TỔ ĐÌNH MINH ĐĂNG
QUANG
PHẬT HỌC TỪ ĐIỂN
BUDDHIST DICTIONARY
VIETNAMESE-ENGLISH
ENGLISH-VIETNAMESE
SANSKRIT/PALI-VIETNAMESE
THIỆN PHÚC
PHỤ LỤC
(APPENDICES)
Appendix K
Kinh Duy Ma Cật
The Vimalakirti Sutra |
CHƯ NG MỘT—CHAPTER ONE
PHẨM PHẬT QUỐC—THE BUDDHA LAND
·Chính
tôi được nghe, một thuở kia, Ðức Phật Thích Ca ở th nh Tỳ Xá Ly, nơi vườn
cây Am La, cùng tám ng n chúng đại Tỳ Kheo, ba vạn hai ng n Bồ Tát, l
những vị có tiếng tăm, đều đã th nh tựu trí hạnh Ðại Thừa. Do nhờ sự chỉ
giáo của chư Phật m các ng i đã l m th nh bức th nh hộ pháp, giữ gìn
Chánh Pháp, diễn nói pháp âm tự tại vô úy như sư tử hống giáo hóa chúng
sanh, danh đồn xa khắp mười phương. Người đời không cầu thỉnh m các Ng i
sẵn s ng đến chúng hội để tuyên lưu Tam Bảo, không để dứt mất. Các ng i
h ng phục tất cả ma oán, ngăn dẹp các ngoại đạo; sáu căn tam nghiệp thân
khẩu ý đều thanh tịnh; trọn lìa năm món ngăn che v mười điều r ng buộc.
Tâm thường an trụ nơi lý vô ngại giải thoát. Nhờ niệm định tổng trì v v
tâm bình đẳng m các ng i có khả năng biện t i thông suốt không hề trở
ngại. Các ng i đã th nh tựu Lục Ba La Mật, các hạnh bố thí, trì giới, nhẫn
nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ, cũng như giáo pháp phương tiện thiện
xảo lợi mình lợi người thảy đều đầy đủ. Tuy nhiên, với các ng i, những
th nh tựu nầy không có nghĩa l l m lợi cho chính họ, m các ng i đã được
đến bậc vô sở đắc m không khởi pháp nhẫn (vô sinh pháp nhẫn). Các ng i có
khả năng tùy thuận diễn nói pháp luân bất thối; khéo hiểu rõ chân tướng
vạn pháp, thấu biết căn cơ chúng sanh; oai đức bao trùm đại chúng v th nh
tựu pháp vô úy—Thus have I heard, once upon a time the Buddha sojourned in
the Amra park at Vaisali with an assembly of eight thousand great
bhiksus. With them, here were thirty-two thousand Bodhisattvas, who were
well known for having achieved all the perfections that lead to the great
wisdom. They had received instructions from many Buddhas and formed a
Dharma-protecting citadel. By upholding the right Dharma, they could
fearlessly give the lion’s roar to teach sentient beings; so their names
were heard in the ten directions. They were not invited but came to the
assembly to spread the teaching on the Three Treasures to transmit it in
perpetuity. They had overcome all demons and defeated heresies; and their
six faculties, karmas of deeds, words and thoughts were pure and clean;
being free from the (five) hindrances and the (ten) bonds. They had
realized serenity of mind and had achieved unimpeded liberation. They had
achieved right concentration and mental stability, thereby, acquiring the
uninterrupted power of speech. They had achieved all the (six) paramitas:
charity (dana), discipline (sila), patience (ksanti), devotion (virya),
serenity (dhyana) and wisdom (prajna), as well as the expedient method
(upaya) of teaching which completely benefit self and others. However, to
them, these realizations did not mean any gain whatsoever for themselves,
so, that they were in line with the patient endurance of the uncreate
(anutpattika-dharma-ksanti). They were able to turn the wheel of the Law
that never turns back. Being able to interpret the (underlying nature of)
phenomena, they knew very well the roots (propensities) of all living
beings; they surpassed them all and realized fearlessness.
·Các
ng i dùng công đức trí tuệ để trau sửa tâm mình, bằng cách lấy tướng tốt
trang nghiêm thân hình sắc tướng dung nhan bậc nhất, vì thế bỏ hẳn tất cả
trang sức tốt đẹp trong đời. Danh tiếng các ng i cao xa vượt hẳn núi Tu
Di. Lòng tin thậm thâm của các ng i bền chắc không bị phá vở như kim
cương. Pháp bảo của các ng i soi khắp, v mưa cam lồ tuôn đổ nơi nơi.
Tiếng thuyết pháp của các ng i l thậm thâm vi diệu bậc nhất—They had
cultivated their minds by means of merits and wisdom, with which they
embellished their physical features which were unsurpassable, thus, giving
up all earthly adornments. Their towering reputation exceeded the height
of Mount Sumeru. Their profound faith (in the uncreate) was unbreakable
like a diamond. Their treasures of the Dharma illuminated all lands and
rained down nectar. Their speeches were profound and unsurpassed.
·Các
ng i đã thâm nhập lý duyên khởi, dứt bỏ các tập khí kiến chấp sai lầm,
thoát khỏi nhị biên. Các ng i diễn nói các pháp không sợ sệt như sư tử
hống, những lời giảng nói như sấm vang. Các ng i không thể bị hạn lượng
hạn chế, vì các ng i đã vượt ra ngo i sự hạn lượng—They entered deep into
all (worldly) causes but cut off all heretical views, for they were
already free from all dualities and had rooted out all (previous) habits.
They were fearless and gave the lion’s roar to proclaim the Dharma, their
voices being like thunder. They could not be gauged, for they were
beyond all measures.
·Các
ng i tự chứa nhóm rất nhiều Pháp Bảo như Hải Ðạo Sư. Các ng i hiểu rõ
nghĩa thậm thâm của các pháp, biết rõ hiện trạng qua lại trong các cảnh
thú v h nh vi tốt xấu trong tâm niệm của chúng sanh. Các ng i đã đạt đến
trạng thái gần như trí tuệ tự tại vô thượng của chư Phật, đã th nh đạt
thập lực vô úy, v thập bát bất cộng. Dù các ng i đã ngăn đóng các cửa nẻo
ác thú, các ng i vẫn hiện thân trong năm đường hóa độ chúng sanh, l m vị
đại y vương khéo trị l nh các bệnh, tùy theo trường hợp cá nhân m cho
thuốc một cách công hiệu. Vì thế m các ng i đã th nh tựu vô lượng công
đức, trang nghiêm thanh tịnh vô lượng cõi Phật. Chúng sanh n o được nghe
danh thấy hình đều được lợi ích vì các h nh động của các ng i đều không
uổng phí. Vì thế các ng i đều đã th nh tựu mọi công đức tuyệt hảo—They had
amassed all treasures of the Dharma and acted like (skillful) seafaring
pilots. They were well versed in the profound meanings of all Dharmas.
They knew very well the mental states of all living beings and their
comings and goings (within the realms of existence). They had reached the
state near the unsurpassed sovereign wisdom of all Buddhas, having
acquired the ten fearless powers (dasabala) giving complete knowledge and
the eighteen different characteristics (of a Buddha as compared with
Bodhisattvas (avenikadharma). Although they were free from (rebirth in )
evil existences, they appeared in five mortal realms as royal physicians
to cure all ailments, prescribing the right medicine in each individual
case, thereby, winning countless merits to embellish countless Buddha
lands. Each living being derived great benefit from seeing and hearing
them, for their deeds were not in vain. Thus, they had achieved all
excellent merits.
·Danh
hiệu các ng i l : Ðẳng Quán Bồ Tát, Bất Ðẳng Quán Bồ Tát, Ðẳng Bất Ðẳng
Quán Bồ Tát, Ðịnh Tự Tại Vương Bồ Tát, Pháp Tự Tại Vương Bồ Tát, Pháp
Tướng Bồ Tát, Quang Tướng Bồ Tát, Quang Nghiêm Bồ Tát, Ðại Nghiêm Bồ Tát,
Bảo Tích Bồ Tát, Biện Tích Bồ Tát, Bảo Thủ Bồ Tát, Bảo Ấn Bồ Tát, Thường
Cử Thủ Bồ Tát, Thường Hạ Thủ Bồ Tát, Thường Thảm Bồ Tát, Hỷ Căn Bồ Tát, Hỷ
Vương Bồ Tát, Hỷ Vương Bồ Tát, Biện AÂm Bồ Tát, Hư Không Tạng Bồ Tát, Chấp
Bảo Cự Bồ Tát, Bảo Dõng Bồ Tát, Bảo Kiến Bồ Tát, Ðế Võng Bồ Tát, Minh Võng
Bồ Tát, Vô Duyên Quán Bồ Tát, Huệ Tích Bồ Tát, Bảo Thắng Bồ Tát, Thiên
Vương Bồ Tát, Hoại Ma Bồ Tát, Ðiển Ðức Bồ Tát, Tự Tại Vương Bồ Tát, Công
Ðức Tướng Nghiêm Bồ Tát, Sư Tử Hống Bồ Tát, Lôi AÂm Bồ Tát, Sơn Tướng Kích
AÂm Bồ Tát, Hương Tượng Bồ Tát, Bạch Hương Tượng Bồ Tát, Thường Tinh Tấn
Bồ Tát, Bất Hưu Tức Bồ Tát, Diệu Sanh Bồ Tát, Hoa Nghiêm Bồ Tát, Quán Thế
AÂm Bồ Tát, Ðắc Ðại Thế Bồ Tát, Phạm Võng Bồ Tát, Bảo Trượng Bồ Tát, Vô
Thắng Bồ Tát, Nghiêm Ðộ Bồ Tát, Kim Kế Bồ Tát, Châu Kế Bồ Tát, Di Lặc Bồ
Tát, Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử Bồ Tát, cả thảy như thế ba vạn hai ng n
Ng i—Their names were: the Bodhisattva Beholding All Things As Equal, the
Bodhisattva Beholding All Things As Unequal, the Bodhisattva Beholding All
Things As Equal Yet As Unequal, the Bodhisattva of Sovereign Serenity, the
Bodhisattva of Sovereign Dharma, the Bodhisattva of Dharma-aspects, the
Bodhisattva of Light, the Bodhisattva of Glorious Light, the Bodhisattva
of Great Majesty, the Bodhisattva Store of Treasures, the Bodhisattva
Store of Rhetoric, the Bodhisattva of Precious Hands, the Bodhisattva of
Precious Mudra, the Hand Raising Bodhisattva, the Hand Lowering
Bodhisattva, the Always Grieved Bodhisattva, the Bodhisattva Root of Joy,
the Bodhisattva Prince of Joy, the Bodhisattva Discerner of Sound, the
Bodhisattva Womb of Space, the Bodhisattva Holding the Precious Torch, the
Bodhisattva of Precious Boldness, the Bodhisattva of Precious Insight, the
Bodhisattva of Indra-jala, the Bodhisattva Net of Light, the Bodhisattva
of Causeless Contemplation, the Bodhisattva of Accumulated Wisdom, the
Bodhisattva Precious Conqueror, the Bodhisattva King of Heavens, the
Bodhisattva Destroyer of Demons, the Bodhisattva with Lightning Merits,
the Bodhisattva of Sovereign Comfort, the Bodhisattva of Majestic Merits,
the Bodhisattva of the Lion’s Roar, the Bodhisattva of Thundering Voice,
the Bodhisattva with a Voice like Rocks Knocking One Another, the
Bodhisattva Fragrant Elephant, the Bodhisattva White Fragrant Elephant,
the Bodhisattva of Constant Devotion, the Bodhisattva of Unremitting
Care, the Bodhisattva of Wonderful Rebirth, the Bodhisattva Garland, the
Bodhisattva Avalokitesvara, the Bodhisattva Mahasthama, the Bodhisattva
Brahma-jala, the Bodhisattva of Precious Staff, the Unconquerable
Bodhisattva, the Bodhisattva of Majestic Land, the Bodhisattva with a
Golden Topknot, the Bodhisattva with a Pearl in His Topknot, the
Bodhisattva Maitreya, the Bodhisattva Manjusri and other Bodhisattvas
numbering in all thirty-two thousand.
·Lại
có mười hai ng n vị Thi Khí, Phạm Thiên Vương từ bốn cõi thiên hạ khác đến
chỗ Phật nghe pháp. Lại có mười hai ng n vị Thiên đế cũng từ bốn cõi thiên
hạ khác đến trong pháp hội. Các h ng chư Thiên có oai lực lớn, cùng Long
Thần, Dạ xoa, C n thát b , A tu la, Khẩn na la, Ma hầu la gi , vân vân đều
đến trong pháp hội. Lại có các vị Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu b tắc, Ưu b di
cũng đến trong pháp hội—There were also ten thousand Brahma-devas
including Mahadeva Sikhin, coming from the four quarters to hear about the
Dharma. There were as well twelve thousand kings of heavens who came from
the four quarters to sit in the assembly. There were also other devas of
awe-inspiring majesty, dragons, spirits, yaksas, gandharas, asuras,
garudas, kin-naras and mahoragas who came to sit in the assembly. Many
bhiksus, bhiksunis, upasakas and upasikas also came to the assembly.
·Bấy
giờ Ðức Phật nói Pháp cho vô lượng trăm ng n đại chúng đông đảo cung kính
vây quanh đấy, ví như núi chúa Tu Di hiện b y nơi biển cả. Ng i ngồi yên
trên tòa Sư Tử trang nghiêm bằng các thứ báu, oai đức che trùm tất cả đại
chúng—Thus, surrounded by an incalculable number of people
circumambulating to pay their respects, the Buddha was about to expound
the Dharma. Like the towering Mount Sumeru emerging from the great ocean.
He sat comfortably on the lion throne eclipsing the imposing assembly.
·Khi
ấy trong th nh Tỳ Xá Ly có ông trưởng giả tử tên l Bảo Tích với 500 vị
trưởng giả tử đồng cầm lộng bảy báu đi đến chỗ Phật cung kính đảnh lễ đầu
mặt tiếp chân, rồi mỗi vị đều đem lộng báu của mình hợp nhau cúng dường
Phật. Do oai đức của Phật nên khiến các lọng báu ấy hiệp th nh một cây
trùm khắp cõi Tam Thiên Ðại Thiên Thế Giới, m tướng rộng d i của thế giới
đều hiện đủ trong đó—A son of an elder (grhapati), called Ratna-rasi,
came with five hundred sons of elders, with canopies decorated with the
seven gems to pay respect and offer them to Him. By using His
transcendental powers, the Buddha transformed all the canopies into a
single one which contained the great chiliocosm.
·Lại
nữa, các núi Tu Di, Mục chơn lân đ , Ðại mục chơn lân đ , Tuyết sơn, Hương
sơn, Bảo sơn, Kim sơn, Hắc sơn, Thiết vi, Ðại thiết vi, bể lớn, sông, rạch
ngòi, nguồn suối, cùng với mặt trời, mặt trăng, các ngôi sao, , thiên
cung, long cung v cung các vị tôn thần, nơi cõi tam thiên đại thiên thế
giới nầy đều hiện trong lọng bảy báu, v chư Phật trong mười phương, chư
Phật đang nói pháp, cũng hiện trong lộng bảy báu ấy—With Mount Sumeru and
all the concentric ranges around it, great seas, rivers, streams, the sun,
the moon, planets and stars, and the palaces of devas, dragons, and holy
spirits appeared in the precious canopy, which also covered all the
Buddhas who were expounding the Dharma in the ten directions.
·Trong
khi đó tất cả đại chúng thấy thần lực của Phật đều khen ngợi chưa từng có,
chắp tay l m lễ, ngắm nhìn dung nhan Phật, mắt không hề nháy. Trưởng giả
tử Bảo Tích liền ở trước Phật đọc b i kệ khen rằng—All those present, who
witnessed the Buddha’s supernatural powers, praised the rare occurrence
which they had never seen before, brought their palms together and gazed
at Him without pausing for an instant. Thereupon, Ratna-rasi chanted the
following gatha of praise:
·“Mắt
trong d i rộng như sen xanh
Tâm sạch đã tột các thiền định,
Lâu chứa tịnh nghiệp nói không cùng,
Dùng tịch độ chúng nên cúi lạy.
“I salute Him whose eyes are broad like the
green Lotus, whose mind is unchanging and serene, who has accumulated
countless pure deeds that lead all beings to the extinction of mortality.
·Ðã
thấy Ðại Thánh dùng thần biến, Khắp hiện mười phương không lường cõi.
Trong đấy các Phật diễn nói pháp,
Nơi đây tất cả đều thấy nghe.
I have seen the great saint use His
transcendental powers to create in the ten directions countless lands in
which Buddhas still proclaim the Dharma; all this has the assembly seen
and heard.
·Pháp
lực của Phật vuợt quần sanh
Thường dùng pháp t i thí tất cả,
Hay khéo phân biệt các Pháp tướng,
Ðối đệ nhứt nghĩa m không động.
The power of your Dharma surpasses all beings
and bestows on them the wealth of the Law. With great skill your
discernment all while unmoved in Reality.
·Ðã
được tự tại cùng các Pháp
Cho nên cúi đầu lễ Pháp vương.
Nói Pháp chẳng có cũng chẳng không
Vì do nhân duyên các Pháp sanh,
Không ta, không tạo, không thọ giả,
Những việc l nh dữ cũng chẳng mất.
You are from all phenomena released; hence,
to the King of Dharma, I bow down. You preached neither is nor
is not for all things by causes are created. There is neither self
nor doing nor thing done, but good or evil karma is infallible.
·Trước
tiên h ng ma nơi Phật thọ
Ðặng Cam lồ diệt th nh đạo giác,
Ðã không tâm ý, không thọ h nh
M xô dẹp hết các ngoại đạo.
Ba lần chuyển Pháp cõi đại thiên,
Pháp ấy lâu nay thường thanh tịnh.
Under the Bodhi tree You conquered Mara,
obtained Ambrosia, realized Nirvana and won Bodhi. From mind, thought and
feeling are You free, thereby, overcoming heresies, turning thrice in the
chiliocosm the wheel of the Law that is pure and clean at heart.
·Trời
người đắc đạo đó l chứng,
Tam Bảo vì thế hiện trong đời.
Dùng Pháp mầu nầy độ chúng sanh
Thọ rồi không lui, thường vắng lặng,
Khỏi gi bịnh chết đấng Y Vương,
Lạy ngôi Pháp hải đức không lường.
To this gods and men who were saved attested,
thus, the Three Treasures appeared in the saha world to save living beings
with this profound Dharma which, when applied, fails never to Nirvana
lead. You are the king physician who destroys old age, illness and
death. So your unfathomable Dharma of boundless merits, I salute.
·Khen
chê chẳng động như Tu Di
Ðồng bực thương xót kẻ l nh dữ,
Tâm hạnh bình đẳng như hư không,
Nghe đấng Nhơn Bảo ai chẳng kính?
While like Mount Sumeru you are unmoved by
both praise and censure. Your compassion is extended to both good and
evil men, like space thy mind remains impartial. Does not anyone revere
this human Buddha after hearing about Him?
·Nay
dâng Thế Tôn lọng mọn nầy
Cõi tam thiên tôi hiện trong đó,
Thiên cung, Long thần kia nương ở,
C n thát cả thảy với Dạ xoa.
I have offered Him a small canopy, which
encloses the great chiliocosm with palaces of gods, dragons and spirits,
Gandharas, yaksas and others such as well.
·Mọi
vật trong đời đều thấy rõ,
Vì thương Phật hiện tướng biến nầy,
Thấy việc ít có chúng khen ngợi,
Nay con lạy đấng Tam Giới Tôn
Ðại Thánh chỗ nương của mọi lo i,
Lòng sạch trong đó thảy vui vẻ,
Ðều thấy Thế Tôn ở trước mình,
Ðó l thần lực Pháp bất cộng.
As all kings in this world. With mercy He
used His ‘ten powers’ to make this change. The witnesses praise the
Buddha. I bow to the most Honoured One in the three realms. The whole
assembly (now) take refuge in the King of The Law. Those gazing at Him
are filled with joy, each seeing the Bhagavat before him; ‘tis one of His
eighteen characteristics.
·Phật
dùng một tiếng diễn nói Pháp,
Chúng sanh tùy loại thảy đặng hiểu,
Ðều cho rằng Phật đồng tiếng mình,
Ðó l thần lực Pháp bất cộng.
When he proclaims the Dharma with unchanging
voice, all beings understand according to their natures saying the
Bhagavat speaks their own languages; this one of His eighteen
characteristics.
·Phật
dùng một tiếng diễn nói Pháp,
Chúng sanh chỗ hiểu tùy mỗi hạng,
Khắp được thọ h nh đều lợi ích,
Ðó l thần lực Pháp bất cộng.
When He expounds the Dharma in one voice,
they understand according to their versions deriving great benefit from
what they have gathered; this is one more of His eighteen
characteristics.
·Phật
dùng một tiếng diễn nói Pháp,
Có người kinh sợ hoặc vui mừng,
Có kẻ dứt nghi hoặc nh m chán,
Ðó l thần lực Pháp bất cộng.
When He expounds the Dharma in one voice,
some are filled with fear, others are joyful, some hate it while others
are from doubts relieved; ‘this is one of His eighteen characteristics.
·Lạy
đấng Thập Lực đại tinh tấn,
Lạy đấng đã đặng không chỗ sợ,
Lạy đấng trụ nơi Pháp bất cộng,
Lạy đấng Ðạo sư của muôn lo i.
I bow to the Possessor of ‘ten powers’, I bow
to Him who has achieved fearlessness acquiring all eighteen
characteristics; I bow to Him who guides others like a pilot.
·Lạy
đấng hay dứt mọi kiết phược,
Lạy đấng đã đến nơi bờ kia,
Lạy đấng hay vượt các thế gian,
Lạy đấng trọn lìa đường sanh tử.
I bow to Him who has untied all bonds; I bow
to Him who has reached the other shore; I bow to Him who can all worlds
deliver; I bow to Him who from birth and death is free.
·Biết
hết chúng sanh tướng đến lui,
Khéo nói các Pháp được giải thoát,
Như hoa sen trong đời chẳng nhiễm,
Thường khéo v o nơi hạnh không tịch.
Who knows how living beings come and go and
penetrates all things to win His freedom, who is skillful in nirvanic
deeds, cannot be soiled like the lotus.
·Rõ
các Pháp tướng không ngăn ngại,
Lạy đấng không nương tợ hư không.
Who plumbs the depths of everything without
hindrance. I bow to Him, who like space, relies on nothing.
·Sau
khi trưởng giả tử Bảo Tích đọc b i kệ tán thán Phật xong bèn bạch Phật
rằng: “Bạch Thế Tôn! Năm trăm vị trưởng giả tử nầy đều đã phát tâm vô
thượng chánh đẳng chánh giác, nguyện nghe cõi Phật thanh tịnh. Cúi mong
Thế Tôn dạy cho những hạnh của Bồ Tát được Tịnh Ðộ—After chanting the
gatha, Ratna-rasi said to the Buddha: “World Honoured One, these five
hundred sons of elders have set their minds on seeking supreme
enlightenments (anuttara-samyak-sambodhi); they all wish to know how to
win the pure and clean land of the Buddha. Will the World Honoured One
teach us the Bodhisattva deeds that leads to the realization of the Pure
Land?”
·Phật
bảo: “Hay thay Bảo Tích! Ông lại vì các vị Bồ Tát m hỏi Như Lai những
hạnh được Tịnh Ðộ, vậy hãy lắng nghe chín chắn, suy nghĩ kỹ nhớ lấy, ta sẽ
nói cho ông rõ.”—The Buddha said: “Excellent, Ratna-rasi, it is good that
you can ask on behalf of these Bodhisattvas about deeds that lead to the
realization of the Buddha’s Pure Land. Listen carefully and ponder over
all what I now tell you.”
·Lúc
ấy Bảo Tích cùng 500 vị trưởng giả tử vâng lời Phật dạy, cung kính lắng
nghe—At that time, Ratna-rasi and the five hundred sons of elders listened
attentively to His instruction.
·Phật
dạy rằng: “N y Bảo Tích! Tất cả chúng sanh l cõi Phật của Bồ Tát. Vì sao?
Bồ Tát tùy chỗ giáo hóa chúng sanh m lãnh lấy cõi Phật; tùy theo chỗ điều
phục chúng sanh m lãnh lấy cõi Phật; tùy chúng sanh ưng theo quốc độ n o
v o trí tuệ của Phật m lãnh lấy cõi Phật; tùy chúng sanh ưng theo quốc độ
n o phát khởi căn tánh Bồ Tát m lãnh lấy cõi Phật. Vì sao thế? Vì Bồ Tát
lãnh lấy cõi Phật thanh tịnh đều vì muốn lợi ích chúng sanh. Ví như có
người muốn xây dựng cung nh nơi khoảng đất trống, tùy ý được th nh công,
nếu xây dựng giữa hư không quyết không th nh tựu được; Bồ Tát cũng thế, vì
th nh tựu chúng sanh nên nguyện lãnh lấy cõi Phật. Nguyện lãnh lấy cõi
Phật chẳng phải ở nơi rỗng không vậy—The Buddha said: “Ratna-rasi, all
species of living beings are the Buddha land sought by all Bodhisattvas.
Why is it so? Because a Bodhisattva wins the Buddha land, according to
the living beings converted by him (to the Dharma); according to the
living beings tamed by him; according to the country (where they will be
reborn to) realize the Buddha-wisdom and in which they will grow the
Bodhisattva root. Why is it so? Because a Bodhisattva wins the pure
land solely for the benefit of all living beings. For instance, a man can
build palaces and houses on vacant ground without difficulty, but he will
fail if he attempts to build them in (empty) space. So, a Bodhisattva, in
order to bring living beings to perfection seeks the Buddha land which
cannot be sought in (empty) space.
·Bảo
Tích, ông nên biết! “Ratna-rasi, you should know that:
a)
Trực tâm l Tịnh Ðộ của Bồ Tát; khi Bồ
Tát th nh Phật, chúng sanh không dua vạy, sanh sang nước đó: The
straightforward mind is the Bodhisattva’s pure land, for when he realizes
Buddhahood, beings who do not flatter will be reborn in his land.
b)
Thâm tâm l Tịnh Ðộ của Bồ Tát khi Bồ
Tát th nh Phật, chúng sanh đầy đủ công đức sanh sang nước đó: The profound
mind is the Bodhisattva’s pure land, for when he realizes Buddhahood,
living beings who have accumulated all merits will be reborn there.
c)
Bồ Ðề tâm l Tịnh Ðộ của Bồ Tát khi Bồ
Tát th nh Phật, chúng sanh có tâm Ðại Thừa sanh sang nước đó: The Mahayana
(Bodhi) mind is the Bodhisattva’s pure land, for when he attains
Buddhahood all living beings seeking Mahayana will be reborn there.
d)
Bố Thí l Tịnh Ðộ của Bồ Tát khi Bồ
Tát th nh Phật, chúng sanh hay thí xả tất cả mọi vật sanh sang nước đó:
Charity (dana) is the Bodhisattva’s pure land, for when he attains
Buddhahood, living beings who can give away (to charity) will be reborn
there.
e)
Trì Giới l Tịnh Ðộ của Bồ Tát; khi Bồ
Tát th nh Phật, chúng sanh tu mười điều l nh, hạnh nguyện đầy đủ sanh sang
nước đó: Discipline (sila) is the Bodhisattva’s pure land, for when he
realizes Buddhahood, living beings who have kept the ten prohibitions will
be reborn there.
f)
Nhẫn Nhục l Tịnh Ðộ của Bồ Tát; khi
Bồ Tát th nh Phật, chúng sanh đủ 32 tướng tốt trang nghiêm sanh sang nước
đó: Patience (ksanti) is the Bodhisattva’s pure land, for when he attains
Buddhahood, living beings endowed with the thirty-two excellent physical
marks will be reborn there.
g)
Tinh Tấn l Tịnh Ðộ của Bồ Tát; khi Bồ
Tát th nh Phật, chúng sanh siêng năng tu mọi công đức sanh sang nước đó:
Devotion (virya) is the Bodhisattva’s pure land, for when he attains
Buddhahood, living beings who are diligent in their performance of
meritorious deeds will be reborn there.
h)
Thiền Ðịnh l Tịnh Ðộ của Bồ Tát; khi
Bồ Tát th nh Phật, chúng sanh biết thu nhiếp tâm chẳng loạn sanh sang nước
đó: Serenity (dhyana) is the Bodhisattva’s pure land, for when he attains
Buddhahood, living beings whose minds are disciplined and unstirred will
be reborn there.
i)Trí
Tuệ l Tịnh Ðộ của Bồ Tát; khi Bồ Tát th nh Phật, chúng sanh được chánh
định sanh sang nước đó: Wisdom (prajna) is the Bodhisattva’s pure land,
for when he attains Buddhahood, living beings who have realized samadhi
will be reborn there.
j)Tứ
Vô Lượng Tâm l Tịnh Ðộ của Bồ Tát; khi Bồ Tát th nh Phật, chúng sanh
th nh tựu từ bi hỷ xả sanh sang nước đó: The four boundless minds (catvari
apramanani) are the Bodhisattva’s pure land, for when he attains
Buddhahood, living beings who have practiced and perfected the four
infinites: kindness, compassion, joy and indifference, will be reborn
there.
k)
Tứ Nhiếp Pháp l Tịnh Ðộ của Bồ Tát;
khi Bồ Tát th nh Phật, chúng sanh được giải thoát sanh sang nước đó: The
four persuasive actions (catuh-samgraha-vastu) are the Bodhisattva’s pure
land, for when he attains Buddhahood, living beings who have benefited
from his helpful persuasion will be reborn there.
l)Phương
Tiện l Tịnh Ðộ của Bồ Tát; khi Bồ Tát th nh Phật, chúng sanh khéo dùng
được phương tiện không bị ngăn ngại ở các pháp, sanh sang nước đó: The
expedient methods (upaya) of teaching the absolute truth are the
Bodhisattva’s pure land, for when he attains Buddhahood, living beings
conversant with upaya will be reborn there.
m)
Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Ðạo l Tịnh Ðộ
của Bồ Tát; khi Bồ Tát th nh Phật, chúng sanh đầy đủ niệm xứ, chánh cần,
thần túc, ngũ căn, ngũ lực, thất giác chi, bát chánh đạo, sanh sang nước
đó: The thirty-seven contributory states to enlightenment
(bodhipaksika-dharma) are the Bodhisattva’s pure land, for when he attains
Buddhahood, living beings who have successfully practised the four states
of mindfulness (smrtyu-pasthana), the four proper lines of exertion
(samyakpra-hana), the four steps towards supramundane powers (rddhipada),
the five spiritual faculties (panca indriyani), the five transcendental
powers (panca balani), the seven degrees of enlightenment (sapta
bodhyanga) and the eightfold noble path (asta-marga) will be reborn in his
land.
n)
Hồi Hướng Tâm l Tịnh Ðộ của Bồ Tát;
khi Bồ Tát th nh Phật, được cõi nước đầy đủ tất cả công đức: Dedication
(of one’s merits to the salvation of others) is the Bodhisattva’s pure
land, for when he attains Buddhahood, his land will be adorned with all
kinds of meritorious virtues.
o)
Nói Pháp Trừ Bát Nạn l Tịnh Ðộ của Bồ
Tát; khi Bồ Tát th nh Phật, cõi nước không có ba đường ác v bát nạn:
Preaching the ending of the eight sad conditions is the Buddhahood his
land will be free from these evil states.
p)
Tự Mình Giữ Giới Hạnh-Không Chê Chỗ
Kém Khuyết Của Người Khác l Tịnh Ðộ của Bồ Tát; khi Bồ Tát th nh Phật,
cõi nước không có tên phạm giới cấm: To keep the precepts while refraining
from criticizing those who do not is the Bodhisattva’s pure land, for when
he attains Buddhahood, his country will be free from people who break the
commandments.
q)
Thập Thiện l Tịnh Ðộ của Bồ Tát; khi
Bồ Tát th nh Phật, chúng sanh sống lâu, gi u to, phạm hạnh, nói lời chắc
thật, thường dùng lời dịu d ng, quyến thuộc không chia rẽ, khéo hòa giải
việc đua tranh kiện cáo, lời nói có lợi ích, không ghét không giận, thấy
biết chân chánh sanh sang nước đó: The ten good deeds are the
Bodhisattva’s pure land, for when he attains Buddhahood, he will not die
young, he will be wealthy, he will live purely, his words are true, his
speech is gentle, his encourage will not desert him because of his gift of
conciliation, his talk is profitable to others and living beings free from
envy and anger and holding right views will be reborn in his land.
·Như
thế, Bảo Tích! Bồ Tát tùy chỗ trực tâm m hay phát hạnh; tùy chỗ phát hạnh
m được thâm tâm; tùy chỗ thâm tâm m ý được điều phục; tùy chỗ ý được
điều phục m l m được như lời nói; tùy chỗ l m được như lời nói m hay hồi
hướng; tùy chỗ hồi hướng m có phương tiện; tùy chỗ có phương tiện m
th nh tựu chúng sanh, tùy chỗ th nh tựu chúng sanh m cõi Phật được thanh
tịnh; tùy chỗ cõi Phật thanh tịnh m nói Pháp thanh tịnh; tùy chỗ nói Pháp
thanh tịnh m trí huệ được thanh tịnh; tùy chỗ trí huệ thanh tịnh m tâm
thanh tịnh; tùy chỗ tâm thanh tịnh m tất cả công đức đều thanh tịnh. Cho
nên, nầy Bảo Tích! Bồ Tát muốn được cõi Phật thanh tịnh, nên l m cho tâm
thanh tịnh; tùy chỗ Tâm thanh tịnh m cõi Phật được thanh tịnh.”—So,
Ratna-rasi, because of his straightforward mind, a Bodhisattva can act
straightforwardly; because of his straightforward deeds, he realizes the
profound mind; because of his profound mind his thoughts are kept under
control; because of his controlled thoughts, his acts accord with the
Dharma (he has heard); because of his deeds in accord with the Dharma, he
can dedicate his merits to the benefit of others; because of this
dedication, he can make use of expedient methods (upaya); because of his
expedient methods, he can bring living beings to perfection; because he
can bring them to perfection, his Buddha land is pure; because of his pure
Buddha land, his preaching of the Dharma is pure; because of his pure
preaching, his wisdom is pure; because of his pure wisdom, his mind is
pure, and because of his pure mind, all his merits are pure. Therefore,
Ratna-rasi, if a Bodhisattva wants to win the pure land, he should purify
his mind and because of his pure mind, the Buddha land is pure.”
·Lúc
ấy ông Xá Lợi Phất nương oai thần của Phật m nghĩ rằng: “Nếu tâm Bồ Tát
thanh tịnh chắc chắn cõi Phật phải được thanh tịnh, vậy Thế Tôn ta khi
trước l m Bồ Tát, tâm ý lẽ n o không thanh tịnh, sao cõi Phật nầy không
thanh tịnh như thế?”—As Sariputra was fascinated by the Buddha’s
awe-inspiring majesty, he thought: “If the Buddha land is pure, because
of the Bodhisattva’s pure mind, is it because the mind of the World
Honoured One was not pure when He was still in the Bodhisattva stage, that
this Buddha land (i.e. this world) is so unclean (as we see it now)?”
·Phật
biết ông suy nghĩ vậy liền bảo rằng: “Ý ông nghĩ sao? Mặt trời, mặt trăng
há không thanh tịnh sáng suốt ư, sao người mù không thấy?”—The Buddha knew
of his thought and said to Sariputra: “Are the sun and the moon not clean
when a blind man does not see their cleanliness?”
·Xá
Lợi Phất bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Chẳng phải thế. Ðó l tại người mù,
không phải lỗi ở mặt trời v mặt trăng.”—Sariputra said: “World Honoured
One, this is the fault of the blind man and not that of the sun and the
moon.”
·Phật
bảo: “Xá Lợi Phất! Cũng thế, bởi chúng sanh do tội chướng nên không thấy
được cõi nước của Như Lai thanh tịnh trang nghiêm, chớ không phải lỗi ở
Như Lai. N y Xá Lợi Phất! Cõi nước của ta đây vẫn thanh tịnh m tại ông
không thấy đó thôi.”—The Buddha said: “Sariputra, because of their
(spiritual) blindness, living beings do not see the imposing majesty of
the Tathagata’s pure land; this is not the fault of the Tathagata.
Sariputra, this land of mine is pure but you do not see its purity.”
·Lúc
bấy giờ ông Loa Kế Phạm Vương thưa với ông Xá Lợi Phất rằng: “Ng i chớ
nghĩ như thế, m cho cõi Phật đây không thanh tịnh. Vì sao? Vì tôi thấy
cõi nước của Phật Thích Ca Mâu Ni thanh tịnh, ví như cung trời Tự
Tại.”—Thereupon, Brahma with a tuft of hair on his head (resembling a
conch) said to Sariputra: “Don’t think this Buddha land is impure. Why?
Because I see that the land of Sakyamuni Buddha is pure and clean, like
a heavenly palace.”
·Xá
Lợi Phất nói: “Sao tôi thấy cõi nầy to n gò nỗng, hầm hố, chông gai, sỏi
sạn, đất đá, núi non, nhơ nhớp dẫy đầy như thế.”—Sariputra said: “I see
that this world is full of hills, mountains, pits, thorns, stones and
earth, which are all unclean.”
·Loa
Kế Phạm Vương thưa: “Ðấy l do tâm của Ng i có cao thấp không nương theo
trí tuệ của Phật nên thấy cõi nầy không thanh tịnh đó thôi. Thưa ng i Xá
Lợi Phất! Bồ Tát đối với tất cả chúng sanh thảy đều bình đẳng, thâm tâm
thanh tịnh y theo trí tuệ của Phật thì mới thấy được cõi Phật nầy thanh
tịnh.”—Brahma said: “Because your mind is up and down and disagrees with
the Buddha-wisdom, you see that this land is unclean. Sariputra, because
a Bodhisattva is impartial towards all living beings and his profound mind
is pure and clean in accord with the Buddha Dharma, he can see that this
Buddha land is (also) pure and clean.”
·Khi
ấy Phật lấy ngón chơn nhấn mạnh xuống đất, tức thì cõi Tam thiên đại thiên
thế giới liền hiện ra bao nhiêu trăm ng n thứ trân bảo trang nghiêm rực
rỡ, như cõi Vô Lượng Công Ðức Bảo Trang Nghiêm của Phật Bảo Trang Nghiêm
m tất cả đại chúng ngợi khen chưa từng có v đều thấy mình ngồi trên tòa
sen báu—At that time, the Buddha pressed the toes of His (right ) foot on
the ground and the world was suddenly adorned with hundreds and thousands
of rare and precious gems of the great chiliocosm, like the precious
Majestic Buddha’s pure land adorned with countless precious merits, which
the assembly praised as never seen before; in addition each person present
found himself seated on a precious lotus throne.
·Phật
bảo Xá Lợi Phất: “Ông hãy xem cõi Phật đây trang nghiêm thanh tịnh.”—The
Buddha said to Sariputra: “Look at the majestic purity of this Buddha
land of mine.”
·Xá
Lợi Phất thưa: “Dạ, bạch Thế Tôn! Từ trước đến giờ con chưa từng thấy chưa
từng nghe nói đến cõi nước hiện rõ trang nghiêm thanh tịnh của
Phật.”—Sariputra said: “World Honoured One, I have never seen and heard of
this Buddha land in its majestic purity.”
·Phật
bảo: “N y Xá Lợi Phất! Cõi nước của ta thường thanh tịnh như thế! Nhưng vì
muốn độ những kẻ căn cơ hạ liệt nên thị hiện ra cõi đầy nhơ nhớp xấu xa
bất tịnh đó thôi. Ví như chư Thiên đồng dùng một thứ bát bằng ngọc báu để
ăn, nhưng tùy phước đức của mỗi vị m sắc cơm có khác. Như thế, Xá Lợi
Phất! Nếu tâm người thanh tịnh, sẽ thấy cõi n y công đức trang
nghiêm.”—The Buddha said: “This Buddha land of mine is always pure, but
appears filthy so that I can lead people of inferior spirituality to their
salvation. This is like the food of devas which takes various colours
according to the merits of each individual eater. So, Sariputra, the man
whose mind is pure sees this world in its majestic purity.”
·Trong
khi Phật hiện ra cõi nước trang nghiêm thanh tịnh, 500 vị trưởng giả tử do
ông Bảo Tích dắt đến đều chứng được Vô sanh Pháp nhẫn, tám vạn bốn ng n
người phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác—When this Buddha land (i.e.
the world) appeared in its majestic purity, the five hundred sons of
elders, who came with Ratna-rasi, realized the patient endurance of the
uncreate (anutpattika-dharma-ksanti), and eighty-four thousand people
developed their minds set on Supreme Enlightenment
(anuttara-samyak-sambodhi).
·Bấy
giờ Phật thâu nhiếp thần túc lại, cõi nước trở th nh như xưa. Ba vạn hai
ng n người v trời cầu Thanh Văn thừa đều nhận rõ các Pháp hữu vi l vô
thường, xa lìa trần cấu đặng pháp nhãn thanh tịnh, tám ng n vị Tỳ Kheo
không còn chấp thọ các pháp, kiết lậu đã hết, tâm ý được giải thoát—The
Buddha then stopped pressing His toes on the ground and the world
returned to its previous (filthy) condition. Thirty-two thousand devas
and men aspiring to the sravaka stage understood the impermanence of all
phenomena, kept from earthly impurities and achieved the Dharma-eye (which
sees the truth of the four noble truths); eight thousand bhiksus kept from
phenomena and succeeded in putting an end to the stream of transmigration
(thus realizing arhatship).
CHƯ NG 2—CHAPTER 2
PHẨM
PHƯ NG TIỆN—THE EXPEDIENT METHOD (UPAYA) OF TEACHING
·Thuở
ấy trong th nh Tỳ Xá Ly có ông trưởng giả tên l Duy Ma Cật, đã từng cúng
dường vô lượng các Ðức Phật, sâu trồng cội l nh, đặng Vô Sanh Pháp Nhẫn.
Sức biện t i vô ngại của ông đã khiến ông có khả năng du hí thần thông.
Ông đã chứng các môn tổng trì, đặng sức vô úy, h ng phục ma oán, thấu rõ
pháp môn thâm diệu, khéo nơi trí độ, thông đạt các pháp phương tiện, th nh
tựu đại nguyện. Ông biết rõ tâm chúng sanh đến đâu, hay phân biệt các căn
lợi độn, ở lâu trong Phật đạo, lòng đã thuần thục, quyết định nơi Ðại
Thừa. Những h nh vi đều khéo suy lường, giữ gìn đúng oai nghi của Phật,
lòng rộng như bể cả. Chư Phật đều khen ngợi, h ng đệ tử, Ðế Thích, Phạm
Vương, vua ở thế gian, vân vân thảy đều kính trọng—In the great town of
Vaisai, there was an elder called Vimalakirti, who had made offerings to
countless Buddhas and had deeply planted all good roots, thereby,
achieving the patient endurance of the uncreate. His unhindered power of
speech enabled him to roam everywhere using his supernatural powers to
teach others. He had achieved absolute control over good and evil
influences (dharani) thereby, realizing fearlessness. So he overcame all
passions and demons, entered all profound Dharma-doors to enlightenment,
excelled in Wisdom perfection (prajna-paramita) and was well versed in all
expedient methods (upaya) of teaching, thereby, fulfilling all great
Bodhisatva vows. He knew very well the mental propensities of living
beings and could distinguish their various (spiritual) roots. For along
time, he had trodden the Buddha-path and his mind was spotless. Since he
understood Mahayana, all his actions were based on right thinking. While
dwelling in the Buddha’s awe-inspiring majesty, his mind was extensive
like the great ocean. He was praised by all Buddhas and revered by Indra,
Brahma and worldly kings.
·Vì
muốn độ người, nên ông dùng phương tiện khéo thị hiện l m thân trưởng giả
ở th nh Tỳ Xá Ly, có của cải nhiều vô lượng để nhiếp độ các hạng dân
nghèo; giữ giới thanh tịnh để nhiếp độ những kẻ phá giới; dùng hạnh điều
hòa nhẫn nhục để nhiếp độ các người giận dữ; dùng đại tinh tấn để nhiếp
độ những kẻ biếng nhác; dùng nhất tâm thiền tịch để nhiếp độ những kẻ tâm
ý tán loạn; dùng trí tuệ quyết định để nhiếp độ những kẻ vô trí; tuy l m
người bạch y cư sĩ m giữ gìn giới hạnh thanh tịnh của Sa Môn. Tuy ở tại
gia m không đắm nhiễm ba cõi. Tuy thị hiện có vợ con, nhưng thường tu
phạm hạnh. Dù có quyến thuộc, nhưng ưa sự xa lìa. Dù có đồ quý báu, m
dùng tướng tốt để nghiêm thân. Dù có uống ăn m dùng thiền duyệt l m mùi
vị. Nếu khi đến chỗ cờ bạc, hát xướng thì ông lợi dụng cơ hội để độ người.
Dù thọ các pháp ngoại đạo nhưng chẳng tổn hại lòng chánh tín. Tuy hiểu rõ
sách thế tục m thường ưa Phật pháp, được tất cả mọi người cung kính. Nắm
giữ chánh pháp để nhiếp độ kẻ lớn người nhỏ. Tất cả những việc trị sanh,
buôn bán l m ăn hùn hợp, dù được lời lãi của đời, nhưng chẳng lấy đó l m
vui mừng. Dạo chơi nơi ngã tư đường cái để lợi ích chúng sanh. V o việc
trị chánh để cứu giúp tất cả. Ðến chỗ giảng luận dẫn dạy cho pháp Ðại
Thừa. V o nơi học đường dạy dỗ cho kẻ đồng mông. V o chỗ dâm dục để chỉ
b y sự hại của dâm dục. V o quán rượu m hay lập chí. Nếu ở trong h ng
trưởng giả, l bực tôn quý trong h ng trưởng giả, giảng nói các pháp thù
thắng. Nếu ở trong h ng cư sĩ, l bậc tôn quý trong h ng cư sĩ, dứt trừ
lòng tham đắm cho họ. Nếu ở trong dòng Sát Ðế Lợi, l bậc tôn quý trong
dòng Sát Ðế Lợi, dạy bảo cho sự nhẫn nhục. Nếu ở trong dòng B La Môn, l
bực tôn quý trong dòng B La Môn, khéo trừ lòng ngã mạn của họ. Nếu ở nơi
Ðại thần l bực tôn quý trong h ng Ðại thần, dùng chánh pháp để dạy dỗ.
