A Tỳ Đàm
Giảng Giải và Thảo Luận
Tâm Qủa Vô Nhân
A Tỳ Đàm, Bài 6.3.1 Bài Giảng
Ngày 28 tháng 5 năm 2004
Minh Hạnh biên soạn & Cô Tu Nữ Diệu Tịnh hiệu đính
Tâm Qủa Vô Nhân (tiếp theo)
Khái niệm
về những tâm quả vô nhân
Những
điểm chính của phần 1
1.1 Nghiệp lực
chiêu cảm qua tâm thức
1.2 Sự nhận
thức giới hạn của tâm thức đối với
thực tại
1.3 Xấu tốt
do cảnh hay do suy diễn ?
1.1 Nghiệp lực
có thể tạo ra nhiều thứ từ môi trường
sống đến t́nh thân của người chung quanh và sự thành công trên đường
công danh sự nghiệp. A Tỳ Đàm đặc
biệt nhấn mạnh sự trổ sanh quả của
nghiệp qua ḍng tâm thức. Trong diễn
tŕnh của tâm, những tâm tạo quả và tâm quả liên
tục xen lẫn vào nhau. Chính v́ thế
tâm thức không hẳn thuần về "ư chí" hay lúc
nào cũng bị chi phối bởi "tiền định".
Không có những quan niệm mơ hồ về "phức
cảm tâm lư" mà là sự pha trộn của
nghiệp, quả và phiền năo. Như trường
hợp một người hưởng thụ dục lạc.
Những ǵ người đó có được
là quả tốt của tâm thiện quá khứ nhưng tù
đó sanh phiền năo rồi phóng túng đó là là quả thiện
sanh phiền năo để rồi phiền năo tạo nghiệp
bất thiện. Sự hỗn hợp phức
tạp đó là một đặc tính của lư duyên sinh.
1.2 Mười tâm
quả vô nhân đầu tiên c̣n được gọi là ngũ
song thức gồm 2 tâm nhăn thức (thị giác), 2 tâm nhĩ
thức (thính giác), 2 tâm tỷ thức (khứu giác), 2 tâm thiệt
thức (vị giác) và 2 tâm thân thức (xúc giác). Sở dĩ mỗi thứ có 2 v́ một là quả
của tâm thiện, một quả của tâm bất thiện.
Những tâm nầy tiếp xúc với thực
tại không qua sự suy diễn. Thấy một bức
tranh đẹp hay xấu không phải là cái biết của
tâm nhăn thức mà tâm nầy chỉ nhận biết màu sắc,
đường nét, chiều kích, sáng tối. C̣n
phẩm vị nghệ thuật hoàn toàn thuộc về sự
suy diễn nội tại. Như vậy
sự nhận thức của tâm đối với thực
tại hết sức giới hạn. Và
ngay cả những cái thấy, nghe, ngửi, nếm, đụng
cũng bị chi phối bởi các căn (thần kinh) và
điều kiện khách quan bên ngoài.
1.3 A Tỳ Đàm không
nói là đẹp hay xấu do cảnh khách quan hay do tâm chủ
quan là yếu tố quyết định mà là do nghiệp
quá khứ. Và những giác quan nhận biết
năm cảnh sắc, thinh, khí, vị, xúc sanh trước
nhũng tâm đổng lực nên không bị nhồi nặn
qua một tiến tŕnh suy diễn. Nói cách khác theo duyên sinh th́ xúc sanh thọ, thọ sanh ái chứ
không phải ngược lại.
Ty`
Khưu Giác Đẳng
ooOoo
TT
Giác Đẳng: Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, kính bạch
Chư Tôn Đức, kính thưa quí Phật tử. Bài học
hôm nay mang tính tồn đọng co`n lại, tuy nhiên bởi
vi` thời giờ đă trễ, ban đầu thi` có trù liệu
rằng chúng ta sẽ đi nhanh qua tâm tiếp thu và tâm quan
sát, rồi sau đó sẽ thỉnh TT Trí Siêu nếu có thi`
giờ sẽ giảng thêm về tâm duy tác vô nhân, nhưng
thi` giờ ngày hôm nay có lẽ
hơi lấn cấn một chút nên chi chúng ta sẽ có một
buổi học tương đối là uyển chuyển ở
trong này.
