www.dieuphap.com   
Trang Pháp Đàm 
A Ty` Đàm 
Bài Giảng   3.1A
Bài 3.  1a
Thảo Luận  1
Thảo Luận  2
Thảo Luận  3
Bài Giảng   3.1B
Bài 3.  1b
Thảo Luận  4
Thảo Luận  5
Thảo Luận  6



A Tỳ Đàm
Ging Giải và Tho Luận

Tâm và Sự Phân Loại

A Tỳ Đàm, Bài 3.1a   Ngày 10 tháng 4 năm 2004


Minh Hạnh biên soạn & Cô Tu Nữ Diệu Tịnh hiệu đính


Điểm chính trong bài học:

1) Định nghĩa chữ tâm (citta)


1.1 Tâm được định nghĩa là sự biết cảnh. Tâm biết cảnh sắc gọi là nhăn thức hay thị giác; tâm biết cảnh thinh là nhĩ thức hay thính giác; tâm biết cảnh khí gọi là tỷ thức hay khứu giác; tâm biết cảnh vị là thiệt thức hay vị giác; tâm biết cảnh xúc gọi là thân thức hay xúc giác. Năm cảnh vừa kể thường được gọi tắt là cảnh ngũ. Năm thức vừa trên gọi là ngũ song thức v́ mỗi thứ là một cặp: quả thiện hay quả bất thiện (tức cảnh tốt hay cảnh xấu). Ngoài cảnh ngũ gọi là cảnh pháp. Tâm biết cảnh pháp gọi là ư thức.

1.2 Tâm hiện hữu liên tục, bền bỉ. Hầu như hoàn toàn không thể chận đứng ḍng tâm thức trừ khi do thiền định như vị thánh tam quả hay tứ quả nhập diệt thọ tưởng định, hoặc quả của tứ thiền vô tưởng. Nói như vậy có nghĩa là ngay trong giấc ngủ cũng có tâm thức. Cho dù không nằm một th́ cũng có cảnh của tâm. Nói một cách khác ḍng tâm thức vẫn liên tục tiếp diễn.

1.3 Tiến tŕnh tâm thức gồm những sát na sanh diệt nối tiếp nhau. Có hằng triệu triệu sát na trong một giây. V́ vậy sự hoạt dụng của tâm vượt xa bất cứ cơ năng nào của vật chất được biết đến. Dù nhiều sát na sanh diệt trong một khoảnh khắc nhưng liên tục kết nối nhau. Ở mỗi chúng sanh chỉ có một sát na tâm sanh trong một thời điểm cực vi. Và mỗi lần chỉ biết một cảnh.

Ty` Khưu Giác Đẳng


TT Giác Đẳng: Kính bạch TT Trí Siêu, kính thưa quí vị, ngày hôm qua chúng ta được nghe Chư Tăng bàn về bốn pháp Chân Đế hay bốn pháp Bản Thể, trong đó có tâm, thuộc tánh của tâm, sắc pháp và Niết bàn.  Mở đầu chương tri`nh này có lẽ quí vị cảm thấy hi`nh như có một sự trùng lập, lập đi lập lại, khi trong bài một chúng ta đề cập đến pháp chân đế và hầu như khái niệm về chân đế được nhắc lại ba lần.  Riêng khái niệm về tâm hôm qua quí vị nghĩ rằng chúng ta định nghĩa tâm trong bốn pháp bản thể, tại sao ngày hôm nay chúng ta lại có định nghĩa thêm về tâm nữa, chính thật ra thi` ở đây có hai dụng y'.

Dụng y' thứ nhất là khi chúng ta học A Ty` Đàm, nếu chúng ta có sự lập đi lập lại một số khái niệm để nó ăn chặt vào đầu thi` chúng ta sẽ dễ dàng hơn. A Ty` Đàm là môn học có khái niệm rất mới, nếu chúng ta vừa học vừa vật lộn với môn học này thi` chúng ta sẽ rất mệt mỏi, thêm vào đó thi` đầu tiên có lẽ cần thiết cho chúng ta là chỉ ghi nhận, ví dụ như tâm A Ty` Đàm của Pali nói như vậy, ví dụ như vấn đề duyên A Ty` Đàm của Pali nói như vậy, cho đến một lúc nào đó khi những khái niệm này đă quen thuộc rồi, chúng ta mới có thể làm một cái tỷ dạo. Và đầu tiên thi` chúng ta lắng nghe, đó là một việc hết sức quan trọng để chúng ta có thể đi sâu vào nội dung của môn học.

 Điểm thứ hai, cách học A Ty` Đàm gọi là qui nạp và chiếc chung, tức là chúng ta học một cái nhi`n toàn diện, hoặc giả chúng ta học từng chi tiết, ngày hôm qua chúng ta học, chúng ta cố gắng có cái nhi`n toàn diện về bốn pháp bản thể, tuy vậy hôm nay chúng ta sẽ đi vào trong đề tài chính của pháp bản thể đầu tiên đó là tâm.

