EKĀDASAMO PARICCHEDO


CHƯƠNG THỨ MƯỜI MỘT

 

1/- Abhayassa vīsativasse pakuṇḍassa vīsati ahu,
sattatiṃsavasso jātiyā abhisitto pakuṇḍako.


Vào năm thứ hai mươi của triều vua Abhaya, Pakuṇḍa được hai mươi tuổi. (Sau) ba mươi bảy năm kể từ lúc hạ sanh, Pakuṇḍaka đă được phong vương.

 

2/- Abhayassa vīsativasse coro āsi pakuṇḍako.


Vào năm thứ hai mươi của triều vua Abhaya, Pakuṇḍaka là kẻ đạo tặc.

 

3/- Sattarasamhi vassamhi hantvāna satta mātule,
abhisitto rājābhisekena nagare anurādhapure.


Mười bảy năm sau, Pakuṇḍa đă giết chết bảy người cậu và đă được phong vương với lễ đăng quang ở tại thành Anurādhapura.

 

4/- Atikkante dasavassamhi saṭṭhivassaṃ anāgate, ṭhapesi gāmasīmāyo abhayāni gāḷhaṃ kārayi.


Trong mười năm đă trôi qua và sáu mươi năm ở vào tương lai, Pakuṇḍa đă quy định ranh giới của các ngôi làng và đă cho thiết lập chặt chẽ các sự an ninh.

 

5/- Ubhato paribhuñjitvā yakkhamānusakāni ca,
anūnāni sattati vassāni pakuṇḍo rajjamakārayi.


Cai quản được cả hai loài dạ-xoa và loài người, Pakuṇḍa đă trị v́ vương quốc được bảy mươi năm tṛn.

 

6/- Pakuṇḍassa ca atrajo muṭasīvo nāma khattiyo,
issaro tambapaṇṇimhi saṭṭhivassaṃ akārayi.


Và người con trai của Pakuṇḍa tức là vị vua ḍng Sát-đế-lỵ tên Muṭasīva đă trị v́ xứ Tambapaṇṇi được sáu mươi năm.

 

7/- Muṭasīvassa atrajā ath’aññe dasabhātukā,
abhayo tisso nāgo ca uttimuttābhayena ca.
8/- Mitto sivo aselo ca tisso kirena te dasa,
anulādevī sīvalī ca muṭasīvassa dhītaro.


Khi ấy, các người con trai của Muṭasīva là có mười anh em trai khác nữa. Các vị ấy là Abhaya, Tissa, Nāga, Utti, Muttābhaya, Mitta, Siva, Asela, Tissa, với Kira là mười. Anulādevī và Sīvalī là các người con gái của Muṭasīva.

 

9/- Ajātasattu aṭṭhame vasse vijayo idhamāgato,
udayassa cuddasavassamhi vijayo kālaṃ kato tadā.


Vào năm thứ tám của Ajātasattu, Vijaya đă đi đến nơi ấy.6 Vào năm thứ mười bốn của Udaya, khi ấy Vijaya từ trần.

 

10/- Udayassa soḷase vasse paṇḍuvāsamabhisiñcayi,
vijayassa paṇḍuvāsassa ubho rājānamantare.
11/- Saṃvaccharaṃ tadā āsi tambapaṇṇi arājikā,
nāgadāsassekavīse paṇḍuvāso tadā gato.


Vào năm thứ mười sáu của triều vua Udaya, Paṇḍuvāsa đă được phong vương. Vào khoảng giữa của hai vị vua Vijaya và Paṇḍuvāsa, trong thời gian một năm xứ Tambapaṇṇi là không có vua. Vào năm thứ hai mươi mốt của triều vua Nāgadāsa, khi ấy Paṇḍuvāsa băng hà.

 

12/- Nāgadāse ṭhiteyeva abhayopyabhisiñcayī,
etesaṃ sattaraseva vassāni catuvīsati.


Ngay khi Nāgadāsa c̣n sống, Abhaya cũng đă được phong vương. Trong số hai vị ấy, (một vị) là mười bảy năm và (vị kia) hai mươi bốn năm.

