A Tỳ Đàm
Giảng Giải và Thảo Luận
Tâm Sắc Giới
A Tỳ Đàm, Bài 9.1.2
Ngày 12 tháng 6 năm 2004
Minh Hạnh biên soạn & Cô Tu Nữ Diệu Tịnh hiệu đính
Tâm Sắc Giới
Những điểm
chính
2) Năm
Chi Thiền và Năm triền cái
TT Trí Siêu:
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật,
kính bạch Chư Tôn Đức, kính thưa quí vị. Tâm sắc giới là một trong hai phần
của những loại tâm thuộc về thiền
định. Khi một
vị tu thiền với những đề mục
thuộc về thiền chỉ samatha hay là bhàvanà chúng ta
gọi đề mục đó là kammat.t.hàna tức là nghiệp xứ. Và khi vị đó tu tập thuần
thục viên măn về những đề mục nghiệp
xứ của thiền chỉ, trong đó chỉ có 10
đề mục gọi là 10 đề mục tùy niệm
như niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm
thí, niệm Giới, niệm thiên và niệm Niết bàn, niệm
sự tu, quán tứ đại, quán vật thực.
Thi` 10
đề mục đó không chứng thiền, co`n 30
đề mục kia chứng đạt được tâm
thiền định sắc và vô sắc. Trong 30 đề mục kia
ở đây chúng ta cũng biết có 4 đề mục vô
sắc, hôm nay chúng ta học về tâm thiền vô
sắc.
Co`n bây giờ chúng ta
nói về tâm sắc giới, tâm sắc giới
được định nghĩa là một loại tâm
thiền chứng, chúng ta lưu y' ở hai điểm, bi`nh thường khi chúng ta nói đến
thập hạnh phúc hay là 10 phước thiện sự thi`
trong đó bố thí, tri` giới, tu thiền, hay tu tiến
v.v... Thi` chữ
tu tiến, tu thiền ở đây vipassanà là ta chỉ tu
tập bằng tâm thiện dục giới mà thôi, chứ
lúc đó là chưa chứng được thiền.
Khi nào chúng ta dùng tâm
thiện dục giới hợp trí tu hành với 30
đề mục sắc và vô sắc này và 26 đề
mục hửu sắc thi` lúc đó sẽ chứng
đạt được tâm thiền định bằng lộ
tâm gọi là manodvàràvajjana tức là lộ tâm y' môn mà có tâm
đổng lực là tâm thiền sắc giới. Thi`
như vậy tâm thiền sắc giới chỉ là một
loại tâm tu chứng hay nói một cách khác, tức là
trở thành quả của sự tu tập thiền
chỉ, chúng ta phải phân biệt như vậy. Chớ không phải
những người mới bước đầu đi
học thiền, ngồi thiền rồi tập giữ
chánh niệm của đề mục mà có thể dùng được
tâm sắc giới đâu.
Tâm sắc giới ở đây
trước hết chúng ta nói trên phương diện chi
thiền, khi chúng ta muốn phân loại tâm sắc giới
thi` chúng ta phải hiểu qua 5 chi thiền, vi`
đối với các phần thiền sắc giới
được phân biệt bởi 5 chi thiền. Chứ co`n cảnh đề
mục ở đây thi` có thể là một thứ
đề mục, như đề mục màu xanh, màu
đỏ, hoặc màu vàng, hay màu trắng, đó là
đề mục kasina.
Với đề mục đó vị hành giả có
thể tu chứng từ sơ thiền, nhị thiền,
tam thiền, tứ thiền ngũ
thiền v.v.... khác hẳn với tâm thiền vô sắc.
Tâm thiền vô sắc thi` chi thiền
giống nhau mà đề mục khác nhau, do đó sự phân
loại của thiền vô sắc, dựa trên phương
diện đề mục mà phân loại như không vô biên, thiền
xứ vô biên xứ, thiền vô sở hữu xứ, thiền
phi tưởng phi phi tưởng xứ. Chứ co`n chi thiền chỉ là xả
mà thôi, do vậy ở đây khi chúng ta học về tâm
thiền vô sắc thi` trước hết chúng ta phải
học thật kỹ về 5 thứ chi thiền tức
Tầm (Vitakka), Tứ (Vicāra),
Hỷ (Pīti),
Lạc (Sukha), Định (Ekaggatā) hay là nhất hành.
