Namo tassa bhagavato arahato sammāsambuddhassa


Kính lễ đức Thế Tôn, bậc A-la-hán, đấng Chánh Biến Tri!

 

PAṬHAMO PARICCHEDO


CHƯƠNG THỨ NHẤT

 

1/- Dīpāgamanaṃ buddhassa dhātu ca bodhiy’āgamaṃ,
saṅgahācariyavādañca dīpamhi sāsan’āgamaṃ,
narindāgamanaṃ vaṃsaṃ kittayissaṃ, suṇātha me.


Tôi sẽ thuật lại lịch sử việc đức Phật ngự đến ḥn đảo, việc ngự đến của Phật Pháp, việc ngự đến của xá-lợi và cội Bồ Đề ở trên ḥn đảo,1 và sự kết tập lời dạy của các vị thầy giáo thọ; xin hăy lắng nghe tôi.

 

2/- Pītipāmojjajananaṃ pasādeyyaṃ manoramaṃ,
anekākārasampannaṃ cittikatvā suṇātha me.


Quư vị hăy khởi tâm tịnh tín hoan hỷ được tṛn đủ về mọi phương diện là nguồn sanh lên sự vui mừng và phấn khởi, rồi xin lắng nghe tôi.

 

3/- Udaggacittā sumanā pahaṭṭhā tuṭṭhamānasā,
niddosaṃ bhaddavacanaṃ sakkaccaṃ sampaṭicchatha.


Với tâm phấn chấn, có thiện ư, được hài ḷng, và tâm trí hớn hở, quư vị hăy nghiêm trang ghi nhận lời nói tốt đẹp không có sai sót.

 

4/- Suṇātha sabbe paṇidhāya mānasaṃ
vaṃsaṃ pavakkhāmi paramparāgataṃ,
thutippasatthaṃ bahunābhivaṇṇitaṃ
etaṃ hi nānākusumaṃ’va ganthitaṃ.


Tất cả quư vị hăy thành tâm lắng nghe. Tôi sẽ công bố lịch sử đă được tuần tự truyền lại, được ca tụng bằng những lời khen ngợi, và đă được nhiều người diễn giảng; bởi v́ lịch sử này được ví như là vô số bông hoa đă được xâu kết lại.

 

5/- Anūpamaṃ vaṃsavaraggavāsinaṃ
apubbaṃ anaññaṃ tatha suppakāsitaṃ,
ariyāgataṃ uttamasabbhivaṇṇitaṃ
suṇātha dīpatthuti sādhusakkataṃ.


Quư vị hăy lắng nghe một cách cung kính và nghiêm trang lời ca tụng về ḥn đảo. Lời ca tụng ấy được lưu truyền trong ḍng tộc cao quư tột đỉnh, không có ǵ sánh bằng, vô tiền khoáng hậu, được tŕnh bày đầy đủ chính xác, được các thánh nhân lưu truyền lại, và được các bậc thượng nhân ca ngợi.

 

6/-Āsabhaṃ ṭhānapallaṅkaṃ acalaṃ daḷhamakampitaṃ,
caturaṅge patiṭṭhāya nisīdi purisuttamo.


Sau khi chặn đứng bốn đạo binh, bậc tối thắng của loài người đă ngồi xuống ở ngôi bảo tọa là chỗ ngồi cao quư, không thể di chuyển, vững chăi, và không bị lay động.

 

7/- Nisajja pallaṅkavare narāsabho
dumindamūle dipadānamuttamo,
na chambhati vītabhayova kesarī
disvāna māraṃ saha senavāhanaṃ.


Sau khi ngồi xuống ở ngôi bảo tọa cao quư ở tại gốc cây thuộc loài vương mộc, đấng cao quư của loài người, vị đứng đầu của loài hai chân, không bị run rẩy, tương tợ như con sư tử chẳng chút sợ hăi, đă quan sát Ma Vương cùng với đám quân binh.

 

8/-Māravādaṃ bhinditvāna vitrā setvā sasenakaṃ,
jayo attamano dhīro santacitto samāhito.


Vị chiến thắng tươi cười, dũng cảm, tâm tư an tịnh, định tĩnh đă bẻ găy lư luận của Ma Vương và đă khiến cho gă cùng với đám quân binh phải thoái lui.

 

9/- Vipassanākammaṭṭhānaṃ manasikārañca yoniso,
sammasi bahuvidhaṃ dhammaṃ anekākāranissitaṃ.


Và với tác ư đúng đắn, Ngài đă hoàn toàn an trú vào đề mục minh sát là pháp đa dạng và tuỳ thuận vào nhiều điều kiện.

