A Tỳ Đàm
Giảng Giải và Thảo Luận
Tâm Quả Dục Giới Tịnh Hảo
A Tỳ Đàm, Bài 8.3.2 Bài Giảng & Thảo-Luận
Ngày 11 tháng 6 năm 2004
Minh Hạnh biên soạn & Cô Tu Nữ Diệu Tịnh hiệu đính
Bài 8
Tâm
Quả Dục Giới Tịnh Hảo
III. Tâm Đại
Hạnh (Duy Tác) Dục Giới Tịnh Hảo
(Mahākiriyakāmavacaracitta):
Phần II
TT
Giác Đẳng: Kính bạch Chư Tôn
Đức và thưa quí vị, như qúi vị vừa nghe
Sư Trưởng đề cập đến sự có
mặt của những tâm dục giới tịnh hảo,
đặc biệt là tâm đại thiện và tâm duy tác
dục giới tịnh hảo này ở trong tất cả
các cơi, dù là cơi dục, cơi sắc và vô sắc. Một lần
nữa chúng ta thấy những tâm thiền như thiền
sắc giới, vô sắc hay tâm đạo chỉ là
một số phần hành nhất định. Lấy một ví dụ một
vị Thánh tứ quả hay một vị Thánh A La Hán ở
trong cơi ngũ tịnh cư là một cơi trời, một
cơi phạm thiên sắc giới, khi các Ngài hành sử thi` các
Ngài vẫn sử dụng rất nhiều tâm duy tác dục
giới tịnh hảo. Tuy
mang chữ dục giới, các Ngài ở cơi khác, ở
một cơi không phải cơi dục giới và các Ngài hoàn toàn
không có hướng cầu 5 dục, nhưng chính những
tâm này sử dụng trong đời sống hàng ngày để
nghe pháp để suy nghĩ, để có những hành
sử. C̣n trong lúc đó thi` những tâm gọi là duy tác
sắc giới, Và tâm duy tác vô sắc giới chỉ là
những tâm thiền thể nhập vào một đối
tượng kammatthàna
tức là thiền xứ, một thiền án
chứ không có một công năng để hành sử trong
đời sống hàng ngày. Do vậy tâm dục giới
đặc biệt là khi chúng ta nói đến tâm dục
giới tịnh hảo thi` chúng ta sẽ thấy một vai
tro` hết sức đa dạng phong phú.
Ở
đây khi đề cập đến đời sống
hàng ngày của một vị Thánh nhân, nó lại gợi
nhắc cho chúng ta một số câu truyện ở trong kinh
điển của Đạo Phật. Những vị Ty` khưu sống
gần các vị Thánh A La Hán rất khó
nhận biết rằng các Ngài là bậc giải thoát hoàn
toàn hay không giải thoát hoàn toàn.
Ngày hôm nay chúng tôi
thường nghe một số Phật tử, đặc
biệt quí Phật tử đi học ở các
trường thiền, thường rất sùng bái các Ngài
thiền sư. Khi những
người Phật tử này sùng bái những Ngài Thiền
sư đôi khi nghĩ rằng các Ngài có thể là bậc
đă hoàn toàn giải thoát, đă ngộ đạo. Thật ra chữ đắc
đạo, chứng quả chúng ta được thấy
ở trong kinh điển được ghi chép, thi`
đạo quả chúng ta đọc trong những quyển
sách của Trung Hoa, Việt Nam không ai xác chứng
được hết.
Thời Đức Phật co`n tại thế có
những vị Ty` Khưu ở kế bên Đức
Phật, sống cùng trong ngôi chùa Trúc Lâm, chùa Ky` Viên, nhưng
những Ty` Khưu khác không nhận ra rằng vị này
đă đắc đạo chứng quả hay chưa,
bởi vi` các Ngài không có khác biệt gi` với người
bi`nh thường, các Ngài vẫn làm tro`n trách vụ của
người Ty` Khưu.
Khi xưa
chúng tôi đọc tiểu thuyết Trung Hoa, chúng tôi nghĩ
rằng một vị thành Tiên thành Phật thi` bỗng nhiên
vị đó thoát tục siêu phàm bay bổng lên hư không có
thể biến hiện muôn ngàn thứ thần thông, đó
là trí tưởng tượng thời thơ ấu. Nhưng càng đọc vào trong kinh điển thi`
chúng ta thấy rằng không phải bậc thánh nào cũng
có lục thông, và một vị đoạn tận phiền
năo có đôi lúc không khác với một vị Ty` khưu mà
giới hạnh nghiêm túc bao nhiêu hết. Và một vị Ty` khưu
giới hạnh nghiêm túc, đi đứng khoan thai có thể làm cho chúng ta dễ dàng lầm
tưởng rằng vị đó là một bậc thánh nhân.
thật ra hai tâm tư của hai vị
này rất khác biệt ở trên phương diện là
đoạn tận phiền năo.
