www.dieuphap.com   
Trang Pháp Đàm 
A Ty` Đàm 
Bài Giảng   3.1A
Bài 3.  1a
Thảo Luận  1
Thảo Luận  2
Thảo Luận  3
Bài Giảng   3.1B
Bài 3.  1b
Thảo Luận  4
Thảo Luận  5
Thảo Luận  6



A Tỳ Đàm
Ging Giải và Tho Luận

Tâm Quả Dục Giới Tịnh Hảo

A Tỳ Đàm, Bài 8.2.2 Bài Giảng   Ngày 05 tháng 6 năm 2004


Minh Hạnh biên soạn & Cô Tu Nữ Diệu Tịnh hiệu đính

 

Tâm Quả Dục Giới Tịnh Hảo )

Bài 08

Tâm Quả Dục Giới Tịnh Hảo

II. Tâm Đại Quả Dục Giới Tịnh Hảo (Mahāvipākàmacaracitta):

Những điểm chính của bài học:

2.1 Thế nào là quả dị thục

2.2 Chức năng của tâm quả

2.3 Tám tâm đại quả

2.2 Chức năng của tâm quả

Tâm đại quả dục giới tịnh hảo làm 4 công tác sau đây:

1) Việc tục sinh (Paṭisandhikicca): Là tâm nối liền kiếp sống củ và đời sống mới. Tức là khởi đầu đời sống của chúng ta. Trong giờ phút lâm chung khi tâm tử tức hộ kiếp cuối cùng của đời sống vừa chấm dứt, nếu đủ điều kiện, một trong những tâm quả tương xứng với một hành động thiện hoặc ác nào đó mà ta đă tạo trong lúc c̣n tráng kiện sẽ sanh khởi lên để tạo một đời sống mới, tức là kiếp sau.

Trường hợp tâm quả dục giới tịnh hảo làm công tác tục sinh; nếu là tâm hợp trí th́ sẽ làm việc tục sinh cho người tam nhân. Nếu ly trí, th́ sẽ làm việc tục sinh cho người nhị nhân.

2) Hộ kiếp (Bhavaṅgakicca): Là tâm duy tŕ kiếp sống, thường được gọi là tiềm thức. Những tâm này là tâm chủ quan của đời sống, sanh khởi khi chưa có cảnh mới hiện vào. Những tâm hộ kiếp là những tâm giống như tâm tục sinh; tục sinh bằng tâm nào th́ sẽ hộ kiếp bằng tâm đó. Những tâm hộ kiếp cùng bắt một cảnh mà tâm tục sinh đă bắt.

3) Việc tử: (Cutikicca): Là tâm cuối cùng của đời sống, tâm này cũng giống như tâm hộ kiếp, ta có thể gọi nó là tâm hộ kiếp cuối cùng của đời sống. Khi tục sinh và hộ kiếp bằng tâm nào th́ sẽ tử bằng tâm đ ó.

4) Việc thập di (Tadarammanā): Là sự thâu bắt cảnh dư của tâm đổng lực, c̣n gọi là tâm mót, v́ tâm này sanh lên sau khi tâm đổng lực đă xử sự với cảnh.

Người nào tục sinh bằng tâm vô trợ th́ tánh t́nh linh động, mau lẹ, nhanh nhẹn. Người nào tục sinh bằng tâm hữu trợ th́ tánh t́nh chậm chạp, không được linh hoạt

 

ooOoo

 

TT Giác Đẳng: Kính bạch Chư Tôn Đức và thưa Quí Phật tử, tâm đại quả hay là tâm quả dục giới tịnh hảo như Sư Trưởng vừa đề cập và giảng cho chúng ta được nghe.  Tâm này là kết quả của những tâm thiện dục giới tịnh hảo, và vi` là kết quả của tâm thiện dục giới tịnh hảo nên nó mang đặc tính tương đương.  Ví dụ như tâm thiện thọ hỷ hợp trí vô trợ thi` nó sẽ tạo ra tâm quả thọ hỷ hợp trí vô trợ. Và chúng ta được biết rằng đây là những tâm kết quả trực tiếp của những tâm thiện, do đó chúng ta có thể tự hỏi là cái chức năng hay vai tro` phần hành của tâm quả là gi`, bởi nếu không có một khái niệm rơ về điểm này thi` thưa quí vị chúng ta rất dễ lầm lẫn không nắm được. Chúng tôi xin mời vị MC, cô Minh Hạnh đọc phần 2.2 Chức năng của tâm quả, và sau phần này chúng ta sẽ nói thêm về phần hành của những tâm này

