www.dieuphap.com   
Trang Pháp Đàm 
A Ty` Đàm 
Bài Giảng   3.1A
Bài 3.  1a
Thảo Luận  1
Thảo Luận  2
Thảo Luận  3
Bài Giảng   3.1B
Bài 3.  1b
Thảo Luận  4
Thảo Luận  5
Thảo Luận  6



A Tỳ Đàm
Ging Giải và Tho Luận

Diễn Tri`nh Của Tâm Thức

A Tỳ Đàm, Bài 19   Thứ Sáu ngày 08 tháng 04 năm 2005


Minh Hạnh chuyển biên & Cô Tu Nữ Diệu Tịnh hiệu đính

A-tỳ-đàm 19.6.

Những đối tượng của tâm thức

Cảnh phân theo không gian

 

TT Thích Hoàng Pháp: Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật , kính bạch Chư Tăng, kính thưa quí Phật tử, hôm nay thứ sáu chúng ta tiếp tục học lớp A Tỳ Đàm. Trong bài học hôm nay: cảnh phân theo nội phần, ngoại phần là nội và ngoại phần. Bởi danh từ nội phần và ngoại phần ở đây chúng ta nên để y' tâm biết cảnh nội phần và tâm biết cảnh ngoại phần và những tâm biết cảnh nội ngoại phần, nó khác với khi chúng ta gọi là cảnh nội phần, cảnh ngoại phần, cảnh nội và ngoại phần. Nếu tâm biết cảnh thi` phải kể tới tâm và khi nói cảnh thi` phải phân theo cảnh và khi nói đến vấn đề tâm là năng tri co`n cảnh là sở tri.

 

Chúng ta cũng có thể nhớ đến trong phần trong bài kinh Ngũ Uẩn hay bài kinh Vô Ngă Tuớng, sau khi Đức Phật Ngài giảng về 5 uẩn là vô thường, khổ và vô ngă, để dầu cho sắc thọ tưởng hành thức nào dù quá khứ, hiện tại, vị lai, bên trong bên ngoài tức là nội phần, ngoại phần, thô tế, tốt xấu gần xa cũng đều là vô thường, khổ, và vô ngă, thi` ngũ uẩn thường được nói đến nguyên dạng là chân đế co`n nói về quá khứ hiện tại vị lai bên trong bên ngoài v.v... Thi` ở đây Đức Phật dùng phương tiện nói theo tục đế bởi vi` gọi là nội phần, ngoại phần, tốt xấu gần xa do so sánh mà có, chứ không phải thật sự là chân đế, mà đây là dùng theo phương tiện tục đế để nói.

 

Và nếu một cách nói theo phương tiện này, trong bộ Vibhanga cũng phân rơ về nội phần, ngoại phần cũng nói theo nghĩa chế định, co`n nói một cách chính xác hễ căn cứ vào tất cả pháp nội phần chỉ cho 6 cảnh, khi nói tất cả pháp nội phần chỉ 6 căn kêu là 6 nội xứ, co`n 6 cảnh là 6 ngoại xứ. Khi nói tất cả pháp nội và ngoại phần thi` phải chỉ cái nào nó vừa làm năng mà cũng làm sở năng tri và sở tri. Do đó nên khi chúng ta dùng danh từ nội phần ngoại phần chúng ta phải để y' đến pháp nội phần, pháp ngoại phần. Pháp nội và ngoại phần khác với y' nghĩa là tâm biết cảnh nội phần, tâm biết cảnh ngoại phần, tâm biết cảnh nội và ngoại phần, đó là điều mà chúng ta cần phải chú y' trong bài học hôm nay.

 

TT Giác Đẳng: Kính bạch Chư Tôn Đức và thưa qúi vị. Khi đề cập đến nội và ngoại phần có lẽ đây là một điểm chúng ta nên theo định nghĩa, định nghĩa ở trong bài học rất rơ đó là chúng ta nói đến 5 uẩn thuộc tịnh thân và cái gi` nói ngoài 5 uẩn đó thi` chúng ta gọi là cảnh ngoại phần. Nội phần và ngoại phần thi` phải nói rằng nó khởi đi từ nhiều y' niệm, chúng ta thấy y' niệm thường thức để hiểu sự việc này. Như chúng ta thường nói đến nhân ngă bỉ thử rồi chúng ta cũng đề cập đến quan niệm cái gi` thuộc về mi`nh và cái gi` không thuộc về mi`nh, nhưng những thứ đó nó không đủ để chúng ta vẽ một lằn ranh. Lấy ví dụ là nhà của chúng ta hay bất động sản của chúng ta, cái đó tuy của chúng ta, nhưng chúng ta nói ở tại đây nó vẫn thuộc về ngoại phần vi` nó nằm ngoài 5 uẩn tức là nói đến thân và tâm của từ mỗi người. Thưa qúi vị cảnh Niết bàn như trong định nghĩa tại đây cũng được định nghĩa là ngoại phần, dĩ nhiên bởi vi` nó không thuộc về 5 uẩn.