 

10/-Pubbenivāsañāṇañca dibbacakkhuñca cakkhumā,
sammasanto mahāñāṇī tayo yāme atikkami.


Trong lúc thành tựu túc mạng minh và thiên nhăn minh, bậc Hữu Nhăn là vị đại trí tuệ đă trải qua ba canh của đêm.

 

11/-Tato pacchimayāmamhi paccayākāraṃ vivaṭṭayi,
anulomaṃ paṭilomañca manas’ākā sirīghano.


Sau đó vào canh cuối, đấng Quang Vinh toàn hảo đă khai mở và đă quán sát nhân duyên theo hai chiều thuận nghịch.

 

12/-Ñatvā dhammaṃ pariññāya pahānaṃ maggabhāvanaṃ,
anussari mahāñāṇī vimutto’padhisaṅkhaye.


Sau khi đă biết được Pháp và đă thấu hiểu được sự từ bỏ và sự thực hành Đạo Lộ, bậc Đại Trí khi được hoàn toàn giải thoát đă suy tưởng về việc chấm dứt tái sanh.

 

13/-Sabbaññutañāṇavaraṃ abhisambuddho mahāmuni,
buddho buddho’ti taṃ nāmaṃ samaññā paṭhamaṃ ahu.


Khi đă hoàn toàn giác ngộ trí tuệ Toàn Giác tối thượng, bậc Đại Hiền Triết đă được xác định với tên gọi đầu tiên ấy là “Đức Phật, bậc Giác Ngộ.”

 

14/-Bujjhitvā sabbadhammānaṃ udānaṃ katvā pabhaṅkaro,
tad’eva pallaṅkavare sattāhaṃ vītināmayi.


Sau khi đă được giác ngộ tất cả các Pháp và đă nói lên lời cảm hứng đấng Quang Minh đă trải qua bảy ngày ở ngay tại ngôi bảo tọa cao quư ấy.

 

15/-Samitasabbasantāso katakicco anāsavo,
udaggo sumano haṭṭho vicintesi bahuṃ sitaṃ.


Với phận sự đă được hoàn thành, mọi điều sợ hăi đă được lặng yên, không c̣n ô nhiễm, được phấn chấn, với tâm tư thơ thới, vui mừng, bậc Lậu Tận đă suy nghĩ về nhiều trách nhiệm.

 

16/-Khaṇe khaṇe laye buddho sabbalokamavekkhati,
pañcacakkhu vivaritvā olokesi bahujjane.


Trong khoảng thời gian vô cùng ngắn ngủi, đức Phật đă quán xét tất cả thế gian, sau đó đă khai mở năm loại nhăn quan2 và đă nh́n thấy nhiều loại chúng sanh.

 

17/-Anāvaraṇañāṇaṃ taṃ pesesi dipaduttamo,
addasa virajo satthā laṅkādīpaṃ varuttamaṃ.


Đấng Đạo Sư không chút nhiễm ô, bậc Tối Thượng của loài người, đă sử dụng trí tuệ không bị hạn chế ấy và đă nhận thấy ḥn đảo Laṅkā là cao quư nhất hạng.

 

18/-Sudesaṃ utusampannaṃ subhikkhaṃ ratanākaraṃ,
pubbabuddhamanuciṇṇaṃ ariyagaṇasevitaṃ.


(Laṅkā) là xứ sở tốt đẹp, khí hậu điều ḥa, vật thực dồi dào, có hầm mỏ châu ngọc, đă được chư Phật quá khứ ngự đến và tập thể Thánh nhân cư ngụ.

 

19/-Laṅkādīpavaraṃ disvā sukhettaṃ ariyālayaṃ,
ñatvā kālamakālañca vicintesi anuggaho.


Sau khi nhận thấy tính chất cao quư của ḥn đảo Laṅkā là có ruộng đồng màu mỡ và là trú xứ của các Thánh nhân, và sau khi quán xét về yếu tố hợp lư của thời điểm hoặc chưa đúng thời điểm, đấng Tế Độ đă suy nghĩ rằng:

 

20/-Laṅkādīpe imaṃ kālaṃ yakkhabhūtā ca rakkhasā,
sabbe buddhapaṭikuṭṭhā sakkā uddharituṃ balaṃ.


“Ở trên ḥn đảo Laṅkā vào thời điểm này, tất cả chúng sanh hàng dạ-xoa và lũ ác thần là đối nghịch với chư Phật, chúng có thể dương oai về quyền lực.

 

21/-Nīharitvā yakkhagaṇe pisāce avaruddhake,
khemaṃ katvāna taṃ dīpaṃ vasāpessāmi mānuse.