Kính
bạch Chư Tôn Đức và thưa quí Phật tử,
trước khi chúng ta đi vào nội dung của bài học
hôm nay, thi` xin được nói đến một khái niệm,
khái niệm này được đặc biệt quan trọng,
và được tri`nh bày trong truyền thống cổ
điển của Phật Giáo, nghĩa là thời Đức
Phật co`n tại thế cho đến măi về sau
này. Dường như đó
là cách tri`nh bày hết sức căn bản của Phật
Pháp khi đề cập đến con người, qua
đó chúng ta hiểu rằng kết cấu của con
người là một sự tương tát, sự gặp
gỡ giữa căn, cảnh và thức, chúng tôi muốn
nói đến quan điểm về 12 xứ, 18 giới mà
đặc biệt trong tâm vô nhân này lại đề cập
đến.
Về
điểm này thi` có lẽ trước khi thỉnh TT Trí
Siêu nói về vai tro` của hai tâm tiếp thu và quan sát, thi`
chúng tôi xin được thưa như vầy, với một
người học Phật thi` sẽ thấy rơ ràng rằng
căn, cảnh và thức là ba cái yếu tố để tạo
thành sự gặp gỡ của căn và thức rồi gọi
là xúc. Và xúc thi`
sanh ra thọ, thọ sanh ra ái thủ hữu như chúng ta
ti`m thấy ở trong ly' duyên khởi. Tại sao phải ly chi khi chúng ta
đề cập đến căn, cảnh và thức, là bởi
vi` chúng ta thấy một cách nói, Đức Phật Ngài
thường dùng ly' duyên sinh để Ngài giải toả,
để Ngài xoá đi những ngờ vực, những
biên kiến trong cái nhi`n chung,
là chúng ta thường quy về một cái gi` đó,
chúng ta đổ hết trách nhiệm, đổ hết lỗi
cho một phương diện nào đó, chúng ta quên rằng
đa số những chuyện xảy ra nó đều có nhiều
yếu tố để quyết định, chứ không
phải có một yếu tố mà thôi.
Chúng
tôi lấy ví dụ, đi gặp trời mưa thi` trời
mưa có thể làm quí vị cảm, nhưng không phải
trời mưa chịu trách nhiệm hoàn toàn, nếu chúng ta
là một người có thân thể cường tráng, hay
chúng ta quen sống với những cơn mưa lạnh
như vậy. Chúng tôi nhớ khi co`n bé, nhiều lúc dầm
mưa, tắm mưa, ba, bốn tiếng đồng hồ
chảy nhảy như vậy hết sức thoải mái,
không có bịnh gi` hết, bởi vi` tuổi
nhỏ quen với trời mưa, và trời mưa xuống
cảm thấy rất thích thú để đi chơi
nước ở bên ngoài.
Nhưng bây giờ thỉnh thoảng chúng tôi có
những lúc chịu những cơn mưa dầm, đi
đâu ra mà gặp cơn mưa nếu về không có thay y
áo nhanh chóng thi` có thể bị cảm, vi` cơ thể bây
giờ nó đă khác hơn ngày xưa. Vậy
thi` chúng ta cũng phải nói hai yếu tố tại
đây là mưa nó làm cho chúng ta bị cảm cũng là một
việc, nhưng cơ thể của chúng ta chịu đựng
như thế nào nó lại là một việc khác. Rồi cũng phải nói rằng có những
trường hợp hoàn cảnh, và bản thân nó lại
đóng một vài tro` chi phối đă đành rồi, chính
cái yếu tố tâm ly' cũng khiến cho chúng ta cộng
vào trong đó nữa, thêm một tánh quyết định khác.
