A Tỳ Đàm
Giảng Giải và Thảo Luận
Tâm và Sự Phân Loại
A Tỳ Đàm, Bài 11.1
Ngày 2 tháng 7 năm 2004
Bài 11
Tâm Siêu Thế
Những
điểm chính
Định nghĩa chữ Siêu Thế
Tâm Đạo
Tâm Sơ Đạo
Tâm Nhị Đạo
Tâm Tam Đạo
Tâm Tứ Đạo
Là tâm biết cảnh Niết-Bàn.
Một trạng thái siêu thế vượt
ngoài thời gian và không gian; không thuộc về thế gian
vô thường, khổ năo và vô ngă. Chấm
dứt sanh diệt, thoát ly tam giới. Vượt
ngoài thế gian ở đây có nghĩa là hiện trạng
sanh diệt chấm dứt chớ không phải có một
cái ǵ thực hữu sanh tồn ngoài thế gian. Tâm
siêu thế được chia làm hai loại:
I. Tâm Đạo (Maggacitta):
Là tâm sát trừ phiền năo, tỏ ngộ
Niết-Bàn c̣n được gọi là tâm giải thoát.
Tâm này được thành tựu bởi
một thời gian dài cam go tu tập. So với việc thực hành thiền chỉ
để thành tựu đạo quả nơi sắc giới
hay vô sắc giới th́ quá tŕnh tu tập nơi đây phức
tạp và gay go hơn nhiều.
1.1) Cơ bản lư thuyết thiền
quán:
Lư duyên khởi (Paticcasammuppāda) dạy
rơ: "Do vô minh và ái dục, chúng sanh sanh tử; do sanh tử,
khổ năo có mặt". Chấm dứt sanh tử hay giải
thoát (Vimutti) tức là an lạc. Mục
đích của thiền quán là đạt được sự
an lạc ấy.
- Để đoạn trừ ái dục,
hành giả cần có một cái nh́n trung thực, đúng với
sự thật của sự vật (nhận chơn). Như yêu mến xác thân là một ái dục, để
đoạn trừ ái dục ấy hành giả cần nhận
chơn xác thân là bất tịnh.
- Để đoạn trừ vô minh, hành giả
cần có một lư trí sáng suốt để phân biệt
đâu là sự thật, đâu là giả; đâu là chơn,
đâu là ngụy, ...
Thiền quán dẩn hành giả đến
hai mục đích ấy: nhận chân và sáng suốt.
Gọi là thiền quán (Vipassanā) có nghĩa
là thiêu đốt nghịch pháp, phiền năo do sự quán
xét, thẩm hộ (Thiền - Jhāna), (Quán - Vipassanā) cũng
dịch là minh sát nghĩa là xem xét với cái nh́n sáng suốt.
Nh́n một thân người, với vọng
tưởng ta sẽ thấy sự đẹp, xấu, ... Đó là cái nh́n (sự quan sát) của
vô minh. Trái lại, cũng nh́n một thân người, với
trí giác, ta chỉ thấy bản chất bất tịnh của
thân, tức là ta nhận chân được một sự
thật, dưới sự che đậy của quần áo
là một lớp da, dù được trang điểm
như thế nào đi nửa th́ bên trong vẩn là bất tịnh.
Đó là sự quán sát bằng trí tuệ hay c̣n gọi là minh sát.
Khi thực hành thiền quán, hành giả
chuyên tâm theo dơi sự diệt sanh, sanh diệt
của danh sắc (thân và tâm); hay dùng trí quán triệt, phân
tích về bản chất giả tạm của ngũ uẩn.
Với sự chuyên tâm
như vậy, một ngày nào đó, hành giả sẽ chợt
nhận thấy rằng thế gian là giả tạm, là
hư ảo, không có ǵ đáng để nắm giữ cả.
Khi đó, nếu được phát triển
thêm, hành giả sẽ trải qua nhiều giai đoạn
chứng nghiệm và dần dần đạt đến
đạo quả Niết-Bàn. Tổng quát: hành giả
luyện tập đến giai đoạn nhàm chán của
tâm, từ sự nhàm chán đó hành giả tiến đến
xă ly và từ xă ly, hành giả tiến đến giai đoạn
giải thoát.
1.2 Cơ bản thực hành thiền
quán: Ở thiền chỉ, hành giả chỉ cần gom tâm
vào một đề mục là đủ. Đối với thiền
quán, sự gom tâm không phải là sự "chú tâm nhất
điểm" như ở thiền chỉ, mà là sự
"tấn tâm tùy quán" (Anuvipassi), đó là sự để
tâm uyển chuyển theo dỏi sự biến
chuyển, sự đổi thay, sự diệt sanh của
Danh Sắc.
Sự tu tập thiền chỉ là lối
niệm "gom tâm vào một điểm", nghĩa là giữ
tâm luôn luôn khắn khít với đề mục, c̣n lối
niệm của thiền quán là śự chuyên chú ghi nhận
" theo dỏi ghi nhận sự chuyển biến của
ngũ uẩn để có một "cái nh́n" đúng sự
thật về bản chất của thế gian.
(1) Đề mục thiền quán (Satipaṭṭhāna):
Trong thuật ngữ Phật học, chữ
Kammaṭṭhāna (đối tượng hành thiền)
được dùng chung cho cả thiền
chỉ lẩn thiền quán c̣n riêng chữ Satipaṭṭhāna
(niệm xứ) (Sati = niệm; Paṭṭhāna = vị
trí, nơi chốn, chỗ. Dịch chung
là đối tượng suy niệm, ghi nhận) chỉ
dùng riêng đối với thiền quán. Có tất
cả là bốn niệm xứ (tứ niệm xứ).
