A Tỳ Đàm
Giảng Giải và Thảo Luận
Tâm Thiền Sắc Giới
A Tỳ Đàm, Bài 9.2.3
Ngày 18 tháng 6 năm 2004
Minh Hạnh biên soạn & Cô Tu Nữ Diệu Tịnh hiệu đính
Tâm Thiện Sắc
Giới (Kusalarùpavacaracitta)
ooOoo
Ngày 18 tháng 6 năm
2004
I. Tâm Thiền sắc Giới (Kusalarùpavacaracitta)
Những điểm chính
· Tâm Thiện Sắc Giới
· Các án xứ thiền
chỉ
I. Tâm Thiền Thiện
Sắc Giới
TT Giác Đẳng: Về đề mục thiền sắc giới
và vô sắc giới có một số Phật tử sẽ
đặt câu hỏi rằng những việc ti`m hiểu
như vậy liệu nó có lợi cho chúng ta ở trong đời
sống tu học hay không?. Chúng
ta ít khi nào nghĩ rằng ngồi xuống để tu tập
những pháp môn thiền chỉ này, trong hàng trăm ngàn, hàng
triệu người thi` mới có chỉ một người
tu tập như vậy.
Thật ra dầu
chúng ta có tu tập hay không tu tập thi` chúng ta cũng nên
đặc biệt biết về các trạng thái tâm thiền
này. Bởi vi` chúng ta quen sống hàng ngày
với tâm dục giới, tâm có những triền cái như
tham dục, sân hận, hôn trầm, thụy miên, hoài nghi,
phóng dật. Những trạng
thái đó, bởi vi` chúng ta quá quen với
nó và chúng ta không bao giờ nhi`n thấy những giới hạn
của những thứ đó mang lại cho chúng ta.
Ngài Achaan Jumnien là một
thiền Sư đệ tử của Ngài Achaan Chaa, Ngài nói
rằng cứ tưởng tượng một người
đi trên trạm đường dài và đi với trạng
thái thong dong, cho dù cảnh đẹp thi` cứ đưa mắt
nhi`n và rồi tiếp tục lên đường, cho dù thấy
một ho`n đá hay một cây rất đẹp thi` cũng
để yên ở đó chứ không nhấc lên vai để
mà đi, bởi vi` chúng ta không thể mang hết tất cả
những gi` mà chúng ta thấy dọc đường, chúng
ta càng mang thi` gánh càng nặng.
Đời sống của
chúng ta với 5 pháp triền cái là tham dục, sân hận, hôn
thụy, hoài nghi, phóng dật, những pháp này nó liên tục
làm cho cuộc sống của mi`nh xáo trộn và hầu
như một số ít trong chúng ta y' thức được
rằng, mi`nh phải cần làm một cái gi` đó để
vượt lên trên những thứ nó khiến cho chúng ta bị
kéo xuống. Chúng ta ham học
Phật Pháp, chúng ta rất ưa tu chuộng học, thế
nhưng những gi` chúng ta đối diện trong đời
sống hàng ngày nó cứ kéo chúng ta xuống làm cho chúng ta bị
tri` trệ không đi tới được.
Hăy cứ tưởng
tượng mỗi buổi sáng thức dậy mà tâm hồn
mi`nh muốn được an lạc, thi` thưa quí vị
chúng ta không an lạc được tại vi` đơn giản
là cho dù một ngày rất đẹp trời, một ngày
mùa xuân ở tại thành phố có đầy hoa thơm cỏ
lạ và quí vị có công ăn việc làm tốt, có những
người trong gia đi`nh hết sức thân
thương, có một mái nhà hết sức ấm cúng thi`
nó cũng không đủ làm cho chúng ta hạnh phúc. Bởi vi` sao, bởi vi` nội tại
của chúng ta luôn luôn phải chịu những thứ phiền
năo, một người muốn
nâng cao trạng thái tâm của mi`nh, thi` phải thấy rằng
phải có một cái cố gắng vuợt thoát, cái cố
gắng phải đi qua, và phải có phương tiện
nào, khả năng tập trú vào mới giúp cho tâm của
chúng ta ổn định như vậy.
