CHAṬṬHAMO PARICCHEDO


CHƯƠNG THỨ SÁU

 

1/- Dve satāni ca vassāni aṭṭhārasādhikāni ca,
sambuddhe parinibbute abhisitto piyadassano.


Và khi đấng Chánh Đẳng Giác viên tịch Niết Bàn được hơn hai trăm mười tám năm, Piyadassana12 đă được phong vương.

 

2/- Āgatā rāja-iddhiyo abhisitte piyadassane,
pharati puññatejañca uddhaṃ adho ca yojanaṃ.


Khi Piyadassana đă được đăng quang và đă đạt được các quyền lực của hoàng gia, vị ấy đă phát ra oai lực của phước báu bên trên lẫn bên dưới một do-tuần.

 

3/- Jambudīpe mahārajje balacakke pavattati vaso,
anotatto nāma daho himavā pabbatamuddhani.


Có uy quyền , vị ấy đă vận dụng các tiềm năng về oai lực ở trên lănh thổ rộng lớn của Jambudīpa. Ở trên đỉnh núi Hy Mă Lạp có hồ nước tên là Anotatta.

 

4/- Sabbosadhena saṃyuttā soḷasampi kumbhiyo,
tadā devasikaṃ niccaṃ devā abhiharanti te.


Khi ấy, mỗi ngày chư thiên ấy thường xuyên đem lại mười sáu chum nước đă được ḥa tan với tất cả các loại dược thảo.

 

5/- Nāgalatā dantakaṭṭhaṃ sugandhaṃ pabbateyyakaṃ,
mudusiniddhaṃ madhuraṃ rasavantaṃ manoramaṃ,
tadā devasikaṃ niccaṃ devatā’bhiharanti te.


Khi ấy, mỗi ngày chư thiên ấy thường xuyên đem lại các loại dây trầu và gỗ chà răng là sản phẩm của núi non, có mùi thơm ngát, mềm mại, trơn nhẳn, ngọt ngào, có hương vị, và được ưa chuộng.

 

6/- Āmalakaṃ osadhañca sugandhaṃ pabbateyyakaṃ,
mudusiniddhaṃ rasavantaṃ mahābhūteh’upaṭṭhitaṃ,
tadā devasikaṃ niccaṃ devatā’bhiharanti te.


Khi ấy, mỗi ngày chư thiên ấy thường xuyên đem lại trái āmalaka và dược thảo là sản phẩm của núi non, có mùi thơm ngát, mềm mại, trơn nhẳn, ngọt ngào, và đầy đủ các chất liệu chính yếu.

 

7/- Dibbapānaṃ ambapakkañca rasavantaṃ sugandhakaṃ,
tadā devasikaṃ niccaṃ devatā’bhiharanti te.


Khi ấy, mỗi ngày chư thiên ấy thường xuyên đem lại thức uống ở cơi trời và xoài chín có hương vị và mùi thơm ngào ngạt.

 

8/- Chaddantadahā pañcavaṇṇaṃ pāpuraṇanivāsanaṃ,
tadā devasikaṃ niccaṃ devatā’bhiharanti te.


Khi ấy, mỗi ngày chư thiên ấy thường xuyên đem lại từ hồ nước Chaddanta các tấm choàng và y phục ngũ sắc.

 

9/- Sīsanhāṇagandhacuṇṇaṃ tathā cānuvilepanaṃ,
mudukaṃ pārupatthāya sumanadussaṃ asuttakaṃ.


Tương tợ như thế, c̣n có loại bột thơm để gội đầu, thuốc bôi, và vải mịn màu vàng nhạt không đường chỉ dệt để khoác bên ngoài.

 

10/- Mahārahaṃ añjanañca sabbantaṃ nāgalokato,
tadā devasikaṃ niccaṃ nāgarājā haranti te.


Và c̣n có thuốc vẽ mắt vô cùng quư giá. Khi ấy, mỗi ngày các vị long vương ấy thường xuyên đem lại tất cả các thức ấy từ chốn long cung.

 

11/- Ucchuyaṭṭhiṃ pūgamattaṃ pitakaṃ hatthapuñchanaṃ,
tadā devasikaṃ niccaṃ devatā’bhiharanti te.


Khi ấy, mỗi ngày chư thiên ấy thường xuyên đem lại mía cây, một số lượng quả cau, và khăn tay màu vàng.

 

12/- Nava vāhasahassāni suvā haranti sāliyo,
te sāli nitthusakaṇe undūrehi viyodhitā,
makkhikā madhukaṃ karuṃ acchā kuṭamhi koṭayuṃ.


Những con chim két mang lại các hạt gạo sāli số lượng chín ngàn cỗ xe. Các hạt gạo sāli ấy c̣n lớp cám không có trấu đă được các con chuột tách ra. Các con ong làm mật, các con gấu giă ở trong chậu.

 

13/- Sakuṇā suvaggajātā karavikā madhurassarā,
asokapuññatejena sadā sāventi mānuse.


Do năng lực phước báu của Asoka, các con chim cu là loài chim được sanh ra trong chủng loại xinh xắn, có âm điệu ngọt ngào khiến loài người luôn phải lắng nghe.

