A Tỳ Đàm
Giảng Giải và Thảo Luận
Tâm Qủa Vô Nhân
A Tỳ Đàm, Bài 6.1
Ngày 21 tháng 5 năm 2004
Minh Hạnh biên soạn & Cô Tu Nữ Diệu Tịnh hiệu đính
Tâm Qủa Vô Nhân
Khái niệm về những tâm quả vô nhân
Những
điểm chính của phần 1
1.1 Nghiệp lực
chiêu cảm qua tâm thức
1.2 Sự nhận
thức giới hạn của tâm thức đối với
thực tại
1.3 Xấu tốt
do cảnh hay do suy diễn ?
1.1 Nghiệp lực
có thể tạo ra nhiều thứ từ môi trường
sống đến t́nh thân của người chung quanh và sự thành công trên đường
công danh sự nghiệp. A Tỳ Đàm đặc
biệt nhấn mạnh sự trổ sanh quả của
nghiệp qua ḍng tâm thức. Trong diễn
tŕnh của tâm, những tâm tạo quả và tâm quả liên
tục xen lẫn vào nhau. Chính v́ thế
tâm thức không hẳn thuần về "ư chí" hay lúc
nào cũng bị chi phối bởi "tiền định".
Không có những quan niệm mơ hồ về "phức
cảm tâm lư" mà là sự pha trộn của
nghiệp, quả và phiền năo. Như trường
hợp một người hưởng thụ dục lạc.
Những ǵ người đó có được
là quả tốt của tâm thiện quá khứ nhưng tù
đó sanh phiền năo rồi phóng túng đó là là quả thiện
sanh phiền năo để rồi phiền năo tạo nghiệp
bất thiện. Sự hỗn hợp phức
tạp đó là một đặc tính của lư duyên sinh.
1.2 Mười tâm
quả vô nhân đầu tiên c̣n được gọi là ngũ
song thức gồm 2 tâm nhăn thức (thị giác), 2 tâm nhĩ
thức (thính giác), 2 tâm tỷ thức (khứu giác), 2 tâm thiệt
thức (vị giác) và 2 tâm thân thức (xúc giác). Sở dĩ mỗi thứ có 2 v́ một là quả
của tâm thiện, một quả của tâm bất thiện.
Những tâm nầy tiếp xúc với thực
tại không qua sự suy diễn. Thấy một bức
tranh đẹp hay xấu không phải là cái biết của
tâm nhăn thức mà tâm nầy chỉ nhận biết màu sắc,
đường nét, chiều kích, sáng tối. C̣n
phẩm vị nghệ thuật hoàn toàn thuộc về sự
suy diễn nội tại. Như vậy
sự nhận thức của tâm đối với thực
tại hết sức giới hạn. Và
ngay cả những cái thấy, nghe, ngửi, nếm, đụng
cũng bị chi phối bởi các căn (thần kinh) và
điều kiện khách quan bên ngoài.
1.3 A Tỳ Đàm không
nói là đẹp hay xấu do cảnh khách quan hay do tâm chủ
quan là yếu tố quyết định mà là do nghiệp
quá khứ. Và những giác quan nhận biết
năm cảnh sắc, thinh, khí, vị, xúc sanh trước
nhũng tâm đổng lực nên không bị nhồi nặn
qua một tiến tŕnh suy diễn. Nói cách khác theo duyên sinh th́ xúc sanh thọ, thọ sanh ái chứ
không phải ngược lại.
Ty`
Khưu Giác Đẳng
ooOoo
TT
Giác Đẳng: Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, kính bạch
Chư Tôn Đức, kính bạch TT Trí Siêu, kính thưa quí vị.
Sáng hôm nay chúng ta bắt đầu học tâm vô nhân, đúng
ra thi` trong mỗi chương tri`nh học chúng tôi là người
có trách nhiệm mở đầu bài mới và ôn lại những bài cũ,
trong lúc TT Trí Siêu sẽ là người tóm tắt bài học
trong ngày, do vậy điểm đầu tiên chúng tôi xin nhắc
lại là chúng ta hiện đang học 54 tâm dục giới. Tuần vừa qua
chúng ta học về hai tâm si tức là trong 12 tâm bất thiện. Tâm Dục Giới theo Abhidhammattha
Sangaha chúng ta học phần đầu 12 tâm bất thiện
tức là 8 tâm tham, 2 tâm sân, và 2 tâm si.
Hôm nay chúng
ta học về tâm vô nhân, trong phần số một chúng ta
học tâm quả vô nhân. Có thể nói rằng trong 15
tâm vô nhân, mặc dù vai tro` của những tâm này mới nghe
thi` xem như rất muội lượt, nhưng ở
trong đó thi` hàm chứa cả những tâm có những phận
sự hết sức đặc biệt, quan trọng đến
nỗi về sau này có một số lập luận của
Phật Giáo Nam Truyền cũng như Bắc Truyền
đă dùng danh sách, những thức mở đầu với
nhăn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức,
thân thức.
Những thức này hay
những giác quan chúng ta thường nghe đó là thị
giác, thính giác, khứu giác, vị giác, xúc giác, đều nằm
ở trong những tâm vô nhân này.
