DVĀDASAMO PARICCHEDO


CHƯƠNG THỨ MƯỜI HAI

 

1/- Vālavījanimuṇhīsaṃ khaggañ chattañca pādukaṃ,
veṭhanaṃ sārapāmaṅgaṃ bhiṅkāraṃ nandivaṭṭakaṃ.


Cây quạt lông thú, vương miện, thanh gươm, lọng che, giày dép, khăn đội đầu, dây thắt lưng loại mịn, bình rưới nước, vòng hoa khánh hỷ.

 

2/- Sivikaṃ gaṅgodakaṃ saṅkhaṃ vatthakoṭiṃ adhovimaṃ,
suvaṇṇapātiṃ kaṭacchuṃ mahagghaṃ hatthapuñchanaṃ.


Kiệu khiêng, nước sông Gaṅgā, tù và vỏ ốc, vải hạng nhất không cần phải giặt, khay vàng, muỗng, khăn tay đắt giá.

 

3/- Anotattodakaṃ kājaṃ uttamaṃ haricandanaṃ,
aruṇavaṇṇamattikaṃ añjanaṃ nāgamāhaṭaṃ.


Gùi nước từ hồ Anotatta, trầm hương vàng tuyệt hảo, đất sét (để tắm) màu ráng đỏ, thuốc bôi mắt do loài rồng mang lại.

 

4/- Harītakaṃ āmalakaṃ mahagghaṃ amatosadhaṃ,
saṭṭhivāhasataṃ sāliṃ sugandhaṃ sukamāhaṭaṃ,
puññakammābhinibbattaṃ pāhesi ’sokasavhayo.


Hai loại trái cây harītakaāmalaka, nước cam-lồ bất tử vô cùng giá trị, một trăm sáu mươi xe tải gạo sāli thơm ngát được loài chim két mang lại là vật được phát sanh lên do việc làm phước thiện đã được đức vua tên Asoka gởi tặng.

 

5/- Ahaṃ buddhañca dhammañca saṅghañca saraṇaṃ gato,
upāsakattaṃ desemi sakyaputtassa sāsane.


(Và nhắn rằng): “Trẫm đã quy y đức Phật, đức Pháp, và đức Tăng. Trẫm đã tuyên bố tư cách cư sĩ trong Giáo Pháp của người con trai dòng dõi Sākya.

 

6/- Imesu tīsu vatthūsu uttame jinasāsane,
tvampi cittaṃ pasādehi saraṇaṃ upehi satthuno.


Ngài cũng hãy đặt tâm tín thành vào ba đối tượng này, vào Giáo Pháp tối thượng của đấng Chiến Thắng, và hãy nương tựa vào bậc Đạo Sư.”

 

7/- Imaṃ sambhāvanaṃ katvā dhammāsoko mahāyaso,
pāhesi devānampiyassa gatadūtena te saha.


Sau khi thể hiện sự tôn vinh này, đức vua Asoka công chính có danh tiếng lẫy lừng đã gởi tặng những vật ấy theo đoàn sứ giả đã được vua Devānampiya phái đến.

 

8/- Asokārāme pavare bahū therā mahiddhikā,
laṅkātalānukampāya mahindaṃ etadabruvuṃ.


Ở tại tu viện Asokārāma cao quý, nhiều vị trưởng lão có đại thần lực vì lòng thương tưởng đối với xứ Laṅkā đã nói với Mahinda điều này:

 

9/- Samayo laṅkādīpamhi patiṭṭhāpetu sāsanaṃ,
gacchatu tvaṃ mahāpuññapasāda dīpalaṅkataṃ.


“Là thời điểm để thiết lập Giáo Pháp ở trên hòn đảo Laṅkā. Hỡi vị có niềm tin và phước báu lớn lao, ngài hãy đi đến hòn đảo Laṅkā.”

 

10/- Paṇḍito sutasampanno mahindo dīpajotako,
saṅghassa vacanaṃ sutvā sampaṭicchi sahaggaṇo.