Tâm là đề tài lớn ở trong Đạo Phật và dĩ nhiên tâm là đề tài lớn của A Tỳ Đàm, có một số luật liên quan đến hoạt dụng cũng giống như sự hiện hữu của tâm, lát nữa chúng ta sẽ được nghe TT Trí Siêu giảng ở trong bài này.  Chúng tôi xin tất cả quí vị hoan hỷ chú y' một điểm là những khái niệm A Tỳ Đàm tương đối mới mẻ, nhưng nếu một khi chúng ta đă quen thuộc rồi, thi` quí vị sẽ ti`m thấy ở đó rất nhiều lợi ích, thay vi` có những quan niệm nghĩ rằng đồng dị khác biệt v.v...  thi` chúng ta cố gắng để ti`m hiểu thử xem đề tài này A Ty` Đàm nói như thế nào, và đặc biệt ngày hôm nay đề tài về tâm chúng ta sẽ thấy rằng A Ty` Đàm cho chúng ta một vài y' niệm rất mới mẻ. Thay mặt cho đại chúng, xin kính thỉnh TT Trí Siêu mở đầu cho chương tri`nh ngày hôm nay.  Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.



TT Trí Siêu: Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, kính bạch TT Giác Đẳng, kính thưa quí Phật tử. trước nhất tri ân TT Giác Đẳng trong mỗi buổi học về môn Vi Diệu Pháp thi` chúng tôi có yêu cầu TT Giác Đẳng dẫn nhập cho đề tài của bài học, và sau đó chúng tôi sẽ thuyết giảng.

Đúng như lời TT Giác Đẳng đă nói, chúng ta học Vi Diệu Pháp mà chúng ta vật lộn với những y' nghĩa nhiều chừng nào thi` tốt chừng đó, chúng ta sẽ nhớ, chúng ta sẽ nắm bắt được nội dung của chi pháp, cho nên chúng ta sẽ không ngạc nhiên khi ngày hôm qua và những ngày trước chúng ta cũng đă từng nhắc đi nhắc lại về phần tâm, nhưng ngày hôm nay chúng ta tiếp tục xoáy sâu vào phần tâm nữa, trong những ngày qua chúng ta học về tâm là chúng ta chỉ định nghĩa về trạng thái tổng quát chức năng, vai tro` của tâm mà thôi, chúng ta chưa có sự phân loại và ngày hôm nay thi` chúng ta sẽ học phân loại về tâm.

Nói đến sự phân loại của tâm trong chương tri`nh học A Ty` Đàm, thi` có nhiều cách, chúng ta có thể phân loại tâm theo nhóm, hay là theo lănh vực, hoặc là chúng ta phân loại tâm theo thức. 

Phân loại tâm theo nhóm như trong bản Nêu, Ngài Tịnh Sự phân loại thi` nhóm tâm tham, nhóm tâm sân, nhóm tâm si, nhóm tâm quả bất thiện, nhóm tâm quả thiện vô nhân, nhóm tâm tố vô nhân, nhóm tâm thiện dục giới, nhóm tâm dục giới hữu nhân, nhóm tố dục giới vô nhân, nhóm tâm thiện sắc giới, nhóm tâm quả sắc giới, nhóm tâm tố sắc giới, nhóm tâm thiện vô sắc giới, nhóm tâm quả vô sắc giới, nhóm tâm tố vô sắc giới, nhóm tâm đạo và nhóm tâm quả, nhóm tâm sơ đạo, nhị đạo, nhóm tam đạo, nhóm tâm tứ đạo, nhóm tâm sơ quả, nhóm tâm nhị quả, nhóm tâm tam quả, nhóm tâm tứ quả.  Đó là chúng ta phân 23 nhóm tâm, học theo cách đó cũng được.

Và nếu chúng ta phân loại tâm theo lănh vực hay gọi là avacara thường dịch là cơi hay địa vực thi` ở đây gồm có bốn nhóm tâm dục giới, nhóm tâm sắc giới, nhóm tâm vô sắc giới, nhóm tâm siêu thế. Chúng ta phân loại cách nào cũng được.

Nhưng ở đây có lẽ chúng ta nên phân loại nhóm tâm theo cảnh, theo cảnh sở tri như vậy thi` chúng ta sẽ thấy rơ ràng hơn, nắm bắt được dễ dàng hơn. 

Phân loại theo thức thi` chúng ta cũng biết tâm năng chi cảnh, và chúng ta có đến sáu thức hay sáu thứ tâm cảnh.  Tâm biết cảnh thinh (saddàramman.a) gọi tâm nhĩ thức, hay tâm biết cảnh vị là vị thức hay vị giác, tâm biết cảnh xúc gọi là thân thức hay là xúc giác, ngoài năm cảnh này ra tức là ngoài năm cảnh hiện tại, chúng ta gọi là cảnh pháp thi` tâm biết cảnh pháp chúng ta gọi là y' thức.  Tuy nhiên trong vấn đề này y' thức cũng chưa hẳn là những tâm chỉ biết cảnh pháp, mà đối với tâm dục giới y' thức thuộc về dục giới, những tâm đó có đôi lúc sanh nương nơi ngũ môn, tức là nhăn môn, nhĩ môn, tỷ môn, thiệt môn, thân môn thi` lúc đó là biết cảnh ngũ, tức là cảnh sắc, cảnh thinh, cảnh khí, cảnh vị, cảnh xúc. Co`n khi nương nơi y' môn thi` biết cảnh pháp như vậy y' thức, tâm y' thức thi` nó biết tới 6 cảnh như vậy.

