Tứ Thập Nhị Chương Kinh (Kinh Bốn Mươi Hai Chương)—Sutra In Forty-Two
Sections
Chapter 1—Chương 1:
---Ðức Phật dạy—The Buddha said:
---“Từ giả gia đình cha mẹ, xuất gia học đạo, thấu rõ vi Diệu Pháp,
được gọi l bậc Sa Môn.”
“Those who leave home and parents lead a reclusive life (renunciation)
and understand the Wonderful Dharma are called “Saramanas.”
---“Thường giữ gìn 250 giới, sống đời thanh tịnh, thực h nh Tứ Diệu Ðế,
th nh tựu quả vị A-La-Hán.”
“Always observe the 250 precepts; enter into and abide in purity by
practicing the Four Noble Truths, which accomplish Arahantship.”
---“Vị chứng quả A-La-Hán có thể phi h nh, biến hóa, kéo d i mạng sống,
nơi n o người ấy sống đều l m động đến đất trời.”
“Arahants can fly and transform themselves. They have a lifespan of vast
aeons and wherever they dwell they can move earth and heaven.”
---“Thứ đến l quả A-Na-H m. Vị chứng quả A-Na-H m, khi hết tuổi thọ thế
gian sẽ sanh lên cõi trời thứ 19 v chứng quả A-La-Hán tại đó.”
“Prior to the Arahant is the Anagamin. At the end of his life, an
Anagamin (vital spirit) will ascend to the nineteenth heaven and there,
he will certify (achieve) to Arahantship.”
---“Trước khi chứng quả A-Na-H m l quả Tư-Ð -H m. Người chứng quả
Tư-Ð -H m còn phải sanh lên cõi trời một lần, rồi trở lại tái sanh cõi
người một lần nữa, sau đó chứng quả A-La-Hán.”
“Prior to the Anagamin is the Sakridagamin. Sakridagamin ascends
to the heaven once, returns (to be reborn as a human being) once more
and thereafter, attains Arahantship.”
---“Trước khi chứng quả Tư-Ð -H m l quả Tu-Ð -Ho n. Người chứng quả
Tu-Ð -Ho n phải bẩy lần sanh tử mới chứng quả A-La-Hán.”
“Prior to the Sakridagamin is the Srotaapanna. Srotaapanna is one who
still has seven deaths and births before achieving to Arahantship.”
---“Người chứng quả A-La-Hán l người đã đoạn tận ái dục, như chân tay
bị chặt không thể xử dụng trở lại được.”
“One who achieves (certifies) Arahantship severes love and desire in the
same manner as severing the four limbs; one is never able to use them
again.”
Chapter 2—Chương 2:
---Ðức Phật dạy: “Người xuất gia l m sa Môn thì phải từ bỏ ái dục, biết
được nguồn tâm, thấu triệt giáo pháp của Phật, hiểu pháp vô vi. Bên
trong không có cái để được, bên ngo i không có chỗ để cầu. Tâm không
chấp thủ nơi đạo, cũng không hệ lụy bởi nghiệp, không có suy tưởng,
không có tạo tác, không có tu, không có chứng, chẳng cần trải qua các
Thánh vị m tự th nh cao tột, đó gọi l Ðạo.”
The
Buddha said: “Sramanas who have left the home-life renounce love, cut
(uproot) desire and recognize the source of their minds. They penetrate
the Buddha’s Wonderful Dharmas and awaken to unconditioned dharmas. They
do not seek to obtain anything internal; nor do they seek anything
external. Their minds are not bound by the Way nor are they tied up in
Karma. They are without thoughts and without actions; they neither
cultivate nor achieve (certify); they do not need to pass through the
various stages and yet are respected and revered. This is what is meant
by the Way.”
Chapter 3—Chương 3:
---Ðức Phật dạy: “Cạo bỏ râu tóc để trở th nh một vị Sa Môn, lãnh thọ
giáo pháp của Phật thì phải xả bỏ của cải thế gian, l m khất sĩ, mong
cầu vừa đủ, giữa ng y ăn một bữa v chỉ ăn cho khỏi đói, dưới gốc cây ở
một đêm, cẩn thận không để trở lại lần thứ hai. Ðiều l m cho người ta
ngu muội l Ái v Dục.”
The
Buddha said: “By shaving their heads and beards, they become Saramanas
who accept the Dharmas of the Way. They renounce worldly wealth and
riches; beg for food with moderation (moderate needs or not to acquire
too many things); take only one meal at noon and eat only enough to
satisfy their hunger and are careful not to return. Craving and desire
are at the roots of what cause people to be stupid and confused
(obscured).”
Chapter 4—Chương 4:
---Ðức Phật dạy: “Chúng sanh do mười điều m th nh thiện, cũng do mười
điều m th nh ác. Mười điều ấy l gì? Thân có ba, miệng có bốn, v ý có
ba. Thân có ba l : Giết hại, trộm cắp, dâm dục. Lưỡi có bốn l : Nói lưỡi
hai chiều, nói lời độc ác, nói lời dối trá, nói ba hoa. Ý có ba l : Tật
đố, sân hận, ngu si. Mười điều ấy không phù hợp với con đường của bậc
Thánh, gọi l h nh vi ác. Nếu mười điều ác nầy được chấm dứt thì gọi l
mười điều thiện.”