Bậc quang đăng Mahinda là vị thông thái, thành tựu việc học tập, đã nghe theo lời khuyên của hội chúng, và cùng với nhóm đã đồng ý.

 

11/- Ekaṃsaṃ cīvaraṃ katvā paggahetvāna añjaliṃ,
abhivādayitvā sirasā gacchāmi dīpalaṅkataṃ.


Rồi ngài đã đắp y một bên vai, chắp tay lên, đê đầu đảnh lễ (nói rằng): “Tôi sẽ đi đến hòn đảo Laṅkā.”

 

12/- Mahindo nāma nāmena saṅghatthero tadā ahū,
iṭṭhiyo uttiyo thero bhaddasālo ca sambalo.


Khi ấy, vị tên Mahinda là trưởng lão của hội chúng gồm có trưởng lão Iṭṭhiya, Uttiya, Bhaddsāla, và Sambala.

 

13/- Sāmaṇero ca sumano chaḷabhiñño mahiddhiko,
ime pañca mahātherā chaḷabhiññā mahiddhikā.


Với vị sa-di Sumana có đại thần lực và sáu thắng trí. Năm vị đại trưởng lão ấy cũng có đại thần lực và sáu thắng trí.

 

14/- Asokārāmamhā nikkhantā caramānā sahaggaṇā,
anupubbena caramānā vedissagiriyaṃ gatā,
vihāre vedissagire vasitvā yāvadicchakaṃ.


Khi đã rời khỏi tu viện Asoka ra đi và trong lúc tuần tự du hành, cả nhóm đã đi đến Vedissagiri và đã trú ngụ tại tu viện Vedissagiri (một thời gian) thuận theo ý thích.

 

15/- Mātaraṃ anusāsetvā saraṇe sīle uposathe,
patiṭṭhapesi saddhamme sāsane dīpavāsinaṃ.


Sau khi giáo huấn người mẹ về sự quy y, giới cấm, ngày Uposatha, ngài Mahinda đã an trú các cư dân của đảo vào các lời giảng dạy ở trong Chánh Pháp.

 

16/- Sāyaṇhe paṭisallāna mahindathero mahāgaṇī,
samayaṃ vā asamayaṃ vā vicintesi raho gato.


Vào thời thiền tịnh lúc chiều tối, trưởng lão Mahinda là vị có hội chúng lớn đã đi đến nơi thanh vắng suy nghĩ về thời điểm hoặc chưa phải là thời điểm.

 

17/- Therasaṅkappamaññāya sakko devānamissaro,
pāturahū therasammukhe santike ajjhabhāsatha.


Biết được sự suy nghĩ của vị trưởng lão, Sakka là chúa của chư thiên đã hiện ra trước mặt vị trưởng lão và đã nói với vị ấy rằng:

 

18/- Kālo te hi mahāvīra laṅkādīpappasādanaṃ,
khippaṃ gaccha varadīpaṃ anukampāya pāṇinaṃ.


“Thưa bậc đại hùng, đã đúng thời điểm cho ngài về việc hóa độ hòn đảo Laṅkā. Vì lòng thương tưởng chúng sanh, ngài hãy mau đi đến hòn đảo cao quý.

 

19/- Laṅkādīpavaraṃ gaccha dhammaṃ desehi pāṇinaṃ,
pakāsaya catusaccaṃ satte mocehi bandhanā.


Ngài hãy đi đến hòn đảo Laṅkā cao quý, hãy thuyết giảng Giáo Pháp cho chúng sanh, hãy giải thích về Tứ Diệu Đế, và hãy giải thoát chúng sanh khỏi sự trói buộc.

 

20/- Sāsanaṃ buddhajeṭṭhassa laṅkādīpamhi jotaya,
byākataṃ c’asi nāgassa bhikkhusaṅgho ca sammato.


Ngài hãy làm rạng rỡ Giáo Pháp của đức Phật tối thượng ở hòn đảo Laṅkā. Ngài đã được đức Phật tiên tri và hội chúng tỳ khưu đã đồng ý.