Có một lần
chúng tôi nghe một vị Pháp sư, vị này trong lúc thuyết
pháp lại dùng ví dụ tâm tư của chúng ta giống
như cục bột, người ta muốn nặn vuông
thi` vuông, người ta muốn nặn tro`n thi` tro`n, mới
nghe thi` chúng ta nghĩ rằng chúng ta có thể từ chối
điều đó, bởi vi` tâm tư con người mà giống
như cục bột thi` thật là thảm thương quá. Nhưng thựt tế thi` nó là
như vậy, người ta muốn mi`nh
vui, người ta khen tặng mi`nh một vài lời, và
người ta muốn mi`nh buồn người ta chê bai một
vài câu thi` những thứ đó đủ làm cho mi`nh
điên đảo. Khi mi`nh thấy biết và y' thức
được điều này thi` mới thấy được
sự mỏng manh, sự suy yếu, một trạng thái yếu
đuối của nội tâm,
và mi`nh phải y' thức rằng từ đó mi`nh phải
làm gi` đó để thay đổi đi.
Thật ra bài học
về thiền định là bài học lớn ở
đây, bởi vi` chúng ta được biết rằng
ngay cả trong đời sống hàng ngày cho dù mi`nh không tu tập
thiền định, cho dù mi`nh không có hướng tâm vào những
án xứ như là Sư Trưởng và TT Trí Siêu vừa
tri`nh bày ngày hôm nay. Tuy nhiên nếu
chúng ta có khả năng tập trú vào một đối
tượng, một công việc và đối tượng
đó là một công việc đúng, thi` thưa quí vị nó
cũng có một số tâm lực và nhờ những tâm lực
này chúng ta có thể tiếp tục an ổn
vững mạnh.
Chúng tôi nói đó chỉ
là đời sống hàng ngày thôi, những người tâm
tư họ thường đau khổ là bởi vi` họ
có một vấn đề, vấn đề là tự nội
tại của họ, nó như một gio`ng suối cạn,
nó không có được suối nguồn hạnh phúc, họ
luôn luôn đi ti`m ở bên ngoài.
Cái ở bên ngoài là cái gi`, cái gi` mi`nh có, cái gi` mi`nh nghe,
cái gi` mi`nh ngửi, cái gi` mi`nh nếm, mi`nh đụng, mi`nh
nghĩ đó là hạnh phúc, nhưng ở trong lo`ng mi`nh phải
hạnh phúc trước. chúng ta đă nghe rất nhiều
câu chuyện về những vị vương phi, những
vị công
chúa, những người có bao nhiêu tiền bạc, có bao
nhiêu quyền hành, có bao nhiêu danh tiếng, danh vọng địa
vị cao, nhưng rồi tự tâm họ không vui, nếu
tâm họ thật sự vui thi` họ đă sống một
nơi nào đó an trú một nơi nào đó và hưởng
cái gi` họ có. Nhưng không họ
vẫn tiếp tục có cái gi` đó bắt họ phải
lên đường, cái gi` bắt buộc họ phải lao
mi`nh vào cuộc phiêu lưu, bởi vi` sao, bởi vi` tự
bản thân của họ không được an lạc. Nên những khái niệm về thiền
cho chúng ta biết ít nhiều về cái gọi là khả thi,
cái gọi là có thể từ thế giới này chúng ta có thể
chuyển hóa sang thế giới
khác.
Ở đây chúng tôi
phải trở lại với định nghĩa chữ
kammatthana, khi năy Sư Trưởng, TT Trí Siêu, và chúng tôi
thường dùng chữ án xứ, đúng ra một chữ
mà ngày xưa các Ngài đă cố gắng dịch nhiều
cách, ở trong đó có một cách các Ngài dịch là đề
mục. Chúng tôi
không hiểu chữ đề mục này ngày hôm nay ở Việt
Nam co`n có nghĩa chính xác hay không, nhưng chữ đề
mục nếu người ta dịch qua tiếng Anh là topic
có nghĩa là một đề tài. Người ta viết
văn hay nói chuyện thi` có đề tài có chủ đề,
co`n chữ đề mục thi` khi chúng ta nói một danh
sách mà trong đó có nhiều đề mục khác. Và chúng tôi cảm thấy ngờ ngợ rằng chữ
đề mục nó không chính xác là để dịch chữ
kammatthana. Sư
Trưởng có dùng một chữ trong quyển sách của
Sư Trưởng đó là "Chiếu Kiến Nghiệp
Xứ".
