Tâm
Sắc Giới
A Tỳ Đàm, Bài 10.1.1
Ngày 25 tháng 6 năm 2004
Minh Hạnh biên soạn & Cô Tu Nữ Diệu Tịnh hiệu đính
Bài 10
Tâm Vô Sắc Giới
Những điểm chính
Tâm Vô Sắc Giới
Thiền Vô Sắc và Tâm Thiện Vô Sắc
OOOOO
TT Giác Đẳng: Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, con
kính đảnh lễ Sư Trưởng, kính đảnh lể
Quí Chư Tôn Đức, thân chào quí Phật tử hiện
diện trong rơom. Kính bạch quí Ngài và thưa quí vị
hôm nay chúng ta sẽ bắt đầu sang tâm vô sắc giới.
Trong ngành Phật học Việt
Nam chúng ta có nhiều điểm rất thú vị, ví dụ
như chữ Tam Tạng ai cũng biết, chúng ta biết
chữ Tam Tạng qua nhân vật Đường Tam Tạng
hay Ngài Đường Huyền Trang, và thậm chí có nhiều
người biết co`n chi tiết hơn Tam Tạng gồm
có kinh, luật và luận. Dù nói như vậy
nhưng ít có ai nêu ra luận là gi`. Kinh và
luận đều để hiểu không phải với
người cư sĩ mà ngay cả những người
xuất gia cũng vậy.
Khi nói
đến Tam Tạng chúng ta thường nghĩ đó là
kinh Phật với những gi` được giảng,
nhưng khi nói đến luận thi` các vị ngờ ngợ
không biết nó như thế nào.
Riêng về chữ
Tam giới cũng vậy "tam giới như hoả trạch"
hay là “tam giới ra vào” hay là “vượt thoát tam giới”. Chữ tam giới chúng ta thường
nghe trong chữ dục giới, sắc giới và vô sắc
giới, thi` từ ngữ đó rất quen thuộc, quen
đến đỗi hầu như một người vừa
mới học Phật nghe đến chữ tam giới,
thi` chúng ta thường hiểu một cách nôm na là ba cơi. Tuy vậy ít có ai nêu ra một chi tiết thế
nào là sắc giới và thế nào là vô sắc giới.
Vô sắc giới là
bài học tiếp theo phần tâm sắc
giới ky` rồi, và chúng tôi không muốn làm mất thi` giờ
để quay trở lại định nghĩa chữ
avacara hay là giới, chúng ta nói giới vức. Ở đây chúng ta chỉ định nghĩa chữ
vô sắc, trong chữ dục giới, sắc giới và vô
sắc giới. Ở
đây có thể hiểu một cách nôm na
đó là những tâm thiền theo như trong bài học mà quí
vị vừa nghe, những tâm thiền này có mức độ
ban đầu tương đương với tâm ngũ
thiền sắc giới nếu nói theo A Ty` Đàm và tứ
thiền sắc giới nếu nói theo kinh tạng. Có nghĩa
là sau khi chứng đắc tầm, tứ, hỷ, lạc,
và định ở trong tam thiền thi` gọi là sơ thiền,
bỏ tầm đi co`n hỷ lạc và định trong A
Ty` Đàm gọi là nhị thiền, thi` khi bỏ tầm, bỏ
tứ, co`n hỷ, lạc, định thi` gọi là tam thiền
và khi bỏ hỷ chỉ co`n lạc với định
thi` co`n tứ thiền, đến lúc nào chỉ co`n lại
xả và định, và xả tức là xả thay thế
cho lạc thi` chúng ta gọi đó là ngũ thiền. Ngũ thiền này theo
trong kinh tạng tương đương với tâm tứ
thiền.
Chúng ta thường
nghe câu là ngũ thiền sắc giới
và ngũ thiền vô sắc, ở đây chỉ khác
chăng là cái đối tượng để khai triển,
ở trong tâm vô sắc những khái niệm rất là trừu
tượng. Tuy rằng khái niệm
trừu tượng nhưng nó có khả năng an tâm, nó có
khả năng tập trú và nó có khả năng để
vượt thoát, cái sau phủ nhận cái trước, và
cái sau nó lại có sức mạnh áp đảo những cái
trước, đây là một trong những đặc tính của
các tâm thiền.