Với phân loại tâm và y' nghĩa của từng loại tâm phân theo cách này thi` phải nói một điều chúng ta có thể hiểu, tuy nhiên cũng xin nói trước là chúng ta học Vi Diệu Pháp, thoạt đầu trong phần định nghĩa sơ khởi thi` có thể là chúng ta nắm bắt được, nhưng mà dần dần chúng ta đi sâu vào nội dung chi tiết của môn học A Ty` Đàm thi` phải nói là chúng ta sẽ có nhiều sự khó khăn, có nhiều sự rắc rối.  Chúng tôi sẽ hết sức cố gắng để tri`nh bày cho quí vị và hy vọng rằng với những bài giảng này và những phần thảo luận do chúng tôi với  TT Giác Đẳng và với Sư Trưởng sẽ phối hợp nhau để bàn luận thi` sẽ giúp cho quí vị có thể hiểu bài, thuộc bài.

Trước hết chúng ta nói về phần nhăn thức, tâm nhăn thức, trong 121 tâm thật ra thi` chỉ có 6 thức thôi:

Nhăn thức chỉ có hai tâm, chúng ta thường gọi là đôi nhăn thức. 

Như vậy nhăn thức là gi`, là cái biết của mắt, tâm nhăn thức là cái biết của mắt, nó thấy cảnh sắc.  Tâm nhăn thức biết cảnh sắc, nương nơi nhăn môn, trú ở nhăn vật, chỉ bấy nhiêu từ đó thôi. Chúng ta phải dừng lại ở đây để chúng ta nói rơ thêm, nhăn môn là gi`, nhăn vật là gi`, cảnh sắc là gi`, rồi sau đó chúng ta mới phân chi tiết thêm về phần tâm nhăn thức.  Tất cả những loại tâm khác như là nhĩ thức, tỷ thức v.v... tạm thời ngay bây giờ chúng ta hăy gác qua một bên, chúng ta đừng có phân tâm nó, chúng ta chưa nói về vấn đề đó, chúng ta hăy xoáy sâu vào tâm nhăn thức thôi.

Gọi là tâm tức là sự biết cảnh, chỉ đơn giản là sự biết cảnh.  Nhưng dựa trên cảnh mà tâm biết nên mới đặc tên cho tâm đó, tâm nhăn thức cũng chỉ là trạng thái tâm biết cảnh, nhưng vi` loại tâm này biết cảnh sắc, cảnh sắc ở đây tức là cái gi` con mắt có thể thấy được, có thể nhi`n được và khi con mắt nhi`n cảnh sắc, thấy cảnh sắc thi` một loại tâm có nhiệm vụ để biết cảnh sắc đó, biết một cách thuần túy chưa phân biệt theo khía cạnh qui ướt, khái niệm là cảnh sắc quen hay lạ, màu xanh hay màu đỏ, màu trắng, màu vàng hoặc  nhi`n một người biết được ông A ông B v.v...  điều đó không phải là cái biết của tâm nhăn thức, tâm nhăn thức đơn thuần chỉ là một thứ tâm biết cảnh chân đế, tức là biết cảnh sắc, chỉ biết đó là cảnh sắc thôi, co`n khi nào có những tâm khách quan khác liên tục biết sau tâm nhăn thức sanh khởi và có những phần lộ tâm, lộ y', nó góp với lộ nhăn môn, thi` lúc bấy giờ những tâm y' thức sau đó nó sẽ biết cảnh sắc một cách toàn hảo, một cách viên măn, khi chúng ta nhi`n thấy một cảnh sắc, lúc bấy giờ nó phải hội đủ những điều kiện, những yếu tố nó mới phát sanh lên được tâm nhăn thức.

 - 1)Trước nhất phải có cảnh sắc,

 - 2) Thứ hai phải có nhăn vật tức là con mắt, thần kinh nhăn của chúng ta là mắt tốt, thần kinh nhăn co`n hoạt động tốt đẹp không bị hư, nghĩa là không bị mù không, thi` như vậy nhăn vật đó mới có thể làm công tác chỗ nương cho tâm nhăn thức sanh khởi ở khía cạnh sắc hay yếu tố.