Do vậy giáo ly' về duyên khởi
nói lên sự hỗn hợp, nói lên sự pha lẫn của
nhiều yếu tố để tạo thành một hiện
hữu, vi` vậy khi Đạo Phật dạy rằng cái
gọi sự sống nó là một cái thể hiện về
sự hoạt động giữa căn, cảnh và thức,
nó không phải là một đề tài đơn giản, nó
không phải là một đề tài nhỏ. Tại sao nó
không phải là đề tài nhỏ, bởi vi` chúng ta thấy
rơ ràng qua đề tài đó nó phá vỡ đi rất nhiều
cơ sở căn bản, mà chúng ta thường thấy ở
trong tính ly' các tôn giáo nhất là về linh hồn, nhiều
lúc người ta tưởng nghĩ linh hồn là một
thực thể thường hằng, nhưng cái nhi`n ở
trong kinh thi` rất rơ ràng là đủ điều kiện
như vậy, đủ yếu tố như vậy, nó làm
ra sự sanh khởi như vậy, và không nên nói rằng có
một yếu tố duy nhất quyết định.
Về
điểm này nó mở ra một cánh cửa mới của
thiền học, như nhiều lần Chư Tăng bàn luận
ở trong rơom cái ảo tưởng của chúng ta về
cuộc sống, nó là cái nhi`n hết sức đơn thuần,
do cái nhi`n đơn thuần đó, chúng ta không có cái nhi`n
chân sát về cuộc sống, chỉ đổ lỗi cho
một đấng toàn năng tạo cho chúng ta như vậy,
do hoàn cảnh nó tạo cho chúng ta như vậy, vi` vợ,
vi` chồng, đă làm cho chúng ta buồn phiền như vậy,
vi` yếu tố này, yếu tố khác. Tuy nhiên mọi thứ
nó đều có căn, có duyên. Mai này nếu chúng ta có một sự
việc gi` đáng buồn xảy ra trong đời sống
thi` chúng ta cũng không nên nghĩ rằng, tại anh A bà B chịu
trách nhiệm hoàn toàn về cái vui buồn của mi`nh, nếu
sự việc xảy ra đối với một người
khác thi` công việc nó phải khác đi, chứng tỏ cũng
tại một phần ở khả năng chịu đựng
hay là phản ứng của chúng ta, và bên cạnh đó chúng
ta co`n nói đến nghiệp quá khứ nữa.
Nên
truyền thống của phân tích hay phân tích tông nó đă trở thành một
cái truyền thống hết sức nổi bậc ở
trong kinh điển Phật Giáo, kể cả ngay trong thiền
quán, thiền tứ niệm xứ khi chúng ta đề cập
đến những phương pháp quán, quán tứ đại
hay quán 32 thể trược, thi` Đức Phật Ngài cũng
cho chúng ta thấy rằng, ví dụ một người lấy
ra một bao đậu ở trong đó có nhiều thứ
đậu, họ nhặc ra đây là đậu đen,
đây là đậu đỏ, đây là đậu trắng
v. v... sự phân tích đó là một
cách để xoá đi nhiều
ảo giác về con người của mi`nh, ảo
giác này là một cái quán tính nó đă sống với chúng ta từ
hồi nào đến bây giờ, chúng ta nhi`n chuyện đó
chỉ có một mà thôi, chỉ có một. Nên chi mặc dù
tâm tư của chúng ta hết sức phức tạp trong
cái ham muốn, trong cái đam mê, nhưng cái hiểu biết,
cái nhi`n của chúng ta về cuộc sống
quá đơn giản, đơn giản đến đỗi
chúng ta quên đi nhiều yếu tố nó đồng lúc chi
phối trong đó. Do vậy một người Phật tử
khi học Phật không hiểu về sự gặp gỡ
hay kết cấu của căn, cảnh và thức không hiểu
về tánh duyên khởi, duyên sinh, là chúng ta có thể nói rằng
chúng ta đánh mất đi một phần có thể là cốt
tủy quan trọng của Đạo Phật.