Nếu ở trong h ng Vương tử, l bực tôn quý trong h ng Vương tử, chỉ dạy cho
lòng trung hiếu. Nếu ở nơi nội quan, l bực tôn quý trong h ng nội quan,
khéo dạy dỗ các h ng cung nữ. Nếu ở nơi thứ dân, l bực tôn quý trong h ng
thứ dân, chỉ bảo l m việc phước đức. Nếu ở nơi trời Phạm Thiên, l bực tôn
quý trong Phạm Thiên, dạy bảo cho trí tuệ thù thắng. Nếu ở nơi trời Ðế
Thích, l bực tôn quý trong Ðế Thích, chỉ b y cho pháp vô thường. Nếu ở
nơi trời Tứ Thiên Vương hộ thế, l bực tôn quý trong Tứ thiên vương hộ
thế, hằng ủng hộ chúng sanh. Trưởng giả Duy Ma Cật dùng cả thảy vô lượng
phương tiện như thế l m cho chúng sanh đều được lợi ích—As he was set on
saving men, he expediently stayed at Vaisali for this purpose. He used his
unlimited wealth to aid the poor; he kept all the rules of morality and
discipline to correct those breaking the precepts; he used his great
patience to teach those giving rise to anger and hate; he taught zeal and
devotion to those who were remiss; he used serenity to check stirring
thoughts; and employed decisive wisdom to defeat ignorance. Although
wearing white clothes (of the laity) he observed all the rules of the
Sangha. Although a layman, he was free from all attachments to the three
worlds (of desire, form and beyond form). Although he was married and had
children, he was diligent in his practice of pure living. Although a
householder, he delighted in keeping from domestic establishments.
Although he ate and drank (like others), he delighted in tasting the
flavour of moderation. When entering a gambling house, he always tried to
teach and deliver people there. He received heretics but never strayed
from the right faith. Though he knew worldly classics, he always took joy
in the Buddha Dharma. He was revered by all who met him. He upheld the
right Dharma and taught it to old and young people. Although occasionally
he realized some profit in his worldly activities, he was not happy about
these earnings. While walking in the street, he never failed to convert
others (to the Dharma). When he entered a government office, he always
protected others (from injustice). When joining a symposium, he led
others to the Mahayana. When visiting a school he enlightened the
students. When entering a house of prostitution, he revealed the sin of
sexual intercourse. When going to a tavern, he stuck to his determination
(to abstain from drinking). When amongst elders he was the most revered
for he taught them the exalted Dharma. When amongst upasakas, he was the
most respected for he taught them how to wipe out all desires and
attachments. When amongst those of the ruling class, he was the most
revered, for he taught them forbearance. When amongst Brahmins, he was the
most revered, for he taught them how to conquer pride and prejudice. When
amongst government officials he was the most revered, for he taught them
correct law. When amongst princes, he was the most revered, for he taught
them loyalty and filial piety. When in the inner palaces, he was the most
revered, for he converted all maids of honour there. When amongst common
people, he was the most revered, for he urged them to cultivate all
meritorious virtues. When amongst Brahma-devas, he was the most revered,
for he urged the gods to realize the Buddha wisdom. When amongst Sakras
and Indras, he was the most revered, for he revealed to them the
impermanence (of all things). When amongst lokapalas, he was the most
revered, for he protected all living beings. Thus, Vimalakirti used
countless expedient methods (upaya) to teach for the benefit of living
beings.
·Ông
dùng phương tiện hiện thân có bệnh. Do ông có bệnh nên các vị Quốc Vương,
Ðại thần, Cư sĩ, B la môn cả thảy cùng các vị Vương tử với bao nhiêu quan
thuộc vô số ng n người đều đến thăm bệnh. Ông nhơn dịp thân bệnh mới rộng
nói Pháp: “Nầy các nhân giả! Cái huyễn thân nầy thật l vô thường, nó
không có sức, không mạnh, không bền chắc, l vật mau hư hoại, thật không
thể tin cậy. Nó l cái ổ chứa nhóm những thứ khổ não bệnh hoạn. Các nhân
giả! Người có trí sáng suốt không bao giờ nương cậy nó. Nếu xét cho kỹ thì
cái thân nầy như đống bọt không thể cầm nắm; thân nầy như bóng nổi
không thể còn lâu; thân nầy như ánh nắng dợn giữa đồng, do lòng khát ái
sanh; thân nầy như cây chuối không bền chắc; thân nầy như đồ huyễn thuật,
do nơi điên đảo m ra; thân nầy như cảnh chiêm bao, do hư vọng m thấy có;
thân nầy như bóng của hình, do nghiệp duyên hiện; thân nầy như vang của
tiếng, do nhân duyên th nh; thân nầy như mây nổi, trong giây phút tiêu
tan; thân nầy như điện chớp sanh diệt rất mau lẹ, niệm niệm không dừng;
thân nầy không chủ, như l đất; thân nầy không có ta, như l lửa; thân nầy
không trường thọ, như l gió; thân nầy không có nhân, như l nước; thân
nầy không thật, bởi tứ đại giả hợp m th nh; thân nầy vốn không, nếu lìa
ngã v ngã sở; thân nầy l vô tri, như cây cỏ, ngói, đá; thân nầy vô tác
(không có l m ra), do gió nghiệp chuyển lay; thân nầy l bất tịnh, chứa
đầy những thứ dơ bẩn; thân nầy l giả dối, dầu có tắm rửa ăn mặc tử tế rốt
cuộc nó cũng tan rã; thân nầy l tai họa, vì đủ các thứ bệnh hoạn khổ não;
thân nầy như giếng khô trên gò, vì nó bị sự gi yếu ép ngặt; thân nầy
không chắc chắn, vì thế n o nó cũng phải chết; thân nầy như rắn độc, như
kẻ cướp giặc, như chốn không tụ, vì do ấm, giới, nhập hợp th nh—Now using
upaya he appeared ill and because of his indisposition kings, ministers,
elders, upasakas, Brahmins, etc., as well as princes and other officials
reaching many thousands came to enquire after his health. So Vimalakirti
appeared in his sick body to receive and expound the Dharma to them,
saying: “Virtuous ones, the human body is impermanent; it is neither
strong nor durable; it will decay and is, therefore, unreliable. It
causes anxieties and sufferings, being subject to all kinds of ailments.
Virtuous ones, all wise men do not rely on this body which is like a mass
of foam, which is intangible. It is like a bubble and does not last for a
long time. It is like a flame and is the product of the thirst of love.
It is like a banana tree, the centre of which is hollow. It is like an
illusion being produced by inverted thoughts. It is like a dream being
formed by fasle views. It is like a shadow and is caused by karma. This
body is like an echo for it results from causes and conditions. It is
like a floating cloud, which disperses any moment. It is like lightning
for it does not stay for the time of a thought. It is without owner for
it is like the earth. It is egoless for it is like fire (that kills
itself). It is transient like the wind. It is not human for it is like
water. It is unreal and depends on the four elements for its existence.
It is empty, being neither ego nor its object. It is without knowledge
like grass, trees and potsherds. It is not the prime mover, but is moved
by the wind (of passions). It is impure and full of filth. It is false,
and though washed, bathed, clothed and fed, it will decay and die in the
end. It is a calamity being subject to all kinds of illnesses and
sufferings. It is like a dry well, for it is prusued by death. It is
unsettled and will pass away. It is like a poisonous snake, a deadly
enemy, a temporary assemblage (without underlying reality), being made of
the five aggregates, the twelve entrances (the six organs and their
objects) and the eighteen realms of sense (the six organs, their objects
and their perceptions).
·Các
nhân giả! Hãy nên nh m chán cái thân nầy, chớ tham tiếc nó, phải nên ưa
muốn thân Phật. Vì sao? Vì thân Phật l Pháp Thân, do vô lượng công đức
trí tuệ sanh; do giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến sanh; do
từ bi hỷ xả sanh; do bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định,
trí tuệ, v phương tiện sanh; do lục thông, tam minh sanh; do 37 phẩm trợ
đạo sanh; do chỉ quán sanh; do thập lực, tứ vô úy, thập bát bất cộng sanh;
do đoạn trừ tất cả các pháp bất thiện, tu các pháp thiện sanh; do chân
thật sanh; do không buông lung sanh; do vô lượng pháp thanh tịnh như thế
sanh ra thân Như Lai—“Virtuous ones, the (human) body being so repulsive,
you should seek the Buddha body. Why? Because the Buddha body is called
Dharmakaya, the product of boundless merits and wisdom; the outcome of
discipline, meditation, wisdom, liberation and perfect knowledge of
liberation; the result of kindness, compassion, joy and indifference (to
emotions); the consequence of (the six perfections or paramitas) charity,
discipline, patience, zeal, meditation and wisdom and the sequel of
expedient teaching (upaya); the six supernatural powers; the three
insights; the thirty-seven stages contributory to enlightenment; serenity
and insight; the ten transcendental powers (dasabala); the four kinds of
fearlessness; the eighteen unsurpassed characteristics of the Buddha; the
wiping out of all evils and the performance of all good deeds;
truthfulness, and freedom from looseness and unrestraint. So countless
kinds of purity and cleanness produce the body of the Tathagata.
·Nầy
các nhân giả, muốn được thân Phật, đoạn tất cả bệnh chúng sanh thì phải
phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác—Virtuous Ones, if you want to
realize the Buddha body in order to get rid of all the illnesses of a
living being, you should set your minds on the quest of supreme
enlightenment (anuttara-samyak-sambodhi).”
·Như
vậy, trưởng giả Duy Ma Cật vì những người đến thăm bệnh, m nói pháp l m
cho vô số ng n người đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác—Thus,
the elder Vimalakirti expounded the Dharma to all those who came to
enquire after his health, urging countless visitors to seek supreme
enlightenment.
CHƯ NG BA—CHAPTER THREE
PHẨM ÐỆ TỬ—THE DISCIPLES
·XÁ
LỢI PHẤT—SARIPUTRA:
·Lúc
bấy giờ trưởng giả Duy Ma Cật tự hỏi: “Nay ta bệnh nằm ở giường, Thế Tôn
l đấng Ðại Từ, lẽ đâu không đoái lòng thương xót!”—Vimalakirti wondered
why the great compassionate Buddha did not take pity on him as he was
confined to bed suffering from an indisposition.
·Phật
đã biết ý ông, liền bảo Xá Lợi Phất rằng: “Ông đi đến thăm bệnh ông Duy Ma
Cật dùm tôi.”—The Buddha knew of his thought and said to Sariputra: “Go to
Vimalakirti to enquire after his health on my behalf.”
·Xá
Lợi Phất bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Con không kham lãnh đến thăm bệnh ông
ta. Vì sao? Nhớ lại trước kia, con từng ở trong rừng tọa thiền yên lặng
dưới gốc cây, khi ấy ông Duy Ma Cật đến bảo con rằng: “Thưa ng i Xá Lợi
Phất! Bất tất ngồi sững đó mới l ngồi yên lặng. Vả chăng ngồi yên lặng l
ở trong ba cõi m không hiện thân ý, mới l ngồi yên lặng; không khởi diệt
tận định m hiện các oai nghi, mới l ngồi yên lặng; không rời đạo pháp m
hiện các việc ph m phu, mới l ngồi yên lặng; tâm không trụ trong cũng
không ở ngo i mới l ngồi yên lặng; đối với các kiến chấp không động m tu
ba mươi bảy phẩm trợ đạo mới l ngồi yên lặng; không đoạn phiền não m v o
Niết B n mới l ngồi yên lặng. Nếu ngồi yên lặng như thế l chỗ Phật ấn
khả (chứng nhận) vậy.”—Sariputra said: “World Honoured One, I am not
qualified to call on him and enquire after his health. The reason is that
once, as I was sitting in meditation under a tree in a grove, Vimalakirti
came and said: ‘Sariputra, meditation is not necessarily sitting. For
meditation means the non-appearance of body and mind in the three worlds
(of desire, form and no form); giving no thought to inactivity when in
nirvana while appearing (in the world) with respect-inspiring deportment;
not straying from the Truth while attending to worldly affairs; the mind
abiding neither within nor without; being imperturbable to wrong views
during the practice of the thirty-seven contributory stages leading to
enlightenment: and not wiping out troubles (klesa) while entering the
state of nirvana. If you can thus sit in meditation, you will win the
Buddha’s seal.’
·Bạch
Thế Tôn! Lúc ấy con nghe nói những lời đó rồi, im lặng không trả lời đặng,
nên con không dám đến thăm bệnh ông—“World Honoured One, when I heard his
speech I was dumbfounded and found no word to answer him. Therefore I am
not qualified to call on him and enquire after his health.”
·MỤC
KIỀN LIÊN—MAUDGALYAYANA:
·Sau
đó Phật bảo Mục Kiền Liên: “Ông đến thăm bệnh ông Duy Ma Cật dùm tôi.”—The
Buddha then said to Maudgalaputra: “Go to Vimalakirti and enquire after
his health on my behalf.”
·Mục
Kiền Liên bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Con không kham lãnh đến thăm bệnh ông
ấy. Vì sao? Nhớ lại trước kia, con v o trong th nh Tỳ Xá Ly, ở trong xóm
l ng nói Pháp cho các h ng cư sĩ nghe, lúc ấy ông Duy Ma Cật đến bảo con
rằng ‘Nầy ng i Ðại Mục Kiền Liên, nói Pháp cho bạch y cư sĩ, không phải
như ng i nói đó. Vả chăng nói Pháp phải đúng như pháp (xứng tánh) m nói.
Pháp không chúng sanh, lìa chúng sanh cấu; Pháp không có ngã, lìa ngã cấu;
Pháp không có thọ mạng, lìa sanh tử; Pháp không có nhơn, l n trước l n sau
đều dứt; Pháp thường vắng lặng, bặt hết các tướng; Pháp lìa các tướng,
không phải cảnh bị duyên; Pháp không danh tự, dứt đường ngôn ngữ; Pháp
không nói năng, lìa giác quán; Pháp không hình tướng, như hư không; Pháp
không hý luận, rốt ráo l không; Pháp không ngã sở, lìa ngã sở; Pháp không
phân biệt, lìa các thức; Pháp không chi so sánh, không có đối đãi; Pháp
không thuộc nhân, không nhờ duyên; Pháp đồng pháp tánh, khắp v o các Pháp;
Pháp tùy nơi như không có chỗ tùy; Pháp trụ thực tế, các bên hữu, vô
thường, đoạn, không động được; Pháp không lay động, không nương sáu trần;
Pháp không tới lui, thường không dừng trụ; Pháp thuận ‘không,’ tùy ‘vô
tướng,’ ứng ‘vô tác;’ Pháp lìa tốt xấu; Pháp không thêm bớt; Pháp không
sanh diệt; Pháp không chỗ về; Pháp ngo i mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý;
Pháp không cao thấp; Pháp thường trụ không động; Pháp lìa tất cả quán
hạnh. Thưa ng i Ðại Mục Kiền Liên! Pháp tướng như thế đâu có thể nói
ư?—Maudgalyayana said: “World Honoured One, I am not qualified to call on
him to enquire after his health. The reason is that one day when I came
to Vaisali to expound the Dharma to lay Buddhists (upasakas) in the street
there, Vimalakirti came and said: “Hey Maudgalyayana, when expounding the
Dharma to these upasakas, you should not preach like that for what you
teach should agree with the absolute Dharma, which is free from the
(illusion of) living beings; is free from the self for it is beyond an
ego; from life for it is beyond birth and death and from the concept of a
man which lacks continuity (thought seemingly continuous, like a torch
whirled around); is always still for it is beyond (stirring) phenomena; is
above form for it is causeless; is inexpressible for it is beyond word and
speech; is inexplainable for it is beyond intellect; is formless like
empty space; is beyond sophistry for it is immaterial; is egoless for it
is beyond (the duality of) subject and object; is free from discrimination
for it is beyond consciousness; is without compare for it is beyond all
relativities; is beyond cause for it is causeless; is identical with
Dharmata (or Dharma-nature), the underlying nature (of all things); is in
line with the absolute for it is independent; dwells in the region of
absolute reality, being above and beyond all dualities; is unmovable for
it does not rely on the six objects of sense; neither comes nor goes for
it does not stay anywhere; is in line with voidness, formlessness and
inactivity; is beyond beauty and ugliness; neither increases nor
decreases; is beyond creation and destruction; does not return to
anywhere; is above the six sense organs of eye, ear, nose, tongue, body
and mind; is neither up nor down; is eternal and immutable; and is beyond
contemplation and practice. “Maudgalyayana, such being the
characteristics of the Dharma, how can it be expounded?”
·Vả
chăng người nói Pháp, không nói, không dạy; còn người nghe, cũng không
nghe không được. Ví như nh huyễn thuật nói Pháp cho người huyễn hóa nghe,
phải dụng tâm như thế m nói Pháp. Phải biết căn cơ của chúng sanh có lợi
có độn, khéo nơi tri kiến không bị ngăn ngại, lấy tâm đại bi khen ngợi
Pháp Ðại Thừa, nghĩ nhớ đền trả ơn Phật, chớ để ngôi Tam Bảo dứt mất, như
vậy mới nên nói Pháp—For expounding, it is beyond speech and indication,
and listening to it is above hearing and grasping. This is like a
conjurer expounding the Dharma to illusory men, and you should always bear
all this in mind, when expounding the Dharma. You should be clear about
the sharp or dull roots of your audience and have a good knowledge of this
to avoid all sorts of hindrance. Before expounding the Dharma, you should
use your great compassion (for all living beings) to extol Mahayana to
them and think of repaying your own debt of gratitude to the Buddha by
striving to preserve the three treasures (of Buddha, Dharma and Sangha)
for ever.
·Khi
ông Duy Ma Cật nói Pháp ấy rồi, tám trăm Cư sĩ phát tâm Vô thượng Chánh
đẳng Chánh giác. Con không được biện t i như thế, nên không dám lãnh đến
thăm bệnh ông—“When Vimalakirti spoke, eight hundred upasakas set their
minds on seeking supreme enlightenment (anuttara-samyak-sambodhi). I do
not have the eloquence and I am, therefore, not fit to call on him to
inquire after his health.”
·Ð I
CA DIẾP—MAHAKASYAPA:
·Phật
bảo Ðại Ca Diếp: Ông đi đến thăm bệnh ông Duy Ma Cật dùm tôi.”—The Buddha
then said to Mahakasyapa: “ Go to Vimalakirti to enquire after his health
on my behalf.”
·Ðại
Ca Diếp bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Con không kham lãnh đến thăm bệnh ông
ta. Vì sao? Con nhớ lại trước kia, khi khất thực trong xóm nh nghèo, lúc
ấy ông Duy Ma Cật đến nói với con rằng ‘N y ng i Ðại Ca Diếp! Có lòng từ
bi m không phổ cập l bỏ nh gi u m đi đến nh nghèo. Ng i Ðại Ca Diếp!
Ở Pháp bình đẳng nên đi khất thực theo thứ lớp. Vì không ăn m đi khất
thực; vì phá tướng hòa hiệp m bốc cơm ăn; vì không nhận m nhận món ăn
của người; vì tưởng không tụ m v o l ng xóm; có thấy sắc cũng như người
đui; có nghe tiếng cũng như vang; có ngửi mùi cũng như gió; lúc nếm vị
không phân biệt; chạm các vật như trí chứng; biết các Pháp tướng như
huyễn, không có tự tánh, không có tha tánh, trước vốn không sanh, nay cũng
không diệt. Ng i Ðại Ca Diếp! Nếu có thể không bỏ bát t m v o bát giải
thoát, dùng bát tướng m v o Chánh Pháp, dùng một bữa ăn m thí cho tất
cả, cúng dường chư Phật v các bực hiền thánh rồi sau mới ăn. Ăn như thế,
không phải có phiền não, không phải rời phiền não, không phải v o định ý,
không ra định ý, không phải ở thế gian, không phải ở Niết B n, người thí
không có phước lớn, không có phước nhỏ, không được lợi ích, không bị tổn
hại, đó chính l v o Phật đạo, không nương theo hạnh Thanh Văn. Ng i Ca
Diếp! Nếu ăn như thế l ăn đồ cúng thí của người không uổng
vậy—Mahakasyapa said: “World Honoured One, I am not qualified to call on
him to inquire after his health. The reason is that once when I went
begging for food in a lane inhabited by poor people, Vimalakirti came and
said: “Hey, Mahakasyapa, you are failing to make your kind and
compassionate mind all-embracing by begging from the poor while staying
away from the rich. Mahakasyapa, in your practice of impartiality, you
should call on your donors in succession (regardless of whether they are
poor or rich). You should beg for food without the (ulterior) idea of
eating it. To wipe out the concept of rolling (food into a ball in the
hand), you should take it by the hand (i.e. without the idea of how you
take it). You should receive the food given without the idea of receiving
anything. When entering a village, you should regard it as void like
empty space. When seeing a form, you should remain indifferent to it.
When you hear a voice, you should consider it (as meaningless as) an
echo. When you smell an odor, take it for the wind (which has no smell).
When you eat, refrain from discerning the taste. Regard all touch as if
you were realizing wisdom (which is free from feelings and emotions). You
should know that all things are illusory, having neither nature of their
own nor that of something else, and that since fundamentally, they are not
self-existent, they cannot now be the subject of annihilation.
Mahakasyapa, if you can achieve all eight forms of liberation without
keeping from the eight heterodox ways (of life), that is by identifying
heterodoxy with orthodoxy (both as emanating from the same source), and if
you can make an offering of your (own) food to all living beings as well
as to all Buddhas and all members of the Sangha, then you can take the
food. Such a way of eating is beyond the troubles (of the worldly man)
and the absence of the troubles of Hinayana men); above the state of
stillness (in which Hinayana men abstain from eating) and the absence of
stillness (of Mahayana men who eat while in the state of serenity); and
beyond both dwelling in the worldly state or in nirvana, while your donors
reap neither great nor little merits, what they give being neither
beneficial nor harmful. This is correct entry upon the Buddha path
without relying on the small way of sravakas. Mahakasyapa, if you can so
eat the food given you, your eating shall not be in vain.”
·Bạch
Thế Tôn! Lúc đó con nghe ông Duy Ma Cật nói lời ấy tỏ ngộ được điều chưa
từng có, c ng sâu khởi tâm cung kính tất cả các vị Bồ Tát. Con lại nghĩ
rằng: “Kẻ danh gia nầy có biện t i trí tuệ mới được như thế! Ai nghe m
chẳng phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác? Từ ấy đến nay, con chẳng
còn đem hạnh Thanh Văn, Bích Chi Phật để khuyên dạy người, vì thế nên con
không kham lãnh đến thăm bệnh ông—“World Honoured One, when I listened to
his words which I had never heard before, I gave rise to profound
reverence to all Bodhisattvas and thought, ‘His wisdom and power of speech
being such, who will fail to develop a mind set on supreme enlightenment?’
Since then I have refrained from urging people to follow the practices of
sravakas and pratyeka-buddhas. Hence, I am not qualified to call on him
to inquire after his health.”
·TU
BỒ ÐỀ—SUBHUTI:
·Phật
bảo Tu Bồ Ðề: “Ông đi đến thăm bệnh ông Duy Ma Cật dùm ta.”—The Buddha
then said to Subhuti: “You call on Vimalakirti to enquire after his health
on my behalf.”
·Tu
Bồ Ðề bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Con không kham lãnh đến thăm bệnh ông ta.
Vì sao? Nhớ lại thuở trước, con v o khất thực nơi nh ông, lúc đó trưởng
giả Duy Ma Cật lấy cái bát của con đựng đầy cơm rồi nói với con rằng ‘Thưa
ng i Tu Bồ Ðề! Ðối với cơm bình đẳng, thì các Pháp cũng bình đẳng, các
Pháp bình đẳng thì cơm cũng bình đẳng, đi khất thực như thế mới nên lãnh
món ăn. Như Tu Bồ Ðề không trừ dâm nô si, cũng không chung cùng với nó,
không hoại thân m theo một hình tướng, không dứt si ái sanh ra giải
thoát, ở tướng ngũ nghịch m đặng giải thoát, không mở cũng không buộc,
không thấy tứ đế cũng không phải không đắc quả, không phải ph m phu cũng
không phải rời ph m phu, không phải Thánh nhơn, không phải không Thánh
nhơn, tuy l m nên tất cả các Pháp m rời tướng các Pháp, thế mới nên lấy
món ăn. Như Tu Bồ Ðề không thấy Phật, không nghe Pháp, bọn lục sư ngoại
đạo kia như Phú Lan Na Ca Diếp, Mạc D Lê Câu Xa Lê Tử, San X Dạ Tỳ La
Chi Tử, A Kỳ Ða Xý Xá Khâm Ba La, Ca La Cưu Ð Ca Chiên Diên, Ni Kiền Ð
Nhã Ðề Tử l thầy của Ng i. Ng i theo bọn kia xuất gia, bọn lục sư kia
đọa, Ng i cũng đọa theo, mới nên lấy món ăn. Tu Bồ Ðề! Nếu Ng i v o nơi t
kiến, không đến bờ giác, ở nơi tám nạn, đồng với phiền não, lìa Pháp thanh
tịnh, ng i được vô tránh tam muội, tất cả chúng sanh cũng được tam muội
ấy, những người thí cho Ng i chẳng gọi phước điền, những kẻ cúng dường cho
Ng i đọa v o ba đường ác, ng i cùng với ma nắm tay nhau l m bạn lữ, Ng i
cùng với các ma v các trần lao như nhau không khác, đối với tất cả chúng
sanh m có lòng oán hận, khinh báng Phật, chê bai Pháp, không v o số chúng
Tăng, ho n to n không được diệt độ, nếu Ng i được như thế mới nên lấy món
ăn—Subhuti said: “World Honoured One, I am not qualified to call on him
and enquire after his health. The reason is that once when I went to his
house begging for food, he took my bowl and filled it with rice, saying:
‘Subhuti, if your mind set on eating is in the same state as when
confronting all (other) things, and if this uniformity as regards all
things equally applies to (the act of) eating, you can then beg for food
and eat it. Subhuti, if without cutting off carnality, anger and
stupidity you can keep from these (three) evils: if you do not wait for
the death of your body to achieve the oneness of all things; if you do
not wipe out stupidity and love in your quest of enlightenment and
liberation; if you can look into (the underlying nature of) the five
deadly sins to win liberation, with at the same time no idea of either
bondage or freedom; if you give rise to neither the four noble truths nor
their opposites; if you do not hold both the concept of winning and not
winning the holy fruit; if you do not regard yourself as a worldly or
unworldly man, as a saint or not as a saint; if you perfect all Dharmas
while keeping away from the concept of Dharmas, then can you receive and
eat the food. Subhuti, if you neither see the Buddha nor hear the Dharma;
if the six heterodox teachers, Purana-kasyapa, Maskari-gosaliputra,
Yanjaya-vairatiputra, Ajita-kesakambala, Kakuda-katyayana and
Nirgrantha-jnatiputra are regarded impartially as your own teachers and
if, when they induce leavers of home into heterodoxy, you also fall with
the latter; then you can take away the food and eat it. If you are
(unprejudiced about) falling into heresy and regard yourself as not
reaching the other shore (of enlightenment); if you are unprejudiced about
the eight sad conditions and regard yourself as not free from them; if you
are unprejudiced about defilements and relinquish the concept of pure
living; if when you realize samadhi in which there is absence of debate or
disputation, all living beings also achieve it; if your donors of food are
not regarded (with partiality) as (cultivating) the field of blessedness;
if those making offerings to you are partially looked on as also falling
into the three evil realms of existence; if you impartially regard demons
as your companions without differentiating between them as well as between
other forms of defilement; if you are discontented with all living beings,
defame the Buddha, break the law (Dharma), do not attain the holy rank and
fail to win liberation; then you can take away the food and eat it.
·Bạch
Thế Tôn! Lúc đó con nghe những lời ấy rồi mờ mịt không biết l nói gì,
cũng không biết lấy lời chi đáp, con liền để bát lại muốn ra khỏi nh ông.
Ông Duy Ma Cật nói ‘Thưa Ng i Tu Bồ Ðề! Ng i lấy bát chớ sợ! Ý Ng i nghĩ
sao? Như Phật biến ra một ng n người huyễn hóa v nếu người huyễn hóa đó
đem việc nầy hỏi Ng i, chừng ấy Ng i có sợ chăng?’ Con đáp: “Không sợ!”
Trưởng giả Duy Ma Cật lại nói: “Tất cả các Pháp như tướng huyễn hóa, ng i
không nên có tâm sợ sệt. Vì sao? Vì tất cả lời nói năng không lìa tướng
huyễn hóa, chí như người trí không chấp v o văn tự, nên không sợ. Vì sao
thế? Tánh văn tự vốn ly, không có văn tự đó l giải thoát. Tướng giải
thoát đó l các Pháp vậy.”—“World Honoured One, I was dumbfounded when I
heard his words, which were beyond my reach, and to which I found no
answer. Then I left the bowl of rice and intended to leave his house but
Vimalakirti said: ‘Hey, Subhuti, take the bowl of rice without fear. Are
you frightened when the Tathagata makes an illusory man ask you
questions? I replied: ‘No.’ He then continued: ‘All things are illusory
and you should not fear anything. Why? Because words and speech are
illusory. So all wise men do not cling to words and speech, and this is
why they fear nothing. Why? Because words and speech have no independent
nature of their own and, when they are no more, you are liberated. This
liberation will free you from all bondage.’
·Khi
ông Duy Ma Cật nói Pháp ấy rồi, hai trăm Thiên tử được Pháp nhãn thanh
tịnh. Vì thế nên con không kham lãnh đến thăm bệnh ông.”—“When Vimalakirti
expounded the Dharma two hundred sons of devas realized the Dharma eye.
Hence I am not qualified to call on him to inquire after his health.”
·PHÚ
LAÂU NA—PURUNA:
·Phật
bảo Phú Lâu Na Di Ða La Ni Tử: “Ông đi đến thăm bệnh ông Duy Ma Cật dùm
tôi.”—The Buddha then said to Purnamaitrayaniputra: “You call on
Vimalakirti to enquire after his health on my behalf.”
·Phú
Lâu Na bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Con không kham lãnh đến thăm bệnh ông ta.
Vì sao? Nhớ lại trước kia con ở trong rừng lớn, dưới cội cây nói Pháp cho
Tỳ Kheo mới học, lúc đó ông Duy Ma Cật đến bảo con: “Thưa Phú Lâu Na!
Ng i nên nhập định trước để quan sát tâm địa của những người nầy, rồi sau
mới nói đến nói Pháp. Ng i chớ đem món ăn dơ để trong bát báu, phải biết
rõ tâm niệm của các vị Tỳ Kheo nầy, chớ cho ngọc lưu ly đồng với thủy
tinh. Ng i không biết được căn nguyên của chúng sanh, chớ nên dùng Pháp
Tiểu Thừa m phát khởi cho họ, những người kia tự không có tì vết, chớ l m
cho họ có tì vết, họ muốn đi đường lớn, chớ chỉ lối nhỏ. Ng i chớ nên đem
biển lớn để v o dấu chơn trâu, chớ cho ánh sáng mặt trời đồng với lửa đom
đóm. Ng i Phú Lâu Na! Những vị Tỳ Kheo nầy đã phát tâm Ðại Thừa từ lâu,
giữa chừng quên lãng, nay sao lại lấy Pháp Tiểu Thừa dẫn dạy họ? Tôi xem
h ng Tiểu Thừa trí huệ cạn cợt cũng như người mù, không phân biệt được căn
tánh lợi độn của chúng sanh—Purnamaitrayaniputra said: “World Honoured
One, I am not qualified to call on him and enquire after his health. This
is because when I was once in a grove and was expunding the Dharma under a
tree to a group of newly initiated bhiksus, Vimalakirti came and said:
“Hey, Purnamaitraynaiputra, you should first enter the state of samadhi to
examine the minds of your listeners before expounding the Dharma to them.
Do not put rotten food in precious bowls. You should know their minds and
do not take their precious crystal for (ordinary) glass. If you do not
know their propensities, do not teach them Hinayana. They have no wounds,
so do not hurt them. To those who want to tread the wide path, do not show
narrow tracks. Do not enclose the great sea in the print of an ox’s foot;
do not liken sunlight to the dim glow of a firefly. Purnamaitryaniputra,
these bhiksus have long ago developed the Mahayana mind but they now
forget all about it; how can you teach them Hinayana? Wisdom as taught by
Hinayana is shallow; it is like a blind man who cannot discern the sharp
from the dull roots of living beings.”
Lúc bấy giờ
ông Duy Ma Cật liền nhập tam muội (chánh định) l m cho những vị Tỳ Kheo đó
biết được kiếp trước của mình đã từng ở nơi 500 Ðức Phật vun trồng các
cội đức, hồi hướng về đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, liền đó rỗng
suốt trở lại đặng bổn tâm Ðại Thừa. Khi ấy các vị Tỳ Kheo cúi đầu đảnh lễ
nơi chơn ông Duy Ma Cật, ông liền nhân đó nói Pháp l m cho tất cả không
còn thối lui nơi đạo Vô thượng Bồ Ðề—At that time, Vimalakirti entered the
state of samadhi and caused the bhiksus to remember their former lives
when they had met five hundred Buddhas and had then planted seeds of
excellent virtues, which they had dedicated to their quest of supreme
enlightenment; they instantly awakened to their past and recovered their
fundamental minds. They at once bowed with their heads at the feet of
Vimalakirti, who then expounded the Dharma to them; they resumed their
quest of supreme enlightenment without backsliding.
Con
nghĩ h ng Thanh Văn như con không quán được căn cơ của người, không nên
nói Pháp. Vì thế con không kham lãnh đến thăm bệnh ông—I think that
Sravakas, who do not know how to look into the roots of their listeners,
should not expound the Dharma. Hence, I am not qualified to call on
Vimalakirti to inquire after his health.
·MA
HA CA CHIÊN DIÊN—MAHAKATYAYANA:
Phật bảo Ma
Ha Ca Chiên Diên: “Ông đến thăm bệnh ông Duy Ma Cật dùm tôi.”—The Buddha
then said to Mahakatyayana: “You go to Vimalakirti to enquire after his
health on my behalf.”
Ca
Chiên Diên bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Con không kham lãnh đến thăm bệnh ông
ta. Vì sao? Nhớ lại lúc trước, Phật nói lược qua yếu chỉ các Pháp cho các
Tỳ Kheo nghe, sau khi đó, con diễn nói lại nghĩa ấy, l những nghĩa vô
thường, khổ, không, vô ngã, v tịch diệt. Lúc bấy giờ ông Duy Ma Cật đến
nói với con rằng: ‘Thưa ng i Ca Chiên Diên! Ng i chớ nên đem tâm hạnh sanh
diệt m nói Pháp thực tướng. Ng i Ca Chiên Diên! Các Pháp rốt ráo không
sanh, không diệt, l nghĩa vô thường, năm ấm rỗng không, không chỗ khởi
nghĩa khổ; các Pháp rốt ráo không có, l nghĩa không; ngã v vô ngã không
hai, l nghĩa vô ngã; Pháp trước không sanh, nay cũng không diệt, l nghĩa
tịch diệt.”—Mahakatyayana said: “World Honoured One, I am not qualified
to call on him and inquire after his health. For once after the Buddha
had expounded the essential aspects of the Dharma to a group of bhiksus, I
followed Him to explain to them the meanings of impermanence, suffering,
voidness, egolessness and nirvana. “Vimalakirti came and said: ‘Hey,
Mahakatyayana, do not use your mortal mind to preach immortal reality.
Mahakatyayana, all things are fundamentally above creation and
destruction; this is what impermanence means. The five aggregates are
perceived as void and not arising; this is what suffering means. All
things are basically non-existent; this is what voidness means. Ego and
its absence are not a duality; this is what egolessness means. All things
basically are not what they seem to be, they cannot be subject to
extinction now; this is what nirvana means.
·Sau
khi ông Duy Ma Cật nói Pháp ấy xong, các Tỳ Kheo kia tâm được giải thoát.
Vì thế, nên con không kham lãnh đến thăm bệnh ông—After Vimalakirti had
expounded the Dharma, the bhiksus present succeeded in liberating their
minds. Hence, I am not qualified to call on him and inquire after his
health.
·A
NA LUẬT—ANIRUDDHA:
·Phật
bảo A Na Luật: “Ông đi đến thăm bệnh ông Duy Ma Cật dùm ta.”—The Buddha
then said to Aniruddha: “You call on Vimalakirti to inquire after his
health on my behalf.”
A
Na Luật bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Con không kham lãnh đến thăm bệnh ông
ta. Vì sao? Nhớ lại lúc trước con đi kinh h nh ở một chỗ nọ, khi ấy có vị
Phạm Vương tên Nghiêm Tịnh, cùng với một muôn Phạm Vương khác, phóng ánh
sáng trong sạch rực rỡ đến chỗ con cúi đầu lễ v hỏi, ‘Thưa ng i A Na
Luật! Thiên nhãn của ng i thấy xa được bao nhiêu?’ Con liền đáp, ‘Nhơn
giả, tôi thấy cõi Tam thiên Ðại thiên Thế giới của Phật Thích Ca Mâu Ni
đây như thấy trái Am ma lặc trong b n tay vậy.’ Lúc đó ông Duy Ma Cật đến
nói với con, ‘Thưa ng i A Na Luật! Thiên nhãn của ng i thấy đó l m ra
tướng m thấy hay l không l m ra tướng m thấy? Nếu như l m ra tướng m
thấy thì khác gì ngũ thông của ngoại đạo? Nếu không l m ra tướng m thấy
thì l vô vi , lẽ ra không thấy chứ?’ Bạch Thế Tôn! Lúc ấy con nín
lặng.”—Aniruddha said: “World Honoured One, I am not qualified to call on
him and inquired after his health. For once when I was walking about
while meditating to prevent sleepiness, a Brahma called, ‘The Gloriously
Pure’, together with an entourage of ten thousand devas sent off rays of
light, came to my place, bowed their heads to salute me and asked: ‘How
far does your deva eye see?’ I replied: ‘Virtuous one, I see the land of
Sakyamuni Buddha in the great chiliocosm like an amala fruit held in my
hand.’ Vimalakirti (suddenly) came and said: ‘Hey, Aniruddha, when your
deva eye sees, does it see form or formlessness? If it sees form, you are
no better than those heretics who have won five supernatural powers. If
you see formlessness, your deva eye is non-active (wu wei) and should be
unseeing.’ “World Honoured One, I kept silent.”
Các
vị Phạm Thiên nghe ông Duy Ma Cật nói lời ấy rồi đặng chỗ chưa từng có,
liền l m lễ hỏi ông rằng: “Bạch ng i ở trong đời ai l người có chơn thiên
nhãn?”—And the devas praised Vimalakirti for what they had not heard
before, They then paid reverence and asked him: ‘Is there anyone in this
world who has realized the real deva eye?”
Trưởng giả
Duy Ma Cật đáp: “Có Phật Thế Tôn được chơn Thiên nhãn, thường ở tam muội,
thấy suốt các cõi Phật không có hai tướng.”—Vimalakirti replied: “There
is the Buddha who has realized the real deva eye; He is always in the
state of samadhi and sees all Buddha lands without (giving rise to) the
duality (of subjective eye and objective form).”
Khi
ấy Nghiêm Tịnh Phạm Vương cùng quyến thuộc năm trăm Phạm Vương đều phát
tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, đảnh lễ dưới chân ông Duy Ma Cật rồi
bỗng nhiên biến mất. Vì thế, con không kham lãnh đến thăm bệnh ông—At that
time, Brahma and five hundred of his relatives developed the
anuttara-samyak-sambodhi mind; they bowed their heads at Vimalakirti’s
feet and suddenly disappeared. This is why I am not qualified to call on
him to inquire after his health.”
·ƯU
BA LI—UPALI:
Phật
bảo Ưu Ba Li: “Ông đi đến thăm bệnh ông Duy Ma Cật dùm ta.”—The Buddha
then said to Upali: “You call on Vimalakirti to inquire after his health
on my behalf.”
Ưu Ba Li
bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Con không kham lãnh đến thăm bệnh ông ta. Vì
sao? Con nhớ lại ng y trước có hai vị Tỳ Kheo phạm luật hạnh, lấy l m hổ
thẹn, không dám hỏi Phật, đến hỏi con rằng, ‘Dạ thưa ng i Ưu Ba Li! Chúng
tôi phạm luật thật lấy l m hổ thẹn, không dám hỏi Phật, mong nhờ ng i giải
rõ chỗ nghi hối cho chúng tôi được khỏi tội ấy.’ Con liền y theo pháp,
giải nói cho hai vị—Upali said: “World Honoured One, I am not qualified to
call on Vimalakirti to inquire after his health. For once, two bhiksus
broke the prohibitions, and being shameful of their sins, they dared not
call on the Buddha. They came to ask me: ‘Upali, we have broken the
commandments and are ashamed of our sins, so we dare not ask the Buddha
about this and come to you. Please teach us the rules of repentance so as
to wipe out our sins.’ I then taught them the rules of repentance.
·Bấy
giờ ông Duy Ma Cật đến nói với con: ‘Thưa ng i Ưu Ba Li, ng i chớ kết thêm
tội cho hai vị Tỳ Kheo nầy, phải trừ dứt ngay, chớ l m rối loạn lòng họ.
Vì sao? Vì tội tánh kia không ở trong, không ở ngo i, không ở khoảng giữa.
Như lời Phật đã dạy: ‘Tâm nhơ nên chúng sanh nhơ, tâm sạch nên chúng sanh
sạch.’ Tâm cũng không ở trong, không ở ngo i, không ở khoảng giữa. Tâm kia
như thế n o, tội cấu cũng như thế ấy. Các pháp cũng thế, không ra ngo i
chơn như. Như ng i Ưu Ba Li, khi tâm tướng được giải thoát thì có tội cấu
chăng?’ Con đáp: ‘Không.” Ông Duy Ma Cật nói: ‘Tất cả chúng sanh tâm tướng
không nhơ cũng như thế! Thưa ng i Ưu Ba Li! Vọng tưởng l nhơ, không vọng
tưởng l sạch; điên đảo l nhơ, không điên đảo l sạch; chấp ngã l nhơ,
không chấp ngã l sạch. Ng i Ưu Ba Li! Tất cả pháp sanh diệt không dừng,
như huyễn, như chớp; các Pháp không chờ nhau cho đến một niệm không dừng;
các Pháp đều l vọng kiến, như chiêm bao, như nắng dợn, như trăng dưới
nước, như bóng trong gương, do vọng tưởng sanh ra. Người n o biết nghĩa
nầy gọi l giữ luật, người n o rõ nghĩa nầy gọi l khéo hiểu.’”—At that
time, Vimalakirti came and said: ‘Hey, Upali, do not aggravate their sins
which you should wipe out at once without further disturbing their minds.
Why? Because the nature of sin is neither within nor without, nor in
between. As the Buddha has said, living beings are impure because their
mind are impure; if their minds are pure, they are all pure. And, mind
also is neither within nor without nor in between. Their minds being
such, so, are their sins. Likewise all things do not go beyond (their )
suchness. Upali, when your mind is liberated, is there any remaining
impurity?’ I replied: ‘There will be no more.’ He said: ‘Likewise, the
minds of all living beings are free from impurities. Upali, false
thoughts are impure and the absence of false thoughts is purity. Inverted
(ideas) are impure and the absence of inverted (ideas) is purity.
Clinging to ego is impure and non-clinging to ego is purity. Upali, all
phenomena rise and fall without staying (for an instant) like an illusion
and lightning. All phenomena do not wait for one another and do not stay
for the time of a thought. They all derive from false views and are like
a dream and a flame, the moon in water, and an image in a mirror for they
are born from wrong thinking. He who understands this is called a keeper
of the rules of discipline and he who knows it is called a skillful
interpreter (of the precepts).’
Lúc
đó hai vị Tỳ Kheo khen rằng: “Thật l bực thượng trí! Ng i Ưu Ba Li nầy
không thể sánh kịp. Ng i l bực giữ luật hơn hết m không nói được.”—At
that time, the two bhiksus declared: ‘What a supreme wisdom which is
beyond the reach of Upali who cannot expound the highest principle of
discipline and morality?’
Con
đáp rằng: “Trừ Ðức Như Lai ra, chưa có bực Thanh Văn v Bồ Tát n o có thể
chế phục được chỗ nhạo thuyết biện t i của ông Duy Ma Cật. Trí tuệ ông
thông suốt không lường.”—I said: ‘Since I left the Buddha I have not met a
sravaka or a Bodhisattva who can surpass his rhetoric, for his great
wisdom and perfect enlightenment have reached such a high degree.’
Khi
ấy, hai vị Tỳ Kheo dứt hết nghi hối, phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh
giác v phát nguyện rằng: “Nguyện l m cho tất cả chúng sanh đều được biện
t i như vậy.” Vì thế nên con không kham lãnh đến thăm bệnh ông—Thereupon,
the two bhiksus got rid of their doubts and repentance, set their mind on
the quest of supreme enlightenment and took the vow to make all living
beings acquire the same power of speech. Hence, I am not qualified to
call on Vimalakirti and inquire after his health.
·LA
HẦU LA—RAHULA:
Phật
bảo La Hầu La: “Ông đi đến thăm bệnh ông Duy Ma Cật dùm ta.”—The Buddha
then said to Rahula: “You go to Vimalakirti to inquire after his health on
my behalf.”
La
Hầu La bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Con không kham lãnh đến thăm bệnh ông ta.
Vì sao? Nhớ lúc trước kia, các trưởng giả tử ở th nh Tỳ Xá Ly đến chỗ con
cúi đầu l m lễ hỏi rằng: ‘Thưa ng i La Hầu La, ng i l con của Phật vì đạo
bỏ ngôi Chuyển Luân Thánh Vương m xuất gia, việc xuất gia đó có những lợi
ích gì?’ Con liền đúng theo Pháp m nói sự lợi ích của công đức xuất gia.
Lúc đó, ông Duy Ma Cật đến nói với con rằng: ‘Thưa La Hầu La! Ng i không
nên nói cái lợi của công đức xuất gia. Vì sao? Không lợi, không công đức,
mới thật l xuất gia. Về Pháp hữu vi có thể nói l có lợi, có công đức,
còn xuất gia l pháp vô vi, trong Pháp vô vi không lợi, không công đức. La
Hầu La! Vả chăng xuất gia l không kia, không đây, cũng không ở chính
giữa; ly sáu mươi hai món kiến chấp, ở nơi Niết B n, l chỗ nhận của người
trí, chỗ l m của bực Thánh, h ng phục các ma, khỏi ngũ đạo, sạch ngũ nhãn,
đặng ngũ lực, lập ngũ căn, không l m não người khác, rời các tạp ác, dẹp
các ngoại đạo, vượt khỏi giả danh, ra khỏi bùn lầy; không bị r ng buộc,
không ngã sở, không chỗ thọ, không rối loạn trong lòng, ưa hộ trợ ý người
khác, tùy thiền định, rời các lỗi. Nếu được như thế mới thật l xuất
gia.’”—Rahula said: “World Honoured One, I am not qualified to call on him
and inquire after his health. For once the sons of the elders at Vaisali
came to my place and bowed to salute me, saying: ‘Rahula, you are the
Buddha’s son and left the throne to search for the truth; what advantage
derives from leaving home? I then spoke of the advantage of earning merits
that so derive. Vimalakirti came and said: “Hey, Rahula, you should not
speak of the advantage of earning merits that derive from leaving home.
Why? Because home-leaving bestows neither advantage nor good merits.