- 3) Yếu tố thứ ba nữa tức là phải có ánh sáng, cho dù con mắt chúng ta tốt, chúng ta nhi`n cảnh sắc trong đêm tối thi` hoàn toàn chúng ta không thấy gi` cả vi` thiếu ánh sang, do vậy cho nên nhăn thức cũng không sanh khởi.  Ánh sáng ở đây là có thể hiển hiện ra cảnh sắc trước mặt, chúng ta phải nói rơ như vậy, chứ ánh sáng này không đo`i hỏi, không cần thiết phải là ánh sáng trắng rơ ràng như ban ngày, khi chúng ta nhi`n trong đêm tối với bầu trời đầy những sao, chúng ta có thể thấy lờ mờ những ngọn cây, hay chúng ta thấy lờ mờ con đường cát trắng ở phía trước, thi` sự lờ mờ đó dù là lờ mờ không phân biệt rơ ràng nhưng cũng được xem như là cảnh sắc. Và con mắt chúng ta có thể nhận diện được cảnh sắc lờ mờ đó cũng bằng tâm nhăn thức. 

Thật là tế nhị thưa quí vị, nghĩa là chúng ta học Vi Diệu Pháp thi` phải nói là thiên nan, vạn nan, đây là một triết học tâm linh và một môn tâm ly' học phân tích một cách hết sức cặn kẽ, những điều đó chúng ta cũng cần phải lưu y', sau này chúng tôi sẽ nói đến tại sao chúng ta học giáo pháp của Đức Phật, học A Ty` Đàm cần phải phân tích làm chi cho kỹ lưỡng, cho chặc chẽ như vậy, điều đó chúng ta sẽ thấy tác dụng về sau này, bây giờ thi` qúi vị đừng vội có những hoài nghi, đừng vội có những thắc mắc, đừng vội có những sự chán nản hay phủ nhận giá trị của việc học này, cũng xin báo trước với qúi vị là bây giờ chúng ta đang trong giai đoạn hết sức cam go khi chúng ta muốn hiểu tường tận về Vi Diệu Pháp dậy những gi` rồi sau đó chúng ta mới trở lại với trí tuệ sắc bén của mi`nh, với tri kiến của mi`nh, bén nhạy trong Vi Diệu Pháp sẽ giúp cho chúng ta khả năng tu tập về thiền định như thế nào thi` điều đó sau này có thể là chúng ta sẽ có dịp được nhắc đến, chắc chắn là như vậy.

Trở lại vấn đề thưa qúi vị,

- 4) Yếu tố thứ tư giúp cho tâm nhăn thức chú y', mở mắt nhi`n về phía trước và trước mắt đang có cảnh sắc, ánh sáng rơ ràng như ban ngày nhưng lúc đó tâm tư của chúng ta đang suy nghĩ một điều gi` mà tác y' hướng sang cảnh khác, thi` dầu cho cảnh ở trước mặt đi nữa nhăn thức cũng không sanh khởi được để mà biết đó là cảnh sắc, trường hợp này chúng ta có thể trắc nghiệm qua đời sống hàng ngày của chúng ta. Khi chúng ta không chú y' vào cảnh sắc đó thi` tất nhiên tâm nhăn thức lúc bấy giờ nó không sanh khởi.  Tâm nhăn thức được gọi là một trạng thái tâm biết cảnh sắc do nương nhăn vật, nhăn vật tức là thần kinh nhăn hay là con mắt thuộc về sắc pháp mà chúng ta sẽ học sau này về 5 sắc thần kinh Pan~capasàda thi` chúng ta sẽ được nhắc lại nữa chớ không phải chỉ học trong ngày hôm nay thôi.

Bây giờ chúng ta lại bước qua một danh từ khác mà tôi nghĩ rằng khi tôi đă phân tích về môn vật, về cảnh đă giải nghĩa như vậy rồi thi` sau này qua đến phần nhĩ thức thi` tỷ thức, thân thức, y' thức, thi` chúng tôi sẽ dễ dàng hơn.

 - I) Bây giờ chúng ta đề cập đến nhăn môn (cakkhudvàra), nhăn môn tức là một cửa ngơ của con mắt, con mắt là cửa ngơ, một cửa ngơ để cho lộ tri`nh tâm pháp biết cảnh sắc nó hiện vào đó, nó sanh khởi ở đó.  Thực ra nhăn môn chính là nhăn vật nhưng gọi như thế là đphân biệt khác nhau ở điểm nhăn vật chỉ là chỗ trú của tâm nhăn thức thôi, nhưng toàn bộ lộ tri`nh tâm những tâm khách quan biết cảnh sắc đều phải nương vào nhăn môn cả.

Thí dụ như bây giờ khi chúng ta nói "ông A sống trong căn nhà đó, và mọi người vợ con của ông A cũng sống trong căn nhà đó". Chúng ta nói như vậy có nghĩa là ông A và những người thân như vợ con của ông ta trú ở trong căn nhà đó, trú một cách thường xuyên. Nhưng không phải ngôi nhà đó chỉ có mi`nh ông A và vợ con của ông ta xuất hiện, mà trong hàng ngày sinh hoạt liên hệ giao tiếp bạn bè thân hữu, họ có thể đi đến thăm viếng, cũng có thể đi đến trong những dịp tiệc tùng v.v... Nhưng đối với những người khách này hiện đang ngồi trong nhà ông A để dự tiệc hoặc thăm viếng, chúng ta không thể nói rằng ngôi nhà của ông A là nơi cư trú của họ, mà họ chỉ tạm thời ghé qua nhà đó thôi. 