Chúng
tôi nghe có một vị học giả Việt Nam gần
đây, trong mấy mươi năm nay, sau thời gian dài
đọc kinh điển thi` cho rằng giáo ly' duyên khởi
là một trong giáo ly' quan trọng nhất của đạo
Phật. Ky`
thật ra khi chúng ta nói chuyện gi` quan trọng nhất,
thi` nghe dường như chúng ta thổi phồng quá
đáng. Chúng tôi
chỉ muốn nói quí vị một chuyện là một
người học Phật không thể không hiểu về
ly' duyên sinh và không hiểu về ly' duyên khởi. Ly' duyên sinh, duyên khởi mà chúng ta
nói ở tại đây, tức là một sự hi`nh thành có mặt hiện hữu bởi nhiều
nhân nhiều duyên khác nhau. Do vậy
trong bài học A Ty` Đàm đặc biệt về tâm vô
nhân, quí vị nghe Chư Tăng bàn luận với nhau rất
nhiều về căn, cảnh và thức.
Và
hôm nay đặc biệt sẽ cung thỉnh TT Trí Siêu giảng
đại lược về tâm quan sát và tâm tiếp thu, sau
đó cũng xin cung thỉnh TT Trí Siêu giảng về ba tâm
duy tác vô nhân, tức là tâm kháng ngũ môn, kháng y' môn và tâm
ưng cúng vi tiếu. Sau khi TT Trí Siêu giảng
xong về những thứ tâm này nếu co`n thi` giờ chúng
ta sẽ trở lại với phần thảo luận.
Hôm nay có rất nhiều điểm đặc biệt quan
trọng, chúng ta thảo luận về 12 xứ và 18 giới,
chúng tôi nghĩ rằng nó sẽ mở ra một cánh cửa
mới cho chúng ta nhi`n sự vật ở
trong một cái nhi`n khác đi.
Bây
giờ để đi vào bài học ngày hôm nay, kính cung thỉnh
TT Trí Siêu hoan hỷ tiếp tục cho tuần rồi chúng
ta có 18 tâm vô nhân, trong đó xin TT Trí Siêu giảng về vai
tro` của tâm tiếp thu, tâm quan sát và sau đó thi` xin TT giảng
luôn ba tâm hạnh vô nhân, ba tâm duy tác vô nhân. Kính
cung thỉnh TT.
TT Trí Siêu: Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, kính bạch
Sư Trưởng, kính bạch TT Giác Đẳng, kính
thưa quí vị. Hôm nay chúng ta
học về tâm vô nhân trong đó tiếp tục về tâm
tiếp thu sampaticchana, tâm quan sát sant́rana citta thi` chúng ta sẽ
học tiếp ba tâm hạnh vô nhân hay ba tâm duy tác vô nhân, tức
là tâm khai ngũ môn, tâm khai y' môn, và tâm ưng cúng vi tiếu,
ưng cúng sanh tiếu gọi là hasitupàda citta. Nhưng chúng
tôi nghĩ rằng với những thời lượng của
chúng ta chỉ trong khoảng 45 phút vừa phải giảng
và thảo luận, có lẽ chúng ta rất chật vật về
thời gian, do đó cho nên chúng tôi chỉ đề cập
đến hai loại tâm là tâm tiếp thu (sampaticchana citta),
tâm quan sát sant́rana citta, về
hai tâm này trước, sau đó chúng ta uyển chuyển nếu
co`n thời gian thi` chúng ta sẽ thêm về ba tâm tố vô
nhân, hay hạnh vô nhân.
Kính
thưa quí vị, tâm tiếp thu giống như một thứ
tâm làm môi giới giữa ngũ song thức và ư giới, thí
dụ như khi chúng ta vừa nhi`n thấy cảnh sắc
khởi, nhăn thức giới sanh khởi, và nhăn thức giới
này muốn chuyển tiếp qua tâm y' thức giới, tức
là tâm quan sát thi` phải qua làm phận sự gọi là y' giới. Ở đây chỉ có nghĩa là
thứ tâm có trách nhiệm tiếp thu 5 cảnh
giống như nó lưu giữ lại cảnh để
cho y' thức giới nương theo đó, dựa theo
đó mà phân tích cảnh. Bởi
vậy cho nên tâm tiếp thu mặc dù là một
thứ tâm đơn thuần, chỉ là y' giới gọi
là Mano-Dhàtu. Nhưng tâm tiếp thu nó cũng rất quan trọng,
giống như khi chúng ta đi đến một công sở,
thi` khi chúng ta đến gặp người thủ trưởng,
nếu không có người hướng dẫn viên để chỉ dẫn cho chúng ta, để
dẫn dắt cho chúng ta đi đến gặp vị thủ
trưởng của cơ quan đó, như vậy cũng
rất phiền toái như thế
nào, thi` khi cảnh đến tâm tiếp thu nó có trách nhiệm
là nhăn thức bắt được cảnh sắc rồi,
thi` cảnh sắc đó tâm tiếp thu nó sẽ thu nhiếp
để nó chuyển qua tâm y' thức giới kế đó
là tâm quan sát (sant́rana citta).