Only when speaking of the worldly (way of life) can you talk about
advantage and merits. For home-leaving is above the worldly, and the
transcendental is beyond advantage and merits. Rahula, home-leaving is
beyond thisness, thatness and in between; is above the sixty-two wrong
views, and abides in (the state of) nirvana. It is praised by all wise
men and practiced by all saints. It overcomes all demons; liberates from
the five realms of existence; purifies the five kinds of eyes; helps
realize the five spiritual powers and sets up the five spiritual
faculties; releases from earthly grievances; keeps from varied evils
(derived from a mixed mind); frees from the unreality of names and terms;
gets out of the mud (of defilement); relieves from all bondages, wipes out
the duality of subject and object and all responsiveness and disturbances;
it gives inner joy; protects all living beings; dwells in serenity and
guards against all wrongs. If all this can be achieved, this is true
home-leaving.’
Khi
ấy ông Duy Ma Cật bảo các trưởng giả tử: “Các ngươi nay ở trong Chánh Pháp
nên cùng nhau xuất gia. Vì sao? Phật ra đời khó gặp.”—Vimalakirti then
said to the sons of the elders: ‘During this period of correct Dharma, you
should leave home to join the Sangha. Why? Because it is very difficult
to have the good fortune of living in the Buddha-age.’
Các trưởng
giả tử nói: “Thưa cư sĩ, chúng tôi nghe Phật dạy ‘Cha mẹ không cho, không
được xuất gia.’”—The sons of the elders replied: ‘Venerable Upasaka, we
have heard the Buddha said that one cannot leave home without the consent
of one’s parents.’
·Ông
Duy Ma Cật nói: “Phải, các ngươi nếu phát tâm Vô thượng Bồ Ðề, đó chính l
xuất gia, đó chính l đủ Giới Pháp.”—Vimalakirti said: ‘Yes, it is so, but
you will really leave home the moment you develop a mind set on the quest
of supreme enlightenment (anuttara-samyak-sambodhi), which completes your
home-leaving.’
Bấy giờ ba
mươi hai vị trưởng giả tử đều phát tâm Vô thượng Bồ đề. Vì thế, nên con
không kham lãnh đến thăm bệnh ông—At that time, all the thirty-two sons of
the elders developed the anuttara-samyak-sambodhi mind. This is why I am
not qualified to call on Vimalakirti and inquire after his health.”
·A
NAN—ANANDA:
·Phật
bảo A Nan: “Ông đi đến thăm bệnh ông Duy Ma Cật dùm ta.”—The Buddha then
said to Ananda: “You call on Vimalakirti and inquire after his health on
my behalf.”
A
Nan bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Con không kham lãnh đến thăm bệnh ông ta. Vì
sao? Nhớ lại lúc trước, Thế Tôn thân hơi có bệnh phải dùng sữa bò, con cầm
bát đến đứng trước cửa nh người Ðại B La Môn. Lúc ấy ông Duy Ma Cật đến
bảo con: ‘N y A Nan! L m gì cầm bát đứng đây sớm thế?’”—Ananda replied:
“World Honoured One, I am not qualified to call on him to inquire after
his health. This is because once when the World Honoured One had a slight
indisposition and needed some cow milk, I took a bowl and went to a
Brahmin family where I stood at the door. Vimalakirti came and asked me:
‘Why are you out so early holding a bowl in your hand?”
Con
đáp: “Cư sĩ, Thế Tôn thân hơi có bệnh phải dùng sữa bò, nên tôi đến đây
xin sữa.”—I replied: ‘Venerable Upasaka, the World Honoured One is
slightly indisposed and wants some cow milk; this is why I have come
here.’
Ông
Duy Ma Cật nói: “Thôi thôi! Ng i A Nan chớ nói lời ấy! Thân Như Lai l thể
kim cang, các ác đã dứt, các l nh khắp nhóm, còn có bệnh gì, còn có não
gì? Im lặng bước đi, ng i A Nan! Chớ có phỉ báng Như Lai, chớ cho người
khác nghe lời nói thô ấy, chớ l m cho các trời oai đức lớn v các Bồ Tát
từ Tịnh Ðộ phương khác đến đây nghe được lời ấy! Ng i A Nan! Chuyển Luân
Thánh Vương có ít phước báu còn không tật bệnh, huống chi Như Lai phước
báu nhiều hơn tất cả đấy ư? Hãy đi ng i A Nan! Chớ l m cho chúng tôi chịu
sự nhục đó, h ng ngoại đạo Phạm chí nếu nghe lời ấy, chắc sẽ nghĩ rằng
‘Sao gọi l Thầy, bệnh của mình không cứu nổi m cứu được bệnh người khác
ư?’ Nên lén đi mau, chớ để cho người nghe! Ng i A Nan! Phải biết thân Như
Lai, chính l Pháp thân, không phải thân tư dục, Phật l bực Thế Tôn hơn
hết ba cõi, thân Phật l vô lậu, các lậu đã hết, thân Phật l vô vi, không
mắc v o các số lượng, thân như thế còn có bệnh gì?”—Vimalakirti said:
‘Stop, Ananda, stop speaking these words. The Tathahata’s body is as
strong as a diamond for He has cut off all evils and has achieved all
good. What kind of indisposition and trouble does He still have? Ananda,
do not slander the Tathagata and do not let other people hear such coarse
language. Do not let the god (devas) as well as the Bodhisattvas of other
pure lands hear about it. Ananda, world ruler (cakravarti) who has
accumulated only a few small merits is already free from all ailments; how
much more so is the Tathagata who has earned countless merits and has
achieved all moral excellences? Go away, Ananda, do not cover us all with
shame. If the Brahmins heard you they would say: “How can this man be a
saviour if he cannot cure his own illness; how can he pretend to heal the
sick?” Get away unnoticed and quickly and do not let others hear what you
have said. Ananda, you should know that the body of the Tathagata is the
Dharmakaya and does not come from (the illusion of) thought and desire.
The Buddha is the World Honoured One (Bhagavat); His body is above and
beyond the three realms (of desire, form and beyond form) and is outside
the stream of transmigratory suffering. The Buddha body is transcendental
(we wei) and is beyond destiny. How then can such a body be ill?’
Bạch
Thế Tôn! Lúc đó con thật quá hổ thẹn không lẽ con gần Phật m nghe lầm ư?
Con liền nghe trên hư không có tiếng nói rằng: “A Nan! Ðúng như lời cư sĩ
đã nói, chỉ vì Phật ứng ra đời ác đủ năm món trược nên hiện ra việc ấy, để
độ thoát chúng sanh thôi. A Nan! Hãy đi lấy sữa chớ có thẹn.”—World
Honoured One, his word covered me with shame and I asked myself if I had
not wrongly understood the Buddha’s order. At that time, a voice was
heard in the air above, saying: ‘Ananda, the Upasaka is right, but since
the Buddha appears in the five kasaya (or periods of turbidity on earth),
He uses this (expedient) method (upaya) to liberate living beings.
Ananda, go and beg for the cow milk without shame.’
Bạch
Thế Tôn! Ông Duy Ma Cật trí tuệ biện t i dường ấy, cho nên con không kham
lãnh đến thăm bệnh ông ta—World Honoured One, Vimalakirti’s wisdom and
power of speech being such, I am really not qualified to call on him to
inquire after his health.”
Như
vậy, năm trăm vị đại đệ tử mỗi người đều đối trước Phật trình b y chỗ bổn
duyên của mình, vị n o cũng khen ngợi, thuật lại những lời của ông Duy Ma
Cật v đều nói: “Không kham lãnh đến thăm bệnh ông ta.”—Thus each of the
five hundred chief disciples related his encounter with Vimalakirti and
declined to call on him to inquire after his health.
CHƯ NG BỐN—CHAPTER FOUR
PHẨM BỒ TÁT—THE BODHISATTVAS
·DI
LẶC BỒ TÁT—MAITREYA:
Lúc bấy giờ
Phật bảo Bồ Tát Di Lặc: “Ông đi đến thăm bệnh ông Duy Ma Cật dùm ta.”—The
Buddha then said to Maitreya Bodhisattva: “You go to Vimalakirti to
inquire after his health on my behalf.”
Di Lặc bạch
Phật: “Bạch Thế Tôn! Con không kham lãnh đến thăm bệnh ông ta. Vì sao? Nhớ
lại lúc trước con nói hạnh ‘bất thối chuyển,’ cho vị Thiên Vương ở cõi
trời Ðâu Suất v quyến thuộc của người, lúc ấy ông Duy Ma Cật đến nói với
con rằng: ‘Ng i Di Lặc! Thế Tôn thọ ký cho ng i một đời sẽ được quả Vô
thượng Chánh đẳng Chánh giác, đó l đời n o m ng i được thọ ký? Ðời quá
khứ chăng? Ðời vị lai chăng? Ðời hiện tại chăng? Nếu l đời quá khứ thời
quá khứ đã qua. Nếu l đời vị lai thời vị lai chưa đến. Nếu l đời hiện
tại thời hiện tại không dừng trụ. Như Phật nói: “Nầy Tỳ Kheo! Như ông ngay
bây giờ cũng sanh, cũng gi , cũng chết!” Nếu dùng vô sanh m được thọ ký,
thì vô sanh tức l chánh vị, ở trong chánh vị cũng không thọ ký, cũng
không được quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Thế n o Di Lặc được thọ ký
một đời ư? L từ “Như” sanh m được thọ ký, m Như không có sanh. Nếu từ
Như diệt được thọ ký, m Như không có diệt. Tất cả chúng sanh đều Như, các
Thánh Hiền cũng Như, cho đến Di Lặc cũng Như. Nếu Di Lặc được thọ ký, tất
cả chúng sanh cũng phải được thọ ký. Vì sao? Vì Như không hai không khác.
Nếu Di Lặc được quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, tất cả chúng sanh
cũng đều được. Vì sao? Tất cả chúng sanh chính l tướng Bồ Ðề. Nếu Di Lặc
được diệt độ, tất cả chúng sanh cũng phải diệt độ. Vì sao? Chư Phật biết
tất cả chúng sanh rốt ráo vắng lặng, chính l tướng Niết B n, chẳng còn
diệt nữa. Cho nên Di Lặc, chớ dùng pháp đó dạy bảo các Thiên tử, thật
không có chi phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, cũng không có chi
thối lui. Ng i Di Lặc! Phải l m cho các vị Thiên tử nầy bỏ chỗ kiến chấp
phân biệt Bồ Ðề. Vì sao? Bồ Ðề không thể dùng thân được, không thể dùng
tâm được. Tịch diệt l Bồ Ðề, vì diệt các tướng; chẳng nhận xét l Bồ Ðề,
vì ly các duyên; chẳng hiện hạnh l Bồ Ðề, vì không ghi nhớ; đoạn l Bồ
Ðề, vì bỏ các kiến chấp; ly l Bồ Ðề, vì lìa các vọng tưởng; chướng l Bồ
Ðề, vì ngăn các nguyện; bất nhập l Bồ Ðề, vì không tham đắm; thuận l Bồ
Ðề, vì thuận chơn như; trụ l Bồ Ðề, vì trụ pháp tánh; đến l Bồ Ðề, vì
đến thực tế; bất nhị l Bồ Ðề, vì ly ý pháp; bình đẳng l Bồ Ðề, vì đồng
hư không; vô vi l Bồ Ðề, vì không sanh trụ dị diệt; tri l Bồ Ðề, vì rõ
tâm hạnh chúng sanh; không hội l Bồ Ðề, vì nhập không nhóm; không hiệp l
Bồ Ðề, vì rời tập khí phiền não; không xứ sở l Bồ Ðề, vì không hình sắc;
giả danh l Bồ Ðề, vì danh tự vốn không như; huyễn hóa l Bồ Ðề, vì không
thủ xả; không loạn l Bồ Ðề, vì thường tự vắng lặng; thiện tịch l Bồ Ðề,
vì tánh thanh tịnh; không thủ l Bồ Ðề, vì rời phan duyên; không khác l
Bồ Ðề, vì các Pháp đồng đẳng; không sánh l Bồ Ðề, vì không thể thí dụ; vi
diệu l Bồ Ðề, vì các Pháp khó biết—Maitreya replied: “World Honoured One,
I am not qualified to call on him and inquire after his health. The reason
is that once when I was expounding to the deva-king and his retinue in the
Tusita heaven the never-receding stage (of Bodhisattva development into
Buddhahood) Vimalakirti came and said to me: ‘Maitreya, when the World
Honoured One predicted your future attainment of supreme enlightenment
(anuttara-sayak-sambodhi) in one lifetime, tell me in which life, whether
in the past, future or present, did or will you receive His prophecy? If
it was in your past life, that has gone; if it will be in your future
life, that has not yet come; and if it is in your present life, that does
not stay. As the Buddha once said: ‘O bhiksus, you are born, are aging
and are dying simultaneously at this very moment’; if you received His
prophecy in a lifeless (state), the latter is prediction (of your future
Buddhahood) nor realization of supreme enlightenment. How then did you
receive the prediction of your attainment of Buddhahood in one lifetime?
Or did you receive it in the absolute state (thatness or tathata) of
either birth or death? If you receive it in the absolute state of birth,
this absolute state is uncreated. If you receive it in the absolute state
of death, this absolute state does not die. For (the underlying nature
of) all living beings and of all things is absolute; all saints and sages
are in this absolute state, and so, also are you, Maitreya. So, if you,
Maitreya, received the Buddhahood, all living beings (who are absolute by
nature) should also receive it. Why? Because that which is absolute is
non-dual and is beyond differentiation. If you, Maitreya, realize supreme
enlightenment, so should all living beings. Why? Because they are the
manifestation of bodhi (enlightenment). If you, Maitreya, win nirvana,
they should also realize it. Why? Because all Buddhas know that every
living being is basically in the condition of extinction of existence and
suffering which is nirvana, in which there can be no further extinction of
existence. Therefore, Maitreya, do not mislead the devas because there is
neither development of supreme bodhi-mind nor its backsliding. Maitreya,
you should instead urge them to keep from discriminating views about bodhi
(enlightenment). Why? Because bodhi can be won by neither body nor
mind. For bodhi is the state of calmness and extinction of passion (i.e.
nirvana) because it wipes out all forms. Bodhi is unseeing, for it keeps
from all causes. Bodhi is non-discrimination, for it stops memorizing and
thinking. Bodhi cuts off ideation, for it is free from all views. Bodhi
forsakes inversion, for it prevents perverse thoughts. Bodhi puts an end
to desire, for it keeps from longing. Bodhi is unresponsive, for it wipes
out all clinging. Bodhi complies (with self-nature), for it is in line
with the state of suchness. Bodhi dwells (in this suchness), for it abides
in (changeless) Dharma-nature (or Dharmata, the underlying nature of all
things.) Bodhi reaches this suchness, for it attains the region of
reality. Bodhi is non-dual, for it keeps from (both) intellect and its
objects. Bodhi is impartial, for it is equal to boundless space. Bodhi
is the non-active (we wei) state, for it is above the conditions of birth,
existence and death. Bodhi is true knowledge, for it discerns the mental
activities of all living beings. Bodhi does not unite, for it is free
from all confrontation. Bodhi disentangles, for it breaks contact with
habitual troubles (klesa). Bodhi is that of which the position cannot be
determined, for it is beyond form and shape, and is that which cannot be
called by name for all names (have no independent nature and so) are
void. Bodhi is like the mindlessness of an illusory man, for it neither
accepts nor rejects anything. Bodhi is beyond disturbance, for it is
always serene by itself. Bodhi is real stillness, because of its pure and
clean nature. Bodhi is non-acceptance, for it keeps from causal
attachments. Bodhi is non-differentiating, because of its impartiality
towards all. Bodhi is without compare, for it is indescribable. Bodhi is
profound and subtle, for although unknowing, it knows all.’
Bạch Thế
Tôn! Khi ông Duy Ma Cật nói Pháp ấy, hai trăm vị Thiên tử chứng được Vô
sanh pháp nhẫn. Vì thế, nên con không kham lãnh đến thăm bệnh ông ta—World
Honoured One, when Vimalakirti so expounded the Dharma, two hundred sons
of devas realized the patient endurance of the uncreate
(anutpattika-dharma-ksanti). This is why I am not qualified to call on
him and inquire after his health.”
·BỒ
TÁT QUANG NGHIÊM—GLORIOUS LIGHT:
Phật bảo
Ðồng tử Quang Nghiêm: “Ông đi đến thăm bệnh ông Duy Ma Cật dùm ta.”—The
Buddha then said to the Bodhisattva Glorious Light: “You go to Vimalakirti
to inquire after his health on my behalf.”
Quang
Nghiêm bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Con không kham lãnh đến thăm bệnh ông ta.
Vì sao? Nhớ lại ng y trước con ở trong th nh Tỳ Xá Ly vừa ra, lúc đó ông
Duy Ma Cật mới v o th nh, con liền ch o v hỏi rằng: “Cư sĩ từ đâu đến
đây?”—Glorious Light replied: “World Honoured One, I am not qualified to
call on him to inquire after his health. The reason is that once while I
was leaving Vaisali, I met Vimalakirti who was entering it. I saluted and
asked him ‘Where does the Venerable Upasaka come form?
Ông đáp:
“Tôi từ Ðạo tr ng đến.”—He replied: ‘From a bodhimandala (a holy site).’
Con hỏi:
“Ðạo tr ng ở đâu?”—I asked him: ‘Where is this bodhimandala?’
Ông đáp:
“Trực tâm l Ðạo tr ng, vì không hư dối; phát hạnh l Ðạo tr ng, vì l m
xong các việc; thâm tâm l đạo tr ng, vì thêm nhiều công đức; Bồ Ðề tâm l
đạo tr ng, vì không sai lầm; bố thí l đạo tr ng, vì không mong phước báu;
trì giới l đạo tr ng, vì được nguyện đầy đủ; nhẫn nhục l đạo tr ng, vì
đối chúng sanh tâm không chướng ngại; tinh tấn l đạo tr ng, vì không
biếng trễ; thiền định l đạo tr ng, vì tâm điều nhu; trí huệ l đạo tr ng,
vì thấy rõ các Pháp; từ l đạo tr ng, vì đồng với chúng sanh; bi l đạo
tr ng, vì nhẫn chịu sự khổ nhọc; hỷ l đạo tr ng, vì ưa vui Chánh Pháp; xả
l đạo tr ng, vì trừ lòng thương ghét; thần thông l đạo tr ng, vì th nh
tựu Pháp lục thông; giải thoát l đạo tr ng, vì giáo hóa chúng sanh; tứ
nhiếp l đạo tr ng, vì nhiếp độ chúng sanh; đa văn l đạo tr ng, vì đúng
theo chỗ nghe m thực h nh; phục tâm l đạo tr ng, vì chánh quán các Pháp;
ba mươi bảy phẩm trợ đạo l đạo tr ng, vì bỏ Pháp hữu vi; tứ đế l đạo
tr ng, vì chẳng dối lầm thế gian; duyên khởi l đạo tr ng, vì từ vô minh
cho đến lão tử đều không hết; các phiền não l đạo tr ng, vì biết l vô
ngã; tất cả các Pháp l đạo tr ng, vì biết các Pháp vốn không; h ng ma l
đạo tr ng, vì không lay động; tam giới l đạo tr ng, vì không chỗ đến; sư
tử hống l đạo tr ng, vì không sợ sệt; thập lực, vô úy, bất cộng pháp l
đạo tr ng, vì không các lỗi; tam minh l đạo tr ng, vì không còn ngại; một
niệm biết tất cả các Pháp l đạo tr ng, vì th nh tựu nhứt thiết chủng trí.
Như vậy Thiện nam tử! Nếu Bồ Tát đúng theo các Pháp Ba la mật m giáo hóa
chúng sanh, thời bao nhiêu việc l m, hoặc nhứt cử nhứt động, phải biết đều
l từ nơi đạo tr ng m ra, ở nơi Phật Pháp vậy—He replied: ‘The
straightforward mind is the bodhimandala, for it is free from falsehood.
The initiated mind is the bodhimandala, for it can keep discipline. The
profound mind is the bodhimandala, for it accumulates merits. The
enlightened mind is the bodhimandala, for it is infallible. Charity
(dana) is the bodhimandala, for it does not expect reward. Discipline
(sila) is the bodhimandala, for it fulfills all vows. Patience (ksanti) is
the bodhimandala for it has access to the minds of all living beings.
Zeal (virya) is the bodhimandala, for it is free from being remiss.
Serenity (dhyana) is the bodhimandala, because of its harmonious mind.
Wisdom (prajna) is the bodhimandala, for it discerns all things. Kindness
(maitri) is the bodhimandala, for it treats all living beings on an equal
footing. Compassion (karuna) is the bodhimandala, because of its great
forbearance. Joy (mudita) is the bodhimandala, for it is pleasant.
Indifference (upeksa) is the bodhimandala, for it wipes out both love and
hate. Transcendental efficiency is the bodhimandala, for it perfects all
the six supernatural powers (sadabhijna). Liberation is the bodhimandala,
for it turns its back to all phenomenal conditions. Expedient devices
(upaya) are the bodhimandala, for they teach and convert living beings.
The four winning actions of a Bodhisattva are the bodhimandala, for they
benefit all living beings. Wide knowledge through hearing the Dharma is
the bodhimandala, for its practice leads to enlightenment. Control of the
mind is the Bodhimandala, because of its correct perception of all
things. The thirty-seven contributory stages to enlightenment are the
bodhimandala, for they keep from all worldly activities. The four noble
truths are the bodhimandala, because they do not deceive. The twelve links
in the chain of existence are the bodhimandala, because of their
underlying nature which is infinite. Troubles (klesa) are the
bodhimandala, for their underlying nature is reality. Living beings are
the bodhimandala, because they are (basically) egoless. All things are the
bodhimandala, for they are empty. The defeat of demons is the
bodhimandala, for it is imperturbable. The three realms (of desire, form
and beyond form) are the bodhimandala, for fundamentally they lead to no
real destination. The lion’s roar is the bodhimandala, because of its
fearlessness. The ten powers (dasabla), the four kinds of fearlessness and
the eighteen unsurpassed characteristics of the Buddha are the
bodhimandala, for they are without fault. The three insights are the
bodhimandala, for they are free from all remaining hindrances. The
knowledge of all things in the time of a thought is the bodhimandala, for
it brings omniscience (sarvajna) to perfection. Thus, son of good family,
a Bodhisattva should convert living beings according to the various modes
of perfection (paramitas) and all his acts, including the raising or
lowering of a foot, should be interpreted as coming from the seat of
learning (bodhimandala); he should thus stay within the Buddha Dharma.’
Khi
ông Duy Ma Cật nói Pháp ấy, năm trăm vị Thiên nhơn đều phát tâm Vô thượng
Chánh đẳng Chánh giác. Vì thế, nên con không kham lãnh đến thăm bệnh ông
ta—While Vimalakirti was thus expounding the Dharma, five hundred devas
developed their minds set on supreme enlightenment. This is why I am not
qualified to call on him to inquire after his health.”
·BỒ
TÁT TRÌ THẾ—BODHISATTVA RULER OF THE WORLD:
Phật bảo Bồ
Tát Trì Thế: “Ông đi đến thăm bệnh ông Duy Ma Cật dùm ta.”—The Buddha then
said to the Bodhisattva Ruler of the World: “You call on Vimalakirti to
inquire after his health on my behalf.”
Bồ
Tát Trì Thế bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Con không kham lãnh đến thăm bệnh
ông ta. Vì sao? Nhớ lại lúc trước, con ở nơi tịnh thất, bấy giờ Ma Ba Tuần
đem một muôn hai ng n Thiên nữ giống như trời Ðế Thích, trỗi nhạc đờn ca
đi đến chỗ con ở, Ma cùng với quyến thuộc cúi đầu l m lễ dưới chân con,
chắp tay cung kính đứng sang một bên. Trong ý con cho l trời Ðế Thích nên
bảo rằng: “L nh thay, mới đến Kiều Thi Ca! Dù l có phước chớ nên buông
lung. Ông nên quán ngũ dục l vô thường để cầu cội l nh, ở nơi thân mạng,
t i sản m tu Pháp bền chắc.”—Ruler of the World replied: “World Honoured
One, I am not qualified to call on him and inquire after his health. I
still remember that once as I was staying in a vihara, a demon like Indra
appeared followed by twelve thousand goddesses (devakanya) playing music
and singing songs. After bowing their heads at my feet they brought their
palms together and stood at my side. I mistook the demon for Sakra and
said to him: ‘Welcome, Sakra, although you have won merits, you should
guard against passion (arising from music, song and sex). You should look
into the five desires (for the objects of the five senses) in your
practice of morality. You should look into the impermanence of body, life
and wealth in your quest of indestructible Dharma (i.e. boundless body,
endless life and inexhaustible spiritual wealth.).’
Ma
vương nói với con: “Thưa Chánh sĩ! Xin ng i nhận một muôn hai ng n Thiên
nữ nầy để dùng hầu hạ quét tước.” Con nói rằng: “Nầy Kiều Thi Ca! Ông đừng
cho vật phi pháp nầy, tôi l kẻ Sa Môn Thích tử, việc ấy không phải việc
của tôi.” Nói chưa dứt lời, bỗng ông Duy Ma Cật đến nói với con: “Ðây
chẳng phải l Ðế Thích, m l Ma đến khuấy nhiễu ông đấy!” Ông lại bảo Ma
rằng: “Các vị Thiên nữ nầy nên đem cho ta, như ta đây mới nên thọ.”—He
said: ‘Bodhisattva, please take these twelve thousand goddesses who will
serve you.’ I replied: ’Sakra, please do not make to a monk this unclean
offering which does not suit me.’ “Even before I had finished speaking,
Vimalakirti came and said: ‘He is not Sakra; he is a demon who comes to
disturb you.’ He then said to the demon: ‘You can give me these girls and
I will keep them.’
Ma
sợ hãi nghĩ rằng: “Có lẽ ông Duy Ma Cật đến khuấy rối ta chăng?” Ma muốn
ẩn hình m không thể ẩn, ráng hết thần lực, cũng không đi được. Liền nghe
giữa hư không có tiếng rằng: “Nầy Ba Tuần! Hãy đem Thiên nữ cho ông Duy Ma
Cật thì mới đi được. Ma vì sợ hãi, nên miễn cưỡng cho—The demon was
frightened, and being afraid that Vimalakirti might give him trouble, he
tried to make himself invisible but failed, and in spite of his use of
supernatural powers, he could not go away. Suddenly a voice was heard in
the air, saying: ‘Demon, give him the girls and then you can go.’ Being
scared, he gave the girls.’
r)
Khi ấy ông Duy Ma Cật
bảo các Thiên nữ rằng: “Ma đã đem các ngươi cho ta rồi, nay các ngươi đều
phải phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Rồi ông theo căn cơ của
Thiên nữ m nói Pháp để cho phát ý đạo, v bảo rằng ‘các ngươi đã phát ý
đạo, có Pháp vui để tự vui chớ nên vui theo ngũ dục nữa.’” Thiên nữ hỏi:
“Thế n o l Pháp vui?”—At that time, Vimalakirti said to them: “The demon
has given you to me. You can now develop a mind set on the quest of
supreme enlightenment.” Vimalakirti then expounded the Dharma to them
urging them to seek the truth. He declared: ‘You have now set your minds
on the quest for the truth and can experience joy in the Dharma instead of
in the five worldly pleasures (arising from the objects of the five
senses).’ “They asked him: ‘What is this joy in the Dharma?’
·Ông
đáp: “Vui thường tin Phật; vui muốn nghe pháp; vui cúng dường Tăng; vui
lìa ngũ dục; vui quán ngũ ấm như oán tặc; vui quán thân tứ đại như rắn
độc; vui quán nội nhập (sáu căn) như không; vui gìn giữ đạo ý; vui lợi
ích chúng sanh; vui cung kính cúng dường bực sư trưởng; vui nhẫn nhục nhu
hòa; vui siêng nhóm căn l nh; vui thiền định chẳng loạn; vui rời cấu nhiễm
đặng trí tuệ sáng suốt; vui mở rộng tâm Bồ Ðề; vui h ng phục các ma; vui
đoạn phiền não; vui thanh tịnh cõi nước Phật; vui th nh tựu các tướng tốt
m tu các công đức; vui trang nghiêm đạo tr ng; vui nghe pháp thâm diệu m
không sợ; vui ba môn giải thoát m không vui phi thời; vui gần bạn đồng
học; vui ở chung với người không phải đồng học m lòng thương không chướng
ngại; vui giúp đỡ ác tri thức; vui gần thiện tri thức; vui tâm hoan hỷ
thanh tịnh; vui tu vô lượng Pháp đạo phẩm. Ðó l Pháp vui của Bồ Tát—“He
replied: ‘Joy in having faith in the Buddha; joy in listening to the
Dharma; joy in making offerings to the Sangha; and joy in forsaking the
five worldly pleasures; joy in finding out that the five aggregates are
like deadly enemies; that the four elements (that make the body) are like
poisonous snakes; and that the sense organs and their objects are empty
like space; joy in following and upholding the truth; joy in being
beneficial to living beings; joy in revering and making offerings to your
masters; joy in spreading the practice of charity (dana); joy in firmly
keeping the rules of discipline (sila); joy in forbearance (ksanti); joy
in unflinching zeal (virya) to sow all excellent roots; joy in unperturbed
serenity (dhyana); joy in wiping out all defilement that screens clear
wisdom (prajna); joy in expanding the enlightened (bodhi) mind; joy in
overcoming all demons; joy in eradicating all troubles (klesa); joy in
purifying the Buddha land; joy in winning merits from excellent physical
marks; joy in embellishing the bodhimandala (the holy site); joy in
fearlessness to hear (and understand ) the profound Dharma; joy in the
three perfect doors to nirvana (i.e. voidness, formlessness and
inactivity) as contrasted with their incomplete counterparts (which still
cling to the notion of objective realization); joy of being with those
studying the same Dharma and joy in the freedom from hindrance when
amongst those who do not study it; joy to guide and convert evil men and
to be with men of good counsel; joy in thestat of purity and cleanness;
joy in the practice of countless conditions contributory to enlightenment.
All this is the Bodhisattva joy in the Dharma.’
Khi ấy Ma
Ba Tuần bảo các Thiên nữ rằng: “Ta muốn cùng các ngươi trở về Thiên
cung.”—At that time, the demon said to the girls: ‘I want you all to
return with me to our palace.’
Các Thiên
nữ đáp: “Ông đã đem chúng tôi cho Cư sĩ, chúng tôi có pháp vui, chúng tôi
vui lắm, không còn muốn vui theo ngũ dục nữa.”—The girls replied: ‘While
we are here with the Venerable Upasaka, we delight in the joy of the
Dharma; we no longer want the five kinds of worldly pleasures.’
Ma liền
thưa với ông Duy Ma Cật rằng: “Xin ng i nên xả các Thiên nữ nầy; người đem
tất cả vật của mình để bố thí cho kẻ khác, đó mới l Bồ Tát—The demon then
said to Vimalakirti: ‘Will the Upasaka give away all these girls, as he
who gives away everything to others is a Bodhisattva?’
Ông Duy Ma
Cật nói: “Ta đã xả rồi, ngươi hãy đem đi. Như thế ta đã l m cho tất cả
chúng sanh đặng phát nguyện đầy đủ.”—Vimalakirti said: ‘I now give up all
of them and you can take them away so that all living beings can fulfill
their vows to realize the Dharma.’
Lúc ấy các
Thiên nữ hỏi ông Duy Ma Cật rằng: “Chúng tôi l m thế n o ở nơi cung
ma?”—The girls then asked Vimalakirti: ‘What should we do while staying at
the demon’s palace?’
Ông Duy Ma
Cật đáp: “N y các chị, có Pháp môn tên l Vô Tận Ðăng, các chị nên học. Vô
tận đăng l ví như một ngọn đèn mồi đốt trăm ng n ngọn đèn, chỗ tối đều
sáng, sáng mãi không cùng tận. Như thế đó các chị! Vả lại một vị Bồ Tát mở
mang dẫn dắt trăm ng n chúng sanh phát tâm Bồ Ðề, đạo tâm của mình cũng
chẳng bị tiêu mất, tùy nói Pháp gì đều thêm lợi ích cho các Pháp l nh, đó
gọi l Vô Tận Ðăng. Các chị dầu ở cung ma m dùng Pháp môn Vô Tận Ðăng nầy
l m cho vô số Thiên nữ phát tâm Vô thượng Chánh Ðẳng Chánh giác, đó l báo
ơn Phật, cũng l l m lợi ích cho tất cả chúng sanh.”—Vimalakirti replied:
‘Sisters, there is a Dharma called the Inexhaustible Lamp, which
you should study and practice. For instance, a lamp can (be used to) light
up hundreds and thousands of other lamps; darkness will thus be bright and
this brightness will be inexhaustible. So, sisters, a Bodhisattva should
guide and convert hundreds and thousands of living beings so that they all
develop the mind set on supreme enlightenment; thus his deep thought (of
enlightening others) is, likewise, inexhaustible. This teaching of the
Dharma will then increase in all excellent Dharmas; this is called the
Inexhaustible Lamp. Although you will be staying at the demon’s palace
you should use this Inexhaustible Lamp to guide countless sons and
daughters of devas to develop their minds set on supreme enlightenment, in
order to repay your debt of gratitude to the Buddha, and also for the
benefit of all living beings.’
Bấy giờ các
Thiên nữ cúi đầu đảnh lễ dưới chân ông Duy Ma Cật rồi theo Ma Ba Tuần trở
về Thiên cung, bỗng nhiên biến mất không còn thấy nữa—The devas’ daughters
bowed their heads at Vimalakirti’s feet and followed the demon to return
to his palace and all of a sudden they vanished.”
Bạch Thế
Tôn! Ông Duy Ma Cật có thần lực tự tại v trí tuệ biện t i như thế, nên
con không kham lãnh đến thăm bệnh ông ta—World Honoured One, since
Vimalakirti possesses such supernatural power, wisdom and eloquence, I am
not qualified to call on him to inquire after his health.”
·TRƯỞNG
GIẢ TỬ THIỆN ÐỨC—EXCELLENT VIRTUE:
Phật bảo
trưởng giả tử Thiện Ðức: “Ông đi đến thăm bệnh ông Duy Ma Cật dùm ta.”—The
Buddha then said to a son of an elder called Excellent Virtue: “You call
on Vimalakirti to inquire his health on my behalf.”
Thiện Ðức
bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Con không kham lãnh đến thăm bệnh ông ta. Vì
sao? Nhớ lại thuở trước, con lập ra hội đại thí ở nh cha con, hạn trong
bảy ng y để cúng dường cho tất cả các vị Sa Môn, B la môn, cùng h ng
ngoại đạo, kẻ nghèo khó, hèn hạ, cô độc v kẻ ăn xin. Bấy giờ ông Duy Ma
Cật đến trong hội nói với con rằng, ‘Nầy trưởng giả tử! Vả chăng hội đại
thí không phải như hội của ông lập ra đâu, phải l m hội Pháp thí chớ lập
ra hội t i thí n y l m gì?”—Excellent Virtue said: “World Honoured One, I
am not qualified to call on him to inquire after his health. The reason
is that once I held a ceremonial meeting at my father’s house to make
offerings to the gods and also to monks, brahmins, poor people, outcastes
and beggars. When the meeting ended seven days later, Vimalakirti came
and said to me: ‘O son of the elder, an offering meeting should not be
held in the way you did; it should bestow the Dharma upon others, for what
is the use of giving alms away?’
Con nói:
“Thưa Cư sĩ! Sao gọi l hội Pháp thí?”—I asked: ‘Venerable Upasaka, what
do you mean by bestowal of Dharma?’
Ông đáp:
“Hội Pháp thí l đồng thời cúng dường tất cả chúng sanh, không trước không
sau đó l hội Pháp thí.”—He replied: ‘The bestowal of Dharma is (beyond
the element of time, having) neither start nor finish and each offering
should benefit all living beings at the same time. This is a bestowal of
Dharma.’
Con hỏi:
“Thế l nghĩa gì?”—I asked: ‘What does this mean?’
Cư sĩ đáp:
“Nghĩa l vì đạo Bồ Ðề, khởi từ tâm; vì cứu chúng sanh , khởi tâm đại bi;
vì muốn giữ gìn Chánh Pháp, khởi tâm hoan hỷ; vì nhiếp trí tuệ, l m theo
tâm xả; vì nhiếp tâm tham lẫn, khởi bố thí Ba la mật; vì độ kẻ phạm giới,
trì giới Ba la mật; vì không ngã pháp, khởi nhẫn nhục Ba la mật; vì rời
tướng thân tâm, khởi tinh tấn Ba la mật; vì tướng Bồ Ðề, khởi thiền định
Ba la mật; vì nhứt thiết trí, khởi trí tuệ Ba la mật; vì giáo hóa chúng
sanh m khởi ra ‘Không;’ chẳng bỏ Pháp hữu vi m khởi ‘vô tướng;’ thị hiện
thọ sanh, m khởi ‘vô tác;’ hộ trì Chánh Pháp, khởi sức phương tiện; vì độ
chúng sanh, khởi tứ nhiếp pháp; vì kính thờ tất cả, khởi pháp trừ khinh
mạn; đối thân mạng v t i sản, khởi ba pháp bền chắc; trong pháp lục niệm,
khởi ra pháp nhớ tưởng; ở sáu pháp hòa kính, khởi tâm chất trực; chơn
chánh thực h nh thiện pháp, khởi sự sống trong sạch; vì tâm thanh tịnh
hoan hỷ, khởi gần bực Thánh hiền; vì chẳng ghét người dữ, khởi tâm điều
phục; vì pháp xuất gia, khởi thâm tâm ; vì đúng theo chỗ nói m l m khởi
đa văn; vì pháp vô tránh, khởi chỗ yên lặng; vì đi tới Phật huệ, khởi ra
ngồi yên lặng (tọa thiền); vì mở r ng buộc cho chúng sanh, khởi tâm tu
h nh; vì đầy đủ tướng tốt v thanh tịnh cõi Phật, khởi sự nghiệp phước
đức; vì muốn biết tâm niệm tất cả chúng sanh đúng chỗ nên nói pháp, khởi
ra nghiệp trí; vì biết tất cả pháp không lấy không bỏ, v o môn nhứt tướng,
khởi ra nghiệp huệ; vì đoạn tất cả phiền não, tất cả chướng ngại, tất cả
bất thiện, khởi l m tất cả pháp trợ Phật đạo. Như vậy thiện nam tử! Ðó l
hội Pháp Thí. Nếu Bồ Tát trụ nơi hội Pháp thí đó, l vị đại thí chủ, cũng
l phước điền cho tất cả thế gian.”—He replied: ‘This means that bodhi
springs from kindness (maitri) toward living beings; the salvation of
living beings springs from compassion (karuna); the upholding of right
Dharma from joy (mudita); wisdom from indifference (upeksa); the
overcoming of greed from charity–perfection (dana-parmita); ceasing to
break the precepts from discipline-perfection (sila-paramita);
egolessness from patience-perfection (ksanti-paramita); relinquishment of
body and mind from zeal-perfection (virya-paramita); realization of
enlightenment from serenity-perfection (dhyana-paramita); realization of
all-knowledge (sarvajna) from wisdom–perfection (prajna-paramita); the
teaching and converting of living beings spring from the void;
non-rejection of worldly activities springs from formlessness; appearance
in the world springs from inactivity; sustaining the right Dharma from the
power of expedient devices (upaya); the liberation of living beings from
the four winning virtues; respect for and service to others from the
determination to wipe out arrogance; the relinquishment of body, life and
wealth from the three indestructibles; the six thoughts to dwell upon from
concentration on the Dharma; the six points of reverent harmony in a
monastery form the straightforward mind; right deeds from pure livelihood;
joy in the pure mind from nearness to saints and sages; non-rising of hate
for bad people from the effective control of mind; retiring from the world
from the profound mind; practice in accordance with the preaching from the
wide knowledge gained from hearing (about the Dharma); absence of
disputation from a leisurely life; the quest of Buddha wisdom from
meditation; the freeing of living beings from bondage from actual
practice; the earning of all excellent physical marks to embellish Buddha
lands from the karma of mortal excellence; the knowledge of the minds of
all living beings and the relevant expounding of Dharma to them, from the
karma of good knowledge; the understanding of all things commensurate with
neither acceptance nor rejection of them to realize their oneness, from
the karma of wisdom; the eradication of all troubles (klesa), hindrances
and evils from all excellent karmas; the realization of all wisdom and
good virtue from the contributory conditions leading to enlightenment.
All this, son of good family, pertains to the bestowal of Dharma. A
Bodhisattva holding this meeting that bestows the Dharma, is a great
almsgiver (danapati); he is also a field of blessings for all worlds.’
Bạch Thế
Tôn! Khi ông Duy Ma Cật nói pháp ấy, trong chúng B la môn hai trăm người
đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác—World Honoured One, as
Vimalakirti was expounding the Dharma, two hundred Brahmins who listened
to it, set their minds on the quest of supreme enlightenment.
Lúc đó tâm
con đặng thanh tịnh, ngợi khen chưa từng có, cúi đầu đảnh lễ dưới chơn ông
Duy Ma Cật. Con liền mở chuỗi Anh Lạc giá đáng trăm ng n lượng v ng dâng
lên, ông không chịu lấy. Con nói: “Thưa cư sĩ! Xin ng i hãy nạp thọ, tùy ý
Ng i cho!” Ông Duy Ma Cật liền lấy chuỗi Anh Lạc chia l m hai phần, một
phần đem cho người ăn xin hèn hạ nhứt trong hội, còn một phần đem dâng cho
Ðức Nan Thắng Như Lai. Tất cả chúng trong hội đều thấy cõi nước Quang Minh
v Ðức Nan Thắng Như Lai, lại thấy chuỗi Anh Lạc ở trên đức Phật kia biến
th nh bốn trụ đ i quý báu, bốn mặt đều trang nghiêm rực rỡ không ngăn che
nhau—I myself realized purity and cleanliness of mind, which I had never
experienced before. I then bowed my head at his feet and took out my
priceless necklace of precious stones, which I offered to him but he
refused it. I then said: ‘Venerable Upasaka, please accept my present and
do what you like with it.’ He took my necklace and divided it in two,
offering half to the poorest beggar in the assembly and the other half to
the ‘Invincible Tathagata’, whose radiant land was then visible to all
those present, who saw the half-necklace transformed into a precious tower
in all its majesty on four pillars which did not shield one another.
Sau khi ông
Duy Ma Cật hiện thần biến xong, lại nói rằng: “Nếu người thí chủ dùng tâm
bình đẳng thí cho một người ăn xin rất hèn hạ xem cũng như tướng phước
điền của Như Lai, không phân biệt, lòng đại bi bình đẳng, không cầu quả
báo, đó gọi l đầy đủ Pháp thí vậy.”—After this supernatural
transformation, Vimalakirti said: ‘He who gives alms to the poorest
beggar with an impartial mind performs an act which does not differ from
the field of blessings of the Tathagata, for it derives from great
compassion with no expectation of reward. This is called the complete
bestowal of Dharma.’
Trong th nh
những người ăn xin hèn hạ nhất thấy thần lực như vậy v nghe lời nói kia,
đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vì thế nên con không kham
lãnh đến thăm bệnh ông Duy Ma Cật—After witnessing Vimalakirti’s
supernatural power, the poorest beggar who had also listened to his
expounding of the Dharma developed a mind set on supreme enlightenment.
Hence, I am not qualified to call on Vimalakirti to inquire after his
health.”
Như thế,
các Bồ Tát đều tuần tự đến trước Phật trình b y chỗ bổ duyên của mình, vị
n o cũng khen ngợi, thuật lại những lời ông Duy Ma Cật v đều nói: “Không
kham lãnh đến thăm bệnh ông.”—Thus, each of the Bodhisattvas present
related his encounter with Vimalakirti and declined to call on him to
inquire after his health.
CHƯ NG NĂM—CHAPTER FIVE
PHẨM VĂN THÙ SƯ LỢI—MANJUSRI’S
CALL ON VIMALAKIRTI
Lúc bấy giờ
Phật bảo Văn Thù Sư Lợi: “Ông đi đến thăm bệnh ông Duy Ma Cật dùm ta.”—The
Buddha then said to Manjusri: “You call on Vimalakirti to inquire after
his health.”
Văn Thù Sư
Lợi bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Bực thượng nhơn kia khó bề đối đáp, vì ông
ấy rất thâm đạt thực tướng, khéo nói pháp mầu, trí tuệ vô ngại, biện t i
thông suốt, rõ thấu phương pháp tu trì của tất cả Bồ Tát, thâm nhập kho
tạng bí mật của chư Phật, h ng phục các ma, thần thông tự tại v trí tuệ
phương tiện đều được rốt ráo. Tuy thế, con xin vâng thánh chỉ của Phật đến
thăm bệnh ông.”—Manjusri said: “World Honoured One, he is a man of
superior wisdom and it is not easy to match him (in eloquence). For he
has reached reality, and is a skillful teacher of the essential aspects of
the Dharma. His power of speech is unhindered and his wisdom is boundless.
He is well versed in all matters pertaining to Bodhisattva development,
for he has entered the mysterious treasure of all Buddhas. He has
overcome all demons, has achieved all transcendental powers and has
realized wisdom by ingenious devices (upaya). Nevertheless, I will obey
the holy command and will call on him to inquire after his health.”
Lúc ấy,
trong đại chúng các h ng Bồ Tát v h ng đại đệ tử, Ðế Thích, Phạm Thiên,
Tứ thiên vương đều nghĩ rằng: “Hôm nay hai vị đại sĩ Văn Thù Sư Lợi v Duy
Ma Cật cùng nhau đ m luận tất nói pháp mầu.” Tức thời, tám ng n Bồ Tát,
năm trăm Thanh Văn v trăm ng n Thiên nhơn đều muốn đi theo—The
Bodhisattvas, the chief disciples of the Buddha and the rulers of the four
heavens who were present, thought to themselves: “As the two Mahasattvas
will be meeting, they will certainly discuss the profound Dharma.” So,
eight thousand Bodhisattvas, five hundred sravakas and hundreds and
thousands of devas wanted to follow Manjusri.
Bấy giờ Văn
Thù Sư Lợi cùng các Bồ Tát, đại đệ tử v các h ng Thiên nhơn cùng nhau
cung kính đi v o th nh Tỳ Xá Ly—So Manjusri, reverently surrounded by the
Bodhisattvas, the Buddha’s chief disciples and the devas, made for Vaisali
town.
Lúc ấy
trưởng giả Duy Ma Cật thầm nghĩ: “Nay đây ng i Văn Thù Sư Lợi cùng đại
chúng đồng đến viếng thăm.” Ông liền dùng sức thần thông l m cho trong nh
trống rỗng, không có vật chi v cũng không có người thị giả n o, chỉ để
một chiếc giường cho ông nằm bệnh—Vimalakirti, who knew in advance that
Manjusri and his followers would come, used his transcendental powers to
empty his house of all attendants and furniture except a sick bed.
Khi ng i
Văn Thù Sư Lợi v o nh ông Duy Ma Cật rồi, thấy trong nh trống rỗng không
có vật chi, chỉ có một mình ông nằm trên giường m thôi, khi ấy ông Duy Ma
Cật ch o rằng—When entering the house, Manjusri saw only Vimalakirti lying
on sick bed and was greeted by the upasaka.
Quý hóa
thay! Ng i Văn Thù Sư Lợi mới đến! Tướng không đến m đến, tướng không
thấy m thấy—Who said: “Welcome, Manjusri, you come with no idea of coming
and you see with no idea of seeing.”