Thế nào là tứ niệm xứ?. - Tứ là bốn c̣n niệm là trạng
thái tâm quan sát, theo dỏi, chú tâm, ghi nhớ,
biết. Vậy tứ niệm xứ là bốn nơi chốn
để chú tâm, để quan sát. Bốn nơi chốn ấy
là:
i) Thân quán niệm xứ
(Kāyānupassanā)
Thân quán niệm xứ là quan sát, biết
rơ những ǵ thuộc về Sắc uẩn hay Hành tướng
của Sắc uẩn. Hành giả lấy những
ǵ trong thân và ngoài thân làm đối tượng để
chuyên chú. Niệm thân giúp hành giả thấy
rơ hiện trạng sanh diệt của sắc uẩn
(Rūpakhandha).
Trong kinh Đại Niệm Xứ
(Mahāsatipaṭṭhāna), niệm thân được
Đức Phật chia làm bảy phần:
a) Niệm hơi thở
(Ānapānasati): hành giả ngồi kiết già, an trú trong chánh niệm, trong đề mục
hơi thở.
Khi hít vô dài, hành giả biết
rơ.
Khi thở ra dài, hành giả biết rơ
Khi hít vô ngắn, hành giả
biết rơ.
Khi thở ra ngắn, hành
giả biết rơ.
Khi hít vô, hành giả biết
rơ ḿnh đang hít vô.
Khi thở ra dài, hành giả
biết rơ ḿnh đang thở ra.
Khi hít vô hơi thở vắng
lặng, hành giả biết rơ.
Khi thở ra hơi thở
vắng lặng, hành giả biết rơ.
Khi hít vô tâm vui mừng khởi
lên, hành giả biết rơ.
Khi thở ra tâm vui mừng
khởi lên, hành giả biết rơ.
Khi hít vô thân sung sướng
sinh khởi, hành giả biết rơ.
Khi thở ra thân sung sướng
sinh khởi, hành giả biết rơ.
Khi hít vô thọ tưởng
sinh khởi, hành giả biết rơ.
Khi thở ra thọ tưởng
sinh khởi, hành giả biết rơ.
Khi hít vô thọ tưởng vắng lặng,
hành giả biết rơ
Khi thở ra thọ tưởng
vắng lặng, hành giả biết rơ.
Khi hít vô tâm cảm thấy
thơ thới, hành giả biết rơ.
Khi thở ra tâm cảm thấy
thơ thới, hành giả biết rơ.
Khi hít vô tâm vô tư đối
với cảnh, hành giả biết rơ.
Khi thở ra tâm vô tư
đối với cảnh, hành giả biết rơ.
Khi hít vô tâm xa ĺa ngũ
dục, hành giả biết rơ.
Khi thở ra tâm xa ĺa ngũ
dục, hành giả biết rơ.
Khi hít vô tâm thấy
được vô thường, hành giả biết rơ.
Khi thở ra tâm thấy được
vô thường, hành giả biết rơ.
Khi hít vô tâm xa ĺa triền
cái, hành giả biết rơ.
Khi thở ra tâm xa ĺa triền
cái, hành giả biết rơ.
Khi hít vô tâm giải thoát khỏi
phiền năo, hành giả biết rơ.
Khi thở ra tâm giải
thoát khỏi phiền năo, hành giả biết rơ.
Tóm lại: khi niệm hơi thở,
hành giả chú tâm theo dỏi hơi thở
ra, vô; trong khi đó, nếu trong thân, tâm có trạng thái ǵ
sinh khởi hành giả phải ghi nhận được
ngay sự việc vừa sinh khởi rồi tiếp tục
quan sát hơi thở trở lại.
Biết rơ hơi thở của ḿnh gọi
là "quán thân trên nội thân", biết rơ hơi thở
của người là "quán thân trên ngoại thân", biết
rơ hơi thở của ḿnh và người là "quán thân
trên nội và ngoại thân", biết rơ hơi thở lúc
sinh khởi gọi là "quán sự sinh trên thân", biết
rơ hơi thở lúc diệt gọi là "quán sự diệt
trên thân".
b) Niệm đại oai nghi:
Đại oai nghi là cách đi,
đứng, ngồi, nằm. Đi là sự chuyển
động của xác thân, hai chân luôn luôn dở, bước,
đạp. Đứng là xác thân đ́nh trụ, dừng
lại, hai chân chịu sức nặng của thân. Nằm
là xác thân trải dài trên đất, giường, ghế, ... Ngồi là xác thân co lại nửa
phần trên, mông chạm vào một mặt phẳng như mặt
ghế, mặt giường, ...
Hành giả phải luôn luôn
ǵn giữ chánh niệm, khi thân xác đang ở oai nghi nào
hành giả phải biết rơ. Biết rơ oai nghi của
ḿnh gọi là "quán thân trên nội thân", biết rơ oai
nghi của người là "quán thân trên ngoại thân",
biết rơ oai nghi của ḿnh và người là "quán thân
trên nội và ngoại thân", biết rơ oai nghi sinh khởi
gọi là "quán sự sinh trên thân", biết rơ oai nghi
lúc diệt gọi là "quán sự diệt trên thân".
c) Niệm tiểu oai nghi
Tiểu oai nghi hay oai nghi phụ là những
động tác phụ ngoài bốn động tác chính đă
kể trên. Như tay dở lên, cười, nói, mặt quần
áo, gật đầu, ...