Tâm tiếp thu này có hai loại, tâm tiếp
thu quả bất thiện và tâm tiếp thu quả thiện,
tâm tiếp thu quả bất thiện thứ tâm đóng vai
tro` tiếp nhận 5 cảnh hiện vào, mà 5 cảnh đó
nó thuộc về 5 cảnh xấu cho nên ở đây hễ
tâm nhăn thức là quả bất thiện, thi` tâm tiếp thu
cũng phải là quả bất thiện, nó đi song song với
nhau như vậy, nếu tâm nhĩ thức là tâm quả bất
thiện bắt cảnh thinh, xấu thi` tâm tiếp thu lúc bấy
giờ cũng phải là tâm tiếp thu quả bất thiện
v.v.... Co`n nếu như tâm nhăn thức hay tâm nhĩ
thức, thiệt thức, v.v...
là tâm quả thiện vô nhân bắt cảnh sắc, cảnh
thinh, cảnh khí, cảnh vị, cảnh xúc tốt thi` vai
tro` của tâm tiếp thu nhận cảnh, tâm tiếp thu
đó cũng phải là quả thiện, nó ăn khớp với
nhau như vậy, nó đi cùng một family như vậy.
Và ở
đây tâm tiếp thu này luôn luôn xuất hiện trong tất
cả các lộ tâm, vi` hễ
tâm ngũ môn lộ tâm nương theo con mắt, lộ
tâm nương theo lỗ tai, nương theo lỗ mũi,
nương theo lưỡi, nương theo thân, chúng ta gọi là lộ tâm nhăn môn,
nhĩ môn, thiệt môn, thân môn.
Khi nhăn
thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức,
thân thức bắt cảnh sắc, thinh, khí, vị, xúc nó sẽ
chuyển tiếp qua tâm tiếp thu.
Tâm tiếp thu lưu giữ hi`nh ảnh đó, ví dụ
giống như cái máy chụp hi`nh chúng ta thường xử
dụng bộ phận nó lưu giữ cảnh sắc, cũng
giống như cuốn phim ở trong máy chụp ảnh nó
sẽ lưu giữ lại, rồi sau đó người
ta mới đem phim đó rửa với chất hóa học
in trên giấy nó sẽ thành một bức ảnh. Giai đoạn sau kể từ
khi cuốn phim thâu bắt cảnh rồi những công việc
khác nó cũng giống như y’ thức giới vậy, co`n
cuốn phim ở đây được ví dụ giống
như tâm tiếp thâu, nó sẽ lưu giữ lại hi`nh ảnh ở trên tấm phim. Mặc dầu chúng
ta có thí dụ như vậy, nhưng với sự thí dụ
này thi` chắc chắn chỉ nói lên một phần nào về
sự thí dụ cho tâm tiếp thâu chớ không phải là
hoàn toàn giống như vậy. Ở đây thưa quí vi, nếu khi chúng ta nói đến những
thành phần pháp chân đế, thi` đây quả thật là
vấn đề khó khăn vô cùng, và thưa quí vị
như vậy chúng ta nên hiểu tâm tiếp thu bằng cách
như thế.