Chiếu kiến nghiệp
xứ có thể dùng để dịch cho chữ kammatthana,
và tại sao ở đây chúng ta dùng chữ án xứ, chữ
án ở đây giống như chữ công án, công án là một
đề tài hay một đối tượng để
chúng ta đào sâu, để chúng ta tập trú vào, chúng ta có chữ
công án rất đắc y' mà trong thiền tông đă dùng rất
nhiều đời nhưng ở đây không thể dùng chữ
công án được. Công án được
hiểu như đề tài để suy tư, để
trầm tư, để khai ngộ hơn là đối tượng
để tập luyện để nâng cao định lực
của chúng ta. Chữ
xứ dịch từ chữ tthana, chữ tthana ở
đây chúng ta được hiểu một nơi, một
cảnh giới, một đối tượng. Đó là đối tượng
để chúng ta tu tập thiền định, như vậy
thi` chữ án xứ ở đây dịch nó hơi xa lạ
nhưng mà nó kết hợp được nhiều cái từ
ngữ liên hệ xa gần với thiền định
để chỉ cho chỗ chúng ta tạm dùng, từ chỗ
đó phát triển định tâm thành tựu các chi thiền
chứng đạt các tầng thiền.
Nếu qúi vị
đọc kỹ bài học, nhất là qúi vị đọc
trong Thanh Tịnh Đạo có tất cả là 40 đề
mục mà gọi là thiền chỉ. Tại sao chúng ta gọi là thiền
chỉ, chỉ ở đây có nghĩa là ngưng lại, tập
trú vào một điểm, tâm của chúng ta thường
đi từ chỗ này sang chỗ khác. Và khi nói thiền quán là khả
năng hoà quyện, cái khả năng bám sát theo
dơi những gi` đang xảy ra.
Nhưng thiền chỉ thi` ngược
lại, thiền chỉ thi` không để bản tâm tùy
quán, thiền chỉ là một trạng thái tâm tập trú một
điểm thôi.
Chúng tôi lấy ví dụ
mi`nh đang ngồi trong một căn pho`ng, có bao nhiêu sự
việc đang diễn ra, đáng lẽ những người
chung quanh làm cho mi`nh chú y', những âm thanh làm cho mi`nh chú y' và
những gi` đang xảy ra khiến cho mi`nh phải luôn
thường xuyên quan sát. Bây giờ
chúng ta tự đặt ra một kỷ luật là chúng ta
không ngó chỗ này, ngó chỗ kia, không nghe cái này, không nghe cái
kia, không đọc sách, đọc báo nữa và chỉ tập
trú vào một điểm nào đó và cái khả năng tập
trú đầu tiên đó để nó tách rời khỏi những
chi phối chung quanh, cái đó chúng ta gọi là chỉ. Nhưng hơn thế nữa là sự
tập trung đó nó vào một cái án xứ,
án xứ đó về lâu về dài chúng ta có thể phát huy
được định tâm của chúng ta trong nhiều
cách.
Thật ra chúng tôi
không muốn đi quá sâu vào những phương pháp tập
thiền, quí vị có thể đọc thêm trong Thanh Tịnh
Đạo, lấy ví dụ là một hành giả có thể
dùng đất để nắn thành một cái kasina.
Kasina chúng ta gọi là một đề mục hoàn tịnh,
là một vật thể hi`nh tro`n, khỏan chừng một
gang rưỡi tay của chúng ta, và chúng ta có thể cho nó một
màu thích hợp với mi`nh, xanh, đỏ, vàng, trắng và
tập trú vào trong đó, khi họ tập trú họ niệm
pathavi`, pathavi` tức là đắp
đất, đến khi nào
nhắm mắt lại vẫn co`n giữ được
hi`nh ảnh cái kasina đó trong đầu óc của mi`nh. Và từ hi`nh ảnh mà chúng ta gọi
là quang tướng, ấn tượng co`n để trong
tâm họ có thể biến măn một cách tự tại và sự
biến măn này nhờ định tâm là từ màu sắc, từ
kasina hi`nh tro`n cái dạng như vậy, có giới hạn
như vậy, bây giờ có biến măn đến không cùng
không tận, họ có thể xuất nhập một cách thuần
thục, khi nào muốn xuất thi` xuất, khi nào muốn
nhập thi` nhập, thi` vị này có thể dần dà đạt
đến nhiều giai đoạn của thiền định
khác, nhau mượn một đối
tượng và từ đối tượng đó làm khả
năng có thể biến măn.
