www.dieuphap.com   
Trang Pháp Đàm 
A Ty` Đàm 
Bài Giảng   3.1A
Bài 3.  1a
Thảo Luận  1
Thảo Luận  2
Thảo Luận  3
Bài Giảng   3.1B
Bài 3.  1b
Thảo Luận  4
Thảo Luận  5
Thảo Luận  6



A Tỳ Đàm
Ging Giải và Tho Luận


Tâm và Sự Phân Loại

A Tỳ Đàm, Bài 3.1b, Thảo Luận 6   Ngày 16 tháng 4 năm 2004

 

Minh Hạnh biên soạn & Cô Tu Nữ Diệu Tịnh hiệu đính


1)  Định Nghĩa Chữ Tâm (Citta)


Thảo luận 6: trong cách hiểu về thức tri, tưởng tri, và thắng tri , chúng ta tạm hiểu cho đó là ba cái biết  riêng biệt, bây giờ thi` chúng ta biết một tâm chỉ biết có một cảnh thôi. Tâm mỗi lần chỉ biết có một cảnh, mà dường như thức tri, tưởng tri, và thắng tri là phải chăng nó cho chúng ta biết ba cảnh khác nhau hay cùng biết có một cảnh với ba phần hành khác nhau?

 

TT Giác Đẳng: Thưa quí vị chúng ta vừa được nghe TT Trí Siêu giảng về một đề tài có thể nói rằng  đây là một đề tài hết sức tế nhị của A Ty` Đàm, đồng thời nó cũng là một trong những đề tài dẫn đến sự phân hóa tạo thành nhiều bộ môn khác nhau liên quan đến A Ty` Đàm về sau này.  Chúng tôi muốn nói đến tâm hộ kiếp hay một loại tâm chủ quan trong đời sống, những cái gi` chúng ta đón nhận ngoại cảnh ở bên ngoài hay những cảnh mới vào, chúng ta tạm gọi đó là tâm khách quan.  Nhưng khi đề cập đến tâm chủ quan có nhiều người gọi là tiềm thức, và đặc biệt khi đề cập đến tâm hộ kiếp thi` chúng ta có nhiều khái niệm hết sức đặc biệt từ a lại gia thức, từ tạng thức của A Ty` Đàm Câu Xá hay Bi`nh Tri Thức, có dịp chúng ta sẽ nói thêm về điểm này sau này, dĩ nhiên là ở trong điều kiện hiện tại chúng ta sẽ không đi quá xa. 

Tuy vậy phải nói rằng ngoài cảnh ở bên ngoài, có những lúc mi`nh tưởng như mi`nh không có suy tư, không có nghĩ gi`, nhưng thật ra thi` bao giờ tâm cũng có đối tượng, cũng có cảnh, và vấn đề là chúng ta có ghi nhận được nó hay không, đó là một việc hoàn toàn khác, chúng ta nên nhớ rằng những gi` co`n lưu lại trong ky' ức của mi`nh, trong sự ghi nhận của mi`nh những gi` rất nổi bậc.  Tuy nhiên không phải cái gi` nổi bậc thi` cái đó mới có hiện hữu, không phải chỉ có thứ đó hiện hữu, và những thứ không hiện hữu tại vi` nó không có cái gi` nổi bậc nhưng nó vẫn có mặt trong đời này. 

Đề tài về tâm hộ kiếp là đề tài lớn, chúng tôi khi ở trong chùa lúc đi học thi` tâm bhavan’ga là tâm hữu phần hay  tâm hộ kiếp.  Tâm hữu phần   thể nói rằng thường thường một số các vị giảng sư và một số những nhà nghiên cứu  xem như một loại tâm, ví dụ như chúng ta nói về 14 phận sự của tâm, thi` tâm hộ kiếp là một phận sự.  Tuy nhiên chúng tôi sẽ đào sâu về điểm này, chúng tôi tin rằng, nói về tâm hộ kiếp nó cũng giống như vấn đề tục đế, đó là những lănh vực rất quan trọng, tuy nhiên thường bị các vị giảng sư A Ty` Đàm bỏ xót hay không đào sâu nhiều, chắc chắn chúng ta sẽ trở lại với đề tài này.

Kính bạch TT Trí Siêu, bây giờ chúng ta hăy nói về y’ nghĩa khác ở trong bài học này, dĩ nhiên năy giờ chúng ta nói rằng tâm lúc nào cũng không gián đoạn, và mỗi một lần hiện hữu ở trong một khoẳn khắc thi` chỉ có một sát na tâm, và một sát na tâm như vậy thi`chỉ biết có một cảnh mà thôi. 