 

 

2.2 Chức năng của tâm quả

Tâm đại quả dục giới tịnh hảo làm 4 công tác sau đây:

1) Việc tục sinh (Paṭisandhikicca): Là tâm nối liền kiếp sống củ và đời sống mới. Tức là khởi đầu đời sống của chúng ta. Trong giờ phút lâm chung khi tâm tử tức hộ kiếp cuối cùng của đời sống vừa chấm dứt, nếu đủ điều kiện, một trong những tâm quả tương xứng với một hành động thiện hoặc ác nào đó mà ta đă tạo trong lúc c̣n tráng kiện sẽ sanh khởi lên để tạo một đời sống mới, tức là kiếp sau.

Trường hợp tâm quả dục giới tịnh hảo làm công tác tục sinh; nếu là tâm hợp trí th́ sẽ làm việc tục sinh cho người tam nhân. Nếu ly trí, th́ sẽ làm việc tục sinh cho người nhị nhân.

2) Hộ kiếp (Bhavaṅgakicca): Là tâm duy tŕ kiếp sống, thường được gọi là tiềm thức. Những tâm này là tâm chủ quan của đời sống, sanh khởi khi chưa có cảnh mới hiện vào. Những tâm hộ kiếp là những tâm giống như tâm tục sinh; tục sinh bằng tâm nào th́ sẽ hộ kiếp bằng tâm đó. Những tâm hộ kiếp cùng bắt một cảnh mà tâm tục sinh đă bắt.

3) Việc tử: (Cutikicca): Là tâm cuối cùng của đời sống, tâm này cũng giống như tâm hộ kiếp, ta có thể gọi nó là tâm hộ kiếp cuối cùng của đời sống. Khi tục sinh và hộ kiếp bằng tâm nào th́ sẽ tử bằng tâm đó.

4) Việc thập di (Tadarammanā): Là sự thâu bắt cảnh dư của tâm đổng lực, c̣n gọi là tâm mót, v́ tâm này sanh lên sau khi tâm đổng lực đă xử sự với cảnh.

Người nào tục sinh bằng tâm vô trợ th́ tánh t́nh linh động, mau lẹ, nhanh nhẹn. Người nào tục sinh bằng tâm hữu trợ th́ tánh t́nh chậm chạp, không được linh hoạt lắm.

 

TT Giác Đẳng: Đoạn 2.2 nói về tâm quả, thật ra nếu quí vị nào có theo dơi bài giảng của A Ty` Đàm từ ban đầu thi` Chư Tăng trong rơom đă từng thảo luận với nhau rất nhiều về những vai tro` này.  Tâm quả đóng một vai tro` đặc biệt là ảnh hưởng lớn đến đời sống của chúng ta và có những yếu tố quyết định. Ví dụ như chúng ta thấy tâm thiện, nếu chúng ta làm việc gi` bằng hành động tốt bằng tâm thiện và tâm thiện đó là tâm thiện thọ hỷ hợp trí vô trợ, tức là làm việc bằng tâm hoan hỷ đi với trí tuệ và nhậm lẹ, thi` kết quả của tâm thiện đó tạo ra rất nhiều nghiệp. 