Cũng đối với tâm nhăn thức thi` chỗ trú của nó là y' vật là thần kinh nhăn, nhưng tất cả những tâm khách quan, trong đó có những tâm thuộc về y' thức giới liên quan đến phận sự thu cảnh sắc, thi` những tâm đó nó cũng dựa vào con mắt mà sanh khởi, nhưng lúc bấy giờ người ta gọi là nhăn môn chớ không gọi là nhăn vật. 

Bởi vi` những tâm y' thức giới sanh theo tâm nhăn thức, nó chỉ trú ở y' vật chứ không trú ở nhăn vật tức là con mắt, nhưng nó sanh khởi diễn tiếng ngang qua nhăn môn cũng như bè bạn của ông A không phải là trú xứ trong ngôi nhà đó, mà chỉ ghé qua viếng thăm  ngôi nhà đó thôi, cho nên chúng ta cần phải phân biệt giữa trạng thái nhăn môn và nhăn vật như thế. Khi chúng ta nói đến ti`nh trạng tâm trú nhăn vật, có hai tâm nhăn thức, mà tâm nương nhăn môn để sanh khởi biết cảnh sắc thi` có tất cả là 46 tâm, chúng ta sẽ học về sau này, điều này là một sự kiện mà người học Vi Diệu Pháp không thể nào không biết được, nếu chúng ta bỏ qua điều đó chúng ta không nhắc đến thi` sau này chúng ta không nắm bắt được chúng ta sẽ mất đi căn bản, do vậy chúng tôi cũng xin lưu y' với quí vị điểm đó,

 - II) Thứ hai là chúng ta nói đến loại tâm nhĩ thức, tâm nhĩ thức được định nghĩa là thứ tâm biết cảnh, cảnh thinh ở đây tức là tất cả âm thanh, dầu âm thanh đo' nó hi`nh thành một loại ngôn ngữ hay âm thanh đó chỉ là một tiếng động cũng gọi là âm thanh, và âm thanh lúc bấy giờ nó sẽ được nhận diện, nó sẽ được nhận ra bởi từ nơi tai mà chúng ta gọi là nhĩ vật.

Điều kiện phát sanh nhĩ thức cũng tương tựa như tâm nhăn thức, có nghĩa là phải có cảnh thinh, tức phải có âm thanh, phải có nhĩ vật tức là màn nhĩ của chúng ta không hư, rồi phải có khoảng trống, làn sóng âm thanh mới có thể di động, di chuyển vào tai được, chứ nếu ngăn bít, hoàn toàn biệt lập, như một tủ kính, không thể nào âm thanh có thể vào trong đó được, bởi vi` nó bị chặng không có khoảng không đxuyên qua.

Và phải có sự tác y’, điều này cũng như trước đây tôi đă giảng về vấn đề nhăn thức vậy, đang suy nghĩ cái gi` đó hay đang nhi`n ngắm cái gi` đó, ai đứng bên cạnh và họ nói chuyện với chúng ta, chúng ta không chú y’ thi` chúng ta sẽ hoàn toàn không biết được, chúng ta không nghe được lời họ nói.  Một đứa bé đang chú tâm chơi với tro` chơi của nó một cách say sưa và bố nó gọi, nó không hay biết, không phải nó coi thường cha mẹ nhưng có điều trong lúc nó đang chú tâm ở một cảnh khác thi` lúc bấy giờ nhĩ thức không hoạt động, bởi vi` thiếu sự tác y’.  Và ở đây khi chúng ta nói, chúng ta cũng chú y’ đến hai từ gọi là nhĩ vật và nhĩ môn, điều này chúng tôi tri`nh bày ở phần nhăn môn, nhăn vật thi` quí vị cũng nên hiểu.  Tâm nhăn thức chú y’ của nó nhĩ vật là thần kinh nhĩ nhưng những tâm khách sanh khởi tiếp theo sau tâm nhĩ thức để có sự vật sanh khởi lên để biết cảnh thinh thi` lúc bấy giờ những tâm đó nương nơi nhĩ môn.

 - III) Phần thứ ba gọi là tỷ thức, tâm tỷ thức này biết cảnh khí, cảnh khí gandhàramman.a có nhiều sự tranh luận, bởi vi` chữ gandhah có nghĩa là mùi hôi và cũng có nghĩa là mùi thơm nữa khi chúng ta nói đến năm dục trưởng dưỡng Pan~cakàmagun.a thi` chúng ta đề cập đến đối tượng hay cảnh thi` chúng ta gọi là hương trần hay cảnh hương mùi thơm, mùi thơm đó có thể hấp dẫn làm tâm tham sanh khởi được, nhưng theo A Ty` Đàm thi` chỗ này chúng ta phải dịch là khí, khí là hơi, mùi, gọi chung là mùi thơm, mui` hôi cũng được. Bởi vi` mũi của chúng ta khi ngửi mùi, tỷ thức sanh khởi có thể bắt cảnh hơi, mùi thơm hoặc cảnh khí hôi, mùi hôi.  Thơm hay hôi gi` tỷ thức cũng có thể biết được, quả thiện hay quả bất thiện thôi, chút nữa chúng tôi sẽ tóm tắt vấn đề này, cho nên ở đây khi chúng ta nói đến đối tượng của khứu giác thi` chúng ta phải nói luôn cả về mùi thơm và mùi hôi, chúng ta gom chung lại gọi là gandha nếu chúng ta gọi cho cảnh khí.  

