A Tỳ Đàm
Giảng Giải và Thảo Luận
Tâm Quả Dục Giới Tịnh Hảo
A Tỳ Đàm, Bài 8.3.1 Bài Giảng & Thảo-Luận
Ngày 11 tháng 6 năm 2004
Minh Hạnh biên soạn & Cô Tu Nữ Diệu Tịnh hiệu đính
Bài 8
Tâm Quả
Dục Giới Tịnh Hảo
III. Tâm Đại Hạnh (Duy Tác) Dục
Giới Tịnh Hảo (Mahākiriyakāmavacaracitta):
Phần I
TT
Giác Đẳng: Kính đảnh lễ Quí Chư Tôn
Đức, kính thưa quí Phật tử, hôm nay chúng ta
học tám tâm duy tác, đúng ra trong từ vựng chúng ta
không có chữ đại duy tác, mà chúng ta có chữ tâm
đại thiện dục giới, tâm đại quả
dục giới. Ngày
xưa Ngài Hoà Thượng Tịnh Sự đă dùng tâm
đại hạnh dục giới. Những tâm dục
giới tịnh hảo này có một y' nghĩa đặc
biệt đó là sự có mặt trong nhiều cơi, biết
được nhiều cảnh và làm được
rất nhiều việc.
Riêng về những tâm duy tác này khác hẳn những
tâm duy tác vô nhân, trong lúc ba tâm duy tác vô nhân chúng ta chỉ có
tiếu sinh tâm hay ưng cúng vi tiếu là
tâm của bậc thánh vô sanh, chúng ta muốn nói đến
tâm làm việc cười của vị Phật Độc
Giác Thinh Văn Giác.
Trong
lúc đó tâm đại hạnh được xem như là
tâm đại hạnh, hay tâm duy tác dục giới tịnh
hảo được xem như là một thứ tâm có
thể nói rằng cho chúng ta biết rất nhiều về
đời sống của bậc Thánh nhân thế nào. Thật ra trong kho tàng kinh
điển Đạo Phật, đa phần chúng ta
đều có một hi`nh ảnh
tương đối, nhiều tưởng tượng
về thế nào là một bậc Thánh giải thoát. Nhưng ít có một
bộ phận kinh điển nào có được sự
mô tả tường tận, và chi tiết hơn về tâm
tư của bậc Thánh như A Ty` Đàm của Pali. Những tâm kiriya hay
những tâm duy tác đặc biệt cho chúng ta thấy
thế nào một cuộc sống đă không co`n bị chi
phối bởi vô minh và ái dục. Tám tâm đại hạnh hay tâm duy
tác dục giới tịnh hảo có thể nói rằng là
một cống hiến rất lớn, là một cửa
mở cho chúng ta đi vào thế giới mà chúng tôi vừa
đề cập đến.
Như
quí vị thấy chữ kiriya có nghĩa làm mà không có
kết quả, không có quả của hành động đó,
quả ở đây chúng ta nói về nhân quả chứ không
phải kết quả , tức là những
thành tựu do tâm mang lại. Chúng tôi lấy ví dụ Ngài Xá Lợi Phật là
một Thánh Đệ Tử Phật đă đoạn
tận được vô minh phiền năo. Ngài thuyết pháp, kết quả của vị
thuyết pháp là chuyển hoá được tâm tư
của người khác, nhưng sự việc của Ngài
thuyết pháp nó không có mang lại phúc quả nhân thiên về
sau, giống như chúng ta khi chúng ta cùng làm việc
tương tự như Ngài.
Bởi vi` trong tâm tư của các
Ngài không co`n mầm mống của trầm luân sanh tử nữa.
Do vậy
chữ kiriya được dịch nhiều chữ khác
nhau, Ngài Hoà Thượng Tịnh Sự có khi Ngài dịch là
tâm hạnh, rồi về sau này chúng ta cũng nghe nói đến
tâm tố. Chữ tố ở
đây là một trạng thái tâm làm việc chỉ hành động
nhưng không mang lại kết quả dẫn đến do
một chủng tử mầm mống trầm luân sanh tử
nào. Đối với
tâm kiriya thi` Hoà Thượng Minh Châu dịch là tâm duy tác, duy
tác chỉ có hành động không có mang lại quả của
hành động, tức là cũng một lần nữa nói
lên y’ nghĩa không luân hồi.