 

13/- Candagutte cuddase vasse gato pakuṇḍakasavhayo,
candaguttassa cuddasavasse muṭasīvamabhisiñcayi.


Vào năm thứ mười bốn của Candagutta, vị tên Pakuṇḍaka từ trần. Vào năm thứ mười bốn của Candagutta, Muṭasīva đă được phong vương.

 

14/- Asokassābhisittato sattarasavasse upāgate,
muṭasīvo’ccayaṃ patto tasmiñceva ca hāyane.


Mười bảy năm đă trôi qua kể từ khi Asoka được phong vương, và trong chính năm ấy Muṭasīva đă băng hà.

 

15/- Hemante dutiye māse āsāḷhinakkhattamuttame,
devānampiyo’bhisiñci tambapaṇṇimhi issaro.


Vào tháng thứ hai trong mùa lạnh, khi cḥm sao Āsāḷhi ở vào điểm cao nhất, Devānampiya đă được đăng quang làm vua ở xứ Tambapaṇṇi.

 

16/- Chātapabbatapādamhi veḷuyaṭṭhi tayo ahū,
setā rajatayaṭṭhi ca latā kañcanasannibhā.


Ở tại chân núi Chāta đă xuất hiện ba chồi măng tre: chồi măng tre bằng bạc là màu trắng có các sợi dây leo như là bằng vàng.

 

17/- Nīlaṃ pītaṃ lohitakaṃ odātañca pabhassaraṃ,
kāḷakaṃ hoti sassirīkaṃ pupphasaṇṭhānatādisaṃ.


(Chồi măng thứ nh́) có ánh sáng xanh, vàng, đỏ, trắng, đen, và có sự rạng rỡ tương tợ h́nh dáng của bông hoa.

 

18/- Tathāpi pupphayaṭṭhi sā dijayaṭṭhi tatheva te,
dijā yattha yathāvaṇṇe evaṃ tattha catuppade.


Tương tợ như chồi măng tre dạng bông hoa, chồi măng tre có h́nh dáng của loài chim cũng giống y như thế. Loài chim có màu sắc như thế ở nơi nào, th́ ở nơi ấy cũng có loài bốn chân có màu sắc tương tợ như vậy.

 

19/- Hayā gajā rathā pattā āmalakā valayamuddikā,
kakudhasadisā nāma ete aṭṭha tadā muttā.


Mă ngọc, tượng ngọc, xa ngọc, diệp ngọc, vân ngọc, ṿng ngọc, nhẫn ngọc, và loại giống như ngọc ấn; đây gọi là tám loại ngọc trai thời bấy giờ.

 

20/- Uppanne devānampiye tassābhisekatejasā,
tayo maṇī āhariṃsu malayā ca janapadā.


Khi Devānampiya xuất hiện, do quyền lực bởi lễ đăng quang của vị ấy, dân chúng từ xứ Malaya đă mang lại ba viên ngọc ma-ni.

 

21/- Tayo yaṭṭhī chātapadā aṭṭhamuttā samuddakā,
maṇayo malayā jātā rājārahā mahājanā,
devānampiyapuññena anto sattāhamāharuṃ.


Ba chồi măng tre từ chân núi Chāta, tám viên ngọc trai từ biển cả, các viên ngọc ma-ni từ xứ Malayā đă được phát sanh lên xứng đáng với vị quân vương và đă được dân chúng mang lại trong ṿng bảy ngày do nhờ phước báu của đức vua Devānampiya.

 

22/- Disvāna rājā ratanaṃ mahagghañca mahārahaṃ,
asamaṃ atulaṃ ratanaṃ acchariyaṃpi dullabhaṃ.


Đức vua sau khi nh́n thấy báu vật đắt giá, vô cùng xứng đáng. Vật báu là không ǵ bằng được, không thể so sánh, lại kỳ diệu, hiếm có.

 

23/- Pasannacitto giramabbhudīrayi
ahaṃ sujāto kulino narissaro,
suciṇṇakammassa mamedisaṃ phalaṃ
bahū sahassādhika sampadāgamuṃ.