The
Buddha said: “Living beings may perform ten good practices or ten evil
practices. What are the ten? Three are three of the Body, four are of
the Mouth and the last three are of the Mind. The three of the Body are
killing, stealing and lust. The four of the mouth are double-tongued
speech (duplicitous speech), harsh speech, lies, and irresponsible
speech. The three of the Mind are jealousy, hatred, and stupidity. Thus,
these ten are not in accordance (consistent) with the Holy Way and are
called ten evil practices. To put an end to these evils is to perform
the ten good practices.”
Chapter 5—Chương 5:
---Ðức Phật dạy: “Người có lầm lỗi m không tự sám hối để mau chấm dứt
tâm tạo tội ác, thì tội lỗi sẽ chồng chất v o thân như nước chảy về
biển, dần dần trở nên sâu rộng. Nếu người có tội m tự nhận biết tội, bỏ
ác l m l nh thì tội lỗi tự diệt, như bệnh được đổ mồ hôi dần dần sẽ
khỏi.”
The
Buddha said: “If a person has many offenses and does not repent of them
but merely stop thinking about them, the offenses will engulf him, just
as water returning to the sea will gradually become deeper and broader.
If a person has offenses and repents (practices good), the offenses will
dissolve of themselves, just as a sick person begins to perspire and is
gradually be cured.”
Chapter 6—Chương 6:
---Ðức Phật dạy: “Người ác nghe nói ai l m điều thiện thì đến để phá
hoại. Khi gặp người như vậy, các ông phải tự chủ, đừng có tức giận trách
móc. Bởi vì kẻ mang điều ác đến thì họ sẽ lãnh thọ điều ác đó.”
The
Buddha said: “When an evil person hears about virtue and intentionally
or voluntarily comes to cause trouble, you should restrain yourself and
should not become angry or upbraid him. Then, the one who has come to do
evil will do evil to himself.”
Chapter 7—Chapter 7:
---Ðức Phật dạy: “Có người nghe ta giữ đạo, thực h nh tâm đại nhân từ,
nên đến mắng ta; ta im lặng không phản ứng. Người kia mắng xong, ta liền
hỏi: Ông đem lễ vật để biếu người khác, người kia không nhận thì lễ vật
ấy trở về với ông không? Người kia đáp: “Về chứ.” Ta bảo: “Nay ông mắng
ta, ta không nhận thì tự ông rước họa v o thân, giống như âm vang theo
tiếng, bóng theo hình, rốt cuộc không thể tránh khỏi. Vậy hãy cẩn thận,
đừng l m điều ác.”
The
Budha said: “There was one who, upon hearing that I protect the way and
practice great humane compassion, intentionally or voluntarily came to
scold me. I was silent and did not reply. When he finished scolding me,
I asked, ‘If you are courteous to people and they do not accept your
courtesy, the courtesy returns to you, does it not?’ He replied, ‘It
does.’ I said, ‘Now you are scolding me but I do not receive it. So, the
misfortune returns to you and must remain with you. It is just as
inevitable as the echo that follows a sound or as the shadow that
follows a form. In the end, you cannot avoid it. Therefore, be careful
not to do evil.”
Chapter 8—Chương 8:
---Ðức Phật dạy: “Kẻ ác hại người hiền giống như ngước mặt lên trời m
nhổ nước miếng, nhổ không tới trời, nước miếng lại rơi xuống ngay mặt
mình. Ngược gió tung bụi, bụi chẳng đến người khác, trở lại dơ thân
mình, người hiền không thể hại được m còn bị họa v o thân.”
The
Buddha said: “An evil person who harms a sage is like one who raises his
head and spits at heaven. Instead of reaching heaven, the spittle falls
back on him. It is the same with one who throws dust into the wind
instead of going somewhere else, the dust returns to fall on the
thrower’s body. The sage cannot be harmed; misdeed will inevitably
destroy the doer.”
Chapter 9—Chương 9:
--Ðức Phật dạy: “Học rộng, hiểu nhiều, đắm say đạo lý thì Ðạo khó hội
nhập. Kiên trì tâm chí thực h nh thì Ðạo rất lớn lao.”
The
Buddha said: “Erudition (knowledge or education) and love of the Way
make the Way difficult to accomplish, but when you guard your will and
revere the Way, the Way becomes profound and vast.”
Chapter 10—Chương 10:
---Ðức Phật dạy: “Thấy người thực h nh bố thí, hoan hỷ giúp đở thì được
phước rất lớn. Có vị Sa môn hỏi Phật, ‘Phước nầy có hết không?’ Phật
đáp, ‘Thí như lửa của ngọn đuốc, h ng trăm h ng ng n người đem đuốc đến
mồi lửa về để nấu ăn hay thắp sáng, lửa của ngọn đuốc nầy vẫn như cũ.
Phước của người hoan hỷ hỗ trợ người thực h nh bố thí cũng vậy’.”
