www.dieuphap.com   
Trang Pháp Đàm 
A Ty` Đàm 
Bài Giảng   3.1A
Bài 3.  1a
Thảo Luận  1
Thảo Luận  2
Thảo Luận  3
Bài Giảng   3.1B
Bài 3.  1b
Thảo Luận  4
Thảo Luận  5
Thảo Luận  6



A Tỳ Đàm
Ging Giải và Tho Luận

Tâm Sắc Giới

A Tỳ Đàm, Bài 9.1.3   Ngày 12 tháng 6 năm 2004


Minh Hạnh biên soạn & Cô Tu Nữ Diệu Tịnh hiệu đính

Tâm Sắc Giới

 

Những điểm chính

 

2) Năm Chi Thiền Năm triền cái

 

TT Giác Đẳng  Thưa qúi vị khi đề cập đến trạng thái của 5 chi thiền, chúng ta đào sâu vào thi` chúng ta thấy rằng, cả 5 chi thiền đó, ngoài pháp đối trị 5 chi thiền cái, co`n cho chúng ta đến một cảnh giới khác.  Chúng tôi lấy ví dụ khi chúng ta có một nội tâm quen phan viên theo trần cảnh, nghĩa là chúng ta quen buông cái này bắt cái kia thi` lâu ngày nó trở thành một thói tật, thói tật đó chúng ta khó có thể ở yên một chỗ được.  Giống như một đứa trẻ tung tăng, như quí vị quan sát một đứa trẻ thi` quí vị thấy rằng nó không thể nào ngồi một chỗ làm công việc lâu được, mà tâm luôn luôn phóng dật muốn chạy đi chỗ này, chạy đi chỗ kia, muốn buông cái này bắt cái kia.  Tâm của chúng ta cũng giống y hệt như vậy, có khi nào qúi vị bước vào trong trường thiền hay một nơi thanh vắng tách rời khỏi thế giới bên ngoài, kể cả điện thoại, kể cả báo chí, kể cả những sinh hoạt hàng ngày thi` quí vị thấy rằng tâm rất khó an trụ một chỗ.  Nhưng khi nào tâm được an trụ một chỗ thi` lúc đó chúng ta mới nhận ra rằng ở đó có rất nhiều thứ lợi lạc cho chúng ta.

 

Chúng ta trở lại với bài học ngày hôm nay khi đề cập đến tâm sắc giới, chúng ta hăy nói về 5 cái chi thiền như TT Trí Siêu vừa đề cập đến khi năy. Ở trong kinh thường có một ví dụ về 5 chi thiền như vầy là tầm hay là vitakka,  tương tự như con ong đánh hơi được mùi của một bông hoa nào đó đang bay hướng về bông hoa.  Tầm là trạng thái hướng tâm, trạng thái hướng tâm này nó là một trong bước ban đầu và đặc biệt rất cần thiết để chúng ta định hướng. Có thể nói rằng tầm giống như bánh lái tàu, ở trong cuộc sống này có những thứ như dục tầm, sân tầm.  Mi`nh thường hướng tâm về một điểm nào đó như lúc nào đó quí vị rất thích âm nhạc, lúc nào đó quí vị rất thích Phật Pháp, lúc nào đó quí vị rất thích tụ tập với bạn bè, nếu qúi vị để y' cho kỹ thi` tâm của chúng ta có một khuynh hướng, mà khuynh hướng đó hướng về điểm nào cái đó Đạo Phật gọi là vitakka hay là tầm.

 

Khả năng hướng tâm không phải dễ dàng thưa quí vị, chúng tôi lấy ví dụ làm một vị tu sĩ thi` chúng tôi có bổn phận, ngoài bổn phận ra chúng tôi có việc nên làm đó việc học pháp và hoàng pháp.  Nhưng nhiều khi có những chi phối khác khiến cho chúng tôi không thể hướng tâm vào đó được.  Hay khi nào quí vị đi học, quí vị thấy rằng việc của mi`nh nên làm đó là hướng tâm vào trong cái gi` mà mi`nh đang làm liên quan đến bài học, thi` tức là tâm của chúng ta nghĩ đâu đâu.  Nếu mi`nh muốn nghĩ điều gi`, muốn biết điều gi`, muốn suy tư điều gi`, mà có thể đặt trọn tâm tư ở tại đó thi` nó đo`i hỏi một sự thuần thục nhất định để chúng ta có thể quy hướng trọn vẹn tâm tư của mi`nh, không may là thường thường chúng ta lại không có khả năng này, bởi vi` chúng ta không quen. 