Như vậy chúng ta nói tâm hạnh, tâm tố
và tâm duy tác là ba từ đều dịch từ chữ
kiriya.
Tâm
duy tác cho chúng ta biết nhiều về đời sống
của bậc Thánh nhân, đời sống của các Ngài vẫn
là một số hạnh nguyện vi` tâm đại
bi, vi` một số các ly’ do khác, nhưng không phải đến
từ vô minh và ái dục. Các Ngài
cũng bố thí, các Ngài cũng thuyết pháp, các Ngài cũng
tri` giới như Ngài CaDiếp, Ngài là đệ nhất về
hạnh đầu đà, ở trong đời sống của
Ngài vẫn thọ tri` hạnh đầu đà, mặc dù
Ngài không co`n cần hành hạnh đầu đà nữa. Hạnh đầu đà có nghĩa
là một phương pháp tiết chế để giảm
thiểu phiền năo, nhưng Ngài vẫn sống với hạnh
đầu đà, ví dụ chỉ mặc ba y, ăn một
ngày một bữa, khi đứng dậy thi` không ăn nữa,
hay ở dưới cội cây, mặc y phấn tảo
v.v… Những hạnh đầu
đà đó của các Ngài, hoàn toàn là vi` lo`ng bi mẫn muốn
nêu cao gương lành cho hậu tấn, do đó Ngài CaDiếp
đă làm như vậy.
Thưa
quí vị trong sự mô tả chúng ta được biết
qua A Ty` Đàm, thi` rất khó để chúng ta hiểu được
cái tâm tư của một vị đă giác ngộ, khi các Ngài
không co`n mầm mống mê chấp đặc biệt tế
nhị, mà chúng ta gọi là 10 kiết sử cột trói, hay
các lậu hoặc đưa đẩy Ngài vào trầm luân
sanh tử. Tám tâm
này nó cũng tương tự như tám tâm đại thiện,
có nghĩa là có 4 tâm thọ hỷ và 4 tâm thọ xả. Trong 4 tâm thọ hỷ hay 4 tâm thọ
xả có những
tâm hợp trí và ly trí, có những tâm vô trợ và hữu trợ.
Ở
đây thi` cũng cho chúng ta thấy rằng khi các Ngài hành xử,
không phải lúc nào các Ngài cũng vận dụng trí năng
thường xuyên, như một số ngoại đạo
có chủ trương rằng một con người giác ngộ
thi` hễ lúc nào đi đứng nằm ngồi suy nghĩ
thi` cũng phải vận dụng đến tuệ giác của
mi`nh. Chúng ta ti`m thấy ở
những tâm ly trí trong tâm duy tác, điều đó chứng tỏ
cho thấy một vị Thánh nhân, các Ngài khi hành xử thi` các
Ngài vẫn lúc nào cần dùng đến trí tuệ thi` các Ngài
vận dụng đến trí tuệ, lúc nào không dùng đến
trí tuệ thi` các Ngài cũng không dùng đến trí tuệ,
chứ không phải thường xuyên lúc nào các Ngài cũng dùng
điều đó.
Mặc dù chúng ta biết chắc chắn rằng
sở hành của các Ngài không bị chi phối ảnh hưởng
bởi vô minh và ái dục. Một điều đặc biệt
ở đây khi chúng ta so sánh điểm vô minh và ái dục
chi phối, thi` chúng ta thấy ở tâm thiện dục giới,
hay là tâm đại thiện, tức là cách đây hai bài học,
bài học trước chúng ta học về tâm đại
quả, và bài học kế tiếp chúng ta học tâm đại
thiện. Thi` tâm đại thiện
là tâm có thể nói rằng tạo ra nhiều phúc nghiệp lành
bằng tâm dục giới, và mặc dầu là một tâm thiện, nhưng
tâm này có khả năng để tạo quả luân hồi. Và bất cứ tâm nào
có khả năng tạo quả luân hồi thi` đằng
sau đó nó vẫn là một duyên khởi, nó đến từ
vô minh và ái như chúng ta đă thấy trong giáo ly’ duyên khởi
là vô minh duyên cho hành, rồi ái thủ duyên cho hữu. Những thứ đó trong giáo ly’
duyên khởi cũng như trong A Ty` Đàm cho chúng ta thấy
một cái nhi`n rất đặc biệt,
về chúng sanh sống trong đời này ngay trong quan niệm
thiện và ác nó đều bị một chi phối bởi
năng lực của vô minh.