Khi chúng ta muốn phân biệt đó là mùi thơm hay mùi hôi, thi` chúng ta phải thêm một tiếp đầu ngữ ở phía trước là gandho, là xúc khí tức là cảnh xấu, mùi xấu là mùi hôi, và chữ sugandha, chữ “su” có nghĩa là mùi tốt, mùi tốt ở đây tức là mùi thơm, chúng ta phải dùng đến hai tiền trí t để chúng ta ghép vào trong chữ gandha chúng ta mới hiểu được, thi` ở đây chúng ta nói qua phần yếu tố điều kiện phát sanh lên tỷ thức nó cũng có bốn.

        1) có mùi hơi.

         2) Thần kinh tỷ phải tốt nhạy bén chứ nếu khi chúng ta bị nghẹt mũi, lúc bấy giờ chúng ta sẽ ngửi không được, bởi vi` soăn mũi của chúng ta đang có vấ n đề, bị viêm chẳng hạn, nó bị xưng lên và che bít, làm hơi thở ra hơi thở vào khó do vậy chúng ta khó nhận biết được mùi. 

         3) Được gọi là chất gió, chính hơi thở này, hơi thở ra hơi thở vào sẽ đưa hơi mùi vào nơi soăn mũi và lúc đó tỷ thức mới sanh khởi lên nhận biết được, đây là mùi thơm mùi hôi v.v… co`n nếu như chúng ta bị nghẹt mũi, hơi gió không ra, không vào tức là không có hơi thở , thi` bây giờ không nhận được mùi, đó là điều mà chúng ta phải chú y’.

         4) yếu tố thứ tư để phát sanh lên tỷ thức, là phải có sự tác y’ cũng tương tựa như trên, có nghĩa là nếu chúng ta không có sự tác y’ thi` sẽ không bao giờ chúng ta biết được hơi mùi, tỷ thức chúng ta phải nhận định rằng tâm tỷ thức nó trú vào trong tỷ vật tức là thần kinh tỷ hay mũi phần bên trong chứ không phải hi`nh dáng ở bên ngoài, bên trong soăn mũi của chúng ta có thần kinh tỷ để mà có cảnh khí. 

 Co`n tỷ môn thi` ở đây tức là cửa ngơ xuyên qua mũi, cửa ngơ này tất cả những tâm nào có liên quan đến tâm tỷ thức và những ư thức giới đó cũng là một sự biết của khí thi` lúc bấy giờ nó cũng nương vào tỷ môn. 

IV) Bây giờ chúng ta nói đến thiệt thức, tâm thiệt thức tức trạng thái tâm biết cảnh vị nương nơi nhĩ môn, nhĩ vật, nương nơi thiệt môn, thiệt vật, tức là cái lưỡi hay thần kinh thiệt và tên thiệt thức cũng như thế, có bốn:

     a) Là có cảnh vị, tức là một vị chất nào dầu mặn, dầu lạt, dầu đắng vị nào cũng được, miễn là có một vị để lưỡi nếm, mà khi lưỡi nếm thi` lưỡi đó phải là thần kinh thiệt hoạt động tốt.

     b) Lúc bấy giờ yếu tố thứ hai phải cần có thần kinh thiệt, mới có thể bắt lấy cảnh vị được và yếu tố làm cho thần kinh thiệt sanh khởi. 

    c) yếu tố thứ ba là phải có chất nước, chất ẩm ướt của lưỡi, khi chúng ta nếm vật gi` đó, sở dĩ vị chất nó lan toả ra trong lưỡi là do lưỡi chúng ta ươn ướt, nếu lưỡi không có ươn ướt, thi` không thể nào nhận thức được cảnh vị mặn, hay lạt, cay hay ngọt, đắng hay ngọt.  Trong vấn đề này cũng là một vấn đề để chúng tôi phân tích cho quí vị. 

    d) Bây giờ chúng ta nói đến thiệt vật, thiệt môn ở thiệt vật mà thôi và cũng nương nơi thiệt môn, tuy nhiên những tâm dục giới, thuộc về ư thức giới liên quan đến thiệt thức, lúc bấy giờ nó sanh khởi là nương nơi thiệt môn.

V)  Loại thứ năm gọi là thân thức, tức là cái biết của thân, biết cảnh xúc của thân, chúng ta lại có thêm một danh từ nữa gọi là thân  kàya, chữ kàya là thân ở đây nó có rất nhiều nghĩa, chẳng hạn như khi người ta nói đến ngũ uẩn thi` người ta chỉ chung cho ngũ uẩn này gọi là kàyàyatana  là thân hay gọi cách khác là có thân danh và thân sắc gọi là rùpa kàyàyatana thân danh và thân sắc. 