Ng i Văn
Thù Sư Lợi nói: “Phải đấy, Cư sĩ! Nếu đã đến tức l không đến, nếu đã đi
tức l không đi. Vì sao? Ðến không từ đâu đến, đi không đến nơi đâu, hễ có
thấy tức l không thấy. Thôi việc ấy hãy để đó. Cư sĩ bệnh có chịu nổi
được không? Ðiều trị có bớt không? Bệnh không đến nỗi tăng ư? Thế Tôn ân
cần hỏi thăm chi xiết. Bệnh Cư sĩ nhơn đâu m sanh, sanh đã bao lâu, phải
thế n o mới mạnh được?—Manjusri replied: “It is so, Venerable Upasaka,
coming should not be further tied to (the idea of) coming, and going
should not be further linked with (the concept of) going. Why? Because
there is neither whence to come nor whither to go, and that which is
visible cannot further be (an object of) seeing. Now, let us put all this
aside. Venerable Upasaka, is your illness bearable? Will it get worse
with the wrong treatment? The World Honoured One sends me to inquire after
your health, and is anxious to have good news of you. Venerable Upasaka,
where does your illness come from; how long since it arose, and how will
it come to an end?”
Duy Ma Cật
đáp: “Từ nơi si m có ái, bệnh tôi sanh. Vì tất cả chúng sanh bệnh, nên
tôi bệnh. Nếu tất cả chúng sanh không bệnh, thì bệnh tôi l nh. Vì sao? Bồ
Tát vì chúng sanh m v o đường sanh tử, hễ có sanh thời có bệnh, nếu chúng
sanh khỏi bệnh thì Bồ Tát không có bệnh. Ví như ông trưởng giả chỉ có một
người con, hễ người con bệnh, thì cha mẹ cũng bệnh; nếu bệnh của con l nh,
cha mẹ cũng l nh. Bồ Tát cũng thế! Ðối với tất cả chúng sanh, thương mến
như con, nên chúng sanh bệnh, Bồ Tát cũng bệnh; chúng sanh l nh, Bồ Tát
cũng l nh—Vimalakirti replied: “Stupidity leads to love, which is the
origin of my illness. Because all living beings are subject to illness, I
am ill as well. When all living beings are no longer ill, my illness will
come to an end. Why? A Bodhisattva, because of (his vow to save) living
beings, enters the realm of birth and death which is subject to illness;
if they are all cured, the Bodhisattva will no longer be ill. For
instance, when the only son of an elder falls ill, so do his parents, and
when he recovers his health, so do they. Likewise, a Bodhisattva loves
all living beings as if they were his sons; so when they fall ill, the
Bodhisattva is also ill, and when they recover, he is no longer ill.”
Văn Thù Sư
Lợi lại hỏi: “Bệnh ấy nhơn đâu m sanh?”—Manjusri asked: “What is the
cause of a Bodhisattva’s illness?”
Duy Ma Cật
trả lời: “Bồ Tát có bệnh l do lòng đại bi.”—Vimalakirti replied: “A
Bodhisattva’s illness comes from (his) great compassion.”
Văn Thù Sư
Lợi hỏi: “Cư sĩ! Nh nầy vì sao trống không v không có thị giả?”—Manjusri
asked: “Why is the Venerable Upasaka’s house empty and without servants?”
Duy Ma Cật
đáp: “Cõi nước của chư Phật cũng đều không.”—Vimalakirti replied: “All
Buddha lands are also void.”
Văn Thù
hỏi: “Lấy gì l m không?”—Manjusri asked: “What is the Buddha land void
of?”
Duy Ma Cật
đáp: “Lấy không l m không.”—Vimalakirti replied: “It is void of voidness.”
Văn Thù
hỏi: “Ðã không, cần gì phải không?”—Manjusri asked: “Why should voidness
be void?”
Duy Ma Cật
đáp: “Vì không phân biệt, nên không.”—Vimalakirti replied: “Voidness is
void in the absence of discrimination.”
Văn Thù
hỏi: “Có thể phân biệt được ư?”—Manjusri asked: “Can voidness be subject
to discrimination?”
Duy Ma Cật
đáp: “Phân biệt cũng không.”—Vimalakirti replied: “All discrimination is
also void.”
Văn Thù
hỏi: “Không, phải tìm nơi đâu?”—Manjusri asked: “Where can voidness be
sought?”
Duy Ma Cật
đáp: “Phải tìm trong sáu mươi hai món kiến chấp.”—Vimalakirti replied: “It
should be sought in the sixty-two false views.”
Văn Thù
hỏi: “Sáu mươi hai món kiến chấp phải tìm nơi đâu?”—Manjusri asked: “Where
should the sixty-two false views be sought?”
Duy Ma Cật
đáp: “Phải tìm trong các pháp giải thoát của chư Phật.”—Vimalakirti
replied: “They should be sought in the liberation of all Buddhas.”
Văn Thù
hỏi: “Pháp giải thoát của chư Phật phải tìm nơi đâu?”—Manjusri asked:
“Where should the liberation of all Buddhas be sought?”
Duy Ma Cật
đáp: “Phải tìm nơi tâm hạnh của chúng sanh.”—Vimalakirti replied: “It
should be sought in the minds of all living beings.”
Duy Ma Cật
tiếp lời: “Ng i lại hỏi vì sao không thị giả? Tất cả chúng ma v các ngoại
đạo đều l thị giả của tôi. Vì sao? Vì các ma ưa sanh tử, m Bồ Tát ở nơi
sanh tử không bỏ. Còn ngoại đạo ưa các kiến chấp, m Bồ Tát ở nơi các kiến
chấp không động.”—He continued: “The virtuous one has also asked why I
have no servants; well, all demons and heretics are my servants. Why?
Because demons like (the state of) birth and death which the Bodhisattva
does not reject, whereas heretics delight in false views in the midst of
which the Bodhisattva remains unmoved.”
Văn Thù
hỏi: “Bệnh của cư sĩ tướng trạng thế n o?”—Manjusri asked: “What form does
the Venerable Upasaka’s illness take?”
Duy Ma Cật
đáp: “Bệnh của tôi không hình, không tướng, không thể thấy
được.”—Vimalakirti replied: “My illness is formless and invisible.”
Văn Thù
hỏi: “Bệnh ấy hiệp với thân hay hiệp với tâm?”—Manjusri asked: “Is it an
illness of the body or of the mind?”
Duy Ma Cật
đáp: “Không phải hiệp với thân, vì thân tướng vốn lìa; cũng không phải
hiệp với tâm, vì tâm như huyễn.”—Vimalakirti replied: “It is not an
illness of the body, for it is beyond body and it is not that of the mind,
for the mind is like an illusion.”
Văn Thù
hỏi: “Ðịa đại, thủy đại, phong đại, hỏa đại, trong bốn đại bệnh ông về đại
n o?”—Manjusri asked: “Of the four elements, earth, water, fire and air,
which one is ill?”
Duy Ma Cật
đáp: “Bệnh ấy không phải địa đại, cũng không lìa địa đại; thủy, hỏa, phong
đại cũng như thế. Nhưng bệnh của chúng sanh l từ nơi tứ đại m khởi, vì
chúng sanh bệnh nên tôi có bệnh.”—Vimalakirti replied: “It is not an
illness of the element of earth but it is not beyond it; it is the same
with the other elements of water, fire and air. Since the illnesses of
all living beings originate from the four elements which cause them to
suffer, I am ill too.”
Ðoạn Văn
Thù hỏi tiếp: “Ph m Bồ Tát an ủi Bồ Tát có bệnh như thế n o?”—Manjusri
then asked: “What should a Bodhisattva say when comforting another
Bodhisattva who falls ill?”
Duy Ma Cật
đáp: “Nói thân vô thường, nhưng không bao giờ nh m chán thân nầy. Nói thân
có khổ, nhưng không bao giờ nói về sự vui ở Niết B n. Nói thân vô ngã m
khuyên dạy dắt dìu chúng sanh. Nói thân không tịch, chứ không nói l rốt
ráo tịch diệt. Nói ăn năn tội trước, chứ không nói v o nơi quá khứ. Lấy
bệnh mình m thương bệnh người. Phải biết cái khổ vô số kiếp trước, phải
nghĩ đến sự lợi ích cho tất cả chúng sanh, nhớ đến việc l m phước, tưởng
đến sự sống trong sạch, chớ nên sanh tâm buồn rầu, phải thường khởi lòng
tinh tấn, nguyện sẽ l m vị y vương điều trị tất cả bệnh của chúng sanh. Bồ
Tát phải an ủi Bồ Tát có bệnh như thế để cho được hoan hỷ.”—Vimalakirti
replied: “He should speak of the impermanence of the body but never of the
abhorrence and relinquishment of the body. He should speak of the
suffering body but never of the joy in nirvana. He should speak of
egolessness in the body while teaching and guiding all living beings (in
spite of the fact that they are fundamentally non-existent in the absolute
state). He should speak of the voidness of the body but should never cling
to the ultimate nirvana. He should speak of repentance of past sins but
should avoid slipping into the past. Because of his own illness he should
take pity on all those who are sick. Knowing that he has suffered during
countless past aeons, he should think of the welfare of all living
beings. He should think of his past practice of good virtues to uphold
(his determination for) right livelihood. Instead of worrying about
troubles (klesa) he should give rise to zeal and devotion (in his practice
of the Dharma). He should act like a king physician to cure others’
illnesses. Thus, a Bodhisattva should comfort another sick Bodhisattva to
make him happy.”
Văn Thù
hỏi: “Cư sĩ! Bồ Tát có bệnh phải điều phục tâm mình như thế n o?”—Manjusri
asked: “How does a sick Bodhisattva control his mind?”
Duy Ma Cật
đáp—Vimalakirti replied:
·“Bồ
Tát có bệnh phải nghĩ thế nầy: ‘Ta nay bệnh đây đều từ các món phiền não,
điên đảo, vọng tưởng đời trước sanh ra, l pháp không thật có, lấy ai chịu
bệnh đó. Vì sao? Vì tứ đại hòa hợp giả gọi l thân, m tứ đại không chủ,
thân cũng không ngã. Lại nữa, bệnh nầy khởi ra đều do chấp ngã, vì thế ở
nơi ngã không nên sanh lòng chấp đắm.’—“A sick Bodhisattva should think
thus: ‘My illness comes from inverted thoughts and troubles (klesa) during
my previous lives but it has no real nature of its own. Therefore, who is
suffering from it? Why is it so? Because when the four elements
unite to form a body, the former arewithout owner and the latter is
without ego. Moreover, my illness comes from my clinging to an ego;
hence, I should wipe out this clinging.’
·Bây
giờ đã biết gốc bệnh, trừ ngay ngã tưởng v chúng sanh tưởng, phải khởi
pháp tưởng. Nên nghĩ rằng: ‘Thân nầy chỉ do các pháp hiệp th nh, khởi chỉ
l pháp khởi, diệt chỉ l pháp diệt. Lại các pháp ấy đều không biết nhau,
khi khởi không nói nó khởi, khi diệt không nói nó diệt?’ Bồ Tát có bệnh
muốn diệt trừ pháp tưởng phải nghĩ rằng: ‘Pháp tưởng nầy cũng l điên đảo,
điên đảo tức l bệnh lớn, ta nên xa lìa nó.’ Thế n o l xa lìa? Lìa ngã v
ngã sở. Thế n o l lìa ngã v ngã sở? L lìa hai pháp. Thế n o l lìa hai
pháp? L không nghĩ các pháp trong , ngo i, m thực h nh theo bình đẳng.
Sao gọi l bình đẳng? L ngã bình đẳng, Niết B n bình đẳng. Vì sao? Ngã v
Niết B n hai pháp nầy đều không. Do đâu m không? Vì do văn tự nên không.
Như thế, hai pháp không có tánh quyết định. Nếu đặng nghĩa bình đẳng đó,
thì không có bệnh chi khác, chỉ còn có bệnh KHÔNG, m bệnh KHÔNG cũng
không nữa.’—Now that he knows the source of his illness, he should forsake
the concept of an ego and a living being. He should think of things
(dharma) thus: ‘A body is created by the union of all sorts of dharmas
(elements) which alone rise and all, without knowing one another and
without announcing their rise and fall.’ In order to wipe out the concept
of things (dharmas), a sick Bodhisattva should think thus: ‘This notion of
dharma is also an inversion, which is my great calamity. So I should keep
from it.’ What is to be kept from? From both subject and object. What
does this keeping from subject and object mean? It means keeping from
dualities. What does this keeping from dualities mean? It means not
thinking of inner and outer dharmas (i.e. contraries) by the practice of
impartiality. What is impartiality? It means equality (of all contraries
e.g.) ego and nirvana. Why is it so? Because both ego and nirvana are
void. Why are both void? Because they exist only by names which have no
independent nature of their own. “When you achieve this equality you are
free from all illnesses but there remains the conception of voidness which
also is an illusion and should be wiped out as well.’
·Vị
Bồ Tát có bệnh dùng tâm không thọ m thọ các món thọ, nếu chưa đầy đủ Phật
pháp cũng không diệt thọ m thủ chứng. Dù thân có khổ, nên nghĩ đến chúng
sanh trong ác thú m khởi tâm đại bi. Ta đã điều phục được tâm ta, cũng
nên điều phục cho tất cả chúng sanh. Chỉ trừ bệnh chấp m không trừ pháp,
dạy cho dứt trừ gốc bệnh. Sao gọi l gốc bệnh? Nghĩa l có phan duyên, do
có phan duyên m th nh gốc bệnh. Phan duyên nơi đâu? Ở trong ba cõi. L m
thế n o đoạn phan duyên? Dùng vô sở đắc; nếu vô sở đắc thì không có phan
duyên. Sao gọi l vô sở đắc? Nghĩa l ly hai món chấp. Sao gọi l hai món
chấp? Nghĩa l chấp trong v chấp ngo i; ly cả hai đó l vô sở đắc—A sick
Bodhisattva should free himself from the conception of sensation (vedana)
when experiencing any one of its three states (which are painful,
pleasurable and neither painful nor pleasurable feeling). Before his full
development into Buddhahood (that is before delivering all living beings
in his own mind), he should not wipe out vedana for his own benefit with a
view to attaining nirvana for himself only. Knowing that the body is
subject to suffering he should think of living beings in the lower realms
of existence and give rise to compassion (for them). Since he has
succeeded in controlling his false views he should guide all living beings
to bring theirs under control as well. He should uproot theirs (inherent)
illnesses without (trying to) wipe out non-existence dharmas (externals
for sense data). For he should teach them how to cut off the origin of
illness. What is the origin of illness? It is their clinging which
causes their illness What are the objects of their clinging? They are
the three realms (of desire, form and beyond form). By what means should
they cut off their clinging? By means (of the doctrine that) nothing
whatsoever can be found, and (that) if nothing can be found there will be
no clinging. What is meant by ‘nothing can be found’? It means (that)
apart from dual views (there is nothing else that can be had). What are
dual views? They are inner and outer views beyond which there is nothing.
·Ng i
Văn Thù Sư Lợi! Ðó l Bồ Tát có bệnh, điều phục tâm mình để đoạn các khổ
như gi , bệnh, chết l Bồ Ðề của Bồ Tát. Nếu không như thế thì chỗ tu h nh
của mình không được trí tuệ thiện lợi. Ví như người chiến thắng kẻ oán tặc
mới l dõng, còn vị n o trừ cả gi , bệnh, chết như thế mới gọi l Bồ
Tát—Manjusri, this is how a sick Bodhissattva should control his mind.
Top wipe out suffering from old age, illness and death is the
Bodhisattva’s bodhi (enlightened practice). If he fails to do so, his
practice lacks wisdom and is ineffective. For instance, a Bodhisattva is
(called) courageous if he overcomes hatred; if in addition he wipes out
(the concept of) old age, illness and death, he is a true Bodhisattva.
·Bồ
Tát có bệnh nên nghĩ thêm thế nầy: ‘Như bệnh của ta đây, không phải l
thật, không phải có; bệnh của chúng sanh cũng không phải thật, không phải
có.’ Khi quán sát như thế, đối với chúng sanh nếu có khởi lòng đại bi ái
kiến thì phải bỏ ngay. Vì sao? Bồ Tát phải dứt trừ khách trần phiền não m
khởi đại bi, chớ vì đại bi ái kiến m đối với sanh tử có tâm nh m chán,
nếu lìa được ái kiến thì không có tâm nh m chán, sanh ra nơi n o không bị
ái kiến che đậy, không còn bị sự r ng buộc, lại nói pháp cởi mở sự r ng
buộc cho chúng sanh nữa. Như Phật nói: ‘Nếu mình bị trói m lại đi mở trói
cho người khác, không thể được; nếu mình không bị trói mới mở trói cho
người khác được.’—A sick Bodhisattva should again reflect: since my
illness is neither real nor existing, the illnesses of all living beings
are also unreal and non-existent. But while so thinking if he develops a
great compassion derived from his love for living beings and from his
attachment to this false view, he should (immediately) keep from these
feelings. Why is it so? Because a Bodhisattva should wipe out all
external causes of troubles (klesa) while developing great compassion.
For (this) love and (these) wrong views result from hate of birth and
death. If he can keep from this love and these wrong views, he will be
free from hatred, and wherever he may be reborn he will not be hindered by
love and wrong views. His next life will be free from obstructions and he
will be able to expound the Dharma to all living beings and free them from
bondage. As the Buddha has said, there is no such thing as untying others
when one is still held in bondage for it is possible to untie others only
after one is free from bonds.
·Vì
thế, Bồ Tát không nên khởi những sự r ng buộc. Sao gọi l r ng buộc? Sao
gọi l giải thoát? Tham đắm nơi thiền vị l Bồ Tát bị r ng buộc. Dùng
phương tiện thọ sanh l Bồ Tát được giải thoát. Lại không có phương tiện
huệ thì buộc, có phương tiện huệ thì giải thoát, không huệ phương tiện thì
buộc, có huệ phương tiện thì giải thoát—Therefore, a Bodhisattva should
not tie himself up (with wrong views). What is tying and what is
untying? Clinging to serenity (dhyana) is a Bodhisattva’s bondage, but
his expedient rebirth (for the salvation of others) is freedom from
bondage. Further, he is held in bondage by wisdom which lacks expedient
methods (upaya), but is liberated by wisdom supported by expedient device;
he is (also) held in bondage by expedient methods which are not upheld by
wisdom but is liberated by expedient methods backed by wisdom.
·Sao
gọi l không có phương tiện thì buộc? Bồ Tát dùng ái kiến trang nghiêm
Phật độ, th nh tựu chúng sanh ở trong pháp Không, vô tướng, vô tác m điều
phục lấy mình, đó l không có phương tiện huệ thì buộc—What is bondage by
wisdom unsupported by expedient methods? It is bondage caused by the
Bodhisattva’s desire to embellish the Buddha land (with merits) in order
to bring living beings to perfection while practicing for his self-control
(the three gates to nirvana, namely,) voidness, formlessness and
inactivity. This is called bondage by wisdom unsupported by expedient
methods (upaya).
·Sao
gọi l có phương tiện huệ thì giải? Bồ Tát không dùng ái kiến trang nghiêm
Phật độ, th nh tựu chúng sanh, ở trong pháp ‘không,’ ‘vô tướng,’ ‘vô tác’
điều phục lấy mình, không nh m chán mỏi mệt, đó l có phương tiện huệ thì
giải—What is liberation by wisdom backed by expedient methods? It is
liberation achieved in the absence of desire to embellish the Buddha land
(with merits) in order to bring living beings to perfection, while
practicing unremittingly for his self-control (the three gates to nirvana,
namely) voidness, formlessness and inactivity. This is called liberation
by wisdom supported by expedient methods (upaya).
·Sao
gọi l không có phương tiện huệ thì buộc? Bồ Tát trụ nơi các món phiền
não, tham dục, sân hận, t kiến, vân vân m trồng các cội công đức, đó l
không có huệ phương tiện thì buộc—What is bondage by expedient methods
unsupported by wisdom? It is bondage caused by a Bodhisattva’s lack of
determination to keep from desire, anger, perverse views and other
troubles (klesa) while planting all wisdom roots. This is called bondage
by expedient methods, which lack wisdom.
·Sao
gọi l có huệ phương tiện thì giải? L xa lìa các thứ phiền não, tham dục,
sân hận, t kiến, vân vân m vun trồng các cội công đức, hồi hướng Vô
thượng Chánh đẳng Chánh giác, đó l có huệ phương tiện thì giải—What is
liberation by expedient methods sustained by wisdom? It is liberation won
by a Bodhisattva who keeps from desire, anger, perverse views and other
troubles (klesa) while planting all virtuous roots which he dedicates to
his realization of supreme enlightenment. This is called liberation by
expedient methods sustained by wisdom.
·Ng i
Văn Thù Sư Lợi! Bồ Tát có bệnh đấy phải quán sát được các pháp như thế.
Lại nữa, quán thân vô thường, khổ, không, vô ngã, đó l huệ. Dù thân có
bệnh vẫn ở trong sanh tử l m lợi ích cho chúng sanh không nh m mỏi, đó l
phương tiện—Manjusri, a sick Bodhisattva should look into all things in
this way. He should further meditate on his body, which is impermanent, is
subject to suffering and is non-existent and egoless; this is called
wisdom. Although his body is sick, he remains in (the realm of) birth and
death for the benefit of all (living beings) without complaint; this is
called expedient method (upaya).
·Lại
nữa, ng i Văn Thù Sư Lợi! Quán thân, thân không rời bệnh, bệnh chẳng rời
thân, bệnh nầy, thân nầy, không phải mới, không phải cũ, đó l huệ. Dù
thân có bệnh m không nh m chán trọn diệt độ, đó l phương tiện—Manjusri!
He should further meditate on the body, which is inseparable from illness
and on illness, which is inherent in the body, because sickness and the
body are neither new nor old; this is called wisdom. The body, though
ill, is not to be annihilated; this is the expedient method (for remaining
in the world to work for salvation).
·Ng i
Văn Thù Sư Lợi! Bồ Tát có bệnh nên điều phục tâm mình như thế, m không
trụ trong đó, cũng không trụ nơi tâm không điều phục. Vì sao? Nếu trụ nơi
tâm không điều phục l pháp của ph m phu, nếu trụ nơi tâm điều phục l
pháp của Thanh Văn, cho nên Bồ Tát không trụ nơi tâm điều phục hay không
điều phục, lìa hai pháp ấy l hạnh Bồ Tát. Ở trong sanh tử m không bị
nhiễm ô, ở nơi Niết B n m không diệt độ hẳn l hạnh Bồ Tát. Không phải
hạnh ph m phu, không phải hạnh Hiền Thánh l hạnh Bồ Tát. Không phải hạnh
nhơ, không phải hạnh sạch l hạnh Bồ Tát. Tuy vượt khỏi hạnh ma m hiện
các việc h ng phục ma l hạnh Bồ Tát. Cầu nhứt thiết trí, không cầu sái
thời l hạnh Bồ Tát. Dù quán sát các pháp không sanh m không v o chánh vị
(chơn như) l hạnh Bồ Tát. Quán mười hai duyên khởi m v o các t kiến l
hạnh Bồ Tát. Nhiếp độ tất cả chúng sanh m không mê đắm chấp trước l hạnh
Bồ Tát. Ưa xa lìa m không nương theo sự dứt đoạn thân tâm l hạnh Bồ Tát.
Tuy ở trong ba cõi m không hoại pháp tánh l hạnh Bồ Tát. Tuy quán
‘Không’ m gieo trồng các cội công đức l hạnh Bồ Tát. Dù thực h nh vô
tướng m cứu độ chúng sanh l hạnh Bồ Tát. Dù thực h nh vô tác m quyền
hiện thọ thân l hạnh Bồ Tát. Dù thực h nh vô khởi m khởi tất cả các hạnh
l hạnh Bồ Tát. Dù thực h nh sáu pháp Ba la mật m biết khắp các tâm, tâm
sở của chúng sanh l hạnh Bồ Tát. Dù thực h nh sáu phép thần thông m
không dứt hết lậu hoặc phiền não l hạnh Bồ Tát. Dù thực h nh tứ vô lượng
tâm m không tham đắm sanh về cõi Phạm thế (Phạm Thiên) l hạnh Bồ Tát. Dù
thực h nh thiền định, giải thoát tam muội, m không theo thiền định thọ
sanh l hạnh Bồ Tát. Dù thực h nh tứ niệm xứ m không ho n to n lìa hẳn
thân, thọ, tâm, pháp l hạnh Bồ Tát. Dù thực h nh tứ chánh cần m không
rời thân tâm tinh tấn l hạnh Bồ Tát. Dù thực h nh tứ như ý túc m đặng
thần thông tự tại l hạnh Bồ Tát. Dù thực h nh ngũ căn m phân biệt r nh
rẽ các căn lợi độn của chúng sanh l hạnh Bồ Tát. Dù thực h nh ngũ lực m
ưa cầu thập lực của Phật l hạnh Bồ Tát. Dù thực h nh bảy pháp giác chi m
phân biệt rõ trí tuệ của Phật l hạnh Bồ Tát. Dù thực h nh bát chánh đạo
m ưa tu vô lượng Phật đạo l hạnh Bồ Tát. Dù thực h nh các pháp chỉ quán
trợ đạo m trọn không thiên hẳn nơi tịch diệt (Niết B n) l hạnh Bồ Tát.
Dù thực h nh các pháp bất sanh bất diệt, m dùng tướng hảo trang nghiêm
thân mình l hạnh Bồ Tát. Dù hiện oai nghi theo Thanh Văn, Duyên Giác m
không rời Phật pháp l hạnh Bồ Tát. Dù tùy theo tướng ho n to n thanh tịnh
của các pháp m tùy theo chỗ sở ứng hiện thân l hạnh Bồ Tát. Dù quán sát
cõi nước của chư Phật trọn vắng lặng như hư không m hiện ra rất nhiều cõi
Phật thanh tịnh l hạnh Bồ Tát. Dù chứng đặng quả Phật, chuyển Pháp Luân,
nhập Niết B n m không bỏ đạo Bồ Tát l hạnh Bồ Tát vậy—Manjusri, a sick
Bodhisattva should thus control his mind while dwelling in neither the
(state of) controlled mind nor its opposite, that of uncontrolled mind.
For if he dwells in (the state of) uncontrolled mind, this is stupidity
and if he dwells in (that of) controlled mind, this is the sravaka stage.
Hence, a Bodhisattva should not dwell in either and so keep from both;
this is the practice of the Bodhisattva stage. When staying in the realm
of birth and death he keeps from its impurity, and when dwelling in
nirvana, he keeps from (its condition of) extinction of reincarnation and
escape from suffering; this is the practice of the Bodhisattva stage.
That which is neither worldly nor saintly is Bodhisattva development (into
Buddhahood). That which is neither impure nor pure is Bodhisattva
practice. Although he is beyond the demonic state, he appears (in the
world) to overcome demons; this is Bodhisattva conduct. In his quest of
all knowledge (sarvajna) he does not seek it at an inappropriate moment;
this is Bodhisattva conduct. Although he looks into the uncreated he does
not achieve Buddhahood; this is Bodhisattva conduct. Although he looks
into nidana (or the twelve links in the chain of existence), he enters all
states of perverse views (to save living beings); this is Bodhisattva
conduct. Although he helps all living beings he does not give rise to
clinging; this is Bodhisattva conduct. Although he keeps from the
phenomenal he does not lean on the voidness of body and mind; this is
Bodhisattva conduct. Although he passes through the three worlds (of
desire, form and beyond form), he does not injure the Dharmata; this is
the Bodhisattva conduct. Although he realizes the voidness (of thing) he
sows the seeds of all merits; this is Bodhisattva conduct. Although he
dwells in formlessness, he continues delivering living beings; this is
Bodhisattva conduct. Although he refrains from (creative) activities he
appears in his physical body; this is Bodhisattva conduct. Although he
keeps (all thoughts) from rising he performs all good deeds; this is
Bodhisattva conduct. Although he practices the six perfections
(paramitas), he knows all the mental states of living beings; this is
Bodhisattva conduct. Although he possesses the six supernatural powers, he
refrains from putting an end to all worldy streams; this is Bodhisattva
conduct. Although he practices the four infinite states of mind, he does
not wish to be reborn in the Brahma heavens, this is the Bodhisattva
conduct. Although he practices meditation, serenity (dhyana), liberation
and samadhi, he does not avail himself of these to be reborn in dhyana
heavens; this is Bodhisattva conduct. Although he practices the four
states of mindfulness, he does not keep for ever from the karma of body
and mind; this is Bodhisattva conduct. Although he practices the four
right efforts, he persists in physical and mental zeal and devotion; this
is Bodhisattva conduct. Although he practices the four Hinayana steps to
supernatural powers, he will continue doing so until he achieves all
Mahayana supernatural powers; this is Bodhisattva conduct. Although he
practices the five spiritual faculties of the sravaka stage, he discerns
the sharp and dull potential of living beings; this is Bodhisattva
conduct. Although he practices the five powers of the sravaka stage, he
strives to achieve the ten powers of the Buddha; this is Bodhisattva
conduct. Although he practices the seven Hinayana degrees of
enlightenment, he discerns the Buddha’s all-wisdom (sarvajna); this is
Bodhisattva conduct. Although he practices the eightfold noble truth (of
Hinayana), he delights in treading the Buddha’s boundless path; this is
Bodhisattva conduct. Although he practices samathavipasyana, which
contributes to the realization of bodhi (enlightenment), he keeps from
slipping into nirvana; this is Bodhisattva conduct. Although he practices
the doctrine of not creating and not annihilating things (dharma), he
still embellishes his body with the excellent physical marks of the
Buddha; this is Bodhisattva conduct. Although he appears as a sravaka or a
pratyeka-buddha, he does not stray from the Buddha Dharma; this is
Bodhisattva conduct. Although he has realized ultimate purity, he appears
in bodily form to do his work of salvation; this is Bodhisattva conduct.
Although he sees into all Buddha lands, which are permanently still like
space, he causes them to appear in their purity and cleanness; this is
Bodhisattva conduct. Although he has reached the Buddha stage, which
enables him to turn the wheel of the Law (to preach the Dharma) and to
enter the state of nirvana, he does not forsake the Bodhisattva path; this
is bodhisattva conduct.”
Khi ông Duy
Ma Cật nói những lời ấy rồi, cả đại chúng đi theo ng i Văn Thù Sư Lợi,
trong đó tám ng n vị Thiên tử đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh
giác—While Vimalakirti was expounding the Dharma, all the eight thousand
sons of devas who had come with Manjusri, developed the profound mind set
on the quest of supreme enlightenment (anuttara-samyak-sambodhi).
CHƯ NG SÁU—CHAPTER SIX
PHẨM BẤT TƯ NGHÌ—THE
INCONCEIVABLE LIBERATION
Lúc bấy giờ
ng i Xá Lợi Phất thấy trong nh ông Duy Ma Cật không có giường ngồi chi
hết, mới nghĩ rằng: “Các Bồ Tát v h ng đệ tử đây sẽ ngồi nơi
đâu?”—Sariputra saw no seats in the room and thought: “Where do the
Bodhisattvas and chief disciples sit?”
Trưởng giả
Duy Ma Cật biết được ý đó, liền nói với ng i Xá Lợi Phất rằng: “Thế n o,
nhân giả vì pháp m đến hay vì giường ngồi m đến?”—Vimalakirti knew of
Sariputra’s thought and asked him: “Virtuous One, do you come here for a
seat or for the Dharma?” Xá Lợi Phất đáp: “Tôi vì Pháp m đến, chớ không
phải vì giường ngồi.”—Sariputra replied: “I come here for the Dharma and
not for a seat.”
Ông Duy Ma
Cật nói: “Ng i Xá Lợi Phất! Vả chăng người cầu Pháp, thân mạng còn không
tham tiếc, huống chi l giường ngồi. Vả người cầu Pháp không phải có sắc,
thọ, tưởng, h nh, thức m cầu; không phải có giới (18 giới), nhập (12
nhập) m cầu; không phải có dục giới, sắc giới, vô sắc giới (tam giới) m
cầu. Ng i Xá Lợi Phất! Vả chăng người cầu Pháp không đắm trước nơi Phật m
cầu, không đắm trước nơi Pháp m cầu, không đắm trước nơi chúng Tăng m
cầu. Vả người cầu Pháp không thấy khổ m cầu, không đoạn tập m cầu, không
đến chứng diệt, tu đạo m cầu. Vì sao? Vì pháp không hý luận. Nếu nói ‘ta
phải thấy khổ, đoạn tập, chứng diệt, tu đạo, đó l hý luận chứ không phải
cầu pháp.’ Ng i Xá Lợi Phất! Pháp l tịch diệt, nếu thực h nh pháp sanh
diệt l cầu pháp sanh diệt, chứ không phải cầu pháp. Pháp l không nhiễm,
nếu nhiễm nơi pháp cho đến Niết B n, đó l đắm nhiễm, chứ không phải cầu
pháp. Pháp không chỗ l m, nếu l m nơi pháp, đó l chỗ l m chứ không phải
cầu pháp. Pháp không thủ xả, nếu thủ xả pháp, đó l thủ xả, chứ không phải
cầu pháp. Pháp không xứ sở, nếu chấp trước xứ sở , đó l chấp trước nơi xứ
sở chứ không phải cầu pháp. Pháp không có tướng, nếu nhân tướng m biết,
đó l cầu tướng chứ không phải cầu pháp. Pháp không thể trụ, nếu trụ nơi
pháp, đó l trụ nơi pháp chứ không phải cầu pháp. Pháp không thể thấy,
nghe, hay, biết, nếu l m theo thấy, nghe, hay, biết, đó l thấy nghe hay
biết chứ không phải cầu pháp. Pháp l vô vi, nếu l m hữu vi l cầu hữu vi
chứ không phải cầu pháp. Vì thế, ng i Xá Lợi Phất! Nếu người cầu pháp, đối
với tất cả pháp, không có cầu đến—Vimalakirti said: “Hey Sariputra, he who
searches for the Dharma does not even cling to his body and life, still
less to a seat, for the quest of Dharma is not related to (the five
aggregates): form (rupa), sensation (vedana), conception (sanjna),
discrimination (samskara) and consciousness (vijnana); to the eighteen
fields of sense (dhatu: the six organs, their objects and their
perceptions); to the twelve entrances (ayatana: the six organs and six
sense data that enter for or lead to discrimination); and to the worlds of
desire, form and beyond form. Sariputra, a seeker of the Dharma, does not
cling to the Buddha, the Dharma and the Sangha. A seeker of the Dharma
does not hold the view of suffering, of cutting off all the accumulated
causes, thereof, to put an end to it by treading the path to nirvana (i.e.
the four noble truths). Why is it so? Because the Dharma is beyond all
sophistry. For if one says: ‘Because I see suffering, I cut off its
accumulated causes to wipe it out by treading the path thereto’, this is
mere sophistry and is not the quest of the Dharma.
“Sariputra,
the Dharma is called nirvana (the condition of complete serenity and
ultimate extinction of reincarnation); if you give rise to (the concept
of) birth and death, this is a search for birth and death and is not the
quest of Dharma. The Dharma is (absolute and) immaculate, but if you are
defiled by the (thought of) Dharma and even that of nirvana, this is
pollution which runs counter to the quest of Dharma. Dharma cannot be
practiced and if it is put into practice, this implies something (i.e. an
object) to be practiced and is not the quest of Dharma. Dharma is beyond
grasping and rejecting, and if you grasp or reject it, this is grasping or
rejecting (something else) but not the quest of Dharma. Dharma is beyond
position but if you give it a place, this is clinging to space but not the
quest of Dharma. Dharma is formless but if you rely on form to conceive
the Dharma, this is search for form but not the quest of Dharma. Dharma is
not an abode but if you want to stay in it this is dwelling in (an
objective) Dharma, but not the quest of (absolute) Dharma. Dharma can be
neither seen, nor heard nor felt nor known but if you want to see, hear,
feel and know it, this is the functioning of your (discriminatory) seeing,
hearing, feeling and knowing but not the quest of Dharma. Dharma is
(transcendentally) inactive (wu wei) but if you are set on worldly
activities, this is a search for the worldly way of life but not the quest
of Dharma. Therefore, Sariputra, the quest of Dharma does not imply
seeking anything whatsoever.”
·Khi
ông Duy Ma Cật nói lời ấy rồi, năm trăm vị Thiên tử ở trong các pháp được
pháp nhãn thanh tịnh—When Vimalakirti so spoke, five hundred sons of devas
realized the pure Dharma Eye.
Bấy giờ
trưởng giả Duy Ma Cật hỏi ng i Văn Thù Sư Lợi rằng: “Thưa ng i! Ng i dạo
đi trong vô lượng ng n muôn ức a tăng kỳ quốc độ, thấy cõi Phật n o có
những tòa sư tử tốt đẹp thượng diệu do công đức tạo th nh?”—Vimalakirti
then asked Manjusri: “The Virtuous One has traveled in countless thousands
and tens of thousands of lakhs of worlds; which one is the Buddha land
where the highest merits make the lion throne (of its Buddha)?”
Văn Thù Sư
Lợi nói: “Cư sĩ! Về phương đông cách đây khỏi ba mươi sáu số cát sông Hằng
cõi Phật, có thế giới tên Tu Di Tướng, đức Phật ở thế giới ấy hiệu l Tu
Di Ðăng Vương, hiện vẫn còn. Thân Phật cao tám muôn bốn ng n do tuần, tòa
sư tử cũng cao như thế, trang nghiêm tốt đẹp bực nhất.”—Manjusri replied:
“Venerable Upasaka, in the east there is a Buddha land which is separated
from here by a distance represented by worlds as countless as the sand
grains in thirty-six Ganges rivers; it is called Merudhvaja whose Buddha
is called Merukalpa who is still there. His body is 84,000 yojana tall
and his lion throne, also as high, is of prominent majesty.”
Lúc ấy
trưởng giả Duy Ma Cật hiện sức thần thông, tức thời đức Phật ở cõi nước
kia điều khiển ba vạn hai ng n tòa sư tử cao rộng nghiêm sạch đến trong
nh ông Duy Ma Cật. Các Bồ Tát, đại đệ tử, Ðế Thích, Phạm Thiên, Tứ Thiên
vương tất cả đều thấy việc xưa nay chưa từng thấy—At that time,
Vimalakirti used his transcendental powers to invite Buddha Merukalpa to
send to his room thirty-two thousand high, large, majestic and clean lion
thrones which the Bodhisattvas, chief disciples of the Buddha (Sakyamuni),
Indra and Brahma, the four deva kings, etc., had never seen before.
Nh ông Duy
Ma Cật rộng rãi trùm chứa cả ba vạn hai ng n tòa sư tử không ngăn ngại, m
ở nơi th nh Tỳ Xá Ly cho đến bốn thiên hạ cõi Diêm Phù Ðề cũng không bị ép
chật, tất cả đều thấy y nguyên như thế—The room contained all the
thirty-two thousand lion thrones which did not hinder one another and
which did not obstruct anything at Vaisali, in Jambudvipa (our earth) and
in the four heavens where all things remained unchanged as before.
Ông Duy Ma
Cật mời ng i Văn Thù Sư Lợi v các Bồ Tát thượng nhơn ngồi nơi tòa sư tử,
song phải hiện thân mình đứng cao bằng tòa kia. Tức thời các Bồ Tát có
thần thông liền biến hiện thân mình cao bốn muôn hai ng n do tuần đến ngồi
nơi tòa sư tử, còn các Bồ Tát mới phát tâm v h ng đệ tử đều không lên
được—Vimalakirti then said to Manjusri: “Please take a lion throne and be
seated amongst the great Bodhisattvas by enlarging the size of your body
to that of the seat.” Those Bodhisattvas who had acquired supernatural
powers, enlarged their bodies to the size of the thrones on which they sat
(without difficulty). But the newly initiated Bodhisattvas and chief
disciples of the Buddha could not mount the high thrones.
Lúc đó ông
Duy Ma Cật mời ng i Xá Lợi Phất lên tòa sư tử ngồi—Vimalakirti then said
to Sariputra: “Please be seated on a lion throne.”
Ng i Xá Lợi
Phất đáp: “Thưa Cư sĩ! Tòa nầy cao rộng quá tôi không lên được.”—Sariputra
replied: “Venerable Upasaka, these thrones are large and high; I cannot
mount them.”
Ông Duy Ma
Cật nói: “Ng i Xá Lợi Phất! Phải đảnh lễ đức Tu Di Ðăng Vương Như Lai mới
có thể ngồi được.”—Vimalakirti said: “Sariputra, you should first pay
reverence to the Tathagata Merukalpa and will then be able to sit on one
of them.”
Khi ấy các
vị Bồ Tát mới phát tâm v h ng đệ tử đều đảnh lễ đức Tu Di Ðăng Vương Như
Lai, rồi ngồi được ngay nơi tòa sư tử—At that time, all newly initiated
Bodhisattvas and chief disciples of the Buddha paid reverence to the
Tathagata Merukalpa and then sat on the lion throne.
Ng i Xá Lợi
Phất nói: “Thưa Cư sĩ! Thật chưa từng có. Như cái nh nhỏ tí nầy m dung
chứa được các tòa cao rộng như thế, m nơi th nh Tỳ Xá Ly không có ngăn
ngại, các tụ lạc, th nh ấp, cùng những cung điện chư Thiên, Long Vương,
quỷ thần trong bốn thiên hạ ở cõi Diêm Phù Ðề cũng không ép
chật.”—Sariputra said to Vimalakirti: Pvenerable Upasaka, this was not
seen before; this small room can contain these high and large thrones
which do not obstruct anything at Vaisali and do not interfere with the
cities, towns and villages on Jambudvipa (our world) as well as with the
palaces of the devas and heavenly nagas (dragons) and the abodes of the
ghosts and spirits.”
Ông Duy Ma
Cật nói: “Ng i Xá Lợi Phất! Chư Phật v chư Bồ Tát có pháp giải thoát tên
l bất khả tư nghì. Nếu Bồ Tát trụ nơi pháp giải thoát đó, lấy núi Tu Di
rộng lớn nhét v o trong hạt cải vẫn không thêm bớt, hình núi Tu Di vẫn y
nguyên, m trời Tứ thiên vương v Ðao Lợi thiên vương không hay không biết
đã v o đấy, chỉ có những người đáng độ mới thấy núi Tu Di v o trong hạt
cải, đó l pháp môn Bất Tư Nghì Giải Thoát. Lại lấy nước bốn biển lớn cho
v o trong lỗ chưn lông, không có khuấy động các lo i thủy tộc như cá
trạnh, ngoan đ , m các biển lớn kia cũng vẫn y nguyên. Các lo i rồng, quỷ
thần, A tu la, vân vân đều không hay không biết mình đi v o đấy, v các
lo i ấy cũng không có loạn động. Lại nữa, ng i Xá Lợi Phất! Bồ Tát ở nơi
pháp Bất Khả Tư Nghì Giải Thoát, rút lấy cõi tam thiên đại thiên thế giới
nhanh như b n tròn của thợ đồ gốm, rồi để trong b n tay phải quăng ra
ngo i khỏi những thế giới như số cát sông Hằng, m chúng sanh trong đó
không hay không biết mình có đi đâu, lại đem trở về chỗ cũ, m người không
biết có qua lại, v thế giới ấy cũng vẫn y nguyên—Vimalakirti said:
“Sariputra, the liberation realized by all Buddhas and (great)
Bodhisattvas is inconceivable. If a Bodhisattva wins this liberation, he
can put the great and extensive (Mount) Sumeru in a mustard seed, which
neither increases nor decreases (its size) while Sumeru remains the same,
and the four deva kings (guardians of the world) and the devas of
Trayastrimsas (the heavens of Indra) are not even aware of their being put
into the seed, but only those who have won liberation see Sumeru in the
mustard seed. This is the inconceivable Dharma door to liberation.
He can also
put the four great oceans that surround Sumeru in a pore without causing
inconvenience to fishes, water tortoises, sea-turtles, water-lizards and
all other aquatic animals while the oceans remain the same and the nagas
(dragons), ghosts, spirits and asuras (titans) are not even aware of being
displaced and interposed.
“Further,
Sariputra, a great Bodhisattva who has won this inconceivable liberation
can (take and) put on his right palm the great chiliocosm like the potter
holding his wheel, throw it beyond a number of worlds as countless as the
sand grains in the Ganges and then take it back (to its original place)
while all living beings therein do not know of their being thrown away and
returned and while our world remains unchanged.
·Lại
nữa, ng i Xá Lợi Phất! Hoặc có chúng sanh n o ưa ở lâu trong đời m có thể
độ được, Bồ Tát liền kéo bảy ng y ra l m một kiếp để cho chúng sanh kia
gọi l một kiếp; hoặc có chúng sanh n o không ưa ở lâu trong đời m có thể
độ được, Bồ Tát liền thâu ngắn một kiếp lại l m bảy ng y, để cho chúng
sanh kia gọi l bảy ng y—Further, Sariputra, if there are living beings
who are qualified for liberation but who want to stay longer in the world,
this Bodhisattva will (use his supernatural power to) extend a week to an
aeon so that they will consider their remaining in time to be one week.
·Lại
nữa, ng i Xá Lợi Phất! Bồ Tát trụ nơi pháp bất khả tư nghì giải thoát, đem
những việc tốt đẹp của tất cả cõi Phật gom về một nước chỉ b y cho chúng
sanh—Further, Sariputra, a Bodhisattva who has won this inconceivable
liberation can gather in one country all the majestic things of all Buddha
lands so that they are all visible in that particular country.
Lại
nữa, Bồ Tát đem tất cả chúng sanh ở tất cả cõi Phật để trên b n tay phải
của mình rồi bay đến mười phương b y ra cho ai cũng thấy tất cả m bổn xứ
không lay động—Further, he can place on his right palm all the living
beings of a Buddha land and then fly in all the ten directions to show
them all things everywhere without even shaking them.
·Lại
nữa, Xá Lợi Phất! Những đồ cúng dường chư Phật của chúng sanh trong mười
phương, Bồ Tát l m cho tất cả đều thấy nơi một lỗ chơn lông—Further,
Sariputra, this Bodhisattva can show through one of his pores all
offerings to the Buddhas by living beings in the ten directions.
·Lại
nữa, bao nhiêu nhựt nguyệt, tinh tú trong các cõi nước ở mười phương, Bồ
Tát đều l m cho mọi người thấy rõ nơi một lỗ chơn lông—He can show through
one of his pores all suns, moons, planets and stars in all the worlds in
the ten directions.
·Lại
nữa, ng i Xá Lợi Phất! Bao nhiêu thứ gió ở các cõi nước trong mười phương,
Bồ Tát có thể hút v o trong miệng m thân không bị tổn hại, những cây cối
ở bên ngo i cũng không xiêu ngả, trốc, gãy—Further, Sariputra, he can
breathe in (and hold in his mouth) all the winds blowing in the worlds in
the ten directions without injuring his own body or the trees of these
worlds.
