều mồ hôi vì thái độ vội vã.

 

60/- Dūrato addasattheraṃ pabbatamuddhani ṭhitaṃ,
deviyo ca rathe ṭhatvā rathā oruyha khattiyo,
upasaṅkamitvā therānaṃ vanditvā idamabravī.


Vị Sát-đế-lỵ đã nhìn thấy vị trưởng lão đang đứng ở trên ngọn núi từ đàng xa nên đã để các hoàng hậu ở trong xe rồi đã bước xuống khỏi xe. Đức vua đã đến gần, đảnh lễ các vị trưởng lão, rồi đã nói điều này:

 

61/- Rammaṃ raṭṭhaṃ jahetvāna mamaṃ c’ohāya pāṇayo, kimatthāya mahāvīra imaṃ āgami pabbataṃ.


“Thưa bậc đại hùng, nguyên nhân gì khiến ngài đã từ giã xứ sở xinh đẹp, đã bỏ rơi trẫm và dân chúng rồi đi đến ngọn núi này?”

 

62/- Idha vassaṃ vasissāma tīṇi māsaṃ anūnakaṃ,
purimaṃ pacchimakaṃ nāma anuññātaṃ mahesinā.


“Chúng tôi sẽ an cư mùa mưa tại nơi này tròn đủ ba tháng vào thời kỳ đầu hoặc thời kỳ sau là điều bậc Đại Ẩn Sĩ đã cho phép.”

 

63/- Karomi sabbakiccāni bhikkhusaṅghassa phāsukaṃ,
anukampaṃ upādāya mam’atthamanusāsatu.


“Trẫm sẽ thực hiện mọi việc cần thiết cho sự an lạc của hội chúng tỳ khưu. Xin ngài hãy tỏ lòng bi mẫn và chỉ dạy điều lợi ích đến trẫm.”

 

64/- Gāmantaṃ vā araññaṃ vā bhikkhu vassūpanāyiko,
senāsane saṃvutadvāre vāsaṃ buddhena anumataṃ.


“Vị tỳ khưu vào mùa an cư mưa đức Phật cho phép việc cư trú ở thôn làng hoặc ở rừng, trong chỗ ngụ có cửa đóng lại.”

 

65/- Anuññātaṃ etaṃ vacanaṃ atthaṃ sabbaṃ sahetukaṃ,
Ajj’evāhaṃ karissāmi āvāsaṃ vasa phāsukaṃ.


“Lời nói ấy (của ngài) đã được hiểu rõ hoàn toàn theo ý nghĩa luôn cả nguyên nhân. Ngay hôm nay, trẫm sẽ thực hiện trú xá. Xin ngài hãy cư ngụ thoải mái.”

 

66/- Gahaṭṭhasiddhiṃ sodhetvā oloketvā mahāyaso,
therānaṃ paṭipādesi vasantu anukampakā.


Sau khi hoàn thiện việc thành tựu vai trò cư sĩ, vị có danh tiếng lẫy lừng đã tìm kiếm và dâng lên các vị trưởng lão (nói rằng): “Vì lòng bi mẫn, xin các ngài hãy cư ngụ.

 

67/- Sādhu bhante imaṃ lenaṃ ārāmaṃ paṭipajjatu,
vihāraṃ thāvaratthāya sīmaṃ bandha mahāmuni.


Thưa ngài, thật tốt đẹp thay xin ngài hãy nhận lấy chỗ trú ngụ này làm tu viện. Vì sự bền vững của chủng viện, xin bậc đại ẩn sĩ hãy kết ranh giới.”

 

68/- Rañño bhaginiyā putto mahāriṭṭho’ti vissuto,
pañcapaññāsa khatte ca kulejātā mahāyasā,
upasaṅkamitvā rājānaṃ abhivādetvā idamabravuṃ.


Người con trai của người em gái của đức vua được biết tiếng là Mahāriṭṭha và năm mươi lăm vị Sát-đế-lỵ xuất thân gia đình cao quý có danh vọng lẫy lừng đã đến gặp đức vua, đảnh lễ, và nói lời này:6

 

69/- Sabbeva pabbajissāma varapaññassa santike,
brahmacariyañ carissāma taṃ devo anumaññnatu.


“Toàn thể tất cả chúng tôi sẽ xuất gia trong sự chứng minh của bậc trí tuệ cao quý. Chúng tôi sẽ thực hành Phạm hạnh. Xin bệ hạ hãy chấp thuận điều ấy.”

 

70/- Sabbesaṃ vacanaṃ sutvā rājāpi tuṭṭhamānaso,
therānaṃ upasaṅkamma ārocesi mahīpati.