 

21/- Ahaṃ ca veyyāvatikaṃ laṅkādīpassa cāgame,
karomi sabbakiccāni samayo pakkamituṃ tayā.


Trong việc đi đến hòn đảo Laṅkā, tôi sẽ là người phục vụ và sẽ làm tất cả các phận sự. Đã đến lúc ngài khởi hành.”

 

22/- Sakkassa vacanaṃ sutvā mahindo dīpajotako,
bhagavatā subyākato bhikkhusaṅghena sammato.


Sau khi lắng nghe lời nói của vị Sakka, bậc quang đăng Mahinda (suy nghĩ rằng): “Ta đã được đức Thế Tôn xác định và đã được hội chúng tỳ khưu đồng ý.

 

23/- Sakko ca maṃ samāyāci patiṭṭhāmi sāsanaṃ,
gacchām’ahaṃ tambapaṇṇiṃ nipuṇā tambapaṇṇikā.


Và Sakka đã thỉnh cầu ta. Ta sẽ thiết lập Giáo Pháp. Ta sẽ đi đến Tambapaṇṇi. Những người ở Tambapaṇṇi quả là hoàn hảo

 

24/- Sabbadukkhakkhayaṃ maggaṃ na suṇanti subhāsitaṃ,
tesaṃ pakāsayissāmi gamissaṃ dīpalaṅkataṃ.


Họ chưa được nghe về đạo lộ đoạn tận mọi khổ đau đã khéo được thuyết giảng. Ta sẽ giảng giải cho họ. Ta sẽ đi đến hòn đảo Laṅkā.”

 

25/- Kālaññū samayaññū ca mahindo asokatrajo,
gamanaṃ laṅkātalaṃ ñatvā āmantayi sahaggaṇe.


Là người biết thời biết lúc, Mahinda con trai của đức vua Asoka đã nhận định việc đi đến xứ sở Laṅkā và đã thông báo trong nhóm.

 

26/- Mahindo gaṇapāmokkho samānupajjhāyake catu,
sāmaṇero ca sumano bhaṇḍuko ca upāsako.


Ngài Mahinda là thủ lãnh của nhóm gồm bốn vị có chung thầy tế độ, vị sa-di Sumana, và cư sĩ Bhaṇḍuka.

 

27/- Channañca chaḷabhiññāṇaṃ pakāsesi mahiddhiko,
āyāma bahulaṃ ajja laṅkādīpaṃ varuttamaṃ.


Ngài Mahinda có đại thần lực đã nói với sáu vị có sáu thắng trí rằng: “Ngày hôm nay, chúng ta hãy đi đến hòn đảo Laṅka phong phú và cao quý nhất hạng.

 

28/- Pasādema bahusatte patiṭṭhāpessāma sāsanaṃ,
sādhūti te paṭissutvā sabbe attamanā ahū.


Chúng ta hãy tạo niềm tin cho nhiều người. Chúng ta sẽ thiết lập Giáo Pháp.” Các vị ấy đã đáp rằng: “Lành thay!” Và tất cả đều hoan hỷ.

 

29/- Gacchāma bhante samayo nage missakanāmake,
rājā ca so nikkhamati katvāna migavaṃ purā.


“Thưa ngài, đã đến lúc chúng ta hãy đi đến ngọn núi tên là Missaka. Vị vua (Devānampiya) ấy đã rời khỏi thành đi săn thú.”

 

30/- Sakko tuṭṭho vāsavindo mahindatherassa santike,
paṭisallānagatassa idaṃ vacanamabravi.


Chúa trời Sakka đã hoan hỷ nói lời ấy với trưởng lão Mahinda đang trú vào thiền tịnh.

 

31/- Vedissagiriye ramme vasitvā tiṃsa rattiyo,
kālañca gamanaṃ ’dāni gacchāma dīpamuttamaṃ.


(Ngài Mahinda nói rằng): “Chúng ta đã trú ngụ tại Vedissagiri xinh đẹp ba mươi đêm. Bây giờ là thời điểm khởi hành. Chúng ta hãy đi đến hòn đảo tối thắng.”