Chính vi` thế có
những vị Đức Phật phải xác chứng
rằng "con của Như Lai là một bậc đă hoàn
toàn giải thoát hay vị Ty` khưu ấy không co`n phiền
năo nữa " câu chuyện đó cho chúng ta thấy
rằng ở trong bối cảnh một ngôi chùa với
một cộng đồng tăng chúng sống rất
nghiêm tri` về giới luật và đời sống các
Ngài theo một thời biểu nhất định.
Cuộc sống mỗi buổi sáng đi khất thực trở
về rồi thiền định ở trong am cốc
của mi`nh, không dễ dàng cho chúng ta phân biệt vị nào
là một vị nghiêm tri` giới hạnh mà co`n là một
phàm nhân, và vị nào là Thánh nhân đă đoạn tận
phiền năo.
Đúng ra trong quan
niệm về thọ hỷ và thọ xả của tâm
thiện, thi` chúng ta dễ hi`nh dung được ở
trong trường hợp nào người ta giữ tâm
thọ hỷ, và trong trường hợp nào giữ tâm
thọ xả. Nếu Phật tử đến chùa vào ngày
lễ, nhi`n thấy bàn Phật
được trần thiết một cách uy nghiêm
tươi đẹp thi` quí vị hoan hỷ, tâm đó
chúng ta gọi là tâm thiện thọ hỷ. Nhưng khi nghĩ
đến một vị Thánh nhân, một bậc Thánh mà
vị đó đă hoàn toàn đoạn tận phiền năo.
Cái cười của các Ngài dù là cái cười
nhết mép, hoặc giả cái cười mĩm rất
nhẹ nhàng đi nữa thi` nó cũng là một
điều khó. Có thể nói rằng
đa số các bậc Thánh sống bằng tâm thọ
xả nhiều hơn tâm thọ hỷ, trừ ngoài ra
một số duyên sự hết sức đặc biệt
thi` các Ngài sử dụng tâm thọ hỷ.
Hợp trí và ly trí, trí
tuệ của các bậc Thánh không nhất thiết là tâm
tư nào trong bất cứ thời khắc nào thi` các Ngài
cũng vận dụng đến trí tuệ của các Ngài,
nhất là trí tuê giải thoát, trí tuệ hồi quan phản
chiếu, trí tuệ phản khán các chi thiền với các đạo
quả v.v.. Trí tuệ mà phán xét về suy niệm về
pháp, hay dùng trong một trường hợp nào đó
hợp ti`nh hợp ly', chứ không phải lúc nào cũng
sử dụng trí tuệ như vậy.
Thưa quí vị
học Phật pháp nói chung thi` chúng ta phải dùng một
số trí tưởng tượng, như người
xưa nói rằng đôi lúc muốn diễn tả cái ná,
người ta không có cách nào khác họ dùng cái cung tên
để họ diễn tả cái ná, mặc dù giữa cái
cung và cái ná rất khác biệt với nhau. Nhưng
nếu chúng ta chưa bao giờ thấy cái ná thi` phải
dùng đến cái cung để mà mượn tạm làm ví
dụ. Thi` tương
tựa như vậy, trong cuộc sống của chúng ta,
ít khi nào chúng ta nghĩ rằng một con người có
thể làm việc gi` mà không có hậu y', không có tư
lợi, không có tinh thần vị kỷ. Tuy thế chúng ta cũng hiểu
rằng ở trong cuộc đời có những thứ
ti`nh thương cho đi không đ̣i lại bao giờ, có
những tâm hồn đặc biệt vượt thoát lên trên,
chỉ nghĩ đến việc chung chứ không nghĩ
đến việc riêng tư của chính mi`nh. Và chúng ta cũng thấy rằng
đôi lúc trong cuộc sống của chúng ta, chúng ta cũng
có khả năng vượt ngoài một thái độ riêng
tư, một thái độ ích kỷ để có thể
làm một việc mà không nghĩ đến bản thân
của mi`nh.
Thi` tương
tựa như vậy cái sở hành của một vị
bậc thánh đă đoạn tận phiền năo có khác
với chúng ta, để hi`nh dung lại hi`nh ảnh
của Ngài Xá Lợi Phất hay Ngài CaDiếp mà hồi năy
chúng tôi vừa kể cho quí vị.