 

Cũng như cây mà nó tạo ra nhiều trái vậy, nhưng khác với cây là tất cả trái của cây đều có khả năng sanh ra cây, và một cây sanh ra nhiều cây.  Nhưng riêng về chúng sanh trong cuộc đời này, thi` trong cuộc đời của chúng ta từ nhỏ đến lớn làm việc sát sanh cũng nhiều, làm việc bố thí cũng nhiều, làm việc tri` giới cũng nhiều, mà nói vọng ngữ cũng nhiều v.v… Thi` có bao nhiêu nghiệp lớn nhỏ trong đời sống hiện tại và ngay cả trong quá khứ nếu có điều kiện thích hợp nào đó mà nó trổ sanh, thi` một ở trong hành động mà chúng ta đă tạo, nó sẽ tạo ra một thứ tâm quả mà tâm quả này nó trở thành tâm tục sinh, tức là khởi đầu một kiếp sống mới trong tương lai.

 

Khi đề cập đến tâm khởi đầu một kiếp sống trong tương lai mà chúng ta gọi tâm tục sinh, bây giờ chúng ta có thể nhận ra được rằng tâm quả đóng một vai tro` đặc biệt quan trọng, bởi vi` nếu chúng ta tục sinh bằng tâm thọ hỷ hợp trí vô trợ, thi` chúng ta sanh lên là một con người mặc dù rất bi`nh thường không có chuyện gi`, nhưng đời sống của chúng ta có vẻ tươi nhuận, có vẻ vui vẻ.  Có những người sanh ra tâm hồn rất thản nhiên điềm đạm tại v́ họ sanh bằng tâm thọ xả. Và có những người cơ tánh rất linh mẫn, họ có thể nhi`n thấy sự việc xác đáng hơn những người tánh ù ù cạc cạc, không có sự linh mẫn nào trong trí tuệ của mi`nh. Và chúng ta muốn nói đến có những người chậm chạp, có những người lanh lẹ.

 

Những tâm đó nó vốn được quyết định ngay sát na đầu tiên của kiếp sống chúng ta gọi là tâm tục sinh, thi` tâm tục sinh này hoàn toàn là tâm quả, như khi năy chúng ta được nghe, nếu một người họ tái sanh bằng một tâm tục sinh hợp trí, tức trong tâm của họ có nhân vô tham, có tâm sở hữu vô tham, nhân vô sân, rồi lại có trí tuệ nữa, tức là vô tham, vô sân, vô si, cả ba điều đó gọi là người tam nhân.  Người tam nhân này riêng trong tạng A Ty` Đàm đặc biệt rất quan trọng, tại sao nó quan trọng? bởi vi` chính người tam nhân mới có khả năng đắc thiền và đạo quả.  Chúng tôi có thể nói rằng phần lớn chúng ta sống ở trong kiếp người phần lớn là những người tam nhân, chúng tôi nghĩ rằng rất ít con số người  người nhị nhân không có nhiều như chúng ta so sánh với người tam nhân.

 

Sau tâm tục sinh đó thi` những sát na tâm tiếp theo nó có một trạng thái giống như tâm tục sinh, nhưng bởi vi` nó không khởi đầu kiếp sống nên nó không gọi là tâm tục sinh mà nó được gọi là Bhavan’ga   tâm hộ kiếp.  Tâm hộ kiếp này TT Trí Siêu và chúng tôi cũng như có sự hội y' của Sư Trưởng, đă có giảng rất nhiều ở trong bài học cách đây mấy tuần lễ về vai tro` của tâm hộ kiếp như là một tiềm thức, và tâm tử cũng là một trạng thái tâm giống như tâm tục sinh hộ kiếp nó một loại thôi. 

 

Nhưng khởi đầu kiếp sống chúng ta gọi là tâm tục sinh và chấm dứt kiếp sống thi` chúng ta gọi là tâm tử, co`n cái gi` ở khoảng giữa nó là hộ kiếp.  Mặc dù trạng thái giống nhau nhưng vai tro` của nó thật sự khác biệt lắm, rất khác biệt, tại vi` phần hành của nó khác biệt. 