 

Tuy nhiên nếu chúng ta thường làm một việc gi`, giả sử như trước kia chưa bao giờ nói chuyện trong paltalk, mỗi lần ngồi vào máy thi` lúc bấy giờ có Rong Ti`nh thường ngồi phụ giúp chúng tôi về vấn đề kỹ thuật, thi` chúng tôi cảm thấy hơi bỡ ngỡ để cầm micro phone nói chuyện với một số người mà chỉ thấy nick ở trên máy thôi, nhưng khi làm quen rồi thi` bây giờ mỗi buổi sáng chúng tôi vào đây khi nhi`n những nick quí vị có mặt ở trước mặt chúng tôi thi` bởi vi` đó là việc làm hàng ngày do đó chúng tôi thể nhập ngay vào một trạng thái đó là chúng tôi đang nói chuyện với quí vị. Trạng thái mà có thể hướng tâm thể nhập liền ở trong lúc đó, thi` trạng thái hướng tâm đó đă thể nhập gọi là vitakka hay là tầm.  Đây là một trong những khả năng dịu dụng lắm.  Chúng tôi gọi là dịu dụng là bởi vi` mi`nh muốn đặt để cái  tâm mi`nh ở đối tượng nào, cảnh giới nào mà mi`nh có thể đưa tâm về hướng đó, đó là một trong những khả năng đầu tiên.

 

Cái thứ hai chúng ta gọi là Vicàra được dịch là tứ.  Tứ ở đây có nghĩa là quan sát, có nghĩa là nhận diện, có nghĩa là suy đạt ra đối tượng. Ở trong kinh ví dụ nếu con ong bay hướng về một đóa hoa, thi` đó là tầm, nhưng khi nó bay về đóa hoa và nó bay chung quanh để nó quan sát thi` đó gọi là tứ.  Ở trong Anh ngữ người ta có dịch chữ rất hay là apply though. Apply though ở đây chúng ta hiểu là một trạng thái dán tâm tư mi`nh ở trên đó, mi`nh có thể hướng tâm về một đối tượng, nhưng mi`nh có thể dán tâm mi`nh trên đó hay không đó là một chuyện khác. 

 

Chúng tôi lấy ví dụ quí vị cầm quyển sách lên, thái độ mi`nh cầm quyển sách và mở quyển sách ra là mi`nh đang muốn hướng tâm về đó và rơ ràng mi`nh đang hướng tâm vào.  Nhưng tâm mi`nh có đọc được những gio`ng chữ và y’ nghĩa ly’ hay không, đó là một chuyện khác, thi` trạng thái tâm suy đạc hay dán lên nội tâm, nó làm tâm khắc khít với cảnh, sự khắc khít đó, chất liệu làm chúng ta đó chúng ta gọi là tứ.  Và có tầm có tứ có hướng tâm và có dán chặc tâm lên đối tượng, thi` chúng ta mới đạt tới trạng thái thứ ba là trạng thái hân hoan.  Hân hoan này là trạng thái đặc biệt, hân hoan có nghĩa một khi chúng ta có thể sống với và sống trọn vẹn đối với đề mục, đối với đối tượng đó rồi thi` chúng ta ti`m thấy được một niềm hân hoan, một niềm an lạc, một niềm vui thật sự, niềm vui đó Đạo Phật gọi là hỷ.  Và dấu hiệu hỷ là một sự khởi hành rất lớn đối với tâm dục giới, bởi vi` ở trong kinh điển gọi là một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh. 

 

Thế nào là trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, hàng ngày quí vị sống trong nhà, qúi vị vui bởi vi` có con, có cháu có người thân thích xa gần, bạn bè nói chuyện.  Nhưng đến một lúc nào đó quí vị đă nếm được hương vị của đồng cư thiền định ở trong rừng, hay ở trong trường thiền rồi, thi` quí vị nhận ra được sự thanh thản, nhẹ nhàng không có xáo trộn, nó tạo cho chúng ta một sự an lạc, mà sự an lạc đó do ly dục sinh.  Sự an lạc đó là do không bận rộn, không dính mắc, không có nhiêu khê, không có tế toái, không có tham cầu.  Thi` trạng thái hỷ lạc, trạng thái hân hoan đó được hiểu như một người khát nước mà thấy được nước. Khát nước mà thấy được nước thi` dĩ nhiên là sung sướng.  Thi` trạng thái sung sướng đó chúng ta gọi là hân hoan gọi là hỷ và sau trạng thái sung sướng hân hoan đó, nếu chúng ta có thể múc nước lên uống thi` trạng thái uống nước đó được hiểu như là lạc, lạc có nghĩa đây là hưởng cảnh, lạc ở đây có nghĩa là chúng ta thể nhập và chúng ta sống với đề mục, cái đối tượng đó.  Và chính về điểm này chúng ta mới tạo ra tâm gọi là tâm sắc giới, tại vi` trạng thái thể nhập đó nó khởi đầu bằng những quan tướng.  Quan tướng về sau này chúng tôi sẽ có dịp để nói lên về trạng thái thể nhập này.  Bởi vi` ở đây là chi thiền, nên chúng tôi không nói tại đây. 