Hôm nay chúng ta chưa đào sâu vào những
tâm vô nhân, chúng ta chỉ trở lại với một số
khái niệm. Chúng tôi tin rằng
những khái niệm này cần thiết để chúng ta có
thể bước sang bài học thứ hai vào ngày mai, đó là phần
thứ hai của bài học hôm nay.
Phần
đầu chúng ta tập trú vào ba điểm, và có lẽ về
ba điểm này chúng ta sẽ nhận thấy một
điều rất ngạc nhiên.
- Điều thứ nhất là sự
chiêu cảm của nghiệp qua gio`ng tâm thức, đối
với phần đông những người ở thế
gian này thi` nghiệp chiêu cảm qua nhiều lănh vực mà
chúng ta nghĩ rằng nó quan trọng hơn, ví dụ
như gia đi`nh, ví dụ như môi trường sống
của chúng ta, ví dụ như sự thành bại ở bên
ngoài. Nhưng
chính cái nghiệp chiêu cảm trong gio`ng tâm thức lại có
một ư nghĩa đặc biệt ở trong đạo
Phật. Riêng
trong A Tỳ Đàm thi` nói rằng tâm có những tâm tạo
quả, những thứ tâm quả là những thứ tâm sản
sinh ra bởi nghiệp ở trong quá khứ. Và những tâm quả
vô nhân, thiện và bất thiện ở đây được
đặc biệt quan trọng đề cập đến,
mà lát nữa đây TT Trí Siêu sẽ đi sâu vào.
- Điểm
thứ hai chúng ta sẽ đề cập đến bài học
ngày hôm nay, là chúng ta sẽ nhi`n qua sự
lănh hội hay sự nhận thức của chúng ta đối
với thực tại. Chúng ta
thấy một đám mây bay ở trên trời, chúng ta thấy
một đóa hoa đẹp. Ở trong cái thấy đóa hoa đẹp đó có
bao nhiêu cái thấy thuộc về trực tiếp, có bao
nhiêu cái thấy thuộc về chân đế, và bao nhiêu cái
dựa trên sự suy diễn của chúng ta. Khi học về tâm
vô nhân chúng ta sẽ thấy rằng cái khả năng tiếp
xúc của chúng ta đối với thực tại giác quan
hết sức hạn chế.
- Điểm thứ
ba cũng trong bài học ngày hôm nay phải xác định một
lần nữa cái gọi là đẹp xấu, cái gọi là
hay dở, cái gọi là quả thiện hay quả bất
thiện ở trong đời sống. Có đôi khi chúng ta nghe công án quen thuộc của thiền tông là tâm động
hay phướng động, chúng ta nói tại trong tâm hay tại
cảnh, thi` ở trong tâm vô nhân cho chúng ta biết rằng
những điều đó không hẳn do tâm hay do cảnh,
mà là do nghiệp. Tại sao
nghiệp lại có thể chi phối ngay ở trong sát na mà tâm thức chưa có đủ điều
kiện để suy diễn.
TT Trí Siêu sẽ
trở lại với chúng ta về ba điểm trên trong
phần mở đầu của tâm vô nhân. Bây giờ kính bạch Chư Tôn Đức
và thưa quí vị, xin thay mặt đại chúng kính cung thỉnh
TT Trí Siêu hoan hỷ bắt đầu bài giảng hôm nay với
phần số một giới
thiệu tâm quả vô nhân, xin cung thỉnh TT.
TT Trí Siêu:
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, kính bạch Chư
Tôn Đức, kính bạch TT Giác Đẳng, kính thưa quí vị.
Với đề tài tâm vô nhân, và về tâm vô
nhân này, trước nhất trong ngày hôm nay chúng ta sẽ học
về tâm quả. Trong phần dẫn nhập TT Giác Đẳng
đă giới thiệu phần nghiệp lực chiêu cảm
qua tâm thức, thứ hai sự nhận thức giới hạn
của tâm thức đối với thực tại, thứ
ba xấu tốt do cảnh hay do suy diễn.
Kính thưa quí vị, trước hết chúng ta
nói về tâm quả vô nhân, ở đây tâm quả vô nhân là một
thứ tâm kết quả do thiện nghiệp hoặc ác
nghiệp ở trong quá khứ. Những tâm quả này được
gọi là vô nhân, vi` những tâm quả thiện hay bất
thiện vô nhân nó không có sự tương ưng của 6
nhân là tham, sân, si, là vô tham, vô sân và vô si.
Thoạt nghe qua thi` chúng ta thấy những
tâm này có tính cách muội lượt, bởi vi`
tâm vô nhân là những thứ tâm nó không hoạt dụng giống
như tâm quả hữu nhân, nó cũng không có được
một năng lực như tâm quả hữu nhân. Mặc dù vậy tâm vô nhân trong
đời sống bi`nh nhật của
chúng ta. Ở đây thưa quí
vị, nghiệp tạo ra quả, nó có hai thứ quả,
là quả tái tục và quả bi`nh nhật. Nghiệp thiện hay nghiệp bất
thiện tạo ra thứ quả tốt hay là quả xấu
vipàka.... bị dẫn đi
tái sanh ở các cơi dục giới, cơi sắc giới và cơi
vô sắc giới, cơi vui hay là cơi khổ, tâm quả đó
đóng vài tro` trí sanh thức.