Điều
này tương tựa như trong thế giới của chúng
ta nó có những thành phần vật chất có khả năng
dẫn điện. Có những thành phần
vật chất cách điện, và không dẫn điện được,
thi` ở trong đời này có những đề mục đối
tượng khiến cho tâm tư (định tâ m) có thể
từ chỗ đó biến măn, và có những đối tượng
không làm cho tâm tư biến măn được.
Chúng tôi lấy một
ví dụ , mi`nh muốn ăn cho ngon một miếng ăn mà
chúng ta đặc biệt thích thú, cho dù chúng ta đem hết
tinh thần, đem hết thi` giờ để chuẩn bị
món ăn đó ngon cực ky` đi nữa, thi` cái thỏa măn
của lưỡi nó chỉ đến một giới hạn
nào đó, nó không thể nào tiếp tục đi hoài, nó đi
xa rộng hơn được hết, tại vi` cực điểm
của ăn uống chỉ là cái ngon của lưỡi, mà
cái ngon của lưỡi chỉ nằm giới hạn ở
đó thôi. Người
ta có thể đi vào thế giới của thi ca, đi vào
thế giới của nghệ thuật, thế giới đó
không giới hạn. Chúng tôi nói trong đời sống thường thức
hàng ngày, thi` cũng bài thơ đó, cũng âm giai đó hôm
nay họ có thể lănh hội một cách khác, ba năm nữa
họ lănh hội một cách khác, mươi năm nữa
họ lănh hội một cách khác về thế giới này.
Có ví dụ điển
hi`nh trong thế giới phàm tục của chúng ta là có những
đối tượng mà chúng ta tập trú, tự nhiên chúng
ta bị giới hạn bởi đối tượng đó,
và những đối tượng nó có thể rộng ra như
khi chúng ta nói về điện, có những conductor, mà nó khiến
cho chúng ta có thể dẫn điện được đi
xa hàng vạn dặm, có những cái nó không có khả năng
để dẫn điện.
Cảnh rất là
quan trọng cho tâm, và có những cảnh hữu hạn, nó
hạ liệt, nó tầm thường, và có những cảnh
đáo đại, những cảnh gọi là biến măn, những
cảnh mà nó đưa chúng ta đến cảnh giới
cao rộng hơn. Nếu tâm tư cao rộng thi` mi`nh phải có những đối tượng
đủ khả năng dẫn chúng ta đến chỗ
cao rộng. Nếu
trong cuộc đời này chúng ta chỉ tập trú vào những
cái tầm thường thi` rốt cuộc chúng ta cũng tầm
thường thôi.
Hăy thử tưởng
tượng rằng một người quanh năm suốt
tháng chỉ nghĩ đến vấn đề thị phi
hơn thiệt, chỉ nghĩ đến vấn đề
ăn uống ngủ nghỉ, chỉ nghĩ đến vấn
đề vui buồn nhỏ nhặt, thi` suốt cuộc đời
chúng ta sẽ bị luẩn quẩn như vậy. Rất
quan trọng để chúng ta ti`m một đối tượng
hay một cảnh giới trong cuộc đời, cảnh
giới đó có thể đưa tâm tư của chúng ta vượt
lên trên cái tầm thừơng đó và an
trú vào cảnh giới cao rộng.
Khi năy Sư Trưởng
có nói một điều mà quí vị ở trong rơom nên để
y’ một chút, và thường đọc kinh điển quí
vị sẽ nhi`n nhận ra những tầng
thiền đặc biệt là sơ thiền được
diễn tả trong kinh điển. Sơ thiền
tức là tầng thiền đầu tiên nó là một trạng
thái hỷ lạc do ly dục sanh, điều này là điều
không thể không chú y’ bởi bất cứ người Phật
tử nào. Bởi vi` phần lớn
trạng thái hỷ lạc của chúng ta, tức là trạng
thái hân hoan và hạnh phúc sung sướng của chúng ta nó đến
từ dục lạc mà có, nào là sự hưởng thụ
sắc đẹp, tiếng hay, mùi thơm, vị ngon xúc lạc.