 

Không phải tất cả đề mục sắc giới đều dùng những hi`nh ảnh như đất nước lửa gió như  màu sắc, những đề mục thiền sắc giới co`n có những khái niệm triù tượng, thí dụ như Tứ Vô Lượng Tâm, ví dụ như 6 pháp tùy niệm: niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm giới, niệm thí, niệm Thiên.  Hoặc giả có một số đối tượng như niệm hơi thở, chúng ta cũng gọi là thiền sắc giới.  Tuy rằng có một vài khái niệm tŕu tượng , nhưng những khái niệm này  vẫn tạo ra những quan tướng, và vị vậy chúng ta gọi là tâm sắc giới, chứ chúng ta không gọi là vô sắc giới như không vô biên, thức vô biên, vô sở hữu, phi tưởng phi phi tưởng.  Thi` trạng thái hỷ được định nghĩa như vậy, lạc định nghĩa như vậy.  Và khi có hỷ có lạc rồi thi` tâm mới có khả năng nó an trụ tại một điểm gọi là nhất hành hay là định.

 

Ekaggatà nhất hành hay là định nó là một trạng thái tâm có khả năng sống với một đối tượng, một cảnh ở trong một thời gian dài, ví dụ như chúng ta sang định cư tại Hoa Ky`, nhưng những nơi mi`nh ở, không nơi nào mi`nh hoàn toàn vui thoải măn hết, do vậy mi`nh cứ dời từ tiểu bang này sang tiểu bang khác, cho đến một khi mi`nh ti`m thấy một nơi mà chỗ ở thích hợp, cảnh trí thích hợp, công ăn việc làm thích hợp mà chúng ta có thể ở trụ lại lâu dài.

 

Trong kinh lại có ví dụ khác là một người đi lang thang trên sa mạc khát nước và bấy giờ nhi`n thấy một ốc đảo, và khi nhi`n thấy ốc đảo, người đó hướng đến đó, thi` gọi là tầm, và khi đến ốc đảo quan sát thi` thấy rằng ở đây có nước, vị đó hân hoan, khi vị đó quan sát gọi là tứ, khi vị đó khám phá ra rằng ở đó có nước thi` vị đó hân hoan, cái đó chúng ta gọi là hỷ, và vị đó uống nước thi` gọi là lạc, vị đó có thể ở lại đó chúng ta gọi là định.  Thi` 5 trạng thái tầm, tứ, hỷ, lạc, định cho phép chúng ta làm một cái khởi hành, khởi hành tức là đi từ cảnh giới của dục mà sang cảnh giới của sắc. 

 

Chúng tôi xin trở lại với chi tiết mà quí vị đă đọc ở trên là trạng thái tầm nó khiến cho chúng ta diệt được trạng thái dă dượi uể oải buồn ngủ của tâm, một khi tâm dă dượi uể oải tại vi` nó không có cái gi` để hướng đến, nhưng nếu tâm đặc biệt có gi` để hướng đến và có thể hướng tâm như y’ mi`nh được, thi` thưa quí vị thi` đó là trạng thái rất tỉnh táo, như một người có một sức để dẫn dụ tâm của mi`nh, để hướng tâm vào đó thi` trạng thái đó nó diệt được hôn trầm thụy miên. 

 

Và một trạng thái chúng ta gọi là tứ, tứ là quan sát hay dán áp trên đối tượng, thi` trạng thái tứ nó khiến cho chúng ta diệt trừ được hoài nghi.  Hoài nghi là một trạng thái lưỡng lự phân vân không tiến tới, không bắt tay, không săn tay aó lên để làm việc đó là trạng thái trù trừ.  Thi` chính trạng thái tứ đó nó đối trị với trạng thái trù trừ của tâm hoài nghi, và trạng thái hỷ thi` nó diệt trừ được trạng thái sân, dĩ nhiên là sự hân hoan diệt trừ được trạng thái sân rồi sau trạng thái hỷ mà chúng ta gọi là lạc.  Lạc là trạng thái hưởng cảnh, thi` nó diệt trừ trạng thái phóng dật, một con người thường xuyên phóng dật là con người không an lạc, một con người lúc nào cũng buông cái này nắm cái kia chứng tỏ là người đó không thật sự an lạc.  Người ta hiểu rằng có những người họ hay có những đổ vỡ trong quan hệ ti`nh cảm vi` ly’ do là họ không ti`m thấy một niềm an lạc thật sự, và niềm an lạc đó họ không khéo xây dựng.  Chúng ta thường đuổi bắt hay phan viên theo cảnh, từ thế giới này sang thế giới khác liên tục, bởi vi` thế giới hiện tại mi`nh đang sống nó không đủ sức để cho mi`nh an lạc, do vậy khi cái chi lạc được sung măn thi` nó diệt trừ được tâm gọi là tán loạn lao chao.