Nghe được lời nói của tất cả bọn họ, ngay cả đức vua cũng khởi tâm hoan hỷ. Vị đế vương đã đến gặp các vị trưởng lão và đã nói rằng:

 

71/- Mahā Ariṭṭhapamukkhā pañcapaññāsa nāyakā,
pabbājehi anuññātaṃ mahāvīra tav’antike.


“Thưa bậc đại hùng, (đây là) năm mươi lăm vị lãnh tụ có Mahā Ariṭṭha là vị đứng đầu. Đã được trẫm chấp thuận, xin ngài hãy cho xuất gia trong sự chứng minh của ngài.”

 

72/- Sutvāna rañño vacanaṃ Mahindo dīpajokato,
āmantayi bhikkhusaṅghaṃ sīmaṃ bandhāma bhikkhavo.


Nghe theo lời nói của đức vua, bậc quang đăng Mahinda đã thỉnh hội chúng tỳ khưu rằng: “Này các tỳ khưu, chúng ta hãy kết ranh giới.”

 

73/- Samānasaṃvāsakā c’eva avippavāsa ticīvaraṃ,
vihāraṃ thāvaratthāya sīmaṃ bandhāsimāpana.


Hơn nữa, nhằm mục đích làm vững bền tu viện, các vị đã kết ranh giới đồng cộng trú luôn cả (ranh giới) không phạm tội vì xa lìa ba y.

 

74/- Sīmaṃ ca sīmantarikaṃ ca ṭhapetvā tumbamālake,
mahāsīmāni kittesi mahindo dīpajotako.


Sau khi đã quy định ranh giới và vùng bao quanh ranh giới ở thánh địa Tumba, bậc quang đăng Mahinda đã định danh các ranh giới lớn.

 

75/- Bandhitvā mālakaṃ sabbaṃ sīmaṃ bandhitvāna cakkhumā,
vihāraṃ thāvaraṃ katvā dutiyaṃ tissapabbate.


Sau khi đã củng cố lại toàn bộ thánh địa, vị có Pháp nhãn đã kết ranh giới và đã làm bền vững ngôi chủng viện thứ hai ở tại ngọn núi Tissa.

 

76/- Puṇṇāya puṇṇamāsiyā āsāḷhamāse uposathe,
nakkhatte uttarāsāḷhe sīmaṃ bandhitvāna pabbate.


Vào ngày trăng tròn của tháng Āsāḷha là ngày Uposatha, nhằm ngày lễ hội của thượng huyền tháng Āsāḷha, ngài Mahinda đã kết ranh giới ở ngọn núi.

 

77/- Pabbājesi Mahāriṭṭhaṃ paṭhamaṃ dutiyamālake,
upasampādesi tatth’eva tambapaṇṇikulissaro.


Ngài đã cho Mahāriṭṭha là người thứ nhất được xuất gia tại thánh địa thứ nhì và cũng đã cho vị công tử của gia đình cao quý ở Tambapaṇṇi được tu lên bậc trên ở ngay tại nơi ấy.

 

78/- Pañcapaññāsa tatth’eva pabbajjā upasampadā,
battiṃsa mālakā honti paṭhamārāme patiṭṭhitā.


Lễ xuất gia và tu lên bậc trên của năm mươi lăm vị là ở ngay tại nơi ấy. Trong tu viện thứ nhất có ba mươi hai thánh địa đã được thành lập.

 

79/- Dutiyārāme battiṃsa vihāre tissapabbate,
avasesakhuddakārāme paccek’ekekamālake.


Trong tu viện thứ nhì là tu viện ở ngọn núi Tissa có ba mươi hai thánh địa. Ở các tu viện nhỏ còn lại, mỗi một nơi là một thánh địa.

 

80/- Patiṭṭhapetvā ārāmaṃ vihāraṃ pabbatuttame,
dvāsaṭṭhi arahantā sabbe paṭhamaṃ vass’upāgatā.


Sau khi đã thiết lập tu viện và chủng viện ở tại ngọn núi tuyệt vời, tất cả sáu mươi hai vị A-la-hán đã vào mùa an cư mưa thứ nhất (trên đảo).

 

Cuddasamo paricchedo.


Chương thứ mười bốn.

 

Bhāṇavāraṃ cuddasamaṃ.


Dứt tụng phẩm thứ mười bốn.

Ðầu trang | Mục lục | 01 | 02| 03| 04| 05| 06| 07| 08| 09| 10| 11| 12| 13| 14| 15| 16| 17| 18| 19| 20| 21| 22|
Cập nhập ngày: 28-11-2006

Kỹ thuật trình bày: Minh Hạnh & Chánh Hạnh