Sau khi chế ngự bè lũ dạ xoa và các ác thần trở thành những kẻ chịu sự khuất phục, ta sẽ thiết lập an ninh và giúp cho nhân loại sinh sống tại ḥn đảo ấy.

 

22/-Tiṭṭhantesu ime pāpe yāvatāyuṃ asesato,
sāsanantaraṃ bhavissati laṅkādīpavare tahiṃ.


Trong khi toàn thể các hạng xấu xa này tồn tại đến hết tuổi thọ, sẽ có cơ hội cho Giáo Pháp phát triển tại nơi ấy, trên ḥn đảo Laṅkā tuyệt vời.

 

23/-Uddharitvān’ahaṃ satte pasādetvā bahujjane,
ācikkhitvāna taṃ maggaṃ accutaṃ ariyāpathaṃ.


Sau khi di chuyển các chúng sanh ấy đi, ta sẽ tạo niềm tin cho số đông loài người và sẽ giảng giải đạo lộ ấy, tức là con đường Bất Tử của các Thánh nhân.

 

24/-Anupādā parinibbāmi suriyo atthaṅgato yathā,
parinibbute catumāse hessati paṭhamasaṅgaho.


Ta sẽ viên tịch Niết Bàn do không c̣n chấp thủ, tương tợ như mặt trời lặn xuống vậy. Sau khi viên tịch Niết Bàn được bốn tháng3 th́ sẽ có cuộc kết tập lần thứ nhất.

 

25/-Tato paraṃ vassasate vassān’aṭṭhārasāni ca,
tatiyo saṅgaho hoti pavattatthāya sāsanaṃ.


Sau đó một trăm năm sẽ có cuộc kết tập khác, rồi sau một trăm mười tám năm là cuộc kết tập lần thứ ba nhằm mục đích hoằng khai Giáo Pháp.

 

26/-Imasmiṃ jambudīpamhi bhavissati mahīpati,
mahāpuñño tejavanto dhammāsoko’ti vissuto.


Ở tại Jambudīpa này sẽ xuất hiện vị đại vương có phước báu lớn lao, có oai lực, được biết tiếng là ‘Asoka Công Chính.’

 

27/-Tassa rañño asokassa putto hessati paṇḍito,
mahindo sutasampanno laṅkādīpaṃ pasādaye.


Ngài Mahinda, con trai của vị vua Asoka ấy, sẽ là bậc trí tuệ thành tựu được kiến thức sẽ thiết lập niềm tin ở ḥn đảo Laṅkā.”

 

28/-Buddho ñatvā imaṃ hetuṃ bahuṃ atthūpasaṃhitaṃ,
kālākālaṃ imaṃ dīpaṃ ārakkhaṃ sugato kari.


Sau khi biết được nhân này sẽ đưa đến nhiều lợi ích, đức Phật Thiện Thệ đă tiến hành việc hộ tŕ ḥn đảo này cả ngày lẫn đêm.

 

29/-Pallaṅkaṃ animisañca caṅkamaṃ ratanāgharaṃ,
ajapālamucalindo khīrapālena sattamaṃ.


Ngôi bảo tọa, sự không chớp mắt, việc đi kinh hành, ngôi nhà Pháp Bảo, cội cây của những người chăn dê, rồng chúa Mucalinda, và (sự trú thiền tại) Khīrapāla là thứ bảy.

 

30/-Sattasattāhakaraṇīyaṃ katvāna vividhaṃ jino,
bārāṇasiṃ gato vīro dhammacakkaṃ pavattituṃ.


Đấng Chiến Thắng đă thực hiện việc cần được tiến hành theo nhiều phương thức trong bảy tuần lễ. Rồi vị Anh Hùng đă đi đến thành Bārāṇasī (Ba-la-nại)4để chuyển vận Pháp Luân.

 

31/-Dhammacakkaṃ pavattento pakāsento dhammamuttamaṃ,
aṭṭhārasannaṃ koṭīnaṃ dhammābhisamayo ahu.


Trong lúc chuyển vận Pháp Luân và thuyết giảng Giáo Pháp tối thượng, có mười tám koṭi5 chúng sanh đă thấu hiểu Giáo Pháp.

 

32/-Koṇḍañño Bhaddiyo Vappo Mahānāmo ca Assaji,
ete pañcamahātherā vimuttā ’nattalakkhaṇe.


Koṇḍañña, Bhaddiya, Vappa, Mahānāma, và Assaji, năm vị đại trưởng lăo này đă giải thoát vào lúc bài “Kinh Vô Ngă Tướng” (được giảng giải).