Với tâm trạng hoan hỷ, đức vua đă thốt lên lời rằng: “Trẫm là vị chúa tể của dân chúng, thuần chủng, thuộc gia tộc cao quư. Kết quả như thế này của trẫm là do nghiệp đă khéo tạo lập và có giá trị hơn cả hàng ngàn (đồng tiền).

 

24/- Mayā suladdhaṃ katapuññasampadaṃ
bhave samattho labhituṃ ca ko nu kho,
bhavappatiṭṭhaṃ ratanattayaṃ vinā
na jīvituṃ me manasānubandhanaṃ.


Trẫm đă khéo đạt được sự thành tựu phước báu đă tạo. Và không ai có đủ khả năng để đạt được? Không có sự an trú vào Tam Bảo, trẫm không có sự dốc sức hết ḷng để tồn tại.

 

25/- Mātāpitā ca bhātā vā ñātimittā sakhā ca me,
iti rājā vicintento asokaṃ khattiyaṃ sarī.


Kể cả cha mẹ, anh em, thân quyến, bè bạn, và cộng sự của trẫm,” trong lúc suy nghĩ như thế, đức vua đă nhớ đến vị Sát-đế-lỵ Asoka.

 

26/- Devānampiyatisso ca dhammāsoko narādhibhū,
adiṭṭhasahāyā ubho kalyāṇā daḷhabhattikā.


Devānampiyatissa và Asoka công chính là những người lănh đạo dân chúng. Cả hai là những người đạo đức, có sự cống hiến vững vàng, và là bạn bè chưa từng gặp gỡ.

 

27/- Atthi me piyasahāyo jambudīpassa issaro,
asokadhammo mahāpuñño sakhā pāṇasamo mama.


“Trẫm có người bạn yêu quư là vị quân vương của xứ Jambudīpa, là vị Asoka công chính có phước báu dồi dào, và là người bạn được sánh bằng mạng sống của trẫm.

 

28/- So rahati ratanānaṃ abhihāraṃ sampaṭicchituṃ,
ahampi dātuṃ arahāmi aggaṃ sāsanasampadaṃ.


Vị ấy xứng đáng nhận lănh món quà tặng gồm các vật quư báu, và trẫm cũng xứng đáng để dâng tặng sự thành tựu cao quư trong Giáo Pháp.

 

29/- Uṭṭhehi kattāra taramāno ādāya ratanaṃ imam,
jambudīpavhayaṃ gantvā nagaraṃ pupphanāmakaṃ,
aggaratanaṃ payacchehi asokaṃ mama sahāyakaṃ.


Này các vị thừa hành, hăy đứng lên và mau mau mang theo báu vật này đi đến thành phố tên Puppha thuộc xứ sở gọi là Jambudīpa rồi hăy tŕnh lên báu vật quư giá này đến người bạn Asoka của trẫm.”

 

30/- Mahā ariṭṭho sālo ca brāhmaṇo parantapabbato,
putto tisso ca gaṇako pāhesi caturo ime.


Đức vua đă phái đi bốn người này, đó là Mahā Ariṭṭha, Sāla, Bà-la-môn Parantapabbata, và viên kế toán Putta Tissa.

 

31/- Pabhassaramaṇī tayo aṭṭhamuttā varāni ca,
patodayaṭṭhittayañc’etaṃ saṅkharatanamuttamaṃ,
bahuratanaṃ parivārena pāhesi devānampiyo,


Cùng với đoàn tùy tùng, đức vua Devānampiya đă gởi đi ba viên ngọc ma-ni sáng chói, tám hạt ngọc trai quư báu, ba chồi măng tre ấy, bảo vật hạng nhất là xa-cừ, và nhiều châu báu.

 

32/- Amaccaṃ senāpatiṃ ariṭṭhaṃ sālañca parañca pabbataṃ,
puttaṃ tissagaṇakañca hatthe pāhesi khattiyo.
33/- Chattaṃ cāmarasaṅkhañca veṭhanaṃ kaṇṇabhūsanaṃ,
gaṅgodakañca bhiṅkāraṃ saṅkhañca sivikena ca.