Khi tâm tư của chúng ta không có những thứ đó thi`
mi`nh cứ tưởng tượng như là con cá bị quăng
lên bờ như trong kinh Pháp Cú có câu là “Như cá vất lên bờ,
sống bên ngoài thủy giới”, cũng vậy tâm vùng vẫy
và vùng vẫy mạnh bởi vi` nó không nằm trong dục lạc.
Tại sao nó vùng vẫy
mạnh, và thưa quí vị tại nó quen thôi, nó quen sống
với thứ đó, nó quen hưởng thụ thứ đó
và nó nghĩ cái đó là tất cả, nhưng nó không phải
là tất cả, cứ tưởng tượng chúng ta không
hút thuốc, bây giờ chúng ta cảm thấy thế giới
này không hút thuốc thi` nó không chết ai hết, nó bi`nh thường
thôi, nhưng nếu chúng ta đă lỡ ghiền thuốc lá
rồi, và bây giờ không hút thuốc thi` chúng ta cảm thấy
buồn một chút. Chúng ta quen
vào sinh hoạt trong paltalk, rồi một ngày nào đó tự
nhiên liên tục 3, 4 tháng chúng ta không có điều kiện như
cable bị cắt, máy móc bị hư, hay làm gi` đó nên chúng
ta không sinh hoạt, nếu chúng ta sinh hoạt hàng ngày, giờ
bị cắt ngang mi`nh cảm thấy nó vắng. Cái vắng đó cho
chúng ta thấy rằng ở trong các dục, ở trong cái mà
gọi là thích thú, nó thường là sức mạnh của
lệ thuộc nhiều hơn là sức mạnh của độc
lập. Sức
mạnh của lệ thuộc nó là bản chất của
dục, bất cứ một cái ưa thích gi` nó đều
là bản chất của dục hết.
Chúng tôi nhớ rằng
ở trong ngành tâm ly’ học có đề cập đến
những trạng thái có những người họ
luôn luôn thích sống bằng sự vay mượn. Trong chúng ta thi` ai cũng sợ nợ
hết, mi`nh mượn nợ thi` cố trả cho xong, tại
vi` có nợ thi` nó canh cánh trong lo`ng. Nhưng có những người họ
sống trong cuộc đời đặc biệt họ
thích vay mượn, mỗi lần họ đi vay mượn
thi` họ cảm thấy sung sướng với sự vay
mượn đó, họ không cảm thấy cái gi` nặng
nề với sự vay mượn, mặc dầu sự
vay mượn đó làm cho đời sống họ đi
xuống khổ sở, làm cho đời sống họ đảo
điên, nhưng họ vẫn thích sống với sự
vay mượn.
Thi` thưa quí vị
chúng ta sống ở trên đời này mà sống đối
với các dục thi` mi`nh nghĩ rằng các dục cho mi`nh
rất nhiều, như sắc, thinh, khí, vị, xúc, pháp,
mi`nh luôn luôn quan niệm rằng chính những dục đó
nó cho chúng ta cả một bầu trời, một cảnh
giới. Tuy vậy khi mi`nh đă
tu thiền thi` bấy giờ mi`nh sống trong trạng thái
gọi là hỷ lạc do ly dục sinh, cái hỷ lạc do
ly dục sinh này là trạng thái tâm tư không co`n bị ràng
buộc, không co`n bị lệ thuộc, không co`n có những
hạnh phúc vay mượn ở bên ngoài nữa, điều
này nó không có dễ dàng, hoàn toàn không dễ dàng.
