www.dieuphap.com   
Trang Pháp Đàm 
A Ty` Đàm 
Bài Giảng   3.1A
Bài 3.  1a
Thảo Luận  1
Thảo Luận  2
Thảo Luận  3
Bài Giảng   3.1B
Bài 3.  1b
Thảo Luận  4
Thảo Luận  5
Thảo Luận  6



A Tỳ Đàm
Ging Giải và Tho Luận

Diễn Tri`nh Của Tâm Thức

A Tỳ Đàm, Bài 19   Thứ Sáu ngày 01 tháng 04 năm 2005


Minh Hạnh chuyển biên & Cô Tu Nữ Diệu Tịnh hiệu đính

Lớp Giảng A Tỳ Đàm

A-tỳ-đàm 19.4. Những đối tượng của tâm thức

Cảnh phân theo thực thể

 



TT Giác Đẳng: Kính bạch Chư Tôn Đức và thưa qúi Phật tử.  Chúng ta vừa nghe bài giảng nói về danh và sắc là hai thực thể, có thể nói rằng đă cho chúng ta một khái niệm rất đặc biệt về nhân sanh quan, vũ trụ quan của đạo Phật.  Chúng ta hăy bắt đầu buổi thảo luận hôm nay bằng một vài so sánh, so sánh này tương đối có thể cho chúng ta biết thêm y' niệm về cách dùng thuật ngữ, ở trong đạo và ngoài đời khác nhau như thế nào.

 

Chúng tôi nhớ ngày xưa thường nghe Sư Trưởng nói rằng ở trong chùa có danh từ riêng trong chùa.  Thí dụ như ở ngoài đời họ gọi là y,  y là áo, nhưng y của Chư Tăng khác với áo.  Y nội cũng là y nhưng nó không thể là áo được, và cái bát là cái chén nhưng cái bát của Chư Tăng không thể gọi là cái chén được.  Có nhiều thí dụ như vậy, nhưng đôi khi chúng ta sài từ lẫn lộn với nhau, ví dụ như ở đây chúng ta có vật chất và tinh thần.  Chữ tinh thần nếu nói theo thế gian ở bên ngoài đôi lúc khó xác định, ví dụ như trong văn tự họ có lời thơ, rồi có tứ  thơ, tứ thơ nhiều khi một văn bản trên phương diện ngữ nghĩa  nó có nghĩa khác, co`n tinh thần của văn bản nghĩa lại khác, rồi chúng ta dùng chữ tinh thần của một cái gi` thi` nó lại khác hơn nhiều. 

 

Kính bạch Sư Trưởng, nếu một người Phật tử họ đặt câu hỏi là tại sao chúng ta phải dùng chữ danh và sắc nghe khó hiểu như vậy, chúng ta có thể nào dùng chữ như vật chất và tinh thần.  Trong trường hợp đó nếu một buổi nói chuyện nghiêm túc rơ ràng như chúng ta đang bàn tại đây, bạch Sư Trưởng chúng ta có một vài phân biệt nào để cho thấy rằng chữ vật chất và tinh thần nếu có dùng thi` có thể dùng tương đối chứ không thể tuyệt đối được, tại vi` nó cũng có một vài lấn cấn, ở chỗ nào là điểm đồng, chỗ nào là điểm dị.  Bởi vi` con nghĩ rằng đây là một trong những vấn đề hết sức quan trọng, trước khi chúng ta nói về quan điểm là tại sao chúng ta phải có sự phân biệt danh và sắc.  Con xin thỉnh Sư Trưởng cho một sự  tỷ giảo, một sự so sánh khả dĩ để cho qúi Phật tử đại chúng trong rơom thấy được rằng bản chất và tinh thần rất tương đối, hay nó có thể đồng nghĩa hay hoặc giả có chỗ đồng chỗ dị như thế nào, con xin được thỉnh Sư Trưởng.

 

TT Thích Hoàng Pháp (Sư Trưởng): Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, kính bạch Chư Tăng thưa qúi Phật tử, tiếp theo phần giảng giải về A Ty` Đàm là phần thảo luận.  TT Giác Đẳng vừa nêu lên câu hỏi để phân biệt làm sao cho rơ từ danh sắc, đối với danh từ vật chất và tinh thần có thể được sử dụng một cách tương đối chăng. 

 

Nếu gọi là tương đối thi` chúng ta cũng có thể sử dụng, mà sử dụng ở đây theo tôi thi` có thể dùng văn nói khi giảng đạo thuyết pháp chẳng hạn. Nhưng khi dùng văn viết có lẽ chúng ta hơi cận trọng hơn, bởi vi` vật chất nó chỉ chung là thường dụng ngữ bên ngoài. 

