DUTIYO PARICCHEDO


CHƯƠNG THỨ NH̀

 

1/- Arahaṃ pana sambuddho Kosalānaṃ puruttamaṃ,
upanissāya vihāsi Sudattārāme sirīghano.


Bấy giờ, đức Chánh Đẳng Giác, bậc A-la-hán, đấng Quang Vinh toàn hảo cư ngụ tại tu viện của Sudatta9 ở gần kinh thành của xứ Kosala.

 

2/- Tasmiṃ Jetavane Buddho dhammarājā pabhaṅkaro,
sabbalokaṃ avekkhanto tambapaṇṇivar’addasa.


Ở tại Jetavana ấy, đức Phật, bậc Pháp Vương, đấng Quang Minh, trong lúc quán sát toàn thể thế giới đă nh́n thấy xứ Tambapaṇṇi10 cao quư.

 

3/- Atikkante pañcavassamhi Tambapaṇṇitalaṃ agā,
avaruddhake vinodetvā suññaṃ dīpaṃ akā sayaṃ.


Khi thời gian năm năm đă trôi qua, Ngài đă ngự đến xứ sở Tambapaṇṇi, đă tự ḿnh dẹp bỏ các điều chướng ngại và đă làm cho ḥn đảo trở nên trống vắng.

 

4/- Uragā ajja dīpamhi pabbateyyā samuṭṭhitā,
ubho viyūḷhasaṅgāmaṃ yuddhaṃ karonti dāruṇaṃ.


Giờ đây, các loài rồng và các loài sống ở núi non trên đảo đă nổi dậy. Cả hai đang tiến hành cuộc chiến tập trung là trận giao tranh khủng khiếp.

 

5/- Sabbe mahiddhikā nāgā sabbe ghoravisā ahū,
sabbeva kibbisā caṇḍā madamānā avassutā.


Tất cả các loài rồng đều có đại thần lực, tất cả đều có nọc độc dữ tợn. Tất cả đều là tồi tệ, ác độc, cuồng điên, và tham lam.

 

6/- Khippakāpi mahātejā paduṭṭhā kakkhalā kharā,
ujjhānasaññī sukopā uragā viralatthikā.


Những con rồng th́ nhanh nhẹ, có oai lực lớn, gian trá, tàn bạo, thô lỗ, có tâm tư xoi mói, nóng nảy, có ḷng tham nhỏ mọn.

 

7/- Mahodaro mahātejo Cūḷodaro ca tejaso,
ubhopi balasampannā ubhopi vaṇṇātisayā.


Loài Mahodara có oai lực lớn và loài Cūḷodara có quyền năng.11 Cả hai đều thành tựu sức mạnh và cả hai đều có sắc đẹp nổi bật.

 

8/- Na passati koci samaṃ samuttari
mahodaro mānamattena tejasā,
dīpaṃ vināsesi saselakānanaṃ
ghātemi sabbe paṭipakkhapannage.


Không nh́n thấy được bên nào bằng hoặc trội hơn. Loài Mahodara do quyền lực bị khích động bởi ḷng ngă mạn đă hủy hoại ḥn đảo luôn cả núi non rừng thẳm (tuyên bố rằng): “Ta sẽ tàn sát toàn bộ lũ rồng.”

 

9/- Cūḷodaro gacchati mānanissito
āgacchantu nāgasahassakoṭiyo,
hanāmi sabbe raṇamajjhamāgate
thalaṃ karomi satayojanaṃ dīpaṃ.


Loài Cūḷodaro ỷ vào ḷng ngă mạn đi đến (nói rằng): “Mười tỷ con rồng hăy xông đến. Ta sẽ giết toàn bộ bè lũ tham gia vào cuộc chiến. Ta sẽ san bằng ḥn đảo rộng 100 do-tuần (này).”

 

10/- Padūsayanti visavegadussahā
sampajjalanti uragā mahiddhikā,
parosadhammā bhujagindamicchitā
samussahanti raṇasattu maddituṃ.