Lại khi
kiếp lửa cháy tan cõi nước ở mười phương, Bồ Tát đem tất cả lửa để v o
trong bụng, lửa cũng vẫn y nguyên m không chút gì l m hại—Further, when
the worlds in the ten directions come to an end through destruction by
fires, this Bodhisattva can breathe in these fires into his own belly
without being injured by them while they continue to burn without change.
·Lại
quá số cát sông Hằng thế giới Phật về phương dưới, lấy một cõi Phật đem để
cách khỏi số cát sông Hằng thế giới ở phương trên như cầm mũi kim nhọn
ghim lấy một lá ch l m không có tổn hại—Further, this Bodhisattva can
take from the nadir a Buddha land separated from him by worlds as
countless as the sand grains in the Ganges and lift it up to the zenith,
which is separated from him by worlds as countless as there are sand
grains in the Ganges, with the same case as he picks up a leaf of the date
tree with the point of a needle.
Lại nữa,
ng i Xá Lợi Phất! Bồ Tát trụ cảnh Bất Khả Tư Nghì Giải Thoát hay dùng thần
thông hiện l m thân Phật hoặc hiện thân Bích Chi Phật, thân Thanh Văn,
thân Ðế Thích, thân Phạm Vương, thân Chúa Thế gian, hoặc thân Chuyển Luân
Thánh Vương. Các thứ tiếng to, tiếng vừa, tiếng nhỏ ở các cõi nước mười
phương đều biến th nh tiếng Phật diễn nói pháp vô thường, khổ, không, vô
ngã v những pháp của chư Phật ở mười phương nói ra l m cho khắp tất cả
đều được nghe—Further, Sariputra, a Bodhisattva who has won this
inconceivable liberation can use his transcendental powers to appear as a
Buddha, or a Pratyeka-buddha, a Sravaka, a sovereign Sakra, Brahma, or a
ruler of the world (cakravarti). He can also cause all sound and voices
of high, medium and low pitches in the worlds in the ten directions to
change into the Buddha’s voice proclaiming (the doctrine of)
impermanence, suffering, unreality and absence of ego as well as all
Dharmas expounded by all Buddhas in the ten directions, making them heard
everywhere.
Ng i Xá Lợi
Phất! Nay tôi chỉ nói qua thần lực giải thoát bất khả tư nghì của Bồ Tát
như thế, nếu nói cho đủ đến cùng kiếp cũng không hết được—Sariputra, I
have mentioned only some of the powers derived from this inconceivable
liberation but if I were to enumerate them all, a whole aeon would be too
short for the purpose.
Khi đó ng i
Ðại Ca Diếp nghe nói pháp môn Bất Khả Tư Nghì Giải Thoát của Bồ Tát, ngợi
khen chưa từng có, mới bảo ng i Xá Lợi Phất rằng: “Ví như có người ở trước
người mù phô b y các thứ hình sắc, người mù kia đâu thể thấy được. Nay tất
cả h ng Thanh Văn nghe pháp môn Bất Khả Tư Nghì Giải Thoát nầy cũng đâu
thể hiểu được. Người trí nghe pháp môn nầy ai m chẳng phát tâm Vô thượng
Chánh đẳng Chánh giác. Tại sao chúng ta mất hẳn giống ấy, đối với pháp Ðại
Thừa nầy đã như hạt giống thúi? Tất cả h ng Thanh Văn nghe pháp môn Bất
Khả Tư Nghì Giải Thoát nầy đều phải than khóc tiếng vang động cõi tam
thiên đại thiên thế giới, còn tất cả Bồ Tát nên hết sức vui mừng m vâng
lãnh pháp ấy. Nếu có Bồ Tát n o tin hiểu pháp môn Bất Khả Tư Nghì Giải
Thoát nầy thời tất cả chúng ma không thể l m gì được—Mahakasyapa who had
heard of this Dharma of inconceivable liberation, praised it and said it
had never been expounded before. He then said to Sariputra: “Like the
blind who do not see images in various colours shown to them, all sravakas
hearing this Dharma door to inconceivable liberation will not understand
it. Of the wise men hearing about it, who will not set his mind on the
quest of supreme enlightenment? What should we do to uproot for ever the
rotten sravaka root as compared with this Mahayana, so that all sravakas
hearing this doctrine of inconceivable liberation, shed tears of
repentance and scream so loudly as to shake the great chiliocosm? As to
the Bodhisattvas, they are all happy to receive this Dharma reverently by
placing it on the tops of their heads. If a Bodhisattva believes and
practices this Dharma door to inconceivable liberation, all demons cannot
oppose him.”
Khi Ng i
Ðại Ca Diếp nói như thế rồi có ba vạn hai ng n vị thiên tử đều phát tâm Vô
thượng Chánh đẳng Chánh giác—When Mahakasyapa spoke these worlds,
thirty-two thousand sons of the devas set their minds on the quest of
supreme enlightenment.
V o lúc bấy
giờ, ông Duy Ma Cật nói với ng i Ðại Ca Diếp rằng: “Ng i Ðại Ca Diếp! Các
vị l m ma vương trong vô lượng vô số cõi nước mười phương phần nhiều l
bực Bồ Tát trụ nơi Pháp Bất Khả Tư Nghì Giải Thoát, vì dùng sức phương
tiện giáo hóa chúng sanh nên thị hiện l m ma vương—At that time,
Vimalakirti declared to Mahakasyapa: “Virtuous One, those who appear as
kings of demons in countless worlds in the ten directions are mostly
Bodhisattvas who have realized this inconceivable liberation and who use
expedient devices (upaya) to appear as their rulers in order to convert
living beings.
Lại nữa,
ng i Ðại Ca Diếp! Vô lượng Bồ Tát ở mười phương, hoặc có người đến xin
tay, chân, tai, mũi, đầu, mắt, tủy, não, huyết, thịt, da, xương, xóm l ng,
th nh ấp, vợ con, tôi tớ, voi ngựa, xe cộ, v ng bạc, lưu ly, xa cừ, mã
não, san hô, hổ phách, trân châu, đồi mồi, y phục, v các món ăn uống, m
người xin đó phần nhiều l bực Bồ Tát trụ pháp Bất Khả Tư Nghì Giải Thoát
dùng sức phương tiện đến thử thách để l m cho các Bồ Tát kia thêm kiên cố.
Vì sao? Bồ Tát trụ pháp Bất Khả Tư Nghì Giải Thoát có thần lực oai đức nên
mới dám l m việc bức ngặt để chỉ b y cho chúng sanh những việc khó l m như
thế. Còn kẻ ph m phu hạ liệt không có thế lực, không thể l m bức ngặt được
Bồ Tát, ví như con long tượng d y đạp, không phải sức lừa kham chịu nổi.
Ðó l môn trí huệ phương tiện của Bồ Tát ở nơi pháp Bất Khả Tư Nghì Giải
Thoát vậy—Further, Mahakasyapa, countless Bodhisattvas in the ten
directions appear as beggars asking for hands, feet, ears, noses, heads,
brains, blood, flesh, skin and bones, towns and hamlets, wives and
(female) slaves, elephants, horses, carts, gold, silver, lapis lazuli,
agate, cornelian, coral, amber, pearl, jade shell, clothing, food and
drink; most of these beggars are Bodhisattvas who have realized this
inconceivable liberation and use expedient devices to test believers in
order to cement their faith (in the Dharma). Because the Bodhisattvas who
have realized inconceivable liberation possess the awe-inspiring power to
bring pressure to bear upon (believers) and ask for inalienable things (to
test them), but worldly men whose spirituality is low have no such
(transcendental) powers and cannot do all this. These Bodhisattvas are
like dragons and elephants which can trample (with tremendous force),
which donkeys cannot do. This is called the wisdom and expedient methods
(upaya) of the Bodhisattvas who have won inconceivable liberation.”
CHƯ NG BẢY-CHAPTER SEVEN
PHẨM QUÁN CHÚNG SANH—LOOKING at
LIVING BEINGS
Ng i Văn
Thù Sư Lợi hỏi ông Duy Ma Cật: “Bồ Tát quán sát chúng sanh phải như thế
n o?”—Manjusri asked Vimalakirti: “How should a Bodhisattva look at living
beings?”
Duy Ma Cật
đáp: “Ví nh huyễn thuật thấy người huyễn của mình hóa ra, Bồ Tát quán sát
chúng sanh cũng như thế. Như người trí thấy trăng dưới nước, thấy mặt
trong gương, như ánh nắng dợn, như âm vang của tiếng, như mây giữa hư
không, như bọt nước, như bóng nổi, như lõi cây chuối, như ánh điển chớp,
như đại thứ năm, như ấm thứ sáu, như căn thứ bảy, như nhập thứ mười ba,
như giới thứ mười chín. Bồ Tát quán sát chúng sanh cũng như thế. Như sắc
chất cõi vô sắc, như mộng lúa hư, như thân kiến của Tu Ð Ho n, như sự
nhập thai của A Na H m, như tam độc của A la hán, như tham giận phá giới
của Bồ Tát chứng vô sanh pháp nhẫn, như tập khí phiền não của Phật, như mù
thấy sắc tượng, như hơi thở ra v o của người nhập diệt tận định, như dấu
chim giữa hư không, như con của thạch nữ (đ n b không sanh đẻ), như phiền
não của người huyễn hóa, như cảnh chiêm bao khi đã thức, như người diệt độ
thọ lấy thân, như lửa không khói. Bồ Tát quán sát chúng sanh cũng như thế
đó.”—Vimalakirti replied: “ A Bodhisattva should look at living beings
like an illusionist does at the illusory men (he has created); and like a
wise man looking at the moon’s reflection in water; at his own face in a
mirror; at the flame of a burning fire; at the echo of a calling voice; at
flying clouds in the sky; at foam in a liquid; at bubbles on water; at the
(empty) core of a banana tree; at a flash of lightning; at the
(non-existent) fifth element (beside the four that make the human body);
at the sixth aggregate (beside the five that make a sentient being); at
the seventh sense datum (beside the six objects of sense); at the
thirteenth entrance (ayatana-beside the twelve involving the six organs
and six sense date); at the nineteenth realm of sense (beside the eighteen
dhatus or fields of sense); at form in the formless world; at the
(non-existent) sprout of a charred grain of rice; at a body seen by a
srota-apanna (who has wiped out the illusory body to enter the holy
stream); at the entry of an anagamin (or a non-returning sravaka) into the
womb of a woman (for rebirth); at an arhat still preserving the three
poisons (of desire, anger and stupidity which he has eliminated forever);
at a Bodhisattva realizing the patient endurance of the uncreate who is
still greedy, resentful and breaking the prohibitions; at a Buddha still
suffering from klesa (troubles); at a blind man seeing things; at an adept
who still breathes air in and out while in the state of nirvanic
imperturbability; at the tracks of birds flying in the air; at the progeny
of a barren woman; at the suffering of an illusory man; at a sleeping man
seeing he is awake in a dream; at a devout man realizing nirvana who takes
a bodily form for (another) reincarnation; and at a smokeless fire. This
is how a Bodhisattva should look at living beings.”
Khi ấy Ng i
Văn Thù Sư Lợi hỏi: “Nếu Bồ Tát quán sát như thế thì phải thực h nh lòng
từ như thế n o?”—At that time, Manjusri asked Vimalakirti: “When a
Bodhisattva so meditates how should he practise kindness (maitri)?
Duy Ma Cật
đáp—Vimalakirti replied: Bồ Tát quán sát như thế rồi phải tự nghĩ
rằng—When a Bodhisattva has made this meditation, he should think that:
·Phải
vì chúng sanh nói pháp như trên, đó l lòng từ chân thật: Ought to teach
living beings to meditate in the same manner; this is true kindness.
·Phải
thực h nh lòng từ tịch diệt, bởi vì không sanh: Should practise causeless
(nirvanic) kindness which prevents creativeness;
·Phải
thực h nh lòng từ không nóng bức, bởi không có phiền não: Should practice
unheated kindness which puts an end to klesa (troubles and causes of
troubles);
·Phải
thực h nh lòng từ bình đẳng, bởi ba đời như nhau: Should practice
impartial kindness which coves all the three periods of time (which means
that it is eternal involving past, future and present);
·Phải
thực h nh lòng từ không đua tranh, bởi không có khởi: Should practice
passionless kindness which wipes out disputes;
·Phải
thực h nh lòng từ không hai, bởi trong ngo i (căn trần) không hiệp: Should
practice non-dual kindness which is beyond sense organs within and sense
data without;
·Phải
thực h nh lòng từ không hoại, bởi ho n to n không còn: Should practice
indestructible kindness which eradicates all corruption;
·Phải
thực h nh lòng từ kiên cố, bởi lòng không hủy hoại: Should practice stable
kindness which is a characteristic of the undying self-mind;
·Phải
thực h nh lòng từ thanh tịnh, bởi tánh các pháp trong sạch: Should
practice pure and clean kindness which is spotless like Dharmata;
·Phải
thực h nh lòng từ vô biên, bởi như hư không: Should practice boundless
kindness which is all-pervasive like space;
·Phải
thực h nh lòng từ của A la hán, vì phá các giặc kiết sử: Should practice
the kindness of the arhat stage which destroys all bondage;
·Phải
thực h nh lòng từ Bồ Tát, ví an vui chúng sanh: Should practice the
Bodhisattva kindness which gives comfort to living beings;
·Phải
thực h nh lòng từ của Như Lai, vì đặng tướng như như: Should practice the
Tathagata kindness which leads to the state of thatness;
·Phải
thực h nh lòng từ của Phật, vì giác ngộ chúng sanh: Should practice the
Buddha kindness which enlightens all living beings;
·Phải
thực h nh lòng từ tự nhiên, vì không nhơn đâu m đặng: Should practice
spontaneous kindness which is causeless;
·Phải
thực h nh lòng từ Bồ Ðề, vì chỉ có một vị: Should practice Bodhi kindness
which is one flavour (i.e. uniform and unmixed wisdom);
·Phải
thực h nh lòng từ vô đẳng, vì đoạn các ái kiến: Should practice
unsurpassed kindness which cuts off all desires;
·Phải
thực h nh lòng từ đại bi dẫn dạy cho pháp Ðại Thừa: Should practice
merciful kindness which leads to the Mahayana (path);
·Phải
thực h nh lòng từ không nh m mỏi, quán không, vô ngã: Should practice
untiring kindness because of deep insight into the void and non-existent
ego;
·Phải
thực h nh lòng từ pháp thí không có luyến tiếc: Should practice
Dharma-bestowing (dana) kindness which is free from regret and repentance;
·Phải
thực h nh lòng từ trì giới để hóa độ người phá giới: Should practice
precepts (sila) upholding kindness to convert those who have broken the
commandments;
·Phải
thực h nh lòng từ nhẫn nhục để ủng hộ người v mình: Should practice
patient (ksanti) kindness which protects both the self and others;
·Phải
thực h nh lòng từ tinh tấn để gánh vác chúng sanh: Should practice Zealous
(virya) kindness to liberate all living beings;
(w1) Phải
thực h nh lòng từ thiền định không thọ mùi thiền: Should practice serene
(dhyana) kindness which is unaffected by the five senses;
(w2) Phải
thực h nh lòng từ trí tuệ, đều biết đúng nhịp: Should practice wise
(prajna) kindness which is always timely;
(w3) Phải
thực h nh lòng từ phương tiện, thị hiện tất cả: Should practice expedient
(upaya) kindness to appear at all times for converting living beings;
(w4) Phải
thực h nh lòng từ không ẩn dấu, lòng ngay trong sạch: Should practice
unhidden kindness because of the purity and cleanliness of the
straightforward mind;
(w5) Phải
thực h nh lòng từ thâm tâm, không có hạnh xen tạp: Should practice
profound minded kindness which is free from discrimination;
(w6) Phải
thực h nh lòng từ không phỉnh dối, không có lừa gạt: Should practice
undeceptive kindness which is without fault;
(w7) Phải
thực h nh lòng từ an vui, l m cho tất cả được sự an vui của Phật. Lòng từ
của Bồ Tát l như thế đó: Should practice joyful kindness which bestows
the Buddha joy (in nirvana). “Such are the specialities of Bodhisattva
kindness.”
Ng i
Văn Thù Sư Lợi hỏi: “Sao gọi l lòng bi?”—Manjusri asked Vimalakirti:
“What should be his compassion (karuna)?”
Duy
Ma Cật đáp: “Bồ Tát l m công đức gì cốt để cho chúng sanh.”—Vimalakirti
replied: “His compassion should include sharing with all living beings all
the merits he has won.”
Văn
Thù Sư Lợi hỏi: “Sao gọi l lòng hỷ?”—Manjusri asked: “What should be his
joy (mudita)?”
Duy
Ma Cật trả lời: “Có lợi ích gì đều hoan hỷ, không hối hận.”—Vimalakirti
replied: He should be filled with joy on seeing others win the benefit of
the Dharma with no regret whatsoever.”
Văn
Thù Sư Lợi hỏi: “Sao gọi l lòng xả?”—Manjusri asked “What should he
relinquish (upeksa)?”
Duy
Ma Cật đáp: “Những phước báo đã l m, không có lòng hy vọng.”—Vimalakirti
replied: “In his work of salvation, he should expect nothing (i.e. no
gratitude or reward) in return.”
Ng i
Văn Thù Sư Lợi hỏi: “Sự sanh tử đáng sợ, Bồ Tát phải y nơi đâu?”—Manjusri
asked: “On what should he rely in his fear of birth and death?”
Ông
Duy Ma Cật đáp: “Bồ Tát ở trong sanh tử đáng sợ đó, phải y nơi sức công
đức của Như Lai.”—Vimalakirti replied: “He should rely on the power of the
Tathagata’s moral merits.”
Ng i
Văn Thù Sư Lợi hỏi: “Bồ Tát muốn y sức công đức của Như Lai, phải trụ nơi
đâu?”—Manjusri asked: “What should he do to win support from the power of
the Tathagata’s moral merits?”
Duy
Ma Cật đáp: “Bồ Tát muốn y sức công đức của Như Lai, phải trụ nơi chỗ độ
thoát tất cả chúng sanh.”—Vimalakirti replied: “ He should liberate all
living beings in order to win support from the power of the Tathagata’s
moral merit.”
Văn
Thù lại hỏi: “Muốn độ chúng sanh phải trừ những gì?”—Manjusri asked: “What
should he wipe out in order to liberate living beings?”
Duy
Ma Cật đáp: “Muốn độ thoát chúng sanh trước hết phải trừ phiền não của
họ.”—Vimalakirti replied: “When liberating living beings, a Bodhisattva
should first wipe out their klesa (troubles and causes of troubles)?”
Văn
Thù hỏi: “Muốn trừ phiền não, phải thực h nh những gì?”—Manjusri asked:
“What should he do to wipe out klesa?”
Duy
Ma Cật đáp: “Phải thực h nh chánh niệm.”—Vimalakirti replied: “He should
uphold right mindfulness.” Văn Thù hỏi: “Thế n o l thực h nh chánh
niệm?”—Manjusri asked: “What should he do to uphold right mindfulness?”
Duy
Ma Cật đáp: Phải thực h nh pháp không sanh không diệt: Vimalakirti
replied: “He should advocate the unborn and the undying.”
Văn
Thù hỏi: “Pháp gì không sanh, pháp gì không diệt? “Manjusri asked: “What
is the unborn and what is the undying?”
Pháp
bất thiện không sanh, pháp thiện không diệt: Vimalakirti replied: “The
unborn is evil that does not arise and the undying is good that does not
end.”
Văn
Thù hỏi: “Pháp thiện v pháp bất thiện lấy gì l m gốc?”—Manjusri asked:
“What is the root of good and evil?”
Duy
Ma Cật đáp: “Lấy thân l m gốc.”—Vimalakirti replied: “The body is the root
of good and evil.”
Văn
Thù hỏi: “Thân lấy gì l m gốc?”—Manjusri asked: “What is the root of the
body?”
Duy
Ma Cật đáp: “Lấy tham dục l m gốc.”—Vimalakirti replied: “Craving is the
root of the body.”
Văn
Thù hỏi: “Tham dục lấy gì l m gốc?”—Manjusri asked: “What is the root of
craving?”
Duy
Ma Cật đáp: “Lấy hư vọng phân biệt l m gốc.”—Vimalakirti replied:
“Baseless discrimination is the root of craving.”
Văn
Thù hỏi: “Hư vọng phân biệt lấy gì l m gốc?”—Manjusri asked: “What is the
root of baseless discrimination?”
Duy
Ma Cật đáp: “Lấy tưởng điên đảo l m gốc.”—Vimalakirti replied: “Inverted
thinking is the root of discrimination.”
Văn
Thù hỏi: “Tưởng điên đảo lấy gì l m gốc?”—Manjusri asked: “What is the
root of inverted thinking?”
Duy
Ma Cật đáp: “Lấy không trụ l m gốc.”—Vimalakirti replied: “Non-abiding is
the root of inverted thinking.”
Văn
Thù hỏi: “Không trụ lấy gì l m gốc?”—Manjusri asked: “What is the root of
non-abiding?”
Duy
Ma Cật đáp: “Không trụ thì không gốc. Thưa ng i Văn Thù, ở nơi gốc không
trụ m lập tất cả pháp.”—Vimalakirti replied: “Non-abiding is rootless.
Manjusri, from this non-abiding root all things arise.”
Bấy
giờ trong nh ông Duy Ma Cật có một Thiên nữ thấy các vị trời, người đến
nghe Pháp, liền hiện thân ra tung rải hoa trời trên mình các vị Bồ Tát v
đại đệ tử. Khi hoa đến mình các vị Bồ Tát đều rơi hết, đến các vị đại đệ
tử đều mắc lại. Các vị đại đệ tử dùng hết thần lực phủi hoa m hoa cũng
không rớt—A goddess (devakanya) who had watched the gods (devas) listening
to the Dharma in Vimalakirti’s room appeared in bodily form to shower
flowers on the Bodhisattvas and the chief disciples of the Buddha (in
their honour). When the flowers fell on the Bodhisattvas, they fell to
the ground, but when they fell on the chief disciples, they stuck to their
bodies and did not drop in spite of all their efforts to shake them off.
Lúc
ấy, Thiên nữ hỏi ng i Xá Lợi Phất: “Tự sao m phủi hoa?”—At that time, the
goddess asked Sariputra why he tried to shake the flowers off.
Xá
Lợi Phất đáp: “Hoa nầy không như pháp nên phủi.”—Sariputra replied: “I
want to shake off these flowers which are not in the state of suchness.”
·Thiên
nữ nói: “Chớ bảo hoa nầy l không như pháp. Vì sao? Hoa nầy nó không có
phân biệt, tự nhân giả phân biệt đó thôi! Nếu người xuất gia ở trong Phật
pháp có phân biệt l không như pháp, nếu không phân biệt l như pháp. Ðấy,
xem các vị Bồ Tát, hoa có dính đâu? Vì các ng i đã đoạn hết tưởng phân
biệt. Ví như người lúc hồi hộp sợ, thời phi nhơn mới thừa cơ hại được. Như
thế, các vị đại đệ tử vì sợ sanh tử nên sắc, thanh, hương, vị, xúc mới
thừa cơ được, còn người đã lìa được sự sợ sệt thì tất cả năm món dục không
l m chi được. Do tập khí kiết sử chưa dứt hết nên hoa mới mắc nơi thân
thôi, còn người kiết tập hết rồi, hoa không mắc được.”—The goddess said:
“Do not say these flowers are not in the state of suchness. Why? Because
they do not differentiate, and it is you (alone) who give rise to
differentiation. If you (still) differentiate after leaving home in your
quest of Dharma, this is not the state of suchness, but if you no longer
give rise to differentiation, this will be the state of suchness. Look at
the Bodhisattvas whose bodies do not retain the flowers this is because
they have put an end to differentiation. This is like a man taking fright
who invites trouble for himself is like a man taking right and evil
(people). So if a disciple fears birth and death, then form, sound,
smell, taste and touch can trouble him, but if he is fearless he is immune
from all the five sense data. (in your case). It is because the force of
habit still remains that these flowers cleave to your body but if you cut
it off, they will not stick to it.”
·Xá
Lợi Phất hỏi: “Thiên nữ ở nh nầy được bao lâu?”—Sariputra asked: “How
long have you been in this room?”
·Thiên
nữ đáp: “Tôi ở nh nầy in như Ng i được giải thoát.”—The goddess replied:
“My stay in this room is just like the Venerable Elder’s liberation.”
·Xá
Lợi Phất hỏi: “Ở đây đã lâu ư?”—Sariputra asked: “Do you then mean that
you have stayed here for a long time?”
·Thiên
nữ đáp: “Ng i giải thoát đã lâu như thế n o?—The goddess retorted: “Does
your liberation also involve time?”
·Ng i
Xá Lợi Phất nín lặng không đáp—Sariputra kept silent and did not reply.
·Thiên
nữ nói: “Tại sao bực kỳ cựu đại trí lại nín lặng?”—The goddess then asked:
“Why is the wise elder silent on this point?”
·Xá
Lợi Phất trả lời: “Giải thoát không có ngôn thuyết, nên ở nơi đó ta không
biết nói l m sao!”—Sariputra replied: “He who wins liberation does not
express it in words; hence I do not know what to say!”
·Thiên
nữ nói: “Ngôn thuyết văn tự đều l tướng giải thoát. Vì sao? Vì giải thoát
không ở trong, không ở ngo i, không ở hai bên; văn tự cũng không ở trong,
không ở ngo i, không ở hai bên. Thế nên, ng i Xá Lợi Phất, chớ rời văn tự
m nói giải thoát. Vì sao? Vì tất cả pháp l tướng giải thoát.”—The
goddess said: “Spoken and written word reveal liberation. Why? For
liberation is neither within nor without nor in between, and words also
are neither inside nor outside nor in between. Therefore, Sariputra,
liberation cannot be preached without using words. Why? Because all
things point to liberation.”
·Xá
Lợi Phất hỏi: “Không cần ly dâm, nộ, si, được giải thoát ư?”—Sariputra
asked: “Do you then mean that thee is no need to keep from carnality,
hatred and stupidity to win liberation?”
·Thiên
nữ nói: “Phật vì kẻ tăng thượng mạn nói ly dâm, nộ, si l giải thoát thôi,
nếu kẻ không tăng thượng mạn thời Phật nói tánh của dâm nộ, si l giải
thoát.”—The goddess replied: “In the presence of those who are proud (of
their superior knowledge) the Buddha said it is important to keep from
carnality, hatred and stupidity in the quest of liberation; but where they
are absent, He said that the underlying nature of carnality, hatred and
stupidity (i.e. the self-nature) is identical with liberation.
·Xá
Lợi Phất nói: “Hay thay! Hay thay! Thiên nữ! N ng được cái gì, chứng cái
gì m biện t i như thế?”—Sariputra exclaimed: “Excellent, goddess,
excellent, what have you gained and experienced that gives you such an
eloquence?”
·Thiên
nữ nói: “Tôi không được, không chứng, mới được biện t i như thế. Vì sao?
Nếu có được, có chứng thời ở trong Phật pháp l kẻ tăng thượng mạn.”—The
goddess replied: “The fact that I neither gain nor experience anything
gives me this eloquence. Why is it so? Because he who (claims to) have
won and experienced (something) is arrogant in the eye of the Buddha
Dharma.”
·Ng i
Xá Lợi Phất hỏi Thiên nữ: “Ở trong ba thừa, ý n ng cầu thừa
n o?”—Sariputra asked: “Which of the three vehicles is your aim?”
·Thiên
nữ nói: “Cần pháp Thanh Văn để hóa độ chúng sanh, tôi l m Thanh Văn; cần
pháp nhơn duyên để hóa độ chúng sanh, tôi l m Bích Chi Phật; cần pháp đại
bi để hóa độ chúng sanh, tôi l m Ðại thừa. Thưa ng i Xá Lợi Phất! Như
người v o rừng chiêm bặc, chỉ ngửi có mùi chiêm bặc, chứ không còn mùi
hương n o khác. Cũng như người v o nh nầy chỉ ngửi mùi hương công đức của
Phật chớ không ưa ngửi mùi hương công đức của Thanh Văn v Bích Chi
Phật.”—The goddess replied: “When I preach the sravaka Dharma to convert
people, I appear as a sravaka; when I expound the (twelve) links in the
chain of existence I appear as a pratyeka-buddha; and when I teach great
compassion to convert them, I appear as a (teacher of) Mahayana.
Sariputra, like those entering a campa grove who smell only the fragrance
of campas to the exclusion of all other odours, those entering this room
smell only the fragrance of Buddha merits and no longer like the aroma of
achievements by sravakas and pratyeka-buddha.”
·Thưa
ng i Xá Lợi Phất! Có những vị Ðế Thích Phạm Vương, Tứ Thiên Vương v chư
Thiên, long thần, quỷ cả thảy v o trong nh nầy nghe thượng nhân đây giảng
nói Chánh Pháp, đều ưa mùi hương công đức của Phật phát tâm rồi
ra—Sariputra, when Indra, Brahma, the four deva kings of the four heavens
(guardians of the world), heavenly dragons, ghosts and spirits, etc.
entered the room and heard this Upasaka (Vimalakirti) expound the right
Dharma, they all took delight in smelling the fragrance of Buddha merits
and developed the Mahayana mind before returning to their worlds.
·Thưa
ng i Xá Lợi Phất! Tôi ở nh nầy đã mười hai năm chưa từng nghe nói pháp
Thanh Văn, hay Bích Chi Phật, chỉ nghe đại từ đại bi của Bồ Tát v những
pháp bất khả tư nghì của chư Phật. Thưa ng i Xá Lợi Phất! Nh nầy thường
hiện ra tám pháp ‘chưa từng có, khó được.’ Tám pháp l gì?—Sariputra, I
have stayed here for twelve years during which I have never heard the
Dharmas of sravakas and pratyeka-buddhas but only the doctrine of great
kindness (maitri) and great compassion (karuna) of the Bodhisattvas and
the inconceivable Buddha Dharma. Sariputra, in this room there are always
eight unusual manifestations:
·Thứ
nhất l nh nầy thường dùng ánh sáng sắc v ng soi chiếu ng y đêm không
khác, chẳng cần ánh sáng của nhật nguyệt soi chiếu—First, this room is
illuminated by a golden light, which is the same by day and by night and
does not depend on either sunlight or moonlight to light it up;
·Thứ
hai l nh nầy hễ ai v o rồi không còn bị các thứ cấu nhiễm l m não
loạn—Second, he who enters it is immune from all troubles caused by
defilements;
·Thứ
ba l nh nầy thường có các vị Ðế Thích, Phạm Thiên, Tứ Thiên Vương v các
Bồ Tát ở phương khác nhóm họp không ngớt—Third, this room is visited by
Indra, Brahma, the four deva kings of the four heavens and Bodhisattvas
from other realms;
·Thứ
tư l nh nầy thường nói sáu pháp Ba La Mật v pháp bất thối
chuyển—Fourth, the never-receding Dharma of the six paramitas is always
expounded in it;
·Thứ
năm l nh nầy thường trổi âm nhạc bực nhất của trời, người, vang ra vô
lượng tiếng pháp—Fifth, the most melodious heavenly music intoning
countless Dharma doors (to enlightenment) is heard in it;
·Sáu
l , nh nầy có bốn kho t ng lớn chứa đầy các món báu, giúp khắp cho kẻ
nghèo thiếu, hễ cầu liền được, không bao giờ hết—Sixth, this room contains
the four canons (of sutras, vinaya, sastras and miscellaneous scriptures)
full of inexhaustible precious treasures for those who are (spiritually)
poor
·Thứ
bảy l nh nầy Phật Thích Ca Mâu Ni, Phật A Di Ð , Phật A Súc, Phật Bửu
Ðức, Phật Bửu Diệm, Phật Bửu Nguyệt, Phật Bửu Nghiêm, Phật Nan Thắng, Phật
Sư Tử Hống, Phật Nhất Thiết Lợi Th nh, vô lượng chư Phật trong mười
phương, khi Thượng nhân đây niệm đến, liền hiện tới rộng nói tạng pháp bí
yếu của chư Phật, khi nói xong, các Ng i đều trở về—Seventh, when the
Venerable Upasaka thinks of Sakyamuni Buddha, Amitabha Buddha, Aksobhya
Buddha, the Buddha of Precious Virtues, the Buddha of Precious Flame, the
Buddha of Precious Moonshine, the Buddha of Precious Majesty, the
Invincible Buddha, the Buddha of the Lion’s Roar, the Buddha of
All-Perfection, and countless other Buddhas in the ten directions, they
all come to expound the secrets of the esoteric Buddha Dharma, after which
they return to their realms;
·Thứ
tám l nh nầy tất cả cung điện tốt đẹp của chư Thiên v các cõi Tịnh Ðộ
của chư Phật đều hiện ở trong đây—Eighth, all majestic heavenly palaces
and all pure lands of Buddhas appear in this room.
Ng i Xá Lợi
Phất! Nh nầy thường hiện ra tám pháp ‘chưa từng có, khó đặng’ như thế, ai
thấy được việc không thể nghĩ b n đó m lại còn ham ưa pháp Thanh Văn
ư?”—Sariputra, after witnessing these eight remarkable things in this
room, who still seeks the sravaka Dharma?”
Xá Lợi Phất
nói: “Vì sao ngươi không chuyển thân nữ kia đi?”—Sariputra asked: “Why do
not you change your female bodily form?”
Thiên nữ
đáp: “Mười hai năm nay tìm kiếm mãi cái tướng nữ nhân hẳn không thể được,
phải chuyển đổi cái gì? Ví như nh huyễn thuật hóa ra một người nữ huyễn,
nếu có người hỏi rằng ‘Sao không chuyển thân nữ đó đi.’ Vậy người hỏi đó
có đúng chăng?”—The goddess replied: “For the last twelve years, I have
been looking in vain for a female bodily form; so what do you want me to
change? This is like an illusionist who creates an illusory woman; is it
correct to ask him to change this unreal woman?”
Xá Lợi Phất
nói: “Không đúng. Huyễn hóa không có tướng nhứt định còn phải chuyển đổi
gì nữa?”—Sariputra said: “No, because it is not a real body; into what
then can it be changed?”
Thiên nữ
nói: “Tất cả pháp cũng như thế, không có tướng nhứt định, tại sao lại hỏi
không chuyển thân nữ?”—The goddess said: “All phenomena (including forms)
are also unreal. So why have you asked me to change my unreal female
body?”
Bấy giờ
Thiên nữ dùng sức thần thông biến Ng i Xá Lợi Phất th nh ra Thiên nữ,
Thiên nữ lại tự hóa mình giống như ng i Xá Lợi Phất m hỏi rằng: “Tại sao
Ng i không chuyển thân nữ đi?”—At that time, she used her supernatural
powers to change Sariputra into a heavenly goddess and herself into a man
similar to Sariputra, and asked him: “Why do you change your female form?”
Ng i Xá Lợi
Phất mang lấy hình tướng thân nữ m đáp rằng: “Ta nay không biết tại sao
lại biến th nh thân đ n b nầy?”—Sariputra replied: “I do not know why I
have turned into a goddess.”
Thiên nữ
nói: “Thưa ng i xá Lợi Phất! Nếu ng i chuyển được thân đ n b đó, thời tất
cả người nữ cũng sẽ chuyển được. Như Ng i Xá Lợi Phất không phải người nữ
m hiện thân nữ, thời tất cả người nữ lại cũng như thế, tuy l thân nữ m
không phải người nữ đâu. Vì thế, Phật nói: ‘Tất cả các pháp không phải đ n
ông, không phải đ n b .’”—The goddess said: “Sariputra, if you can change
your female body, all women should also be able to turn into men. Like
Sariputra who is not a woman but appears in female bodily form, all women
are the same and though they appear in female form, they are fundamentally
not women. Hence the Buddha said: ‘All things are neither male nor
female’.”
Bấy giờ
Thiên nữ thâu nhiếp thần lực, thân ng i Xá Lợi Phất trở lại như cũ. Thiên
nữ hỏi ng i Xá Lợi Phất: “Tướng đ n b bây giờ đâu?”—At that time, the
goddess again used her supernatural powers to change Sariputra back to his
(original) male body, and asked: “Where is your female body now?”
Xá Lợi Phất
đáp: “Tướng đ n b không ở đâu, m ở tất cả.”—Sariputra replied: “The form
of a woman neither exists nor is non-existent.”
Thiên nữ
nói: “Tất cả các pháp lại cũng như thế, không ở đâu m ở tất cả. Vả lại
không ở đâu m ở tất cả l lời Phật nói.”—The goddess then declared:
“Likewise, all things are fundamentally neither existing nor non-existent,
and that which neither exists nor is non-existent is proclaimed by the
Buddha.”
Ng i Xá Lợi
Phất hỏi Thiên nữ: “N ng ở nơi đây chết rồi sẽ sanh nơi đâu?”—Sariputra
asked: “When will you leave (die) here and where will you be reborn?”
Thiên nữ
đáp: “Phật hóa sanh thế n o, tôi cũng hóa sanh thế ấy.”—The goddess
replied: “I shall be reborn like a Buddha by transformation.”
Xá Lợi Phất
nói: “Phật hóa sanh không phải chết rồi mới sanh.”—Sariputra interjected:
“The Buddha’s transformation body implies neither birth nor death.”
Thiên nữ
nói: “Chúng sanh cũng thế , không phải chết rồi mới sanh.”—The goddess
said: Likewise all living beings (fundamentally) are subject to neither
death nor birth.”
Xá Lợi Phất
hỏi: “Ngươi bao lâu sẽ chứng được Vô thượng Chánh đẳng Chánh
giác?”—Sariputra asked: “When will you realize supreme enlightenment
(anuttara-samyak-sambodhi)?”
Thiên nữ
đáp: “Khi n o ng i Xá Lợi Phất trở lại ph m phu, tôi sẽ được Vô thượng
Chánh đẳng Chánh giác.”—The goddess replied: “I shall realize supreme
enlightenment when Sariputra returns to the worldly way of life.”
Xá Lợi Phất
nói: “Có khi n o ta trở lại ph m phu.”—Sariputra retorted: “There is no
such thing as myself (a holy man at the sravaka stage) returning to the
worldly way of life.”
Thiên nữ
nói: “Có khi n o tôi lại được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vì sao? Vì
Bồ Ðề không xứ sở nên không có được.”—The goddess said: “There is also no
such thing as myself realizing enlightenment. Why? Because bodhi (or
enlightenment) is not an objective, which can be realized.”
Xá Lợi Phất
nói: “Hiện nay các Phật chứng Bồ Ðề Vô thượng (A nậu đa la tam miệu tam bồ
đề), các Phật đã chứng, sẽ chứng nhiều như số cát sông Hằng thời gọi l
gì?”—Sariputra retorted: “There are Buddhas as countless as sand grains in
the Ganges, who have realized and will win supreme enlightenment; what
will you say of them?”
Thiên nữ
đáp: “Ðấy l theo số mục văn tự ở đời m nói có ba đời, chớ không phải nói
Bồ Ðề có quá khứ, vị lai v hiện tại. Thưa ng i Xá Lợi Phất! Ng i đắc được
đạo A la hán ư?”—The goddess said: “The three periods of time(the past,
future and present) are spoken of (to the common man) as being in line
with worldly thinking but this does not mean that bodhi (which is timeless
or eternal) is tied to the past, future and present.” She then asked
Sariputra: “Sariputra, have you realized arhatship?”
Xá Lợi Phất
đáp: “Không có đặng m đặng.”—Sariputra replied: “I have realized it
because I hold no concept of winning anything.”
Thiên nữ
nói: “Chư Phật, Bồ Tát cũng như thế, không đặng m đặng.”—The goddess
said: “Likewise, all Buddhas and great Bodhisattvas achieved their goals
because they were free from the idea of winning supreme enlightenment.”
Bấy giờ ông
Duy Ma Cật bảo ng i Xá Lợi Phất: “Thiên nữ đã từng cúng dường 92 ức Ðức
Phật, đã được thần thông du hý của Bồ Tát, nguyện lực đầy đủ, chứng vô
sanh nhẫn không có thối lui, vì theo bổn nguyện nên tùy ý m hiện ra để
giáo hóa chúng sanh.”—At that time, Vimalakirti said to Sariputra: “This
goddess has made offering to ninety-two lacs of Buddhas. She is able to
play with the Bodhisattva transcendental powers, has fulfilled all her
vows, has realized the patient endurance of the uncreate and has reached
the never-receding Bodhisattva stage. In fulfillment of a vow, she appears
at will (everywhere) to teach and convert living beings.”
CHƯ NG TÁM-CHAPTER EIGHT
PHẨM PHẬT Ð O—THE BUDDHA PATH
·Bấy
giờ ng i Văn Thù Sư Lợi hỏi ông Duy Ma Cật rằng: “Bồ Tát thế n o l thông
đạt Phật đạo?”—Manjusri asked Vimalakirti: “How does a Bodhisattva enter
the Buddha path?”
·Duy
Ma Cật đáp: “Bồ Tát thực h nh phi đạo (trái đạo) l thông đạt Phật
đạo.”—Vimalakirti replied: “If a Bodhisattva treads the wrong ways
(without discrimination), he enters the Buddha path.”
·Văn
Thù Sư Lợi hỏi: “Thế n o l Bồ Tát thực h nh phi đạo?”—Manjusri asked:
“What do you mean by a Bodhisattva treading the wrong ways?”
·Duy
Ma Cật đáp: “Nếu Bồ Tát gây năm tội vô gián m không buồn giận, đến ở
trong địa ngục m không có tội cấu; đến trong lo i súc sanh m không có
những lỗi vô minh kiêu mạn; đến trong ngạ quỷ m vẫn đầy đủ công đức;
đến cảnh sắc v vô sắc giới m không cho l thù thắng; hiện l m tham dục
m không nhiễm đắm; hiện l m giận dữ m đối với chúng sanh không có ngại
gì; hiện cách ngu si m dùng trí tuệ điều phục tâm mình; hiện l m hạnh
tham lam bỏn xẻn m bỏ tất cả của cải, không tiếc thân mạng; hiện pháp
giới cấm m ở trong tịnh giới, đến như tội bé nhỏ cũng hết lòng sợ sệt;
hiện l m thù hận m thường từ bi nhẫn nhục; hiện l m lười biếng m siêng
tu các công đức; hiện l m loạn ý m thường niệm định; hiện l m ngu si m
thông đạt trí tuệ thế gian v xuất thế gian; hiện l m dua dối m phương
tiện thuận theo nghĩa các kinh; hiện l m kiêu mạn m đối với chúng sanh
mình cũng như cầu đó; hiện l m tất cả phiền não m lòng thường thanh tịnh;
hiện v o trong chúng ma m thuận theo trí tuệ của Phật, không theo đạo
giáo khác; hiện l m h ng Thanh Văn m nói các pháp chưa từng nghe cho
chúng sanh; hiện v o h ng Bích Chi Phật m th nh tựu lòng đại bi, giáo hóa
chúng sanh; hiện v o hạng nghèo n n m có tay đầy đủ công đức; hiện v o
hạng t n tật m đủ tướng tốt để trang nghiêm thân mình; hiện v o hạng hèn
hạ m sanh trong dòng giống Phật, đầy đủ các công đức; hiện v o hạng người
ốm yếu xấu xa m được thân Na la diên (kim cang), tất cả chúng sanh đều
muốn xem; hiện v o hạng gi bệnh m đoạn hẳn gốc bệnh, không còn sợ chết;
hiện l m hạng gi u có m xem l vô thường, không có tham đắm; hiện có thê
thiếp, thế nữ m tránh xa bùn lầy ngũ dục; hiện nơi hạng đần độn m th nh
tựu biện t i, vẫn giữ tổng trì; hiện v o t tế m dùng chánh tế độ chúng
sanh; hiện v o khắp các đạo, để đoạn đứt nhơn duyên; hiện v o Niết B n m
không bỏ sanh tử. Thưa ng i Văn Thù Sư Lợi! Nếu Bồ Tát l m được những việc
trái đạo như thế, đấy l thông suốt Phật đạo.”—Vimalakirti replied: “(In
his work of salvation) if a Bodhisattva is free from irritation and anger
while appearing in the fivefold uninterrupted hell; is free from the stain
of sins while appearing in (other) hells; is free from ignorance,
arrogance and pride while appearing in the world of animals; is adorned
with full merits while appearing in the world of hungry ghosts; does not
show his superiority while appearing in the (heavenly) worlds of form and
beyond form; is immune from defilements while appearing in the world of
desire; is free from anger while appearing as if he were resentful; uses
wisdom to control his mind while appearing to be stupid; appears as if he
were greedy but gives away all his outer (i.e. money and worldly) and
inner (i.e. bodily) possessions without the least regret for his own life;
appears as if he broke the prohibitions while delighting in pure living
and being apprehensive of committing even a minor fault; appears as if he
were filled with hatred while always abiding in compassionate patience;
appears as if he were remiss while diligently practicing all meritorious
virtues; appears as if he were disturbed while always remaining in the
state of serenity; appears as if he were ignorant while possessing both
mundane and supramundane wisdoms; appears as if he delighted in flattering
and falsehood while he excels in expedient methods in conformity with
straightforwardness as taught in the sutras; shows arrogance and pride
while he is as humble as a bridge; appears as if he were tormented by
troubles while his mind remains pure and clean; appears in the realm of
demons while defeating heterodox doctrines to conform with the Buddha
wisdom; appears in the realm of sravakas where he expounds the unheard of
supreme Dharma; appears in the realm of pratyeka-buddhas where he converts
living beings in fulfillment of great compassion; appears amongst the poor
but extends to them his precious hand whose merits are inexhaustible;
appears amongst the crippled and disabled with his own body adorned with
the excellent physical marks (of the Buddha); appears amongst the lower
classes but grows the seed of the Buddha nature with all relevant merits;
appears amongst the emaciated and ugly showing his strong body to the
admiration of them all; appears as an old and ill man but is actually free
from all ailments with no fear of death; appears as having all the
necessities of life but always sees into impermanence and is free from
greed; appears to have wives, concubines and maids but always keeps away
from the morass of the five desires; appears amongst the dull-witted and
stammerers to help them win the power of speech derived from the perfect
control of mind; appears amongst heretics to teach orthodoxy and deliver
all living beings; enters all worlds of existence to help them uproot the
causes leading thereto; and appears as if entering nirvana but without
cutting off birth and death; Manjusri, this Bodhisattva can tread
heterodox ways because he has access to the Buddha path.”
·Bấy
giờ ông Duy Ma Cật hỏi ng i Văn Thù Sư Lợi rằng: “Thế n o l hạt giống Như
Lai?”—Vimalakirti then asked Manjusri: “What are the seeds of the
Tathagata?”
·Ng i
Văn Thù đáp—Manjusri replied:
·Có
thân l hạt giống: “Body is (a) seed of the Tathagata;
·Vô
minh có ái l hạt giống: Ignorance and craving are its (two) seeds;
·Tham
sân si l ba hạt giống: Desire, hate and stupidity its (three) seeds;
·Tứ
điên đảo l bốn hạt giống: The four inverted views its (four) seeds (see
Tứ Ðiên Ðảo);
·Năm
món ngăn che l năm hạt giống: The five covers (or screens) its (five)
seeds (see Ngũ Triền Cái);
·Lục
nhập l sáu hạt giống: The six organs of sense its (six) seeds (see Lục
Nhập);
·Thất
thức l bảy hạt giống: The seven abodes of consciousness its (seven)
seeds;
·Tám
t pháp l tám hạt giống: The eight heterodox views its (eight) seeds;
·Chín
món não l chín hạt giống: The nine causes of klesa (troubles and their
causes) its (nine) seeds;
·Thập
ác l mười hạt giống: The ten evils its (ten) seeds. To sum up, all the
sixty-two heterodox views and all sorts of klesa are the seeds of
Buddhahood.
