TỔ ĐÌNH MINH ĐĂNG QUANG
PHẬT HỌC TỪ ĐIỂN
BUDDHIST DICTIONARY
SANSCRIT/PALI-VIETNAMESE
Phạn / Pali -Việt
THIỆN PHÚC
Y
Yacaskama (Yasaskama) (skt): Cầu
Danh Bồ tát.
Yakkha (p)
Yaksha (skt): Trời Ðế Thích—Deva
King.
Yasodhara (skt): Da du đà la (vợ
của Thái tử tất Ðạt Ða).
Yajur-véda (skt): Tự minh
Yakchas (skt)
Yaksas (p): Dạ xoa—See Yaksha.
Yaksa (skt)
Yaksha (p): Dạ Xoa—Dạ Khất
Xoa—Duyệt Xoa—Dược Xoa.
Nghĩa của Dạ Xoa—The meanings of Yaksa:
Những chúng sanh có khả năng siêu nhân, thường là bất bạo động, tốt và hay
được nhắc tới trong kinh điển Phật giáo. Trong vài trường hợp, Dạ xoa là
những con quỷ dữ hay lởn vởn ở các nơi hẻo lánh, thù địch với những ai
sùng đạo. Chúng thường phá rối chùa chiềng hay thiền định của chư Tăng ni
bằng những tiếng la hét ồn ào. Lại có những loài Dạ xoa là những loài quỷ
dũng mãnh, bay đi rất nhanh lẹ, và có phận sự canh giữ các cửa
Trời—Demons—Devils—Supernatural beings, usually good without violent
(divine in nature and possess supernatural powers), frequently mentioned
in Buddhist sutras. In some cases, Yakshas are wild demonic beings who
live in solitary places and are hostile toward people, particularly those
who lead a spiritual life. They often disturb the quietness in the temple
and the meditation of monks and nuns by making loud noise. There are also
some extremely fast demons who guard Heaven’s Gates.
Năng hám địa quỷ hoặc quỷ trên không, hay quỷ dữ nơi những cõi trời thấp,
bạo động và ăn thịt người—Demons in the earth, or in the air, or in the
lower heavens; they are maglinant, and violent, and devourers of human
flesh.
Phân loại Dạ Xoa. Dạ Xoa Bát Ðại Tướng—Categories of Yaksas—The eight
attendants on Kuvera, or Vaisravana, the god of wealth; those on earth
bestow wealth; those in the empyrean houses and carriages, those in the
lower heavens guard the moat and gates of the heavenly city:
Bảo Hiền Ðại Tướng: Ma Ni Bạt Ðà La—Manibhadra.
Mãn Hiền Ðại Tướng: Bố Lỗ Na Bạt Ðà La—Purnabhadra.
Tán Chi Ðại Tướng: Bán Tích Ca—Panika.
Sa
Ða Kỳ Lý.
Tuyết Sơn Ðại Tướng: Hy Ma Phược Ða—Haimavata.
Ðại Mãn Ðại Tướng: Tỳ Sái Ca—Visaka.
A
Sá Phược Ca: Atavika.
Bán Già La: Panjala.
Yama (skt):
Dạ
Ma còn gọi là Tô Dạ Ma, Tô Da Ma, sống nơi cõi trời dục giới thứ ba trong
sáu cõi trời dục giới, trên thế giới chúng ta đang sống, về phía nam của
vũ trụ, nhưng Bà La Môn Giáo lại chuyển trú xứ của vị nầy về cõi địa ngục.
Phật giáo chấp nhận cả hai quan điểm trên: Originally the Aryan god of the
death, living in a heaven (third heaven in the six heavens of desire)
above the world, the regent of the South, but Brahminism transferred his
abode to hell. Both views have been retained by Buddhism.
Trong huyền thoại Ấn Ðộ, Dạ Ma là vị phán quan nơi địa ngục, da xanh, mặc
quần áo đỏ, cưỡi trâu, một tay cầm gậy, một tay cầm dây thòng lọng, theo
ông là hai con chó săn bốn mắt: Yama in Indian mythology is ruler over the
dead and judge in the hells, is green in colour, clothed in red, riding on
a buffalo, and holding a club in one hand an a noose in the other; he has
two four-eyed watch-dogs.
Diêm Vương: The Lord of Death—The Lord of Hades.