 

33/-Yasasahāyā cattāri puna paññāsadārake,
Bārāṇasi Isipatane vasanto uddharī jino.


Trong khi cư ngụ tại Isipatana thành Bārāṇasī, đấng Chiến Thắng cũng đă tiếp độ Yasa và bốn người bạn cùng với năm mươi chàng trai trẻ.

 

34/-Bārāṇasiṃ vasitvāna vutthavasso tathāgato,
kappāsike vanasaṇḍe uddhari Bhaddavaggiye.


Sau khi đă cư ngụ và trải qua mùa an cư mưa tại thành Bārāṇasī, đấng Thiện Thệ đă tiếp độ nhóm Bhadda ở tại khu rừng rậm Kappāsika.

 

35/-Anupubbaṃ caramāno Uruvelamavasari,
addasa virajo satthā Uruvelakassapaṃ jaṭiṃ.


Trong lúc tuần tự du hành, bậc Đạo Sư không c̣n ô nhiễm đă ngự đến Uruvelā và đă gặp vị đạo sĩ tóc bện Uruvela Kassapa.

 

36/-Agyāgāre ahināgaṃ damesi purisuttamo,
disvā acchariyaṃ sabbe nimantiṃsu tathāgataṃ.


Đấng Tối Thượng Nhân đă thuần phục con rồng ở ngôi nhà thờ lửa. Sau khi chứng kiến sự kỳ diệu, tất cả đă thỉnh mời bậc Thiện Thệ rằng:

 

37/-Hemantaṃ cātumāsamhi idha vihara Gotama,
mayaṃ taṃ niccabhattena sadā upaṭṭhahāmase.


“Này vị Gotama, hăy cư ngụ ở nơi đây trong bốn tháng mùa lạnh, chúng tôi sẽ luôn luôn hộ độ Ngài với vật thực thường kỳ.”

 

38/-Uruvelāyaṃ hemante vasamāno tathāgato,
jaṭile sapārisajje vinesi purisāsabho.


Trong khi cư ngụ ở tại Uruvelā vào mùa lạnh, đấng Thiện Thệ, vị Lănh Tụ của nhân loại, đă cảm hóa các đạo sĩ tóc bện và hội chúng (của họ).

 

39/-Mahāyaññaṃ pakappiṃsu Aṅgā ca Magadhā ubho,
disvā yaññe mahālābhaṃ vicintesi ayoniso.


Rồi cả hai xứ Aṅga và Magadha đă chuẩn bị đại lễ cúng tế. Uruvela Kassapa nh́n thấy lợi lộc lớn trong cuộc lễ cúng tế nên đă suy nghĩ sái quấy rằng:

 

40/-Mahiddhiko mahāsamaṇo ānubhāvañca taṃ mahā,
sace mahājanakāye vilubbeyya katheyya vā.
41/- Parihāyissati me lābho Gotamassa bhavissati,
aho nūna mahāsamaṇo nāgaccheyya samāgamaṃ.


“Vị đại sa-môn có đại thần lực. Nếu vị đại nhân thị hiện thần thông ấy hoặc thuyết giảng cho đại chúng, lợi lộc của ta sẽ bị mất mát và sẽ trở thành của Gotama. Vậy th́ vị đại sa-môn không nên đi đến nơi hội họp.”

 

42/-Caritaṃ adhimuttiñca āsayañca anusayaṃ,
cittassa soḷasākāre vijānāti tathāgato.


Đấng Thiện Thệ hiểu rơ mười sáu biểu hiện của tâm, sự vận hành, ư định, khuynh hướng, và sự tiềm tàng.

 

43/-Jaṭilassa cintitaṃ ñatvā paracittavidū muni,
piṇḍapātaṃ Kurudīpaṃ gantvāna mahatiddhiyā.


Sau khi biết được suy nghĩ của vị đạo sĩ tóc bện, đấng Mâu Ni là vị biết được tâm của người khác đă dùng đại thần lực đi đến khất thực ở xứ Kurudīpa.

 

44/-Anotattadahe buddho paribhuñjitvāna bhojanaṃ,
tattha jhānasamāpattiṃ samāpajji bahuṃ hitaṃ.


Đức Phật đă thọ dụng vật thực ở hồ Anotatta, rồi đă thể nhập thiền chứng có nhiều lợi ích ở tại nơi ấy.

 

45/-Buddhacakkhūhi lokaggo sabbalokaṃ vilokayi,
addasa virajo satthā Laṅkādīpavaruttamaṃ.