Thần kinh thân là một vị trí để bắt cảnh xúc, thần kinh thân tức là các tế bào sống của da thịt của chúng ta, các tế bào sống đó lúc bấy giờ mới nhận thức được cảnh xúc.  Nếu một thân bị hư hoại, như bị tê liệt, bán thân bất toại chẳng hạn, thi` lúc bấy giờ chỗ tê đó nó không có cảm giác khi tiếp chạm với cảnh xúc, chúng ta loại trừ cảnh đó ra chỗ này không gọi là thần kinh thân, thn kinh thân thi` vị trí của   nằm ở khắc trong thân.   Ngay cả tro`ng con mắt, hoặc lưỡi, hoặc mũi trong đó cũng là thần kinh thân nữa , quí vị  đừng ngạc nhiên. 

Bây giờ chúng ta nói như thế này để chúng ta hiểu, là nếu đơn thuần con mắt nhận thức được cảnh sắc một cách thoải mái, thi` như vậy lúc bấy giờ là chức năng của thần kinh nhăn tức là đồng tử hay con ngươi.  Nhưng khi con mắt của chúng ta chạm phải một vật gi` xốn xang đau nhức như bị rơi bụi vào trong đó hoặc bị va chạm bởi vật gi` đâm phải thi` lúc bấy giờ cái sự xốn xang khó chịu đó, cái cảm giác đau đớn đó nó thuộc về thần kinh thân rồi chứ không phải là thần kinh nhăn nữa đâu. Tai của chúng ta khi chúng ta lấy ráy tai chúng ta lỡ phạm nhằm màn nhĩ  khiến cho chúng ta đau đớn vô cùng, thi` trạng thái đau đớn trong lỗ tai đó lúc bấy giờ nó thuộc về phận sự của thân thức và chức năng của thần kinh thân đó, chúng ta cần phải phân biệt như vậy.  

Mũi của chúng ta cũng tương tựa như vậy, chỉ khi nào để ngửi, biết được cảnh, biết được mùi thơm hay mùi hôi thi` lúc bấy giờ mới là chức năng của thiệt thức, co`n khi mũi của chúng ta nghẹt mũi trạng thái khó chịu, hoặc khi chúng ta bị viêm mũi lúc bấy giờ trạng thái nó đau, chúng ta có cảm giác mũi nó ươn ướt, nó chảy ra làm chúng ta khó chịu, thi` như vậy những cảm giác đó chúng ta gọi là thân thức chứ không phải là tỷ thức nữa. 

Đối với thiệt thức, khi nào chúng ta nếm vị mặn, vị ngọt hay vị lạt của vật thực, của bất cứ thứ gi` đưa vào lưỡi cái đó gọi là chức năng của thiệt thức, co`n khi chúng ta ăn ớt quá cay lúc bấy giờ trạng thái cay đó, danh từ cay để chúng ta chỉ cho sự nóng của lưỡi thi` bây giờ lưỡi nó trở thành thân thức, nó trở thành thần kinh thân rồi, tế bào lưỡi nó trở thành thần kinh thân. 

Do vậy ở đây chúng ta cần phải phân tích, cần phải hiểu rơ như thế đó, điều này thưa quí vị sở dĩ mà nói rơ như thế nó có lợi cho chúng ta trong tương lai, tu tập thiền định chứ không phải là đơn giản cho nên khi chúng ta học, chúng ta phải làm sao, chúng ta đi vào đây không học Phật Pháp mà đi phân tích về điểm này, bởi vi` từ trước đến giờ khi  chúng ta học, chúng ta lấy một khái niệm về giả lập, về tục đế, chúng ta chỉ nói những chuyện này chuyện kia, chúng ta nói những chi pháp này, chi pháp kia, những cái gi` đang sanh, đang diệt ở đây, và nó có trạng thái thực tính như thế nào ta không phân biệt Cho nên khi chúng ta bưóc qua thiền quán thi` phải nói là sự chánh niệm.  Bởi vậy học Vi Diệu Pháp để giúp cho chúng ta có được một tri kiến nhạy bén, để chúng ta có được sự chánh niệm tỉnh giác tuyệt hảo, chúng ta phải nhớ như vậy, chớ không phải chúng tôi mấy thời gian để vào đây nói chuyện trên trời dưới đất và cũng không phải để làm cho quí vị bỏ thời gian vào đây để nghe những chuyện không đâu những pháp này, những đặc tánh này rất có lợi cho chúng ta.