 

14/- Kappāyuko mahānāgo catubuddhaparicārako,
suvaṇṇasaṅkhalikābaddho puññatejena āgato.


Do năng lực của phước báu, con rồng khổng lồ có tuổi thọ một kiếp và là thị giả cho bốn vị Phật được buộc lại bằng sợi xích vàng đă đi đến.

 

15/- Pūjesi rattamālehi piyadassi mahāyaso,
vipāko piṇḍapātassa paṭiladdho sudassano.


Vị có danh tiếng lẫy lừng Piyadassi đă cúng dường con rồng với những tràng hoa màu đỏ và quả thành tựu của việc trao tặng vật thực là đạt được sắc diện tốt đẹp.

 

16/- Candaguttassāyaṃ nattā Bindusārassa atrajo,
rājaputto tadā āsi Ujjenikaramolino.


Vị này là cháu trai của Candagutta và là con trai của Bindusāra. Khi ấy, vị hoàng tử lo việc thuế má ở xứ sở Ujjenī.

 

17/- Anupubbena gacchanto Vedissanagaraṃ gato,
tatrāpi ca seṭṭhidhītā devī nāmā’ti vissutā,
tassa saṃvāsamanvāya ajāyi puttamuttamaṃ.


Trong khi di chuyển theo tuần tự, vị ấy đă đi đến thành phố Vedissa. Và cũng ở tại nơi ấy, có người con gái nhà triệu phú được nổi tiếng có tên là Devī. Do kết quả của việc chung sống với vị ấy, nàng đă sanh ra người con trai cao quư.

 

18/- Mahindo saṅghamittā ca pabbajjaṃ samarocayuṃ,
ubhopi pabbajitvāna bhindiṃsu bhavabandhanaṃ.


Mahinda và Saṅghamittā đă chấp thuận việc xuất gia. Sau khi xuất gia, cả hai vị đều đă phá vỡ sự trói buộc của hiện hữu.

 

19/- Asoko rajjaṃ kāresi pāṭaliputte puruttame,
abhisitto tīṇi vassāni pasanno buddhasāsane.


Asoka đă trị v́ vương quốc tại kinh thành Pāṭaliputta. Ba năm sau khi được phong vương, đức vua đă có niềm tin với Phật Pháp.

 

20/- Yadā ca parinibbāyi sambuddho upavattane,
yadā ca mahindo jāto moriyakulasambhavo,
etthantare yaṃ gaṇitaṃ vassaṃ bhavati kittakaṃ.


Khi đấng Chánh Đẳng Giác viên tịch Niết Bàn ở tại Upavattana, và khi Mahinda được sanh ra trong ḍng dơi gia tộc Moriya, khoảng giữa thời gian ấy tính được là bao nhiêu năm?

 

21/- Dve vassasatāni honti catuvassaṃ pan’uttari,
samantaramhi so jāto mahindo asokatrajo.


Có hơn hai trăm lẻ bốn năm, và vị Mahinda ấy, người con trai của Asoka, đă được sanh ra trong khoảng thời gian ấy.

 

22/- Mahindadasavassamhi pitā bhāte aghātayi,
jambudīpaṃ’nusāsento catuvassaṃ atikkami.


Khi Mahinda được mười tuổi, người cha đă giết chết các anh em trai rồi đă trải qua bốn năm trị v́ xứ Jambudīpa.

 

23/- Hantvā ekasate bhāte vaṃsaṃ katvāna ekato,
mahindacuddasame vasse asokaṃ abhisiñcayuṃ.


Sau khi giết chết một trăm anh em trai và quy tụ ḍng tộc lại thành một mối, Asoka đă đăng quang vào năm Mahinda được mười bốn tuổi.

 

24/- Asokadhammo’bhisitto paṭiladdho ca iddhiyo,
mahātejo puññavanto dīpekacakkapavatti so.


Khi được phong vương, vị Asoka công chính ấy đă được thành tựu các quyền lực, có danh tiếng lẫy lừng, có phước báu, và là một vị chuyển luân vương ở trên đảo.

 

25/- Paripuṇṇavīsavassamhi piyadassābhisiñcayuṃ,
pāsaṇḍaṃ parigaṇhanto tīṇi vassaṃ atikkami.


Người ta đă phong vương cho Piyadassi tṛn đủ thời gian hai mươi năm. Trải qua ba năm đầu, vị ấy đă ủng hộ ngoại đạo.

 

26/- Dvāsaṭṭhi diṭṭhigatikā pāsaṇḍā channavutikā,
sassata ucchedamūlā sabbe dvīhi patiṭṭhitā.


Có sáu mươi hai quan điểm tà kiến và chín mươi hai phái ngoại đạo. Tất cả đều căn cứ trên hai cơ sở là thường kiến và đoạn kiến.

 

27/- Nigaṇṭhācelakā ceti itarā paribbājakā,
itarā brāhmaṇā’ti ca aññe ca puthuladdhikā.


Các du sĩ ngoại đạo khác gọi là “Nigaṇṭha và Acelaka,” một ngoại đạo khác là “Bà-la-môn,” và các tà giáo khác nữa.