 

32/- Palinā jambudīpato haṃsarājā’va ambare,
evam uppatitā therā nipatiṃsu naguttame.


Theo đường không trung từ Jambudīpa, các vị trưởng lão, như những chim thiên nga chúa ở trên bầu trời, đã bay lên như thế rồi đã đáp xuống ngọn núi cao nhất (ở hòn đảo Laṅkā).

 

33/- Purato puraseṭṭhassa pabbate meghasannibhe,
patiṭṭhahiṃsu missakakūṭamhi haṃsā’va nagamuddhani.


Về phía đông của thành phố tuyệt vời trên ngọn núi tợ như đám mây, các vị đã cư ngụ tại đỉnh núi Missaka trông như những con chim thiên nga đậu trên ngọn cây.

 

34/- Mahindo nāma nāmena saṅghatthero tadā ahū,
iṭṭhiyo uttiyo thero bhaddasālo ca sambalo.


Khi ấy, vị tên Mahinda là trưởng lão của hội chúng gồm có trưởng lão Iṭṭhiya, Uttiya, Bhaddsāla, và Sambala.

 

35/- Sāmaṇero ca sumano bhaṇḍuko ca upāsako,
sabbe mahiddhikā ete tambapaṇṇipasādakā.


Thêm vị sa-di Sumana và cư sĩ Bhaṇḍuka. Tất cả các vị ấy đều có đại thần lực và là những người tạo niềm tin cho xứ Tambapaṇṇi.

 

36/- Tattha uppatito thero haṃsarājā ’va ambare,
purato puraseṭṭhassa pabbate meghasannibhe.


Giống như chim thiên nga chúa trên bầu trời, vị trưởng lão đã bay lên nơi ấy ở về phía đông của thành phố tuyệt vời, trên ngọn núi trông giống như đám mây.

 

37/- Patiṭṭhito missakakūṭamhi haṃsā ’va nagamuddhani,
tasmiñca samaye rājā tambapaṇṇimhi issaro.


Ngài đã đáp xuống đỉnh núi Missaka, trông như chim thiên nga đậu xuống ngọn cây. Và vào lúc bấy giờ, có vị vua là chúa tể của xứ Tambapaṇṇi.

 

38/- Devānampiyatisso so muṭasīvassa atrajo,
asoko abhisitto ca vassaṃ aṭṭharasaṃ ahū.


Vị ấy là Devānampiyatissa con trai của Muṭasīva. (Khi ấy) đức vua Asoka được phong vương đã mười tám năm.

 

39/- Tissassa ca abhisitte sattamāse anūnake,
mahindo dvādasavasse jambudīpā idhāgato.


Khi đức vua Devānampiyatissa đã được đăng quang tròn đủ bảy tháng, ngài Mahinda được mười hai niên lạp đã từ Jambudīpa đi đến nơi ấy.

 

40/- Gimhāne pacchime māse jeṭṭhamāse uposathe,
mahindo gaṇapāmokkho missakagirim āgato.


Vào ngày Uposatha của tháng Jeṭṭha là tháng cuối cùng của mùa nóng, ngài Mahinda là vị lãnh đạo của nhóm đã đi đến ngọn núi Missaka.

 

41/- Migavaṃ nikkhami rājā missakagirim upāgami,
devo gokaṇṇarūpena rājānaṃ abhidassayi.


Đức vua đã xuất hành đi săn thú và đã ngự đến núi Missaka. Có vị trời trong lốt con nai đã xuất hiện phía trước đức vua.

 

42/- Disvāna rājā gokaṇṇaṃ tararūpo’va pakkami,
piṭṭhito anugacchanto pāvisi pabbatantaraṃ.


Sau khi nhìn thấy, đức vua với dáng điệu vội vã đã lao tới con nai. Trong khi đuổi theo ở phía sau, đức vua đã tiến vào khu thung lũng.

 

43/- Tattheva antaradhāyi yakkho therassa sammukhā,
nisinnaṃ theraṃ addakkhi bhīto rājā ahū tadā.