Một người
trẻ đi vào trong cuộc đời, luôn luôn mong mỏi
rằng mi`nh lập được một công danh, một
sự nghiệp có chỗ đứng trong cuộc đời,
có địa vị trong xă hội, có những thành công về
phương diện này, phương diện khác, nhưng với
một người đă sống lăn lộn trong quan trường,
đă uống gần cạn chung rượu đời
thi` bấy giờ mới hiểu rằng cuộc đời
không đẹp như một bài thơ, cuộc đời
đầy dẫy bao nhiêu thứ phiền hà rắc rối
và lúc đó chúng ta mới thấy rằng có danh thi` khổ
vi` danh, có lợi thi` khổ vi` lợi, có tài sản thi` khổ
vi` tài sản.
Khi mi`nh chưa trúng số
thi` mi`nh có cái thiếu thốn của cái không trúng số, nhưng
khi mi`nh trúng số rồi thi` nó không phải là vấn đề
hạnh phúc, không, mà nó co`n có cái khổ của cái mi`nh trúng,
chúng ta hoàn toàn không thấy chuyện
đó. Nên bấy giờ khi một
người đă từ bỏ con đường hoạn
lộ, khi chúng ta có thể từ bỏ cái danh, cái lợi, và
trở về sống ẩn dật một mi`nh, lúc đó người sẽ cảm thấy
được thanh thản nhẹ nhàng. Hoàng tử Anunica đă có lúc ở
trong rừng sâu, khi nghĩ đến cuộc sống trong
cung đi`nh lúc đó co`n là vị hoàng tử, và cuộc sống
một vị Ty` khưu sống trong rừng sâu núi thẳm
bấy giờ, phải thốt lên rằng đời sống
của mi`nh được hạnh phúc. Hạnh phúc do ly dục sanh không phải
là dễ cảm nhận, tuy nhiên nó rất cần thiết
cho mỗi chúng ta trong cuộc sống này hiểu được
rằng bên cạnh cái ăn, ngủ, đi, đứng, thương
yêu, ghét bỏ, bên cạnh những tranh chấp, bên cạnh
những được mất hàng ngày, thi` nó co`n có trạng
thái cao siêu hơn, màu nhiệm hơn, phải hiểu như
vậy để chúng ta không có nhi`n phiến diện.
Thưa quí vị, Hoa
ky` là một trong những quốc gia mà
theo thống kê dân chúng học ngoại ngữ rất kém, đa
số người Hoa Ky` chỉ học được tiếng
Anh, và rất ít có được sinh ngữ thứ hai. Đồng thời người
Hoa ky` nhi`n thế giới này rất phiến
diện, họ chỉ biết và quan tâm
đến những gi` liên quan đến quyền lợi của
Mỹ thôi. Khi quí vị sang Âu Châu, những tin tức, sách báo
Âu Châu mà quí vị đọc, quí vị sẽ thấy rằng
cái nhi`n của báo chí khác về của Hoa ky` nhiều lắm,
rất khác, bởi vi` đất nước Hoa ky` quá lớn,
và vốn là siêu cường, và Anh ngữ là dụng ngữ
phổ thông toàn cầu, bởi vi` Anh ngữ phổ thông nên
chi người ta không cảm thấy cần thêm một
sinh ngữ khác, không có nhu cầu như người Việt
Nam, tại Việt Nam biết được tiếng Anh là
cả một lợi điểm hơn, nhưng tại Hoa
ky` có đôi khi biết một ngôn ngữ khác, nó cũng chỉ
biết một ngôn ngữ thôi, không có được nhiều
cơ hội mở ra như ở những nước khác.
Và đồng
thời những chuyện ở trong thành phố, trong tiểu
bang, trong nước Mỹ nó đă có quá nhiều để
cho người ta quan tâm, nên người ta không quan tâm đến
những chuyện khác nữa. Thi` thế giới này
trở nên cục bộ, trở nên phiến diện, có những
thứ người Mỹ không thể nào hiểu được
dân tộc của các nước khác hết. Chúng ta hăy tưởng tượng
rằng có những cuộc chiến đẫm máu chết
tới hàng trăm, hàng ngàn người tại Phi Châu, mà báo
chí cơ quan truyền thông Hoa ky` rất ít khi nhắc đến,
và sự việc đó có thể diễn ra trong nhiều năm
ở tại Angola, ở tại Rwanda và những nơi khác.
Bởi vi`
những điều đó không nằm trong quyền lợi,
không nằm trong sở thích của người Hoa ky`.