Bậc Đạo Sư không c̣n ô nhiễm, đấng Cao Cả của thế gian, đă dùng các Phật nhăn xem xét toàn thể thế giới và đă nh́n thấy ḥn đảo Laṅkā cao quư tuyệt vời:

 

46/-Mahāvanaṃ mahābhīmaṃ ahu Laṅkātalaṃ tadā,
nānāyakkhā mahāghorā luddā lohitabhakkhasā.


“Lúc này xứ sở Laṅkā có rừng bao la, rất kinh khiếp, có nhiều loại dạ-xoa vô cùng ghê rợn tàn bạo khát máu.

 

47/-Caṇḍā ruddā ca pisācā nānārūpavihesikā,
nānādhimuttikā sabbe sannipāte samāgatā.


Và có các hung thần hiểm ác tàn bạo khuấy nhiễu với nhiều h́nh thức. Dầu có khuynh hướng khác nhau, tất cả đă tụ hội lại sống chung thành đoàn.

 

48/-Tattha gantvāna taṃ majjhe vihiṃsetvāna rakkhase,
nīharite pisācete manussā honti issarā.


Ta sẽ đi đến nơi ấy ở giữa chúng rồi gây khó khăn cho hạng ác thần. Khi các hung thần này đă bị dời đi, loài người sẽ trở thành chủ nhân.”

 

49/-Imaṃ atthaṃ mahāvīro cintayitvā bahuṃ hitaṃ,
nabhaṃ abbhuggamitvāna Jambudīpā idhāgato.


Nghĩ rằng việc này có được nhiều lợi ích, đấng Đại Hùng đă bay lên không trung và đă từ Jambudīpa6 ngự đến nơi này.

 

50/-Yakkhasamāgamamajjhe upari siramatthake,
nisīdanaṃ gahetvāna dissamāno nabhe ṭhito.


Ngài đă cầm lấy tọa cụ rồi hiện ra đứng ở trên không trung chính giữa đám dạ-xoa, ở phía bên trên đỉnh đầu.

 

51/-Ṭhitaṃ passanti sambuddhaṃ yakkhasenā samāgatā,
buddho’ti taṃ na maññanti yakkho aññataro iti.


Đám binh lính dạ-xoa khi tụ hội lại đă nh́n thấy đấng Toàn Giác đang đứng yên, nhưng không biết Ngài là: “Đức Phật” và nghĩ rằng: “Một dạ-xoa nào đó.”

 

52/-Gaṅgātīre mahiyāsu pokkhalesu
patiṭṭhite thūpaṭṭhāne subhaṅgaṇe,
tasmiṃ padesamhi ṭhito naruttamo
samappito jhānasamādhimuttamaṃ.


Tại vị trí của ngôi bảo tháp Subhaṅgaṇa7 được thiết lập ở Mahiyā Pokkhala nơi bờ sông Gaṅgā, đấng Tối Thượng Nhân đă đứng tại khu vực ấy và đă thể nhập tầng định cao tột của thiền.

 

53/-Jhānaṃ lahuṃ khippanisantikāro
muni samāpajjati cittakkhaṇe,
sahasā samuṭṭhāti jhānakkhaṇiyā
samāpayi sucittehi pāramīgato.


Là vị thực hiện sự an tịnh ngắn hạn, đấng Mâu Ni nhập thiền một cách nhẹ nhàng trong một sát-na tâm và xuất ra khỏi sát-na thiền một cách nhanh chóng. Ngài đă đạt đến và trú vào ba-la-mật bằng các tâm thiện.

 

54/-Ṭhito nabhe iddhi vikubbamāno
yakkho va mahiddhi mahānubhāvo,
khaṇiyaṃ ghanā meghasahassadhārā
pavassati sītalavātaduddini.


Trong lúc đứng ở trên không trung và phô diễn thần thông trong tợ như gă dạ-xoa có đại thần lực có đại oai lực, Ngài tức thời tạo ra những đám mây đen mang theo hàng ngàn cụm mây với những cơn gió lạnh và bóng tối, rồi đổ mưa xuống.

 

55/-Ahaṃ karomi te uṇhaṃ mama detha nisīdituṃ,
atthi tejabalaṃ mayhaṃ parissayavinodanaṃ.


(Đức Phật đă nói rằng): “Ta sẽ làm cho các ngươi được ấm áp. Hăy nhường cho ta (khoảng trống) để ngồi xuống. Ta có năng lực sáng chói và việc tạo ra hiện tượng rối loạn là do ta.”

 

56/-Sace vinodituṃ sakkā nisīdāhi yathicchitaṃ,
sabbehi samanuññātaṃ tava tejabalaṃ kara.