Thi` ở đây khi chúng ta đề
cập đến 5 chi thiền này, chúng ta mới phân
loại được là đối với sơ thiền
tức tầng thiền đầu tiên, tầng thiền
thứ nhất thi` có đủ 5 chi thiền :
Tầm, Tứ, Hỷ, Lạc,,Định.
Tâm thiền thứ hai gọi là nhị
thiền thi` chỉ
bớt Tầm, chỉ có Tứ, Hỷ, Lạc, Định.
Tam thiền chỉ có Hỷ, Lạc, Định.
Tứ thiền chỉ có Lạc, Định
và
Ngũ thiền chỉ có Định và
Xả
Khi chúng ta phân biệt
được như vậy thi` chúng ta đă có 5 bậc
thiền. Xin nói thêm với quí vị
rằng ở trong Tạng Kinh khi đề cập
đến thiền sắc giới thi` chỉ có 4 bậc
mà thôi, và trong 4 bậc thiền đó là sơ thiền,
nhị thiền, tam thiền, tứ thiền. Thi` tại sao có
sự chênh lệch với nhau, có 4 bậc, 5 bậc
thiền như vậy. Là
bởi vi` đối với sơ thiền, ở Tạng
Kinh và sơ thiền ở Tạng Vi Diệu Pháp của A
Ty` Đàm thi` đều đồng chi thiền là 5 Tầm
Tứ, Hỷ, Lạc, Định, Nhưng mà nhị
thiền, tam thiền của A Ty` Đàm phân tích thi` chỉ
chênh lệch với nhau ở chỗ là vô tầm, hữu
tứ, vô tầm vô tứ, co`n đối với tạng
kinh thi` nhị thiền thi` gom chung lại vô tầm vô
tứ mà thôi. Và do vậy nhị thiền của kinh tạng
được nói đến bao gồm cả nhị
thiền và tam thiền ở trong A Ty` Đàm.
Và mặc dù phân ra 5 loại thiền
như thế , nhưng tính về cơi
phạm thiên sắc giới thi` chỉ có 4 bậc, tức
là ba cơi sơ thiền, ba cơi nhị thiền, 3 cơi tam
thiền và 7 cơi tứ thiền, phân theo cơi trong tạng kinh
là như vậy và cơi nhị thiền thi` có cả những
vị tu chứng thiền sắc giới, nhị
thiền, tam thiền có một tánh linh nào đó.
Và ở đây tầm
tức là trạng thái hướng tâm đến cảnh.
- Tứ là
trạng thái chăm nom đề mục tức là khắn
khích với đề mục,
- Hỷ
là trạng thái no vui,
- Lạc
tức là trạng thái thoải mái dễ chịu, và
-
Định hay là nhất hành tức là trạng thái
tạm trú hay là tập trung tư tưởng trên
đề mục một cách vững chắc.
Với 5 chi thiền này đă
được tu tập một cách thuần thục thi`
sẽ giúp cho vị hành giả đọan trừ
được 5 triền cái, triền cái ở đây
gọi là Ńvaran.a hay gọi là pháp cái tức là những
phiền năo ngăn che, rồi
tiến đến thần thông và đạo
quả, ngăn che thiền định thần thông. Và ở đây thưa quí vị
chính nhờ 5 chi thiền này mà đoạn trừ
được 5 thứ triền cái ở trên 5 thứ
triền cái đó tức là tham triền cái kàmacchandańvaran.a,
sân triền cái Byàpàdanívaran.a, hôn thụy cái gồm có hôn
trầm thụy mien Thi`namiddhani`varan.a, trạo hối cái là Uddhaccakukkuccani`varan.a,
gồm trạng thái phóng dật và trạng thái hối
tiếc làm cho tán loạn lao chao thi` gọi là trạo
hối cái. Hoài nghi cái là
một trạng thái tâm trù trừ do dự không quyết
đoán được. Và ở đây 5 chi
thiền này chúng ta được nghe TT Giác Đẳng
giảng khi năy, thi` ở đây chúng tôi sẽ không giảng
lại điều đó, mà chúng tôi chỉ nói qua phần
đối trị.