Dạ
ma Thiên, Diêm Ma, hay Diêm La. Trong huyền thoại Phật giáo, Diêm la là
chúa địa ngục. Kẻ đem đến cho con người những lão, bịnh tử và những vằn
vặt lúc hấp hối. Diêm la là sứ giả được phái tới để nhắc nhở con người
sống đạo đức và nghiêm túc. Yama ngự trị về phía nam của châu Diêm phù
đề—In Buddhist mythology, Yama is the ruler of the hells. Yama sends human
beings old age, sickness, death as well as sufferings when approaching
death as his messengers to keep them from immoral, frivolous life. Yama
resides south of the Jambudvida.
Yama-raja (skt): Dạ ma
vương—King Yama—Ruler of the spirits of the dead.
Yami: Diêm Ma nữ—Em gái của Diêm
la chuyên hình phạt những nữ tội nhân trong địa ngục—Yama’s sister, rules
over female inhabitants in the hells.
Yamaka (skt): See Abhidharma.
Yamaloka (skt): Dạ Ma Giới—The
hell under the earth—See Yama.
Yana (skt):
Thừa, phương tiện tiến thủ trong tiến trình phát triển tâm linh. Khái
niệm đã được triển khai từ Phật giáo Nguyên Thủy. Cổ xe mà người tu tập
du hành trong suốt tiến trình tiến đến giác ngộ: Vehicle or means of
progress used for spiritual development. The concept already developed in
the Hinayana Buddhism. The vehicle on which the cultivator travels on the
way to enlightenment.
Giáo lý nhà Phật có công năng đưa người ta từ bờ sinh tử bên nầy sang bờ
Niết Bàn bên kia đã được so sánh với cỗ xe (thừa) chuyên chở ngay từ thời
đầu của Phật Giáo: The Buddhist doctrine that carries one from this side
of birth-and-death to the other side of Nirvana has been compared to a
vehicle of conveyance since the early days of Buddhism.
Yasa Buddha: Danh Văn Phật.
Yasaprabha-Buddha (skt): Danh
Văn Quang Phật.
Yasaprabhasa-Buddha (skt): Danh
Quang Phật.
Yasas (skt): Thinh văn La Hán Da
xá.
Yasaskama (skt): Cầu Danh Bồ
Tát.
Yasha (skt): Nhà sư Yasha người
đã tố giác sư sãi Vaishali đã nhận vàng bạc, bất thời thực, cũng như uống
rượu trong tự viện. Chính Yasha đã được sự ủng hộ của các sư trưởng lão
trong việc kết tội các sư Vaishali trong kỳ đại hội lần hai—A Buddhist
monk, who accused Vaishali monks of accepting gold and silver from lay
followers, taking food at the wrong time, and drinking alcohol in the
temple, etc. He was the one who got support from other senior monks to
convoke the second council in Vaishali around 386.
Yasodhara (skt): Da Du Ðà La,
còn dịch là Da Tuất Ðạt La—Vợ của Thái tử Tất đạt đa trước khi Ngài xuất
gia (người đã chiến thắng trong tất cả các cuộc tranh tài để cưới
Yasodhara vào tuổi 16). Da du đà la là mẹ của La Hầu La, con trai duy nhất
của Thái tử tất đạt đa. Sau nầy, 5 năm sau ngày Phật thành đạo, bà đã xuất
gia và trở thành Tỳ Kheo Ni (bà xuất gia theo giáo đoàn ni của bà Ma Ha Ba
Xà Ba Ðề, dì và mẹ nuôi của thái tử Tất Ðạt Ða)—The wife of Siddhartha
Gautama before he left home (He won her from all competitors at the age of
sixteen in contest of arms. Yosadhara is the mother of Rahula, the only
son of Prince Siddhartha. Later in her life, five years after the Buddha’s
enlightenment, she became a Buddhist nun. The Buddha predicted that she is
to become a Buddha with the name of Rasmi-sata-sahasra-pari-purna-dhvaja.
Yathabhutam (skt):
Real—Evident—In truth—Conformed with truth—Như thị—Chân tính—Nhận thức gắn
liền với hiện thực—To see things as they are (see things trully as they
are). Knowledge in accordance with reality or knowledge of true reality
(suchness).
Yathabhuta-vasthama-darsana
(skt): The view of all things in their true nature, to their appearance as
they really are—Như thật tri kiến hay tri giác như thật, nghĩa là cái nhìn
như thật.
Yatharutarthabhinivishta (skt):
See Tùy Ngôn Thủ Nghĩa.
Yathatathyadarsana (skt): See
Như Thực Ấn in Vietnamese-English Section.