Khi nh́n tới phía trước,
hành giả biết rơ.
Khi ngó lui phía sau, hành giả
biết rơ.
Khi mặt y nội, y vai
trái, hành giả biết rơ.
Khi mang bát, mặt Tăng
già lê, hành giả biết rơ.
Khi ăn uống, nhai
nuốt, hành giả biết rơ.
Khi đại hay tiểu tiện, hành giả
biết rơ.
Tóm lại, tất cả những diễn
biến xảy ra nơi thân, hành giả biết rơ. Biết
rơ các tiểu oai nghi của ḿnh gọi là "quán thân trên nội
thân", biết rơ các tiểu oai nghi của người là
"quán thân trên ngoại thân", biết rơ các tiểu oai
nghi của ḿnh và người là "quán thân trên nội và
ngoại thân", biết rơ các tiểu oai nghi sinh khởi gọi
là "quán sự sinh trên thân", biết rơ các tiểu oai
nghi lúc diệt gọi là "quán sự diệt trên
thân".
d) Niệm về thể trược
(c̣n được gọi là quán thân bất tịnh) (Asucino)
Hành giả quán thân ḿnh từ
đỉnh tóc đến gót chân. Thân này được
bao bọc bởi một lớp da, che đậy những
vật bất tịnh bên trong như tóc lông, móng, răng,
da, thịt, gân, xương, tủy, tim, gan, thận, ruột,
óc, dạ dày, phổi, vật thực, phẩn, nước
tiểu, đàm giải, mũ máu, mở đặc, ....
Hành giả quán sát thân bất tịnh
như vậy một thời gian, hành giả sẽ sinh tâm
nhàm chán thân ḿnh cũng như thân người. Quan sát 32 thể
trược của ḿnh gọi là "quán thân trên nội
thân". Quan sát 32 thể trược của người
là "quán thân trên ngoại thân". Quan sát 32 thể trược
của ḿnh và người là "quán thân trên nội và ngoại
thân". Quan sát 32 thể trược sinh khởi gọi là
"quán sự sinh trên thân". Quan sát 32 thể trược
lúc diệt gọi là "quán sự diệt trên thân".
e) Niệm về Tứ Đại
(Vavatthāna)
Tứ đại là Địa
đại, Thủy đại, Hỏa đại và phong
đại. Địa đại là chất
đông đặc, có phận sự nâng đỡ các sắc
pháp, có trạng thái cứng hoặc mềm. Thủy đại là chất lỏng, ướt,
có phận sự nuôi dưỡng các chất sắc khác cho
được tươi nhuần, ǵn giữ sự phối
hợp của các chất sắc khác cho dính lại với
nhau. Có trạng thái chảy ra hay quến lại. Hỏa đại là chất âm dương, có phận
sự làm cho các sắc khác khô chín và không hư thúi, có trạng
thái nóng hoặc lạnh. Phong đại
là chất hoạt động, có phận sự di chuyển
hoặc cử động, có trạng thái lay động hoặc
căng phồng lên. Theo kinh tạng, tứ đại
trong thân có 42 thứ là:
- Đất có 20 thứ: tóc, lông, móng,
răng, da, thịt, gân, xương, thận, tim,
gan, óc, phổi, bao tử, ruột già, ruột non, vật thực,
phân.
- Nước có 12 thứ: mật,
đàm, mủ, máu, nước mắt, mở đặc, mồ
hôi, dầu da, nước bọt, nước mũi, nước
nhớt, nước tiểu.
- Lửa có 4 thứ: lửa làm cho ấm
thân, lửa làm cho thân xác khô khan, lửa làm cho thân nóng nảy,
lửa làm cho vật thực tiêu hóa.
- Gió có 6 thứ: gió quạt lên, gió quạt
xuống, gió ngoài ruột, gió trong ruột, gió chuyển
động thân, gió theo hơi thở ra
vô.
Sự quan sát về tứ đại giúp
hành giả xă ly ḷng cố chấp về xác thân. Quan sát tứ
đại trong thân gọi là "quán thân trên nội
thân". Quan sát tứ đại ngoài thân là "quán thân trên
ngoại thân". Quan sát tứ đại trong thân và nghĩ
đến tứ đại ngoài thân là "quán thân trên nội
và ngoại thân". Quan sát tứ đại sinh khởi gọi
là "quán sự sinh trên thân". Quan sát tứ đại
lúc diệt gọi là "quán sự diệt trên thân".
f) Niệm về tử thi (Āsubha)
Tử thi là thân xác con
người đă chết. Sau khi chết hai ba ngày th́
thân xác bị biến dạng, śnh lên, da đổi ra màu
xanh đen, mùi hôi thúi nổi lên, xác thân rả ra, chảy
nước mủ, bị ḍi bọ đụt, ...