Bây giờ chúng ta nói đến những yếu tố sanh ra thân thức, phải có cảnh xúc, cảnh xúc ở đây tức là đối tượng bị đụng chạm, mà đối tượng bị đụng chạm ở đây nó khác hơn cảnh sắc, cảnh thinh, cảnh khí, cảnh vị, mà đối tượng đụng chạm ở đây phải thuộc về sắc đại hiển tức là ba trong bốn sắc tứ đại, trạng thái đất, tức là cứng hoặc mềm, cảnh xúc ở đây tức là cứng hoặc mềm, cái gi` nó thuộc tính cứng hoặc mềm thi` cái đó gọi là cảnh xúc, lại nữa cái gi` thuộc tính nóng hoặc lạnh nó cũng là cảnh xúc, thân thức mới biết được nghĩa là tế bào thân của chúng ta khi chạm phải lửa nóng hay chạm phải nước đá lạnh thi` chúng ta biết rơ. Cảnh xúc tức là cái gi` thuộc tính di động, chuyển động như chất gió, những lúc nào bị đứng gió, những lúc nào hơi thở vào chúng ta không có hoặc tế nhị mà chúng ta không chú y’, thi` chúng ta không phát sanh lên thân thức, co`n lúc nào chúng ta chú ư thi` cái gió đi vào, đi ngang trên tế bào thân thi` lúc bấy giờ chúng ta.  Ờ đây thi` vô cùng tế nhị, cảnh xúc ở đây tức là thuộc tính của đất lửa gió, bởi vi` nước không phải là một thuộc tính thuộc về cảnh xúc, điều này chúng tôi sẽ có dịp để giải thích sau.

Và một điều nữa tức là cảnh xúc ở đây có rồi, thi` phải có thần kinh thân là tế bào thân của chúng ta phải được nhạy bén chớ không phải bị tê liệt, nếu như da bị tê thi` lúc bấy giờ sẽ không có cảm giác. Cho nên cũng cần thiết cho yếu tố thứ hai là phải có tế bào thân co`n sống, thứ ba nữa tức là phải có chất ngại, chất ngại ở đây nghĩa là khi thân chạm được cái gi` đó để nhận thức được thi` tế bào thân này nó cũng phải có cảm giác, nó cũng phải là chất rắn, chất cứng thân của chúng ta nếu như không có được chất rắn, chất cứng đó thi` nó không bắt được cảnh xúc, hơi gió đưa cảnh khí vào mũi thôi, cái khoảng không nó chỉ đưa cảnh thinh tai thôi, ánh sáng nó chỉ đưa vào mắt thôi.

Nhưng đối với thân thức thi` lúc bấy giờ phải là chất rắn, cái chất cứng hoặc mềm ở thân nó sẽ giúp cho nhận diện được cảnh xúc, cũng như khi chúng ta muốn có một tiếng chuông ngân, lúc bấy giờ cái dùi chuông đó phải là loại cây gổ, phải là loại cây cứng thi` khi cây cứng nó phản chạm lại với cái chuông thi` lúc bấy giờ mới phát sanh lên những âm thanh, nếu chúng ta chỉ thổi thi` nó không phát sanh lên tiếng động, chúng ta phải gơ bằng ngón tay của chúng ta hay bằng một cái dùi chuông lúc bấy giờ mới phát sanh được. Và đồng thời chúng ta phải biết rằng yếu tố thứ tư là tác y’ chắc chắn điều đó như vậy, khi chúng ta đang cầm nắm vật gi` đó, chúng ta đang để tay, ty` tay lên một cái gi` đó mà chúng ta không chịu chú y’, lúc bấy giờ chúng ta không phát hiện cái trạng cứng hoặc mềm của vật mà chúng ta chạm chỉ khi nào chúng ta có tác y’ thi` chúng ta mới phát hiện đuợc 

Chẳng hạn như lúc bây giờ khi chúng tôi đang nói chuyện, chúng tôi đang tập trú tư tưởng vào những y’ nghĩa bài giảng thi` lúc bây giờ chúng tôi đang ngồi trên ghế, chúng tôi không có cảm giác nhận diện được là ghế nệm đó nó mềm ở mức độ như thế nào chúng tôi không nhận biết được, chỉ khi nào nhắc đến như thế này chúng tôi chú y’, có tác y’ đến thi` lúc bấy giờ chúng tôi mới nhận thức được chỗ tế bào thân ở dưới bàn toạ nó chạm phải mặt nệm của cái ghế, lúc bấy giờ mới nhận thức được mà thôi.

Và khi chúng ta đề cập đến vấn đề thân thức, chúng ta cũng nói qua vấn đề thân vật và thân môn, cũng tương tựa như vậy, thân thức trú ở thân vật, mà thân vật ở đây tức là toàn thân, tế bào toàn thân. Thân môn là chỗ nương cho thân thức đồng thời cũng là chỗ nương sanh của tất cả những tâm dục giới, thuộc về y’ giới nào có liên hệ đến thân thức và khía cảnh xúc.

VI) Loại tâm thứ sáu tâm y’.

Tam thời hôm nay chúng ta học 5 loại thôi đó là thân thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, co`n vấn đề y’ thức thi` rất tế nhị do đó cho nên chúng tôi sẽ cùng với TT Giác Đẳng tiếp tục để phân tích . Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Minh Hạnh Thực Hiện