The
Buddha said: “When you see someone practicing the Way of Giving, help
him joyously and you will obtain vast and great blessings. A Saramana
asked: ‘Is there an end to those blessings?’ The Buddha said: ‘Consider
the flame of a single lamp, though a hundred thousand people come and
light their own lamps from it so that they can cook their food and ward
off the darkness, the first lamp remains the same as before. Blessings
are like this, too’.”
Chapter 11—Chương 11:
--Ðức Phật dạy: “Cho một trăm người ác ăn không bằng cho một người thiện
ăn. Cho một ng n người thiện ăn không bằng cho một người thọ ngũ giới
ăn. Cho một vạn người thọ ngũ giới ăn không bằng cho một vị Tu-Ð -Huờn
ăn. Cho một triệu vị Tu-Ð -Huờn ăn không bằng cho một vị Tư-Ð -H m ăn.
Cho một trăm triệu vị Tư-Ð -H m ăn không bằng cho một vị A-Na-H m ăn.
Cho một ng n triệu vị A-Na-H m ăn không bằng cho một vị A-La-Hán ăn. Cho
mười tỷ vị A-La-Hán ăn không bằng cho một vị Phật Bích Chi ăn. Cho một
trăm tỷ vị Bích Chi Phật ăn không bằng cho một vị Phật Ba Ðời ăn (Tam
Thế Phật). Cho một ng n tỷ vị Phật Ba Ðời ăn không bằng cho một vị Vô
Niệm, Vô Trụ, Vô Tu, v Vô Chứng ăn.”
The
Buddha said: “Giving food to a hundred bad people does not equal to
giving food to a single good person. Giving food to a thousand good
people does not equal to giving food to one person who holds the five
precepts. Giving food to ten thousand people who hold the five precepts
does not equal to giving food to a single Srotaapanna. Giving food to a
million Srotaapannas does not equal to giving food to a single
Sakridagamin. Giving food to ten million Sakridagamins does not equal
to giving food to one single Anagamin. Giving food to a hundred million
Anagamins does not equal to giving food to a single Arahant. Giving food
to ten billion Arahants does not equal to giving food to a single
Pratyekabuddha. Giving food to a hundred billion Pratyekabuddhas does
not equal to giving food to a Buddha of the Three Periods of time.
Giving food to ten trillion Buddhas of the Three Periods of time does
not equal to giving food to a single one who is without thoughts,
without dwelling, without cultivation, and without accomplishment."
Chapter 12—Chương 12:
---Ðức Phật dạy: “L m người luôn có hai mươi điều khó: Nghèo n n bố thí
l khó; Gi u sang học đạo l khó; Bỏ thân mạng quyết chết l khó; Thấy
được kinh Phật l khó; Sinh v o thời có Phật l khó; Nhẫn sắc nhẫn dục
l khó; Thấy tốt không cầu l khó; Bị nhục không tức l khó; Có thế lực
không dựa l khó; Gặp việc vô tâm l khó; Học rộng nghiên cứu sâu l
khó; Diệt trừ ngã mạn tự mãn l khó; Không khinh người chưa học l khó;
Thực h nh tâm bình đẳng l khó; Không nói chuyện phải trái l khó; Gặp
được thiện tri thức l khó; Thấy tánh học Ðạo l khó; Tùy duyên hóa độ
người l khó; Thấy cảnh tâm bất động l khó; Khéo biết phương tiện l
khó.”
The
Buddha said: “People always encounter twenty difficulties. It is
difficult to give when one is poor. It is difficult to study the way
when one has power and wealth. It is difficult to abandon life and face
the certainty of death. It is difficult to encounter the Buddhist
Sutras. It is difficult to be born at the time of the Buddha. It is
diffucult to forbear lust and desire. It is difficult to see good things
and not seek them. It is difficult to be insulted and not become angry.
It is difficult to have power and not abuse it. It is difficult to come
in contact with things and have no thought of them. It is difficult to
be greatly learned and widely informed. It is difficult to get rid of
self-pride or self-satisfaction. It is difficult not to slight those who
have not yet studied. It is difficult to practice equanimity of mind. It
is difficult not to gossip. It is difficult to find (meet) a good
knowing advisor. It is difficult to see one’s own nature and study the
Way. It is difficult to transform oneself in ways that are appropriate
taking living beings across to enlightenment. It is difficult to see a
state an not be moved by it. It is difficult to have a good
understanding of skill-in-means.”
Chapter 13—Chương 13:
“Có vị sa Môn hỏi Phật, ‘Bởi lý do gì m biết được đời trước, m hội
nhập được đạo chí thượng?’ Ðức Phật dạy: ‘Tâm thanh tịnh, chí vững bền
thì hội nhập đạo chí thượng, cũng như khi lau kính hết dơ thì trong sáng
hiển lộ; đoạn tận ái dục v tâm không mong cầu thì sẽ biết đời trước’.”
“A
Sramana asked the Buddha: ‘What are the causes and conditions by which
one come to know past lives and also by which one’s understanding
enables one to attain the Way?’ The Buddha said: ‘By purifying the mind
and guarding the will, your understanding can achieve (attain) the Way.