Chính tại nơi ấy, con dạ-xoa đã biến mất ở phía trước vị trưởng lão. Đức vua đã nhìn thấy vị trưởng lão đang ngồi. Khi ấy, đức vua đã hoảng sợ.

 

44/- Mameva passatu rājā eko ekaṃ na bhāyati,
samāgate balakāye atho passatu bhikkhūnaṃ.


(Ngài Mahinda suy nghĩ rằng): “Đức vua chỉ một mình, hãy khiến ngài nhìn thấy chỉ một mình ta thôi thì ngài sẽ không hoảng sợ. Đến khi đoàn quân kéo đến, khi ấy hãy cho ngài nhìn thấy các vị tỳ khưu.”

 

45/- Tatth’addasaṃ khattiyabhūmipālaṃ
paduṭṭharūpaṃ migavaṃ carantaṃ,
nāmena taṃ ālapi khattiyassa
āgaccha tissā’ti tadā avoca


Tại nơi ấy, ngài Mahinda đã nhìn thấy vị lãnh chúa dòng Sát-đế-lỵ trong bộ dạng ác độc đang tham dự cuộc săn thú. Khi ấy, ngài đã gọi đức vua bằng tên của dòng Sát-đế-lỵ và đã nói rằng: “Này Tissa, hãy đi đến.”

 

46/- Ko’yaṃ kāsāvavasano muṇḍo saṅghāṭipāruto,
eko adutiyo vācaṃ bhāsati maṃ amānusiṃ.


(Đức vua tự hỏi rằng): “Người mặc vải màu ca-sa, cạo đầu, trùm tấm khoác ngoài này là ai, chỉ có một mình không người thứ hai mà lại nói với ta lời nói không giống loài người?”

 

47/- Samaṇā mayaṃ mahārāja dhammarājassa sāvakā,
tam eva anukampāya jambudīpā idhāgatā.


(Ngài Mahinda đáp rằng): “Tâu đại vương, chúng tôi là sa-môn đệ tử của đấng Pháp Vương đã từ Jambudīpa đi đến nơi đây vì lòng thương tưởng đến chính ngài đó.”

 

48/- Āvudhaṃ nikkhipitvāna ekamantaṃ upāvisi,
nissajja rājā sammodi bahuṃ atthūpasaṃhitaṃ.


Đức vua đã hạ vũ khí xuống, đến gần một bên, rồi ngồi xuống và trao đổi thân thiện liên quan đến nhiều vấn đề.

 

49/- Sutvā therassa vacanaṃ nikkhipitvāna āvudhaṃ,
tato theraṃ upagantvā sammoditvā ca pāvisi.


Lắng nghe lời nói của vị trưởng lão, đức vua đã hạ vũ khí xuống sau đó đã đến gần vị trưởng lão chào hỏi rồi ngồi xuống.

 

50/- Amaccabalakāyo ca anupubbaṃ samāgatā,
parivāretvāna aṭṭhaṃsu cattārīsasahassiyo.


Các quan viên và đoàn quân bốn mươi ngàn người đã lần lượt tụ hội lại đứng vây quanh.

 

51/- Disvā nisinnatherānaṃ balakāye samāgate,
aññe atthi bahū bhikkhū sammāsambuddhasāvakā.


Khi đoàn quân đã tụ tập lại, đức vua nhìn thấy các vị trưởng lão đang ngồi (nên đã hỏi rằng): “Có nhiều vị tỳ khưu khác là đệ tử của đấng Chánh Đẳng Giác không?”

 

52/- Tevijjā iddhipattā ca cetopariyakovidā,
khīṇāsavā arahanto bahū buddhassa sāvakā.


“Có nhiều vị đệ tử của đức Phật là các bậc A-la-hán, lậu hoặc đã tận, có tam minh, thành tựu thần thông, và biết được tâm của người khác.”

 

53/- Ambopamena jānitvā paṇḍito’ti arindamo,
desesi tattha suttantaṃ cūḷahatthipadopamaṃ.


