A Tỳ Đàm
Giảng Giải và Thảo Luận
Tâm và Sự Phân Loại
A Tỳ Đàm, Bài 10.1
Ngày 25 tháng 6 năm 2004
Minh Hạnh biên soạn & Cô Tu Nữ Diệu Tịnh hiệu đính
Bài 10
Tâm Vô Sắc Giới
Những
điểm chính
Tâm Vô Sắc Giới
Thiền
Vô Sắc và Tâm Thiện Vô Sắc
Tâm vô sắc giới là tâm
thuộc về lănh vực vô sắc, v́ tâm này vượt ra
ngoài phạm vi sắc pháp nghĩa là đối tượng
của những tâm này thuộc về phạm vi tâm pháp và chế
định. Những tâm vô sắc cũng
là những tâm thiền như tâm sắc giới, nhưng trạng
thái những tâm này cao hơn và mạnh hơn.
Cần chú ư là những tâm vô sắc nầy
đều có trạng thái cũng như chi thiền giống
với tâm ngũ thiền sắc giới
và khi tính về thứ bậc th́ nó thường được
tính chung với tâm ngũ thiền sắc giới. Tâm thiền
vô sắc giới được phân làm ba loại: tâm thiện
vô sắc giới, tâm quả vô sắc giới và tâm duy tác
vô sắc giới.
I. Tâm Thiện Vô Sắc Giới:
Là tâm có kết quả sanh
làm người cơi vô sắc. Những tâm
nầy là những tâm thiền mà đối tượng là
các đề mục suy diễn chứ không nương vào
các đề mục sơ tướng bằng sắc pháp
như những tâm sắc giới.
Những tâm thiền vô sắc
là những tâm thiền chứng đắc sanh khởi nơi
phàm tam nhân và thánh quả hữu học.
Tâm thiện vô sắc giới được
chia làm 4 loại:
1.1) Tâm Thiện Không Vô Biên:
Là tâm thiền vô sắc
thành tựu chứng đắc với đối tượng
"hư không là vô biên".
Khi hành giả tu thiền sắc giới
đă thuần thục, nếu vị nầy có đủ
túc duyên, có tâm nhàm chán, xă ly sắc pháp với ư nguyện đạt
đến bậc thiền vô sắc cao hơn th́ vị nầy
gom tâm định trên đề mục quang tướng
thành tựu do thiền sắc giới.
Khi chăm chú vào đề mục quang tướng
ấy, thời một điểm sáng nhỏ như ánh sáng
đom đóm sẽ xuất hiện từ
đối tượng ấy. Khi ấy hành giả tập
trung tư tưởng, muốn ánh sáng ấy lan
tràn ra khắp hư không. Hành giả chú tâm như vậy cho
đến lúc điểm sáng ấy chiếu diệu ḥa đồng,
chiếu khắp cả hư không. Hành giả
cần nhớ là sự chiếu rọi hư vô vô biên đó
chỉ là do sự tưởng tượng mà ra và được
gọi là Kasiṇagghatimākāsā (hư không phát xuất
từ đề mục hoàn tịnh).
Từ đó, hành giả lấy đó
làm đối tượng và niệm rằng " Ākāsa
Ananto ... Ākāsa Ananto ... Ākāsa Ananto ... = hư
không không bờ mé ... hư không không bờ mé ...". Suy niệm như vậy
cho đến lúc hành giả định tâm hoàn toàn vào đề
mục ấy, tức là đă chứng và trú tâm thiền
này. Nếu muốn và đủ nghị
lực, hành giả có thể luyện lên bậc thiền
cao hơn. Nếu không, khi mệnh chung,
hành giả sẽ sanh về cơi vô sắc giới thuộc
cơi không vô biên.
1.2) Tâm Thiện Thức Vô Biên:
Là tâm thiền vô sắc khi
tu thiền lấy đề mục "thức là vô
biên" làm đối tượng.
Sau khi đă chứng trú thiền không vô
biên, hành giả khởi một suy niệm khác, suy niệm
này phủ nhận quan niệm "hư không là vô biên"
(có thể nói đây là śuy niệm xét lại" so với
suy niệm củ ở bậc thiền trước), hành
giả chăm chú suy niệm rằng "Viññāṇaṃ
ananto ... Viññāṇaṃ ananto ... Viññāṇaṃ
ananto ... = thức là vô biên ... thức là vô biên ..." cho đến
khi được hoàn toàn định tâm vào đề mục
là hành giả đă chứng trú bậc thiền Thức
(tâm) vô biên xứ.