 

28/- Niyantisassatucchede sammūḷhe hīnadiṭṭhike,
ito bahiddhā pāsaṇḍe titthiye nānādiṭṭhike.


Các vị có quan điểm thấp thỏi, mê tín, tin vào thường kiến và đoạn kiến, ngoài ra đó c̣n có các dị giáo và ngoại đạo với đủ loại quan điểm khác nhau.

 

29/- Sārāsāraṃ gavesanto puthuladdhī nimantayi,
titthigaṇe nimantitvā pavesetvā nivesanaṃ,
mahādānaṃ padatvāna pañhaṃ pucchi anuttaraṃ.


Trong lúc tầm cầu thực hư, đức vua đă thỉnh mời các vị theo tà giáo. Đức vua đă mời thỉnh các nhóm ngoại đạo và rước vào trong cung điện rồi đă ban cho phẩm vật giá trị rồi đă hỏi câu hỏi chủ yếu.

 

30/- Pañhaṃ puṭṭhā na sakkonti vissajjetuṃ sakā balā,
ambaṃ puṭṭho labujaṃ vā byākariṃsu apaññakā.


Khi được hỏi câu hỏi, bản thân họ ngu dốt nên không thể trả lời. Khi được hỏi về trái xoài, họ không có trí tuệ nên đă nói là trái bánh ḿ.

 

31/- Anumattampi sabbesaṃ alaṃ te puna desanaṃ,
bhinditvā sabbapāsaṇḍe haritvā puthuladdhike.


(Nghĩ rằng): “Đối với tất cả bọn họ, điều kiện nhỏ nhoi cũng là được rồi,” hơn nữa sau khi đả phá giáo lư của bọn họ, đức vua đă đuổi tất cả các ngoại đạo tức là các vị theo tà giáo.

 

32/- Iti rājā vicintesi aññepi ke labhāmase,
ye loke arahanto ca arahattamaggañca passanti.


Đức vua đă suy nghĩ rằng: “Ta nên t́m cho được những người nào khác nữa là các vị A-la-hán ở thế gian và biết được đạo lộ đưa đến phẩm vị A-la-hán.

 

33/- Saṃvijjanti ime loke na’ yimaṃ lokaṃ asuññataṃ,
kadāhaṃ sappurisānaṃ dassanaṃ upasaṅkame.


Những vị này hiện diện ở trên thế gian.,Tthế gian này không thể thiếu vắng các vị ấy. Khi nào ta mới có thể đến gần chiêm ngưỡng các bậc thiện trí thức?

 

34/- Tassa subhāsitaṃ sutvā rajjaṃ demi sajīvitaṃ,
iti rājā vicintento dakkhiṇeyye na passati.


Và sau khi lắng nghe lời thiện thuyết của vị ấy, ta sẽ bố thí vương quốc luôn cả tánh mạng.” Trong lúc suy nghĩ như thế, đức vua không nhận thấy người nào xứng đáng.

 

35/- Niccaṃ gavesati rājā sīlavante supesale,
caṅkamantamhi pāsāde pekkhamāno bahujjane,
rathiyā piṇḍāya carantaṃ nigrodhaṃ samaṇamaddasa.


Đức vua tiếp tục tầm cầu các vị có giới đức thiện hạnh. Trong khi đang tản bộ ở ṭa lâu đài và quan sát dân chúng, đức vua đă nh́n thấy vị sa-môn Nigrodha đang đi khất thực ở đường phố.

 

36/- Pāsādikaṃ abhikkantaṃ paṭikkantaṃ vilokitaṃ,
okkhitacakkhusampannaṃ arahantaṃ santamānasaṃ.


Vị Nigrodha ấy có vẻ đáng mến, đă quán xét trong lúc bước tới (hay) lúc quay lại, có mắt luôn nh́n xuống, là vị A-la-hán có tâm trí thanh tịnh.

 

37/- Uttamadamathappattaṃ dantaṃ guttaṃ surakkhitaṃ,
kulagaṇe asaṃsaṭṭhaṃ nabhe candaṃ’va nimmalaṃ.


(Vị ấy) đă đạt đến sự rèn luyện hoàn hảo, thu thúc, cẩn thận, khéo hộ tŕ, không bị lẫn lộn với đám người tại gia, tương tợ như ánh trăng tinh khiết ở trên bầu trời.

 

38/- Kesarīva asantāsaṃ aggikkhandhaṃva tejitaṃ,
garuṃ durāsadaṃ dhīraṃ santacittaṃ samāhitaṃ.


(Vị ấy) không có hăi sợ tương tợ như loài sư tử, sáng ngời như khối lửa, đáng kính, khó thể sánh bằng, vững chải, tâm tư an lạc, định tĩnh.

 

39/- Khīṇāsavaṃ sabbakilesasodhitaṃ purisuttamaṃ,
cāravihārasampannaṃ sampassi samaṇuttamaṃ.


(Vị ấy) có các lậu hoặc đă cạn kiệt, các phiền năo đă được thanh lọc, là vị tối thắng của loài người, có tánh hạnh đă được thành tựu và an trú. Đức vua đă nhận ra là vị tối thắng trong số các sa-môn.