Dĩ
nhiên là đối với tâm thiền sắc giới, 4 cái gọi
là không vô biên, thức vô biên, vô sở hữu, phi tưởng
phi phi tưởng lại cho chúng ta rất nhiều điều
thú vị. Để quí vị khỏi ngỡ
ngàng một điều, những gi` được đề
cập đến tâm vô sắc giới có vẻ xa lạ với phần lớn
với chúng ta, thi` chúng tôi cũng xin nhắc lại ở tại
đây.
Theo trong kinh thi` khi
thái tử Sĩ Đạt Đa chào đời được
ba ngày, vua Tịnh Phạn đă làm một lễ gọi là
lễ đặt tên, trong lễ đặt tên đó vua Tịnh
Phạn đă mời nhiều nhà thông thái đến để
xem tướng và đặt tên cho thái tử và trong kinh cũng
nói rằng ở trong trước và sau buổi lễ, thi`
thái tử đă có một người khách đặc biệt
đến thăm viếng đó là đạo sĩ Asita . Đạo sĩ Asita
được xem như vị đă chứng thiền phi
tưởng phi phi tưởng là thiền cao nhất ở
trong thiền chỉ, và đó cũng là tầng thiền cao
nhất của thiền vô sắc.
Chúng ta cũng được
nghe đến 2 vị đạo sĩ là Alarama và Ramaputta, hai
vị đạo sĩ này từng là hai vị Thầy dạy
về thiền chỉ cho Đức Đại Bồ Tát.
Sau khi thái tử Sĩ Đạt Đa rời khỏi thành
A Ty` La Vệ, Ngài đă từng theo bước chân tầm đạo
của mi`nh để đến sống và tu học trong hội
chúng của hai vị này, và Ngài đă chứng đắt
hai tầng thiền mà hai vị này đă chứng được,
đó là thiền vô sở hữu và phi tưởng phi phi tưởng.
Dĩ nhiên biết như
vậy, chúng ta nhắc ở đây để thấy rằng
đây không phải là một đề tài đặc biệt
của A Ty` Đàm mà ở trong kinh tạng nhắc đến
rất nhiều. Thậm
chí chúng ta co`n nghe đến một bài luận thuyết của một vị
giáo sư của Ấn Độ, khi ông đề cập đến
những logic và những y’ niệm từ thiền vô sắc
này đă ảnh hưởng đến sự phát triển
của Đạo Phật về sau này, chuyện đó chúng
ta sẽ trở lại trong giây lát.
Nhưng
bây giờ chúng ta hăy trở lại với tâm vô sắc để
nêu ra một câu hỏi, và hồi năy chúng ta có định
nghĩa tâm vô sắc là gi`. Tâm vô sắc là tâm thiền,
dùng một khái niệm trừu tượng, không thuộc về
vật chất, không thuộc về sắc pháp, nó hoàn toàn
trừu tượng. Có
thể nói đây là những khái niệm, khái niệm này rất
lạ, thứ nhất là một người muốn biến
măn tâm y’trên khái niệm này thi` là người phải chứng
đắc được tầng thiền cao nhất của
sắc giới, tức là tứ thiền vô sắc nói theo
kinh tạng, hay là ngũ thiền vô sắc, nói theo A Ty` Đàm. Với tâm định này, vị này
phải có y’ niệm để vượt thoái tất cả
những gi` liên quan đến sắc kể cả quan tướng,
mà vị này đi vào một thế giới chỉ cảm
nhận được bằng khái niệm thôi.
Thưa quí vị chúng
ta được biết một điều là không phải
bất cứ một thiền cảnh nào, hay không phải bất
cứ một cảnh nào, nó cũng có thể làm cho tâm tư
của mi`nh được an trụ và
biến măn như nhau. Một điều
ở đây rất rơ ràng là trong cuộc sống của chúng
ta, nếu chúng ta thích cây kiểng thi` nó có thế giới của
cây kiểng, nếu một người thích văn hoá thi` nó
có giới hạn của văn hoá, một người thích
chuyện ăn uống, nó giới hạn của sự ăn
uống. Mà nó có những khái niệm,
mà từ khái niệm này một người an
trú biến măn, thi` tâm tư của họ nó trải rộng
không có ngần mé, không có hạn cuộc.