Yobbana (skt): Tuổi trẻ—Youth.
Yobbana-mada (skt): The great
intoxication of youth
Yoga (skt):
Cái ách: A yoke—Yoking.
Hiệp phối—Du già—Theo Ấn giáo, Du già có nghĩa là kết hợp với thượng đế,
nhưng trong Phật giáo, từ nầy chỉ tương đương với thiền định trong giai
đoạn đầu tập thở. Ðây là lối điều thân và hơi thở sao thân tâm tịnh lặng.
Phương pháp Du già là sự liên hệ hỗ tương giữa năm khía cạnh cảnh, hành,
lý, quả và cơ—In Hinduism, Yoga means to harness and unite oneself with
god, but in Buddhism, Yoga is only equivalent to the first stage of
meditative breathing practicing. This is the combination of physical and
breathing exercises. Yoga method requires the mutual response or relation
of the following five aspects.
Tương ứng với cảnh: The mutual response or relation of state, or
environment, referred to mind.
Tương ứng với hành: The mutual response or relation of action, or mode of
practice.
Tương ứng với lý: The mutual response or relation of right principle.
Tương ứng với quả: The mutual response or relation of results in
enlightenment.
Tương ứng với cơ: The mutual response or relation of motivity, i.e.
practical application in saving others.
Tu
Hành: Discipline.
Yogacara (skt)
Yogachara (p): Tu tập thiền
định, một loại Tam ma địa đặc biệt. Bài tập Du Già (Yoga), còn gọi là Duy
Thức (Vijnanavada) hay là trường dạy về nhận thức. Du Già (Yoga) Phật giáo
do Maitreyanatha, Vô Trước (Asanga) và Thế Thân (Vasubandu) sáng lập. Theo
ý tưởng trung tâm của Yogachara, mọi cái có thể tri giác được đều là tinh
thần. Tri giác là quá trình sáng tạo bằng tưởng tượng. Theo Yogachara, A
lại da thức, cơ sở của sự tri giác mọi vật và là nơi tàng chứa tất cả
những ấn tượng của chúng ta. A Lại da là nhân tố quyết định sự chín muồi
của nghiệp. A lại da thức được ví như dòng sông, trong đó nước được ví như
những nghiệp. Ðã có nước (nghiệp) thì dòng sông dù muốn hay không muốn vẫn
phải chảy, như những nghiệp thức được mang từ đời nầy sang đời khác. Theo
Phật giáo xưa thì con đường giải thoát của Yogachara được chia làm bốn gia
đoạn (1. Con đường chuẩn bị, nơi Bồ Tát nguyện theo học thuyết với toàn bộ
tinh thần—2. Con đường suy tưởng, nơi Bồ tát đi sâu vào học thuyết đạt
được hiểu biết và bước vào giai đoạn thứ nhất trong thập địa—3. Con đường
sáng tạo tâm linh, nơi Bồ tát thiền định và đi sâu vào thập địa—4. Con
đường kết thúc, nơi mà tất cả mọi uế trược đều bị xóa trắng nhằm chấm dứt
chu kỳ luân hồi)—The observance of the Yoga, a particular
samadhi—Application of Yoga, also called Vijnanavada, the school that
teaches knowing. The school of Mahayana Buddhist Yoga founded by
Matreyanatha, Asanga and Vasubandu. According to the central notion of
Yogachara, things exist only as processes of knowing, not as objects
outside. Perception is a process of creative imagination (with the help of
the storehouse consciousness) that apparently produces outer objects.
According to Yogachara, Alaya vijnana is the ground of knowledge and the
storehouse of all previous impressions, seeds developed. Alaya vijnana is
the determining factor for the process of rippening karma. The Alaya
vijnana is often compared to a stream and karma as the water. Once karma
already formed as water poured into the stream, the stream continues to
flow and flow (no matter what) even after the person’s death, providing
continuity from one existence to the next. According to the ancient
Buddhism, the path to liberation in the Yogachara is divided into four
stages (1. Preliminary path where the bodhisattva undertakes the teaching
of “mind only.”---2. Path of seeing where bodhisattva gains a realistic
understanding of the teaching, attains the knowledge of concept, and
enters the first of the ten stages—3. Path of meditation where bodhisattva
passes successively through the ten stages and develops insight as well as
liberate self from all defilements—4. Path of fulfillment where all
defilements are eliminated to put an end to the cycle of of existence).