Những con rồng dữ tợn với nọc độc cực nhạy phóng độc, những con rồng có đại thần lực phun lửa, những con rồng mong mỏi làm chúa rồng nổi cơn giận dữ ra sức nghiền nát kẻ thù trong trận chiến đấu.

 

11/- Disvāna Buddho uragindakuppanaṃ
dīpaṃ vinassanti nivattahetukaṃ,
lokatthacārī sugato bahuṃ hitaṃ
vicintayi aggasukhaṃ sadevake.


Sau khi nh́n thấy sự giận dữ của chúa rồng và việc bọn chúng sẽ hủy diệt ḥn đảo là nhân tố tiêu hoại, đức Phật Thiện Thệ là vị mang lại phúc lợi cho thế gian đă suy nghĩ đến nhiều điều lợi ích và an lạc tối thắng cho cả chư thiên (rằng):

 

12/- Sace na gaccheyyaṃ na pannagā sukhī
dīpaṃ vināsaṃ na ca sādhu’nāgate,
nāge anukampamāno sukhatthiko
gacchām’ahaṃ dīpavuddhiṃ samekkhituṃ.


“Nếu ta không ngự đến, các con rồng không được an lạc và ḥn đảo bị hủy diệt là điều không tốt đẹp trong tương lai. Là người tầm cầu an lạc và có ḷng thương tưởng đến các con rồng, ta sẽ đi đến để mưu cầu cho sự phát triển của ḥn đảo.

 

13/- Laṅkādīpe guṇaṃ disvā pubbe yakkhavinoditaṃ,
mama sādhukataṃ dīpaṃ mā vināsentu pannagā.


Trước đây, ta đă nhận thấy đặc điểm của ḥn đảo Laṅkā và ta đă di chuyển loài dạ-xoa. Ta đă làm điều tốt đẹp, vậy chớ để các con rồng tàn phá ḥn đảo.”

 

14/- Idaṃ vatvāna sambuddho uṭṭhahitvāna āsanā,
gandhakuṭito nikkhamma dvāre aṭṭhāsi cakkhumā.


Nói xong điều ấy, đấng Chánh Đẳng Giác, bậc Hữu Nhăn, đă từ chỗ ngồi đứng dậy rời khỏi hương thất, và đứng ở ngưỡng cửa.

 

15/- Yāvatā Jetavane ca ārāme vanadevatā,
sabbeva upaṭṭhahiṃsu mayaṃ gacchāma cakkhumā.


Chí đến tất cả chư thiên ngự trên cội cây ở Jetavana và ở tu viện đă hỗ trợ (nói rằng): “Ôi bậc Hữu Nhăn, chúng ta hăy đi đến.”

 

16/- Alaṃ sabbepi tiṭṭhantu samiddhi yekova gacchatu,
āgaccha saha rukkho ca dhārayitvāna piṭṭhito.


(Đức Phật nói rằng): “Thôi đi, tất cả hăy ở lại. Chỉ đi một ḿnh Samiddhi. Hăy mang theo thân cây và đi đến ở phía sau.”

 

17/- Buddhassa vacanaṃ sutvā samiddhi sumano ahū,
samūlaṃ rukkhamādāya saha gacchi tathāgataṃ.


Nghe được lời nói của đức Phật, Samiddhi đă trở nên hoan hỷ rồi đă nhổ lấy thân cây cùng với bộ rễ rồi đi đến với đấng Như Lai.

 

18/- Naruttamaṃ taṃ sambuddhaṃ devarājā mahiddhiko,
chāyaṃ katvāna dhāresi buddhaseṭṭhassa piṭṭhito.


Từ phía sau lưng đức Phật tối thượng, vị Thiên Vương có đại thần lực đă tạo bóng râm rồi che mát cho đấng Tối Thượng Nhân Chánh Đẳng Giác ấy.

 

19/- Yattha nāgānaṃ saṅgāmaṃ tattha gantvā naruttamo,
ubhonāgavaramajjhe ṭhito satthānukampako.


Bậc Đạo Sư, đấng Tối Thượng Nhân, vị đầy ḷng từ ái đă đi đến trận chiến của các con rồng và đă đứng ở giữa hai lũ rồng cao quư.