Thi` cuộc sống
của chúng ta đôi lúc nó gặp phải vấn đề,
là chúng ta quá tự măn đối với cảnh giới, với
thế giới mà mi`nh sống, và nghĩ như vậy là đủ
rồi, co`n thế giới mi`nh sống rộng lắm, nó
lớn như thành phố mi`nh đang
sống. Chúng tôi đang sống
tại thành phố Houston, chúng tôi nghĩ rằng đây là
thành phố lớn thứ tư của Hoa ky`,và
có rất nhiều thứ tại thành phố Houston mà mi`nh
biết không hết thi` lấy gi` đâu mi`nh quan tâm đến
thành phố như Los Angeles và Chicago, tại sao mi`nh phải
quan tâm đến những thành phố đó, riêng thành phố
này đă quá lớn. Chúng ta thường chi`m vạ trong cái hiện tại
như vậy, và đó là lư do tại sao chúng sanh lún sâu vào cảnh
giới của trầm luân.
Một
kinh nghiệm rất quan trọng cho chúng ta thấy rằng
ở trong sách vở của người Trung Hoa thường
nói là nhân ngoại hữu nhân, núi thi` có núi cao hơn, người
thi` có những người giỏi hơn mi`nh, điều
đó chắc chắn. Ở trong bất cứ
trường hợp nào thi` thưa quí vị cái trạng thái
cục bộ phiến diện nó vẫn là trạng thái co cùm,
nó khiến tâm tư của chúng ta bị hạn chế lại.
Con người phải sống và y’ thức được
rằng ngoài thế giới của mi`nh co`n có nhiều thế
giới khác.
Vi` vậy thuở xưa
khi Đức Thế Tôn co`n tại Ngài thỉnh thoảng
trong những bài pháp mà chúng ta gọi là tuần tự pháp
thoại, Ngài cũng dạy về các cảnh trời. Tại sao Ngài dạy về các cơi
trời, là bởi vi` ngoài phước báu của bố thí,
tri` giới, phước báu sanh thiên, phước báu xuất
gia con đường ly dục, thi` Đức Thế Tôn
Ngài cho chúng ta biết được rằng, dù rằng một
vị vua như là vua Ba Tư Nặc, vua Bi`nh Sa Vương,
du` là một người cực ky` giàu có như là ông Cấp
Cô Độc, bà Visakha v.v… thi` đừng nghĩ rằng thế
giới họ sống, thành Vương Xá hay những biệt
điện, những lâu đài mà họ đang sống nó là
nhất ở trong thế gian này, nó không phải như vậy.
Chúng ta có thể rất
thương yêu một người và nghĩ rằng không
ai hơn được người đó, nhưng điều
đó chỉ nói lên một sự việc thôi, đó là quán tính
của chúng ta, đó là cái nhi`n nó rất hạn hẹp, bất
quá thi` chúng ta phóng đại nó lắm, tại vi` những
giá trị trong cuộc đời nó rất tương đối. Nhưng nhiều cái chúng ta chưa
biết nó co`n ky` vĩ, nó co`n cao rộng,
nó co`n vĩ đại, hơn cái chúng ta biết rất nhiều.
Vi` vậy những bài học về thiền
định ở trong Đạo Phật, nó không phải chỉ có giá trị về pháp
hành, và riêng về pháp học nó có giá trị rất đặc
biệt. Những bài học về thiền định cho
phép chúng ta thấy rằng tại sao chúng ta không lănh hội
được thế giới này một cách biến măn, một
cách rộng lớn. Mà tại sao tâm tư của chúng ta lúc
nào cũng hạn hẹp như vậy, hễ cảnh hẹp
thi` tâm phải hẹp, cảnh hạ liệt thi` tâm hạ
liệt, mà cảnh đáo đại thi` tâm đáo đại,
cảnh vô lượng thi` tâm vô lượng, chuyện
đó là chuyện rất tự nhiên. Cái đối tượng nào mi`nh
tập trú vào, đối tượng nào mi`nh
sống tự nó, nó đă cho chúng ta biết đâu là giới
hạn, đâu là tâm không giới hạn.