 

40/- Sabbaguṇagataṃ nigrodhaṃ pubbasahāyaṃ vicintayi,
pubbe suciṇṇakusalaṃ ariyamaggaphale ṭhitaṃ,
rathiyā piṇḍāya carantaṃ passitvā so vicintayi.


Đức vua đă nghĩ rằng vị Nigrodha đầy đủ tất cả các đức hạnh là bạn hữu trong tiền kiếp, có thiện sự đă khéo được thực hành trong quá khứ, đă vững vàng trong đạo quả thánh nhân. Sau khi nh́n thấy vị ấy đang đi khất thực ở đường phố, đức vua đă suy nghĩ rằng:

 

41/- Buddho loke arahā jinasāvako
lokuttaramaggaphale patiṭṭhito,
mokkhañca nibbānagato asaṃsayaṃ
aññataro esa thero garuttamo


Đức Phật là vị A-la-hán ở thế gian. Bất cứ ai như vị trưởng lăo này đều là người có trí tuệ đáng tôn kính nhất, là đệ tử của đấng Chiến Thắng, đă vững chải trong đạo quả tối thượng ở trên đời, chắc chắn đă thành tựu Niết Bàn và sự giải thoát.

 

42/- So pañcapītipasādaṃ paṭilabhi
uḷāraṃ pāmojjamanappasādito,
nidhiṃ va laddhā adhano pamodito
iddho mano-icchitaṃ va sakkopamo.


Đức vua đă đạt được niềm tịnh tín với năm trạng thái hỷ và đă được hoan hỷ trong tâm với niềm vui cùng tột, giống như người nghèo mừng rỡ v́ t́m được của chôn giấu, tương tợ như vị trời Sakka đă được thành tựu điều ước muốn ở trong tâm.

 

43/- Āmantayī aññatarekamaccaṃ
handa bhikkhantaṃ tara mānarūpaṃ,
nayehi pāsādikaṃ santavuttiṃ
nāgova yantaṃ rathiyā kumāraṃ.


Đức vua đă bảo một vị quan đại thần rằng: “Này khanh, hăy mau đến gặp người thanh niên có vóc dáng nổi bật, thái độ b́nh lặng, dễ mến nhờ vào các cử chỉ, y hệt loài voi, là vị đang đi ở trên đường và đang khất thực.”

 

44/- Rājā pasādavipulaṃ paṭilabhi
udaggahaṭṭho manasā’bhicintayi,
nissaṃsayaṃ kho uttamadhammapatto
adiṭṭhapubbo ayaṃ purisuttamo.


Đức vua đă đạt được niềm tin vững mạnh, hớn hở, phấn chấn, và đă suy nghĩ ở trong tâm rằng: “Chắc chắn rằng con người cao thượng này chưa từng được thấy trước đây đă được thành tựu pháp tối thượng!”

 

45/- Vīmaṃsamāno punadevamabravī
supaññattaṃ āsanamettha santhataṃ,
nisīdayi pabbajitatthamāsane
mayā anuññātaṃ tayābhipatthitaṃ.


Trong khi suy xét, đức vua đă nói thêm như vầy: “Chỗ ngồi đă bày ra ở đây đă được xếp đặt cẩn thận. Ngài hăy ngồi ở chỗ được dành cho bậc xuất gia. Trẫm cho phép ngồi ở chỗ theo ư ngài thích.”

 

46/- Ādāya rañño vacanaṃ padakkhiṇaṃ
hatthe gahetvā abhiruyha āsanaṃ,
nisīdi pallaṅkavare asantāso
sakkova devarājā paṇḍukambale.


Căn cứ vào lời nói của đức vua, vị ấy đă theo phía tay bên phải bước lên chỗ ngồi, rồi đă ngồi xuống trên bảo tọa quư báu không chút run sợ, y như là vị vua trời Sakka ngự ở trên ngai vàng.

 

47/- Vicintayi rājā’yam aggadārako
niccalo asantāsī ca atthi nu taṃ,
disvā rājā taṃ tarunaṃ kumārakaṃ
ariyavattaparihārakaṃ varaṃ.


Đức vua đă suy nghĩ rằng: “Quả nhiên chàng trai trẻ tuyệt vời này không bị xao động và không có chút ǵ run sợ!” Đức vua đă nhận biết chàng trai trẻ tuổi cao quư ấy là người thực hành phận sự của bậc thánh nhân.

 

48/- Susikkhitaṃ dhammavinayakovidaṃ
asantāsaṃ santaguṇādhivāsitaṃ,
supārutākappadharaṃ jinanujaṃ
pasannacitto punadevamabruvi.


Với tâm tịnh tín, đức vua đă nói thêm với vị Thích tử có sự hành xử đúng đắn, choàng y nghiêm chỉnh, là người đă khéo được huấn luyện, thông thạo Pháp và Luật, không có run sợ, đă thể nhập vào đức tánh an tịnh rằng:

 

49/- Desehi dhammaṃ tava sikkhitaṃ mama
tvameva satthā anusāsitaṃ tayā,
karomi tuyhaṃ vacanaṃ mahāmuni
anusāsatu desanaṃ maṃ suṇoma.