Ngài CaDiếp là đệ nhất về
đầu đà. Ngài Xá
Lợi Phất là một đại đệ tử
Phật rất tận tụy ở trong công việc
dậy dỗ Tăng Ni, Ngài ở kế bên Đức
Phật ở trong chùa Ky` Viên. Và phải nói rằng hi`nh ảnh của Ngài là một trong những
hi`nh ảnh đặc biệt rất cao đẹp. Chúng tôi nói như vậy là quí
Phật tử có thể mường tượng ra khi mà
bốn chúng đệ tử của Đức Phật
trở nên đông đảo rồi, thi` Đức
Phật không phải lúc nào Ngài cũng có thi` giờ cho
tất cả cá nhân. Những
bài pháp chung qui Ngài giảng chung chung
như vậy, co`n những việc làm mang tánh cách
hướng dẫn trực tiếp thi` rất nhiều
đệ tử Phật phải cậy vào Ngài Xá Lợi Phất.
Tôn Giả Rahula là
một thí dụ, khi Đức Thế Tôn Ngài nhận Rahula
vào Tăng đoàn,
Ngài cho Rahula theo tu tập với Ngài Xá Lợi
Phất, có nghĩa là mỗi ngày đi khuất thực
trở về trong sự tu tập cá nhân thi` tôn giả
Rahula lúc bấy giờ co`n nhỏ, cần được
sự chăm sóc chỉ bảo của một vị giáo
thọ, một vị Thầy tế độ, Ngài Xá
Lợi Phất Ngài làm công việc như vậy. Tuy nhiên với tất cả các
công hạnh mà Ngài Xá Lợi Phất làm, trước
nhất vi` vai tro` của Ngài là một bậc Thượng
Thủ Thinh Văn, thứ đến Ngài làm việc
bằng tâm bi mẫn, một con người đă
đạt đến bờ giác ngộ giải thoát thi` các
Ngài làm cái gi` cần có phải làm cho thế gian này.
Khi chúng tôi nói
đến chuyện này, chúng tôi cũng nói đến
một điểm hết sức đáng tiếc, đó là
ở trong truyền thống Phật Giáo Bắc Truyền
có một số mô tả khiến cho người ta có
thể hiểu những Đệ Tử Thinh Văn
của Phật như là các vị Tôn Giả, Mục
Kiền Liên, Xá Lợi Phất, Ngài Ca Diếp v.v... là các Ngài chỉ tu cho bản thân mà không có vi`
lợi ích cho chúng sinh. Thật
ra thi` Đệ tử Phật có những cống hiến
rất lớn, chúng ta biết rằng những vị
đúng là vị Thanh Văn Đệ Tử Phật thi` là
hàng Tăng chúng, hoặc phàm Tăng, hoặc Thánh
Tăng. Nhưng chính các vị
Thánh Tăng mới là tiêu biểu thật sự cho Tăng
già có đầy đủ cái gọi là Tăng đức,
chúng ta gọi là đức chúng như hải. Những vị gọi là Tăng
đó, cái đức độ khôn lượng chúng ta không
có cái ǵ có thể đo đạc được các ân
đức của các Ngài, các Ngài không thể gọi là ích
kỷ được, các Ngài là những vị dấn thân
rất nhiều vào trong cuộc đời này mà sự
dấn thân đó đáng cho Chư Thiên và nhân loại
chấp tay, bởi vi` các Ngài đă làm những việc nên
làm và các Ngài không co`n phải có những cái gi` mà bắt
buộc phải làm.
Chúng ta thấy như một
bậc cha mẹ, con cái đă thành nhân, và bản thân mi`nh đă
có công danh, đă có sự nghiệp bây giờ không co`n
phải làm gi` nữa, thế nhưng những bậc cha
mẹ đó đă vi` lo`ng thương con cái muốn làm
gương hay muốn giúp ích
cho con cái, vẫn cố gắng làm sao cho con cháu lớn lên
trở thành những người hữu dụng đi theo
bước đi của mi`nh
Thi` tâm hồn đó chỉ nói lên một ví dụ bi`nh
thường nói về tâm tư của các bậc Thánh.
Và phải
nói rằng phải đọc lại từng trang kinh
điển của Đạo Phật từ những gio`ng
chữ trong Trưởng Lăo Tăng kệ Theragàthà và
Trưởng Lăo Ni kệ Therigàthà. Chúng ta ti`m thấy rải
rác nhiều bài kinh do những đệ tử Phật
thuyết giảng, hi`nh ảnh của Ngài Phú Lâu Na, hi`nh
ảnh của Ngài CaDiếp, của Ngài Xá Lợi Phất,
Ngài Mục Kiền Liên, của Ngài Maha Cachiên Diên nhiều
vị Thánh Đệ tử khác của Đức Phật,
đă cho chúng ta một cái mô tả điển hi`nh về
thế nào là đời sống của các bậc thánh.