Just as when you polish a mirror, the dust vanishes and brightness
remains; so, too, if you cut off and do not seek desires, you can then
know past lives.”
Chapter 14—Chương 14:
---Có một vị Sa Môn hỏi Phật: “Ðiều gì l thiện? Ðiều gì l lớn nhất?”
Ðức
Phật dạy: “Thực h nh Chánh Ðạo, giữ sự chân thật l thiện. Chí nguyện
hợp với Ðạo l lớn nhất.”
---A Sramana asked the Buddha: “What is goodness? What is the foremost
greatness?” The Buddha replied: “To practice the Way and to protect the
Truth is goodness. To unite your will with the Way is greatness.”
Chapter 15—Chương 15:
---Có vị Sa Môn hỏi Ðức Phật: “Ðiều gì l mạnh nhất? Ðiều gì l sáng
nhất?” Ðức Phật dạy: “Nhẫn nhục l mạnh nhất vì không chứa ác tâm nên
tăng sự an ổn. Nhẫn nhục l không ác, tất được mọi người tôn kính. Tâm ô
nhiễm đã được đoạn tận không còn dấu vết gọi l sáng nhất, nghĩa l tất
cả sự vật trong mười phương, từ vô thỉ vẩn đến hôm nay, không vật gì l
không thấy, không vật gì l không biết, không vật gì l không nghe, đạt
được nhất thiết trí, như vậy được gọi l sáng nhất.”
---A Sramana asked the Buddha: “What is the greatest strength? What is
the utmost brilliance?” The Buddha said: “Patience under insult is the
greatest strength because those who are patient do not harbor hatred and
they are increasingly peaceful and settled. Those who are patient are
without evil and will certainly be honored among people. To put an end
to the mind’s defilements so that it is pure and untainted is the utmost
brilliance. When there is nothing in any of the ten directions
throughout existence, from before the formation of heaven and earth,
until this very day, that you do not see, know or hear, when all-wisdom
is obtained (achieved), that can be called brilliance.”
Chapter 16—Chương 16:
---Ðức Phật dạy: “Người giữ ái dục ở trong lòng thì không thấy được Ðạo.
Thí như nước trong m lấy tay khuấy động, người ta đến soi không thấy
bóng của mình. Người do ái dục khuấy động m trong tâm ô nhiễm nổi lên
nên không thấy được Ðạo. Sa Môn các ông cần phải xả ly ái dục. Ái dục
hết rồi có thể thấy được Ðạo.”
The
Buddha said: “People who cherish love and desire do not see the Way. It
is just as when you stir clear water with your hand; those who stand
beside it cannot see their reflections. People who are immersed in love
and desire have turbidity in their minds and because of it, they cannot
see the Way. You Sramanas should cast aside love and desire. When the
filth of love and desire disappears, the Way can be seen.”
Chapter 17—Chương 17:
---Ðức Phật dạy: “Người thấy được Ðạo cũng như cầm đuốc v o trong nh
tối, bóng tối liền mất, còn lại ánh sáng. Người học Ðạo m thấy được
chân lý thì vô minh liền diệt, chỉ còn lại trí tuệ.”
---The Buddha said: “Those who seek the Way are like someone holding a
torch when entering a dark room, dispelling the darkness, so that only
brightness remains. When you study the Way and see the Truth, ignorance
is dispelled and brightness is always present.”
Chapter 18—Chương 18:
---Ðức Phật dạy: “Pháp của ta l niệm m không còn chủ thể niệm v đối
tượng niệm; l m m không còn chủ thể l m v đối tượng l m; nói m không
có chủ thể nói v đối tượng nói; tu m không còn chủ thể tu v đối tượng
tu. Người ngộ thì rất gần, kẻ mê thì rất xa. Dứt đường ngôn ngữ, không
bị r ng buộc bất cứ cái gì. Sai đi một ly thì mất tức khắc.”
---The Buddha said: “My Dharma is the mindfulness that is both
mindfulness and no-mindfulness. It is the practice that is both practice
and non-practice. It is words that are words and non-words. It is
cultivation that is cultivation and non-cultivation. Those who
understand are near to it; those who are confused are far from it
indeed. The path of words and language is cut off; it cannot be
categorized as a thing. If you are off (removed) by a hair’s breadth,
you lose it in an instant.”
Chapter 19—Chương 19:
---Ðức Phật dạy: “Quán trời đất nghĩ l vô thường, quán thế giới nghĩ l
vô thường, quán linh giác tức l Bồ Ðề. Hiểu biết như vậy thì chóng đắc
đạo.”
---The Buddha said: “Contemplate Heaven and Earth and be mindful of
their impermanence. Contemplate the world and be mindful of its
impermanence. Contemplate spiritual enlightenment as Bodhi. With this
awareness, one immediately obtains (achieves) the Way.”
Chapter 20—Chương 20:
---Ðức Phật dạy: “Phải biết rằng tứ đại trong thân, dù mỗi đại có một
tên (Ðất, Nước, Lửa, Gió), tất cả đều không có ngã; cái ngã đã không có
thì cái có chỉ l ảo hóa m thôi.”