Yoga-charya-bhumi-sastra: Du già
sư địa luận, bàn về những vùng đất của Yogachara. Ðây là tác phẩm căn bản
của trường phái Du Già (Yogachara), tác giả có thể là Maitreyanatha hay là
Vô Trước (Asanga), chia làm năm phần—Treatise on the Stages of the
Yogachara. This is the fundamental work of the Yogachara school, which the
author might have been either Asanga or Maitreyanatha, divided into five
parts:
Bản Ðịa Phần: Mười bảy vùng đất, cảnh giới hay giai đoạn tiến bước trên
đường đại giác với sự giúp đở của Du Già Thiền Quán Luận (Yogachara). Ðây
là phần quan trọng nhất—The seventeen stages (bhumi) preseting the
progression on the path to enlightenment with the help of Yogachara.
Nhiếp Quyết Trạnh Phần: Phát huy thâm nghĩa hay những lý giải về những
vùng khác nhau nầy—Interpretations of these stages.
Nhiếp Thích Phần: Giải thích các nghi tắc của kinh điển làm cơ bản cho
giáo điều về các vùng nầy—Explanation of those sutras from which the
Yogachara doctrine of the stages draw support.
Nhiếp Di Môn Phần: Các phạm trù hay danh nghĩa phân biệt của chư pháp chứa
đựng trong các kinh điển ấy—Classifications contained in these sutras.
Nhiếp Sự Phần: Giải thích rõ yếu nghĩa hay các đối tượng của Tam Tạng giáo
điển (Sutras, Vinaya, Abhidharma)—Topics from the Buddhist canon.
Yoga sutra (skt): Du già luận.
Yogin (skt): Tu Hành giả—Người
tu hành—Devotee.
Yojana (skt): Do tuần, đơn vị đo
lường của Ấn độ ngày xưa, thường được dùng trong các kinh Phật, tương
đương với 10 dậm—An ancient Indian land measure or measure of distance
that frequently appears in Buddhist writings. It is about 10 miles.
Yoni (skt): See Tứ Sanh in
Vietnamese-English Section.
Yugantagni (skt): Kiếp Hỏa—Lửa ở
vào lúc tận cùng của thế giới—Fire at the end of the world.
Yukti (skt)—Yutti
(p):
Chân thật—Truth.
Sự
chuyển biến: Transformation.
Sự
tương hợp hay tương ứng: Combination—Concordance—Fitness.
Yuktivikalpa (skt): See Lý Phân
Biệt.
Yuyeh (skt): Ngọc Gia—Wife of
Suddatta’s little son—Ever since the elder Sudatta took refuge in the
Buddha, he had guided his sons and all but one of his daughters-in-law to
establish a Buddhist family. His youngest son was married to Yuyeh,
daughter of elder Wumi. Since she thought she was very pretty, she was
very arrogant. She showed no respect for her husband, his parents and
sisters. This had thrown the Buddhist family into disarray. Every body in
the family often went to Jetavana Vihara to listen to the Buddha’s
teachings except Yuyeh. Yuyeh was rude and undisciplined, and refused to
go. As the elder could not do anything with her, he decided to ask the
Buddha for help. The Buddha already knew the situation. He kindly told
Sudatta: “Since Yuyeh is not willing to come to see me, I will go to your
house for a visit tomorrow.” The following day, the Buddha and his
disciples arrived at Sudatta’s house. Except for Yuyeh, the whole family
came out to greet and prostrate themselves before the Buddha. The Buddha
emitted millions of rays, and wherever the rays shone, the places turned
transparent. Everybody looked in the direction of the shinning rays, they
saw Yuyeh hiding in the house, squatting down and peeping through an
opening of the door latch. Outwardly, Yuyeh was opposed to the Buddha, but
deep down she was curious and wanted to see why the Buddha was so highly
respected by the whole family. When she actually saw the Buddha, her usual
arrogance diminished to one-half. With the rays of light emitted from the
Buddha, Yuyeh had no place to hide, she felt deeply ashamed. But while she
was being led by her husband to see the Buddha, she was still too stubborn
to prostrate herself before the Buddha. The Buddha then kindly told Yuyeh
“What is beauty” It is not just in your looks. It is more important that
you have inner beauty. If you have only outward beauty but not in your
heart, you will not command the respect and admiration of others. Besides,
since youth is transient, physical beauty will not last long. The Buddha’s
words jolted Yuyeh to realize the truth of the matter. She then fell on
her knees and prostrated herself before the Buddha in great repentance.