 

Chúng ta trở lại với mội khái niệm rất gần gủi để qúi vị có thể thấy được trong kinh Niệm Xứ có đề cập đến một vị Ty` kheo khi đi vào một băi tha ma hay một nơi nào đó ti`nh cờ nhi`n thấy một xác chết, như xác chết bên vệ đường, xác chết ở dưới sông hoặc giả tự mi`nh đến chỗ tha ma mộ địa chỗ nhà xác nhi`n thấy một xác người và vị đó đem hi`nh ảnh của tử thi, đem hi`nh ảnh của hài cốt hay của di thể đó vào trong đầu óc của mi`nh và khi trở về một chỗ thích hợp để ngồi xuống để quán tự tánh là thân của mi`nh rồi nó sẽ cũng như vậy, tức là chúng ta có thể thấy được ngay trong một cảnh tượng ở bên ngoài, một tử thi, mặt dầu chúng ta thấy đó, nhưng những lúc chúng ta thấy đó chúng ta không thấy nhất thể, thấy được tính đồng nhất của 5 uẩn đó và 5 uẩn này, bởi vi` sao, nó có quan niệm trong và ngoài.

 

Điểm này là bản năng tâm ly' của mỗi chúng ta, có lẽ là vi`chúng ta đă sống nhiều đời nhiều kiếp về ngă tính của mi`nh nên có những thứ tuy rằng đồng thể như vậy, thân người và thân này là một nhưng không phải dễ dàng để chúng ta nhi`n thấy nó là đồng nhất. Ở trong kinh có nói về trường hợp của Ngài Cuda khi Ngài co`n trẻ trước khi xuất gia, Ngài nhi`n thấy trong trường hợp lễ cưới đặc biệt của Ngài, lễ cưới với cô dâu rất xinh đẹp, trong lúc đó nhi`n thấy bà ngoại đến để chúc phúc cho đôi tân lang và tân nương, bởi vi` phước báu ba la mật nhiều đời, Ngài có thể trực nhận ra sự đồng nhất giữa một bà cụ lăo niên và một cô dâu co`n trẻ đẹp, hai người đó tuy rằng ngay bây giờ thi` thể dạng có khác nhau, nhưng hoặc sớm, hoặc muộn, hoặc chóng hoặc chầy thi` thân này cũng sẽ dẫn đến như vậy đó là chúng ta nói trường hợp hai đối tượng một già một trẻ trước mặt một người.

 

Nhưng chúng ta lấy đối tượng này và đối tượng kia nó cũng là một cách liên tưởng, tuy nhiên cái liên tưởng quan trọng của một thiền giả có thể nhi`n thấy được là nhận ra được cảnh mi`nh đang thấy, nó dường như là ngoại giới ngoại cảnh, nó lại nói cho chúng ta biết một sự thật, sự thật chính thân mi`nh cũng như vậy không có khác. Về trường hợp này phải nhận ra rằng chính Đức Phật, bản thân của Ngài khi co`n là vị thái tử sống trong cung vàng điện ngọc, khi Ngài dạo trên bốn cửa thành và nhi`n thấy cảnh già đau chết, ngay lúc Ngài nhi`n thấy, Ngài hiểu ngay rằng đó không phải trường hợp xảy ra đối với người dân mà đối với vua chúa cũng vậy, không phải xảy ra đối với xác chết hay một người già hay một người bịnh như vậy, mà tự thân của Ngài cũng như vậy, thi` ở trong trường hợp đó nó cho chúng ta thấy hi`nh ảnh tương phản quá sức lớn giữa ngoại phần và nội phần.