Và bấy giờ chúng
ta cứ lấy một vài ví dụ rất bi`nh thường
trong đời sống của mi`nh, có những
người tâm tư của họ chỉ chuộng đến
sự hào hứng ở trong ngành thể thao mà thôi. Khi nói đến sự hào hứng
trong ngành thể thao thi` cái gi` làm cho tâm tư họ thật
sự vui, ở đó phải có sự hơn thua, một bên
thắng, một bên bại, và trong cái thắng cái bại,
cho dù họ bênh bên nào đi nữa, nhưng chính y’ niệm
hơn thua đó nó làm cho họ ti`m thấy sự hào hứng
của đời sống. Nhưng trái lại có những người họ
ti`m được niềm an lạc ở trong sự thăng
tiến của người khác, có những người họ
ti`m thấy hạnh phúc ở trong một điều mà chúng
ta gọi là đi truy ti`m những giá trị, mà người
khác chưa khám phá ra được. Không phải bất
cứ cảnh giới nào chúng ta thể nhập cảnh giới
đó đều có khả năng biến măn hết.
Hồi năy chúng tôi nói
với quí vị rằng có những người suốt cuộc
đời họ chỉ tập trung một việc thôi, làm
sao để có được bữa ăn ngon, làm sao để
thoả măn cái khẩu vị của mi`nh, thi` cho dù họ đạt
đến mức độ ảo diệu đến đâu
trong vấn đề ẩm thực, thi` nó chỉ là cái gi`
đó thoả măn cho vị giác của họ mà thôi không hơn
không kém.
Nhưng chúng ta cũng
được biết rằng, có những người như
Ansai chẳng hạn, một nhà khoa học, một nhà bác học,
một nhà tư tưởng, ông đă không để tâm tư
mi`nh ràng buộc những con số bi`nh thường của
toán học, mà đă dẫn ông đến những quan niệm,
tuy rằng ngày nay đă có nhiều thử thách, tuy nhiên phải
nói rằng có những cảnh giới mà tâm tư con người
hễ họ hướng vào, an trú vào thi` tâm của họ
nó cao vời, nó biến măn rộng lớn.
Chúng ta
bắt đầu tâm vô sắc với một trạng thái
gọi là không vô biên. Không vô biên
là một sự vượt thoái ra khỏi sắc, sắc được
hiểu như là sự kết hợp của các đơn
vị vật chất, và ngay cả một đơn vị
vật chất cực vi đi nữa thi` thưa quí vị
cái đơn vị vật chất đó vẫn hữu hạn. Chúng ta lấy một nguyên tử phân
tử chẳng hạn, sắc pháp luôn luôn có hạn cuộc
của nó, tại vi` sao vậy? nếu sắc pháp không có hạn cuộc, thi`
chúng ta không thể nói đến cái thể trạng, cái chiều
kích và những tính chất cố hữu của sắc được.
Tuy vậy ở trong khái niệm mà muốn vượt
thoát hạn cuộc của sắc, thi` hành giả có thể
bằng cái tâm định của tứ thiền để
liên tưởng đến hư không. Hư không ở
đây được hiểu là cái gi` nằm giữa các đơn
vị vật chất, vật chất thi` có hạn cuộc,
vật chất thi` có chiều kích, vật chất thi` có
hi`nh dạng, do đó nó bị giới hạn. Nhưng hư không
thi` nó nằm ngoài sắc, nó nằm giữa các sắc, nhưng
hư không mới chính là đạt tới cảnh giới
vô lượng.
Chúng ta nói ở tại
đây là vi` tâm tư cần một ư niệm
để thể nhập, điều này đặc biệt
là khó mà tưởng tượng.
Nếu chúng tôi đang ngồi nói chuyện với qúi
vị trong rơom này mà đặt vấn đề hư
không là hữu biên hay vô biên, thi` thật ra nó không có nghĩ
gi` để chúng ta suy diễn hết, nó hoàn toàn không có nghĩa
gi`. Nhưng với hành giả
đi ti`m một cảnh giới, mà cảnh giới đó
vị này thấy rằng nó vượt thoát lên trên cái giá trị
mi`nh đang có, thi` tất nhiên cảnh giới
đó nó phải có sức hút đặc biệt, và sức
lôi kéo đặc biệt để khai triển khả năng
tâm định.