Hành giả quan sát tử thi để
sanh tâm kinh cảm, ghê sợ xác thân, trừ ḷng tham ái sắc
tướng xinh đẹp. Quan sát thân ḿnh rồi sẽ cũng
như tử thi đă gặp gọi là "quán thân trên nội
thân". Quan sát thân người rồi sẽ cũng
như tử thi đă gặp là "quán thân trên ngoại
thân". Quan sát thân ḿnh và thân người rồi sẽ cũng
như tử thi đă gặp là "quán thân trên nội và
ngoại thân". Quan sát sự sinh khởi (trong từng
giai đoạn) của thân gọi là "quán sự sinh trên
thân". Quan sát thấy sự diệt mất (trong từng
giai đoạn) của thân gọi là "quán sự diệt
trên thân".
g) Niệm về hài cốt (Aṭṭhikāni)
Tử thi sau một năm
trở lên chỉ c̣n lại bộ xương khô, đó gọi
là hài cốt. Hài cốt này có thể là một bộ xương
trắng hếu hay đen thui, ră ra thành bột. Hành giả
quan sát thân ḿnh với ư nghĩ: thân này đặc tánh là
như vậy, bản chất là như vậy. Thân này rồi sẽ trở thành bộ
xương khô như vậy, không thể nào vượt ra
khởi bản chất đó. Sự quan sát như vậy
là "quán thân trên nội thân". Quan sát thân người
khác với ư nghĩ: thân đó rồi sẽ như vậy,
không thể nào vượt khỏi đặc tính đó là
"quán thân trên ngoại thân". Quan sát thân ḿnh và thân
người với ư nghĩ: thân này đặc tánh là
như vậy, bản chất là như vậy. Thân này rồi sẽ trở thành bộ
xương khô như vậy, không thể nào vượt ra
khởi bản chất đó là "quán thân trên nội và
ngoại thân".
Hành giả tu tập theo
bảy cách của thân quán niện xứ vị ấy sẽ
an trú trong chánh niệm, hướng đến chánh đạo.
Vị ấy sống không nương tựa,
không đắm nhiểm một vật ǵ trên đời.
ii) Thọ quán niệm xứ
(Vedanānupassanā)
Thọ là trạng thái
hưởng cảnh của tâm; là cảm giác của tâm khi
hứng chịu ngoại cảnh. Là những
cảm giác khổ, lạc, ưu, hỷ và xă. Khi một tâm sinh khởi, ắc phải có một
thọ đồng sinh, sự biết thọ sinh khởi gọi
là thọ quán niệm xứ. Tức là theo
dỏi, suy niệm, ghi nhận cảm thọ khởi lên. Tạng
Abhidhamma, bộ Vibhaṅga có ghi rằng:
Khi cảm giác khổ, vị
ấy biết rơ.
Khi cảm giác lạc, vị
ấy biết rơ.
Khi cảm giác ưu, vị
ấy biết rơ.
Khi cảm giác hỷ, vị
ấy biết rơ.
Khi cảm giác xă, vị ấy
biết rơ.
Khi cảm giác khổ thuộc
vật chất, vị ấy biết rơ.
Khi cảm giác khổ không
thuộc vật chất, vị ấy biết rơ.
Khi cảm giác lạc thuộc
vật chất, vị ấy biết rơ.
Khi cảm giác lạc không
thuộc vật chất, vị ấy biết rơ.
Khi cảm giác phi khổ
phi lạc (xă) thuộc vật chất, vị ấy biết
rơ.
Khi cảm giác phi khổ
phi lạc không thuộc vật chất, vị ấy biết
rơ.
Tóm lại, quan sát để thấy rơ
thọ uẩn gọi là thọ quán niệm xứ. Quan sát
các cảm thọ của ḿnh gọi là "quán thọ trên
các nội thọ". Quan sát cảm giác của người
gọi là "quán thọ trên các ngoại thọ". Quan
sát cảm giác của ḿnh và của người (dù thọ
nào củng là vô thường, khổ năo và vô ngă) gọi là
"quán thọ trên các nội và ngoại thọ". Quán thấy sự sinh khởi và hoại diệt của
các cảm giác gọi là "quán sự sinh diệt trên các thọ".
iii) Tâm quán niệm xứ
(Cittānupassanā)
Tâm là sự nhận biết đối
tượng, sự biết cảnh qua 6 căn: tâm nhăn thức
(sự biết cảnh sắc), tâm nhĩ
thức (sự biết cảnh thinh), tâm tỷ thức (sự
biết cảnh khí), tâm thiệt thức (sự biết cảnh
vị), tâm thân thức (sự biết cảnh xúc), tâm ư thức
(sự biết hết 6 cảnh). Hành giả quan sát, ghi nhận
sự sanh diệt, thay đổi của tâm thức, nhờ
đó, thấy rơ được thực thể của thức
uẩn (Viññāṇamkhandha). Như vậy người
hành Tứ Niệm Xứ phải biết rơ các điều
sau:
Khi mắt biết cảnh
sắc, vị ấy biết rơ.
Khi tai biết cảnh
thinh, vị ấy biết rơ.
Khi mũi biết cảnh
khí, vị ấy biết rơ.
Khi lưỡi biết cảnh
vị, vị ấy biết rơ.
Khi thân biết cảnh xúc,
vị ấy biết rơ.
Khi ư biết cảnh pháp, vị
ấy biết rơ. (Ư thức cũng biết cảnh ngũ, nhưng rất khó quan sát). Đồng thời vị ấy c̣n phải biết
rơ trạng thái của tâm khi được tiếp xúc với
lục trần.
Khi tâm có tham, vị ấy
biết rơ.
Khi tâm vô tham, vị ấy
biết rơ.
Khi tâm có sân, vị ấy
biết rơ.
Khi tâm vô sân, vị ấy
biết rơ.
Khi tâm có si, vị ấy biết
rơ.
Khi tâm vô si, vị ấy biết
rơ.
Khi tâm có hôn trầm, vị
ấy biết rơ.