“Xin ngài hăy thuyết giảng Giáo Pháp ngài đă được học tập; chính ngài là vị thầy của trẫm. Được ngài giảng dạy, trẫm sẽ thực hành theo lời dạy của ngài. Thưa đấng hiền triết vĩ đại, xin hăy giảng dạy giáo lư cho trẫm. Trẫm sẽ lắng nghe.”

 

50/- Sutvāna rañño vacanaṃ sutejitaṃ
navaṅgasatthe paṭisambhidaṭṭhito,
viloḷayī tepiṭakaṃ mahārahaṃ
tam addasa appamādasudesanaṃ.


Nghe được lời thỉnh cầu vô cùng khẩn thiết của đức vua, vị đă vững chải trong việc phân tích Giáo Lư gồm chín thể loại đă tham khảo Tam Tạng vô cùng giá trị và đă t́m thấy lời dạy sâu sắc về “Không Dễ Duôi” ấy:

 

51/- “Appamādo amatapadaṃ pamādo maccuno padaṃ,
appamattā na mīyanti ye pamattā yathā matā.”


“Không dễ duôi là nẻo về bất tử,
dễ duôi là theo bước tử thần.
Không dễ duôi thời không chết,
những ai dễ duôi như chết đi rồi.”

 

52/- Nigrodhadhīraṃ anumodayantaṃ
rājā vijānīya tam aggahetuṃ,
ye keci sabbaññū buddhadesitā
sabbesaṃ dhammānam imassa mūlakā.


Trong khi được bậc trí tuệ Nigrodha sách tấn, đức vua đă hiểu rơ và nắm vững về điều ấy là: “Trong số tất cả các Pháp, những điều đă được đức Phật Toàn Tri giảng giải đều đặt căn bản ở điều này.

 

53/- Ajjeva tumhe saraṇam upemi
buddhañca dhammaṃ saraṇañca saṅghaṃ,
saputtadāro sahañātakajjano
upāsakattaṃ paṭivedayāmi taṃ.


Ngay chính hôm nay đây, trẫm xin quy y với ngài, và nương tựa đức Phật đức Pháp và đức Tăng. Cùng với vợ và các con luôn cả những người trong gia quyến, trẫm khẳng định về tư các cư ấy.

 

54/- Saputtadāro saraṇe patiṭṭhito
nigrodhakalyāṇamittassa āgamā,
pūjemi caturo satasahassarūpiyaṃ
aṭṭhaṭṭhakaṃ niccabhattañca theraṃ.


Nhờ vào sự thân cận tối lành với ngài Nigrodha, trẫm cùng với vợ và các con đă được an trú vào sự nương nhờ. Trẫm xin cúng dường số bạc bốn trăm ngàn và bữa ăn thường kỳ gồm 64 phần đến ngài trưởng lăo.”

 

55/- Tevijjā iddhippattā ca cetopariyakovidā,
khīṇāsavā arahanto bahū buddhassa sāvakā.


(Lời của vị Nigrodha): “Có nhiều vị đệ tử của đức Phật là các vị A-la-hán có các lậu hoặc đă đoạn tận, có tam Minh, thành tựu thần thông, và biết được tâm tư của người khác.”

 

56/- Theraṃ avoca punadeva rājā
icchāmi saṅgharatanassa dassanaṃ,
samāgamaṃ sannipatanti yāvatā
abhivādayāmettha suṇāmi dhammaṃ.


Đức vua đă nói thêm với vị trưởng lăo rằng: “Trẫm mong mỏi nh́n thấy Tăng Bảo. Khi nào các ngài tập trung hội nghị, trẫm sẽ đảnh lễ các ngài và lắng nghe Giáo Pháp.”

 

57/- Samāgatā saṭṭhisahassa bhikkhū
dūtā ca rañño paṭivedayiṃsu,
saṅgho mahāsannipāto sutuṭṭho
gacchāhi tvaṃ icchasi saṅghadassanaṃ.


Sáu mươi ngàn vị tỳ khưu đă tụ hội lại và các sứ giả đă thông báo cho đức vua hay rằng: “Tăng chúng vô cùng hoan hỷ đă tụ hội lại đông đảo. Xin hăy đến v́ ngài ao ước nh́n thấy Tăng chúng.”

 

58/- Dūtassa vacanaṃ sutvā asokadhammo mahīpati,
āmantayi ñātisaṅghamittāmacce ca bandhave.


Sau khi lắng nghe lời nói của sứ giả, vị chúa tể của trái đất Asoka công chính đă nói với tập thể thân quyến, bạn hữu, quan lại, và những người có quan hệ rằng:

 

59/- Dakkhiṇadānaṃ dassāma mahāsaṅghasamāgame,
karoma veyyāvatikaṃ yathāsantiṃ yathābalaṃ.


“Chúng ta sẽ dâng vật bố thí cúng dường trong dịp đại hội của chúng Tăng. Chúng ta sẽ thể hiện sự phục vụ theo sự hoan hỷ, tùy theo khả năng.

 

60/- Maṇḍapaṃ āsanaṃ udakaṃ upaṭṭhānaṃ dānabhojanaṃ,
paṭiyādentu me khippaṃ dānārahaṃ anucchaviṃ.