Đúng là các Ngài đi giữa cuộc đời này
nhưng không để bụi trần vương gót
của các Ngài, các Ngài không tha thiết với trầm luân
sanh tử.
Một
lần Ngài Xá Lợi Phất khi người ta hỏi Ngài
vậy chứ tại sao mà Niết Bàn là vô duyên y Niết bàn
là hạnh phúc tối thượng sao Ngài không sớm viên
tịch Niết Bàn. Thi` Ngài trả lời rằng Ngài không có đam mê
với sự sống và không tha thiết với sự
chết, nhưng Ngài không muốn làm cho trái cây chưa chín mà
phải rụng. Thi` thưa quí vị thật ra trí phàm phu của
chúng ta không khả năng hiểu được
điều đó.
Chúng tôi nhớ ngày chúng
tôi co`n bé ở gần bên cha mẹ, mỗi lần ở
trong nhà nấu một nồi chè, vi` co`n bé bỏng, thấy
một nồi chè ngon mi`nh dọn ra mi`nh phải ăn, chúng
tôi không được ăn như vậy mà thân phụ
thân mẫu chúng tôi bắt là phải bưng từng tô chè
đi biếu người hàng xóm, đi biếu xong rồi
trở về mi`nh mới ăn phần của mi`nh ở
nhà. Thật ra rồi sau này
lớn lên chúng tôi thấy rằng ở một lứa
tuổi nào đó mi`nh không thể hiểu được
tâm tư của cha mẹ khi làm việc này, ngay cả lúc
đó mi`nh nghĩ rằng mi`nh nấu một nồi chè
trong nhà, hàng xóm không ai hay, không ai đ̣i hỏi gi`, tại
sao mi`nh phải bưng qua hàng xóm.
Thật ra cái nghĩ đó, cái nghĩ của tuổi
thơ thấy một nồi chè ngon, mi`nh chỉ muốn
ngồi xuống ăn liền, rất là khó để
hiểu, đó là chúng ta nói là tâm phàm tâm đối với
phàm tâm, chỉ có người lớn đối với
người nhỏ thi` có cách suy nghĩ khác, chúng ta không
hiểu hết các hành tướng.
Cũng như chúng tôi
sống gần các vị tôn túc trưởng lăo, có một
thời nào đó tuổi niên thiếu mi`nh đánh giá các Ngài
có khác đi, nhưng lớn lên đi vào cuộc đời
sống và làm việc Phật sự, bây giờ nhi`n lại
các Ngài thi` cái nhi`n của chúng tôi hoàn toàn khác biệt. Có thể rằng cảm nhận
được nhiều cái ân đức
của các Ngài hơn. Chúng ta
không đ̣i hỏi các Ngài phải hoàn hảo, nhưng ít
nhất các Ngài có một số các hy hiến mà mi`nh khả dĩ mi`nh
đem lo`ng kính trọng của mi`nh để mi`nh có
thể đảnh lễ và biết ơn các Ngài.
Thi` tương tựa
như vậy, đối với các bậc Thánh chúng ta không
hiểu hết tâm linh của các Ngài, bởi vi`
mi`nh suy tư từ động lực của chính mi`nh,
những vị đó mặc dù có nhiều dị biệt
về quan điểm, về sở đắc và sở
chứng. Tuy nhiên
sự dị biệt đó không nhất thiết khiến
cho các Ngài phải hoàn toàn khác nhau về cái hành hoạt.
Chúng ta biết rằng
Ngài Xá Lợi Phất đệ nhất về trí tuệ,
Ngài Mục Kiền Liên đệ nhất về thần
thông, rồi Ngài Ca Diếp đệ nhất về
đầu đà. Mặc dù trong sự nêu cao
gương lành của các Ngài có khác biệt, nhưng các Ngài
cùng làm bằng tâm bi mẫn.
Có một hướng đi, một hướng nhi`n, một hướng suy nghĩ mà có
thể nói rằng một công án lớn cho Phật Giáo. Một trong những truyền
thống Phật Giáo đă nêu ra sự hợp nhất
giữa đại bi và đại trí đó là Phật Giáo
Mật tông hay Kim Cang thừa. Người ta thấy
rằng rất khó khăn để có thể dẫn
đến một sự kết hợp diệu dụng
này, một cái gi` gọi là viên thông giữa tâm đại bi
và đại trí , nó khó như lấy
dầu trộn với nước, bởi vi` sao? trong cái nhi`n của đại trí thi` mỗi
chúng sanh đều có nghiệp riêng trong cuộc đời
này. Ví dụ như bằng cái nhi`n
của đại trí thi` chúng ta thấy thế giới này
luôn luôn là một thế giới đầy biến
động, đầy xáo trộn.