(Các dạ-xoa nói rằng): “Nếu Ngài có thể xua đuổi đi (các sự rối loạn) th́ xin Ngài hăy ngồi xuống theo như ư muốn. Tất cả đều đồng ư. Xin Ngài hăy thể hiện năng lực sáng chói của Ngài.”

 

57/-Uṇhaṃ yācatha maṃ sabbe bhiyyo tejaṃ mahātapaṃ,
khippaṃ karoma accuṇhaṃ tumhehi abhipatthitaṃ.


(Đức Phật đă nói rằng): “Tất cả các ngươi cầu xin ta sự ấm áp, nhiều ánh sáng, và ngọn lửa vĩ đại. Chúng ta sẽ có ngay lập tức sự vô cùng ấm áp theo như các ngươi đă mong cầu.”

 

58/-Ṭhite majjhantike kāle gimhānaṃ suriyo yathā,
evaṃ yakkhānamātāpo kāye ṭhapitadāruṇaṃ.


Giống như mặt trời mùa hè vào thời điểm giữa ngày đứng bóng, có luồng sức nóng khủng khiếp như thế đă xâm chiếm cơ thể của các dạ-xoa.

 

59/-Yathā kappaparivaṭṭe catusuriya-ātapo,
evaṃ nisīdane satthu tejo hoti tatuttari.


Giống như sức nóng của bốn mặt trời vào thời kỳ hoại kiếp, cũng vậy tại chỗ ngồi của bậc Đạo Sư có sức nóng c̣n hơn thế nữa.

 

60/- Yathā suriyaṃ udentaṃ na sakkā carituṃ nabhe,
evaṃ nisīdanaṃ cammaṃ natthi āvaraṇaṃ nabhe.


Tương tợ như mặt trời đang mọc lên không thể bị dừng lại ở trên bầu trời, cũng vậy tấm tọa cụ bằng da thú là không có giới hạn ở trên không trung.

 

61/- Nisīdanaṃ kappajālaṃ va tejaṃ suriyaṃ va paṭhavī,
mahātapaṃ vikirati aggijālaṃ v’anappakaṃ.


Tấm tọa cụ tỏa ra sức nóng khủng khiếp giống như ngọn lửa lúc hoại kiếp phát ra ánh sáng, y như là màng lưới lửa lớn lao, tương tợ như mặt trời thiêu đốt trái đất.

 

62/- Aṅgārarāsijalitātapaṃ tahiṃ
nisīdanaṃ abbhasamaṃ padissati,
dīpesu uṇhaṃ nidasseti dussahaṃ
dhuvaṃ nipakkaṃ ayapabbatūpamaṃ.


Ở nơi ấy, tấm tọa cụ có sức nóng của đống than đá cháy đỏ được nh́n thấy giống như đám mây, tương tợ như ngọn núi bằng sắt rắn chắc bị nung nấu đang tỏa xuống sức nóng khó chịu trên khắp các ḥn đảo.

 

63/- Puratthimaṃ pacchimadakkhiṇuttaraṃ
uddhaṃ adho dasadisā imāyo,
sace ayaṃ yakkho mahānubhāvo
tejo samāpajjati pajjalāyati.
64/- Kathaṃ gamissāma sukhī arogā
kadā pamuñcāma imaṃ subheravaṃ,
sabbeva yakkhā vilayā bhavissare
bhusaṃ va muṭṭhirajaṃ vātakhittaṃ.


(Các dạ-xoa than van rằng): “Nếu dạ-xoa có đại oai lực này biến thành ngọn lửa rồi thiêu đốt cả mười phương đông tây nam bắc trên dưới này đây, làm thế nào chúng ta có được sự an vui, không tật bệnh? Khi nào chúng ta thoát khỏi tai họa khủng khiếp này? Toàn thể loài dạ-xoa sẽ bị tiêu diệt giống như nhúm bụi phấn bị tan tác bởi cơn gió.”

 

65/- Buddho isīnaṃ nisabho sukhāvaho
disvāna yakkhe dukkhite bhayaṭṭhite,
anukampako kāruṇiko mahesi
vicintayi atthasukhaṃ amānuse.


Sau khi nh́n thấy các dạ-xoa bị khốn khổ và lâm vào nỗi lo sợ, đức Phật, vị đứng đầu các ẩn sĩ, là nguồn đem đến sự an lạc, là vị đại ẩn sĩ có ḷng bi mẫn nhân hậu, đă nghĩ đến điều mong mỏi và sự an lạc cho hàng phi nhân.