Khi tâm có phóng dật, vị
ấy biết rơ.
Khi tâm thành đáo đại
(tâm thiền), vị ấy biết rơ.
Khi tâm không thành đáo đại,
vị ấy biết rơ.
Khi tâm cao thượng, vị
ấy biết rơ.
Khi tâm vô thượng, vị
ấy biết rơ.
Khi tâm định, vị ấy
biết rơ.
Khi tâm không định, vị
ấy biết rơ.
Khi tâm giải thoát, vị ấy
biết rơ.
Khi tâm không giải thoát, vị
ấy biết rơ.
Tóm lại, khi tâm tiếp xúc với
đối tượng có trạng thái như thế nào,
hành giả phải quan sát biết rơ trạng thái ấy.
Quan sát tâm ḿnh gọi là "quán tâm trên nội tâm". Quan
sát tâm người khác gọi là "quán tâm trên ngoại
tâm". Quán sát tâm của ḿnh và của người khác gọi
là "quán tâm trên nội ngoại tâm". Quán
thấy sự sinh khởi của tâm gọi là "quán sự
sinh trên tâm". Quán thấy sự diệt
mất của tâm gọi là "quán sự diệt của
tâm".
iv. Pháp quán niệm xứ
(Dhammānupassanā)
Là sự quan sát tất cả các trạng
thái của Danh Sắc trên mọi phương diện (vi tế và chi tiết). Niệm
pháp để thấy rơ chơn tướng của tưởng
uẩn (Saññākhandha) và hành uẩn
(Sañkhārakhandha). Được phân ra làm năm loại:
(a) Quan sát năm triền cái (Nivarana)
Triền cái là những pháp
ngăn che các thiện pháp nhất là thiền định và
trói buộc tâm trong ṿng bất thiện. Có năm loại
triền cái: tham dục cái, sân hận cái, hôn thụy cái,
trạo hối (Phóng Dật) cái và hoài nghi cái. Vị tỳ
kheo quán pháp trên các pháp cần phải biết rơ nhân sanh khởi
của các trạng thái tâm sau đây:
Khi nội tâm có tham dục
, vị ấy biết rơ.
Khi nội tâm không có tham dục , vị ấy
biết rơ.
Với tham dục chưa
sinh khởi, nay sinh khởi, vị ấy biết rơ.
Với tham dục đă từng
sinh khởi, nay được đoạn diệt, vị ấy
biết rơ.
Với tham dục đă
đoạn diệt, tương lai không sinh khởi, vị
ấy biết rơ.
Khi nội tâm có sân hận,
vị ấy biết rơ.
Khi nội tâm không có sân hận,
vị ấy biết rơ.
Với sân hận chưa
sinh khởi, nay sinh khởi, vị ấy biết rơ.
Với sân hận đă từng
sinh khởi, nay được đoạn diệt, vị ấy
biết rơ.
Với sân hận đă
đoạn diệt, tương lai không sinh khởi, vị
ấy biết rơ.
Khi nội tâm có hôn thụy,
vị ấy biết rơ.
Khi nội tâm không có hôn thụy,
vị ấy biết rơ.
Với hôn thụy chưa
sinh khởi, nay sinh khởi, vị ấy biết rơ.
Với hôn thụy đă từng
sinh khởi, nay được đoạn diệt, vị ấy
biết rơ.
Với hôn thụy đă
đoạn diệt, tương lai không sinh khởi, vị
ấy biết rơ.
Khi nội tâm có trạo hối,
vị ấy biết rơ.
Khi nội tâm không có trạo
hối, vị ấy biết rơ.
Với trạo hối
chưa sinh khởi, nay sinh khởi, vị ấy biết
rơ.
Với trạo hối
đă từng sinh khởi, nay được đoạn diệt,
vị ấy biết rơ.
Với trạo hối
đă đoạn diệt, tương lai không sinh khởi,
vị ấy biết rơ.
Khi nội tâm có hoài nghi, vị
ấy biết rơ.
Khi nội tâm không có hoài
nghi, vị ấy biết rơ.
Với hoài nghi chưa sinh
khởi, nay sinh khởi, vị ấy biết rơ.
Với hoài nghi đă từng
sinh khởi, nay được đoạn diệt, vị ấy
biết rơ.
Với hoài nghi đă đoạn
diệt, tương lai không sinh khởi, vị ấy biết
rơ.
Tóm lại, khi một trong năm triền
cái sinh khởi, hành giả quan sát biết ngay. Quan sát năm
triền cái của ḿnh gọi là "quán pháp trên các nội
pháp". Quan sát năm triền cái của người khác gọi
là "quán pháp trên các ngoại pháp ". Quán sát năm triền
cái của ḿnh và của người khác gọi là "quán
pháp trên các nội ngoại pháp ".
(b) Quan sát năm thủ uẩn
(Upādānakkhando)
Uẩn là khối, nhóm, tập
họp. Năm thủ uẩn là sắc uẩn,
thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn.
Khi tâm có sự chấp thủ (bám víu) uẩn
nào, hành giả phải biết rơ.
Sắc uẩn, khi sắc
uẩn sanh hay diệt, hành giả biết rơ.
Thọ uẩn, khi thọ
uẩn sanh hay diệt, hành giả biết rơ.
Tưởng uẩn, khi
tưởng uẩn sanh hay diệt, hành giả biết rơ.
Hành uẩn, khi hành uẩn
sanh hay diệt, hành giả biết rơ.