Bây
giờ chúng tôi sẽ nói qua về tâm quan sát gọi là
sant́rana citta tâm quan sát này nó thuộc loại tâm gọi là y’
thức giới Mano-Dhàtu, loại tâm này có chức năng
nhiều hơn tâm tiếp thu, tâm tiếp thu làm chỉ mỗi
phận sự lưu giữ cảnh ngoại, nhưng tâm
quan sát nó lại đóng vai tro` hết sức quan trọng,
trong đó có vai tro` làm việc tục sinh để dẫn
dắt chúng sanh tái sanh ở những
cảnh giới thấp kém, do vậy cho nên nó được
gọi là tâm y’ thức giới.
Tâm y’ thức giới sâu sắc hơn tâm y’ giới của
tâm tiếp thu, tâm y’ thức giới thuộc
về tâm quan sát ở đây nó có 5 chức năng. Chức năng thứ nhất của
tâm quan sát, nó làm việc quan sát cảnh chúng ta gọi là làm
việc quan sát hay làm việc thẫm tấn, việc nữa
chúng ta gọi là tâm javanacitta hay tâm đổng lực sanh khởi
để sử ly’ ngoại cảnh, thấy, nghe, ngửi,
nếm, đụng thi` lúc bấy giờ đổng lực
sẽ sanh khởi để hưởng cảnh này.
Sau
tâm đổng lực sẽ có hai tâm quan sát để làm việc
mót cảnh, trường hợp mót cảnh, chúng ta nói nôm na
là mót cảnh giống như chúng ta ăn trái soài, sau khi
ăn hết phần thịt của soài rồi chúng ta mót lại
cái hột bởi vi` nó co`n dính chút ít. Cảnh ở đây nếu
cảnh rất lớn, tâm quan sát thâu bắt cảnh dư,
bởi vi` cảnh đến quá rơ, quá lớn.
Và ở đây trong thời bi`nh nhật, chính tâm quan sát này
nó cũng đóng vai tro`được gọi là Javana, nghĩa là
đối với một người làm ác bất thiện
pháp, quả của tâm quan sát, quả bất thiện vô
nhân, tâm quan sát đó nó sẽ làm cái việc gọi là tái tục
cho đi tái sanh ở những cảnh giới như địa
ngục, ngă qủi xúc sanh, a tu la, tái sanh vào bốn cơi khổ. Và ở đây quả thiện, thẫm
tấn quả thiện hay tâm quan sát quả thiện nó cũng
đóng vai tṛ như tâm quan sát quả bất thiện.
Tuy
nhiên ở đây tâm quan sát không phải có hai như tâm tiếp
thu hay như ngũ song thức, tâm quan sát ở đây nó có
đến hai, tâm quan sát quả bất thiện chỉ có một,
co`n tâm quan sát quả thiện thi` nó có hai thứ, có một
thứ thọ hỷ và một thứ thọ xả, nghĩa
là cảnh tốt hiện ra, nếu cảnh tốt thường
thi` đó là tâm quan sát quả thiện thọ xả, nó sẽ
dung nạp cảnh này, khi gặp cảnh sắc, thinh, khí,
vị, xúc và cảnh rất tốt, lúc bấy giờ tâm
quan sát sẽ thọ hỷ. Ở
đây hai vấn đề này chúng ta cũng nên lưu y’, và
thưa quí vị nên lưu y’ rằng chúng ta nên hiểu rằng,
hễ tâm tiếp
thu thuộc về quả thiện, thi` tâm quan sát cũng phải
là quả thiện, và tâm tiếp thu thuộc về quả
bất thiện thi` tâm quan sát cũng phải là quả bất
thiện.