 

Có một trạng thái khác mà chúng ta gọi là Tadarammanā. Tadarammanā nguyên nghĩa là cảnh ấy, mà chúng ta có khi được Ngài Hoà Thượng Tịnh Sự dịch là na cảnh, chúng ta gọi là thập di.  Chữ thập ở đây có vẻ giống như chữ thu thập, di là cái gi` tồn đọng lại.  Ở đây chúng tôi không có đi nhiều, nhưng nói chung khi một cảnh hiện đến thi` nó có những tâm thật sự là tạo nghiệp, thật sự thật sự với cảnh chúng ta gọi là tâm thực hay đổng tốc. Nhưng nếu cảnh rất lớn thi` nó có tâm chúng ta gọi là tâm như hưởng, chúng ta gọi tâm như hưởng tức   m nó hưởng cái tồn đọng lại, nó nhận cái tồn đọng lại bởi vi` cảnh nó quá lớn và quá rơ, và việc này khi chúng ta đi vào lộ tâm thi` chúng ta sẽ biết thêm chi tiết. 

 

Nói chung A Ty` Đàm có một số chi tiết mang tánh cách hoàn toàn tự nhiên, nó không dựa trên triết học, nó không dựa trên suy niệm, do vậy quí vị cảm thấy ngờ ngợ.  Chúng tôi lấy ví dụ quí vị quan sát một đóa hoa dại hay một đóa hoa trong nhà, quí vị nhi`n thấy đoá hoa có gai, có lá, có màu như vậy, có nhị như vậy thi` chúng ta có thể ghi nhận nó như vậy.  Và chúng ta cũng có thể nói rằng mi`nh bắt chước như một thi sĩ nhi`n cái hoa chỉ biết muốn nhi`n màu đỏ, cái màu thẩm của nó hay chỉ nhi`n cái hoa với nét găy của nó đẹp như thế nào.  Thật ra trên phương diện văn học, chúng ta có thể đón nhận cái gi` mà chúng ta thích , nghĩ tới biết tới, nhưng trên phương diện A Ty` Đàm hay nói chung là khoa học tự nhiên, thi` cái thiên nhiên, cái tự nhiên nó có như thế nào thi` chúng ta ghi nhận như vậy, chứ chúng ta không tự đặc ra vấn đề là tại sao mi`nh phải để thế này hay không để thế kia.

 

Ở đây vai tro` của tâm quả làm thập di hay làm việc dư hưởng thi` đó là ví dụ điển hi`nh cho chúng ta thấy rằng đây là một môn học hoàn toàn về tự nhiên, chứ không phải là một môn học được vẽ vời, được trước tác bởi Đức Phật và các đệ tử của Ngài.  Như vậy thi` chúng ta đă thấy rằng tâm quả tuy rằng nó không sinh động như tâm thiện tức là tạo tác làm những việc lành v.v… Tâm quả này đặc biệt đóng một vai tro` then chốt trong đời sống của mỗi người. 

 

Chúng tôi nhớ có một lần Đức Phật nói chuyện với một vị Bà La Môn, Ngài nói với vị Bà La Môn Bharadoca rằng nếu mà bất cứ ai trong đời này hiểu về hành trạng và quả phúc của sự bố thí  như là Như Lai hiểu, thi` người đó không có một bữa ăn nào mà không có chia sẻ với chúng sanh khác. Thật ra Đức Phật Ngài không phải là người sống bằng phước báu nhân thiên, Ngài không sống bằng phước báu hữu lậu, nhưng Ngài biết rất rơ ảnh hưởng của phước báu mà chúng ta gọi là phước báu hữu lậu, trong đó bố thí là một trong những việc thiện đầu tiên điển hi`nh.  Ngài biết rơ giá trị ảnh hưở ng của  bố  thí  như thế nào với đời sống của chúng ta, và do vậy Ngài nói rằng một người hiểu rơ việc đó thi` sẽ không có bữa cơm nào mà người đó không bố thí.  Thi` riêng đối với chúng ta cũng vậy, ở tại đây khi chúng ta hiểu tâm quả đóng vai tro` tâm thiện như thế nào, thi` thưa quí vị kết quả cuả việc lành nó không phải chỉ có ảnh hưởng lớn đến đời sau của chúng ta mà co`n trong cuộc sống hàng ngày nữa.

 

Thưa quí vị chúng tôi xin tạm ngưng một vài giây phút để có cuộc thảo luận với Sư Trưởng về điểm này. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật



Minh Hạnh Thực Hiện