---The Buddha said: “You should be mindful of the four elements within
the body, though each has a name, all are without a self. Since they
have no self, they are like an illusion.”
Chapter 21—Chương 21:
---Ðức Phật dạy: “Người thuận theo lòng dục để mong được danh tiếng, khi
danh tiếng vừa nổi thì thân đã mất rồi. Ham muốn cái danh tiếng thường
tình m không lo học đạo chỉ uổng công mệt sức m thôi. Giống như đốt
hương khi người ta ngửi được mùi thơm, thì cây hương đã t n rồi. Cái lửa
hại thân theo liền cái danh tiếng.”
---The Buddha said: “There are people who follow emotion and desire and
seek for fame. By the time their reputation is established, they are
already dead. Those who are greedy for worldly fame do not study the Way
and wear themselves out in wasted effort. It is just like a stick of
burning incense which, however fragrant its scent, consumes itself. So
too, greed for fame brings the danger of a fire which burns one up in
its aftermath.”
Chapter 22—Chương 22:
---Ðức Phật dạy: “Tiền t i v sắc đẹp đối với con người rất khó buông
xả, giống như chút mật trên lưỡi dao, không đủ cho bữa ăn ngon, thế m
đứa trẻ liếm v o thì bị nạn đứt lưỡi.”
---The Buddha said: “People who cannot renounce wealth and sex are like
small children who, not satisfied with one delicious helping, lick the
honey off the blade of the knife and in doing so, cut their tongues.”
Chapter 23—Chương 23:
---Ðức Phật dạy: “Người bị vợ con nh cửa r ng buộc còn hơn l lao ngục.
Lao ngục còn có kỳ hạn được phóng thích, còn đối với vợ con không có ý
tưởng xa rời. Khi đã đam mê sắc đẹp, đâu ngại gì gian nguy! Dù tai họa
nơi miệng cọp vẫn cam tâm! Tự đắm mình nơi chốn bùn lầy nên gọi l ph m
phu. Vượt thoát được cảnh ấy sẽ trở nên bậc A-La-Hán.”
---The Buddha said: “Men are bound by their wives, children and homes to
such an extent that these are worse than a prison. The time comes when
one is released from prison, but there is never a moment when you think
of leaving your wife and children. Don’t you fear the control that
emotion, love and sex have over you? Although you are in a tiger’s flaws
(mouth), you are blissfully obvious in heart. Those who throw themselves
in the mud and drown themselves are known as ordinary people. By passing
through this door and transcending defiling objects, one becomes an
Arahant."
Chapter 24—Chương 24:
---Ðức Phật dạy: “trong các thứ ái dục, không gì hơn sắc dục. Sự ham
muốn sắc dục mạnh hơn mọi thứ khác. Hỉ có một sắc dục như vậy, nếu có
cái thứ hai giống như sắc dục, thì không ai có thể tu tập theo Ðạo
được.”
---The Buddha said: “As to love and desire, no desire is as deep-rooted
as sex; there is nothing greater than the desire for sex. Fortunately,
it is one of a kind. If there were something else like it, no one in the
world would be able to cultivate the Way.”
Chapter 25—Chương 25:
---Ðức Phật dạy: “Người đam mê ái dục giống như người cầm đuốc đi ngược
gió, chắc chắn sẽ bị tai họa cháy tay.”
---The Buddha said: “A person with love and desire is like one who
carries a torch while walking against the wind, he is certain to burn
his hand.”
Chapter 26—Chương 26:
---Thiên thần dâng cho Ðức Phật một ngọc nữ với ý đồ phá hoại tâm ý của
Phật. Phật bảo: “Túi da ô uế, người đến đây l m gì? Ði đi, ta không dùng
đâu.” Thiên thần c ng thêm kính trọng, do đó m hỏi về ý của Ðạo. Ðức
Phật vì ông m giảng pháp. Ông nghe xong đắc quả Tu-Ð -Ho n.”
---The heavenly spirits, desiring to destroy the Buddha’s resolve,
offered Jade women to him. The Buddha said: “Skin-bags full of filth.”
What are you doing here? Go away, I am not interested.” Then, the
heavenly spirits asked most respectfully about the meaning of the Way.
The Buddha explained it for them and they immediately obtained the
fruition of Srotaapanna.”
Chapter 27—Chương 27:
---Ðức Phật dạy: “Người thực h nh theo đạo như khúc gỗ nổi v trôi theo
dòng nước. Nếu không bị người ta vớt, không bị quỷ thần ngăn trở, không
bị nước xoáy l m cho dừng lại, v không bị hư nát, ta đảm bảo rằng khúc
cây ấy sẽ ra đến biển. Người học đạo nếu không bị tình dục mê hoặc,
không bị t kiến l m rối loạn, tinh tấn tu tập đạo giải thoát, ta bảo
đảm người ấy sẽ đắc Ðạo.”
---The Buddha said: “Those who follow the Way are like floating pieces
of woods in the water flowing above the current, not touching either
shore and that are not picked up by people, not intercepted by ghosts or
spirits, not caught in whirlpools, and that which do not rot. I
guarantee that these pieces of wood will certainly reach the sea. I
guarantee that students of the Way who are not deluded by emotional
desire nor bothered by myriad of devious things but who are vigorous in
their cultivation or development of the unconditioned will certainly
attain the way.”