Thức uẩn, khi thức
uẩn sanh hay diệt, hành giả biết rơ.
Quán thấy sự chấp
thủ năm uẩn của chính ḿnh gọi là "quán pháp
trên các nội pháp". Quán thấy sự
chấp thủ năm uẩn của người gọi là
"quán pháp trên các ngoại pháp". Quán
thấy sự chấp thủ năm uẩn của ḿnh và của
người gọi là "quán pháp trên các nội ngoại
pháp ". Quán thấy sự sinh khởi
của năm uẩn gọi là "quán sự sinh trên các
pháp ". Quán thấy sự hoại diệt
của năm uẩn gọi là "quán sự diệt trên
các pháp ".
(c) Quan sát mười hai xứ
(Āyatana)
Xứ là nơi, chỗ, vị
trí. Có tất cả là 12 xứ chia làm 2
phần là nội xứ và ngoại xứ.
6 nội xứ là:
Nhăn xứ: Mắt, vật trông thấy
được các màu sắc.
Nhĩ xứ: Tai, vật nghe được
các tiếng.
Tỷ xứ: Mũi, vật ngữi
được các mùi.
Thiệt xứ: Lưỡi, vật nếm
được các vị.
Thân xứ: Thân, vật cảm xúc
được các sự va chạm.
Ư xứ: Tâm, sự nhận thức
được mọi đối tượng qua năm xứ
kể trên.
6 ngoại xứ là:
Sắc xứ: c̣n gọi là cảnh sắc,
đối tượng ghi nhận của mắt.
Thinh xứ: c̣n gọi là cảnh thinh,
đối tượng ghi nhận của tai.
Khí xứ: c̣n gọi là cảnh khí, đối
tượng ghi nhận của mũi.
Vị xứ: c̣n gọi là cảnh vị,
đối tượng ghi nhận của lưỡi.
Xúc xứ: c̣n gọi là cảnh xúc (đất,
lửa, gió), đối tượng ghi nhận của thân.
Pháp xứ: c̣n gọi là cảnh pháp,
đối tượng ghi nhận của ư thức: các trạngthái,
màu sắc, h́nh thể, ...).
Người tu Tuệ quán, khi mắt thấy
cảnh chỉ biết "đây là mắt, đây là sắc",
do duyên hai pháp nầy, kiết sử (5 Triền cái) sinh khởi,
hành giả biết rơ như vậy. Với kiết sử chưa sinh khởi, nay sinh
khởi, hành giả phải biết rơ nhân của chúng.
Với kiết sử đă sinh khởi, nay
được đoạn trừ, hành giả biết rơ
nhân của chúng. Với kiết sử
được đoạn trừ, nay không c̣n tái phát, hành giả
biết rơ nhân của chúng.
Khi tai nghe âm thanh…..
Khi mũi ngửi mùi ...
Khi lưỡi nếm vị
...
Khi thân cảm xúc ...
Khi ư suy nghĩ pháp ...
Nói tóm lại, người hành Tứ Niệm
Xứ, trong bốn oai nghi, dù ở oai nghi nào, khi căn môn
tiếp xúc với cảnh trần, hành giả phải an
trú trong chánh niệm (biết rơ). Và nếu 10
triền cái sanh khởi, hành giả phải biết rơ.
10 Triền cái là 10 pháp trói buộc: dục ái, hữu ái, phẩn
uất, ngă mạn, tà kiến, hoài nghi, tật đố, lận,
sắc, vô minh, giới cấm thủ.
Quán sát các xứ của ḿnh gọi là
"quán pháp trên các nội pháp". Quán sát các xứ của
người gọi là "quán pháp trên các ngoại pháp".
Quán sát các xứ của ḿnh và của người gọi là
"quán pháp trên các nội ngoại pháp ". Quán
thấy sự sinh khởi của các xứ gọi là
"quán sự sinh trên các pháp ". Quán thấy
sự hoại diệt của các xứ gọi là "quán sự
diệt trên các pháp ".
(d) Quan sát thất giác chi (Bojjhaṅga)
C̣n gọi là thất bồ
đề phần là bảy pháp là cho tỏ ngộ thánh
đế, thấy rơ Niết-Bàn, đắc chứng đạo
quả. Tạng Abhidhamma, bộ Vibhaṅga giải về
thất giác chi như sau:
Niệm giác chi là sự ghi nhớ, biết
đến, thường hằng nhớ, không lẩn lộn,
không quên ḿnh
.Thẩm giác chi là trí tuệ,
vô si, trạch pháp, giác minh, chánh kiến, thấy rơ sự thật
(thiện hay bất thiện).
Cần giác chi (tinh tấn
giác chi) là sự mở đường, hướng đạo,
sách tấn, chánh cần, không lui sụt.
Hỷ giác chi là sự no
vui, no ḷng, phỉ lạc, pháp hỷ, trạng thái vui
tươi, thái độ hoan hỷ.
Tịnh giác chi là sự vắng lặng,
cách yên tịnh của tâm thức (sự an
tỉnh của tứ danh uẩn).
Định giác chi là sự nhứt hành, an chỉ, đ́nh trụ của tâm trên đối
tượng (đề mục).
Xă giác chi là sự buông bỏ, cách xă ly, quân
b́nh, trung tánh, b́nh thản, điềm nhiên, vô sự.