 

20/- Nabhe gantvāna sambuddho ubho nāgānamantare,
andhakāratamaṃ ghoraṃ akāsi lokanāyako.


Đức Chánh Đẳng Giác, đấng Lănh Đạo thế giới đă đi đến ở trên không trung ở giữa cả hai lũ rồng rồi đă tạo nên đêm tối mịt mù ghê sợ.

 

21/- Andhaṃ tamaṃ tadā hoti lokanāthassa iddhiyā,
andhakārena onaddho vihitāya rukkho ahu.


Do thần lực của vị Chúa Tể thế giới, khi ấy đêm đen càng thêm mù mịt. Thân cây với sự tính toán trước đă được che khuất bởi bóng tối.

 

22/- Aññamaññaṃ na passanti tasitā nāgā bhayaṭṭhitā,
jinampi te na passanti kuto saṅgāma kārituṃ.


Các con rồng không c̣n nh́n thấy lẫn nhau trở nên run rẩy đứng yên sợ hăi. Chúng cũng không nh́n thấy được đấng Chiến Thắng, làm sao (chúng có thể) tiến hành cuộc chiến đấu?

 

23/- Sabbe saṅgāmaṃ bhinditvā pamuñcitvāna āvudhaṃ,
namassamānā sambuddhaṃ sabbe ṭhitā katañjalī.


Tất cả đă bỏ dở cuộc chiến, buông rơi vũ khí. Trong lúc tỏ ḷng tôn kính đấng Chánh Đẳng Giác, tất cả đă đứng yên chắp tay lại.

 

24/- Salomahaṭṭhe ñatvāna disvā nāge bhayaṭṭhite,
mettacittena pharitvā uṇharaṃsiṃ pamuñcayi.


Sau khi biết được các con rồng đều bị rởn lông tóc và nh́n thấy chúng lâm vào sự sợ hăi, đức Phật đă phát khởi tâm từ và tỏa ra hào quang ấm áp.

 

25/- Āloko’va mahā āsi abbhuto lomahaṃsano,
sabbe passanti sambuddhaṃ nabhe candaṃ va nimmalaṃ.


Quả là cảnh tượng hùng vĩ, kỳ diệu, rởn tóc. Tất cả đều nh́n thấy đấng Chánh Đẳng Giác ở trên không trung trông tợ như mặt trăng không chút bợn nhơ.

 

26/- Chahi vaṇṇehi upeto jalanto nabhamantare,
dasadisā virocanto ṭhito nāge abhāsatha.


Thể nhập và chói sáng với hào quang sáu màu đang tỏa rạng khắp mười phương, Ngài đă đứng ở giữa không trung nói với các con rồng rằng:

 

27/- Kimatthiyaṃ mahārāja nāgānaṃ vivādo ahū,
tumheva anukampāya javāgacchiṃ tato ahaṃ.


“Này Đại Vương, sự tranh chấp giữa các loài rồng xảy ra do nguyên nhân ǵ? Bởi điều ấy, ta đă cấp thời đi đến v́ ḷng thương tưởng đến chính các vị.”

 

28/- Ayaṃ cūḷodaro nāgo ayaṃ nāgo mahodaro,
mātulo bhāgineyyo ca vivadanto dhanatthiko.


(Con rồng đáp rằng): “Loài rồng Cūḷodaro này và loài rồng Mahodaro này là cậu và cháu đang tranh chấp v́ mong muốn tài sản.”

 

29/- Anuddayaṃ caṇḍanāgānaṃ sambuddho ajja bhāsatha,
appo hutvā mahā hoti kodho bālassa āgamo.


Hôm ấy, đấng Chánh Đẳng Giác đă nói một cách khoan dung với các con rồng độc ác rằng: “Sự giận dữ của kẻ ngu si tuy nhỏ nhoi nhưng rồi sẽ biến thành lớn lao.

 

30/- Kimuddissa bahū nāgā mahādukkhaṃ nigacchatha,
imaṃ parittaṃ pallaṅkaṃ mā tumhe nāsayissatha.