Chapter 28—Chương 28:
---Ðức Phật dạy: “Phải thận trọng, đừng chủ quan với tâm ý; tâm ý không
thể tin được. Hãy thận trọng đừng gần nữ sắc, gần nữ sắc thì tai họa
phát sanh. Khi n o chứng quả A-La-Hán rồi, chừng đó mới tin được nơi tâm
ý.”
---The Buddha said: “Be careful not to believe your own mind; your mind
cannot be believed. Be careful not to get involved with sex; involvement
with sex leads to disasters. Once you have attained Arahantship, then
you can believe your own mind.”
Chapter 29—Chương 29:
---Ðức Phật dạy: “Phải thận trọng, đừng nên nhìn ngắm nữ sắc, cũng đừng
nói chuyện với nữ nhân. Nếu bắt buộc phải nói chuyện với họ thì phải giữ
tâm chánh trực v suy nghĩ rằng: ‘Ta l m Sa Môn, sống giữa cuộc đời ô
nhiễm, phải như hoa sen không bị bùn l m ô nhiễm. Nghĩ rằng người nữ gi
như mẹ, người nữ lớn tuổi hơn mình như chị, người nữ nhỏ tuổi hơn mình
như em gái, đứa bé gái như con, sinh khởi tâm cứu độ họ được giải thoát.
Như vậy niệm xấu đối với nữ nhân liền chấm dứt.”
---The Buddha said: “Be careful not to look at women and do not talk
with them. If you must speak with them, be properly mindful and think:
‘I am a Sramana living in a turbid world. I should be like the lotus
flower and not be defiled by the mud.’ Regard old women the way you
regard your mother. Regard those who are older than you the way you
regard your elder sisters. Regard those who are younger as your younger
sisters and regard children as their own. Bring forth thoughts to rescue
them and put an end to negative (bad) thoughts.”
Chapter 30—Chương 30:
---Ðức Phật dạy: “L người tu h nh phải coi mình giống như kẻ mang cỏ
khô, thấy lửa đến phải tránh, người học đạo thấy các đối tượng dục lạc
đến phải tránh xa.”
---The Buddha said: “Those of the Way are like those who carry dry
grass; it is essential to keep it away from oncoming fire. People of the
Way look upon desire as something they must keep at a distance.”
Chapter 31—Chương 31:
---Ðức Phật dạy: “Có người lo lắng vì lòng dâm dục không dứt nên muốn
đoạn âm. Ðoạn âm không bằng đoạn tâm. Tâm như người hướng dẫn, một khi
người hướng dẫn ngừng thì những kẻ tùng sự đều phải ngừng. Tâm t không
ngưng thì đoạn âm có ích gì? Ðức Phật Ca Diếp có dạy rằng: ‘Dục sinh từ
nơi ý. Ý do tư tưởng sinh, hai tâm đều tịch lặng, không mê sắc cũng
không h nh dâm’.”
---The Buddha said: “There was once someone who, plagued by ceaseless
sexual desire, wished to castrate himself. To cut off your sexual organs
would not be as good as to cut off your mind. You mind is like a
supervisor; if the supervisor stops, his employees will also quit. If
the deviant mind is not stopped, what good does it do to cut off the
organs?”
The
Kasyapa Buddha taught: ‘Desire is born from your will; your will is born
from thought. When both aspects of the mind are still, there is neither
form nor activity.”
Chapter 32—Chương 32:
---Ðức Phật dạy: “Con người do ái dục m sinh ưu sầu, do ưu sầu m sinh
sợ hãi. Nếu thoát ly ái dục thì có gì m sầu ưu, có gì m sợ hãi.”
---The Buddha said: “Out of love and desire, people give rise to worry;
out of worry they give rise to fear. If you are apart from love, what
worries are there? What fears?”
Chapter 33—Chương 33:
---Ðức Phật dạy: “Người tu h nh theo Ðạo như một người chiến đấu với vạn
người. Mặc áo giáp ra cửa, tâm ý hoặc khiếp nhược, hoặc đi nửa đường
thối lui, hoặc chiến đấu đến chết, hoặc đắc thắng trở về. Người Sa Môn
học đạo cũng vậy, phải có ý chí kiên cường dõng mãnh, không sợ cảnh
tượng trước mắt l m chướng ngại, phá tan các lo i ma để đắc th nh đạo
quả.”
---The Buddha said: “Those who follow the Way are like a single person
who goes to battle alone against ten thousand. Wearing his armor, he
goes out the gate, perhaps his resolve is weak, perhaps he gets halfway
to the battleground and retreats, or perhaps he is killed in combat;
perhaps he returns victorious. Sramanas who study the way should get a
solid hold on their minds and be vigorous, courageous, and valiant. Not
fearing what lies ahead, they should destroy the hordes of demons and
obtain the fruits of the Way.”