 

Chúng ta thường thấy cảnh ngoại phần với một thái độ khác hơn trường hợp của nội phần, do vậy từ sắc cho đến thọ, cho đến tưởng hành thức hầu như về điểm này nó làm cho chúng ta phải hiểu rằng cái nhi`n của chúng ta vốn bị chi phối bởi nhiều nhân nhiều duyên nội tại, nhất là quán tính liên quan đến ngă chấp của mi`nh, do vậy đôi khi dầu cảnh nội phần, ngoại phần đồng nhau nhưng chúng ta không thấy được, lấy một ví dụ đơn giản nỗi đau khổ ở trong một kiếp người, nỗi đau khổ là cái gi` đó không có dễ dàng để chúng ta cảm nhận được.

 

Mấy ngày qua cho đến hôm nay chúng tôi có mặt tại trụ sở của cơ quan Liên Hiệp Quốc nhân đại hội báo cáo về nhân quyền hàng năm, ngồi trong hội trường có thể nói rằng ngoài đại diện của các quốc gia thuộc thành viên của Liên Hiệp Quốc, co`n có rất nhiều chức mà chúng ta gọi là tổ chức cho chính phủ, người ta gọi tắc là NGO tức là No Goverment Organization nghe rất nhiều bản báo cáo, đầu tiên là bản tường tri`nh của báo cáo viên của một vị cao uỷ Liên Hiệp Quốc đặc trách về vấn đề nhân quyền, thi` vị đó báo cáo một ti`nh hi`nh chung rồi tiếp theo lời phản bác cũng như một số những khiếu nại tri`n h bày của các quốc gia thành viên, sau cùng là các tổ chức phi chính phủ. Chúng tôi có mặt ở đó với tư cách là phái đoàn Văn Pho`ng ̀I Viện Hoá Đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, phải nói rằng khi chúng tôi có mặt tại đó để nói lên sự việc liên quan đến Việt Nam, liên quan Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam, nói đến Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất cảm giác của chúng ta hoàn toàn khác, nhưng khi chúng ta nghe đề cập đến báo cáo của những nỗi khổ của chúng sanh ở nhiều phần đất khác nhau, nào là những người Pakistan bị đàn áp ở Turkey, hay những công dân Nga bị chính quyền ngược đăi, hoặc giả những người phụ nữ ở các xứ Hồi giáo bị bức bách như thế nào, hoặc giả những người dân ở Sudan bị cảnh diệt chủng của cuộc chiến tranh nội chiến phi ly' như thế nào v.v.... và v. v.....

 

Lúc bấy giờ chúng ta cảm được rất nhiều cái khổ khác nhau, nhưng dĩ nhiên những khổ đó cho chúng ta một bức tranh chung về nỗi khổ triền miên của nhân loại trong thế kỷ này, một thế kỷ hầu như khi chúng ta ngồi ở đây chúng tôi nói chuyện với qúi vị, qúi vị có thể nghe khắp nơi trên thế giới. Tuy vậy có những người sinh mạng của họ bị đe dọa thậm chí thân nhân ruột thịt của họ bị bắn chết rất thê thảm như tại Sunan. nhưng họ không có một phương tiện gi` để nói cho những người hàng xóm hay người thân xa gần biết rằng họ đang bị khổ nạn như vậy, mà nó cần có một cuộc điều tra rất lớn, ngồi để lắng nghe và để có được một hi`nh ảnh chung. Rồi tới phiên mi`nh tri`nh bày trường hợp của mi`nh muốn tri`nh bày, qúi vị sẽ thấy một điểm rằng cái chung, cái riêng, cái nội phần ngoại phần, nội và ngoại giới nó là cả một cái gi` rất phức tạp không đơn giản.

 

Có những vấn đề khi nó xảy ra trên thân của mi`nh, nó xảy ra cho chính mi`nh thi` mi`nh thấy nó lớn chuyện, nhưng với người khác nó không lớn chuyện. Thỉnh thoảng chúng tôi nghe Phật tử làm việc ở trong rơom, than phiền là mi`nh đang làm việc mà bị những người khác có lời nói khiến cho mi`nh phiền năo. Thi` thưa qúi vị là một người không nằm trong cuộc, chúng tôi nghe những câu chuyện phiền năo đó thấy rất bi`nh thường, chúng tôi có khuyên cứ làm ngơ đừng quan tâm đến chuyện đó.