Bây giờ nếu chúng ta nói đến
phần đối trị của 5 chi thiền đối
trị 5 triền cái, ở đây thưa quí vị, không có
sự thứ lớp khi nói đến Tầm, Tứ, Tỷ,
Lạc, định. Rồi đối trị dục
độc cái, sân độc cái, hôn thụy cái, trạo
hối cái,chúng ta không nên hiểu theo
thứ lớp trật tự nó đối khán với nhau,
mà ở đây chúng ta phải hiểu y' nghĩa
đứng ở khía cạnh này chúng ta đối chiếu
ở khía cạnh khác. Thí
dụ như bây giờ chúng ta đứng ở trên
phương diện chi thiền thi` chúng ta nói chi tầm là
trạng thái hướng tâm đến cảnh, và khi
trạng thái hướng tâm đến cảnh mănh liệt
vững chắc như vậy thi` sẽ chế ngự
được trạng thái hôn thụy cái, tức là
trạng thái buồn ngủ dă dượt, trạng thái
uể oải, bởi vi` khi tâm hướng đến
đề mục, thi` lúc bấy giờ trạng thái hôn
trầm thụy miên sẽ không có mặt, chỉ khi nào
vắng mặt Tầm, nghĩa là không hướng tâm
đến cảnh một cách vững chắc thi` lúc đó
hôn thụy mới có thể sanh và vị hành giả lúc
bấy giờ đă trở nên buồn ngủ và có thể
ngủ gục.
Tứ là trạng thái khắn khít
đối với cảnh đề mục hay
quan sát theo dơi cảnh
đề mục một cách chặc chẽ khắn khích. Chi thiền này nó sẽ chế
ngự được hoài nghi cái , đó
là sự tương phản của chi thiền đối
trị với trạo hối cái và hoài nghi cái.
Chi thiền Hỷ là trạng thái no vui
nó đối trị với sân độc cái, bởi vi` khi tâm được no vui có trạng thái
hưng phấn, lúc bấy giờ sân tâm không có mặt.
Và ở đây thưa quí vị khi Lạc
sanh phát là một thứ chi thiền đối trị với
trạng thái trạo hối cái là bị phóng dật và hối
hận, khi tâm bị tán loạn, bị hối hận, hối
tiếc cái gi` đă qua, có nghĩa lúc đó tâm của vị
hành giả hoàn toàn bất ổn, trong khi chi thiền Lạc
sẽ giúp cho tâm của vị hành giả được an
lạc, được thoải mái và trong sự an lạc
thoải mái đó có thể ngồi yên lại, có thể yên
lặng được và do đó chi Lạc đối trị
với trạo hối cái. Bây
giờ chúng ta lấy một thí dụ cũng giống như
trường hợp khi chúng ta có thể ngồi hay nằm
trong lúc chúng ta được an vui, trong
lúc chúng ta được thoải mái thi` chúng ta có thể nằm
hoặc ngồi lâu. Nhưng
khi chúng ta nằm, chúng ta ngồi một cách ngượng ép,
một cách miễn cưỡng và có một cái gi` đó âu
lo, có một cái gi` đó phóng dật có nghĩa là lúc đó
chúng ta không được thoải mái cho nên chúng ta mới
móng ra , tâm bay nhảy ra bên ngoài và cảm
thấy vô cùng bực bội, thi` như vậy trạng thái
hỷ lạc có thể giúp cho vị hành giả bước
qua chướng ngại gọi là trạo hối cái.