 

66/- Ath’ aññadīpaṃ patirūpakaṃ imaṃ
ninnaṃ thalaṃ sabbaṭhān’ekasādisaṃ,
nadīpabbatatalākasunimmalaṃ
dīpaṃ giriṃ laṅkātalaṃ samūpamaṃ.


Khi ấy có một ḥn đảo khác tương tợ như ḥn đảo này, có sự đồng nhất về tất cả các khu đất thấp hoặc khô ráo, vô cùng trong sạch với các sông ng̣i núi non ao hồ, là ḥn đảo Giri hoàn toàn y hệt xứ sở Laṅkā.

 

67/- Sunibbhayaṃ gopitasāgarantakaṃ
pahūtabhakkhaṃ bahudhaññamākulaṃ,
utusamatthaṃ harisaddalaṃ mahiṃ
varaṃ giridīpamimassa uttariṃ.


Ḥn đảo Giri là xứ không có điều hăi sợ, có biển cả xung quanh bảo vệ, có nhiều thực phẩm, dồi dào với vô số ngũ cốc, khí hậu hài ḥa, có bề mặt là đồng cỏ xanh, và quư báu hơn hẳn ḥn đảo này.

 

68/- Rammaṃ manuññaṃ haritaṃ susītalaṃ
ārāmavanarāmaṇeyyakaṃ varaṃ,
santīdha phullaphaladhārino dumā
suññaṃ vivittaṃ na ca koci issaro.


Là xứ sở quyến rũ, yêu kiều, xanh tươi, mát mẻ, tuyệt vời, đáng mến với những vườn cây và rừng rậm. Nơi ấy thanh tịnh, trống trải, hiu quạnh, có cây cối trĩu nặng những hoa và quả, nhưng không có người nào cai quản.

 

69/- Mahaṇṇave sāgaravārimajjhe
sugambhīre ūmi sadā pabhijjare,
suduggame pabbatajālamussite
sudukkaraṃ atthamaniṭṭhamantaraṃ.


Là xứ sở thuộc về biển cả, ở giữa làn nước của đại dương sâu thẳm luôn có sóng vỗ, có dăy núi vươn lên rất khó đi đến, và ước muốn khó mà thực hiện khi (người cư ngụ) phía bên trong không đồng ư.

 

70/- Paramānarosā parapiṭṭhimaṃsikā
akāruṇikā paraheṭhane ratā,
caṇḍā va ruddā rabhasā ca niddayā
vidappanikā sapathe ime idha.

71/- Atha rakkhasā yakkhagaṇā ca duṭṭhā
dīpaṃ imaṃ Laṅkāciranivāsinaṃ,
dadāmi sabbaṃ giridīpaporāṇaṃ
nivasantu sabbe supajā anīghā.


(Đức Phật suy nghĩ rằng): “Ở nơi đây, các ác thần và đám đông dạ-xoa xấu xa bị nguyền rủa là những kẻ kiêu căng, ngạo nghễ và căm hận các kẻ khác, nhục mạ sau lưng các kẻ khác, không ḷng bi mẫn, vui thích trong việc hăm hại các kẻ khác, lại c̣n ác độc, hung dữ, bạo tàn, và không ḷng thương xót. Giờ ta sẽ ban cho chúng ḥn đảo này tức là toàn bộ ḥn đảo Giri (Giridīpa) nguyên thủy, và là chỗ trú ngụ không xa Laṅkā. Mong rằng tất cả bọn chúng sẽ định cư, khéo sinh sản, và không gặp khó khăn.

 

72/- Imañca Laṅkātalaṃ mānusānaṃ
porāṇakappaṭṭhitavutthavāsaṃ,
vasantu Laṅkātale mānusā bahū
pubbe va ojavaramaṇḍasādise.


Và xứ sở Laṅkā này là trú xứ đă được loài người cư ngụ và tạo dựng trong thời cổ đại. Mong rằng sẽ có nhiều người cư trú ở xứ sở Laṅkā giống như ở khuôn viên Oja cao quư trước đây vậy.

 

73/- Etehi aññehi guṇeh’upeto
manussavāso anekabhaddako,
dīpesu dīpissati sāsan’ āgate
supuṇṇacando va nabhe uposathe.


Được tựu hội với nhiều phẩm chất này hoặc khác, Laṅkā là chốn cư ngụ của loài người có nhiều điều tốt đẹp. Giáo Pháp khi được truyền đến ở trên các đảo sẽ rạng rỡ tương tợ như mặt trăng tṛn vành vạnh ở trên bầu trời vào ngày Uposatha.”

 

74/- Dīpaṃ ubho mānusā rakkhasā ca
ubho ubhinnaṃ tulayaṃ sukhaṃ muni,
bhiyyo sukhaṃ lokavidū ubhinnaṃ
parivattayi goṇayugaṃ va phāsukaṃ.