Chapter 34—Chương 34:
---Có một vị sa Môn ban đêm tụng kinh Di Giáo của Ðức Phật Ca Diếp,
tiếng ông buồn bã như tiếc nuối muốn thối lui. Ðức Phật liền hỏi: “Xưa
kia khi ở nh ông thường l m nghề gì?” Ông đáp: “Bạch Thế Tôn, con thích
chơi đ n cầm.” Ðức Phật hỏi tiếp: “Khi dây đ n chùng thì ông l m sao?”
Ông bèn trả lời: “Bạch Thế Tôn, khi dây đ n chùng thì đ n không kêu
được.” Phật hỏi lại: “Khi dây đ n căng quá thì ông l m sao?” Ông đáp:
“Bạch Thế Tôn, khi đ n căng quá thì mất tiếng.” Phật lại hỏi: “Không
căng không chùng thì sao?” Ông đáp: “Bạch Thế Tôn, khi dây không căng
không chùng thì tiếng kêu tốt với âm thanh đầy đủ.” Ðức Phật bèn dạy:
“Người sa Môn học đạo lại cũng như vậy, tâm lý được quân bình thì mới
đắc đạo. Ðối với sự tu đạo m căng thẳng quá, l m cho thân mệt mỏi, khi
thân mệt mỏi thì tâm ý sanh phiền não. Tâm ý đã sanh phiền não thì công
hạnh sẽ thối lui. Khi công hạnh đã thối lui thì tội lỗi tăng trưởng. Chỉ
có sự thanh tịnh v an lạc, đạo mới không mất được.”
---One evening a Sramana was reciting the Sutra of Bequeating the
Teaching by Kasyapa Buddha. His mind was mournful as he reflected
repentantly on his desie to retreat. The Buddha asked him: “When you
were a householder in the past, what did you do?” He replied: “I was
fond of playing the lute.” The Buddha said: “What happened when the
strings were slack?” He replied: “They did not sound good.” The Buddha
then asked: “What happened when the strings were taut?” He replied: “The
sounds were brief.” The Buddha then asked again: “What happened when
they were tuned between slack and taut?” He replied: “The sounds
carried.” The Buddha said: “It is the same with a Sramana who studies
the Way. If his mind is harmonious, he can obtain (achieve) the Way. If
he is impetuous about the Way, this impetuousness will tire out his
body, and if his body is tired, his mind will give rise to afflictions.
If his mind produces afflictions, then he will retreat from his
practice. If he retreats from his practice, it will certainly increase
his offenses. You need only be pure, peaceful, and happy and you will
not lose the Way.”
Chapter 35—Chuơng 35:
---Ðức Phật dạy: “Như người luyện sắc gạn lọc phần cặn bã, còn lại sắt
tinh luyện, chế tạo đồ dùng một cách tinh xảo. Người học đạo phải loại
bỏ tâm ý ô nhiễm đi thì công hạnh trở nên thanh tịnh.”
---The Buddha said: “People smelt metal to refine it of impurities in
order to make it of high quality. It is the same with people who study
the Way: first they must expel filth and defilement from their minds,
then their practice is pure.”
Chapter 36—Chương 36:
---Ðức Phật dạy: “Kẻ thoát được ác đạo sinh l m người l khó. Ðược l m
người m thoát được thân nữ l m thân nam l khó. L m được thân nam m
sáu giác quan đầy đủ l khó. Sáu giác quan đầy đủ m sanh v o xứ trung
tâm l khó. Sanh v o xứ trung tâm m gặp được thời có Phật l khó. Ðã
gặp Phật m gặp cả Ðạo l khó. Khởi được niềm tin m phát tâm Bồ Ðề l
khó. Phát tâm Bồ đề m đạt đến chỗ vô tu vô chứng l khó.”
---The Buddha said: “It is difficult for one to leave the evil paths and
become a human being. It is difficult to become a male human being. It
is difficult to have the six organs complete and perfect. It is
difficult for one to be born in the central country. It is difficult to
be born at the time of a Buddha. It is still difficult to encounter the
Way. It is difficult to bring forth faith. It is difficult to resolve
one’s mind on Bodhi. It is difficult to be without cultivation and
without attainment.”
Chapter 37—Chương 37:
---Ðức Phật dạy: “Ðệ tử ta tuy xa ta nghìn dậm, m luôn nghĩ đến v thực
h nh giới pháp của ta thì chắc chắn sẽ chứng được đạo quả. Ngược lại, kẻ
ở gần bên ta, tuy thường gặp m không thực h nh theo giới pháp của ta,
cuối cùng vẫn không chứng được đạo.”
---The Buddha said: “My disciples may be several thousands miles away
from me but if they remember and practice my precepts, they will
certainly obtain the fruits of the Way. On the contrary, those who are
by my side but do not follow my precepts, they may see me constantly but
in the end they will not obtain the Way.”