Hăy cấp tốc chuẩn bị cho trẫm mái che, chỗ ngồi, nước nôi, sự phục vụ, vật thực bố thí, sư cúng dường xứng đáng và thích hợp.

 

61/- Supeyyabhattakārā ca sucī yāgususaṅkhatā,
paṭiyādentu me khippaṃ manuññaṃ bhojanaṃ suciṃ.


Hăy cấp tốc chuẩn bị cho trẫm việc thực hiện món ăn thức uống ngon lành, cháo được khéo nấu và sạch sẽ, bữa ăn thịnh soạn và tinh khiết.

 

62/- Mahādānañca dassāmi bhikkhusaṅghe gaṇuttame,
nagare bheriyo vajjantu vīthiyo sammajjantu te.


Trẫm sẽ cúng dường lễ đại thí đến hội chúng tỳ khưu là tập thể tối thượng. Hăy cho nổi trống ở trong thành phố và mọi người hăy quét dọn các con đường.

 

63/- Vikirantu vālukaṃ setaṃ pupphañca pañcavaṇṇakaṃ,
mālagghiyaṃ toraṇañca kadali puṇṇaghaṭaṃ subhaṃ.


Hăy phân bố đều cát trắng và hoa ngũ sắc, tràng hoa quư giá, cổng chào thân cây chuối, và chum đầy nước tinh khiết.

 

64/- Utukkamaparaṃ thūpaṃ ṭhapayantu tahiṃ tahiṃ, vatthehi ca dhajaṃ katvā bandhayantu tahiṃ tahiṃ.


Hăy cho dựng lên các ngôi bảo tháp khác nhau thuận theo mùa tiết ở nơi kia nơi nọ. Hăy thực hiện cờ xí với các loại vải vóc và treo lên ở nơi này nơi khác.

 

65/- Mālādāmasamāyuttā sobhayantu imaṃ puraṃ,
khattiyā brāhmaṇā vessā suddā aññakulāsu ca.


Các người Sát-đế-lỵ, Bà-la-môn, thương buôn, hạ tiện thuộc các gia tộc khác nhau trang điểm với những tràng hoa hăy làm rạng rỡ thành phố này.

 

66/- Vatthaṃ ābharaṇaṃ pupphaṃ nānālaṅkārabhūsitā,
ādāya dīpaṃ jalamānaṃ gacchantu saṅghadassanaṃ.


Những người trang điểm bằng các loại trang sức khác nhau hăy mang theo vải vóc, vật trang hoàng, bông hoa, đèn được thắp sáng và đi đến chiêm ngưỡng chúng Tăng.

 

67/- Sabbañca tālāvacaraṃ nānākulā ca sikkhitā,
vajjantu vaggusavanīyā susirā maddalāni ca.


Tất cả các loại nhạc cụ, các loại trống, và các nhạc công đă được huấn luyện thuộc các trường phái khác nhau hăy phô diễn các giọng hát du dương với các âm điệu ngọt ngào.

 

68/- Laṅkārakāmadā c’eva sotthiyā naṭanāṭakā,
sabbe saṅgham upayantu hāsayantu samāgataṃ.


Và ngay cả các kịch sĩ, vũ công với điệu chúc mừng nổi tiếng từ các phương xa trong xứ Laṅkā, tất cả hăy đến với chúng Tăng và hăy làm cho hội nghị được vui nhộn.

 

69/- Pupphañca anekavidhaṃ puṇṇaghaṭañca anekadhā,
vaṇṇakañc’eva karontu pūjaṃ anekarāsiyo.


Bằng nhiều phương thức, hăy thực hiện việc cúng dường bông hoa gồm nhiều loại và các chum đầy (nước), luôn cả thuốc nhuộm màu với khối lượng lớn.

 

70/- Nagarassa paṭihāramantare
dānaṃ sabbaṃ paṭiyantu patthitaṃ,
pūjaṃ samādāya raṭṭhavāsikā
rattiṃ divaṃ tiyāme asesato.


Các cư dân của xứ sở hăy chuẩn bị mọi vật thí được ưa chuộng đă được mang đến bên trong thành phố và hăy chấp hành việc cúng dường ngày đêm trọn cả ba canh không ngừng nghỉ.”

 

71- Taṃ rattiyā accayena bhattaṃ sakanivesane,
paṇītarasasampannaṃ paṭiyādetvāna khattiyo.


Khi tàn đêm ấy, vị Sát-đế-lỵ đă chuẩn bị bữa ăn đầy đủ các món thượng vị ở tại dinh thự của ḿnh.

 

72/- Sāmacce saparivāre āṇāpesi mahāyaso,
gandhamālā pupphakūṭaṃ pupphachattadhajaṃ bahuṃ.
73/- Divā dīpaṃ jalamānaṃ abhiharantu mahājanā,
yāvatā mayā āṇattā tāvatā abhiharantu te.


Vị vua có danh tiếng lẫy lừng đă ra lệnh cho các quan đại thần và đám tùy tùng rằng: “Hăy bảo đám đông dân chúng hàng ngày mang lại các tràng hoa thơm, khối lượng lớn bông hoa, nhiều lọng hoa và cờ xí, đèn được thắp sáng, và bảo họ hăy mang lại cho đủ theo lệnh của trẫm.