Ở đây tâm quan sát, mặc
dù có 5 vai tro`, tức là vai tro`
quan sát cảnh sanh tiếp nối theo tâm tiếp thu, vai tro`
na cảnh, vai tro` tục sanh hộ kiếp và tử, nó
đóng 5 vai tro` như vậy, nhưng đối với
tâm quan sát quả thiện và xả thi` nó đóng 5 vai tro`
như thế, co`n tâm quan sát quả thiện và thọ hỷ
thi` nó chỉ có vai tro` gọi là quan sát cảnh, hay thập
di cảnh, mót cảnh mà thôi, chớ không làm ba công việc tục
sinh hộ kiếp và tử. Ở
đây tâm quan sát thi` chúng ta nên hiểu rằng trong quan sát
ngoài việc quan sát đó nó co`n làm công việc khác mà chúng tôi
vừa đề cập. Bây
giờ chúng ta lại đề cập đến vấn
đề là nếu tâm quan sát tái sanh để trở thành
người khổ trong bốn đường ác đạo,
tức là tái sanh vào địa ngục, ngă quỉ, a tu la,
thi` trong khi đó tâm quan sát quả thiện thọ xả nó
cũng làm việc tục sinh ở những cơi vui tất
nhiên là nó làm việc tục sinh cho người lạc.
Người
lạc là như thế nào, ở đây một người
làm thiện nhưng khiếm khuyết về tâm ly’ làm thiện,
chẳng hạn như làm thiện bằng tâm thọ xả,
làm thiện bằng tâm ly trí và hữu trợ thi` tâm đó
phải nói là rất yếu, nó yếu đến mức
độ mà nó chỉ tạo ra sự tái sanh không có nhân
tương ưng. Lúc tái sanh thi` không có 3 nhân tương
ưng, 3 nhân thiện tương ưng tức là vô tham, vô
sân và vô si, nó không có 3 nhân đó, nó tạo sanh thành người
lạc. Người
lạc ở đây tức là người so sánh với
người khổ thi` an lạc hơn, nhưng không thể
nào so sánh được sự an lạc của người
nhị nhân hay người tam nhân. Và như vậy mặc
dù tâm quan sát làm việc gọi là tái tục ở các cơi,
nhưng tâm quan sát này nó tạo thành chúng sanh chỉ ở cơi
nhân loại và ở cơi tứ thiên vương, là cơi chư
thiên, chỉ có như vậy thôi, không giống như tâm
đại quả, tâm đại quả nhị nhân hay tam nhân
thi` tâm đại quả đó tạo ra chúng sanh được
gọi là nhị nhơn hay người tam nhân.
Ở đây khi chúng ta bàn đến vấn
đề này, chúng ta thật khó nhận thức nếu
như chúng ta chỉ mới học A Ty` Đàm, chúng ta sẽ
khó có thể nhận biết được v.v…trong lớp
Phật học Vi Diệu Pháp. Thi` trong vấn đề này chúng
tôi sẽ đưa ra nhiều thí dụ cụ thể, hay
chúng tôi ghi trên bản đen để cho các học viên có
thể ghi nhận và hiểu được, co`n như ở
đây đối với chúng ta thi` không thể nào chúng ta học
bằng phương pháp đó được cho nên việc
giảng giải, cũng như việc chúng ta tiếp thu học
tập phải nói là một điều hết sức khó
khăn, chúng tôi cũng mong rằng những điều
chúng tôi giải thích sẽ làm cho quí vị hiểu
được một phần nào trong bài học hôm nay.
Nói
tóm lại tâm tiếp thu hay tâm quan sát thuộc về tâm quả
vô nhân và y’ thức giới, nó sẽ đóng một vai tro`
quan trọng cũng không kém gi` những tâm nhăn thức, nhĩ
thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và tâm
tiếp thu, bởi vậy cho nên tâm quan sát nó là một quy
định nó tiếp nối với tâm tiếp thu, chỉ
có như vậy. Và bây giờ co`n 25 phút này để cùng với
TT Giác Đẳng cũng như được cung thỉnh
Sư Trưởng để thảo luận cho xong 5 tâm
đó, 2 tâm tiếp thu và 3 tâm quan sát, sau khi thảo luận
xong nếu co`n thời giờ chúng ta sẽ bàn luận về
tâm khai ngũ môn, và tâm khai y’ môn và tâm sanh tiếu, ba tâm tố
này cũng hết sức quan trọng, do vậy cho nên nếu
chúng ta chỉ tri`nh bày trong một thời lượng ngắn
thi` chúng ta sẽ khó học hiểu được.
Minh Hạnh Thực Hiện