Liên quan đến việc ǵ khiến nhiều con rồng đă lâm vào cảnh khổ sở cùng cực? Ngôi bảo tọa này thật là tầm thường, các ngươi chớ có giết hại nhau.

 

31/- Aññamaññamavināsetha akataṃ jīvitakkhayaṃ,
saṃvejesi tadā nāge nirayadukkhena cakkhumā.


Các ngươi không nên tàn sát lẫn nhau. Việc giết hại mạng sống là điều không nên thực hành.” Khi ấy, bậc Hữu Nhăn đă làm các con rồng động tâm bằng nỗi khổ đau của địa ngục.

 

32/- Manussayoniṃ dibbañca nibbānañca pakittayi,
pakāsayantaṃ saddhammaṃ sambuddho dīpaduttamo.


Đấng Chánh Đẳng Giác, bậc tối thượng của loài hai chân trong lúc giảng giải Chánh Pháp đă tuyên bố về khởi thủy của loài người, về cơi trời, và về Niết Bàn.

 

33/- Sabbe nāgā nipatitvā khamāpesuṃ tathāgataṃ,
sabbe nāgā samāgantvā samaggā hutvāna pannagā.


Tất cả các con rồng đă quỳ xuống và tỏ ḷng hối hận đến đức Như Lai. Tất cả các con rồng đă quây quần lại, và chúng đă trở nên ḥa hợp.

 

34/- Upesuṃ saraṇaṃ sabbe asīti pāṇakoṭiyo,
sabbe nāgā vinassāma imaṃ pallaṅkahetukaṃ.


Tất cả tám mươi koṭi chúng sanh đă quy y. (Nghĩ rằng): “Tất cả loài rồng chúng ta bị tiêu hoại v́ nguyên nhân ngôi bảo tọa.”

 

35/- Ādāya pallaṅkavaraṃ ubho nāgā samatthikā,
paṭigaṇhatha pallaṅkaṃ anukampāya cakkhuma.


Có cùng ư định, hai con rồng (chúa) đă mang ngôi bảo tọa quư báu đến (nói rằng): “Bạch đấng Hữu Nhăn, xin ngài hăy từ bi nhận lấy ngôi bảo tọa.”

 

36/- Adhivāsesi sambuddho tuṇhībhāvena cakkhumā,
adhivāsanaṃ viditvāna tuṭṭhā mahoragā ubho.


Đức Chánh Đẳng Giác, bậc Hữu Nhăn, đă nhận lời với trạng thái im lặng. Nhận biết sự đồng ư, hai con rồng chúa đă mừng rỡ (nói rằng):

 

37/- Nisīdatu ‘maṃ sugato pallaṅke veḷuriyamaye,
pabhassare jātivante nāgānaṃ abhipatthite.


“Xin đấng Thiện Thệ hăy ngồi xuống đây, trên ngôi bảo tọa làm bằng ngọc quư tinh khiết rạng rỡ là vật được các con rồng mong mỏi.”

 

38/- Patiṭṭhapiṃsu pallaṅkaṃ nāgā dīpānamantare,
nisīdi tattha pallaṅke dhammarājā pabhaṅkaro.


Các con rồng đă đặt ngôi bảo tọa ở giữa các ḥn đảo. Bậc Pháp Vương, đấng Quang Minh, đă ngồi xuống tại chỗ ấy, trên ngôi bảo tọa.

 

39/- Pasādetvāna sambuddhaṃ asīti nāgakoṭiyo,
tattha nāgā parivisuṃ annapānañ ca bhojanaṃ.


Tám mươi koṭi con rồng đă đặt niềm tin vào đấng Chánh Đẳng Giác. Tại nơi ấy, các con rồng đă dâng đến Ngài cơm nước và vật thực.

 

40/- Onītapattapāṇiṃ taṃ asīti nāgakoṭiyo,
parivāretvā nisīdiṃsu buddhaseṭṭhasa santike.


Khi đức Phật đă rời bàn tay khỏi b́nh bát, tám mươi koṭi con rồng đă tụ lại xung quanh rồi đă ngồi xuống gần bên đức Phật tối thượng.