Thật ra cơ hội chúng ta sống
biến măn như vậy rất ít trong đời sống
này. Chúng tôi lấy một ví dụ là Đức
Phật Ngài dậy 4 vô lượng tâm đó là từ, bi, hỷ
và xả. Từ,
bi, hỷ và xả nếu đạt đến một y'
nghĩ cùng tận của nó, thi` nó đạt cho chúng ta
đến một sự là không phân biệt về chúng sinh. Không biệt chúng sanh tức là
người thân, kẻ sơ, người xa, kẻ gần,
thấy được, hay không thấy được, hữu
hi`nh, vô hi`nh, một người có tâm tư mát mẻ, mong
cho tất cả chúng sanh được an lành, thi` người
đó tâm không giới hạn, dù là con chó, con mèo, dù người
đồng chủng tộc với mi`nh, đồng màu da,
đồng màu tóc thi` cũng vậy, mà người khác biệt
với mi`nh thi` cũng vậy.
Cái tâm tư đó là một trong những tâm tư khiến
cho chúng ta có thể biến măn bao trùm trong vũ trụ
này. Nhưng không phải dễ
dàng, tại sao nó không dễ dàng, là bởi vi`
khi chúng ta không tu tập, không phát triển thi` tâm trí chúng ta
không có thăng hoa lên cảnh giới như vậy.
Nên chi ngày hôm nay khi chúng ta đề cập
đến tâm sắc giới, tức là những vị thiền
giả dùng những án xứ, tức là những đối
tượng gom tâm, những đề mục để tập
trú vào đó để phát triển tâm thiền.
- Thi` nói
đến nhị thiền là trạng thái không tầm không
tứ.
- Nhưng
trong A Ty` Đàm thi` có trạng thái nhị thiền gọi
là không tầm nhưng mà có tứ.
- rồi có trạng
thái không tầm không tứ chúng ta gọi là tam thiền.
Vi` vậy tuy có sự khác biệt giữa
ngũ thiền và tứ thiền tức là 4 tầng thiền
và 5 tầng thiền, tuy nhiên nó không phải là sự khác biệt
lớn, nó chỉ là một hi`nh thức phân tích ly chi hơn
một chút mà thôi.
Sư Trưởng cũng như TT Trí
Siêu đă tri`nh bày cho thấy rằng có
những người họ dùng những án xứ. Có tất cả là 36 án xứ
được đề cập đến trong A Ty`
Đàm, ở trong đó thi` chúng ta biết có 10 đề mục
hoàn tịnh tức là 10 kasina như là đất nước
lửa gió v.v... và có 10 đề mục bất tịnh tức
là đề mục về tử thi, chúng ta cũng có 10 pháp
tùy niệm như niệm Phật, niệm Pháp, niệm
Tăng, niệm thí, niệm giới, niệm Chư thiên, niệm
Niết bàn, chúng ta có đề mục liên quan đến
quán tưởng về vật thực và có đề mục
quán tưởng về sự phân biệt của tứ
đại. Tất
cả 36 đối tượng pháp quán đó nó có nhiều
chi tiết đ̣i hỏi công phu, thế nhưng chúng tôi
không nghĩ rằng cần thiết để đào sâu vào
quá nhiều. Chúng ta có một
tác phẩm đă được dịch ra tiếng Việt đó là quyển Thanh Tịnh
Đạo của Ngài Buddhaghosa bản Anh ngử của
Ngài Nanamoli và bản dịch của Ni Sư Trí Hải, quí vị
có thể tham cứ thêm, nếu quí vị muốn đi sâu
vào đề tài này.
Ở đây, Sư Trưởng và TT Trí
Siêu cho chúng ta có một khái niệm chung là một người
có thể phát triển tâm thiền sắc giới dựa
trên 36 đề mục này, để làm thế nào vượt
khỏi sự chi phối của 5 triền cái là tham dục,
sân hận, hôn thụy, hoài nghi, phóng dật, thành tựu 5
chi thiền và mở cho chúng ta thấy rằng ở trong cuộc
đời này có một thế giới khác hơn cái mà chúng
ta thấy, chúng ta thường
cảm nhận là sắc, thinh, khí, vị, xúc, cái vui buồn
thương ghét ở trong cơi trầm luân dục giới
này. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Minh Hạnh Thực Hiện