Bằng ví dụ trái xoài, ngài Mahinda biết được rằng đức vua là “Bậc trí tuệ!” nên đã thuyết giảng tại nơi ấy bài kinh “Tiểu Kinh Dụ Dấu Chân Voi.”1

 

54/- Sutvāna taṃ dhammavaraṃ saddhājātova buddhimā,
cattārīsasahassāni saraṇaṃ te upāgamuṃ.


Giống như bậc trí tuệ đã phát khởi niềm tin, bốn mươi ngàn người ấy sau khi lắng nghe bài Pháp cao quý ấy đã quy y.

 

55/- Tato attamano rājā tuṭṭhahaṭṭho pamodito,
āmantayi bhikkhusaṅghaṃ gacchāma nagaraṃ puraṃ.


Sau đó, với tâm hoan hỷ, mừng rỡ, phấn chấn, vui sướng, đức vua đã thỉnh mời hội chúng tỳ khưu rằng: “Chúng ta hãy đi vào kinh thành.”

 

56/- Devānampiyarājānaṃ subbataṃ sabalavāhanaṃ,
paṇḍitaṃ buddhisampannaṃ khippameva pasādayi.


Ngài Mahinda đã tiếp độ niềm tin đến đức vua Devānampiya cùng với đoàn quân nhiệt tình, trí tuệ, được thành tựu sự giác ngộ một cách vô cùng nhanh chóng.

 

57/- Sutvāna rañño vacanaṃ mahindo etad abravi,
gacchasi tvaṃ mahārāja vasissāma mayaṃ idha.


Lắng nghe lời nói của đức vua, ngài Mahinda đã nói điều này: “Tâu đại vương, xin ngài hãy di hành. Còn chúng tôi sẽ cư ngụ tại nơi này.”

 

58/- Uyyojetvāna rājānaṃ mahindo dīpajotako,
āmantayi bhikkhusaṅghaṃ pabbājessāma bhaṇḍukaṃ.


Sau khi tiễn đưa đức vua, bậc quang đăng Mahinda đã nói với hội chúng tỳ khưu rằng: “Chúng ta hãy xuất gia cho Bhaṇḍuka.”

 

59/- Therassa vacanaṃ sutvā sabbe turitamānasā,
gāmasīmaṃ vicinitvā pabbājetvāna bhaṇḍukaṃ.


Nghe theo lời nói của vị trưởng lão, tất cả với tâm trí bén nhạy đã xác định ranh giới là ngôi làng rồi đã xuất gia cho Bhaṇḍuka.

 

60/- Upasampadañca tatth’eva arahattañca pāpuṇi,
girimuddhani ṭhito thero sārathiṃ ajjhabhāsatha.


Vị Bhaṇḍuka ấy đã thành tựu việc tu lên bậc trên và phẩm vị A-la-hán tại chính nơi ấy.2 Đứng ở trên đỉnh núi, vị trưởng lão đã nói với người đánh xe rằng:

 

61/- Alaṃ yānaṃ na kappati paṭikkhittaṃ tathāgataṃ,
uyyojetvāna sārathiṃ thero vasī mahiddhiko.


“Thôi đi! Xe cộ là không được phép; đức Như Lai đã ngăn cấm.” Rồi vị trưởng lão có đại thần lực và sự thu thúc đã cho người đánh xe trở về.

 

62/- Gagane haṃsarājā va pakkamiṃsu vehāsayā,
orohetvāna gaganā paṭhaviyaṃ suppatiṭṭhitā.


Giống như chim thiên nga chúa bay ở trên không trung, vị trưởng lão đã lướt đi trên bầu trời rồi đã từ trên không trung hạ xuống đứng vững vàng ở trên mặt đất.

 

63/- Nivāsanaṃ nivāsente pārupente ca cīvaraṃ,
disvāna sārathi tuṭṭho rājānañca pavedayi.


Khi nhìn thấy các vị ấy đang mặc hạ y và choàng thượng y, người đánh xe đã mừng rỡ trình báo lên đức vua.