 

  định mà chúng ta đề cập đến tại đây thi` trạng thái định đó, nó giúp cho chúng ta diệt trừ một thứ rất quan trọng đó là sự vọng móng của tâm tư, tức là hướng tâm về một cảnh giới xa xôi, hướng tâm về một thế giới nào đó hơn là hiện tại này, thi` trạng thái vọng móng gọi là tham, trạng thái định là trạng thái có thể nhất tâm hướng vào một điểm thi` hai trạng thái đó, một là trạng thái của chi thiền một là thiền cái, thi` với 5 trạng thái này, 5 chi thiền này nó đối trị được 5 triền cái, nó giúp cho chúng ta vượt khỏi tâm tư trạng thái của một người sắc giới, một chúng sanh trong cơi dục giới.  Một chúng sanh có quá nhiều cái cảm nhiễm, quá nhiều chi phối, cái tâm rất  mong manh, rất yếu đuối. 

 

Nhưng những chi thiền co`n cho chúng ta biết một trạng thái khác biệt, một sự việc rất khác biệt thưa quí vị, càng thuần thục thi` các chi thiền càng được giảm bớt.  Lấy ví dụ như khi chúng ta học bài thi` ban đầu chúng ta cố gắng để học các mẫu tự, hồi co`n nhỏ học a, b,c, rồi từ mẫu tự a, b, c chúng ta mới ráp thành từng chữ, rồi chữ chúng ta mới ráp lại thành từng câu, rồi trong câu nó có từng đoạn văn và chúng ta đọc chúng ta mới nhận ra y’ nghĩa nó là như vậy.  Nó trải qua một tiến tri`nh từ chuyện mà nhận ra mặt chữ rồi ráp vần, rồi đọc, rồi đọc thành từng chữ rồi từng câu.  Nhưng trạng thái đó nó không co`n xảy ra nữa, khi chúng ta đă quen đọc thi` chúng ta nhi`n lên màn ảnh là chúng ta đọc, chứ chúng ta không cần phải ráp vần, phải đánh vần nữa, tại vi` sao, tại vi` chúng ta đă quá thuần thục.

 

 Thi` tại đây nó có sự khác biệt giữa kinh tạng và luật tạng và A Ty` Đàm.  Kinh tạng thi` đề cập đến 4 tầng thiền, co`n A Ty` Đàm đề cập đến 5 tầng thiền.  Bây giờ thi` chúng ta nói đến 4 hoặc là 5 tầng thiền đó, trong kinh tạng thi` một người thành tưụ được 5 chi thiền tầm, tứ, hỷ lạc, định, thi` 5 chi thiền đó gọi là sơ thiền.

 

Và khi đă thuần thục, họ phát triển có thể hướng tâm xa hơn, thi` tâm thuần thục đó đă bỏ được tầm và tứ chỉ co`n hỷ, lạc, định, thi` cái đó gọi là nhị thiền.

 

Và khi nào bỏ được hỷ thi` co`n lạc và định chúng ta gọi là tam thiền. 

 

Và đi xa hơn nữa khi lạc không co`n, nó nhường chỗ cho xả, tức là định và xả  chúng ta gọi là tứ thiền, đó là 4 thiền ở trong kinh tạng. 

 

Riêng về A Ty` Đàm thật ra không có khác biệt bao nhiêu, chỉ có phân biệt rằng,thay vi` ở trong kinh tạng thi` nói rằng nhị thiền có nghĩa là từ bỏ tầm và tứ, thi` riêng trong A Ty` Đàm thi` có phân biệt rằng có những người bỏ được tầm, nhưng mà co`n tứ, và có những người  khi  không co`n trạng thái tầm nữa, chỉ có tứ, hỷ, lạc, định, thi` gọi là nhị thiền

 

 

rồi khi không co`n hỷ nữa thi` gọi là tam thiền,

 

khi không co`n có lạc nữa thi` gọi là tứ thiền,

 

Và khi không co`n lạc nữa mà co`n có định và xả thi` chúng ta gọi là ngũ thiền,

 

Trong A Ty` Đàm có 5 tầng thiền, nhưng 5 tầng thiền này thật sự không có quá khác biệt, chỉ phân biệt trạng thái tầm và tứ, có một dịp nào thi` chúng ta sẽ trở lại đề cập về điểm này qua một số cái suy tư của Ngài Rahula Walpola là vị viết quyển “Con đường thoát khổ” hay là “Tư tưởng Phật học”.  Ngài có một số nhận định đặc biệt thú vị về 5 tầng thiền của A Ty` Đàm và 4 tầng ở trong Tam Tạng.



Minh Hạnh Thực Hiện