 

Nhưng tiếng tinh thần bây giờ nó cũng trở thành thường dụng ngữ, nhưng tiếng tinh thần này xuất từ đạo tiên, thí dụ người ta tu tiên là luyện tiên biến hoá trí khí hoá thần, thần hoằng hư.  Và một cái gi` đó tu tập đến mức độ nào đó thi` người ta xem như đầy đủ tinh thần hay có tinh thần là chỉ cho người khỏe mạnh tráng kiện hơn làm việc một cách hăng hái tích cực. 

 

Hay đối lại trường hợp người đó có  chuyện lo âu rồi làm việc rời rạc thi` gọi là người đó mất tinh thần, tức là không được hăng hái.  Thi` nếu như chúng ta hiểu một cách nôm na theo thế thường như vậy thi` vẫn cứ sài, bởi vi` ngay cả Đức Phật khi nói pháp cho một hội chúng nào đó cũng tùy theo đối tượng Ngài có thể dùng từ ngữ tương ứng với người nghe hiểu được. 

 

Như kinh Vô Ngă Tướng chẳng hạn, khi Đức Phật nói cho 5 anh em Kiều Trần Như về ngũ uẩn, nhưng khi giảng xong về 5 sắc: thọ, tưởng, hành thức, rồi Ngài tóm lại cho đầy đủ y' nghĩa để Ngài Kiều Trần Như hiểu,  Ngài dùng danh từ chế định như dầu cho là sắc, quá khứ, hiện tại hoặc tương lai, hoặc thô, hoặc tế, hoặt tốt, hoặc xấu, hoặc gần, hoặc xa, thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy, ngài dùng pháp chế địng 11 pháp tương đối này mà nói. 

 

Rồi đến khi giải thích ra những từ ngữ chế định như vậy như trong bộ Vibhanga là bộ thứ nhi` của tạng Abhidhamma, thi` phải giải thích như thế nào  sắc thô, sắc tế, thế nào là sắc tốt, sắc xấu, thế nào là sắc gần sắc xa.  Hay thí dụ tốt, xấu, gần, xa, chúng ta chỉ hiểu trong nghĩa so sánh, như tốt là tốt hơn xấu, xấu là xấu hơn tốt v.v....đại y' là như vậy.  Thành ra những từ thường dùng ngữ đôi lúc cũng phải sài, do đó danh từ vật chất và tinh thần cũng có thể sài tùy theo hoàn cảnh, trường hợp, hay người đối thoại với mi`nh.  Nếu như mi`nh gặp các vị tu tập đạo tiên mi`nh có thể nói câu này, họ dễ nhận hơn, mặc dầu danh từ đó họ hiểu một cách nào, nhưng gần như họ hiểu một cách rơ theo y' nghiệp của họ.

 

Co`n về chữ danh sắc ở đây thi` chúng ta thường thường biết chữ dhamma là pháp làm như một trợ từ để nói thêm, chứ nếu dùng không thi` đôi lúc hơi cộc lốc nên phải có trợ từ thêm cho dễ, gọi là danh pháp, sắc pháp chẳng hạn.  Nhưng trợ từ đó khi nói về danh pháp sắc pháp thi` chúng ta cũng chưa phải hiểu hoàn toàn, hiểu chưa chính xác, bây giờ tùy chỗ mà dùng đến, thí dụ chuúng ta hiểu chữ danh và sắc như là chữ vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc ở đây không phải như danh sắc thường khi đề cập đến như pháp hai chi, một là danh, hai là sắc, thi` chữ danh sắc ở đây chỉ cho tâm pháp và sắc pháp. 

 

Nhưng nếu trường hợp khác có nhiều chỗ giải thích danh một cách rộng răi thi` chữ danh đó chỉ cho tâm và tâm sở luôn cả Niết bàn cũng gọi là danh, tùy chỗ mà sài.  Nếu như chúng ta hiểu phiến diện nào đó mới đưa đến sự tranh chấp là chữ danh thi` nghĩa này, chữ danh thi` nghĩa kia chẳng hạn. Từ ngữ này tùy những chỗ yển chuyển mà dùng mà sài nó đa dạng như vậy. 

 

Kể cả chữ sắc cũng thế, chữ sắc nếu khi trong kinh tạng sài chữ rùpa, như do duyên mắt, do duyên các sắc, thi` ở đây chữ rùpa là sắc được nói ngắn gọn như vậy thôi.  Chữ sắc ở đây cũng gọi là sắc pháp, cũng là đối tượng của con mắt hay nhăn thức, thi` đối tượng đó để phân biệt cảnh sắc không phải cảnh thinh,  nó khác nhau như vậy chứ không phải trùm tất cả trong 28 sắc pháp, trong khi cảnh thinh thi` không phải là cảnh sắc. 