Đấng Mâu Ni, bậc Thế Gian Giải, trong lúc cân nhắc sự an lạc của cả hai bên là loài người và các ác thần rồi đă chuyển đổi ḥn đảo cho cả hai bên được nhiều an lạc, tương tợ như đă chuyển đổi (vị thế) cặp ḅ kéo cho chúng có sự thoải mái.

 

75/- Saṅkaḍḍhayi gotamo dīpamiddhiyā
bandhaṃ va goṇaṃ daḷharajjukaḍḍhitaṃ,
dīpena dīpaṃ upanāmayī muni
yugaṃ va nāvaṃ daḷhadhammaveditaṃ.


Đức Gotama đă dùng thần thông đưa ḥn đảo lại gần tương tợ như con ḅ được buộc lại và lôi đi bởi sợi dây thừng chắc chắn. Đấng Mâu Ni đă đưa ḥn đảo lại gần với ḥn đảo giống như hai chiếc thuyền được giao lưu nhờ vào sự gắn bó chặt chẽ.

 

76/- Dīpena dīpaṃ yugalaṃ tathāgato
katvān’uḷāraṃ viparītarakkhase,
vasantu sabbe giridīpa rakkhasā
sapakkamāsā vasanaṃ vavatthitaṃ.


Đức Như Lai đă thực hiện việc nối liền ḥn đảo xinh đẹp với ḥn đảo kia và hoán chuyển các loài ác thần (nói rằng): “Chúc cho tất cả các loài ác thần ở trên Giridīpa sống được ổn định có đầy đủ vật thực.”

 

77/- Gaṅgaṃ gimhamhi yathā pipāsitā
dhāvanti yakkhā giridīpamatthikā,
paviṭṭhā sabbe anivattane puna
pamuñca dīpaṃ yathā bhūmiyaṃ muni.


Các hàng dạ-xoa có sự háo hức chạy ào lên ḥn đảo Giri tương tợ như những người khát nước chạy đến sông Gaṅgā vào mùa nóng nực. Tất cả bọn chúng đă đi vào rồi không trở ra lại. Đấng Mâu Ni đă đưa ḥn đảo về lại địa điểm như trước đây.

 

78/- Yakkhā sutuṭṭhā supahaṭṭharakkhasā
laddhā sudīpaṃ manasābhipatthitaṃ,
na bhāyiṃsu sabbe atippamoditā
otariṃsu sabbe chaṇe nakkhattamahaṃ.


Các dạ-xoa vô cùng mừng rỡ và các hàng ác thần vô cùng hớn hở khi đạt được ḥn đảo xinh đẹp như mong mỏi. Tất cả bọn chúng đă không c̣n lo sợ và đă tham gia vào lễ hội Nakkhatta.

 

79/- Ñatvāna buddho sukhite amānuse
ṭhatvāna mettaṃ parittaṃ bhaṇi jino,
katvāna dīpaṃ tividhaṃ padakkhiṇaṃ
sadā rakkhaṃ yakkhagaṇavinodanaṃ.


Biết được các phi nhân đă được an vui, đức Phật đă an trú tâm từ và thốt lên lời kinh bảo hộ. Sau đó, đấng Chiến Thắng đă hướng vai phải nhiễu quanh ḥn đảo ba ṿng và luôn hộ tŕ việc hoán chuyển tập thể dạ-xoa

 

80/- Santappayitvāna have amānuse
rakkhañca katvā daḷhaṃ mettābhāvanaṃ,
upaddavaṃ dīpesu vinodayitvā
agoruvelaṃ punapi tathāgato’ti.


Quả vậy, đấng Như Lai đă trấn an các hàng phi nhân, đă thực hiện sự hộ tŕ và sự phát triển bền vững của tâm từ ái, đă xua đi điều tai họa ở trên các ḥn đảo, rồi đă quay về lại Uruvelā.

 

Paṭhamo paricchedo.


Chương thứ nhất.

 

Bhāṇavāraṃ paṭhamaṃ.
Yakkhadamanaṃ niṭṭhitaṃ.


Tụng phẩm thứ nhất.
Dứt chuyện khuất phục các dạ-xoa.

Đầu trang | Mục lục | 01 | 02| 03| 04| 05| 06| 07| 08| 09| 10| 11| 12| 13| 14| 15| 16| 17| 18| 19| 20| 21| 22|
Cập nhập ngày: 28-11-2006

Kỹ thuật tŕnh bày: Minh Hạnh & Chánh Hạnh