 

41/- Kalyāṇike gaṅgāmukhe nāgo ahu saputtako,
mahānāgaparivāro nāmenāsi Maṇi’kkhiko.


Ở tại cửa sông Kalyāṇī có con rồng sinh sống cùng bầy con. Con rồng ấy có tên là Maṇi-akkhika và có đoàn rồng tùy tùng đông đảo.

 

42/- Saddho saraṇasampanno sammādiṭṭhi ca sīlavā,
nāgasamāgamaṃ gantvā bhiyyo abhipasādiya.


Nó có đức tin, đă thành tựu sự quy y, có chánh kiến, và có giới hạnh. Sau khi đi đến chỗ tụ hội của các con rồng, nó càng có niềm tin tăng trưởng bội phần.

 

43/- Disvā buddhabalaṃ nāgo anukampaṃ phaṇimayaṃ,
abhivādetvā nisīdi āyācesi tathāgataṃ.


Sau khi nh́n thấy oai lực từ bi đối với loài rồng của đức Phật, con rồng đă đảnh lễ, rồi ngồi xuống cầu xin đức Như Lai rằng:

 

44/- Imaṃ dīpānukampāya paṭhamaṃ yakkhavinoditaṃ,
idaṃ nāgānamanuggahaṃ dutiyaṃ dīpānukampanaṃ.


“Việc đă di chuyển các hàng dạ-xoa v́ ḷng thương tưởng đến ḥn đảo là việc làm thứ nhất. C̣n việc hỗ trợ các con rồng là ḷng thương tưởng đến ḥn đảo lần thứ nh́.

 

45/- Punapi bhagavā amhaṃ anukampaṃ mahāmuni,
ahañc’upaṭṭhahissāmi veyyāvaccaṃ karom’ahaṃ.


Hơn nữa, bạch đức Thế Tôn, thưa bậc đại Hiền Triết, tôi sẽ thể hiện tấm ḷng tốt đẹp của chúng tôi, tôi sẽ làm công việc hầu hạ (đến Ngài).”

 

46/- Nāgassa bhāsitaṃ sutvā buddho sattānukampako,
Laṅkādīpahitatthāya adhivāsesi sugato.


Đức Phật, bậc Thiện Thệ, đấng Từ Bi của chúng sanh đă lắng nghe lời nói của con rồng và đă nhận lời v́ mong muốn điều ích lợi cho ḥn đảo Laṅkā.

 

47/- Paribhuñjitvā pallaṅkaṃ vuṭṭhahitvā pabhaṅkaro,
divāvihāraṃ akāsi tattha dīpantare muni.


Sau khi sử dụng ngôi bảo tọa, đấng Quang Minh đă đứng dậy. Tại nơi ấy, ở bên trong ḥn đảo, đức Mâu Ni đă nghỉ ngơi lúc ban trưa.

 

48/- Dīpantare dīpān’aggo divasaṃ vītināmayi,
samāpatti samāpajji brahmavihārena cakkhumā.


Đấng Quang Đăng tối thượng đă trải qua ban ngày ở bên trong ḥn đảo. Bậc Hữu Nhăn đă thể nhập thiền chứng với đề mục tứ vô lượng tâm.

 

49/- Sāyaṇhakālasamaye nāge āmantayī jino,
idh’eva hotu pallaṅko khīrapālo idhāgacchatu,
nagā sabbe imaṃ rukkhaṃ pallaṅkañca namassatha.


Vào lúc chiều tối, đấng Chiến Thắng đă nói với các con rồng rằng: “Ngôi bảo tọa hăy để ở ngay tại nơi này. Cây Khīrapāla hăy dời đến nơi đây. Và tất cả các loài rồng hăy tôn kính cội cây và ngôi bảo tọa này.”

 

50/- Idaṃ vatvāna sambuddho anusāsetvāna pannage,
paribhogacetiyaṃ datvā puna Jetavanaṃ gato.


Nói xong điều ấy, đấng Chánh Đẳng Giác đă giáo huấn các con rồng và đă ban cho ngôi bảo điện thờ các món vật dụng rồi đă quay trở về lại Jetavana.