Và cuối cùng là chi Định
Ekaggatà là sư nhiếp tâm dán chặc vào cảnh, thi` trạng
thái tâm dán chặc vào cảnh vậy nó sẽ đối trị
tham dục cái. Đây là một
điều mà chúng ta khi nào có thực hành qua 5 chi thiền này
đă sanh khởi được, thi` lúc đó 5 chi thiền
cái đó nó sẽ không có mặt, hoặc khi vị hành giả
đă chế ngự được 5 triền cái thi` kết
quả vị hành giả sẽ đạt được
trạng thái thiền chứng gọi là Upasampajja. Trạng
thái thiền chứng này chúng ta gọi là đắc thiền
nó được khởi nên một tiến tri`nh lộ tâm, hay lộ tâm.
Gọi là lộ y’ môn đắc
thiền và tất nhiên chúng ta phải biết rằng ở
đây sự đắc thiền của tâm sắc giới
có hai cách, một là sự đắc thiền của hang phàm
phu và thánh hữu học thi` đổng lực thiền lúc
bấy giờ là tâm thiện sắc giới. Co`n đối với vị A La Hán
và vô học Ngài cũng áp dụng chánh niệm trên những đề
mục hữu sắc, những đề mục sắc giới
để mà các Ngài luyện được định và
thần thông, thi` lúc bấy giờ khi đắc thiền định,
thi` thiền định đó sẽ là tâm tố sắc giới.
Ở đây chúng ta cũng
nên nói thêm một điều này nữa, là đối với
tâm thiền thiện và tâm thiền tố sắc giới nó
có sự khác nhau như thế nào.
- Trước hết khác nhau ở
chỗ hạn người chứng đắc được
tâm thiền thiện là hữu học, và phàm phu tam nhân, co`n đối
với thiền tố sắc giới người chứng
được thiền đó là A La Hán vô học.
- Điểm thứ hai nữa tức
là thiền thiện vẫn co`n để lại chủng tử
tạo ra tâm quả sắc giới, làm thức tái sanh dẫn
đi thọ sanh ở cơi phạm thiên sắc giới . Co`n tâm
thiền tố gọi là duy tác chỉ có hành động chớ
không cho quả của hành động, và do vậy cho nên thiền
tố của vị A La Hán dầu muốn đạt thiền
tố này đă tuyệt trừ chủng tử tái sanh khác
nhau.
-
Điểm thứ ba khác nhau là kẻ phàm phu khi tu chứng
thiền sắc giới hay vị đó có thể khởi nên
một y’ niệm dính mắc ham muốn trong lạc cơi thiền,
hoặc mong mỏi được tái sanh cảnh giới khác. Nhưng đối với thiền
chứng của vị A La Hán, lúc bấy giờ vị A La
Hán chỉ có mục đích để làm công cụ cho việc
nhập thiền ngay lúc các Ngài co`n hữu dư y Niết bàn,. Và như vậy khác
nhau ở ba điểm trên, chúng ta sẽ có sự phân biệt
được, chứ nếu nói trên phương diện
tâm sắc giới phân loại, chúng ta có ba tức là tâm thiền
thiện sắc giới, tâm quả sắc giới và tâm tố
sắc giới, phân có ba loại như vậy.
Ở đây khi chúng ta học
trong suốt quá tri`nh về tâm sanh thuộc về chánh pháp
chân đế, thi` chúng ta lưu y’ vi` rất dễ hiểu:
- Đối
với 4 loại tâm phân theo địa vức,
hễ tâm dục giới thi` có thiện, có bất thiện,
có quả tâm tố, bởi vi` tâm bất thiện chỉ được
gọi là tâm dục giới mà thôi.
- Co`n tâm sắc
giới chỉ có ba, tức là thiện, quả và tố.
- Tâm vô sắc
giới cũng có quả thiện và tố .
- Co`n riêng
về tâm siêu thế thi` chỉ có tâm thiện, tâm quả tức
là quả của thiện, tức là tâm quả phát sanh từ
tâm đạo.