 

Tuy nhiên có những lúc chúng tôi cũng phải đặt vấn đề rằng giả sử những câu nói đó mà họ nói trực tiếp với mi`nh, thi` mi`nh sẽ có cảm giác như thế nào, vi` vậy người ta hay nói rằng mi`nh hăy đặt mi`nh vào trong hoàn cảnh của người. Về điểm này nó lại nói lên cho chúng ta biết một khía cạnh rất tế nhị nhưng nó rất hiển nhiên trong đời sống, tức nó tương tự như một người nhi`n sự vật, chúng ta chụp tấm hi`nh từ nhiều khía cạnh khác nhau, ở mỗi góc cạnh chúng ta có một cảm giác khác thi` con người nhi`n từ bên trong ra bên ngoài, từ bên ngoài ra bên trong nhi`n vấn đề của chính mi`nh, ở trong tự thân của chính mi`nh và ở nơi người khác thi` nó phải có cảm giác, mặc dầu nó đồng dạng, mặc dầu nó nhất thể.

 

Trong nhiều đoạn kinh điển, ví dụ như có những bài kinh Đức Phật Ngài cũng gợi cho chúng ta thấy một sự khác biệt giữa nội giới và ngoại giới, ví dụ như chúng ta sống thường nuôi dưỡng rất nhiều, đầu tư rất nhiều vào cuộc sống mà chúng ta đang sống với thế giới mà mi`nh đang sống ở đây, có thể chúng ta bị dính mắt và cột chặt riêng một góc trời. Qúi vị lớn lên ở trong một khung trời thơ mộng chung quanh với lũy tre xanh, với mái chùa mái đi`nh rất thơ mộng. Chúng ta nghĩ rằng đó là tất cả điều gi` mà mi`nh mong muốn làm sao nếu có cơm ăn, áo mặc, có một mái nhà yên ấm trong một khu làng như vậy thi` cảm thấy bằng lo`ng măn nguyện và mi`nh không mong muốn gi`, không tha thiết gi` trong cuộc đời này.

 

Nhưng cái đó là cái nhi`n rất hạn hẹp, chúng ta giam mi`nh trong một thế giới và chúng ta có thể vẽ ra bất cứ một cái gi` về thế giới đó, nhưng khi chúng ta nhi`n thấy thế giới đó bằng cách khách quan ở bên ngoài thi` hoàn toàn khác.

 

Quí Phật tử nào đọc bài kinh Tuệ Túc trong trường bộ kinh thi` qúi vị sẽ thấy sự tương phản rất lớn khi con người quan niệm thế giới của chư thiên, Chư Thiên quan niệm về thế giới của con người. Khi chúng ta nhi`n thấy cảnh khổ của người khác và khi chúng ta nhi`n thấy cảnh khổ của chúng ta. Ông bà của chúng ta có một vài câu tục ngữ mới nghe nói rất mộc mạc “chuyện người thi` sáng, mi`nh thi` quán” chẳng hạn, nó cũng nói lên một cái vị trí, vị trí đó ở đây không hẳn là không gian, nhưng phải nói rằng ở một vị trí nào đó nhi`n sự việc có khác hơn, do vậy bất cứ hoàn cảnh nào thi` mi`nh hiểu rằng cái nhi`n của mi`nh ảnh hưởng bởi nhân bởi duyên.

 

Trong trường hợp này khi A Ty` Đàm đề cập đến nội phần ngoại phần, cảnh nội và ngoại phần thi` cho chúng ta biết một khái niệm vô cùng quan trọng, tâm trong sự lănh hội nhận thức các cảnh nó bị ảnh hưởng rất nhiều ở vị trí của nó, vị trí chỉ nhi`n vấn đề đó như vấn đề tự thân hay vấn đề ngoại thân, vấn đề vừa nội phần và ngoại phần, việc này là việc rất tự nhiên, chính cảm giác này nó mới cho chúng ta nhi`n sự việc đó nó khác đi.

 

Riêng về nước Mỹ chẳng hạn, chúng tôi biết rằng có nhiều người đặt chân đến Hoa ky` trong thời gian gần đây cảm thấy hết sức khó chịu vi` phải đi qua hàng rào an ninh, an ninh về vấn đề di trú cũng như an ninh khi qua các trạm kiểm soát an toàn, những hàng dài đứng trước phi trường, làm cho chúng ta rất nản lo`ng, nhưng với một người Mỹ trước nỗi lo sợ bị khủng bố họ cảm thấy rằng đôi lúc vấn đề an ninh chặc chẽ như vậy vẫn chưa đủ, họ cảm thấy vấn đề an ninh như vậy rất cần thiết. Trong trường hợp này chúng ta cũng phải nói rằng tùy ở góc cạnh mi`nh nhi`n, nếu nhi`n từ trong ra ngoài, từ ngoài vào trong thi` cảm giác của chúng ta nó hẳn phải khác đi. Kinh nghiệm này là một kinh nghiệm quan trọng.