Đây là một đề tài mà tất cả các học viên A Ty` Đàm  cũng đều phải ghi nhận là một tâm chỉ biết có một cảnh và ở trong  vo`ng  tiến tri`nh của tâm thức một lần chỉ biết có một tâm.

Kính bạch TT Trí Siêu ở trong kinh tạng thường nói đến một số cái biết, cái biết mà chúng ta gọi là thức tri, cái biết gọi là tưởng tri, cái biết chúng ta gọi là thắng tri.  Ví dụ như cái biết trực tiếp đối với cảnh sắc, thinh, khí, vị, xúc, cái biết của giác quan, cái biết rất trung thực.  Ví dụ như một cảnh sắc hiện đến nó biết về màu sắc, nó biết về chiều kích của cảnh sắc đó, thi` hoàn toàn là cái biết của giác quan chúng ta gọi là thức tri.

 Nhưng chúng ta cũng có cái biết khác là tưởng tri, tưởng tri là cái biết dựa trên kinh nghiệm quá khứ của mi`nh, mi`nh nhi`n tờ giấy 1 Mỹ kim mi`nh biết đó là một Mỹ kim, mi`nh nhi`n lư hương, mi`nh biết đó là lư hương, mi`nh gặp mặt người đó là anh A hay anh B, bởi vi` mi`nh đă từng biết do kinh nghiệm quá khứ trải qua của mi`nh, chúng ta gọi là cái biết của tưởng tri.

Chúng ta cũng nói đến cái biết của thắng tri, cái biết của thắng tri là cái biết sung sức, là cái biết dựa trên nhân quả, cái biết của trí, cái biết có thể quán triệt được vấn đề hay là phân tích nhận định được vấn đề.

Bạch TT Trí Siêu trong cách hiểu về thức tri, tưởng tri, và thắng tri như vậy, chúng ta tạm hiểu cho đó là ba cái biết riêng biệt.  Bây giờ thi` chúng ta nói rằng một tâm chỉ biết có một cảnh thôi.

Nhưng có những trạng thái tâm, ví dụ tâm đại thiện dục giới chẳng hạn, thi` trong một tâm đó có cả ba thứ là cái biết của thức uẩn, cái biết của thắng tri, cái biết của hành uẩn, và cái biết của tưởng uẩn, và trong bốn danh uẩn mà nó có mặt đồng thời một lúc, thi` nếu chúng ta nói tâm một lần chỉ biết có một cảnh.

Thi` một người mới học Phật nên hiểu như thế nào về một trạng thái tâm, một sát na thôi mà nó có thể có ba cái biết cùng hiện hữu một lúc, thi` chúng ta nên đem hai cái thể tài này để trả lời thế nào, tại vi` trong một sát na tâm có ba cách biết, nhưng chúng ta nói ra mỗi lần chỉ biết có một cảnh, mà dường như thức tri, tưởng tri, và thắng tri, phải chăng nó cho chúng ta biết ba cảnh khác nhau, hay cùng biết một cảnh với ba phần hành khác nhau,  xin thỉnh TT Trí Siêu.


TT Trí Siêu: kính bạch TT Giác Đẳng, kính thưa quí vị, thật ra về vấn đề này chúng tôi hoàn toàn phải định nghĩa một điều là tâm một lần chỉ biết một cảnh mà thôi chứ không thể biết ba trường hợp như TT Giác Đẳng vừa nêu lên vấn đề hỏi chúng tôi.

Trong một sát na tâm, như sát na tâm đại thiện tương ưng trí, trong sát na tâm đó vừa có thức uẩn, tức là thức tri, vừa có tưởng uẩn tức là uẩn tri, và có hành uẩn tức là trí tâm sở tương ưng cho nên gọi thắng tri.

Rồi trong ba cái biết này chẳng lẽ   biết ba cảnh cùng một lúc, thi` ở đây chúng tôi cũng xin thưa rằng nếu như nó phối hợp một lần cả ba như vậy, thi` ở đây tất nhiên chỉ biết cảnh thắng tri là nổi bậc nhất, co`n cái tưởng tri, và thức tri, chỉ phụ họa cho thắng tri mà thôi.