The Buddha spoke to her of the Dharma which became the well-known: “Sutra
of Yuyeh.” The Buddha told Yuyeh: “As a wife, you should observe the five
rules of conduct, that is the five kinds of attitude towards a husband,
you must get rid of the four kinds of evil habits.” On hearing these,
Yuyeh became a true believer and put Buddha’ words into practice. From
tehn onwards, elder Suddatta’s family became one large complete Buddhist
family—Từ khi trưởng giả Tu Ðạt Ða quy-y với Phật, ông đã kéo theo con và
dâu xây dựng một gia đình Phật hóa. Nhưng người con trai út của ông, kết
hôn với Ngọc Gia, con gái của trưởng lão Hộ Di. Ngọc Gia tự cho mình đẹp
nên sanh kiêu căng, coi thường chồng, cha mẹ chồng, và các chị em bạn dâu
khác, khiến cho gia đình lâm vào cảnh không vui. Mọi người trong gia đình
thường đến tịnh xá Kỳ Thọ Cấp Cô Ðộc Viên nghe Phật thuyết pháp chỉ trừ
Ngọc Gia. Ngọc Gia thô lỗ và ngang ngược, không chịu đi nghe. Trưởng giả
Tu Ðạt Ða chẳng biết phải làm thế nào nên đành nhờ Phật giúp đở. Ðức Phật
biết chuyện bèn nói với Tu Ðạt Ða: “Vì Ngọc Gia đã không chịu đi nghe
Pháp, thì Như Lai sẽ đến nhà của ông vào ngày mai.” Hôm sau Ðức Phật và
các đệ tử của Ngài đến nhà Tu Ðạt Ða. Trừ Ngọc Gia ra, mọi người đều ra
tiếp đón Ðức Phật. Lúc đó đức Phật phóng ra hàng triệu ánh hào quang. Ánh
sáng chiếu đến đâu mọi vật đều trong suốt đến đấy nên mọi người nhìn theo
ánh quang và thấy Ngọc Gia đang núp trong nhà, ngồi xổm nhìn lén Ðức Phật
qua khe cửa. Ngoài mặt thì Ngọc Gia tuy có vẻ chống đối, nhưng trong lòng
lại hiếu kỳ muốn nhìn thấy Ðức Phật, muốn tìm biết vì sao Ngài lại được cả
nhà trưởng giả tôn trọng đến như vậy. Khi nhìn thấy Ðức Phật, tính kiêu
ngạo của nàng đã giảm đi một nửa. Khi Ðức Phật phóng hào quang, nàng không
còn chỗ ẩn núp, vì thế cảm thấy xấu hổ, nhưng khi được chồng dẫn ra trước
mặt Phật, nàng vẫn bướng bỉnh không chịu đảnh lễ. Ðức Phật bèn hiền từ nói
với Ngọc Gia: “Gọi là đẹp, không chỉ là cái đẹp bên ngoài, quan trọng hơn
là cái đẹp bên trong. Nếu mặt đẹp mà lòng không đẹp, khó có thể thuyết
phục người ta. Huống là tuổi xuân ngắn ngủi, vẻ đẹp diện mạo bên ngoài sao
có thể trường cửu được?” Những lời đó như gậy gõ vào đầu, khiến cho Ngọc
Gia tỉnh ngộ, nàng vội quỳ sát đất hối hận bái lạy Ðức Phật. Phật thuyết
pháp cho nàng, đó chính là “Nữ Kinh Ngọc Gia” nổi tiếng. Ðức Phật dạy Ngọc
Gia: “Người vợ phải tròn năm đạo; đối với chồng phải có năm thái độ cư
xử, phải trừ bỏ bốn tật xấu.” (see Kinh Thi Ca La Việt in the Appendices).
Ngọc Gia nghe xong, liền tin theo mà hành trì. Từ đó gia đình Tu Ðạt Ða
trở thành một gia đình Phật hóa viên mãn.
---o0o---
Mục Lục Tự điển Phật Học
Phạn/Pali -
Việt
|
A |
B | C |
D |
E | F |
G |
H | I |
J |
K | L |
M |
N |
|
O |
P |
R |
S | T |
U |
V | X |
Y |
---o0o---
Mục Lục |
Việt Anh | Anh -Việt |
Phạn/Pali-Việt
| Phụ Lục
---o0o---
Trình bày: Minh Hạnh & Thiện Php
Cập nhật: 3-24-2006