Thật
ra nó tương tựa như những người sống
trong thế gian này, cho dù họ là người tốt hay một
người không tốt đi nữa, thi` tất cả hành
động của họ, tất cả những việc làm
cố gắng của họ nó đều đến từ
một cái sự không biết về tương lai, không biết
về những bí mật của đời sống. Cũng cùng ra đời làm việc,
một số trong chúng ta làm việc rất lương thiện
sống với tư cách của một người công dân
có trách nhiệm ở trong xă hội, tuy nhiên chúng ta cũng
không biết gi` về tương lai của mi`nh, do đó cố
gắng mi`nh xây dựng một chút sống ở trên một
hi`nh thái nào đó, thi` dù là thiện hay là bất thiện,
thi` cả thiện và bất thiện đó nó đều đến
từ một cái không nhận biết rơ về tương
lai của mi`nh.
Sư
bao trùm của vô minh và ái nó chi phối hành động thiện
và bất thiện là một bài học không đơn giản
để tiêu hóa trong đời sống của một người
bi`nh thường. Nhưng giáo ly’ A Ty` Đàm cho chúng
ta thấy rằng bất cứ cái nghiệp nào dẫn vào
kiếp luân hồi, dẫn vào cơi vui hay cơi khổ, dầu là
thiện thú hay ác thú, cho dù cảnh giới đó là cảnh
giới nào đi nữa, nhưng đă trôi dạt vào luân hồi,
thi` sự trôi dạt vào luân hồi đó nó đều phải
được tiếp tục nuôi dưỡng bởi vô
minh và ái như là một động lực ở phía sau lưng. Nếu một người trong giờ
phút lâm chung mà tâm tư của họ hoàn toàn thanh tịnh vắng
lặng không co`n mảy may một chút gi` vô minh và ái, thi` họ
không có điều kiện tạo nên tiếp tục tiến
tri`nh luân hồi nữa. Luân hồi và vô minh ái dục thi` hầu như nó là
một yếu tố “ắt có và đủ” không thể không
có được.
Thi` tám tâm duy tác chúng ta nói tại đây là tâm
của bậc ứng cúng, tại sao chúng ta dùng chữ ứng
cúng.
Đúng ra thi` chữ ứng cúng ở đây rất
quan trọng, chữ ứng cúng hay chúng ta gọi chữ A
La Hán, là Phạn âm của chữ Arahan, chúng ta dịch là ứng
cúng có nghĩa là bậc trọn lành, chúng ta gọi là bậc
đă đoạn tận phiền năo hay có y’ nghĩa là sát tặc.
Bậc ứng cúng là bậc xứng đáng được
cúng dường, có nghĩa là vị này đă đoạn tận
10 kiết sử phiền năo, không co`n một mảy may chút
phiền năo và ái dục dư xót.
Chữ ứng cúng ở đây được áp dụng
cho cả ba vị Phật, tức là bậc Chánh Đẳng
Giác, hay bậc Toàn Giác, bậc Độc Giác hay Bích Chi Phật
và bậc Thinh Văn Giác tức là những Thánh Đệ Tử
Phật. Các Ngài vẫn tiếp
tục thân ngũ uẩn trong cuộc sống này như bao
nhiêu câu truyện về Thinh Văn Sử, chúng ta đọc
trong đó rải rác nhất là bộ therakatha……, theritatha
……ghi lại những cảm khái, những suy tư và một
số các hành sử của chư vị Đại Đệ
tử Phật sau khi đă đắt đạo chứng
quả nhưng co`n mang thân ngũ uẩn này
Minh Hạnh Thực Hiện