 

74/- Imamhi nagare sabbe negamā ca catuddisā,
sabbeva rājaparisā sayoggabalavāhanā.
75/- Sabbe maṃ anugacchantu bhikkhusaṅghassa dassanaṃ,
mahatā rājānubhāvena niyyāsi rājakuñjaro.


Tất cả các thương buôn ở trong thành phố này và từ khắp bốn phương, luôn cả toàn bộ tập thể hoàng cung cùng với các binh đội và các quân xa phù hợp, tất cả hăy tháp tùng trẫm diện kiến hội chúng tỳ khưu.” Rồi vị vua hạng nhất với vương quyền vĩ đại đă dẫn đầu.

 

76/- Sakkova nandanuyyānaṃ evaṃ so hi mahīpati,
gantvā rājā taramāno bhikkhusaṅghassa santike.


Giống như chúa trời Sakka đi đến khu vườn Nandana, cũng vậy vị vua ấy là chúa của trái đất đă vội vă đi đến gặp hội chúng tỳ khưu.

 

77/- Abhivādetvāna sammodi vedajāto katañjali,
ārocayi bhikkhusaṅghaṃ mama’tthaṃ anukampatu.


Sau khi đảnh lễ và chào hỏi, đức vua với trí tuệ sanh khởi đă chắp tay lên và nói với hội chúng tỳ khưu rằng: “Hăy từ bi tế độ trẫm.”

 

78/- Yāva bhikkhū anuppatte sabbe antonivesane,
saṅghassa pitaraṃ theraṃ pattaṃ ādāya khattiyo.


Khi tất cả các vị tỳ khưu cho chưa đi đến hoàng cung, vị Sát-đế-lỵ đă nhận lấy b́nh bát của vị trưởng lăo là vị lănh đạo của hội chúng.

 

79/- Pūjamāno bahupupphehi pāvisi nagaraṃ puraṃ,
nivesanaṃ pavesetvā nisīdāpetvāna āsane.


Đức vua vừa cúng dường bằng những bông hoa vừa đi vào thành phố, Và khi đă đưa vào đến dinh thự, đức vua đă thỉnh ngồi xuống chỗ ngồi.

 

80/- Yāguṃ nānāvidhaṃ khajjaṃ bhojanañca mahārahaṃ,
adāsi payatapāṇi yāvadatthaṃ yadicchakaṃ.


Đức vua với bàn tay sạch sẽ đă dâng lên món cháo và nhiều loại vật thực cứng mềm vô cùng quư giá theo như như cầu theo như ước muốn.

 

81/- Bhuttāvibhikkhusaṅghassa onītapattapāṇino,
ekemekassa bhikkhuno adāsi yugasāṭakaṃ.


Đến khi hội chúng tỳ khưu đă thọ thực xong và các bàn tay đă rời khỏi b́nh bát, đức vua đă cúng dường mỗi một vị tỳ khưu hai lá y.

 

82/- Pādasambhañjanaṃ telaṃ chattañcāpi upāhanaṃ,
sabbaṃ samaṇaparikkhāraṃ adāsi phāṇitaṃ madhuṃ.


Rồi đă dâng lên toàn bộ vật dụng của sa-môn gồm có đường mía, mật ong, thuốc bôi chân, dầu ăn, cùng với dù che và giày dép nữa.

 

83/- Parivāretvāna nisīdi dhammāsoko mahīpati,
nisajja rājā pavāresi bhikkhusaṅghassa paccayaṃ.


Sau khi đă dâng cúng xong, vị chúa tể của trái đất Asoka công chính đă ngồi xuống. Sau khi ngồi xuống, đức vua đă thỉnh cầu để dâng vật dụng đến hội chúng tỳ khưu rằng:

 

84/- Yāvatā bhikkhū icchanti tāva demi yadicchakaṃ,
santappetvāna sakkaccaṃ sampavāretvāna paccaye.


“Các vị tỳ khưu mong mỏi như thế nào, trẫm xin dâng như thế ấy đúng theo ước muốn.” Với sự cung kính, đức vua đă làm cho (các vị tỳ khưu) hài ḷng và thỏa măn với các món vật dụng .

 

85/- Tato pucchiṃ sugambhīraṃ dhammakkhandhaṃ sudesitaṃ,
atthi bhante paricchedo desit’ādiccabandhunā.
86/- Nāmaṃ liṅgaṃ vibhattiñca koṭṭhāsañcāpi saṅkhataṃ,
ettakaṃ’va dhammakkhandhaṃ gaṇanaṃ atthi pavediya.


Sau đó, đức vua đă hỏi về điều đă khéo được thuyết giảng về pháp uẩn vô cùng thâm sâu rằng: “Bạch ngài, đấng quyến thuộc của mặt trời có thuyết giảng về chương nào (đề cập) tên gọi, tánh giống, sự biến thể, và luôn cả phần chia chẽ đă được tổng hợp lại hay không? Và sau khi đă được giải thích, có sự tính đếm về số lượng pháp uẩn hay không?”

 

87/- Atthi rāja gaṇitvāna desit’ādiccabandhunā,
suvibhattaṃ supaññattaṃ suniddiṭṭhaṃ sudesitaṃ.