 

Nāgadamanaṃ niṭṭhitaṃ.


Dứt chuyện khuất phục loài rồng.

 

51/- Aparampi aṭṭhame vasse nāgarājā maṇi’kkhiko,
nimantayi mahāvīraṃ pañcabhikkhusate saha.


Một lần khác nữa, vào năm thứ tám Long Vương Maṇi-akkhika đă thỉnh mời đấng Đại Hùng cùng với năm trăm vị tỳ khưu.

 

52/- Parivāretvāna sambuddhaṃ vasībhūtā mahiddhikā,
uppatitvā Jetavane kamamāno nabhe muni.


Các vị có đại thần lực và các giác quan được thu thúc đă tháp tùng đấng Chánh Đẳng Giác. Tại Jetavana, đức Mâu Ni đă bay lên và bước đi ở trên không trung.

 

53/- Laṅkādīpaṃ anuppatto gaṅgaṃ Kalyāṇisammukhaṃ.
Sabbe ratanamaṇḍapaṃ uragā katvā mahātale
nānāraṅgehi vatthehi dibbadussehi chādayuṃ.


Ngài đă ngự đến ḥn đảo Laṅkā tại cửa sông Kalyāṇī. Tất cả các con rồng đă thực hiện mái che bằng châu ngọc ở trên mặt đất rộng lớn và đă phủ lên bằng những tấm màn có nhiều màu sắc là loại vải của thiên đ́nh.

 

54/- Nānāratanalaṅkārā nānāpupphavicittakā,
nānāraṅgadhajā nekā maṇḍapaṃ nānālaṅkataṃ.


Có nhiều loại trang sức bằng ngọc quư, có đủ các loại bông hoa khác nhau, có vô số ngọn cờ với nhiều màu sắc, và có mái che được trang hoàng đa dạng.

 

55/- Sabbasanthataṃ santharitvā paññāpetvāna āsanaṃ,
buddhapamukhasaṅghañca pavesetvā nisīdayuṃ.


(Các con rồng) đă trải ra tất cả các tấm thảm và đă sắp xếp chỗ ngồi rồi đă đưa hội chúng có đức Phật dẫn đầu đi vào để an tọa.

 

56/- Nisīditvāna sambuddho pañcabhikkhusate saha,
samāpatti samāpajji mettaṃ sabbadisaṃ phari.


Đấng Chánh Đẳng Giác cùng với năm trăm vị tỳ khưu đă ngồi xuống sau đó đă thể nhập thiền chứng và phát khởi tâm từ đến khắp các phương.

 

57/- Sattakkhattuṃ samāpajji buddho jhānaṃ sasāvako,
tasmiṃ ṭhāne mahāthūpo patiṭṭhatīti addasa.


Đức Phật với các vị đệ tử đă nhập thiền bảy lượt và đă nh́n thấy rằng “Có ngôi đại bảo tháp sẽ được thiết lập tại địa điểm ấy.”

 

58/- Mahādānaṃ pavattesi nāgarājā Maṇi’kkhiko,
paṭigahetvā sambuddho nāgadānaṃ sasāvako.


Vị Long Vương Maṇi-akkhika đă tiến hành cuộc đại thí. Đấng Chánh Đẳng Giác và các đệ tử đă thọ lănh sự cúng dường của các con rồng.

 

59/- Bhutvāna anumoditvā nabh’uggacchi sasāvako,
orohitvā nabhā buddho ṭhāne dīghavāpicetiye.


Thọ thực xong, đức Phật đă nói lời tùy hỷ rồi cùng các đệ tử bay lên không trung, sau đó đă từ không trung đáp xuống tại địa điểm của ngôi bảo điện Dīghavāpī.

 

60/- Samāpajji samāpattiṃ jhānaṃ lokānukampako,
vuṭṭhahitvā samāpatti tamhi ṭhāne pabhaṅkaro.


Ở tại địa điểm ấy, đấng Bi Mẫn của thế gian, bậc Quang Minh đă thể nhập thiền chứng rồi đă xuất khỏi thiền chứng (ấy).