Chapter 38—Chương 38:
---Ðức Phật hỏi một vị Sa Môn: “Sinh mạng của con người tồn tại bao
lâu?” Vị Sa Môn đáp: “Bạch Thế tôn, trong v i ng y.” Phật nói: “Ông chưa
hiểu Ðạo.” Ðức Phật hỏi một Sa môn khác: “Sinh mạng con người tồn tại
bao lâu?” Vị kia đáp: “Bạch Thế Tôn, khoảng một bữa ăn.” Phật nói: “Ông
chưa hiểu Ðạo.” Ðức Phật lại hỏi một vị khác: “Sinh mạng con người tồn
tại bao lâu?” Vị kia đáp: “Bạch Thế Tôn, khoảng một hơi thở.” Phật khen:
“Hay lắm! Ông l người hiểu Ðạo.”
---The Buddha asked a Sramana: “How long is the human lifespan?” He
replied: “A few days.” The Buddha said: “You have not yet understood the
Way.” The Buddha asked another Sramana: “How long is the human
lifespan?” The other replied: “The space of a meal.” The Buddha said:
“You still have not yet understood the Way.” The Buddha then asked
another Sramana: “How long is the human lifespan?” The last one replied:
“The length of a single breath.” The Buddha said: “Excellent! You
understand the Way.”
Chapter 39—Chương 39:
---Ðức Phật dạy: “Người tu học theo con đường của Phật thì phải tin
tưởng v thực h nh những lời Phật dạy. Thí dụ ăn mật, ở giữa hay chung
quanh bát đều ngọt. Giáo pháp của ta cũng vậy, đều chỉ có một vị giải
thoát.”
---The Buddha said: “One who studies the Buddha’s Way should believe in
and be in accord with all that the Buddha says. When you eat honey, it
is sweet on the surface and sweet in the center. It is the same with my
sutras; there is only one taste: the taste of emancipation.”
Chapter 40—Chương 40:
---Ðức Phật dạy: “Sa Môn h nh đạo, đừng như con trâu kéo vất vả; thân
tuy có tu tập m tâm không tu tập. Nếu tâm thật sự tu tập thì không cần
hình thức bên ngo i của thân.”
---The Buddha said: “A Sramana who practices the Way should not be like
an ox turning a millstone because an ox is like one who practices the
way with his body but his mind is not on the Way. If the mind is
concentrated on the Way, one does not need the outer practices of the
body.”
Chapter 41—Chương 41:
---Ðức Phật dạy: “Người h nh đạo giống như con trâu chở nặng đi trong
bùn sâu, mệt lắm m không dám nhìn hai bên, đến khi ra khỏi bùn lầy rồi
mới có thể nghỉ ngơi. Người Sa Môn phải luôn quán chiếu tình dục còn hơn
bùn lầy, một lòng nhớ Ðạo mới có thể khỏi bị khổ vậy.”
---The Buddha said: “One who practices the way is like an ox that
carries a heavy load through deep mud, the work is so difficult that he
dares not glance to the left or right. Only when he gets out of the mud
he is able to rest. Likewise, the Sramana should look upon emotion and
desire as deep mud and with an undeviating mind, he should recollect the
Way, then he can avoid suffering.”
Chapter 42—Chương 42:
---Ðức Phật dạy: “Ta xem địa vị vương hầu như bụi qua kẽ hở, xem v ng
ngọc quý giá như ngói gạch, xem y phục tơ lụa như giẻ rách, xem đại
thiên thế giới như một hạt cải, xem cửa phương tiện như các vật quý giá
hóa hiện, xem pháp vô thượng thừa như mộng thấy v ng bạc lụa l , xem
Phật đạo như hoa đốm trước mắt, xem thiền định như núi Tu Di, xem Niết
B n như ng y đêm đều thức, xem phải trái như sáu con rồng múa, xem pháp
bình đẳng như nhất chân địa, xem sự thịnh suy như cây cỏ bốn mùa.”
---The Buddha said: “I look upon royal and official positions as upon
the dust that floats through a crack. I look upon the treasures of gold
and jade as upon broken tiles. I look upon clothing of fine silk as upon
coarse cotton. I look upon a great thousand world-system as upon a small
nut. I look upon the door of expedient means as upon the transformations
of a cluster of jewels. I look upon the unsurpassed vehicle as upon a
dream of gold and riches. I look upon the Buddha-Way as upon flowers
before my eyes. I look upon Zen Samadhi as upon the pillar of Mount
Sumeru. I look upon Nirvana as upon being awake day and night. I look
upon deviancy and orthodoxy as upon the one true ground. I look upon the
prosperity of the teaching as upon a tree during four seasons.”
Châm Ngôn Tục Ngữ—Precepts
and Proverbs:
Kiến tha lâu đầy tổ: Many a little makes a
mickle.
Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân (những điều ta không
muốn thì chớ l m cho người khác): Do to others as you would have them do
to you.
Kìa ai l o lạo ngo i da, m trong rỗng tuếch như
hoa muống rừng: All that glitters is not gold.
Cơn bão c ng mạnh bao nhiêu thì chóng qua bấy
nhiêu: The stronger the storm, the sooner it’s over.
Con người ta ai ai cũng phải chết: All men are
mortal.
Dục tốc bất đạt: Nothing can be accomplished by
rush.
Kiên nhẫn l một bông hoa m không phải vườn nh
ai cũng có: Patience is a flower that grows not in everyone’s garden.