( Thức vô biên xứ
là tâm thiền xét lại tâm không vô biên; - hành giả bắt
cảnh quá khứ, cảnh nội phần, v́ xét lại tâm
của chính ḿnh đă chứng là lấy tâm không vô biên làm đối
tượng, - hành giả bắt cảnh chơn đế
v́ bắt cảnh thức là vô biên. – thức
ở đây chính là tâm – ở tâm không vô biên hành giả nghĩ
rằng hư không không có bờ mé, c̣n ở thức vô biên
hành giả lại nghĩ chính tâm là không bờ mé).
Khi đă chứng được thiền
thức vô biên, nếu muốn và đủ định lực
hành giả có thể tiếp tục sang bậc thiền khác,
nếu không, sau khi thọ nghiệp đă mản, hành giả
sẽ được sanh vào từng thiền vô sắc, cơi
thức vô biên.
1.3) Tâm Thiện Vô Sở Hữu:
Là tâm thiền tu và chứng
đắc với đề mục "Vô Sở Hữu"
làm đối tượng.
Sau khi đă chứng đắc thiền
thức vô biên, hành giả khởi ư niệm "không có
chi" làm đề mục, ư niệm này do tâm tạo ra chứ
không phải chơn đế. Hành giả chu
tâm suy niệm Ṅatthi kiñci ... Natthi kiñci ... Natthi kiñci ... =
Không có chi ... không có chi" cho đến khi chứng trú và định
tâm chuyên chú vào đề mục này. Khi đă chứng được
bậc thiền này, nếu hành giả không tiến lên trạng
thái cao hơn được th́ lúc mệnh chung
sẽ được sanh vào từng vô sắc, cơi vô sở
hữu. (tâm thiền này cũng có tính cách
phủ nhận nhưng không xét lại tâm thiền củ).
Chữ Akiññāyatama được
dịch là vô sở hữu xứ nghe không được ổn
v́ vô sở hữu có nghĩa là không có chi là của ḿnh trong
khi đúng nghĩa tiếng Pali có nghĩa là không có chi nên phải
dịch là vô hữu xứ th́ đúng hơn.
1.4) Tâm Phi Tưởng Phi Phi Tưởng:
Là tâm thiền vô sắc được
tu chứng với đề mục "chẳng phải tưởng,
chẳng phải không có tưởng".
Khi hành giả đă chứng
đắc vô hữu xứ, hành giả quán xét lại tâm vô
hữu xứ với quan niệm "phải, đúng là
không có chi (hành giả nh́n nhận nó), nhưng hành giả ư
thức rằng sự nhận thức không có chi tức là
cũng có vậy". Do đó, hành giả suy niệm
rằng: "Satametaṃ panitametaṃ ... Satametaṃ
panitametaṃ ... pháp ấy tế nhị, vi tế lắm
(nghĩa là xét lại chẳng phải có tưởng, chẳng
phải không có tưởng)".
Hành giả suy niệm như vậy cho đến
khi tâm an trụ trên đối tượng
suy diễn tức là được chứng đắc thiền
phi tưởng phi phi tưởng.
Chú ư: Tâm phi tưởng phi phi tưởng
xét lại tâm vô hữu xứ (cảnh quá khứ) của
chính ḿnh đă đắc (cảnh nội phần); lấy
tâm vô hữu xứ làm đối tượng (cảnh chơn
đế), nhưng với quan niệm "xét lại"
(chẳng phải tưởng, chẳng phải không có tưởng).
Trái lại với tâm hữu xứ với
quan niệm "cố quyết" là không có chi.
Người thành tựu
tâm thiện này sau khi tạ thế sẽ được
sanh vào lảnh vực vô sắc, ở cơi phi tưởng
phi phi tưởng.
Tâm thiện thiền phi tưởng
phi phi tưởng là bậc thiền cuối cùng của thiền
vô sắc và cũng là bậc thiền cao nhất trong các tâm
thiền hợp thế.
Ghi chú: trong khi các tâm thiền sắc giới
được phân biệt bởi các sở hữu tâm (Tầm,
Tứ, Hỷ, Lạc, Định và Xă) th́ các tâm thiền vô sắc
giới được phân biệt bởi các đề mục
thiền định. Thiền sắc giới
được định danh bởi thứ bậc cao thấp
c̣n thiền vô sắc giới được định
danh bởi các đề mục quán tưởng trong khi tu
luyện tuy rằng cũng có sự cao thấp giữa các
bậc thiền.
OOOOO
TT Giác Đẳng giảng
TT Giác Đẳng & TT Thích hoàng Pháp giảng
Minh Hạnh Thực Hiện