Xáo trộn và biến động đó
là một tự nhiên, mạnh được yếu thua nó
cũng là một điều tự nhiên, mỗi chúng sanh có
nghiệp riêng đó là điều tự nhiên.
Điều tự nhiên
đó có thể khiến cho cái nhi`n
của đại trí giống như cây ở trong rừng,
có khi nào chúng ta nhi`n cây trong rừng mà chúng ta bất măn
với cây lớn và chúng ta cảm thấy rung động
với cây nhỏ bao giờ đâu.
Trong rừng là một cuộc sống tự nhiên
của các thực vật và động vật, những
cây nó mạnh nó lớn thi` nó vươn lên, nó trổi
dậy và những cây thấp bé thi` nó nằm ở
dưới, có khi không chịu nổi thi` nó không có
điều kiện sanh sôi nảy nở. Trong cái nhi`n của đại trí
thi` dường như thế gian này giống như khu
rừng, khu rừng có tồn tại, có hiện hữu, có
lớn mạnh trong một cái thế chất, có thể nói
rằng hoàn toàn tự nhiên.
Nhưng khi đề cập đến tâm đại
bi thi` nó không phải nhi`n thế gian này như một
hiện tượng giới như vậy, trong cái nhi`n
của đại bi có chúng sinh, có những chúng sinh khổ,
và có những chúng sinh cần đến sự can thiệp,
sự can thiệp ở đây không có nghĩa là kinh bang
tế thế, sự can thiệp ở đây tức là các
Ngài phải dùng phép mầu để thay đổi hoàn toàn
đời sống đó, sự can thiệp ở đây là
các Ngài thấy rằng rất cần thiết để
chúng sinh hấp thụ và tiến hoá ở trong Phật Pháp.
Thưa quí vị trong
bài học ngày hôm nay có rất nhiều điểm quan
trọng chúng tôi phải thảo luận với Chư
Tăng về tâm thái, về hành quả của các bậc vô
lậu giải thoát, bài học này soi sáng cho chúng ta rất
nhiều thứ. Khi chúng tôi đang nói chuyện với quí vị
chúng tôi phải tự chế rất nhiều để
không phải đi sâu vào những điểm này. Chúng
tôi lấy ví dụ là chúng ta nói tâm hữu trợ và tâm vô
trợ, hữu trợ có nghĩa tâm sanh khởi do nhiều
lần suy nghĩ hay đắn đo bởi sự thúc
hối của người khác, chúng ta gọi đó là tâm
hữu trợ, tâm hữu trợ nó khác biệt với tâm vô
trợ.
Có
một số trường hợp chúng ta phải nêu lên
ở đây, trong đó kể cả hai trường
hợp mà có thể nói rằng là hai sự cố trọng
đại trong cuộc đời của Đức
Phật Thích Ca Mâu Ni. Một lần ngồi
dưới cội cây Bồ Đề khi Ngài quán xét về
sự vi diệu của giáo pháp mà Ngài
đă giác ngộ, Ngài thấy rằng giáo pháp đó quả
thật là thâm xâu. Ngài nghĩ rằng không hiểu là có nên đem giáo
pháp thâm xâu này truyền đạt cho chúng sinh co`n
vướng bụi trần hay không? Thi`
Phạm thiên Samabati hiện đến trước mặt
Đức Thế Tôn.
Ngài đă bạch với Đức
Phật rằng trong thuở xa xưa, Ngài đă nhiều
lần phát nguyện hành ba la mật hạnh vi` hạnh
nguyện cứu độ chúng sinh, và chúng sinh trong cuộc
đời này có nhiều hạng khác nhau, có một số
ít có bụi trần trong mắt có thể lănh hội được
chánh pháp. Và Đức Phật
Ngài đă quán xét chúng sinh trong cơi đời này, khi Ngài quán
xét chúng sanh trong cơi đời này thi` Đức Phật Ngài
đă có một y' tưởng khởi lên trong tâm tư
của Ngài là chúng sinh ở trong đời giống như
những hoa sen, có cái co`n trong bùn, có cái đă vươn lên
trong nước, có những cái đă vượt ra khỏi
nước để hứng ánh nắng ban mai.
Thi`
thông điệp của Đức Phật là một thông
điệp đầy hy vọng, Ngài đă tuyên bố
rằng cánh cửa vô sanh bất tử đă rộng
mở cho những ai có tai muốn nghe. Phải nói rằng đó là
lần Phạm thiên Sahampati thỉnh Phật chuyển Pháp
Luân độ đời, ngay cả trong truyền thống
Phật Giáo Bắc Truyền là một truyền thống
tương đối có cái nhi`n rất ly' tưởng
về tâm tư của các bậc Thánh giải thoát, thi`
vẫn có những điểm liên hệ mà ít nhiều chúng
ta có thể ti`m thấy tương đồng. Ví dụ như trong 10 hạnh của Đức
Phổ Hiền, ở trong đó có một hạnh đó là
thỉnh chuyển pháp luân độ đời.