 

61/- Vehāsayaṃ kamamāno dhammarājā sasāvako,
mahāmeghavane tattha bodhiṭṭhānaṃ upāgami.


Trong khi bước đi ở trên không trung, đấng Pháp Vương cùng các vị đệ tử đă ngự đến địa điểm của cội Bồ Đề ở nơi ấy, tại khu vườn Mahāmegha.

 

62/- Purimā tīṇi mahābodhi patiṭṭhiṃsu mahītale,
taṃ thānaṃ upagantvāna tattha jhānaṃ samappayi.


Ở khu đất trước đây người ta đă trồng xuống ba cội Đại Bồ Đề (của ba vị Phật quá khứ), Ngài đă ngự đến địa điểm ấy và đă thể nhập thiền ở tại nơi ấy.

 

63/- Tisso bodhi imaṃ ṭhāne tayo buddhāna sāsane,
mamañca bodhi idh’eva patiṭṭhisssati’nāgate.


Đức Phật nói rằng): “Ba cội Bồ Đề (đă được trồng) ở tại đại điểm này vào thời kỳ Giáo Pháp của ba vị Phật. Và cội Bồ Đề của ta cũng sẽ được thiết lập ở ngay tại xứ này vào thời vị lai.”

 

64/- Sasāvako samāpatti vuṭṭhahitvā naruttamo,
yattha meghavanārammaṃ agamāsi narāsabho.


Bậc Tối Thượng Nhân, vị đứng đầu nhân loại, và các đệ tử đă xuất khỏi thiền chứng rồi đă đi đến khu vườn Meghavana xinh đẹp.

 

65/- Tatthāpi so samāpattiṃ samāpajji sasāvako,
vuṭṭhahitvā samāpattiyā byākari so pabhaṅkaro.


Ở tại nơi ấy, Ngài cùng với các đệ tử đă thể nhập thiền chứng. Sau khi xuất khỏi thiền chứng, đấng Quang Minh ấy đă nói rằng:

 

66/- Imaṃ padesaṃ paṭhamaṃ Kakusandho lokanāyako,
imaṃ pallaṅkaṭhānamhi nisīditvā paṭiggahi.


“Ở tại khu vực này, đấng Lănh Đạo thế gian Kakusandha là vị đầu tiên đă ngồi lên ngôi bảo tọa và đă thọ nhận vật này.

 

67/- Imaṃ padesaṃ dutiyaṃ Konāgamano narāsabho,
imaṃ pallaṅkaṭhānamhi nisīditvā paṭiggahi.


Ở tại khu vực này, vị đứng đầu nhân loại Konāgamana là vị thứ nh́ đă ngồi lên ngôi bảo tọa và đă thọ nhận vật này.

 

68/- Imaṃ padesaṃ tatiyaṃ Kassapo lokanāyako,
imaṃ pallaṅkaṭhānamhi nisīditvā paṭiggahi.


Ở tại khu vực này, đấng Lănh Đạo thế gian Kassapa là vị thứ ba đă ngồi lên ngôi bảo tọa và đă thọ nhận vật này.

 

69/- Ahaṃ Gotamasambuddho Sakyaputto narāsabho,
imaṃ pallaṅkaṭhānamhi nisīditvā samappito’ti.


Ta là đấng Chánh Đẳng Giác Gotama, con trai ḍng Sākya, vị đứng nhân loại đă ngồi lên ngôi bảo tọa và đă xác chứng điều này.”

 

Kalyāṇāgamanaṃ dutiyā paricchedo.


Việc ngự đến Kalyāṇī là chương thứ nh́.

 

Bhāṇavāraṃ dutiyaṃ.


Tụng phẩm thứ nh́.

Đầu trang | Mục lục | 01 | 02| 03| 04| 05| 06| 07| 08| 09| 10| 11| 12| 13| 14| 15| 16| 17| 18| 19| 20| 21| 22|
Cập nhập ngày: 28-11-2006

Kỹ thuật tŕnh bày: Minh Hạnh & Chánh Hạnh