Vị Sát-đế-lỵ (Asoka) đă trao lại tận tay cho viên quan đại thần Ariṭṭha là tướng lănh của quân đội, cùng với Sāla, Paranpabbata, và viên kế toán Putta Tissa chiếc lọng, quyền trượng, vương miện, và vật trang sức ở tai, b́nh đựng nước sông Gaṅgā (sông Hằng), tù và vỏ ốc, cùng với chiếc kiệu.

 

34/- Nandiyāvaṭṭaṃ vatthamānaṃ rājābhiseke pesitā, adhovimaṃ vatthayugaṃ aggañca hatthapuñchanaṃ.


Ṿng hoa khánh hỷ, vải mặc trong lễ phong vương, xấp vải đôi không cần phải giặt, và khăn tay giá trị đă được gởi đến.

 

35/- Haricandanaṃ mahagghaṃ aruṇavaṇṇamattikaṃ, harītakaṃ āmalakaṃ imaṃ sāsanampi pesayi.


Đức vua đă gởi đến trầm hương vàng vô cùng quư giá, đất sét (để tắm) màu ráng đỏ, (hai loại trái cây) harītaka và āmalaka, thêm vào lời nhắn nhủ rằng:

 

36/- Buddho dakkhiṇeyyān’aggo dhammo aggo virāginaṃ,
saṅgho ca puññakkhettaggo tīṇi aggā sadevake,
imañcāhaṃ namassāmi uttamatthāya khattiyo.


“Phật Bảo xứng đáng tôn kính nhất hạng, Pháp Bảo tối thắng trong các pháp ly dục, Tăng Bảo phước điền tối thượng là ba đối tượng tối cao trong thế gian luôn cả thiên giới. Và trẫm là vị Sát-đế-lỵ tôn vinh Tam Bảo v́ mục đích tối thượng.”

 

37/- Pañca māse vasitvāna te dūtā caturo janā,
ādāya te paṇṇākāraṃ dhammāsokena pesitaṃ.


Bốn người sứ giả ấy đă cư ngụ năm tháng (tại Jambudīpa), rồi họ đă mang về quà biếu do đức vua Asoka công chính gởi tặng.

 

38/- Vesākhamāse dvādasiyaṃ jambudīpā idhāgatā,
abhisekaṃ saparivāraṃ dhammāsokena pesitaṃ.


Từ Jambudīpa, họ đă đến được nơi đây vào ngày mười hai của tháng Vesākha cùng với vật dụng lễ đăng quang đă được gởi biếu bởi đức vua Asoka công chính.

 

39/- Dutiyaṃ abhisiñcittha rājānaṃ devānampiyaṃ,
abhisitto dutiyābhiseko visākhamāse uposathe.


Họ đă làm lễ đăng quang lần thứ nh́ cho đức vua Devānampiya. Lễ đăng quang lần thứ nh́ đă được cử hành vào ngày lễ Uposatha (ngày trăng tṛn) của tháng Vesākha.

 

40/- Tayo māse atikkamma jeṭṭhamāse uposathe,
mahindo sattamo hutvā jambudīpā idhāgato.


Ba tháng sau, vào ngày lễ Uposatha của tháng Jeṭṭha, Mahinda và sáu vị nữa đă từ Jambudīpa đi đến nơi đây.

 

Rājābhisekakaṇḍaṃ niṭṭhitaṃ.


Dứt phần lễ phong vương.

 

Ekādasamo paricchedo.
Bhāṇavāraṃ ekādasamaṃ.


Chương thứ mười một.
Tụng phẩm thứ mười một.

Đầu trang | Mục lục | 01 | 02| 03| 04| 05| 06| 07| 08| 09| 10| 11| 12| 13| 14| 15| 16| 17| 18| 19| 20| 21| 22|
Cập nhập ngày: 28-11-2006

Kỹ thuật tŕnh bày: Minh Hạnh & Chánh Hạnh