Chữ
thỉnh chuyển pháp luân đó là một duyên sự mà chúng
ta cần phải nêu rơ tại đây, tại sao Chư
Phật với lo`ng đại bi vô lượng mà
chuyển pháp luân cần phải có một lời thỉnh
như Phạm thiên Sahampati trong câu chuyện hồi năy chúng
tôi vừa kể cho quí vị.
Chúng ta cũng nghe đến câu chuyện khác, khi di`
mẫu Ma ha Ba Xà Ba Đề tức di` Mẫu Maha Pajapati
Gotami đến gặp Đức Phật tại Vesali, di`
mẫu cùng với 500 công nương do`ng Thích Ca đă
đi bộ dọc từ Kapilavatthu từ Ca Ty` La Vệ
để đến đảnh lễ Đức Phật
và xin Đức Phật Ngài cho phép nữ giới
được xuất gia ở trong đạo tràng
của Đức Phật, Đức Thế Tôn đă
từ chối. Tôn Giả
Ananda đă ba lần đến cầu thỉnh Đức
Phật, Tôn Giả Ananda đă tri`nh
bầy về ơn nghĩa hết sức cao quí của di
mẫu đối với Đức Phật. Và Tôn Giả Ananda cũng đă
bạch hỏi Đức Phật là người nữ có
thể thành tụ được những đạo
quả mà một người nam xuất gia có thể thành
tụ được không?. Thi` Đức Phật Ngài đă
khẳng định rằng tất cả những
đạo quả mà người nam có thể thành tụ
ở trong đạo tràng của Đức Phật
tức là sơ quả, nhị quả, tam quả, tứ
quả, chúng ta nói đến Tu Đà Hườn, Tư
Đàm Hàm, A Na Hàm và A La Hán thi` bất cứ vị Thánh Thinh
Văn nam giới nào có thể thành tụ được
thi` một vị Ty` Kheo Ni cũng có thể thành tụ
như vậy.
Tôn Giả Ananda sau ba lần
khẩn khoản thi` Đức Phật Ngài đă cho phép
thành lập giáo hội Ni Bộ với điều kiện
là Chư Ty` Khưu Ni phải tôn trọng 8 học pháp
gọi là bát kỉnh pháp mà chúng ta thường
được nghe. Thật ra đó là những quyết định
lớn ở trong cuộc đời của Đức
Phật khi Ngài quyết định chuyển Pháp Luân
độ đời thi` Ngài cho phép thành lập Ty` Kheo Ni. Trong nhiều trường hợp
khác chúng ta cũng nhi`n thấy có
những lời mời thỉnh, có những lời
khẩn khoản từ phía đệ tử của
Ngài.
Thi` câu hỏi mà chúng ta
được đặt ra ở tại đây rằng,
nếu nó là một việc nên làm thi` tại sao Đức
Thế Tôn đă không đồng y' từ đầu mà
cần phải có những lời mời thỉnh như
vậy và tâm hữu trợ đó nên được
hiểu như thế nào, đó là tâm hữu trợ hay là
tâm vô trợ?.
Thưa quí
vị đề tài hôm nay là một đề tài
đặc biệt quan trọng khi chúng ta nói đến tâm
duy tác dục giới tịnh hảo, hay là tâm đại
hạnh hay là tâm đại tố. Thế nhưng như quí vị
Phật tử thấy rằng TT Trí Siêu cũng như
Sư Trưởng đă không có thuận lợi trên
phương diện kỹ thuật, các Ngài đă hết
sức cố gắng và đặc biệt hết sức
kiên nhẫn. Chúng ta có lúc nghe
các vị nói được, có lúc không, nhưng mà đa
phần những gi` chúng tôi nói từ Hoa Ky` quí vị
đều có thể nghe được trong lúc Sư
Trưởng và TT Trí Siêu cứ chập chờn nói thi`
cũng không xong, mà nghe thi` cũng không xong. Phải nói rằng
các Ngài đă đặc biệt kiên nhẫn dành cho chúng ta
rất nhiều khuyến khích, dành cho chúng ta rất
nhiều sự nhẫn nại. Thi` chúng tôi mong rằng như
lời một Phật tử có tâm
sự với chúng tôi vào trong rơom lúc này không
phải chỉ học pháp mà co`n học hạnh nhẫn nại
nữa. Chúng tôi tin rằng quí Phật tử có thể
thấy được cái thiện chí của Chư
Tăng tha thiết ở trong rơom Diệu Pháp này là cho dù
có khó khăn, cho dù điều kiện có hạn chế
đến đâu đi nữa thi` sự điều
đặn của rơom phải là một trong những
điều kiện tiên quyết.