 

Nhưng nếu sài nghĩa là sắc uẩn thi` kể cả cảnh sắc, cảnh thinh, cảnh khí, cảnh thinh, cảnh vị v.v... đều nằm trong chữ sắc pháp.  Như vậy chữ sắc có thể dùng rộng và hẹp tùy theo trường hợp mà sài.  Chữ sắc nếu dùng trong nghĩa của vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc.  Sắc này chỉ cho sắc tục sinh chứ không phải lấy tất cả các sắc pháp khác chỉ cho sắc mà do nghiệp tạo thôi. Co`n những sắc do tâm tạo hay thời tiết tạo hay do vật chất tạo thi` không được kể đến, đại khái là như vậy. 

 

Do đó danh từ danh sắc trong Phật Giáo, danh từ Phật học này rất đa dạng,  tùy theo chỗ dùng sài.  Nếu như nói một cách thông thường như  TT Giác Đẳng hay dùng chữ mạch như văn, đúng vậy, nếu dùng danh từ danh và sắc này ở trong một bài nào đó, chúng ta nắm theo mạch văn đó chúng ta ti`m hiểu danh nằm chỗ này hiểu nghĩa như thế này. 

 

Chính như vậy, trong khi kinh tạng Đức Phật hay thuyết pháp, Ngài hay gọi “này các ty` kheo, ở đây”, dùng chữ ở đây để nhấn mạnh trường hợp đó, trong một bối cảnh đó mà thôi chứ không ở trong mọi trường hợp và điều này khiến chúng ta thấy hứng thú khi học tạng Abhidhamma, và cũng làm cho những người khác mỏi mệt hay chán nản khi học Abhidhamma.

 

Cũng cái từ đó khi hỏi có phải như vậy không?

 

rồi trả lời “phải rồi”

 

Nhưng khi lập lại thi` nó “chẳng nên như thế”

 

Trường hợp có thể giống là  giố ng ở cảnh này.

 

Có thể không   không giống khi ở trường hợp khác . 

 

Thí dụ như nói về ngũ uẩn mà nói là thô và tế, hay tốt và xấu, thi` cũng không thể khẳng định được. 

 

Thí dụ như thọ, thọ bất thiện là thô, thi` thọ thiện vô ky’ là thọ tế,  nói như vậy phải rồi.

 

Nhưng câu dưới thi` nói thọ thiện, thọ bất thiện, thiện là thô là thọ vô ky’ là tế.

 

Hay  thọ tốt thọ xấu cũng vậy, thọ bất thiện là xấu, thọ thiện thọ vô ky’ là tốt.

 

Rồi câu dưới lại lập lại thọ thiện, thọ bất thiện và xấu là thọ vô ky’ là tốt v.v…

 

Như vậy cũng tùy trường hợp do sự so sánh tỷ giảo phân biệt mà nói ,do đó danh từ Phật học ở đây, kể cả danh từ chuyên môn về Phật học cũng phải hiểu theo từng trường hợp từng bối cảnh khác nhau.  Co`n nếu đem so sánh những từ ngữ này dùng cho thường dụng ngữ hay bên ngoài thi` danh sắc này co`n khác xa nữa, đôi khi người ta sài chữ danh ngoài như là danh từ, một tên người như danh từ riêng, danh từ chung, thi` những chữ  này đem vô đây cũng không được đúng, ngay kể cả danh từ pali thí dụ như danh từ thatu….. theo Abhidhamma giải thích là giới, nhưng chữ thatu   trong tiếng Pali thi` nó lai là động từ chẳng hạn thi` như vậy cũng không phải là luôn luôn áp dụng một từ ngữ đó mà nó ra một nghĩa nhất định được,  do đó tùy trường hợp uyển chuyển chúng ta không thể nào xác định là được, nhưng ở đây trong phạm vi bài học này nói về 21 cảnh thi` nói cảnh danh pháp cảnh sắc pháp thi` như vậy chúng ta biết cảnh danh pháp và những gi` chỉ về tâm luôn cả có thể là luôn cả Niết bàn, nhưng cảnh sắc pháp thi` kể chung những gi` thuộc trong phạm vi sắc uẩn đó là 28 sắc pháp.  Đó là nói trong phạm vi này cho bài học hôm nay để trả lời câu hỏi của TT Giác Đẳng vừa nêu lên../.



 

ooOoo

 



Minh Hạnh Thực Hiện