Bây giờ chúng ta thấy dục
giới chỉ có 4 loại để nói đến tâm trở
thành nhân cho quả thi` có thiện có bất thiện. Tâm mà thuộc thành quả
của nhân đó là tâm quả, rồi tâm sanh lên cơ tánh của
vị A La Hán chỉ có hành động chứ không có quả
hành động gọi là tâm tố. Co`n riêng về tâm siêu thế thi`
chỉ có hai là bởi vi` đối với
tâm siêu thế không có được cái gọi là tâm tố
siêu thế.
Vị A La Hán trong đời sống bi`nh nhật thấy
nghe, ngửi, nếm, đụng, suy tư, hay là tu chứng
thiền hiệp thế, các Ngài chỉ sử dụng tâm tố. Co`n trong khi đắc
thiền định đạo quả thi` chỉ là tâm siêu
thế với tâm đạo và tâm quả sanh khởi để
trừ phiền năo, hay thanh tịnh phiền năo thôi, thi` ở
đây chúng ta cũng cần phải chú y’ một vài điểm
như thế.
Và kính thưa quí vị khi chúng ta học
về tâm vô sắc giới, có một điều chúng ta cũng
phải lưu y’ rằng đời sống bi`nh nhật của
kẻ phàm phu chúng ta, chúng ta chưa có đạt được
thiền sắc giới, do đó đời sống bi`nh nhật
chúng ta không sử dụng tâm thiền sắc giới, ngoại
trừ một vài trường hợp ít thôi. Tức là những vị đạo
sĩ hoặc những vị thiền sư, những vị
Ty` kheo trong Phật Giáo có điều kiện tu chứng thiền
thi` các Ngài mới chứng được, như vậy tâm
sắc giới chúng ta rất hạn chế. Nhưng chúng ta càng hạn
chế hơn nữa là tâm quả và tâm tố không bao giờ
chúng ta đụng đến được, không bao giờ
phàm phu chúng ta sanh khởi được ngay tại bây giờ.
Ở đây khi chúng ta tạo
nghiệp bằng tâm thiện dục giới, thi` có thể
phát sanh lên ba loại quả, gọi là qủa thiện nghiệp,
loại quả sanh báo nghiệp và quả hậu báo nghiệp. Một người làm phước
cúng dường đến một vi A La
Hán, sau khi vừa nhập thiền duyệt xả thiền.
Ngài đi khuất thực, ai gặp Ngài hoan hỷ cúng dường
thi` đổng lực tâm thiện mạnh sẽ phát sanh quả
trong khoản 7 ngày , rồi sau khi mạng
chung có thể là tâm thiện đó nó sẽ tạo ra quả
tái sanh an vui cho chúng sanh này, rồi từ kiếp thứ ba
trở đi có thể thỉnh thoảng nó trổ quả.
Cho nên thiện dục giới có thể trổ
quả trong ba tầng thiền; thiện nghiệp sanh báo
nghiệp và hậu báo nghiệp.
Nhưng riêng về tâm sắc giới cũng như đối
với tâm vô sắc giới, thi` ở đây tâm thiện sắc
giới và thiện vô sắc giới, chúng tôi nói chung cả
hai cho một quả duy nhất là quả sanh báo nghiệp mà
thôi, có nghĩa sau khi mệnh chung, ở đây bắt đầu
tâm thiền thiện mà mi`nh chứng đạt ngay trong kiếp
sống này nó mới có thể tạo ra quả tái sanh tức
là quả thức tái sanh Pat.isandhi mới sanh lên cơi trời
phạm thiên. Co`n không thể nào đang tu chứng thiền
ở đây mà có thể khởi lên tâm quả sắc giới
ngay tại kiếp này, không thể có, và một điều
nữa là nó chỉ cho trổ quả một lần thôi, tức
là ở kiếp thứ hai sau khi chúng ta tái sanh, rồi từ
cơi phạm thiên đó nếu như vị phạm thiên này
tiếp tục tu chứng lại thiền này hay chứng
thêm thiền khác thi` nó sẽ cho quả kế tiếp.
Minh Hạnh Thực Hiện