Điều
đặn ở đây chúng tôi muốn nói rằng dù
khỏe, dù bịnh, dù có trục trặc hay là dù mọi
việc có hanh thông như y' đi nữa, thi` công việc
của rơom phải được duy tri`. Chúng tôi muốn rằng mỗi
ngày quí Phật tử vào trong rơom, quí vị yên tâm
thấy rằng đây không phải một việc làm mà vui
thi` làm, buồn thi` thôi ,mà tất cả Chư Tăng
đều đặc biệt dành ở đây nhiều
thiện trí làm thế nào đó mà qúi Phật tử thấy
rằng tất cả những người làm việc
ở trong rơom, nhất là về phía các vị Giảng
Sư đặc biệt hết sức có trách nhiệm
để qúi vị không cảm thấy buồn, khi vào thi`
gặp được Chư Tăng có khi gặp, có khi
không. Do vậy phía Chư
Tăng đă tận dụng hết sức, và kể
cả tất cả thiện trí của mi`nh
có được.
Kính thưa quí
Phật tử dĩ nhiên chúng ta không có đem tâm tư
của mi`nh để lănh hội
được tâm tư của bậc Thánh, theo ở trong
kinh thi` một vị phàm nhân không thể hiểu
được trọn vẹn tâm tư của vị Tu Đà
Hườn. Tâm tư của
vị Tu Đà Hườn không thể dùng tâm của mi`nh để hiểu hết tâm của vị
A Na Hàm. Một vị A Na Hàm
không thể dùng tâm tư của mi`nh
để hiểu hết tâm tư của vị A Na Hán
Thinh văn. Và dĩ nhiên ngay
cả Tôn Giả Xá Lợi Phất có đôi lúc cũng không
hiểu hết tâm tư của Đức Phật, bởi
vi` cảnh giới cao rộng hơn cái trí năng cao siêu
hơn thi` dĩ nhiên là không thể dùng cây thước bi`nh
thường của chúng ta mà đo. Dù thế những cái
gi` chúng ta được nghe về tâm duy tác dục
giới tịnh hảo hay tâm đại hạnh gợi cho
chúng ta nhiều y' tưởng đặc biệt quan
trọng về
hiện tượng giới tự nhiên.
Thật ra suốt
trong gio`ng lịch sử của đạo Phật đă có
những cố gắng lớn, những cố gắng này
nhằm đặt lại quan điểm thế nào là
đời sống tâm tư của một bậc thánh. Thậm chí thời
Đức Phật co`n tại thế một số vị
Tỳ khưu đă cố gắng đi vào cảnh
giới đó bằng cách suy diễn rất nhiều
về Đức Phật.
Đức Phật chúng ta có thể hiểu trong
một cái hạn chế nào về sở hành của Ngài,
nhưng phần trí thi` chúng ta không thể hiểu hết
được, phần trí là mênh mông vô lượng có
thể nói đó là bốn pháp bất khả tư nghi` . Tuy vậy trong tâm dục giới tịnh
hảo này cũng có một số y' hướng đă
được minh sát rất nhiều lần, như
thời Đức Phật co`n tại thế một
số ngoại đạo cho rằng một bậc đă
hoàn toàn giác ngộ thi` dù đi, đứng, nằm,
ngồi, ăn, nói, ngủ, nghỉ tất cả
đều làm việc bằng trí giác hết, đều
không dạy như vậy. Ngài
cho chúng ta biết rằng ngay cả bậc Thánh vẫn co`n
làm việc với tâm có lúc đi với sự vận
dụng trí năng, có lúc không vận dụng trí năng, nên
chi cả ba yếu tố để phân chia làm tám tâm duy tác
dục giới tịnh hảo, ở trong đó thọ
hỷ và thọ xả có hợp trí và ly trí, có vô trợ và
hữu trợ thi` trong ba yếu tố để phân chia
thành tám tâm, nó là cả ba đề tài hết sức lớn, đối với tâm
đại thiện thi` chúng ta phải nhận rằng
điều này rất là dễ hiểu. Dễ hiểu bởi vi` chúng ta làm
việc bằng một cái động lực bằng ly' do
rất
đơn giản ở trong đời sống
phàm phu của mi`nh, việc đó nó lại rất
được việc, rất mới và rất thú vị
khi chúng ta làm bằng tâm thọ hỷ, co`n việc đó
rất quen hay việc đó rất
bi`nh thường thi` chúng ta làm bằng tâm thọ
xả.