“Tâu bệ hạ, đấng quyến thuộc của mặt trời có thuyết giảng và sau khi đă tính đếm Ngài c̣n khéo phân tính, khéo quy định, khéo chỉ bày, và khéo giảng giải.

 

88/- Sahetuṃ atthasampannaṃ khalitaṃ natthi subhāsitaṃ,
satipaṭṭhānaṃ sammappadhānaṃ iddhipādañca indriyaṃ.
89/- Balaṃ bojjhaṅgaṃ maggaṅgaṃ suvibhattaṃ sudesitaṃ,
evaṃ sattappabhedañca bodhipakkhiyamuttamaṃ.


Có luôn phần nguyên nhân, được thành tựu ư nghĩa, không có lỗi lầm, và khéo được tŕnh bày. Có (tứ) niệm xứ, chánh tinh tấn, như ư túc, (ngũ) quyền, (ngũ) lực, (bảy) chi phần đưa đến giác ngộ, và (tám) chi đạo đă khéo được phân tính, khéo được thuyết giảng. Như vậy là bảy phần chia chẽ thuộc về sự giác ngộ tối thượng.

 

90/- Lokuttaraṃ dhammavaraṃ navaṅgaṃ satthusāsanaṃ,
vitthāritaṃ suvibhattaṃ desesi dipaduttamo.


Đấng Tối Thượng của loài người đă thuyết giảng về Pháp Bảo cao quư, tối thượng ở trên đời, là lời dạy của bậc Đạo Sư, gồm có chín thể loại, đă khéo được giải rộng, khéo được phân tích.

 

91/- Caturāsītisahassāni dhammakkhandhaṃ anūnakaṃ,
pāṇinaṃ anukampāya desit’ādiccabandhunā.


Tám mươi bốn ngàn Pháp uẩn không thiếu sót đă được đấng quyến thuộc của mặt trời thuyết giảng v́ ḷng thương tưởng chúng sanh.

 

92/- Amatuttamaṃ varadhammaṃ saṃsāraparimocanaṃ,
sabbadukkhakkhayaṃ maggaṃ desesi amatosadhaṃ.


Ngài đă thuyết giảng về Niết Bàn tối thượng, là Pháp cao quư, hoàn toàn thoát khỏi luân hồi, đoạn tận mọi khổ đau, là nước cam lồ bất tử.”

 

93/- Sutvāna vacanaṃ rājā bhikkhusaṅghassa bhāsitaṃ,
pāmojjahāsabahulo vedajāto narāsabho,
sarājikā parisāya imaṃ vākyaṃ udāhari.


Sau khi lắng nghe lời thuyết giảng của hội chúng tỳ khưu, đức vua là vị đứng đầu dân chúng tràn trề nỗi vui mừng hớn hở, được sanh khởi trí tuệ, đă nói với tập thể hoàng gia lời này:

 

94/- Caturāsītisahassāni paripuṇṇaṃ anūnakaṃ,
desitaṃ buddhaseṭṭhassa dhammakkhandhaṃ mahārahaṃ.


“Tám mươi bốn ngàn Pháp uẩn vô cùng quư giá của đức Phật tối cao đă được thuyết giảng đầy đủ, không thiếu sót.

 

95/- Caturāsītisahassāni ārāme kārayāmahaṃ,
ekekadhammakkhandhassa ekekārāmaṃ pūjayaṃ.


Trẫm sẽ cho xây dựng tám mươi bốn ngàn tu viện và sẽ cúng dường mỗi một tu viện đến mỗi một Pháp uẩn.”

 

96/- Channavutikoṭidhanaṃ vissajjetvāna khattiyo,
tameva divasaṃ rājā āṇāpesi ca tāvade.


Vị Sát-đế-lỵ đă xuất ra tài sản là chín mươi sáu ngàn koṭi. Và nội trong ngày hôm ấy, đức vua đă truyền lệnh ngay lập tức.

 

97/- Tasmiṃ kāle jambudīpe nagarā caturāsītiyo,
ekekanagaraṭṭhāne paccekārāmaṃ kārayi.


Vào thời bấy giờ, ở Jambudīpa có tám mươi bốn ngàn thành phố, đức vua đă cho xây dựng mỗi một tu viện tại địa bàn của mỗi một thành phố.

 

98/- Anto tīṇi ca vassāni vihāraṃ katvāna khattiyo,
pariniṭṭhite ārāme pūjaṃ sattāha kārayi.


Trong ṿng ba năm, vị Sát-đế-lỵ đă cho xây dựng chỗ cư ngụ và khi tu viện được hoàn tất đă cho tổ chức lễ cúng dường bảy ngày.

 

Chaṭṭhamo paricchedo


Chương thứ sáu.

 

Bhāṇavāraṃ chaṭṭhamaṃ.


Tụng phẩm thứ sáu.

Đầu trang | Mục lục | 01 | 02| 03| 04| 05| 06| 07| 08| 09| 10| 11| 12| 13| 14| 15| 16| 17| 18| 19| 20| 21| 22|
Cập nhập ngày: 28-11-2006

Kỹ thuật tŕnh bày: Minh Hạnh & Chánh Hạnh