Người hành Tứ niệm
xứ, khi nội tâm có niệm giác chi, vị ấy biết
rơ. Khi nội tâm không có niệm giác chi, vị
ấy biết rơ. Với niệm giác chi
trước chưa sanh khởi, nay sanh khởi, vị ấy
biết rơ. Với niệm giác chi đă sanh khởi nay
tu tập được viên thành, vi ấy
biết rơ.
Khi nội tâm có thẩm
giác chi, vị ấy biết rơ. ...
Khi nội tâm có cần giác chi, ....
Khi nội tâm có hỷ giác chi, ...
Khi nội tâm có tịnh giác chi, ...
Khi nội tâm có định giác chi, ...
Khi nội tâm có xă giác chi,
...
Tóm lại, khi hành pháp tuệ
quán, trong bốn oai nghi, khi trong tâm có pháp bồ đề phần
sinh khởi đều phải biết rơ. Quán thấy thất giác chi của ḿnh là "quán
pháp trên các nội pháp". Quán thấy thất
giác chi của người khác là "quán pháp trên các ngoại
pháp". Quán thấy thất giác chi của
ḿnh và của người khác là "quán pháp trên các nội
và ngoại pháp". Quán thấy sự
sinh khởi lên của thất giác chi là "quán sự sinh
trên các pháp". Quán thấy sự diệt
mất của thất giác chi là "quán sự diệt trên
các pháp". Hành như vậy gọi là
pháp quán niệm xứ về thất giác chi.
(e) Quan sát tứ diệu đế
(Ariyasacca)
Tứ Diệu Đế c̣n gọi
là Tứ Thánh Đế là bốn sự thật siêu việt, bốn
sự thật mà các vị thánh nhân thấy rơ và biết rơ.
1) Khổ Diệu Đế
(Dukkhāriyasacca)
Khổ diệu đế
là sự bất toàn, vô thường, trống không, giả
tạm, bất toại nguyện. Khổ
đế chỉ cho sinh, già, bệnh, chết, sầu bi, khổ,
ưu, không đạt ư muốn, tóm lại, chấp thủ
năm uẩn là khổ. Tạng Abhidhamma, tập
Paticasamuppāda giải:
Sinh là sự sanh khởi của Danh và Sắc
(ngũ uẩn).
Già là sự củ kỹ, tức là sát na trụ của Danh và Sắc.
Chết là chấm dứt một kiếp
sống, sự tiêu diệt của Danh và Sắc trong từng
sát na.
Sầu là sự phiền
muộn, âu lo, buồn rầu.
Bi là sự khóc than, bi thán,
ai bi.
Khổ là sự khổ khổ (không
thích hợp với thân và tâm, sự bất như ư), hoại
khổ (khổ sinh lên khi lạc diệt đi, hoặc lạc
cực sinh bi), hành khổ (sự khổ v́ ngũ
uẩn bị hoại).
Ưu là sự lo buồn,
tư lự.
Ai là sự thống kổ,
rất buồn bực.
Cầu bất đắc là sự mong cầu
đừng bệnh, đừng sinh, đừng già, đừng
chết, đừng sấu bi, ... mong cầu
những sự việc không bao giờ có thể toại
nguyện được.
Chấp thủ năm uẩn là sự tham ái,
chấp thủ vào năm uẩn của ḿnh.
2) Tập Diệu Đế
(Samudayāriyasacca)
Tập diệu đế
là nguyên nhân sinh ra sự khổ. Nguyên nhân
đó không ǵ khác hơn chính là ḷng tham ái.
- Dục ái: ḷng tham ái sinh khởi và an trú trong các sắc thân, trong các sự khả
ái, tức mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư, các sắc
pháp, các âm thanh (thinh sắc), các mùi thơm (khí sắc), các vị
(khẩu vị), các sự xúc chạm, và các pháp sinh khởi
trong tâm.
Hoặc ḷng tham ái sinh khởi và an trú theo các Thức trong đời: nhăn thức,
nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức
và ư thức.
Hoặc ḷng tham ái sinh khởi và an trú theo
các Xúc trong đời: nhăn xúc, nhĩ xúc, tỷ xúc, thiệt
xúc, thân xúc và ư xúc.
Hoặc ḷng tham ái sinh khởi và an trú theo các Thọ trong đời: nhăn thọ,
nhĩ thọ, tỷ thọ, thiệt thọ, thân thọ
và ư thọ.
Hoặc ḷng tham ái sinh khởi và an trú theo các Tưởng trong đời: sắc
tưởng, thinh tưởng, khí tưởng, vị
tưởng, xúc tưởng và pháp tưởng.
Hoặc ḷng tham ái sinh khởi và an trú theo các Tư (gom thu) trong đời: sắc
tư, thinh tư, khí tư, vị tư, xúc tư và pháp
tư.
Hoặc ḷng tham ái sinh khởi và an trú theo các Ái (khao khát) trong đời: sắc ái,
thinh ái, khí ái, vị ái, xúc ái và pháp ái.
Hoặc ḷng tham ái sinh khởi và an trú theo các Tầm (suy nghĩ, t́m kiếm,
t́m ṭi) trong đời: sắc tầm, thinh tầm, khí tầm,
vị tầm, xúc tầm và pháp tầm.
Hoặc ḷng tham ái sinh khởi và an trú theo
các Tứ (quan sát, xem xét, khám phá) trong đời: sắc tứ,
thinh tứ, khí tứ, vị tứ, xúc tứ và pháp tứ.
- Hữu ái là sự khao khát, mong muốn
các sự vật hiện hữu được tiếp tục
hiện hữu trong các đời sau (thường kiến).