Có khi mi`nh tặng cho ai
đó một món quà chúng ta tặng bằng tâm hân hoan, có khi
chúng ta tặng vi` cái lịch sự xă giao hay chúng ta cho
một người ăn xin một hai đồng, cho là
cho nhưng chúng ta không hoan hỷ, thi` chuyện đó
rất dễ hiểu trong thế giới của chúng
ta. Chúng ta hoàn toàn dễ hiểu bởi
vi` chúng ta có liệu toan, có dựa lên trên một số cái
quan niệm, và đồng thời chúng ta bị chi phối
bởi cái nhi`n của vô minh và ái.
Do vậy cái thích thú và cái không thích thú, cái hào hứng và
cái không hào hứng chúng ta rất dễ hiểu.
Nhưng với cái
thọ hỷ và thọ xả của một bậc thánh
không đơn giản như vậy, cũng như hồi
năy chúng tôi nói với quí vị là cái ly trí và hợp trí tức
là có phải lúc nào mi`nh cũng dùng tới trí năng của
mi`nh hay không. Có
phải lúc nào Đức Phật Ngài cũng dùng tới
nhất thiết chủng trí hay không. Câu
hỏi đó ngoại đạo đă đặt ra
rải rác đó đây ở trong Trường Bộ kinh. Chúng ta nghe Đức Phật
dạy rất nhiều, người ta không có một cây
thước đo gi` để có thể đo
được tâm tư của bậc thánh do vậy
người ta đă dùng cái trí tưởng rất nghèo nàn của
mi`nh để định nghĩa tâm tư của các
Ngài.
Rồi cái hữu
trợ và vô trợ cũng là một đề tài lớn,
tiếc rằng đề tài này đáng lẽ với TT Trí
Siêu và Sư Trưởng, nếu quí Ngài có thể nói
chuyện được thi` các Ngài đă có thể chia
sẻ với chúng ta rất nhiều. Chúng tôi phải nói
rằng trong thời gian hiện tại là thời gian chúng
ta đi qua tâm dục giới, tâm dục giới trong đó
có tâm bất thiện, có tâm vô nhân và có tâm tịnh hảo
thi` tất cả tâm dục giới này đều là
những đề tài đặc biệt lớn. Cái lớn nhất của tâm
bất thiện là cho chúng ta thấy được cái
thế nào là những trạng thái mà nó bất ổn,
trạng thái không được tốt đẹp trong
đời sống của mi`nh và trạng thái này là
trạng thái chứa đựng những mầm mống,
có thể nói là mầm mống cân năo của kiếp luân
hồi, chúng ta nói đến cả vô minh và ái dục.
Trong lúc đó những
tâm vô nhân cho chúng ta một cánh cửa mới về cái
sự hiện hữu đầy máy móc của kiếp
người, ở trong đó đề cập đến
nhăn, nhĩ, tỷ ,thiệt, thân , và y'
thức. Những sự phân
biệt về 12 xứ 18 giới, những sự phân
biệt này cho chúng ta một cái nhi`n mới
về cái gọi là chúng sinh thi` chúng ta ti`m thấy
được trong tâm vô nhân.
Nhưng khi qua những
tâm dục giới tịnh hảo thi` thưa quí vị chúng
ta lại ti`m thấy được một cái y' nghĩa
mới, trong y' nghĩa mới này là sự hiện hữu
một cái gi` tốt đẹp của đời sống
không phải trong cơi dục mà trong cơi sắc và vô sắc,
không phải chỉ trong cảnh giới của phàm tâm mà
ở trong cảnh giới của các bậc thánh
đức. Nói chung
là cả ba cái chủ đề về tâm bất thiện,
tâm vô nhân và tâm dục giới tịnh hảo là ba chủ
đề đặc biệt lớn. Chúng ta có rất nhiều câu thảo
luận cần phải nêu lên ở tại đây, rất
tiếc cả TT Trí Siêu cũng như Sư Trưởng
đều không có thể tham gia như trước đây,
nghĩa là đồng thời, đồng lúc, nhưng chúng
tôi hy vọng trong một thời gian nào đó mọi
việc sẽ cải thiện để các Ngài có thể
trở lại sinh hoạt bi`nh thường với chúng ta. Ở trong tuần lễ này chúng
tôi sẽ tận dụng bằng mọi cách để làm
sao mà có được một sự thay đổi về
kỹ thuật để Chư Tăng có thể qua
một phương tiện khác nói chuyện trực
tiếp vào trong rơom
Minh Hạnh Thực Hiện