Và ở điều này, thưa quí vị mặc dù khi chúng ta định nghĩa  vin~n~ ăn.a(thức tri) san~n~ă  (t ưởng tri) và pan~n~a  (thắng tri)  khi mà chúng ta sài ba từ đó, và chúng ta thấy ba từ này nó cùng xuất hiện trong một sát na tâm, ba vấn đề trong một sát na tâm, nhưng ở đây chúng ta thấy rất rơ bởi vi` thức tri  cái gi` không thể nào không thể có cái nhận biết do tưởng tri mà thức tri được. 

Muốn thức tri cái gi` đó thi` cái đó  phải do kinh nghiệm tưởng tri.  Mà do kinh nghiệm đă qua thi` chúng ta gọi là thức tri một trạng thái đó,và nếu như đối với một tâm tương ưng trí, thi` không chỉ dừng lại ở thức tri này mà co`n có một dấu hiệu, có một trạng thái, có một đặc tính chúng ta gọi là thắng tri hay liễu tri.  Trong trường hợp này chúng ta thấy là ba, nhưng chỉ là một, và một đó nổi bậc ở chỗ thắng tri.

Co`n trường hợp nào là tưởng tri, trường hợp khi chúng ta nhận ra được cảnh sắc, cảnh thinh, cảnh khí, cảnh vị, cảnh xúc, nhận ra được hi`nh dáng, nhận ra được âm thanh, nhận ra được hơi mùi, thi` sự nhận ra đó nó chỉ là tưởng tri.

Trường hợp thức tri, khi tâm sanh khởi biết cảnh sắc, biết cảnh thinh, biết cảnh khí, biết cảnh vị, biết cảnh xúc, trong trường hợp này nó gọi là thức tri. 

Giữa trạng thái tưởng tri và thức tri luôn luôn có sự hổ trợ với nhau, điều này đă được các vị A Xà Lê giải thích  Trong bộ Abhidhammattha Sangaha có nêu lên một thí dụ nhưng chúng tôi không tiện giảng giải ra đây vi` thời lượng của chúng ta có hạn chế, chúng tôi chỉ nói rằng dẫn chứng đó chỉ là sự tách rời, khi tách rời ra để giải thích thi` ở đây nó chỉ là một thí dụ cho hiểu, thực tế thi` không thể nhập chung nhau được.

Thí dụ một đứa bé nhi`n đồng tiền, nó biết đó là tiền thi` như vậy đó là tưởng tri, co`n nếu như nó nhận đồng tiền nó chỉ nhi`n thấy, chỉ biết là nhi`n thấy như vậy là thức tri, nó chỉ thấy một đồng tro`n có màu sắc thi` đó là thức tri.  Nếu như đối với một người có sự hiểu biết thi` khi nhi`n đồng tiền biết rơ giá trị của đồng tiền đó lớn hay nhỏ sẽ dùng để mua được cái ǵ, thi` lúc bấy giờ nó lại là y’ nghĩa thí dụ cho sự liễu tri trí tuệ.

 Đó là ba cách thí dụ của một vị học giả, của một vị A Xà Lê Ngài đă tri`nh bày để cho chúng ta dễ hiểu thôi, chứ thực sự ra  chúng ta thấy như tâm nhăn thức biết cảnh sắc, bây giờ chúng ta nói biết cảnh sắc đó là do thức tri hay tưởng tri, thi` trong trường hợp này cũng xin thưa rằng nếu như không có tưởng tri thi` thức tri không thể nào có mặt, không thể nào hoạt động, nghĩa là không có tưởng thức uẩn không thể hi`nh thành.

Ở đây chúng tôi cũng xin nói một cách tóm tắt cho quí vị nghe trong vấn đề này, quả thật khi chúng ta muốn tri`nh bày một y’ nghĩa về pháp chân đế hay muốn tri`nh bày về nghĩa A Ty` Đàm, và với trí tuệ của chúng ta cộng thêm chúng ta phải sử dụng đến ngôn ngữ tục đế, mà ngôn ngữ tục đế này chúng ta lại không có sự nhất quán với nhau để chúng ta dùng, thi` thiếu sự nhất quán như thế và thiếu sự cân đồng giữa người nói và người nghe, cho nên sự diễn đạt Phật Pháp có phần rất khó khăn và sự lănh hội cũng rất khó khăn, nhưng chúng tôi hy vọng sẽ giúp cho quí vị hiểu thêm sau này . Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Minh Hạnh Thực Hiện