·Ông
Duy Ma Cật hỏi: “Tại sao thế?”—Vimalakirti asked Mnjusri: “Why is it so?”
Văn Thù
đáp: “Nếu người thấy vô vi m v o chánh vị (Niết B n) thời không thể còn
phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác nữa. Ví như chỗ gò cao không thể
sinh hoa sen, m nơi bùn lầy thấp ướt mới có hoa sen. Như thế, người thấy
vô vi, v o chánh vị không còn sanh trong Phật pháp được, m ở trong bùn
lầy phiền não mới có chúng sanh nghĩ đến Phật pháp m thôi. Lại như gieo
hạt giống trên hư không thì không sinh được, ở đất phân bùn mới tốt tươi
được. Như thế, người đã v o vô vi chánh vị không sanh được trong Phật
pháp, kẻ khởi ngã kiến như núi Tu Di còn có thể phát tâm Vô thượng Chánh
đẳng Chánh giác m sinh trong Phật pháp. Cho nên phải biết tất cả phiền
não l hạt giống Như Lai. Ví như không xuống bể cả, không thể đặng bảo
châu vô giá, cũng như không v o biển cả phiền não thời l m sao m có ngọc
báu’nhứt thiết trí.’”—Manjusri replied: “Because he who perceives the
inactive (wu wei) state and enters its right (nirvanic) position, is
incapable of advancing further to achieve supreme enlightenment
(anuttara-samyak-sambodhi). For instance, high ground does not produce
the lotus, which grows only in marshy land. Likewise, those perceiving
nirvana and entering its right position, will not develop into Buddhahood,
whereas living beings in the mire of klesa can eventually develop the
Buddha Dharma. This is also like seeds scattered in the void, which do not
grow, but if they are planted in manured fields they will yield good
harvests. Thus, those entering the right position (of nirvana) do not
develop the Buddha Dharma, whereas those whose view of the ego is as great
as (Mount) Sumeru may (because of the misery of life) eventually set their
minds on the quest of supreme enlightenment, thereby developing the Buddha
Dharma.
“Therefore,
we should know that all sorts of klesa are the seeds of the Tathagata.
This is like one who does not plunge into the ocean will never find the
priceless pearl. Likewise, a man who does not enter the ocean of klesa
will never win the gem of all-knowledge (sarvajna).”
·Lúc
bấy giờ ng i Ðại Ca Diếp khen rằng: “Hay thay! Hay thay! Ng i Văn Thù Sư
Lợi, lời nói thích quá. Thật đúng như lời Ng i nói những bọn trần lao l
giống Như Lai. Hôm nay, chúng tôi không còn kham phát tâm Vô thượng Chánh
đẳng Chánh giác. Ðến như người đủ năm tội vô gián còn có thể phát ý mong
sanh trong Phật pháp, m nay chúng tôi ho n to n không phát được. Ví như
những người năm căn đã hư, đối với năm món dục lạc chẳng còn cảm xúc. Cũng
như h ng Thanh Văn đã đoạn hết kiết sử, ở trong Phật pháp không còn có lợi
ích gì mấy, bởi không còn có chí nguyện.”—At that time, Mahakasyapa
exclaimed : “Excellent, Manjusri, excellent, your sayings are most
gratifying. As you have said, those suffering from klesa are the seeds of
the Tathagata. So we are no longer capable of developing a mind set on
enlightenment. Even those committing the five deadly sins can eventually
set their minds on the quest of the Buddha Dharma but we are unable to do
so, like persons whose defective organs prevent them from enjoying the
five objects of the senses. Likewise, the sravakas who have cut off all
bonds (of transmigration) are no longer interested in the Buddha Dharma
and will never want to realize it.
Vì
thế, thưa ng i Văn Thù Sư Lợi! Ph m phu ở trong Phật pháp còn có ảnh
hưởng, m h ng Thanh Văn thời không. Vì sao? Vì ph m phu nghe Phật nói
pháp khởi được đạo tâm vô thượng, chẳng đoạn Tam Bảo, còn chính như Thanh
Văn trọn đời nghe Phật pháp: thập lực, tứ vô úy, vân vân m ho n to n cũng
không phát được đạo tâm vô thượng.”—Therefore, Manjusri, the worldly man
still reacts (favourably) to the Buddha Dharma whereas the sravaka does
not. Why? Because when the worldly man hears about the Buddha Dharma, he
can set his mind on the quest of the supreme path, thereby preserving for
ever the Three Treasures (of Buddha, Dharma and Sangha), whereas the
sravaka, even if he passes his lifetime listening to the Dharma and
witnessing the fearlessness of the Buddha, etc., will never dream of the
supreme way.”
Trong chúng
hội có Bồ Tát tên Phổ Hiện Sắc Thân hỏi ông Duy Ma Cật rằng: “Cư sĩ! Cha
mẹ, vợ con, thân bằng quyến thuộc, những người trí thức l ai? Tôi tớ,
trai bạn, voi ngựa, xe cộ ở đâu?”—A Bodhisattva called Universal
Manifestation, who was present asked Vimalakirti: “Who are your parents,
wife and children, relatives and kinsmen, official and private friends,
and where are your pages and maids, elephants and horse carts?”
Duy Ma Cật
dùng b i kệ đáp rằng—In reply Vimalakirti chanted the following:
Trí
độ mẹ Bồ Tát, phương tiện ấy l cha, Ðạo sư tất cả chúng, đều do đấy sinh
ra—Wisdom-perfection is a Bodhisattva’s Mother, his father is expedient
method, For the teachers of all living beings come, Only from these two
(upaya and prajna).
Pháp
hỷ chính l vợ, tâm từ bi l gái, tâm th nh thực l trai, rốt ráo vắng
lặng nh —His wife is joy in Dharma’s law; Kindness and pity are his
daughters; His sons morality and truthfulness; Absolute voidness his quiet
abode.
Trần
lao l đệ tử, tùy ý m sai xử, đạo phẩm vốn bạn l nh, do đấy th nh Chánh
giác—Passions are his disciples Whom he transforms at will. Bodhipaksita
dharma are his friends. Helping him to win supreme enlightenment.
Các
độ l pháp lữ, tứ nhiếp l kỹ nữ, ca ngâm tụng lời pháp, lấy đó l m âm
nhạc, vườn tược ấy tổng trì, cây rừng pháp vô lậu, hoa giác ý sạch mầu,
trái giải thoát trí tuệ—All other perfections are his companions. The four
winning methods are his courtesans, hymns, chants and intonations of
Dharma are his melodies. Complete control over passions is his domain,
passionlessness is his grove. The (seven) grades of bodhi are the flowers
bearing the fruit of wisdom’s liberation.
Bát
giải thoát l ao tắm, nước định lặng trong đầy, rải bảy thứ tịnh hoa, để
tắm người không nhơ—The pool of eightfold liberation holds calm water,
which is clear and full. The seven blossoms of purity are well arranged to
bathe this undefiled (Bohdisattva) man.
Ngũ
thông voi ngựa chạy, Ðại thừa l xe cộ, cầm cương l nhất tâm, dạo chơi
đường bát chánh—Whose five supernatural powers are walking elephants and
horses while the Mahayana is his vehicle, which controlled by the one
mind, rolls through the eight noble paths.
Tướng
đủ nghiêm mặt m y, các tốt trau hình dáng, hổ thẹn l m thượng phục, thâm
tâm l m tr ng hoa— (Thirty-two) distinctive marks dignify his body; while
(eighty) excellences add to it their grace. Shamefulness is his raiment,
and deep mind his coiffure.
Gi u
có bảy của báu, dạy bảo để thêm lợi, như lời nói tu h nh, hồi hướng l m
lợi lớn—The seven riches that he owns are his assets which, used to teach
others, earn more dividends. Dedicating all merits (to Buddhahood), his
practice of the Dharma has received wins far greater profit.
Tứ
thiền l m giường ghế, từ tịnh mạng sanh ra, học rộng thêm trí tuệ, đó l
tiếng tự giác—The four dhyanas are his meditation bed, which from pure
living originates. Much learning increases wisdom announcing
self-awakening.
Món
ăn pháp cam lồ, nước uống vị giải thoát, tắm rửa sạch tịnh tâm, hương hoa
l giới phẩm. Trừ dẹp giặc phiền não, mạnh mẽ không ai hơn, h ng phục bốn
thứ ma, phướn tốt dựng đạo tr ng—His broth is the flavour of release. The
precepts are his perfumed
Salve and
pure mind is his bath. By killing the culprit klesa is his boldness
unsurpassed. By defeating the four demons, he plants his triumphant banner
as a bodhimandala.
Tuy
biết không sanh diệt, vì dạy chúng có sanh, khắp hiện v o các cõi, như mặt
nhựt đều thấy—Though he knows there is neither birth nor death, he is
reborn to show himself to all, appearing in many countries. Like the sun
seen by everyone.
Cúng
dường khắp mười phương, không lường ức Như Lai, chư Phật v thân mình,
không có tưởng phân biệt—When making offerings to countless Buddhas in the
ten directions, he does not discriminate between himself and them.
Dầu
biết các cõi Phật, với chúng sanh đều không, m thường tu Tịnh Ðộ, dạy dỗ
cho quần sanh—Although He knows that Buddha lands are void like living
beings. He goes on practicing the Pure Land (Dharma) to teach and convert
men.
Bao
nhiêu lo i hữu tình, oai nghi cùng hình tiếng, Bồ Tát lực vô úy, đồng thời
đều khắp hiện—In their kinds, features, voices and bearing, this fearless
Bodhisattva can appear the same as they.
Rõ
biết các việc ma, m hiện theo hạnh nó. Dùng trí phương tiện khéo, tùy ý
đều hay hiện, hoặc hiện gi , bệnh, chết; th nh tựu cho chúng sanh. Rõ biết
như huyễn hóa, thông suốt không ngăn ngại—He, knows the mischief demons,
do but appears as one of them. Using wise expedient means to look like
them at will. Or he appears old, ill and dying to make living beings
realize that all things are but illusion, to free them from all handicaps.
Hoặc
hiện kiếp cháy tan, đại địa đều trống rỗng, những người có ‘tưởng’ thường,
soi thấy rõ vô thường—Or he shows the aeon’s end with fire destroying
heaven and earth, so that those clinging to permanence realize the
impermanence of things.
Vô
số ức chúng sanh, đều đến thỉnh Bồ Tát, đồng thời đến nh kia, dạy cho về
Phật đạo, kinh sách cấm chú thuật. Các nghề nghiệp khéo léo, đều hiện l m
việc ấy, lợi ích cho quần sanh—Then countless living beings call on this
Bodhisattva, inviting Him to their homes to convert them to the Buddha
path. In heterodox books, spells, skills, magic, arts and talents, he
appears to be an expert to help and benefit (all) living beings.
Các
đạo pháp thế gian, nương đấy m xuất gia, để giải mê cho người, m chẳng
đọa t kiến, l m nhựt nguyệt thiên tử, l m Phạm vương, chủ, chúa; hoặc khi
l m đất nước, hoặc lại l m gió lửa—Appearing in their midst, he joins the
Sangha in order to release them from defilement, to prevent their slipping
into heresy. Then, is he seen as the sun, moon or heaven as Brahma or the
lord of (all) the world. At times, as earth or water or as the wind and
fire.
V o
kiếp có tật dịch, hiện l m các cây thuốc, nếu người n o uống đến, các bệnh
ác tiêu trừ—When they fall ill or epidemics rage, he prepares medicinal
herbs for them to take to cure their illness or infection.
V o
kiếp có đói khát, hiện l m đồ ăn uống, trước l cứu đói khát, sau giảng
dạy chánh pháp—When famine prevails, he makes food and drink to save them
from thirst and hunger, before teaching them the Dharma.
V o
kiếp có đao binh, duyên khởi lòng từ bi, giáo hóa cho chúng sanh, tâm đừng
còn tranh đấu—In times of war, he teaches kindness mercy to convert living
beings, so that they can live in peace.
Nếu
có chiến trận lớn, l m cho sức ngang nhau, Bồ Tát hiện oai thế, h ng phục
để yên hòa—When armies line up for battle, he gives equal strength to
both. With his authority and power, he forces them to be reconciled and
live in harmony.
Trong
tất cả cõi nước, chỗ n o có địa ngục, đi ngay đến nơi ấy, cứu vớt người
khổ não—To all countries where there are hells, he comes unexpectedly
to relieve
their sufferings.
Trong
tất cả cõi nước, súc sanh ăn lẫn nhau, đều hiện sanh ra nó, l m cho được
lợi ích—Wherever animals devour one another, he appears among them urging
them to do good.
Thị
hiện trong ngũ dục, lại cũng hiện tu thiền, để tâm ma rối loạn, không thừa
dịp hại được—Seeming to have the five desires, he is always meditating to
upset the demons and prevent their mischief.
Hoa
sen sanh trong lửa, thật đáng gọi ít có, cõi dục m tu thiền, ít có cũng
như thế—Like that thing most rare, a lotus blossoming in a scorching fire,
he meditates amidst desires, which also is a thing most rare.
Hoặc
hiện l m dâm nữ, dẫn dắt kẻ háo sắc, trước lấy dục dụ người, sau khiến v o
Phật trí—Or, he appears as a prostitute to entice those, who to lust is a
given. First, using temptation to hook them, he then leads them to the
Buddha wisdom.
Hoặc
l m chủ trong ấp, hoặc l m thầy khách buôn, quốc sư v đại thần, để lợi
ích chúng sanh—He appears as a district magistrate, or as a chief of the
caste of traders, a state preceptor or high official to protect living
beings.
Các
chỗ có kẻ nghèo, hiện l m kho vô tận, nhân đó khuyến dạy người, cho phát
tâm vô thượng—To the poor and destitute, he appears with boundless purse
to advise and guide them until they develop the bodhi mind.
Kẻ
kiêu căng ngã mạn, hiện l m những lực sĩ, tiêu phục lòng cống cao, quay về
đạo Vô thượng—To the proud and arrogant, he appears as powerful to
overcome their vanity until they tread the path supreme.
Những
người hay sợ sệt, đến nơi để an ủi, trước thí pháp không sợ, sau dạy phát
đạo tâm—Then he comes to comfort people who are cowards, first he makes
them fearless, then urges them to seek the truth.
Hoặc
hiện lìa dâm dục, l m vị Tiên ngũ thông, chỉ dạy cho chúng sanh, để được
giới nhẫn từ—Or he appears without desires and acts, like a seer with five
spiritual powers to convert living beings by teaching them morality,
patience and mercy.
Thấy
người cần hầu hạ, hiện l m kẻ tôi tớ, vừa đẹp ý người kia, vừa phát được
đạo tâm—To those needing support and help, he may appear as a servant to
please and induce them to grow the Tao mind.
Tùy
theo việc cần dùng, m v o trong Phật đạo, dùng sức phương tiện khéo, đều
giúp cho đầy đủ—Providing them with all they need to enter on the Buddha
path; thus using expedient methods to supply them with all their needs.
Ðạo
pháp nhiều không lường, việc l m không bờ mé, trí tuệ không hạn lượng, độ
thoát vô số chúng—Then as with boundless truth, his deeds are also
endless; with his wisdom that has no limit, he frees countless living
beings.
Dầu
cho tất cả Phật, trong vô số ức kiếp, khen ngợi công đức kia, cũng không
thể hết được—If all the Buddhas were to spend countless aeons in praising
his merits, they could never count them fully.
Ai
nghe pháp như thế, chẳng phát tâm Bồ Ðề, trừ những người bất tiếu, ngu si
không trí tuệ—Who, after hearing this Dharma, develops not the bodhi mind,
can only be a worthless man without wisdom.”
CHƯ NG CHÍN—CHAPTER NINE
PHẨM VÀO PHÁP MÔN KHÔNG
HAI—INITIATION INTO THE NON-DUAL DHARMA
Bấy
giờ ông Duy Ma Cật bảo các vị Bồ Tát rằng: “Các nhân giả! Theo chỗ các
ng i hiểu thì thế n o l Bồ Tát v o pháp môn không hai?”—At that time,
Vimalakirti said to the Bodhisattvas present: “Virtuous Ones, each of you
please say something about the non-dual Dharma as you understand it.”
Trong Pháp
hội có Bồ Tát tên l Pháp Tự Tại nói: “Các nhân giả! Sanh Diệt l hai.
Pháp vốn không sanh, cũng không diệt, đặng vô sanh pháp nhẫn, đó l v o
pháp môn không hai.”—In the meeting, a Bodhisattva called “Comfort in the
Dharma” said: “Virtuous Ones, birth and death are a duality but nothing is
created and nothing is destroyed. Realization of this patient endurance
leading to the uncreate is initiation into the non-dual Dharma.”
Bồ Tát Ðức
Thủ nói: “Ngã v Ngã Sở l hai. Nhân có ngã mới có ngã sở, nếu không có
ngã thời không có ngã sở, đó l v o pháp môn không hai.”—The bodhisattva
called “Guardian of the Three Virtues” said: “Subject and object are a
duality for where there is ego there is also (its) object, but since
fundamentally there is no ego, its object does not arise; this is
initiation into the non-dual Dharma.”
Bồ Tát Bất
Thuấn nói: “Thọ v Không Thọ l hai. Nếu các pháp không thọ thời không có
‘được,’ vì không có ‘được,’ nên không thủ xả, không gây không l m đó l
v o pháp môn không hai.”—The Bodhisattva “Never Winking” said:
“Responsiveness (vedana, the second aggregate) and unresponsiveness are a
duality. If there is no response to phenomena, the latter cannot be found
anywhere; hence there is neither accepting nor rejecting (of anything),
and neither karmic activity nor discrimination; this is initiation into
the non-dual Dharma.”
Bồ Tát Ðức
Ðảnh nói: “Nhơ v Sạch l hai. Thấy được tánh chân thật của nhơ, thời
không có tướng sạch, thuận theo tướng diệt, đó l v o pháp môn không
hai.”—The Bodhisattva “Highest virtue” said: “Impurity and purity are a
duality. When the underlying nature of impurity is clearly perceived,
even purity ceases to arise. Hence this cessation (of the idea of purity)
is initiation into the non-dual Dharma.”
Bồ Tát
Thiện Túc nói: “Ðộng v Niệm l hai. Không động thời không niệm, không
niệm thời không phân biệt; thông suốt lý ấy l v o pháp môn không
hai.”—The Bodhisattva “Winner of Samadhi by Looking at the Star” said:
“(External) disturbance and (inner) thinking are a duality; when
disturbance subsides, thinking comes to an end and the absence of thought
leads to non-dual Dharma.”
Bồ Tát
Thiện Nhãn nói: “Một Tướng v Không Tướng l hai. Nếu biết một tướng tức
l không tướng, cũng không chấp không tướng m v o bình đẳng, đó l v o
pháp môn không hai.”—The Bodhisattva “Skillful Eye” said: “Monistic form
and formlessness are a duality. If monistic form is realized as
(fundamentally) formless, with relinquishment of formlessness in order to
achieve impartiality, this is initiation into the non-dual Dharma.”
Bồ Tát Diệu
Tý nói: “Tâm Bồ Tát v Tâm Thanh Văn l hai. Quán tướng của tâm vốn không,
như huyễn như hóa, thời không có tâm Bồ Tát cũng không có tâm Thanh Văn,
đó l v o pháp môn không hai.”—The Bodhisattva “Wonderful Arm” said: “The
Bodhisattva mind and the Sravaka mind are a duality. If the mind is looked
into as void and illusory, there is neither Bodhisattva mind nor sravaka
mind; this is initiation into the non-dual Dharma.”
Bồ Tát Phất
Sa nói: “Thiện v Bất Thiện l hai. Nếu không khởi thiện v bất thiện, v o
gốc không tướng m thông suốt được, đó l v o pháp môn không hai.”—The
Bodhisattva Pusya said: “Good and evil are a duality; if neither good nor
evil arises so that formlessness is realized to attain Reality, this is
initiation into the non-dual Dharma.”
Bồ Tát Sư
Tử nói: “Tội v Phước l hai. Nếu thông đạt được tánh của tội, thì tội
cùng phước không khác, dùng tuệ kim cang quyết liễu tướng ấy, không buộc
không mở, đó l v o pháp môn không hai.”—The Bodhisattva Simha (Lion)
said: “Weal and woe are a duality; if the underlying nature of woe is
understood, woe does not differ from weal. If the diamond (indestructible)
wisdom is used to look into this with neither bondage nor liberation
(coming into play), this is initiation into the non-dual Dharma.”
Bồ Tát Sư
Tử Ý nói: “Hữu Lậu v Vô Lậu l hai. Nếu chứng được các pháp bình đẳng
thời không có tưởng hữu lậu v vô lậu, không chấp có tướng cũng không chấp
vô tướng, đó l v o pháp môn không hai.”—The Bodhisattva “Lion’s
Fearlessness” said: “The mundane and supra-mundane are a duality. If all
things are looked into impartially, neither the mundane nor the
supra-mundane will arise, with no differentiation between form and
formlessness, this is initiation into the non-dual Dharma.”
Bồ Tát Tịnh
Giải nói: “Hữu Vi v Vô Vi l hai. Nếu lìa tất cả số thời tâm như hư
không, dùng tuệ thanh tịnh không có chướng ngại, đó l v o pháp môn không
hai.”—The Bodhisattva “Pure Interpretation” said: “Activity (ju wei) and
non-activity (wu wei) are a duality, but if the mind is kept from all
mental conditions it will be (void) like space and pure and clean wisdom
will be free from all obstructions. This is initiation into the non-dual
Dharma.”
Bồ Tát Na
La Diên nói: “Thế Gian v Xuất Thế Gian l hai. Tánh thế gian không tức l
xuất thế gian, trong đó không v o không ra, không đầy không vơi, đó l v o
pháp môn không hai.”—The Bodhisattva Narayana said: “The mundane and the
supra-mundane are a duality but the underlying nature of the mundane is
void (or immaterial) and is but the supra-mundane, which can be neither
entered nor left and neither overflows (like the stream of transmigration)
nor scatters (like smoke). This is initiation into the non-dual Dharma.”
Bồ Tát
Thiện Ý nói: “Sanh Tử v Niết B n l hai. Nếu thấy được tánh sanh tử thời
không có sanh tử, không buộc không mở, không sinh không diệt, hiểu như thế
đó l v o pháp môn không hai.”—The Bodhisattva “Skillful Mind” said:
“Samsara and nirvana are a duality. If the underlying nature of samsara
is perceived there exists neither birth nor death, neither bondage nor
liberation, and neither rise nor fall. Such an understanding is
initiation into the non-dual Dharma.”
Bồ Tát Hiện
Kiến nói: “Tận v Không Tận l hai. Pháp đến chỗ rốt ráo thời tận hoạêc
không tận đều l tướng Vô Tận tức l Không, không thời không có tướng tận
v không tận, được như thế đó l v o pháp môn không hai.”—The Bodhisattva
“Direct Insight” said: “The exhaustible and the inexhaustible are a
duality. If all things are looked into exhaustively, both the exhaustible
and the inexhaustible cannot be exhausted; and the inexhaustible is
identical with the void which is beyond both the exhaustible and the
inexhaustible. Such an interpretation is initiation into the non-dual
Dharma.”
Bồ Tát Phổ
Thủ nói: “Ngã v Vô Ngã l hai. Ngã còn không có, thời Phi Ngã đâu có
được. Thấy được thực tánh của Ngã không còn có hai tướng, đó l v o pháp
môn không hai.”—The Bodhisattva “Upholder of Universality” said: “The ego
and non-ego are a duality. Since the ego cannot be found, where can the
non-ego be found? He who perceives the real nature of the ego will not
give rise to dualities; this is initiation into the non-dual Dharma.”
Bồ Tát Ðiển
Thiên nói: “Minh v Vô Minh l hai. Thực tánh của vô minh l minh, minh
cũng không thể nhận lấy, lìa tất cả số, ở đó bình đẳng không hai, đó l
v o pháp môn không hai.”—The Bodhisattva “Lightning Perception” said:
“Enlightenment and unenlightenment are a duality, but the underlying
nature of non-enlightenment is enlightenment which should also be cast
away; if all relativities are discarded and replaced by non-dual
impartiality, this is initiation into the non-dual Dharma.”
Bồ Tát Hỷ
Kiến nói: “Sắc v Không l hai. Sắc tức l không, chẳng phải sắc diệt rồi
mới không, tánh sắc tự không; thọ, tưởng, h nh, thức cũng thế. Thức v
Không l hai. Thức tức l không, chẳng phải thức diệt rồi mới không, tánh
thức tự không. Thông hiểu lý đó l v o pháp môn không hai.”—The
Bodhisattva Priyadarsana said: “Form (rupa) and voidness are a duality,
(but) form is identical with voidness, which does not mean that form wipes
out voidness, for the underlying nature of form is void of itself. So are
(the other four aggregates) reception (vedana), conception (sanjna),
discrimination (samskara) and consciousness (vijnana- in relation to
voidness). “Consciousness and voidness are a duality (yet) consciousness
is identical with voidness, which does not mean that consciousness wipes
out voidness for the underlying nature of voidness is void of itself. A
thorough understanding of this is initiation into the non-dual Dharma.”
Bồ Tát Minh
Tướng nói: “Tứ Ðại v Không Ðại l hai. Tánh tứ đại tức l tánh không đại,
như lớp trước lớp sau không, thời lớp giữa cũng không. Nếu biết được thực
tánh các đại thời đó l v o pháp môn không hai.”—The Bodhisattva
“Understanding the Four Elements” said: “The four elements (earth, water,
fire and air) and their voidness are a duality (but) the underlying nature
of the four elements is identical with that of voidness. Like the past
(before the four elements came into being) and the future (when they
scatter away) which are both void, the present (when they appear) is also
void. Identical understanding of the underlying nature of all four
elements is initiation into the non-dual Dharma.”
Bồ Tát Diệu
Ý nói: “Con Mắt v Sắc Trần l hai. Nếu biết được tánh của mắt thời đối
với sắc không tham, không sân, không si, tức l tịch diệt. Tai với tiếng,
mũi với hương, lưỡi với vị, thân với xúc, ý với pháp cũng l hai. Nếu biết
được tánh của ý thời đối với pháp không tham, không sân, không si, tức l
tịch diệt. Nhận như thế đó l v o pháp môn không hai.”—The Bodhisattva
“Deep Thought” said: “Eyes and form are a duality (but) if the underlying
nature of the eye is known with neither desire nor anger nor stupidity in
relation to things seen, this is nirvana. “Likewise, the ear and sound,
the nose and smell, the tongue and taste, the body and touch, and the mind
and ideation are dualities (but) if the underlying nature of the mind is
known with neither desire, anger and stupidity in relation to things
(heard, smelt, tasted, touched and thought), this is nirvana. Resting in
this state (of nirvana) is initiation into the non-dual Dharma.”
Bồ Tát Vô
Tận Ý nói: “Bố Thí v Hồi Hướng Nhứt Thiết Trí l hai. Tánh bố thí tức l
tánh hồi hướng nhứt thiết trí. Trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định,
trí tuệ v hồi hướng nhứt thiết trí lại cũng l hai. Tánh trí tuệ tức l
tánh hồi hướng nhứt thiết trí, ở trong đó v o một tướng l v o pháp môn
không hai.”—The Bodhisattva “Inexhaustible Mind” said: “Charity-perfection
(dana-paramita) and the dedication (parinamana) of its merits towards
realizing the all-knowledge (sarvajna) are a duality, (but) the underlying
nature of charity is dedication towards the All-knowledge. “Likewise,
discipline perfection (sila-paramita), patience-perfection,
(ksanti-paramita), zeal-perfection (virya-paramita), meditation-perfection
(dhyana-paramita) and wisdom-perfection (prajna-paramita), with dedication
to the All-knowledge, are (five) dualities, but their underlying natures
are but dedication to the All-knowledge, while realization of their
oneness is initiation into the non-dual Dharma.”
Bồ Tát Thâm
Tuệ nói: “Không, Vô Tướng v Vô Tác l hai. Không tức l vô tướng, vô
tướng tức l vô tác. Nếu không vô tướng, vô tác thời không có tâm, ý thức.
Một món giải thoát l ba món giải thoát, đó l v o pháp môn không
hai.”—The Bodhisattva “Profound Wisdom” said: “Voidness, formlessness and
non-activity are (three different gates to liberation, and when each is
compared to the other two there are) three dualities, (but) voidness is
formless and formlessness is non-active. For when voidness, formlessness
and non-activity obtain, there is neither mind, nor intellect nor
consciousness, and liberation through either one of these three gates is
identical with liberation through all the three. This is initiation into
the non-dual Dharma.”
Bồ Tát Tịnh
Căn nói: “Phật, Pháp, v chúng Tăng l hai. Phật tức l Pháp, Pháp tức l
chúng Tăng. Ba ngôi báu ấy đều l tướng vô vi, cũng như hư không. Tất cả
pháp cũng vậy, theo được hạnh ấy l v o pháp môn không hai.”—The
Bodhisattva “Unstirred Sense Organs” said: “Buddha, Dharma and Sangha are
three different treasures and when each is compared to the other two there
are three dualities (but) Buddha is identical with Dharma, and Dharma is
identical with Sangha. For the three treasures are non-active (wu wei) and
are equal to space, with the same equality for all things. The realization
of this (equality) is initiation into the non-dual Dharma.”
Bồ Tát Tâm
Vô Ngại nói: “Thân v Thân Diệt l hai. Thân tức l thân diệt. Vì sao?
Thấy thực tướng của thân thời không thấy thân v thân diệt. Thân v thân
diệt không hai, không khác, theo đó chẳng kinh chẳng sợ l v o pháp môn
không hai.”—The Bodhisattva “Unimpeded Mind” said: “Body and its
eradication (in nirvana) are a duality but body is identical with
nirvana. Why? Because if the underlying nature of body is perceived, no
conception of (existing) body and its nirvanic condition will arise, for
both are fundamentally non-dual, not being two different things. The
absence of alarm and dread when confronting this ultimate state is
initiation into the non-dual Dharma.”
Bồ Tát
Thượng Thiện nói: “Thân Thiện, Khẩu Thiện v Ý Thiện l hai. Ba nghiệp n y
l tướng vô tác. Tướng vô tác của thân tức l tướng vô tác của khẩu, tướng
vô tác của khẩu tức l tướng vô tác của ý. Tướng vô tác của ba nghiệp nầy
tức l tướng vô tác của tất cả các pháp. Tùy thuận trí tuệ vô tác như thế
l v o pháp môn không hai.”—The Bodhisattva “Superior Virtue” said: “The
three karmas (produced by) body, mouth and mind (are different when each
is compared to the other two and make three) dualities (but) their
underlying nature is non-active; so non-active body is identical with
non-active mouth, which is identical with non-active mind. These three
karmas being non-active, all things are also non-active. Likewise, if
wisdom (prajna) is also non-active, this is initiation into the non-dual
Dharma.”
Bồ Tát
Phước Ðiền nói: “L m Phước, L m Tội, L m Bất Ðộng l hai. Thực tánh của ba
việc l m tức l Không, không thời không l m phước, không l m tội, không
l m bất động. Ở ba việc nầy m không khởi l v o pháp môn không hai.”—The
Bodhisattva “Field of Blessedness” said: “Good conduct, evil conduct and
motionlessness are (different and when each is compared to the other two
make three) dualities (but) the underlying nature of all three is voidness
which is free from good, evil and motionlessness. The non-rising of these
three is initiation into the non-dual Dharma.”
Bồ Tát Hoa
Nghiêm nói: “Do Ngã m Khởi ra l hai. Thấy được thực tướng của Ngã thời
không khởi ra hai pháp. Nếu không trụ hai pháp thời không có thức. Không
có thức l v o pháp môn không hai.”—The Bodhisattva “Majestic Blossom”
said: “The ego and its objective are a duality, (but) if the underlying
nature of the ego is looked into, this duality vanishes. If duality is
cast away there will be no consciousness, and freedom from consciousness
is initiation into the non-dual Dharma.”
Bồ Tát Ðức
Tạng nói: “Có tướng Sở Ðắc l hai. Nếu không có sở đắc thời không có lấy
bỏ. Không lấy bỏ l v o pháp môn không hai.”—The Bodhisattva “Treasure of
Threefold Potency” said: “Realization implies subject and object which are
a duality, but if nothing is regarded as realization, there will be
neither grasping nor rejecting, and freedom from grasping and rejecting is
initiation into the non-dual Dharma.”
Bồ Tát
Nguyệt Thượng nói: “Tối v Sáng l hai. Không tối, không sáng thời không
có hai. Vì sao? Như v o định diệt thọ tưởng thời không có tối, không có
sáng. Tất cả pháp tướng cũng như thế; bình đẳng v o chỗ ấy l v o pháp môn
không hai.”—The Bodhisattva “Moon in Midheaven” said: “Darkness and light
are a duality. Where there is neither darkness nor light, this duality is
no more. Why? Because in the state of samadhi resulting from the complete
extinction of sensation and thought there is neither darkness nor light,
while all things disappear. A disinterested entry into this state is
initiation into the non-dual Dharma.”
Bồ Tát Ấn
Thủ nói: “Ưa Niết B n, Không Ưa Thế Gian l hai. Nếu không ưa Niết B n,
không chán thế gian thời không có hai. Vì sao? Nếu có buộc thời có mở, nếu
không có buộc thì n o có cầu mở. Không buộc, không mở, thời không ưa,
không chán, đó l v o pháp môn không hai.”—The Bodhisattva Ratna Mudra(
(Precious Symbol) said: Joy in nirvana and sadness in samsara are a
duality which vanishes when there is no longer joy and sadness. Why?
Because where there is bondage, there is also (desire for) liberation, but
if fundamentally there is no bondage nor liberation, there will be neither
joy nor sadness; this is initiation into the non-dual Dharma.”
Bồ Tát Châu
Ðảnh Vương nói: “Chánh Ðạo v T Ðạo l hai. Ở chánh đạo thời không phân
biệt thế n o l t , thế n o l chánh. Lìa hai món phân biệt đó l v o pháp
môn không hai.”—The Bodhisattva “Gem on the Head” said: “Orthodoxy and
heterodoxy are a duality, (but) he who dwells in (i.e. realizes) orthodoxy
does not discriminate between orthodoxy and heterodoxy. Keeping from
these two extremes is initiation into the non-dual Dharma.”
Bồ Tát Nhạo
Thật nói: “Thực v Không Thực l hai. Thực thấy còn không thấy thực, huống
l không thực thấy. Vì sao? Không phải mắt thịt m thấy được, chỉ có mắt
tuệ mới thấy được. Nhưng mắt tuệ không thấy m chỗ n o cũng thấy cả, đó l
v o pháp môn không hai.”—The Bodhisattva “Joy in Reality” said: “Reality
and non-reality are a duality, (but) he who realizes reality does not even
perceive it, still less non-reality. Why? Because reality is invisible
to the ordinary eyes and appears only to the eye of wisdom. Thus
(realization of) the eye of wisdom, which is neither observant nor
unobservant, is initiation into the non-dual Dharma.”
Các Bồ Tát
nói như thế rồi, hỏi ng i Văn Thù Sư Lợi thế n o l Bồ Tát v o pháp môn
không hai—After the Bodhisattva had spoken, they asked Manjusri for his
opinion on the non-dual Dharma.
Ng i Văn
Thù Sư Lợi nói: “Như ý tôi đối với tất cả các pháp không nói, không rằng,
không chỉ, không biết, xa lìa các vấn đáp, đó l v o pháp môn không
hai.”—Manjusri said: “In my opinion, when all things are no longer within
the province of either word or speech, and of either indication or
knowledge, and are beyond questions and answers, this is initiation into
the non-dual Dharma.”
Khi đó ng i
Văn Thù Sư Lợi hỏi ông Duy Ma Cật rằng: “Chúng tôi ai ai cũng nói rồi, đến
lượt nhân giả nói thế n o l Bồ Tát v o pháp môn không hai?”—At that time,
Manjusri asked Vimalakirti: “All of us have spoken; please tell us what is
the Bodhisattva’s initiation into the non-dual Dharma.”
Ông Duy Ma
Cật im lặng không nói một lời. Bấy giờ Ng i Văn Thù Sư Lợi khen rằng: “Hay
thay! Hay thay! Cho đến không có văn tự ngữ ngôn, đó mới thật l v o pháp
môn không hai.”—Vimalakirti kept silent without saying a word. At that,
Manjusri exclaimed: “Excellent, excellent! Can there be true initiation
into the non-dual Dharma until words and speech are no longer written or
spoken?”
Sau khi nói
Phẩm pháp môn không hai nầy, trong chúng có năm ng n Bồ Tát đều v o pháp
môn không hai, chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn—After this initiation into the
non-dual Dharma had been expounded, five thousand Bodhisattvas at the
meeting were initiated into it thereby, realizing the patient endurance of
the uncreate.
CHƯ NG MƯỜI—CHAPTER TEN
PHẨM PHẬT HƯ NG TÍCH—THE BUDDHA
of the FRAGRANT LAND
Bấy giờ ông
Xá Lợi Phất tâm nghĩ rằng: “Giờ ăn gần đến, các Bồ Tát đây sẽ thọ thực nơi
đâu?” Ông Duy Ma Cật biết ý đó bảo ngay rằng: “Phật nói tám món giải
thoát, nhân giả đã vâng l m, đâu có xen cái tâm muốn ăn m nghe pháp ư?
Nếu muốn ăn, hãy đợi giây lát, tôi sẽ hiến cho ng i bữa ăn chưa từng
có.”—Sariputra was thinking of mealtime and of the food for the
Bodhisattvas in the meeting when Vimalakirti, who read his thought, said
to him: “The Buddha taught the eight forms of liberation which you have
received for practice; do you know mix your desire to eat with His
Dharma? If you want to eat, please wait for a moment and you will have a
rare treat.”
Ông Duy Ma
Cật liền nhập chánh định, dùng sức thần thông hiện b y cho đại chúng thấy
rõ cảnh giới phương trên, qua khỏi 42 số cát sông Hằng cõi Phật có nước
tên l Chúng Hương, đức Phật hiệu l Hương Tích nay vẫn hiện tại. Mùi
hương ở nước ấy so với mùi hương của trời, người v các cõi Phật ở mười
phương nó thơm hơn hết. Nước ấy không có tên Thanh Văn v Bích Chi Phật,
chỉ có chúng Ðại Bồ Tát thanh tịnh được Phật nói pháp cho nghe. Nước ấy
tất cả đều dùng chất hương l m lầu các hoa viên, đi kinh h nh trên đất
hương, mùi hương của cơm lan khắp mười phương vô lượng thế giới—At that,
Vimalakirti entered the state of samadhi and used his transcendental power
to show to the assembly a country, which is above separated from this
world by a distance represented by Buddha lands as countless as sand
grains in forty-two Ganges rivers and which was called the country of All
Fragrances, whose Buddha was called the Tathagata of the Fragrant Land,
and was still there. The fragrance of that country surpassed all scents
emitted by the devas in Buddha lands in the ten directions. In that
Buddha land, there were neither sravakas nor pratyeka-buddhas but only
pure and clean Bodhisattvas to whom that Buddha expounded the Dharma. All
things there are formed by fragrances, such as palaces, the earth, gardens
and parks which emit sweet scent, and the fragrance of its food spreads to
countless worlds in the ten directions.
Lúc đó Phật
Hương Tích cùng các Bồ Tát đang ngồi ăn, có các vị Thiên tử đồng tên l
Hương Nghiêm đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, cúng dường Phật
v các Bồ Tát. Cả đại chúng bên cõi Ta B nầy đều thấy rõ tận mặt—Its
Buddha and Bodhisattvas were sitting down for the meal offered to them by
the sons of devas who were all called Glorious Fragrances and were setting
their minds on the quest of supreme enlightenment. This was seen by all
those present in the meeting.
Khi ấy ông
Duy Ma Cật hỏi các Bồ Tát rằng: “Thưa các nhân giả, vị n o có thể đến
thỉnh cơm của Phật kia được?”—Vimalakirti said to his listeners: “Virtuous
Ones, who of you can go there to beg for food from that Buddha?”
Vì nương
theo sức oai thần của Văn Thù Sư Lợi m các vị Bồ Tát thảy đều lặng thinh.
Lúc ấy ông Duy Ma Cật nói rằng: “Các nhân giả không hổ thẹn sao?”—As
Manjusri was noted for his supernatural power, all the Bodhisattvas kept
silent. At that time, Vimalakirti said: “Are not the Virtuous Ones
ashamed (of their inability to do so)? “
Ng i Văn
Thù Sư Lợi nói: “Theo như lời Phật nói, chớ nên khinh người chưa
học.”—Manjusri retorted: “As the Buddha has said, those who have not yet
study and practiced Mahayana should not be slighted.”
Khi đó ông
Duy Ma Cật ngồi yên một chỗ, ở trước chúng hội hóa ra một vị Bồ Tát tướng
tốt rực rỡ, oai đức thù thắng hơn cả đại chúng. Ông bảo vị Hóa Bồ Tát ấy
rằng: “Ông hãy qua cảnh giới phương trên, khỏi 42 số cát sông Hằng cõi
Phật, có nước tên l Chúng Hương, Phật hiệu l Hương Tích v các Bồ Tát
đang ngồi ăn, ông qua đó y theo lời tôi m thưa rằng, ‘Duy Ma Cật xin cúi
đầu đảnh lễ dưới chân Thế Tôn, cung kính không cùng v hỏi thăm Thế Tôn
hằng ng y khởi cư ít bệnh, ít não, sức khỏe được an chăng? Nguyện được món
cơm thừa của Thế Tôn đem về cõi Ta B l m việc Phật, để cho những người ưa
pháp nhỏ được pháp lớn, v để cho tiếng tăm của Như Lai được khắp tất
cả.”—Thereupon, Vimalakirti, without rising from his seat, used his
transcendental power to create an illusory (bogus) Bodhisattva whose
features were radiant and whose dignity was unsurpassable, overshadowing
the whole assembly. He then said to this illusory Bodhisattva: “Ascend to
the Fragrant Land to call on its Buddha, saying what I now tell you:
‘Upasaka Vimalakirti bows his head at your feet to pay his reverence and
inquires respectfully about your happy tidings; he hopes you are well and
have no difficulties (in converting living beings) and that your vigor is
full. He wishes to receive some leftovers from your meal to do the
salvation work in the saha world for the purpose of converting to Mahayana
those of the small vehicle and of spreading the renown of the Tathagata to
make it known everywhere’.”
Lúc đó Hóa
Bồ Tát liền ở trước hội bay lên phương trên, cả đại chúng đều thấy Hóa Bồ
Tát ấy đi đến nước Chúng Hương lễ dưới chân Phật v nghe tiếng thưa rằng:
“Duy Ma Cật xin cúi đầu lễ dưới chân Thế Tôn, cung kính không cùng v thăm
hỏi Thế Tôn hằng ng y khởi cư ít bệnh, ít não, sức khỏe được an chăng?
Nguyện được món cơm thừa của Thế Tôn đem về cõi Ta B l m việc Phật, để
cho những người ưa pháp nhỏ được pháp lớn v để cho tiếng tăm của Như Lai
được khắp tất cả.” Các đại sĩ nước Chúng Hương thấy vị Hóa Bồ Tát đều ngợi
khen chưa từng có v nghĩ rằng: “Thượng nhơn nầy từ đâu m đến? Cõi Ta B
ở đâu? Sao gọi l ưa pháp nhỏ? Liền đem việc ấy hỏi Phật.”—After that, the
illusory Bodhisattva ascended and was seen by the whole assembly to
approach the Buddha of Fragrant Land and repeat what Vimalakirti had
ordered him to say. When the Bodhisattvas there saw the messenger, they
praised the rare visit, asking their Buddha: “Where does this Bodhisattva
come from? Where is this world called saha? What does the small vehicle
mean?”
Phật bảo
rằng: “Phương dưới qua khỏi 42 số cát sông Hằng cõi Phật, có cõi nước tên
l Ta B , Phật hiệu Thích Ca Mâu Ni, nay hiện tại ở đời ác năm trược , vì
những chúng sanh ưa pháp nhỏ m diễn nói đạo giáo. Cõi Ta B có Bồ Tát tên
Duy Ma Cật ở cảnh giới giải thoát bất khả tư nghì đang nói pháp cho các vị
Bồ Tát, nên sai vị Hóa Bồ Tát nầy đến khen ngợi danh hiệu ta v tán thán
cõi nầy để l m cho các Bồ Tát kia được thêm nhiều công đức.”—Their Buddha
replied: “There is a world called saha, which is below and is separated
from here by Buddha lands as countless as the sand grains in forty-two
Ganges rivers, whose Buddha is called Sakyamuni and is now staying in the
midst of five turbid conditions, where he teaches the supreme Dharma to
those clinging to the small vehicle. Over there is a Bodhisattva called
Vimalakirti who has achieved inconceivable liberation and is expounding
the Dharma to other (young) Bodhisattvas. Hence, he has created an
illusory messenger to extol my name and praise this land so that they can
earn more merits.”
Các vị Bồ
Tát nước Chúng Hương thưa rằng: “Vị đó như thế n o m biến hiện ra vị Hóa
Bồ Tát nầy có đức lực vô úy, thần túc như thế?”—The Bodhisattvas asked:
“Who is that Bodhisattva who can create an illusory messenger and whose
transcendental powers, fearlessness and ubiquity are so great?”
Phật nói:
“Thật lớn, ông thường sai Hóa Bồ Tát đi đến khắp mười phương l m việc
Phật, lợi ích chúng sanh.”—That Buddha replied: “His (powers,
fearlessness and ubiquity) are very great indeed. He used to send his
illusory messengers to all places in the ten directions to perform the
Bodhisattva work of salvation for the benefit of living beings.”
Khi đó Phật
Hương Tích lấy cái bát ở nước Chúng Hương đựng đầy cơm thơm trao cho Hóa
Bồ Tát. Bấy giờ chín trăm vạn Bồ Tát ở nước Chúng Hương đồng thanh thưa
rằng: “Chúng con muốn đến cõi Ta B để cúng dường Phật Thích Ca Mâu Ni v
ra mắt ông Duy Ma Cật cùng các h ng Bồ Tát.”—That Buddha then filled a
bowl of fragrant rice and handed it to the illusory messenger. All his
nine million Bodhisattvas declared they all wished to go to saha to pay
reverence to Sakyamuni Buddha and to see Vimalakirti and the other
Bodhisattvas there.
Phật bảo:
“Ðược, nên đi. Nhưng phải giữ thân hương của các ông, chớ để cho chúng
sanh cõi kia sanh tâm mê đắm, v phải bỏ hình thể cũ của các ông, chớ để
những người cầu đạo Bồ Tát ở nước kia phải tự hổ thẹn. Các ông đến cõi Ta
B chớ đem lòng khinh chê m tâm có ngại. Vì sao? Mười phương cõi nước đều
như hư không, chư Phật vì muốn hóa độ những người ưa pháp nhỏ, nên không
hiện ra to n cõi thanh tịnh.”—That Buddha warned them: “You may go there
but hide your fragrance, if not, the people give rise to the wrong thought
of clinging to it. You should also change your appearance in order not to
provoke their self-abasement. To avoid wrong views do not slight them.