 

Người Tây Tạng họ có một cách đề cập đến văn hoá Phật Giáo nghe rất lạ lùng, như qúi vị biết có một số các nhà Sư Trung Hoa quan niệm rằng giáo ly’ về thập nhị nhân duyên là giáo ly’ của duyên giác, không phải là giáo ly’ của Đại Thừa. Nhưng tại Tây Tạng giáo ly’ thập nhị nhân duyên là một giáo ly’ lớn, bên cạnh giáo ly’ thập nhị nhân duyên, họ dùng một quan niệm về tam thân tức quá hiện vị lai để nói lên sự biến hiện ra sáu cảnh giới là địa ngục, a tu la, súc sanh, ngă qủi, cảnh người và trời mà chúng ta gọi là lục đạo. Ở trong sáu cảnh giới đó được mô tả một cách thường xuyên đập vào đầu óc của tất cả những người tu tập, từ một người Phật tử cho đến nhà Sư trong chùa, từ những buổi giảng pháp ở trong tu viện cho đến những chương tri`nh văn nghệ người Tây Tạng thực hiện, họ bỏ rất nhiều thi` giờ để họ diễn tả về sáu cảnh giới. Chúng tôi có một ít thời gian khoảng chừng vài tháng sống ở những tu viện Tây Tạng, Ấn Độ và Nepal, trong cái nhi`n của chúng tôi, chúng tôi thấy một điểm là người Tây Tạng đặc biệt ti`m thấy cái nhi`n về các cảnh giới rất lợi lạc cho đời sống tu tập của họ.

 

Mặc dù với nhiều Phật tử và nhất là những vị theo thiền tông của Nhật Bản chẳng hạn, chuyện trước mắt mi`nh nói không xong làm sao nói chuyện quá khứ, chuyện vị lai, kiếp người mi`nh hiểu không hết làm sao nói tới cảnh a tu la, địa ngục ngă qủi v.v...

 

Nhưng phải sống với những người Tây Tạng và phải thấy được tâm ti`nh của họ, cái nhi`n của họ, mi`nh mới thấy rằng từ sự mô tả rất chi tiết, từ sự phô diễn hết sức tỷ mỉ, những cảnh giới đó nó mở lên cho họ một vị thế mới để nhi`n vào kiếp nhân sinh này. Đây là một cơi tạm, nhi`n vào giá trị của một kiếp người như thế nào, nhi`n vào sự tương phản dị biệt giữa kiếp người và cảnh giới khác ra sao v.v... điều đó nó tạo ra những nét văn hoá lớn, chứ không phải đơn giản sự suy nghĩ viễn vông như chúng ta thường nghĩ. Nên phải nói rằng khi chúng ta đề cập đến quan niệm về vị trí, tức quan niệm về nội phần và ngoại phần, tự nhân duyên này, tự yếu tố này chi phối cách nhi`n, cách lănh hội về cuộc sống của chúng ta rất nhiều. Đối với A Ty` Đàm, riêng trong trường hợp cảnh nội phần và ngoại phần như vậy nếu chúng ta học vào giáo ly' duyên hệ, cũng như nếu quí vị đi vào thiền học, thi` quí vị sẽ thấy ở đó nó có những giá trị chúng ta không thể phủ nhận được.

 

Nói tóm lại trong định nghĩa đơn giản 5 uẩn của tự than, và cái gi` ngoài 5 uẩn mới nghe chúng ta nhi`n thấy không quan trọng để mi`nh để y'. Nhưng là một con người, là một chúng sanh sống trong cuộc đời này, trong sự lănh hội của chúng ta dĩ nhiên nó phải đến từ tâm, và tâm bị chi phối bởi nhiều điều kiện, một trong những điều kiện bị chi phối nhiều nhất đó là vị trí của nó, nó nhi`n vấn đề là nhân ngă bỉ thử, là trong, là ngoài, là nội phần hay ngoại phần, tất cả những việc đó là những yếu tố chi phối mang tính tự nhiên chúng ta không thể phủ nhận được, do vậy cảnh ở đây có phân biệt cảnh nội phần và ngoại phần. ./.



 

ooOoo

 



Minh Hạnh Thực Hiện