Nếu một hành giả
dùng những đề mục sắc pháp, như mười
đề mục hoàn tịnh, mười đề mục
bất tịnh v.v…
và dùng những đề mục này để
khai triển tâm định của mi`nh, thi` cho dù đạt
đến mức độ tinh tế chỉ co`n xả và
định. Thi` vật chất
hay sắc pháp, sắc thi` nó vẫn bị chi phối bởi
sắc, nó có hạn cuộc của sắc, và để vượt
thoát khỏi cái sắc đó, người ta phải ti`m một
sức vật, sức vật ở đây là bất cứ
vật chất nào nó cũng có giới hạn cực vi của
vật chất, chúng ta muốn nói đến giới hạn
của một nguyên tử phân tử và chỉ có hy không mới
là không có bờ mé, hư không mới không có hạn cuộc,
do vậy vị này an trú vào khái niệm gọi là hư không
là vô biên.
Sau khi vị này đă
thiết lập cái định tâm của mi`nh, ở trên cái
gọi là hư không vô biên, thi` vị này có thể có hai ly’
do mà sẽ vượt lên khỏi y’ niệm là thiền định
không đứng lại, nếu co`n có thể tiếp tục
khai gio`ng, thi` chúng ta thấy rằng cho dù y’ niệm hư
không là vô biên, nó là y’ niệm có thể an lạc tâm định
của hành giả, nghĩa là hành giả hoàn toàn tự mi`nh
thuyết phục mi`nh, tự mi`nh an trú vào khái niệm hư
không và vô biên, thi` vị này sau đó lại khởi sanh một
y’ niệm khác, thấy rằng dù rằng hư không là vô biên
như vậy, nhưng hư không cũng bị tâm biết
do vậy hư không không có vô biên, mà chính tâm thức mới
là vô biên.
Chiều kích của
thế giới này nó bao lớn, thi` tâm thức có thể biết
được bấy nhiêu, có nghĩa là thế giới này
bằng hạt vi trần, thi` thức cũng có thể biết
bằng hạt vi trần, và thế giới này là tam thiên đại
thiên thế giới, là vô lượng vô biên thế giới,
nó là bất cứ điều gi`, hễ có trạng thái thi`
ở đó tâm có thể biết được, nên từ
y’ niệm vị này tự mi`nh thuyết phục, và tự
mi`nh an trú, cho thấy rằng không phải chữ hư không
là vô biên, mà chính thức là vô biên.
Ở trong cả hai
khái niệm đầu chúng ta nói hư không và thức đó
nó là một kết luận, nó là một cái nhi`n mà vị hành
giả được an lạc, và do vậy đến một
lúc vị này cảm thấy rằng dù là sắc, dù là hư
không, dù là thức, thi` tất cả đều có chừng
mức của nó, và quả thật là không có gi` thi` vị này
an trú vào trong một khái niệm gọi là vô sở hữu,
nói cho đủ là vô sở hữu xứ.
Thưa
quí vị trong bài về tâm vô sắc, thi` chúng ta lại có một
sự mô tả khác biệt với tâm thiền sắc giới. Ở
trong tâm thiền sắc giới nó dựa trên yếu tố
thuần thục, càng thuần thục thi` các chi thiền giảm
bớt, chi thiền ở đây chúng ta nói tầm, tứ, hỷ,
lạc và định, bỏ tầm chỉ co`n tứ, hỷ,
lạc, định thi` chúng ta gọi nó là tâm nhị thiền.
Nhưng ở trong tâm thiền vô sắc dầu rằng 4 tâm
thiền thi` tâm thiền nào nó cũng có hai chi thiền là định
và xả giống nhau, thi` bây giờ cảnh giới hay cái
mà chúng ta gọi là án xứ hay nói theo từ ngữ Sư Trưởng
dịch là chiếu kiến nghiệp xứ, kammatthana nó lại
vô cùng quan trọng, và quan trọng đối với sắc
giới là khả năng phủ nhận cái trước để
đạt đến cái sau.
Phủ nhận cái trước
đạt đến cái sau, hồi năy chúng ta đă đi
qua là nó phải phủ nhận sắc để đạt
đến khái niệm sắc là hữu hạn, chỉ có hư
không, cái thái không, cái chân không mà nó nằm giữa các màu sắc
thi` cái đó mới gọi là vô biên. Từ y’ niệm này
các vị vượt qua dẫn đến một y’ niệm
khác, nếu có điều kiện có nhân duyên và có y’ muốn,
thi` vị đó có thể từ cái thuần thục của
hư không vô biên để nhảy sang thức vô biên, và cho
rằng chỉ có tâm thức mới là vô biên. Và chúng ta nói đến
sắc, chúng ta nói đến tâm thức cả hai thứ này
đều phủ nhận nên gọi là vô sở hữu.