Why? Because all worlds in the ten directions are (fundamentally
immaterial) like space and because all Buddhas wishing to convert those of
the small vehicle do not reveal completely to them their own pure and
clean lands.”
Khi ấy, Hóa
Bồ Tát đã lãnh bát cơm rồi, cùng với chín trăm vạn Bồ Tát thừa oai thần
của Phật v thần lực của ông Duy Ma Cật đang ở nước Chúng Hương bỗng nhiên
biến mất, trong khoảnh khắc về đến nh ông Duy Ma Cật—At that, the
illusory messenger received the bowl of fragrant rice and together with
the nine million Bodhisattvas availed themselves of that Buddha’s and
Vimalakirti’s transcendental powers, disappeared from the Fragrant Land
and, a little later, arrived at Vimalakirti’s abode.
Lúc ấy ông
Duy Ma Cật hóa ra chín trăm vạn tòa sư tử trang nghiêm tốt đẹp như trước,
các Bồ Tát đều đến ngồi nơi tòa ấy. Hóa Bồ Tát liền đem cái bát đựng đầy
cơm thơm dâng lên cho ông Duy Ma Cật, mùi thơm xông khắp th nh Tỳ Xá Ly v
cõi tam thiên đại thiên thế giới—Vimalakirti then used his transcendental
powers to make nine million lion thrones as majestic as those already
there, for the visitors. The illusory messenger then handed him the bowl
of rice the fragrance of which spread to the whole town of Vaisali and
then to the whole great chiliocosm.
Lúc đó
trong th nh Tỳ Xá Ly, các B la môn, cư sĩ nghe mùi hương n y, thân tâm
thơ thới ngợi khen chưa từng có. Khi ấy trưởng giả Chủ Nguyệt Cái đem theo
tám vạn bốn ng n người đi đến nh ông Duy Ma Cật, thấy trong nh các Bồ
Tát rất đông v những tòa sư tử cao rộng trang nghiêm, ai nấy thảy đều vui
mừng đảnh lễ các Bồ Tát v đại đệ tử rồi đứng qua một bên. Các vị địa
thần, hư không thần v các vị trời ở cõi Dục, cõi Sắc nghe mùi thơm n y
cũng đều đến nh ông Duy Ma Cật—Brahmin devotees at Vaisali perceived the
fragrance and became elated; they praised the rare occurrence. Their
chief, called “Lunar Canopy” took eighty-four thousand men to
Vimalakirti’s house where they saw many Bodhisattvas seated on majestic
lion thrones; they were jubilant and paid reverence to the Bodhisattvas
and the Buddha’s chief disciples, and then stood at one side. Earthly and
heavenly ghosts as well as the devas of the worlds of desire and of form
who smelt the fragrance, came as well.
Lúc bấy giờ
ông Duy Ma Cật bảo ông Xá Lợi Phất v các vị đại Thanh Văn rằng: “N y các
nhân giả! Dùng cơm vị cam lồ của Như Lai do đại bi huân tập, đừng đem ý có
hạn lượng m ăn thời không tiêu được.” Các Thanh Văn khác nghĩ rằng: “Cơm
n y ít lắm m đại chúng người n o cũng phải ăn!”—At that time, Vimalakirti
said to Sariputra and the sravakas: “Virtuous Ones, you may now take the
Tathagata’s immortal rice which has been infused with great compassion; do
not give rise to the thought of limitation when taking it or you will not
be able to digest it.” When some sravakas thought that the small quantity
of rice seemed insufficient for the whole assembly.
Hóa Bồ Tát
nói: “Chớ đem trí hẹp đức nhỏ của Thanh Văn m so lường phúc tuệ vô lượng
của Như Lai. Bốn bể còn có thể cạn, chớ cơm nầy không khi n o hết. Dẫu cho
tất cả người người đều ăn mỗi vắt lớn như núi Tu Di cho đến một kiếp cũng
không hết được. Vì sao? Vì l món ăn dư của đấng đầy đủ công đức, vô tận
giới, định, tuệ, giải thoát, giãi thoát tri kiến, không bao giờ hết
được.”—The illusory Bodhisattva said: “Do not use the little virtue and
intelligence of a sravaka to estimate the Tathagata’s boundless blessing
and wisdom; the four oceans are exhaustible but this rice is
inexhaustible. If all men took and rolled it into a ball as large as
(Mount) Sumeru, they would not have finished eating it by the end of the
aeon. Why? Because food that has been left over by those who have
practiced boundless morality and discipline (sila), serenity (dhyana) and
wisdom (prajna), liberation and knowledge of liberation, and who have won
all merits, is inexhaustible.
Khi đó, với
bát cơm ấy chúng hội đều no đủ m cũng vẫn còn. Các Bồ Tát Thanh Văn,
Trời, người ăn cơm đó rồi thân thể nhẹ nh ng vui vẻ ví như các Bồ Tát ở
cõi nươc Nhứt Thiết Lạc Trang Nghiêm, v các lỗ chưn lông thoảng ra mùi
hương bát ngát cũng như mùi hương các cây ở nước Chúng Hương—Hence this
bowl of rice will satisfy the whole meeting without being exhausted. The
Bodhisattvas, Sravakas, devas and men who take it will experience comfort
and joy, like the Bodhisattvas of all blessed pure lands. Their pores
will give out profound fragrance which is like the scent of the trees in
Fragrant Lands.”
Bấy giờ ông
Duy Ma Cật hỏi các vị Bồ Tát ở nươc Chúng Hương rằng: “Phật Hương Tích lấy
chi để nói pháp?”—Vimalakirti then asked the visiting Bodhisattvas: “How
does the Tathagata of your land preach the Dharma?”
Các vị Bồ
Tát kia đáp: “Phật cõi tôi không dùng văn tự để nói, chỉ dùng các mùi
hương l m cho các trời, người được luật hạnh. Các Bồ Tát đều ngồi dưới
cây hương, nghe mùi hương mầu nhiệm ấy đều được tam muội Nhứt Thiết đức
tạng. Ðược tam muội ấy đều được đầy đủ tất cả công đức của Bồ Tát.”—They
replied: “The Tathagata of our land does not use word and speech to preach
but uses the various fragrance to stimulate the devas in their observance
of the commandments. They sit under fragrant trees and perceive how sweet
the trees smell thereby realizing the samadhi derived from the store of
all merits. When they realize this samadhi, they win all merits.”
Các Bồ Tát
kia hỏi ông Duy Ma Cật rằng: “Còn Phật Thích Ca Mâu Ni lấy gì để nói
pháp?”—These Bodhisattvas then asked Vimalakirti: “How does the World
Honoured One, Sakyamuni Buddha, preach the Dharma?”
Ông Duy Ma
Cật nói: “Chúng sanh cõi nầy cang cường khó giáo hóa, cho nên Phật nói
những lời cang cường để điều phục họ. Nói đó l địa ngục; đó l súc sanh;
đó l ngạ quỷ; đó l chỗ nạn; đó l chỗ người ngu sanh; đó l thân l m
việc t , đó l quả báo của thân l m việc t ; đó l miệng l m việc t , đó
l quả báo của miệng l m việc t ; đó l ý l m việc t , đó l quả báo của ý
l m việc t ; đó l sát sanh, đó l quả báo của sát sanh; đó l không cho
m lấy, đó l quả báo của không cho m lấy; đó l t dâm, đó l quả báo
của t dâm; đó l vọng ngữ, đó l quả báo của vọng ngữ; đó l hai lưỡi, đó
l quả báo của hai lưỡi; đó l lời nói ác độc, đó l quả báo của lời nói
ác độc; đó l lời nói vô nghĩa, đó l quả báo của lời nói vô nghĩa; đó l
tham lam, ganh ghét, đó l quả báo của tham lam ganh ghét; đó l tức giận,
đó l quả báo của tức giận; đó l t kiến, đó l quả báo của t kiến; đó
l bỏn xẻn, đó l quả báo của bỏn xẻn; đó l phá giới, đó l quả báo của
phá giới; đó l giận hờn, đó l quả báo của giận hờn; đó l lười biếng, đó
l quả báo của lười biếng; đó l ý tán loạn, đó l quả báo của ý tán loạn;
đó l ngu si, đó l quả báo của ngu si; đó l kiết giới; đó l giữ giới;
đó l phạm giới; đó l nên l m; đó l không nên l m; đó l chướng ngại; đó
l không chướng ngại; đó l mắc tội; đó l khỏi tội; đó l tịnh; đó l dơ;
đó l hữu lậu; đó l vô lậu; đó l t đạo; đó l chánh đạo; đó l hữu vi;
đó l vô vi; đó l thế gian; đó l Niết B n, vì những người khó giáo hóa
lòng như khỉ vượn, nên dùng bao nhiêu pháp để chế ngự lòng họ, mới có thể
điều phục được. Ví như voi, như ngựa, ngang trái không điều được, phải
thêm đánh đập dữ tợn cho đến thấu xương rồi mới điều phục được. Chúng
sanh cang cường, khó giáo hóa cũng thế, nên phải dùng tất cả những lời khổ
thiết mới có thể đưa họ v o khuôn khổ luật hạnh được—Vimalakirti replied:
“Living beings of this world are pig-headed (stubborn) and difficult to
convert; hence the Buddha uses strong language to tame them. He speaks of
hells, animals and hungry ghosts in their planes (realms) of suffering; of
the places of rebirth for stupid men as retribution for perverse deeds,
words and thoughts, i.e. for killing, stealing, carnality, lying, double
tongue, coarse language, affected speech, covetousness, anger, perverted
views (which are the ten evils); for stinginess, breaking the precepts,
anger, remissness, confused thoughts and stupidity (i.e. the six
hindrances to the six paramitas); for accepting, observing and breaking
the prohibitions; for things that should and should not be done; for
obstructions and non-obstructions; for what is sinful and what is not; for
purity and filthiness; for the worldly and holy states; for heterodoxy and
orthodoxy; for activity and non-activity; and for samsara and nirvana.
Since the minds of those who are difficult to convert are like monkeys,
various methods of preaching are devised to check them so that they can be
entirely tamed. Like elephants and horses which cannot be tamed without
whipping them until they feel pain and become easily managed, the stubborn
of this world can be disciplined only with bitter and eager words.”
Các Bồ Tát
nước Chúng Hương kia nghe rồi nói rằng: “Thật chưa từng có! Như Phật Thích
Ca Mâu Ni Thế Tôn ẩn cái sức tự tại vô lượng của Ng i m dùng những
phương pháp sở thích của người nghèo hèn để độ thoát chúng sanh. Các Bồ
Tát đây cũng chịu khổ sở, nhún nhường, dùng lòng đại bi vô lượng để sanh
v o cõi Phật nầy.”—After hearing this, the visiting Bodhisattvas said:
“We have never heard of the World Honoured One, Sakyamuni Buddha, who
conceals his boundless sovereign power to appear as a beggar to mix with
those who are poor in order to win their confidence (for the purpose of
liberating them) and of the Bodhisattvas here who are indefatigable and so
humble and whose boundless compassion caused their rebirth in this Buddha
land.”
Duy Ma Cật
nói: “Bồ Tát ở cõi n y đối với chúng sanh, lòng đại bi bền chắc thật đúng
như lời các ng i đã ngợi khen. M Bồ Tát ở cõi nầy lợi ích cho chúng
sanh trong một đời còn hơn trăm ng n kiếp tu h nh ở cõi nước khác. Vì
sao? Vì cõi Ta B nầy có mười điều l nh m các Tịnh Ðộ khác không có. Thế
n o l mười? Một l dùng bố thí để nhiếp độ kẻ nghèo n n; hai l dùng tịnh
giới để nhiếp độ người phá giới; ba l dùng nhẫn nhục để nhiếp độ kẻ giận
dữ; bốn l dùng tinh tấn để nhiếp độ kẻ giải đãi; năm l dùng thiền định
để nhiếp độ kẻ loạn ý; sáu l dùng trí tuệ để nhiếp độ kẻ ngu si; bảy l
nói pháp trừ nạn để độ kẻ bị tám nạn; tám l dùng pháp đại thừa để độ kẻ
ưa pháp tiểu thừa; chín l dùng các pháp l nh để cứu tế người không đức;
v mười l thường dùng tứ nhiếp để th nh tựu chúng sanh.”—Vimalakirti
said: “As you have said, the Bodhisattvas of this world have strong
compassion and their lifelong works of salvation for all living beings
surpass those done in other pure lands during hundreds and thousands of
aeons. Why? Because they achieved ten excellent deeds which are not
required in other pure lands. What are these ten excellent deeds? They
are: 1, charity (dana) to succour the poor; 2, precept-keeping (sila) to
help those who have broken the commandments; 3, patient endurance (ksanti)
to subdue their anger; 4, zeal and devotion (virya) to cure their
remissness; 5, serenity (dhyana) to stop their confused thoughts; 6,
wisdom (prajna) to wipe out ignorance; 7, putting an end to the eight
distressful conditions for those suffering from them; 8, teaching Mahayana
to those who cling to Hinayana; 9, cultivation of good roots for those in
want of merits; and 10, the four Bodhisattva winning devices for the
purpose of leading all living beings to their goals (in Bodhisattva
development). These are the ten excellent deeds.”
Các Bồ Tát
kia hỏi: “Bồ Tát phải th nh tựu mấy pháp ở nơi cõi nầy l m không lầm lỗi,
được sanh về cõi Tịnh Ðộ?”—The visiting Bodhisattvas asked: “How many
Dharmas should a Bodhisattva achieve in this world to stop its morbid
growth (defilements) in order to be reborn in the Buddha’s pure land?”
Duy Ma Cật
đáp: “Bồ Tát th nh tựu tám pháp thời ở cõi nầy l m không lầm lỗi, được
sanh về cõi Tịnh Ðộ. Tám pháp l gì? Một l lợi ích chúng sanh không mong
báo đáp; hai l thay thế tất cả chúng sanh chịu mọi điều khổ não; ba l
bao nhiêu công đức đều ban cho tất cả chúng sanh; bốn l lòng bình đẳng
đối với chúng sanh khiêm nhường không ngại, đối với Bồ Tát xem như Phật;
năm l những kinh chưa nghe, nghe không nghi; sáu l không chống trái với
h ng Thanh Văn; bảy l thấy người được cúng dường cũng không tật đố, không
khoe những lợi lộc của mình, ở nơi đó m điều phục tâm mình; tám l thường
xét lỗi mình, không nói đến lỗi người, hằng nhứt tâm cầu các công
đức.”—Vimalakirti replied: “A Bodhisattva should bring to perfection eight
Dharmas to stop morbid growth in this world in order to be reborn in the
Pure Land. They are: 1, benevolence towards all living beings with no
expectation of reward; 2, endurance of sufferings for all living beings
dedicating all merits to them; 3, impartiality towards them with all
humility free from pride and arrogance; 4, reverence to all Bodhisattvas
with the same devotion as to all Buddhas (i.e. without discrimination
between Bodhisattvas and Buddhas); 5, absence of doubt and suspicion when
hearing (the expounding of) sutras which he has not heard before; 6,
abstention from opposition to the sravaka Dharma, 7, abstention from
discrimination in regard to donations and offerings received with no
thought of self-profit in order to subdue his mind; and 8,
self-examination without contending with others. Thus, he should achieve
singleness of mind bent on achieving all merits; these are the eight
Dharmas.”
Sau khi ông
Duy Ma Cật v ng i Văn Thù Sư Lợi nói pháp nầy rồi, ở trong đại chúng có
cả trăm ng n vị trời, người đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác,
mười ng n Bồ Tát chứng đặng Vô sanh Pháp nhẫn—After Vimalakirti and
Manjusri had thus expounded the Dharma, hundreds and thousands of devas
developed the mind set on supreme enlightenment, and ten thousand
Bodhisattvas realized the patient endurance of the uncreate.
CHƯ NG MƯỜI MỘT—CHAPTER ELEVEN
PHẨM BỒ TÁT H NH—THE BODHISATTVA
CONDUCT
Khi đó Ðức
Phật nói Pháp nơi vườn cây Am la, vườn ấy bỗng nhiên rộng rãi trang
nghiêm, tất cả đại chúng trong pháp hội đều trở th nh sắc v ng—The Buddha
was expounding the Dharma at Amravana park which suddenly became majestic
and extensive while all those present turned golden hued.
A Nan bạch
Phật: “Bạch Thế Tôn! Vì nhơn duyên gì m có điềm l nh nầy, vườn cây bỗng
nhiên rộng rãi trang nghiêm, tất cả chúng hội đều trở th nh sắc
v ng?”—Ananda asked the Buddha: “World Honoured One, what is the cause of
these auspicious signs, why does this place become extensive and majestic
and why does the assembly turn golden hued?”
Ðức Phật
bảo: “Nầy A Nan! Ðây l Duy Ma Cật, Văn Thù Sư Lợi cùng cả đại chúng cung
kính vây quanh phát tâm muốn đến, nên trước hiện điềm l nh nầy.”—The
Buddha replied: “This is because Vimalakirti and Manjusri, with their
followers circumambulating them, want to come here; hence these auspicious
signs.”
Lúc đó tại
th nh Tỳ Xá Ly, ông Duy Ma Cật nói với ng i Văn Thù Sư Lợi rằng: “Chúng ta
nên cùng nhau đến ra mắt Phật để cho các Bồ Tát đảnh lễ cúng dường Thế
Tôn.”—At Vaisali, Vimalakirti said to Manjusri: “We can now go and see the
Buddha, so that we and the Bodhisattvas can pay reverence and make
offerings to Him.”
Ng i Văn
Thù Sư Lợi nói: “Hay thay! Nay chính l lúc chúng ta nên đi.”—Manjusri
said: “Excellent, let us go; it is now time to start.”
Duy Ma Cật
dùng sức thần thông đem cả đại chúng v các tòa sư tử để trên tay phải đi
đến chỗ Phật. Khi đến rồi ông để xuống đất, cúi đầu đảnh lễ dưới chân
Phật, đi quanh phía hữu bảy vòng, một lòng chắp tay đứng sang một bên. Các
Bồ Tát kia liền xuống tòa đến cúi đầu lễ dưới chân Phật, cũng đi quanh bảy
vòng rồi đứng sang một bên. Các đại đệ tử, Ðế Thích, Phạm Thiên, Tứ Thiên
Vương cả thảy cũng đều xuống tòa cúi đầu lễ dưới chân Phật rồi cùng đứng
qua một bên—Vimalakirti then used his transcendental powers to carry the
whole meeting with the lion thrones on the palm of his right hand and flew
(in the air) to the Buddha’s place. When they landed there, Vimalakirti
bowed his head at His feet, walked round Him from the right seven times,
and bringing his palms together, stood at one side. The Bodhisattvas left
their lion thrones to bow their heads at His feet, and also walked round
Him seven times and stood at one side. The Buddha’s chief disciples with
Indra, Brahma (both as protectors of the Dharma) and the four deva kings
of the four heavens, also left their lion thrones, bowed their heads at
His feet, walked round Him seven times and then stood at one side.
Bấy giờ Thế
Tôn như pháp an ủi hỏi thăm các Bồ Tát rồi, bảo ngồi lại chỗ cũ. Cả chúng
đều vâng lời dạy—The Buddha comforted the Bodhisattvas and ordered them to
take their seats to listen to His teaching.
Khi chúng
ngồi xong, Phật bảo ng i Xá Lợi Phất rằng: “Ông có thấy thần lực tự tại
của Bồ Tát đại sĩ l m đó chăng?”—After they had sat down the Buddha asked
Sariputra: “Have you seen what the great Bodhisattvas have done with their
transcendental powers?”
Xá Lợi Phất
đáp rằng dạ thấy—Sariputra replied that he had.
Phật hỏi:
“Ý ông nghĩ sao?”—The Buddha asked: “What do you think of all this?”
Xá Lợi Phất
đáp: “Bạch Thế Tôn! Con thấy các việc l m của chư Bồ Tát l không thể nghĩ
b n, không phải lấy ý m suy lường tính toán được—Sariputra answered: “I
saw them do inconceivable (feats), which the mind can neither think of nor
anticipate.”
Ðoạn ông A
Nan bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Mùi hương con nghe đây từ xưa chưa từng có,
đó l mùi hương chi?”—Ananda then asked the Buddha: “World Honoured One,
the fragrance we are smelling was never perceived before; what is it?”
Ðức Phật
bảo: Nầy A Nan! Ðó l mùi hương xuất ra từ lỗ chân lông của chư Bồ
Tát.”—The Buddha replied: “Ananda, it is the fragrance given out by the
pores of these Bodhisattvas.”
Lúc đó Ng i
Xá Lợi Phất nói với A Nan rằng: “Lổ chân lông của chúng tôi cũng có mùi
hương ấy!”—At that, Sariputra said to Ananda: “Our pores also give the
same fragrance!”
Ng i A Nan
nói: “Mùi hương ấy từ đâu đến?”—Ananda asked Sariputra: “Where does it
come from?”
Xá Lợi Phất
đáp: “Ðấy l trưởng giả Duy Ma Cật xin cơm thừa của Phật ở nước Chúng
Hương đem về ăn nơi nh ông, nên tất cả lổ chân lông đều toát ra mùi hương
như thế.”—Sariputra replied: “It is this Upasaka Vimalakirti who obtained
what was left over from the Buddha’s meal in the Fragrant Land, and those
who ate it at his abode give out this fragrance from their pores.”
A Nan hỏi
ông Duy Ma Cật rằng: “Mùi hương đó còn được bao lâu?”—Ananda then asked
Vimalakirti: “How long does this fragrance last?”
Duy Ma Cật
nói: “Ðến khi cơm đó tiêu hết.”—Vimalakirti replied: “It lasts until the
rice has been digested.”
A Nan hỏi:
“Cơm đó bao lâu mới tiêu?”—Ananda asked: “How long does this take?”
Duy Ma Cật
đáp: “Thế lực cơm đó đến bảy ng y mới tiêu. Lại nữa ông A Nan! Những Thanh
Văn chưa v o chánh vị, ăn cơm đó đến khi v o chánh vị rồi mới tiêu. Ðã v o
chánh vị, ăn cơm đó đến khi tâm giải thoát rồi mới tiêu. Chưa phát tâm Ðại
Thừa ăn cơm đó đến khi phát tâm Ðại thừa rồi mới tiêu; đã phát tâm Ðại
thừa ăn cơm đó khi được vô sanh nhẫn rồi mới tiêu. Ðã được vô sanh nhẫn ăn
cơm đó đến khi được nhứt sanh bổ xứ rồi mới tiêu. Ví như có món thuốc tên
l thượng vị, người uống v o trừ hết các độc trong thân rồi mới tiêu. Cơm
nầy cũng vậy, khi trừ hết tất cả độc phiền não rồi mới tiêu.”—Vimalakirti
replied: “It will be digested after a week. Ananda, sravakas who have not
reached the right position (nirvana) will attain it after taking this rice
which will then be digestible, and those who have attained nirvana will
realize liberation of their minds (from the subtle conception of nirvana)
and then the rice will be digested. Those who have not developed the
Mahayana mind will develop it and then the rice will be digested. Those
who have developed it and take this rice will achieve the patient
endurance of the uncreate, and the rice will then be digestible. Those
who have achieved the patient endurance of the uncreate and take this rice
will reincarnate once more for final development into Buddhahood and the
rice will be digested. Like an effective medicine which cures an ailment
before wasting away, this rice will be digestible after it has killed all
troubles and afflictions (klesa).”
A Nan bạch
Phật: “Bạch Thế Tôn! Thật chưa từng có! Như món cơm thơm ấy có thể l m
Phật sự.”—Ananda said to the Buddha: “World Honoured One, it is indeed a
rare thing that this fragrant rice performs the Buddha work of salvation.”
Phật nói:
“Ðúng thế! A Nan!”—The Buddha said: “It is so, Ananda, it is so.”
Hoặc có cõi
Phật lấy ánh sáng của Phật m l m Phật sự—There are Buddha lands where the
Buddha light performs the work of salvation;
Có cõi lấy
Bồ Tát m l m Phật sự—Where the Bodhisattvas perform it;
Có cõi lấy
người của Phật hóa ra m l m Phật sự—Where illusory men created by the
Buddha do it;
Có cõi lấy
cây Bồ Ðề m l m Phật sự—Where the Bodhi-trees do it;
Có cõi lấy
y phục ngọa cụ của Phật m l m Phật sự—Where the Buddha’s robe and bedding
do it;
Có cõi lấy
cơm m l m Phật sự—Where the rice taken by the Buddha does it;
Có cõi lấy
vườn cây đền miếu m l m Phật sự—Where parks and temples do it;
Có cõi lấy
32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp m l m Phật sự—Where (the Buddha’s) thirty-two
physical marks and their eighty notable characteristics do it;
Có cõi lấy
thân Phật m l m Phật sự—Where the Buddha’s body (rupa-kaya) does it;
Có cõi lấy
hư không m l m Phật sự—Where empty space does it;
Chúng sanh
theo duyên đó m v o luật nghi. Có cõi lấy mộng, huyễn, bóng, vang, tượng
trong gương, trăng dưới nước, ánh nắng dợn, các thí dụ như thế m l m Phật
sự. Có cõi lại lấy tiếng tăm, lời nói, văn tự m l m Phật sự—Living beings
practice discipline with success because of these causes. Also used for
the same purpose are dream, illusion, shadow echo, the image in a mirror,
the moon reflected in water, the flame of a fire, sound, voice, word,
speech and writing,
Hoặc có cõi
lấy Phật thanh tịnh vắng lặng, không nói một lời n o, không chỉ không
biết, không tạo không tác m l m Phật sự. Như thế A Nan! Những oai nghi
tấn chỉ, các việc thi vi của chư Phật đều l Phật sự cả—The pure and clean
Buddha land, silence with neither word nor speech, neither pointing,
discerning, action nor activity. Thus, Ananda, whatever the Buddhas do by
either revealing or concealing their awe-inspiring majesty, is the work of
salvation.
A Nan! Có
bốn ma v tám muôn bốn ng n phiền não m chúng sanh phải bị nhọc nhằn mỏi
mệt. Chư Phật lại dùng các pháp ấy m l m Phật sự, đó gọi l v o pháp môn
của hết thảy chư Phật—Ananda, because of the four basic delusions (in
reference to the ego) divided into 84,000 defilements which cause living
beings to endure troubles and tribulations, the Buddhas avail themselves
of these trials to perform their works of salvation. This is called
entering the Buddha’s Dharma door to enlightenment (Dharmaparyaya).
Khi Bồ Tát
v o môn nầy hoặc thấy tất cả cõi Phật nghiêm tịnh không lấy l m vui mừng,
không ham muốn, không kiêu hãnh; hoặc thấy tất cả cõi Phật bất tịnh cũng
không lo, không ngại, không bỏ qua, chỉ phải ở nơi chư Phật sanh tâm thanh
tịnh, vui mừng cung kính khen ngợi chưa từng có. Chư Phật Như Lai công đức
bình đẳng, vì giáo hóa chúng sanh m hiện ra các cõi Phật không đồng—“When
entering this Dharma door, if a Bodhisattva sees all the clean Buddha
lands, he should not give rise to joy, desire and pride, and if he sees
all the unclean Buddha lands he should not give rise to sadness, hindrance
and disappointment; he should develop a pure and clean mind to revere all
Tathagatas who rarely appear and whose merits are equal in spite of their
appearance in different lands (clean and unclean) to teach and convert
living beings.
A Nan! Ông
thấy cõi nước của chư Phật, đất có bao nhiêu m hư không không bao nhiêu?
Như thế, thấy sắc thân chư Phật, thân có bao nhiêu m trí huệ không ngại
thì không có bao nhiêu?—“Ananda, you can see different Buddha lands (i.e.
clean and unclean) but you see no difference in space which is the same
everywhere. Likewise, the physical bodies of Buddhas differ from one
another but their omniscience is the same.
A Nan! Sắc
thân chư Phật, oai tướng, chủng tánh, giới, định, tuệ, giải thoát, giải
thoát tri kiến, lực, vô sở úy, các pháp bất cộng, đại từ đại bi, giữ oai
nghi, thọ mạng, nói pháp giáo hóa th nh tựu chúng sanh, nghiêm tịnh cõi
Phật, đủ các pháp Phật, thảy đều đồng đẳng, cho nên gọi l Tam Miệu Tam
Phật Ð , gọi l Ða Ð A Di Ðộ, gọi l Phật Ð —“Ananda, the (underlying)
nature of the physical bodies of the Buddhas, their discipline, serenity,
liberation and full knowledge of liberation, their (ten) powers, their
(four) fearlessnesses, their eighteen unsurpassed characteristics, their
boundless kindness and compassion, their dignified deeds, their infinite
lives, their preaching of the Dharma to teach and convert living beings
and to purify Buddha lands are all the same. Hence, their titles of
Samyaksambuddha, Tathagata and Buddha.
A Nan! Nếu
ta nói đủ nghĩa ba câu nầy, dầu suốt kiếp của ông cũng không lãnh thọ hết
được. Giả sử chúng sanh đầy dẫy trong cõi tam thiên đại thiên thế giới như
A Nan đa văn thứ nhất, được niệm tổng trì, những người đó suốt cả đời cũng
không lãnh thọ được. Như thế A Nan! Chư Phật Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh
Giác không có hạn lượng, trí huệ biện t i không thể nghĩ b n—“Ananda, if I
am to give you the full meaning of these three titles, you will pass the
whole aeon without being able to hear it completely. Even if the great
chiliososm is full of living beings who are all good listeners and like
you can hold in memory everything they hear about the Dharma, they will
also pass the whole aeon without being able to hear my full explanation
(of these three titles). For, Ananda, the Buddha’s supreme enlightenment
is boundless and his wisdom and power of speech are inconceivable.”
A Nan bạch
Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Từ nay về sau con không dám tự cho mình l đa
văn nữa.”—Ananda said: “From now on I dare no more claim to have heard
much of the Dharma.”
Phật bảo A
Nan: “Chớ nên khởi tâm thối lui. Vì sao? Ta nói ông đa văn hơn hết trong
h ng Thanh Văn chớ không phải nói với h ng Bồ Tát. Hãy thôi A Nan! Người
có trí không nên so sánh với các h ng Bồ Tát. Biển sâu còn có thể dò được,
chớ thiền định, trí tuệ, tổng trì, biện t i, tất cả công đức của Bồ Tát
không thể đo lường được. A Nan! Các ông hãy để riêng việc Bồ Tát ra, Duy
Ma Cật đây hiện b y sức thần thông trong một lúc m tất cả h ng Thanh Văn,
Bích Chi Phật trải qua trăm ng n kiếp tận lực biến hóa đều không l m
được.”—The Buddha said: “Ananda, do not give way to backsliding. Why?
Because I have said that you have heard much more about the Dharma than
the sravakas but not than the Bodhisattvas. Ananda, a wise man should not
make a limited estimate of the Bodhisattva stage (because) the depths of
the oceans can be measured but the Bodhisattva’s serenity, wisdom,
imperturbability, power of speech and all his merits cannot be measured.
Ananda, let us put aside the Bodhisattva conduct. The transcendental
powers which Vimalakirti has demonstrated today cannot be achieved by all
sravakas and pratyeka-buddhas using their spiritual powers for hundreds
and thousands of aeons.”
Bấy giờ các
Bồ Tát ở nước Chúng Hương đến đó, chắp tay bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn!
Chúng con khi mới thấy cõi nầy, tâm tưởng cho l hạ liệt, nay chúng con tự
hối trách bỏ tâm ấy. Vì sao? Phương tiện chư Phật không thể nghĩ b n, vì
độ thoát chúng sanh nên theo chỗ nhu cầu m hiện ra cõi Phật như thế ấy.
Bạch Thế Tôn! Xin Thế Tôn ban chút ít pháp cho chúng con để trở về cõi kia
được nhớ nghĩ đến Như Lai.”—At that time, the visiting Bodhisattvas put
their palms together and said to the Buddha: “World Honoured One, when we
first saw this world we thought of its inferiority but we now repent of
our wrong opinion. Why? Because the expedients (upaya) employed by all
Buddhas are inconceivable; their aim being to deliver living beings they
appear in different Buddha lands suitable for the purpose. World Honoured
One, will you please bestow upon us some little Dharma so that when we
return to our own land we can always remember you.”
Phật bảo
các Bồ Tát rằng: “Có pháp môn ‘Tận, Vô Tận Giải Thoát’ các ông nên học.
Sao gọi l Tận? Nghĩa l pháp hữu vi. Sao gọi l Vô Tận? Nghĩa l pháp vô
vi. Như Bồ Tát thời không tận hữu vi, cũng không trụ vô vi.”—The Buddha
said to them: “There are the exhaustible and the inexhaustible Dharmas
which you should study. What is the exhaustible? It is the active (yu
wei or mundane) Dharma. What is the inexhaustible? It is the non-active
(wu wei or supramundane) Dharma. As Bodhisattvas, you should not exhaust
(or put an end to) the mundane (state); nor should you stay in the
supramundane (state).
Sao gọi l
Không Tận Hữu Vi? Nghĩa l không lìa đại từ, không bỏ đại bi, sâu phát tâm
cầu nhứt thiết trí m không khinh bỏ, giáo hóa chúng sanh quyết không nh m
chán; đối pháp tứ nhiếp thường nghĩ l m theo, giữ gìn chánh pháp không
tiếc thân mạng, l m các việc l nh không hề nh m mỏi, chí thường để nơi
phương tiện hồi hướng, cầu pháp không biếng trễ, nói pháp không lẫn tiếc,
siêng cúng dường chư Phật, cố v o trong sanh tử m không sợ sệt, đối việc
vinh nhục lòng không lo không mừng, không khinh người chưa học, kỉnh người
học như Phật, người bị phiền não l m cho phát niệm chánh, cái vui xa lìa
không cho l quý, không đắm việc vui của mình m mừng việc vui của người,
ở trong thiền định tưởng như địa ngục, ở trong sanh tử tưởng như vườn nh ,
thấy người đến cầu pháp tưởng như thầy l nh, bỏ tất cả vật sở hữu tưởng đủ
nhứt thiết trí, thấy người phá giới tâm nghĩ cứu giúp, các pháp Ba La Mật
tưởng l cha mẹ, các pháp đạo phẩm tưởng l quyến thuộc, l m việc l nh
không có hạn lượng, đem các việc nghiêm sức ở các cõi Tịnh Ðộ trau dồi cõi
Phật của mình, thực h nh bố thí vô hạn, đầy đủ tướng tốt, trừ tất cả điều
xấu, trong sạch thân khẩu ý, nhiều số kiếp sanh tử m lòng vẫn mạnh mẽ,
nghe các Ðức Phật quyết chí không mỏi, dùng gươm trí tuệ phá giặc phiền
não, ra khỏi ấm giới nhập, gánh vác chúng sanh để được ho n to n giải
thoát, dùng sức đại tinh tấn phá dẹp ma quân, thường cầu vô niệm, thực
tướng trí huệ, thực h nh ít muốn biết đủ m chẳng bỏ việc đời, không sái
oai nghi m thuận theo thế tục, khởi tuệ thần thông dẫn dắt chúng sanh,
đặng niệm tổng trì đã nghe thời không quên, khéo biết căn cơ dứt lòng nghi
của chúng sanh, dùng nhạo thuyết biện t i diễn nói pháp vô ngại, thanh
tịnh mười nghiệp l nh hưởng thọ phước trời người, tu bốn món vô lượng mở
đường Phạm Thiên, khuyến thỉnh nói pháp, tùy hỷ ngợi khen điều l nh, đặng
tiếng tốt của Phật, thân khẩu ý trọn l nh, đặng oai nghi của Phật, công
phu tu tập pháp l nh sâu dầy c ng tiến nhiều lên, đem pháp Ðại Thừa giáo
hóa th nh tựu Bồ Tát Tăng, lòng không buông lung, không mất các điều l nh.
L m các pháp như thế gọi l Bồ Tát không tận hữu vi—“What is meant by not
exhausting the mundane (state)? It means not discarding great
benevolence; not abandoning great compassion; developing a profound mind
set on the quest of all-knowledge (sarvajna or Buddha knowledge) without
relaxing for even an instant; relentless teaching and converting living
beings; constant practice of the four Bodhisattva winning methods;
upholding the right Dharma even at the risk of one’s body and life;
unwearied planting of all excellent roots; unceasing application of
expedient devices (upaya) and dedication (parinamana); never-ending quest
of the Dharma; unsparing preaching of it; diligent worship of all Buddhas;
hence fearlessness when entering the stream of birth and death; absence of
joy in honour and of sadness in disgrace; refraining from slighting
non-practisers of the Dharma; respecting practisers of Dharma as if they
were Buddhas; helping those suffering from klesa to develop the right
thought; keeping away from (desire and) pleasure with no idea of prizing
such a high conduct; no preference for one’s happiness but joy at that of
others; regarding one’s experience in the state of samadhi as similar to
that in a hell; considering one’s stay in samsara (i.e. state of birth and
death) as similar to a stroll in a park; giving rise to the thought of
being a good teacher of Dharma when meeting those seeking it; giving away
all possessions to realize all-knowledge (sarvajna); giving rise to the
thought of salvation when seeing those breaking the precepts; thinking of
the (six) perfections (paramitas) as dear as one’s parents; thinking of
the (thirty-seven) conditions contributory to enlightenment as if they
were one’s helpful relatives; planting all excellent roots without any
restrictions; gathering the glorious adornments of all pure lands to set
up one’s own Buddha land; unrestricted bestowal of Dharma to win all the
excellent physical marks (of the Buddha); wiping out all evils to purify
one’s body, mouth and mind; developing undiminished bravery while
transmigrating through samsara in countless aeons; untiring determination
to listen to (an account of) the Buddha’s countless merits; using the
sword of wisdom to destroy the bandit of klesa (temptation) to take living
beings out of (the realm of the five) aggregates (skandhas) and (twelve)
entrances (ayatana) so as to liberate them for ever; using firm devotion
to destroy the army of demons; unceasing search for the thought-free
wisdom of reality; content with few desires while not running away from
the world in order to continue the Bodhisattva work of salvation; not
infringing the rules of respect-inspiring deportment while entering the
world )to deliver living beings); use of the transcendental power derived
from wisdom to guide and lead all living beings; controlling (dharani) the
thinking process in order never to forget the Dharma; being aware of the
roots of all living beings in order to cut off their doubts and suspicions
(about their underlying nature); use of the power of speech to preach the
Dharma without impediment; perfecting the ten good (deeds) to win the
blessings of men and devas (in order to be reborn among them to spread the
Dharma); practicing the four infinite minds (kindness, pity, joy and
indifference) to teach the Brahma heavens; rejoicing at being invited to
expound and extol the Dharma in order to win the Buddha’s (skillful)
method of preaching; realizing excellence of body, mouth and mind to win
the Buddha’s respect-inspiring deportment; profound practice of good
Dharma to make one’s deeds unsurpassed; practicing Mahayana to become a
Bodhisattva monk; and developing a never-receding mind in order not to
miss all excellent merits.
“This is
the Bodhisattva not exhausting the mundane state.
Sao gọi l
không trụ vô vi? Nghĩa l tu học môn Không; không lấy không l m chỗ chứng;
tu học môn vô tướng, vô tác, không lấy vô tướng, vô tác l m chỗ chứng; tu
học pháp Vô Sanh không lấy Vô Sanh l m chỗ chứng; quán Vô Thường m không
nh m việc l nh; quán Thế Gian Khổ m không ghét sanh tử; quán Vô Ngã m
dạy dỗ người không nh m mỏi; quán Tịch Diệt m không tịch diệt hẳn; quán
xa lìa m thân tâm tu các pháp l nh; quán Không Chỗ Về m về theo pháp
l nh; quán Vô Sanh m dùng pháp sanh để gánh vác tất cả; quán Vô Lậu m
không đoạn các lậu; quán không chỗ l m m dùng việc l m để giáo hóa chúng
sanh; quán Không Vô m không bỏ đại bi; quán Chánh Pháp Vị (chỗ chứng) m
không theo Tiểu thừa; quán các pháp hư vọng, không bền chắc, không nhân,
không chủ, không tướng, bổn nguyện chưa mãn m không bỏ phước đức thiền
định trí tuệ. Tu các pháp như thế gọi l Bồ Tát không trụ vô vi—“What is
the Bodhisattva not staying in the supra-mundane state (nirvana)? It
means studying and practicing the immaterial but without abiding in
voidness; studying and practicing formlessness and inaction but without
abiding in them; studying and practicing that which is beyond causes but
without discarding the roots of good causation; looking into suffering in
the world without hating birth and death (i.e. samsara); looking into the
absence of the ego while continuing to teach all living beings
indefatigably (relentlessly); looking into nirvana with no intention of
dwelling in it permanently; looking into the relinquishment (of nirvana)
while one’s body and mind are set on the practice of all good deeds;
looking into the (non-existing) destinations of all things while the mind
is set on practicing excellent actions (as true destinations); looking
into the unborn (i.e. the uncreate) while abiding in (the illusion of)
life to shoulder responsibility (to save others); looking into
passionlessness without cutting off the passion-stream (in order to stay
in the world to liberate others); looking into the state of non-action
while carrying out the Dharma to teach and convert living beings; looking
into nothingness without forgetting about great compassion; looking into
the right position (of nirvana) without following the Hinayana habit (of
staying in it); looking into the non-reality of all phenomena which are
neither firm nor have an independent nature, and are egoless and formless,
but since one’s own fundamental vows are not entirely fulfilled, one
should not regard merits, serenity and wisdom as unreal and so cease
practicing them.
“This is
the Bodhisattva not staying in the non-active (wu wei) state.
Lại vì đủ
các phước đức m không trụ vô vi; vì đủ cả trí tuệ m không tận hữu vi; vĩ
đại từ bi m không trụ vô vi; vì mãn bổn nguyện m không tận hữu vi; vì
nhóm thuốc pháp m không tận hữu vi; vì tùy bệnh cho thuốc m không tận
hữu vi; vì biết bệnh chúng sanh m không trụ vô vi; vì dứt trừ bệnh chúng
sanh m không tận hữu vi. Các Bồ Tát chánh sĩ tu tập pháp nầy thời không
tận hữu vi, không trụ vô vi, đó gọi l pháp môn Tận, Vô Tận Giải Thoát m
các ông cần phải học—“Further, to win merits, a Bodhisattva does not stay
in the supramundane, and to realize wisdom he does not exhaust the
mundane. Because of his great kindness and compassion, he does not remain
in the supramundane, and in order to fullfil all his vows, he does not
exhaust the mundane. To gather the Dharma medicines he does not stay in
the supramundane, and to administer remedies he does not exhaust the
mundane. Since he knows the illnesses of all living beings he does not
stay in the supramundane, and since he wants to cure their illnesses, he
does not exhaust the mundane.
“Virtuous
Ones, a Bodhisattva practicing this Dharma neither exhausts the mundane
nor stays in the supramundane. This is called the exhaustible and
inexhaustible Dharma doors to liberation which you should study.”
Sau khi
nghe Phật thuyết pháp, các Bồ Tát nước Chúng Hương hết sức vui mừng, đem
các thứ hoa đủ m u sắc thơm tho rải khắp cõi tam thiên cúng dường Phật v
kinh pháp nầy cùng các Bồ Tát, rồi cúi đầu lễ dưới chân Phật ngợi khen
chưa từng có, nói rằng: “Phật Thích Ca Mâu Ni mới có năng lực ở cõi nầy m
được phương tiện.” Nói rồi bỗng nhiên biến trở về nước Chúng Hương—After
hearing the Buddha expounding the Dharma, the visiting Bodhisattvas were
filled with joy and rained (heavenly) flowers of various colours and
fragrances in the great chiliocosm as offerings to the Buddha and His
sermon. After this, they bowed their heads at the Buddha’s feet and
praised His teaching which they had not heard before, saying: “How
wonderful is Sakyamuni Buddha’s skillful use of expedient methods
(upaya).”
After
saying this, they disappeared to return to their own land.
CHƯ NG MƯỜI HAI—CHAPTER TWELVE
—PHẨM THẤY PHẬT A SÚC—SEEING
AKSOBHYA BUDDHA
Bấy giờ Ðức
Thế Tôn hỏi Duy Ma Cật rằng: “Ông nói ông muốn đến đây để thấy Như Lai thì
lấy chi quán sát?”—The Buddha then asked Vimalakirti: “You spoke of coming
here to see the Tathagata, but how do you see Him impartially?”
Duy Ma Cật
thưa: “Như con quán thực tướng của thân, thân Phật cũng thế. Con quán Như
Lai đời trước không đến, đời sau không đi, hiện tại không ở; không quán
sắc, không quán sắc như, không quán sắc tánh; không quán thọ, tưởng, h nh,
thức, không quán thức như, không quán thức tánh; không phải tứ đại sinh,
cũng không như hư không; sáu nhập không tích tập, mắt, tai, mũi, lưỡi,
thân, tâm đã vượt qua; không ở ba cõi, đã lìa ba cấu; thuận ba môn giải
thoát; có đủ ba minh, cùng ngang vô minh, không một tướng, không khác
tướng, không có tự tướng, không có tha tướng, không phải không tướng,
không phải chấp tướng; không bờ bên nầy, không bờ bên kia, không giữa dòng
m hóa độ chúng sanh; quán tịch diệt cũng không diệt hẳn; không đây, không
kia, không nương nơi đây, không nương nơi kia; không thể dùng trí m hiểu
được, không thể dùng thức m biết được; không tối không sáng; không danh
không tướng; không mạnh không yếu; không phải sạch không phải nhơ; không ở
phương sở, không lìa phương sở; không phải hữu vi, không phải vô vi; không
b y không nói; không bố thí, không bỏn xẻn; không giữ giới, không phạm
giới; không nhẫn không giận; không tinh tấn không giải đãi; không định
không loạn; không trí không ngu; không thực không dối; không đến không đi;
không ra không v o; bặt đường nói năng; không phải phước điền, không phải
không phước điền; không phải xứng cúng dường, không phải không xứng cúng
dường; không phải thủ, không phải xả; không phải có tướng, không phải
không tướng; đồng với chân tế bình đẳng như pháp tánh; không thể cân,
không thể lường, qua các sự cân lường, không lớn không nhỏ; không phải
thấy, không phải nghe, không phải giác, không phải tri; lìa các kiết
phược, bình đẳng các trí, đồng với chúng sanh; đối các pháp không phân
biệt; tất cả không tổn thất, không trược không não, không tác không khởi,
không sanh không diệt, không sợ không lo, không mừng không chán, không đã
có, không sẽ có, không hiện có, không thể lấy tất cả lời nói phân biệt
chỉ b y được. Bạch Thế Tôn! Thân Như Lai như thế, con quán cũng thế, nếu
người n o quán theo đây gọi l chánh quán, quán khác gọi l t
quán.”—Vimalakirti replied: “Seeing reality in one’s body is how to see
the Buddha. I see the Tathagata did not come in the past, will not go in
the future, and does not stay in the present. The Tathagata is seen
neither in form (rupa, the first aggregate) nor in the extinction of form
nor in the underlying nature of form. Neither is He seen in
responsiveness (vedana), conception (sanjna), discrimination (samskara)
and consciousness (vijnana) (i.e. the four other aggregates), their
extinction and their underlying natures. The Tathagata is not created by
the four elements (earth, water, fire and air), for He is (immaterial)
like space. He does not come from the union of the six entrances (i.e.
the six sense organs) for He is beyond eye, ear, nose, tongue, body and
intellect. He is beyond the three worlds (of desire, form and
formlessness) for He is free from the three defilements (desire, hate and
stupidity). He is in line with the three gates to nirvana and has
achieved the three states of enlightenment (or three insights) which do
not differ from (the underlying nature of) unenlightenment. He is neither
unity nor diversity, neither selfness nor otherness, neither form nor
formlessness, neither on this shore (of enlightenment) nor in mid-stream
when converting living beings. He looks into the nirvanic condition (of
stillness and extinction of worldly existence) but does not dwell in its
permanent extinction. He is neither this nor that and cannot be revealed
by these two extremes. He cannot be known by intellect or perceived by
consciousness. He is neither bright nor obscure. He is nameless and
formless, being neither strong nor weak, neither clean nor unclean,
neither in a given place nor outside of it, and neither mundane nor
supramundane. He can neither be pointed out nor spoken of. He is neither
charitable nor selfish; he neither keeps nor breaks the precepts; is
beyond patience and anger, diligence and remissness, stillness and
disturbance. He is neither intelligent nor stupid, and neither honest nor
deceitful. He neither comes nor goes and neither enters nor leaves. He is
beyond the paths of word and speech. He is neither the field of
blessedness nor its opposite, neither worthy nor unworthy of worship and
offerings. He can be neither seized nor released and is beyond ‘is’ and
‘is not’. He is equal to reality and to the nature of Dharma (Dharmata)
and cannot be designated and estimated, for he is beyond figuring and
measuring. He is neither large nor small, is neither visible nor audible,
can neither be felt nor known, is free from all ties and bondage, is equal
to the All-knowledge and to the (underlying) nature of all living beings,
and cannot be differentiated from all things. He is beyond gain and loss,
free from defilement and troubles (klesa), beyond creating and giving rise
(to anything), beyond birth and death, beyond fear and worry, beyond like
and dislike, and beyond existence in the past, future and present. He
cannot be revealed by word, speech, discerning and pointing.