 

64/- Pesetvā sārathiṃ rājā amacce ajjhabhāsatha,
maṇḍapaṃ paṭiyādetha pure antonivesane.


Sau khi phái người đánh xe đi, đức vua đã nói với các vị quan đại thần rằng: “Hãy cho chuẩn bị mái che trong kinh thành, ở tại nội cung.”

 

65/- Kumārā kumāriyo ca itthāgārañca deviyo,
dassanaṃ abhikaṅkhantā there passantu āgate.


Các hoàng tử, công chúa, phi tần cùng các cung nữ có ước muốn diện kiến hãy chiêm ngưỡng các vị trưởng lão đã đi đến.”

 

66/- Sutvāna rañño vacanaṃ amaccā kulajātikā,
antonivesanamajjhe akaṃsu dussamaṇḍapaṃ.


Nghe theo lời nói của đức vua, các viên quan đại thần xuất thân dòng tộc cao quý đã thực hiện mái che bằng vải ở chính giữa nội cung.

 

67/- Vitānaṃ chāditaṃ vatthaṃ suddhaṃ setaṃ sunimmalaṃ,
dhajasaṅkhaparivāraṃ setavatthehi’laṅkataṃ.


Mái che được lợp bằng vải trắng sạch sẽ không bị lấm nhơ có những lá cờ và vỏ ốc viền quanh, và được điểm tô bằng những tấm vải trắng.

 

68/- Vikiṇṇavālukā setā setapupphasusaṇṭhitā,
alaṅkatamaṇḍapā setā himagabbhasamūpamā.


Cát được trải ra có màu trắng và khéo được xen lẫn với những bông hoa trắng. Mái che đã được trang hoàng có màu trắng trông giống như gian phòng bằng tuyết.

 

69/- Sabbasetehi vatthehi ’laṅkāritvāna maṇḍapaṃ,
abbhantaraṃ samaṃ katvā rājānaṃ paṭivedayuṃ.


Sau khi đã trang hoàng mái che bằng các tấm vải toàn màu trắng và đã làm bằng phẳng bên trong, họ đã trình báo lên đức vua rằng:

 

70/- Pariniṭṭhitaṃ mahārāja maṇḍapaṃ sukataṃ subhaṃ,
āsanaṃ deva jānāhi pabbajitānulomikaṃ.


“Tâu đại vương, mái che được khéo thực hiện và xinh đẹp đã hoàn thành. Tâu bệ hạ, xin ngài hãy xem xét chỗ ngồi thích hợp đối với các vị xuất gia.”

 

71/- Taṃ khaṇe sārathi rañño anuppatto pavedituṃ,
yānaṃ deva na kappati bhikkhusaṅghassa nisīdituṃ.


Vào giây phút ấy, người đánh xe đã đi đến để trình báo với đức vua rằng: “Tâu bệ hạ, xe cộ là không được phép để ngồi đối với hội chúng tỳ khưu.

 

72/- Ayaṃ acchariyaṃ deva sabbe therā mahiddhikā,
paṭhamaṃ uyyojetvā maṃ pacchā hutvā pur’āgatā.


Tâu bệ hạ, có điều phi thường này là tất cả các vị trưởng lão đều có đại thần lực. Họ đã cho thần đi trước, họ đi sau nhưng lại đến trước.

 

73/- Uccāsayanamahāsayanaṃ bhikkhūnaṃ na ca kappati,
bhummattharaṇaṃ jānātha therā āgacchanti te.


Chỗ ngồi cao và chỗ ngồi rộng lớn là không thích hợp đối với các vị tỳ khưu. Xin bệ hạ hãy sử dụng tấm thảm trải. Các vị trưởng lão ấy đang ngự đến.”

 

74/- Sārathissa vaco sutvā rājāpi tuṭṭhamānaso,
paccuggantvāna therānaṃ abhivādetvā sammodayi.


Lắng nghe lời nói của người đánh xe, đức vua càng thêm hoan hỷ đã đi ra đón rước các vị trưởng lão, đã đảnh lễ, và đã chào hỏi thân thiện.