- Phi hữu ái là tham ái về sự
đoạn diệt (sự tham ái theo
đoạn kiến).
3) Diệt Diệu Đế (Nirodha -
Ariyasacca)
Tạng Abhidhamma, bộ Vibhaṅga có giải:
"Diệt tận các tham ái là diệt diệu đế".
Hoặc diệt sự tham ái đối
với Thức: nhăn thức, nhĩ thức,
tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ư thức là
diệt diệu đế.
Hoặc diệt sự tham ái đối
với Xúc: nhăn xúc, nhĩ xúc, tỷ xúc,
thiệt xúc, thân xúc và ư xúc là diệt diệu đế.
Hoặc diệt sự tham ái đối
với Thọ: nhăn thọ, nhĩ thọ,
tỷ thọ, thiệt thọ, thân thọ và ư thọ là diệt
diệu đế.
Hoặc diệt sự tham ái đối
với Tưởng: sắc tưởng, thinh tưởng,
khí tưỡng, vị tưởng, xúc tưởng và pháp
tưởng là diệt diệu đế.
Hoặc diệt sự tham ái đối
với Tư: sắc tư, thinh tư, khí tưỡng, vị
tư, xúc tư và pháp tư là diệt diệu đế.
Hoặc diệt sự tham ái đối
với Ái: sắc ái, thinh ái, khí tưỡng, vị ái, xúc ái
và pháp ái là diệt diệu đế.
Hoặc diệt sự tham ái đối
với Tầm: sắc tầm, thinh tầm, khí tưỡng,
vị tầm, xúc tầm và pháp tầm là diệt diệu
đế.
Hoặc diệt sự tham ái đối
với Tứ: sắc tứ, thinh tứ, khí tưỡng, vị
tứ, xúc tứ và pháp tứ là diệt diệu đế.
Tập diệu đế
và diệt diệu đế khác nhau ở chỗ tham ái sinh
và tham ái diệt đối với mọi sự vật.
Do đó mà có câu "Phiền năo tức bồ đề, Niết-Bàn
là sinh tử".
4) Đạo Diệu Đế
(Maggāriyasacca)
Tạng Abhidhamma, bộ Vibhaṅga có giải:
"bát thánh đạo có tám chi: chánh kiến, chánh tư duy,
chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn
(chánh cần), chánh niệm và chánh định".
Chánh kiến là thấy rơ sự
khổ, thấy rơ các nhân sinh khổ, thấy rơ các pháp diệt
khổ và thấy rơ con đường đi đến diệt
khổ.
Chánh tư duy là sự suy
nghĩ xa ĺa tham dục, sự suy nghĩ xa ĺa sân hận, sự
suy nghĩ xa ĺa giết hại.
Chánh ngữ là không nói dối, không nói
đâm thọc, không nói hung dữ và không nói lời nhảm
nhí, vô ích.
Chánh nghiệp là không giết
hại, không trộm cướp, không tà dâm.
Chánh mạng là không nuôi thân
sống bằng thân nghiệp tà vạy và bằng khẩu
nghiệp tà vạy.
Chánh tinh tấn là ngăn
ngừa các ác pháp chưa sinh khởi không cho sinh khởi, diệt
trừ các ác pháp đă sinh khởi và ngăn ngừa các ác
pháp đă diệt được không cho tái phát. Tu thập thiện pháp chưa có cho có và ǵn giữ
các thiện pháp đă có cho được phát triển viên
măn.
Chánh niệm là sự tỉnh giác, biết
rơ các sự việc xảy ra trong hiện tại, biết
rơ thân trên thân, biết rơ thọ trên các thọ, biết rơ
tâm trên các tâm và biết rơ pháp trên các pháp. Chế
ngự tham sân sinh khởi.
Chánh định là trạng
thái tâm thanh tịnh, vắnh lặng, xa ĺa các pháp bất thiện.
Chứng và trú sơ thiền: có Tầm,
Tứ, Hỷ và Lạc do nhờ ly Dục sinh. Chứng và
trú nhị thiền: có Hỷ và Lạc do nhờ Định
sinh. Chứng và trú tam thiền: có sự an
lạc do nhờ Xă niệm sinh. Chứng và trú tứ thiền:
có sự an tịnh do nhờ phi khổ
phi lạc sinh.
Tóm lại, người hành Tứ Niệm
Xứ trong 4 oai nghi, luôn luôn phải có chánh niệm (biết
rơ, ghi nhận hiện tại) đối với các pháp, và
biết rơ "đây là sự khổ, đây là nhân sinh khổ,
đây là sự diệt khổ và đây là con đường
đi đến diệt khổ". Quán tứ
diệu đế trong thân gọi là "quán pháp trên các nội
pháp". Quán bốn diệu đế
ngoài thân gọi là "quán pháp trên các ngoại pháp".
Quán thấy bốn diệu đế ở
trong và ngoài thân gọi là "quán pháp trên các nội và ngoại
pháp". Quán thấy sự có mặt của
tứ diệu đế gọi là "quán sự sinh trên
các pháp". Quán thấy sự biến hoại
của tứ diệu đế gọi là "quán sự diệt
trên các pháp".
Lưu ư: Tứ niệm xứ là
pháp tu chỉ quán, v́ cùng một đề mục, nếu
hành giả tu theo thiền chỉ (Samatha)
th́ sẽ đắc Định; nếu hành giả tu theo thiền
quán (Vipassana) th́ sẽ đắc Tuệ.
OOOOO
ooOoo