“World
Honoured One, the body of the Tathagata being such, seeing Him as
above-mentioned is correct whereas seeing Him otherwise is wrong.”
Lúc ấy, Xá
Lợi Phất hỏi ông Duy Ma Cật rằng: “Ông ở đâu chết rồi sinh nơi
đây?”—Thereupon, Sariputra asked Vimalakirti: “Where did you die to be
reborn here?”
Duy Ma Cật
hỏi lại: “Pháp của ng i chứng đặng có chết rồi sinh không?”—Vimalakirti
asked back: “Is the (sravaka) Dharma which you have realized subject to
death and rebirth?”
Xá Lợi Phất
đáp: “Không chết không sinh.”—Sariputra replied: “It is beyond death and
birth.”
Duy Ma Cật
hỏi: “Nếu các pháp không có tướng chết rồi sinh, tại sao ng i lại hỏi ‘Ông
ở đâu chết rồi lại sinh nơi đây.’ Ý ng i nghĩ sao? Ví như hình nam nữ của
nh huyễn thuật hóa ra có chết rồi sinh không?”—Vimalakirti asked: “If
there is neither birth nor death, why did you ask me: ‘Where did you die
to be reborn here?’ What do you think of illusory men and women created
by an illusionist; are they subject to death and birth?”
Xá Lợi Phất
nói: “Không có chết rồi sinh. Ng i không nghe Phật nói các pháp tướng như
huyễn đó sao?”—Sariputra replied: “They are not subject to death and
birth. Have you not heard the Buddha say that all things are illusions?”
Duy Ma Cật
đáp: “Có nghe thế. Nếu các pháp tướng như huyễn thời tại sao ng i lại hỏi
rằng ‘Ông ở đâu chết rồi sinh lại nơi đây?’ Ng i Xá Lợi Phất! Chết l cái
tướng bại hoại của pháp hư dối, sinh l tướng tương tục của pháp hư dối,
Bồ Tát dù chết không dứt mất gốc l nh, dầu sống không thêm các điều
ác.”—Vimalakirti said: “Yes, if all things are illusions, why did you ask
me where I died to be reborn here? Sariputra, death is unreal and
deceptive, and means decay and destruction (to the worldly man), while
life which is also unreal and deceptive means continuance to him. As to
the Bodhisattva, although he disappears (in one place) he does not put an
end to his good (deeds), and although he reappears (in another) he
prevents evils from arising.”
Bấy giờ
Phật bảo Xá Lợi Phất: “Có cõi nước tên l Diệu Hỷ, Phật hiệu l Vô Ðộng,
ông Duy Ma Cật n y ở nước đó chết rồi sanh nơi đây.”—At that time, the
Buddha said to Sariputra: “There is a (Buddha) land called the realm of
Profound Joy whose Buddha is Aksobhya Buddha where Vimalakirti disappeared
to come here.”
Xá Lợi Phất
thưa: “Chưa từng có vậy, bạch Thế Tôn! Người n y chịu bỏ cõi thanh tịnh m
thích đến chỗ nhiều oán hại!”—Sariputra said: “It is a rare thing, World
Honoured One, that this man could leave a pure land to come to this world
full of hatred and harmfulness!”
Duy Ma Cật
hỏi Xá Lợi Phất: “Ý ng i nghĩ sao? Lúc ánh sáng mặt trời chiếu lên có hiệp
với tối không?”—Vimalakirti asked Sariputra: Sariputra, what do you think
of sunlight; when it appears does it unite with darkness?”
Xá Lợi Phất
đáp: “Không, ánh sáng mặt trời khi mọc lên thì không còn tối
nữa.”—Sariputra replied: “Where there is sunlight, there is no darkness.”
Duy Ma Cật
hỏi: “Mặt trời sao lại đi qua cõi Diêm Phù Ðề?”—Vimalakirti asked: “Why
does the sun shine on Jambudvipa (this earth)?”
Xá Lợi Phất
đáp: “Vì muốn đem ánh sáng soi chiếu sự tối tăm cho cõi Diêm Phù
Ðề.”—Sariputra replied: “It shines to destroy darkness.”
Duy Ma Cật
nói: “Bồ Tát cũng thế, dù sanh cõi Phật bất tịnh cốt để hóa độ chúng sanh,
chớ không có chung hiệp với kẻ ngu tối, cốt dứt trừ phiền não đen tối của
chúng sanh m thôi.”—Vimalakirti said: “Likewise, a Bodhisattva, although
born in an unclean Buddha land, does not join and unite with the darkness
of ignorance but (teaches and) converts living beings to destroy the
obscurity of klesa.”
Bấy giờ cả
đại chúng khao khát ngưỡng mong muốn thấy cõi nước Diệu Hỷ, Ðức Vô Ðộng
Như Lai v các h ng Bồ Tát, Thanh Văn kia—As the assembly admired and
wished to see the Immutable Tathagata, the Bodhisattvas and sravakas of
the pure land of Profound Joy.
Phật biết
tâm niệm của chúng hội liền bảo Duy Ma Cật rằng: “Xin hiện cõi nước Diệu
Hỷ, Ðức Vô Ðộng Tôn Như Lai v các h ng Bồ Tát, Thanh Văn cho chúng hội
xem, đại chúng ai cũng đang ngưỡng mộ.”—The Buddha who read their thoughts
said to Vimalakirti: “Virtuous man, please show the Immutable Tathagata
and the Bodhisattvas and sravakas of the land of Profound Joy to this
assembly who want to see them.”
Lúc ấy Duy
Ma Cật nghĩ rằng ‘Ta sẽ không rời chỗ ngồi m tiếp lấy cõi nước Diệu Hỷ,
núi, sông, khe, hang, ao hồ, biển lớn, nguồn suối, các núi Thiết Vi, Tu
Di, v nhựt nguyệt, tinh tú, các cung điện của Thiên, Long, quỷ thần, Phạm
Thiên cùng các h ng Bồ Tát, Thanh Văn, th nh ấp, tụ lạc, trai gái lớn nhỏ,
cho đến Vô Ðộng Như Lai v cây Bồ Ðề, hoa sen quý có thể l m Phật sự trong
mười phương, ba đường thềm báu từ cõi Diêm Phù Ðề đến cõi trời Ðao Lợi, do
thềm báu nầy chư Thiên đi xuống để l m lễ cung kính đức Vô Ðộng Như Lai v
nghe thọ kinh pháp; người ở cõi Diêm Phù Ðề cũng lên thềm báu đó m đi lên
cõi trời Ðao Lợi để ra mắt chư Thiên kia. Cõi nước Diệu Hỷ th nh tựu công
đức vô lượng như thế, trên đến trời Sắc Cứu Cánh, dưới đến thủy tề, dùng
tay phải chấn lấy rất nhanh như cái b n tròn của người thợ gốm, rồi đem về
cõi Ta B nầy cũng như đặng cái tr ng hoa, để đưa cho đại chúng xem. Ông
suy nghĩ như thế rồi liền nhập tam muội (chánh định) hiện sức thần thông
lấy tay phải chấn lấy cõi nước Diệu Hỷ để v o cõi Ta B nầy. Các Bồ Tát v
chúng Thanh Văn cùng các Thiên, nhơn có thần thông đều cất tiếng thưa
rằng: “Dạ! Bạch Thế Tôn! Ai đem chúng con đi, xin Thế Tôn cứu hộ
cho.”—Vimalakirti thought that he should, while remaining seated, take
with his hand the world of Profound Joy with its iron enclosing mountains,
hills, rivers, streams, ravines, springs, seas, Sumerus, sun, moon, stars,
planets, palaces of heavenly dragons, ghosts, spirits and devas,
Bodhisattvas, sravakas, towns, hamlets, men and women of all ages, the
Immutable Tathagata, his bo-tree (bodhi-tree) and beautiful lotus
blossoms, which were used to perform the Buddha work of salvation in the
ten directions, as well as the tree flights of gemmed steps linking
Jambudvipa (our earth) with Trayastrimsas by which the devas descended to
earth to pay reverence to the Immutable Tathagata and to listen to his
Dharma, and by which men ascended to Trayastrimsas to see the devas. All
this was the product of countless merits of the realm of Profound Joy,
from the Akanistha heaven above to the seas below and was lifted by
Vimalakirti with his right hand with the same ease with which a potter
raises his wheel, taking everything to earth to show it to the assembly as
if showing his own head-dress.
Vimalakirti
then entered the state of samadhi and used his supramundane power to take
with his right hand the world of Profound Joy which he placed on earth.
The Bodhisattvas, sravakas and some devas who had realized supramundane
said to their Buddha: “World Honoured One, who is taking us away? Will
you please protect us?”
Phật Bất
Ðộng nói: “Không phải ta l m, đó l thần lực của ông Duy Ma Cật l m như
thế. Ngo i ra, những người chưa có thần thông không hay biết mình đi đâu.
Cõi nước Diệu Hỷ dù v o cõi Ta B nầy m không thêm không bớt, còn cõi Ta
B nầy cũng không chật không hẹp, vẫn y nguyên như trước.”—The Immutable
Buddha said: “This is not done by me but by Vimalakirti who is using his
supramundane power.” But those who had not won supramundane powers
neither knew nor felt that they had changed place. The world of Profound
Joy neither expanded nor shrank after landing on the earth which was
neither compressed nor straitened, remaining unchanged as before.
Bấy giờ
Phật Thích Ca Mâu Ni bảo đại chúng rằng: “Các ông hãy xem cõi nước Diệu
Hỷ, Phật Vô Ðộng Như Lai, nước đó trang nghiêm tốt đẹp, chúng Bồ Tát thanh
tịnh, h ng đệ tử to n trong sạch.”—At that time, Sakyamuni Buddha said to
the assembly: “Look at the Immutable Tathagata of the land of Profound Joy
which is majestic, where the Bodhisattvas live purely and the (Buddha’s)
disciples are spotless.”
Ðại chúng
thưa rằng: “Dạ! Ðã thấy.”—The assembly replied: “Yes, we have seen.”
Phật bảo:
“Các Bồ Tát nếu muốn được cõi Phật thanh tịnh như thế, cần phải học cái
đạo của Ðức Vô Ðộng Như Lai đã l m.”—The Buddha said: “If a Bodhisattva
wishes to live in such a pure and clean Buddha land, he should practise
the path trodden by the Immutable Tathagata.”
Khi hiện ra
cõi nước Diệu Hỷ nầy, cõi Ta B có 14 na do tha người phát tâm Vô thượng
Chánh đẳng Chánh giác, đều nguyện sanh sang cõi nước Diệu Hỷ, Phật Thích
Ca Mâu Ni liền thọ ký cho rằng: “Sẽ sanh đặng sang nước đó.”—When the pure
land of Profound Joy appeared fourteen nayutas of people in this saha
world developed the mind set on supreme enlightenment, and vowed to be
reborn in the realm of Profound Joy. Sakyamuni Buddha then prophesied
their coming rebirth there.
Bấy giờ
nước Diệu Hỷ ở nơi cõi Ta B nầy l m những việc lợi ích xong, liền trở về
bổn xứ, cả đại chúng đều thấy rõ—After the (visiting Bodhisattvas had done
their) work of salvation for the benefit of living beings in this world,
the pure land of Profound Joy returned to its original place. And this was
seen by the whole assembly.
Phật bảo Xá
Lợi Phất: “Ông có thấy cõi nước Diệu Hỷ v Ðức Phật Vô Ðộng chăng?”—The
Buddha then said to Sariputra: “Have you seen the world of Profound Joy
and its Immutable Tathagata?”
Xá Lợi Phất
đáp: “Dạ, bạch Thế Tôn! Con có thấy. Nguyện tất cả chúng sanh được cõi
thanh tịnh như Ðức Phật Vô Ðộng v thần thông như ông Duy Ma
Cật.”—Sariputra replied: “Yes, World Honoured One, I have. May all living
beings win a pure land similar to that of the Immutable Buddha and achieve
supramundane powers like those of Vimalakirti!
Bạch Thế
Tôn! Chúng con được nhiều lợi l nh, được thấy người nầy gần gũi cúng
dường. Còn những chúng sanh hoặc hiện tại đây, hoặc sau khi Phật diệt độ
m nghe kinh nầy cũng được lợi l nh, huống lại nghe rồi tin hiểu, thọ trì,
đọc tụng, giải nói, đúng như pháp tu h nh. Nếu có người tay cầm được kinh
điển nầy thì đã được kho t ng Pháp Bảo. Nếu có người đọc tụng giải thich
nghĩa lý kinh nầy, đúng như lời nói tu h nh thời được chư Phật hộ niệm.
Nếu có ai cúng dường người như thế, tức l cúng dường chư Phật. Nếu có
người n o biên chép thọ trì kinh nầy, chính l trong nh người đó có Như
Lai. Nếu người nghe kinh nầy m tùy hỷ thời người đó sẽ được đến bậc nhứt
thiết trí. Nếu người tin hiểu kinh nầy cho đến một b i kệ bốn câu rồi giải
nói cho người khác nghe, phải biết người đó được thọ ký quả Vô Thượng
Chánh Ðẳng Chánh Giác.”—World Honoured One, we shall soon realize a great
benefit resulting from our meeting and paying obeisance to this man now.
And living beings, hearing this sutra now or after the Buddha’s nirvana,
will also realize a great benefit; how much more so, if after hearing it,
they believe, understand, receive and uphold it or read, recite, explain
and preach it, and practice its Dharma accordingly? He who receives this
sutra with both hands, will in reality secure the treasure of the
Dharma-gem; if, in addition, he reads, recites and understands its meaning
and practices it accordingly, he will be blessed and protected by all
Buddhas. Those making offerings to this man (Vimalakirti), will through
him automatically make offerings to all Buddhas. He who copies this sutra
to put it into practice, will be visited by the Tathagata who will come to
his house. He who rejoices at hearing this sutra, is destined to win all
knowledge (sarvajna). And he who can believe and understand this sutra, or
even (any of) its four-line gathas and teaches it to others, will receive
the (Buddha’s) prophecy of his future realization of supreme
enlightenment.”
CHƯ NG MƯỜI BA—CHAPTER THIRTEEN
—PHẨM PHÁP CÚNG DƯỜNG—THE
OFFERING OF DHARMA
Bấy giờ
Thích Ðề Ho n Nhơn ở trong chúng bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Con dù
theo Phật v Ng i Văn Thù Sư Lợi nghe nói trăm ng n thứ kinh m chưa từng
nghe kinh điển bất khả tư nghì tự tại thần thông quyết định thực tướng.
Như con hiểu nghĩa lý của Phật nói, nếu chúng sanh n o nghe kinh pháp nầy
m tin hiểu, thọ trì, đọc tụng, thì quyết được pháp nầy không nghi, huống
chi đúng như lời nói m tu h nh, thời người đó ngăn hết các nẻo ác, mở cửa
l nh, thường được chư Phật hộ niệm, h ng phục ngoại đạo, dẹp trừ ma oán,
tu đạo Bồ Ðề, an ở nơi đạo tr ng, noi theo dấu vết thực h nh của Như
Lai.”—Thereupon, Sakra who was in the assembly, said to the Buddha:
“World Honoured One, although I have listened to hundreds and thousands of
sutras expounded by you and Manjusri, I did not hear of this inconceivable
sutra of supramundane sovereign power and absolute reality. As I
understand from your present preaching, if living beings listening to the
Dharma of this sutra, believe, understand, receive, uphold, read and
recite it, they will surely realize this Dharma. How much more so if
someone practices it as expounded; he will shut all doors to evil
destinies and will open up all doors to blessing; will win the Buddha’s
perfection; will overcome heresy; destroy the demons; cultivate bodhi; set
up a place of enlightenment (bodhimandala) and follow in the Tathagata’s
footsteps.
Bạch Thế
Tôn! Nếu có người thọ trì đọc tụng, đúng như lời nói tu h nh, con sẽ cùng
quyến thuộc cúng dường hầu hạ. Ở nơi tụ lạc, th nh ấp, núi rừng, đồng nội,
chỗ n o có kinh nầy, con sẽ cùng quyến thuộc đồng đến chỗ đó nghe thọ kinh
pháp. Những người chưa tin, sẽ l m cho họ sanh lòng tin, người đã tin rồi
chúng con sẽ ủng hộ—World Honoured One, if there are people who receive,
uphold, read, recite and practice this sutra, I and my followers will
provide them with all the necessaries of life. If this sutra is kept in a
town or a hamlet, in a grove or a desert, I and my followers will come to
the place of the preacher to listen to its Dharma. I shall cause the
unbelievers to develop faith in this sutra. As to the believers of it I
shall protect them.”
Phật nói:
“Hay thay! Hay thay! Thiên Ðế! Như ông nói, ta sẽ giúp cho ông được vui
thêm. Kinh nầy rộng rãi nói đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác bất khả tư
nghì của chư Phật quá khứ, hiện tại v vị lai. Vì thế Thiên Ðế! Nếu có
thiện nam tử, thiện nữ nhân n o thọ trì, đọc tụng, cúng dường kinh pháp
nầy, thời chính l cúng dường chư Phật quá khứ, hiện tại v vị lai vậy.
Thiên Ðế! Giả sử có các Như Lai đầy khắp cõi tam thiên đại thiên như mía,
tre, lau, lúa, mè, rừng bụi, nếu có thiện nam tử thiện nữ nhân n o hoặc
một kiếp hoặc không đầy một kiếp cung kính tôn trọng, ngợi khen cúng
dường, dâng các món cần dùng cho đến sau khi các Ðức Phật diệt độ, đem xá
lợi to n thân của mỗi vị Phật dựng tháp bảy báu, ngang rộng bằng cõi tứ
thiên hạ, cao đến trời Phạm Thiên, bảo tháp trang nghiêm rực rỡ, dùng tất
cả hoa, hương, anh lạc, tr ng phan, kỹ nhạc tốt đẹp bậc nhứt, hoặc một
kiếp, hoặc ít hơn một kiếp, m cúng dường. Thiên Ðế! Ý ông nghĩ sao, người
đó l m việc phước có nhiều chăng?”—The Buddha said: “Excellent, Sakra,
excellent; it is gratifying to hear what you have just said. This sutra
gives a detailed exposition of the inconceivable supreme enlightenment
realized by past, future and present Buddhas.
“Therefore,
Sakra, if a virtuous man or woman receives, keeps, reads, recites and
reveres this sutra, such an attitude is equal to making offering to past,
future and present Buddhas. Sakra, if the great chiliocosm were full of
countless Tathagatas as many as the sugar canes, bamboos, reeds, recites
grains and hemp seeds in its fields; and if a virtuous man or woman who
has passed either a whole aeon or decreasing kalpa to revere, honour,
praise, serve and make offerings to these Buddhas, and then after their
nirvana (death) should build with relics from their bodies a seven-gemmed
stupa as large as the four deva-heavens (put together) and of a height
reaching the Brahma heaven with a majestic spire, to which he or she will
make offerings of flowers, incense, strings of precious stones, banners
and melodious music, during either a whole kalpa or in a decreasing one,
Sakra, what do you think of his or her merits? Are they many?”
Ðế Thích
thưa: “Bạch Thế Tôn! Rất nhiều, phước đức của người đó dẫu cho trăm ng n
ức kiếp nói mãi cũng không hết được.”—Sakra replied: “Very many, World
Honoured One, and it is impossible to count his or her merits for hundreds
and thousands of aeons.”
Phật bảo:
“Thiên Ðế! Phải biết người thiện nam tử thiện nữ nhân đó nghe kinh điển
“Bất Khả Tư Nghì Giải Thoát” nầy tin hiểu thọ trì tụng đọc tu h nh thì
phước đức hơn người l m việc cúng dường kia. Vì sao? Quả Bồ Ðề của chư
Phật đều từ kinh nầy sanh ra, tướng Bồ Ðề không có hạn lượng, do nhân
duyên đó nên phước đức cũng không có hạn lượng.”—The Buddha said: “Sakra,
you should know that if another virtuous man or woman, after hearing this
sutra of inconceivable liberation, believes, understands, receives, keeps,
reads, recites and practices this sutra, his or her merits will surpass
those of the former man or woman. Why? Because the bodhi (enlightenment)
of all Buddhas originates from this Dharma, and since enlightenment is
beyond all measuring, the merits of this sutra cannot be estimated.”
Phật bảo
tiếp: “Thiên Ðế! Về quá khứ vô lượng a tăng kỳ kiếp, lúc ấy ở đời có Phật
hiệu l Dược Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện
Thệ, Thế Gian Giải, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Cõi
nước đại trang nghiêm, kiếp tên l Trang Nghiêm Phật sống lâu 20 tiểu
kiếp, chúng Thanh Văn Tăng có 36 ức na do tha, chúng Bồ Tát Tăng có 12 ức.
Thiên Ðế! Lúc đó, có vị Chuyển Luân Thánh Vương tên l Bảo Cái, đầy đủ bảy
báu, cai trị bốn thiên hạ. Vua có một ng n người con tốt đẹp mạnh mẽ, hay
dẹp trừ các kẻ oán địch.”—The Buddha continued: “Long before an
uncountable number of aeons in the past there was a Buddha called
Bhaisajya-raja (whose titles are:) Tathagata, Arhat, Samyaksambuddha,
Vidya-Carana-Sampanna, Sugata, Lokavid, Anuttara, Purusa-Damya-Sarathi,
Sasta Devamanusyanam, and Buddha-lokanatha or Bhagavan. His world was
called Mahavyuha and the then aeon Alamkarakakalpa. The Buddha
Bhaisajya-raja lived for twenty small kalpas. The number of sravakas
reached thirty-six nayutas and that of Bodhisattvas twelve lacs. There,
Sakra, was a heavenly ruler (cakravarti) called Precious Canopy who
possessed all the seven treasures and was the guardian of four heavens.
He had a thousand sons who were respectable and brave and had overcome all
opposition.
Lúc đó, vua
Bảo Cái cùng quyến thuộc cúng dường Dược Vương Như Lai, dâng cúng các đồ
cần dùng đến năm kiếp. Qua năm kiếp rồi, vua bảo ng n người con rằng: “Các
ngươi cũng phải đem thân tâm cúng dường Phật như ta vậy.”—“At the time
Precious Canopy and his retinue had worshipped and made offerings to the
Tathagata Bhaisajya-raja for five aeons after which he said to his
thousand sons: ‘You should respectfully make offerings to the Buddha as I
have done.’
Khi đó ng n
người con đều vâng lệnh của vua cha cúng dường Dược Vương Như Lai, dâng
cúng tất cả đồ cần dùng cũng mãn năm kiếp. Có một người con của vua tên l
Nguyệt Cái, ngồi một mình suy nghĩ rằng: ‘Có việc cúng dường n o thù thắng
hơn việc cúng dường nầy chăng?’—Obeying their father’s order they made
offerings to the Tathagata Bhaisajya for five-aeons after which one of the
sons called Lunar Canopy, while alone, thought: ‘Is there some other form
of offering surpassing what we have made up to now?
Do sức oai
thần của Phật, ở giữa hư không có vị Trời nói rằng: “Thiện nam tử! Pháp
cúng dường l hơn hết các việc cúng dường.”—Under the influence of the
Buddha’s transcendental power a deva in the sky said: “Virtuous man, the
offering of Dharma surpasses all other forms of offering.”
Nguyệt Cái
liền hỏi: “Sao gọi l Pháp cúng dường?”—Lunar Canopy asked: ‘What is this
offering of Dharma?’
Vị trời
đáp: “Ông đến hỏi Ðức Dược Vương Như Lai, Ng i sẽ nói rõ thế n o l Pháp
cúng dường.”—The deva replied: ‘Go to the Tathagata Bhaisajya who will
explain it fully.’
Tức thì
Nguyệt Cái vương tử đến chỗ Dược Vương Như Lai cúi đầu lễ dưới chân Phật,
rồi đứng qua một bên bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Trong việc cúng dường, pháp
cúng dường l hơn hết. Thế n o gọi l Pháp cúng dường?”—Thereupon, Lunar
Canopy came to the Tathagata Bhaisajya, bowed his head at his feet and
stood at his side, asking: ‘World Honoured One, (I have heard that) the
offering of Dharma surpasses all other forms of offering; what is the
offering of Dharma?’
Phật dạy
rằng: “Thiện nam tử! Pháp cúng dường l kinh thâm diệu của chư Phật nói
ra, tất cả trong đời khó tin khó nhận, nhiệm mầu khó thấy, thanh tịnh
không nhiễm, không phải lấy suy nghĩ phân biệt m biết được. Kinh nầy
nhiếp về pháp tạng của Bồ Tát, ấn đ la ni, ấn đó cho đến bất thối chuyển,
th nh tựu lục độ, khéo phân biệt các nghĩa, thuận pháp Bồ Ðề, trên hết các
kinh, v o các đại từ bi, lìa các việc ma v các t kiến, thuận pháp nhân
duyên, không ngã, không nhơn, không chúng sanh, không thọ mạng, không vô
tướng, vô tác, vô khởi, l m cho chúng sanh ngồi nơi đạo tr ng m chuyển
pháp luân, chư Thiên, Long thần, C n thát b thảy đều ngợi khen, đưa chúng
sanh v o pháp tạng của Phật, nhiếp tất cả trí tuệ của Hiền Thánh, diễn nói
cách tu h nh của Bồ Tát, nương theo nghĩa thực tướng của các pháp, tuyên
b y các pháp vô thường, khổ, không, vô ngã, tịch diệt, cứu độ chúng sanh
hủy phá giới cấm, l m cho t ma ngoại đạo v người tham lam chấp trước đều
sợ sệt, chư Phật, Hiền, Thánh đều ngợi khen, xóa trắng cái khổ sanh tử v
chỉ ra cái vui Niết B n m chư Phật ba đời ở trong mười phương đều nói ra,
nếu người nghe những kinh như thế m tin hiểu, thọ trì, đọc tụng, dùng sức
phương tiện phân biệt giải nói, chỉ b y r nh rẽ cho chúng sanh, giữ gìn
chánh pháp, đó gọi l Pháp cúng dường.”—“The Tathagata repolied: ‘Virtuous
one, the offering of Dharma is preached by all Buddhas in profound sutras
but it is hard for worldly men to believe and accept it as its meaning is
subtle and not easily detected, for it is impeacable in its purity and
cleanness. It is beyond the reach of thinking and discriminating; it
contains the treasure of the Bodhi-sattva’s Dharma store and is sealed by
the Dharani-symbol; it never backslides for it achieves the six
perfections (paramitas); discerns the difference between various meanings;
is in line with the bodhi Dharma; is at the top of all sutras; helps
people to enter upon great kindness and great compassion; to keep from
demons and perverse views, and to conform with the law of causality and
the teaching on the unreality of an ego; a man, a living being and life
and on voidness, formlessness, non-creating and non-uprising. It enables
living beings to sit in a bodhimandala to turn the wheel of the law. It
is praised and honoured by heavenly dragons, gandharvas, etc. It can help
living beings to reach the Buddha’s Dharma store and gather all knowledge
(sarvajna realized by) saints and sages, preach the path followed by all
Bodhisattvas; rely on the reality underlying all things; proclaim the
(doctrine of) impermanence, suffering; voidness and absence of ego and
nirvana. It can save all living beings who have broken the precepts and
keep in awe all demons, heretics and greedy people. It is praised by the
Buddhas, saints and sages for it wipes out suffering from birth and death;
proclaims the joy in nirvana as preached by past; future and present
Buddhas in the ten directions.
“If a
listener after hearing about this sutra, believes, understands, receives,
upholds, reads and recites it and uses appropriate methods (upaya) to
preach it clearly to others, this upholding of the Dharma is called the
offering of Dharma.
Lại theo
các pháp đúng như lời nói tu h nh, tùy thuận 12 nhơn duyên, lìa t kiến,
được vô sanh nhẫn, quyết định không có ngã, không có chúng sanh, m đối
với quả báo nhơn duyên không trái không cãi, lìa các ngã sở, y theo nghĩa
không y theo lời, y theo trí không y theo thức, y theo kinh liễu nghĩa
không y theo kinh không liễu nghĩa, y theo pháp không y theo người, thuận
theo pháp tướng, không chỗ v o, không chỗ về, vô minh diệt hết thời h nh
cũng diệt hết, cho đến sanh diệt hết thời lão tử cũng diệt hết, quán như
thế thì 12 nhơn duyên không có tướng diệt, không có tướng khởi, đó gọi l
Pháp cúng dường hơn hết.”—“Further, the practice of all Dharmas as
preached; to keep in line with the doctrine of the twelve links in the
chain of existence; to wipe out all heterodox views; to achieve the
patient endurance of the uncreate (anutpatti-dharma-ksanti) (as beyond
creation); to settle once for all the unreality of the ego and the
non-existence of living beings; and to forsake all dualities of ego and
its objects without deviation from and contradiction to the law of
causality and retribution for good and evil; by trusting to the meaning
rather than the letter; to wisdom rather than consciousness; to sutras
revealing the whole truth rather than those of partial revelation; and to
the Dharma instead of the man (i.e. the preacher); to conform with the
twelve links in the chain of existence (nidanas) that have neither whence
to come nor wither to go; beginning from ignorance (avidya) which is
fundamentally non-existent, and conception (samskara) which is also
basically unreal, down to birth (jati) which is fundamentally
non-existent; and old age and death (jaramarana) which are equally
unreal. Thus, contemplated, the twelve links in the chain of existence
are inexhaustible, thereby putting an end to the (wrong) view of
annihilation. This is the unsurpassed offering of Dharma.”
Phật bảo:
“Thiên Ðế! Vương tử Nguyệt Cái theo Phật Dược Vương nghe pháp như thế rồi
được pháp ‘nhu thuận nhẫn,’ liền cởi y báu v đồ trang sức nơi thân cúng
dường Phật v bạch rằng: “Bạch Thế Tôn! Sau khi Như Lai diệt độ con sẽ
thực h nh Pháp cúng dường để giữ gìn Chánh pháp, nguyện nhờ oai thần của
Như Lai thương xót gia hộ cho con được h ng phục ma oán tu hạnh Bồ
Tát.”—The Buddha then said to Sakra: “Lunar Canopy, after hearing the
Dharma from the Buddha Bhaisajya (the Buddha of Medicine), realized (only)
the patience of Meekness and took off his precious robe to offer it to
that Buddha, saying: “World Honoured One, after your nirvana, I shall
make offerings of Dharma to uphold the right doctrine; will your
awe-inspiring majestic help me to overcome the demons and to practise the
Bodhisattva line of conduct?’”
Phật biết
tâm niệm của ông nên thọ ký rằng: “Về đời sau nầy ông giữ gìn th nh trì
Chánh Pháp.”—The Buddha Bhaisajya knew of his deep thought and prophesied:
“Until the last moment you will guard the Dharma protecting citadel.”
Nầy Thiên
Ðế! Vương tử Nguyệt Cái lúc đó thấy được pháp thanh tịnh, nghe Phật thọ ký
đem lòng chánh tín xuất gia tu tập các pháp l nh, tinh tấn không bao lâu
chứng ngũ thông, đủ đạo hạnh Bồ Tát, được môn đ la ni, biện t i vô ngại.
Sau khi Phật diệt độ, ông dùng sức thần thông, tổng trì biện t i đã chứng
được, y theo pháp của Dược Vương Như Lai đã nói m ban bố ra mãn mười tiểu
kiếp—Sakra, at that time Lunar Canopy perceived the pure and clean Dharma,
and after receiving the Buddha’s prophecy, believed it and left his home
to join the order. He practiced the Dharma so diligently that he soon
realized the five transcendental powers. In his Bodhisattvas development,
he won the endless power of speech through his perfect control (dharani-
of all external influences). After the nirvana of the Buddha Bhaisajya,
he used this power of speech to turn the wheel of the law, spreading the
Dharma widely for ten small aeons.
Tỳ Kheo
Nguyệt Cái giữ gìn Phật pháp, siêng tu tinh tấn ngay đời đó hóa độ được
trăm muôn ức người ở nơi đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác không còn
thối lui, 14 na do tha người phát hẳn tâm Thanh Văn, Duyên Giác, v vô
lượng chúng sanh được sanh về cõi Trời—Lunar Canopy was indefatigable
(untiring) in his preaching of the Dharma and converted a million lacs of
people who stood firm in their quest of supreme enlightenment, fourteen
nayutas of people who set their minds on achieving the sravaka and
pratyeka-buddha stages, and countless living beings who were reborn in the
heavens.
Thiên Ðế!
Vua Bảo Cái lúc ấy đâu phải người n o khác, hiện nay th nh Phật hiệu l
Bảo Diệm Như Lai, còn một ng n người con của vua chính l một ng n vị Phật
trong đời Hiền Kiếp, m đức Ca La Cưu Tôn Ð th nh Phật trước hết, đến vị
Phật th nh sau rốt sau hiệu l Lầu Chi, còn Nguyệt Cái Tỳ Kheo chính l
thân ta đây (tức Phật Thích Ca, vị Phật thứ tư trong đời Hiền Kiếp). Như
thế, Thiên Ðế phải biết cái yếu điểm Pháp cúng dường l hơn hết trong việc
cúng dường, bực nhất không chi sánh kịp. N y Thiên Ðế! Phải lấy Pháp cúng
dường m cúng dường các đức Phật—Sakra, who was that Royal Precious
Canopy? He is now a Buddha called the Tathagata Precious Flame and his one
thousand sons are the thousand Buddhas of the (present) Bhadrakalpa (the
virtuous aeon) whose first Buddha was Krakucchanda and last Buddha was
Rucika. Bhiksu Lunar Canopy was myself. Sakra, you should know that the
offering of Dharma is the highest form of offering. Therefore, Sakra, you
should make the offering of Dharma as an offering to all Buddhas.”
CHƯ NG MƯỜI BỐN—CHAPTER FOURTEEN
—PHẨM CHÚC LỤY—INJUNCTION to
SPREAD this SUTRA
Bấy
giờ Phật bảo Bồ Tát Di Lặc rằng: “Nầy Di Lặc! Ta nay đem pháp Vô Thượng
Chánh đẳng Chánh giác đã chứa nhóm vô lượng ức a tăng kỳ kiếp m phú chúc
cho ông. Những thứ kinh như thế, sau khi Phật diệt độ về đời mạt kiếp các
ông phải dùng thần lực diễn nói lưu bố khắp cõi Diêm Phù Ðề chớ để dứt
mất. Vì sao? Về đời vị lai sẽ có những thiện nam tử, thiện nữ nhân, Thiên,
Long, quỷ thần, C n thát b , La sát, vân vân phát tâm Vô thượng Chánh đẳng
Chánh giác, ưa pháp Ðại thừa, nếu không cho họ nghe những kinh như thế
thời mất lợi h nh. Hạng người như thế nghe những kinh đó tất ưa thích tin
chịu phát tâm hy hữu, sẽ đảnh lễ vâng thọ, rồi theo chỗ cần lợi lạc cho
chúng sanh m diễn nói pháp.”—The Buddha then said: to Maitreya:
“Maitreya, I now entrust you with the Dharma of supreme enlightenment
which I have collected during countless aeons. In the third (and last)
period of the Buddha kalpa you should use transcendental power to proclaim
widely in Jambuvipa (the earth) (profound) sutras such as this one,
without allowing them to be discontinued. For in future generations there
will be virtuous men and women, as well as heavenly dragons, ghosts,
spirits, gandharvas, and raksasas who will take pleasure in the great
Dharma and will set their minds on the quest of supreme enlightenment; if
they do not hear about such sutras they will miss a great advantage. For
these people are fond of and believe in these sutras, which they will
readily accept by placing them on their heads and which they will widely
proclaim for the profit of living beings.
Di
Lặc! Ông phải biết, Bồ Tát có hai tướng. Sao gọi l hai? Một l những
người ưa những câu văn hay đẹp, hai l những người không sợ nghĩa sâu xa,
hiểu được đúng như thật. Như hạng ưa những câu văn hay đẹp, phải biết đó
l Bồ Tát mới học. Nếu ở nơi kinh điển thậm thâm không nhiễm, không
trước, không có chút sợ sệt v hiểu rõ được đó, nghe rồi tâm thanh tịnh
thọ trì, đọc tụng đúng như lời nói m tu h nh, phải biết đó l hạng tu
h nh đã lâu—Maitreya, you should know that there are two categories of
Bodhisattvas: those who prefer proud words and a racy style, and those who
are not afraid (of digging out) the profound meanings which they can
penetrate. Fondness of proud words and a racy style denotes the
superficiality of a newly initiated Bodhisattva; but he who, after hearing
about the freedom from infection and bondage as taught in profound sutras,
is not afraid of their deep meanings which he strives to master, thereby
developing a pure mind to receive, keep, read, recite and practise (the
Dharma) as preached is a Bodhisattva who has trained for a long time.
Nầy
Di Lặc! Lại có hai pháp gọi l Bồ Tát mới học, không thể quyết định pháp
thậm thâm. Hai pháp l chi? Một l những kinh điển thậm thâm chưa từng
nghe nếu nghe thời sợ sệt sanh lòng nghi, không tùy thuận được, chê bai
không tin rồi nói rằng: “Kinh nầy từ trước đến giờ ta chưa từng nghe, từ
đâu đến đây?” Hai l nếu có người hộ trì giải nói những kinh sâu xa như
thế, không chịu gần gũi, cúng dường cung kính, hoặc ở nơi đó nói lỗi xấu
xa của người kia. Có hai pháp đấy, phải biết Bồ Tát mới học chỉ l tự tổn
hại, chứ không thể ở nơi pháp thậm thâm m điều phục được tâm
mình—Maitreya, there are two classes of newly initiated Bodhisattvas who
cannot understand very deep Dharmas: those who have not heard about
profound sutras and who, giving way to fear and suspicion, cannot keep
them but indulge in slandering them, saying: ‘I have never heard about
them; where do they come from?’, and those who refuse to call on, respect
and make offerings to the preachers of profound sutras or who find fault
with the latter; these are two classes of newly initiated Bodhisattvas who
cannot control their minds when hearing the deep Dharma, thereby harming
themselves.
Nầy
Di Lặc! Lại có hai pháp, Bồ Tát dầu tin hiểu thâm pháp, vẫn còn tự tổn hại
chớ không thể chứng được vô sanh pháp nhẫn. Hai pháp l chi? Một l khinh
dễ các Bồ Tát mới học m không dạy bảo. Hai l tin hiểu thâm pháp m lại
chấp tướng phân biệt—Maitreya, further, there are two categories of
Boshisattvas who harm themselves and fail to realize the patient endurance
of the uncreate in spite of their belief and understanding of the deep
Dharma: they are (firstly) those who belittle newly initiated Boshisattva
and do not teach and guide them; and (secondly) those who, despite their
faith in the deep Dharma, still give rise to discrimination between form
and formlessness.”
Sau
khi nghe Phật thuyết giảng, Bồ Tát Di Lặc bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn!
Thật chưa từng có! Như lời Thế Tôn đã nói, con quyết xa lìa các lỗi như
thế, xin vâng giữ pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác đã chứa nhóm từ vô
lượng a tăng kỳ kiếp của Như Lai. Nếu vị lai có người thiện nam tử hay
thiện nữ nhân n o cầu pháp Ðại thừa, con sẽ l m cho tay người đó được
những kinh như thế v cho họ cái sức ghi nhớ để thọ trì đọc tụng, diễn
nói cho người. Bạch Thế Tôn! Nếu đời sau có người thọ trì, đọc tụng, diễn
nói kinh nầy cho người khác, đó chính l thần lực của Di Lặc lập nên—After
hearing the Buddha expound the Dharma, Maitreya said: “World Honoured One,
I have not heard all this before. As you have said, I shall keep from
these evils and uphold the Dharma of supreme enlightenment which the
Tathagata has collected during countless aeons. In future, if there are
virtuous men and women who seek for Mahayana, I shall see to it that this
sutra will be placed in their hands, and shall use transcendental power to
make them remember it so that they can receive, keep, read, recite and
proclaim it widely.
“World
Honoured One, in the coming Dharma ending age, if there are those who can
receive, keep, read and recite this sutra and expound it widely, they will
do so under the influence of my transcendental power.”
·Phật
nói: “Hay thay! Hay thay! Nầy Di Lặc! Như lời ông nói, ta sẽ giúp cho ông
vui thêm.”—The Buddha said: “Excellent, Maitreya, excellent; as you have
said, I will help you achieve this great joy.”
·Bấy
giờ các Bồ Tát chắp tay bạch Phật rằng: “Sau khi Như Lai diệt độ, chúng
con cũng ở cõi nước trong mười phương, truyền bá cùng khắp pháp Vô thượng
Chánh đẳng Chánh giác, v sẽ dẫn dắt những người nói pháp được kinh
nầy.”—At that, all the Bodhisattvas in the assembly brought their palms
together and said to the Buddha: After your nirvana, we will also proclaim
this Dharma of supreme enlightenment widely in the ten directions and will
guide preachers of Dharma to obtain this sutra.”
Lúc
đó bốn vị Thiên vương bạch Phật rằng: “Ở các chỗ hoặc th nh ấp, tụ lạc,
núi rừng, đồng nội có quyển kinh nầy, có người đọc tụng, giải nói, con sẽ
đem các quyến thuộc đi đến chỗ đó để nghe pháp, ủng hộ cho người đó mỗi
phía trăm do tuần, không để người cố ý tìm l m hại.”—The four kings of
devas said to the Buddha: “World Honoured One, in all towns and villages,
in the groves and wilderness, and where there is this sutra and people
reading, reciting, explaining and proclaiming it, I will lead local
officials to go to their places to listen to the Dharma and to protect
them so that no one dares to one within one hundred yojanas of their
places to trouble them.”
Bấy
giờ Phật bảo A Nan: “Nầy A Nan! Ông hãy thọ trì lấy kinh nầy, rộng nói
khắp truyền cho đời sau.”—The Buddha then said to Ananda: “Ananda, you too
should receive, keep and spread this sutra widely.”
A
Nan thưa: “Dạ! Con đã thọ trì rồi. Bạch Thế Tôn! Kinh nầy tên l
gì?”—Ananda said: “Yes, World Honoured One, I have received this sutra and
will keep it. What is its title?”
Phật
bảo A Nan: “Tên kinh nầy l Duy Ma Cật Sở Thuyết, cũng gọi l Bất Khả Tư
Nghì Giải Thoát Pháp Môn, ông nên thọ trì.”—The Buddha said: “Ananda, its
title is ‘The Sutra spoken by Vimalakirti’, or ‘The Inconceivable Door to
Liberation’, under which you should receive and keep it.”
Sau khi
Phật thuyết giảng xong, trưởng giả Duy Ma Cật, Văn Thù Sư Lợi, Xá Lợi
Phất, A Nan, vân vân v các h ng Trời, người, A tu la, tất cả đại chúng
nghe lời Phật nói đều rất vui mừng tin nhận kính vâng l m theo—After the
Buddha had expounded this sutra, the old upasaka Vimalakirti, Manjusri,
Sariputra, Ananda and others as well as devas, asuras and all those
present were filled with joy; believed, received and kept it; paid
reverence and went away.
Châm Ngôn Tục Ngữ—Precepts
and Proverbs:
Không thái quá cũng không bất cập: Extremes
are dangerous.
Vi phú bất nhân, vi nhân bất phú (l m gi u
thì mất nhân, l m nhân thì không gi u): Muck and money go together.
L m ơn không bao giờ thiệt thòi: An act of
kindness is never wasted.
Lòng nhẫn nại đắng cay, nhưng quả của nó
ngọt: Patience is bitter, but its fruit is sweet.
Lời nói tai hại hơn việc l m: His bark is
worse than his bite.
Muốn biết phải hỏi: Better to ask the way
than go astray.
Thói xấu học nhanh: Ill weed grows fast.
Thiếu thận trọng nguy hiểm hơn thiếu kiến
thức: Want of care does us more damage than want of knowledge.
V ng thiệt không sợ lửa: A clean hand needs
no washing.
Thời giờ đã mất, không bao giờ trở lại: Time
lost is never found.
Biết đủ l gi u nhất: He is rich that he has
few wants.
Họa phúc trùng lai (trong họa có phúc, trong
phúc có họa): Misfortune has its uses.
Tu thân rồi mới tề gia: He is not fit to
command others that cannot command himself.
Vẻ đẹp v sự ngu ngốc thường l đôi bạn đồng
h nh: Beauty and folly are often companions.
Vui vẻ trong công việc sẽ dễ d ng đi đến
th nh công: A merry heart goes all the way.
---o0o---
Phụ Lục
|
A
|
B
| C |
D
| E |
F
| G |
H
| I |
J
| K |
L
| M |
N
---o0o---
Mục Lục |
Việt Anh | Anh -Việt |
Phạn/Pali-Việt
| Phụ Lục
---o0o---
Trình b y: Minh Hạnh & Thiện Php
Cập nhật: 3-18-2006