 

75/- Pattaṃ gahetvā therānaṃ saha therehi khattiyo,
pūjento gandhamālehi rājadvāram upāgami.


Sau khi nhận lấy bình bát của các vị trưởng lão và trong lúc cúng dường bằng các tràng hoa và hương thơm, vị Sát-đế-lỵ đã cùng với các vị trưởng lão đi đến cửa hoàng cung.

 

76/- Rañño antepuraṃ thero pavisitvāna maṇḍapaṃ,
addasaṃ bhūmi paññattaṃ āsanaṃ dussalaṅkataṃ,
nisīdiṃsu paññatte āsane dussapasārite.


Vào đến nội cung của đức vua, vị trưởng lão đã đi vào mái che và nhìn thấy mặt đất có chỗ ngồi đã được sắp đặt và đã được trang hoàng bằng vải. Các vị đã ngồi xuống ở chỗ ngồi đã được sắp đặt và đã được trải lên lớp vải.

 

77/- Nisinne udakaṃ datvā yāguṃ datvāna khajjakaṃ,
paṇītaṃ bhojanaṃ rājā sahatthā sampavārayi.


Khi các vị đã ngồi xuống, đức vua đã tự tay dâng nước, cháo, vật thực hảo hạng cứng mềm và đã làm cho các vị được thỏa mãn.

 

78/- Bhuttāvibhojanaṃ theraṃ onītapattapāṇinaṃ,
āmantayi anulādeviṃ saha antoghare jane.


Khi vị trưởng lão đã thọ thực xong và bàn tay đã rời khỏi bình bát, (đức vua) đã bảo hoàng hậu Anulā và mọi người ở trong nội cung rằng:

 

79/- Okāsaṃ jānātha devi kālo te payirupāsituṃ,
therānaṃ abhivādetvā pūjetvā yāvadicchakaṃ.


“Này ái hậu, hãy nhận biết cơ hội, giờ là lúc tôn vinh các vị ấy. Hãy đảnh lễ các vị trưởng lão và hãy cúng dường theo như ước muốn.”

 

80/- Anulā nāma sā devī itthī pañcasatāvatā,
upasaṅkamitvā therānaṃ abhivādetvā upāvisi.


Vị hoàng hậu ấy tên là Anulā cùng với năm trăm cung nữ đã đến gần đảnh lễ các vị trưởng lão rồi đã ngồi xuống.

 

81/- Tesaṃ dhammaṃ adesesi petavatthuṃ bhayānakaṃ,
vimānaṃ saccasaṃyuttaṃ pakāsesi mahāgaṇī.


Vị có hội chúng lớn (Mahinda) đã thuyết giảng Giáo Pháp cho họ về Chuyện Ngạ Quỷ là nguồn gây nên nỗi sợ hãi rồi đã giải thích về Chuyện Thiên Cung và Tương Ưng Sự Thật.

 

82/- Sutvāna taṃ dhammavaraṃ saddhā jātā vibuddhimā,
anulāmahesiyā saddhiṃ itthī pañcasatā tadā,
sotāpattiphale’ṭṭhaṃsu paṭhamābhisamayo ahū.


Sau khi lắng nghe Giáo Pháp cao quý ấy, hoàng hậu Anulā cùng với năm trăm cung nữ có đức tin đã được sanh khởi trí tuệ toàn hảo và đã thành tựu quả vị Dự Lưu vào lúc ấy; (đây là) sự chứng đạt lần thứ nhất.

 

Dvādasamo paricchedo.


Chương thứ mười hai.

 

Bhāṇavāraṃ dvādasamaṃ.


Tụng phẩm thứ mười hai

Ðầu trang | Mục lục | 01 | 02| 03| 04| 05| 06| 07| 08| 09| 10| 11| 12| 13| 14| 15| 16| 17| 18| 19| 20| 21| 22|
Cập nhập ngày: 28-11-2006

Kỹ thuật trình bày: Minh Hạnh & Chánh Hạnh