Vô sở
hữu là sự cắt đứt rất mạnh mẽ đối
với quan niệm thức vô biên, và chúng ta biết rằng
dĩ nhiên không vô biên, hư không là vô biên không có chỗ đứng. Ở đây
thi` sau cùng vị này tự nhận ra một điều rằng,
tuy rằng tất cả đều là không, nhưng co`n biết
cái không đó thi` vẫn co`n là có. Do vậy cảnh giới
của vị này gọi là phi tưởng, phi phi tưởng.
Phi tưởng, phi
phi tưởng là một trạng thái nó không hẳn nằm
hoàn toàn về logic ở trong thiền định, chúng ta nói
lên định tâm, chúng ta không nói nó là logic, nhưng đây là
trạng thái cực ky` vi tế mà tâm tư
có thể an trú được.
- Thứ nhất là tâm có thể an trú trên một đối tượng.
- Thứ hai là đối tượng
ở đây là một khái niệm hoàn toàn trừu tượng.
- Thứ ba là khái niệm trừu tượng
của phi tưởng, phi phi tưởng là một khái niệm
cực vi vừa phủ nhận và vừa
chấp nhận, có tưởng nhưng mà chẳng phải
không có tưỏng nhưng chẳng phải là không có tưởng.
Ông Rasan Richmond, một
giáo Sư Ấn Độ khi nghiêng cứu về những
tâm thiền vô sắc, ông đă viết rằng có những
khái niệm ở đây được đặc biệt
phát triển mạnh trong thời ky` sau này của Phật
giáo. Trong đó quan
niệm về hư không vô biên có vẻ rất gần với
quan niệm về thế giới hoa tạng, mà chúng ta ti`m
thấy trong một số kinh điển như kinh Hoa Nghiêm. Và thức vô biên có thể
nói rằng rất gần với quan niệm duy thức, rất
gần với quan niệm mà chúng ta nói rằng “nhất thế
pháp duy tâm tạo”.
Quan niệm vô sở
hữu theo vị giáo sư này, nó đặc
biệt rất gần với quan niệm trung quán về tánh
không, và quan niệm phi tưởng, phi phi tưởng. Riêng
về chữ logic của phi tưởng, phi phi tưởng,
đặc biệt rất gần với giáo ly’ bát nhă, một
giáo ly’ mà có thể dung hợp được cả hai quan
niệm gần như đối nhau là không có gi` và có gi`. Cho
dù chúng ta có đồng y’ với cách nhận định này
hay không, thi` có một vài điểm cần được
đưa ra ở tại đây.
- Trước hết đây là những
khái niệm hoàn toàn trừu tượng, do vậy những
tâm an trú vào cảnh giới đó gọi
là tâm vô sắc.
- Thứ hai một trạng thái tâm
mà có thể đạt đến cảnh giới này, thi` vị
đó phải có tâm bằng tri`nh độ của một vị
tứ thiền sắc giới, có nghĩa là trạng thái tâm
vô sắc cao hơn tâm này rất nhiều.
- Thứ
ba chúng ta được biết ở tại đây, trong
thiền sắc giới lấy chuyện thuần thục
giảm thiểu chi thiền, cho chúng ta biết về thứ
bậc như sơ, nhị, tam, tứ, ngũ
thiền. Nhưng trong thiền
vô sắc thi` điều này hoàn toàn dựa lên trên khả năng,
cái sau dựa lên cái trước, và nó vừa phủ nhận
và vừa có thể an trụ tâm tư,.
Thi` thưa
quí vị đó là những đặc điểm khi chúng ta
nói về tâm vô sắc. Hôm nay chúng ta sẽ nói
về tâm thiện vô sắc, cũng như tâm dục giới
và sắc giới. Chúng ta có tâm thiện, chúng ta có tâm quả, chúng ta có
tâm duy tác, chúng ta sẽ bắt đầu buổi thảo
luận.
Minh Hạnh Thực Hiện