Và thứ hai gọi qủa bi`nh nhật,
trong quả bi`nh nhật này, trong đó có
15 tâm quả vô nhân, trong đời sống bi`nh nhật của
chúng ta cũng có những loại tâm quả, nó đă hiện
khởi ngay từ lúc tái tục, lúc tục sinh. Tuy nhiên ở đây
chúng ta cũng nên lưu y' đối với tâm quả vô
nhân, vi` nó đóng một vai tro` hết sức quan trọng,
để trợ cho đời sống của chúng sinh nhận
thức cảnh khí, cảnh vị, cảnh xúc. Những tâm quả
vô nhân này nó đóng vai tro` ngũ giác quan như tuệ giác, tức
tâm nhăn thức, vị giác tức tâm thiệt thức và xúc
giác tức tâm thân thức.
Năm loại thức tâm này khi hiện khởi để
bắt cảnh ngoại tuỳ thuộc vào các thứ tâm
khác sanh tiếp theo đó, như tâm thiếp
thu sampaticchana citta, tâm thẫm tấn hay tâm quan sát gọi là
sant́rana citta, rồi tâm phân đoán hay là tâm đoán định
votthabbanacitta, sau đó là tâm động lực Javana.
Cả một diễn tri`nh của tâm thức nó phải
hiện khởi trong một trường hợp thấy,
hoặc nghe, hoặc ngửi, hoặc nếm hoặc đụng
một cách chi tiết, nếu không có những tâm khác thi` tâm
ngũ song thức nó chỉ sanh khởi và biết cảnh
một cách đơn thuần.
Những tâm quả vô nhân này nó đóng vai tro` then chốt,
tâm nào có tâm nhăn thức sanh khởi để bắt cảnh
sắc thi` đó gọi là lộ tâm nhăn môn, lộ tâm có tâm
nhĩ thức sanh khởi lên v. v... do vậy cho nên tâm vô
nhân này chi phối trong đời sống bi`nh nhật của
chúng sanh rất quan trọng và những tâm này hết sức
mật thiết, chỉ trừ cơi vô tưởng, trừ
cơi vô sắc, co`n lại 26 cơi thi`có tâm vô nhân ngũ uẩn
này.
Ở đây thưa quí vị, trước
hết trong phần 1.1 chúng ta nói về nghiệp lực
chiêu cảm, 9
tư tâm sở, tâm thiện hay tâm bất thiện, tư
tâm sở sẽ có mănh lực để tạo ra quả về
sau, và tâm đó nghiệp lực có sự chi phối bởi
ái và thủ, hoặc ái và tà kiến, cho nên nó mới tạo
ra cái tâm quả được.
Tại sao
chúng ta nói đến điều này, bởi vi` thưa quí vị
một chúng sanh nào đó trong đời quá khứ, khi họ
tạo thiện nghiệp hay bất thiện nghiệp về
cảnh sắc, cảnh thinh, cảnh khí, hay cảnh bất
thiện nào đó, nó sẽ ảnh hưởng đến
phiền năo chấp thủ này, mà sau này nó lại hiện khởi
lên tâm quả nhăn thức, nhĩ thức, thiệt thức,
thân thức. Có cố gắng
nỗ lực tu thiền, họ chứng được
thiền sắc giới, và đối với vị hành giả
tu tập mà chỉ co`n chấp trước đối với
cảnh sắc, cảnh thinh cho nên chỉ có sanh khởi
được tâm nhăn thức, tâm nhĩ thức mà thôi, chớ
không có sanh khởi như những thức tâm như là tiếp
theo không thể sanh khởi ba thức sau được.
Ở đây thưa quí vị, đối
với một người họ tu thiền vô sắc với
mănh lực thiền này, họ khởi lên y' nguyện mong
đời sau không có thân sắc pháp và như vậy đối
với vị hành giả này họ thuần thục hơn,
cho nên họ đă không chấp trước về cảnh
sắc, cảnh thinh, cảnh khí, cảnh vị, cảnh
xúc, nên chi những chúng sanh đó chỉ có tâm mà không có sắc,
và vi` rằng trong đó không có 5 sắc thần kinh, nhăn thức,
nhĩ thức v.v....
Như vậy khi chúng ta
đề cập đến vấn đề nghiệp,
chúng ta nên lưu y' ở hai khía cạnh. Khía cạnh thứ nhất gọi
là dị thời nghiệp duyên, để tạo ra thứ
tâm quả sanh trong đó nó co`n ảnh hưởng bởi
thường cận y duyên (pakatùpanissayapaccayo), cho nên thức
tâm sanh khởi trong bi`nh nhật từ nhỏ cho đến
lớn, cho đến bây giờ chúng ta sanh khởi không biết
bao nhiêu tâm nhăn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt
thức, thân thức. Bởi
vi` đó chính do thường cận y duyên của nghiệp
và quá khứ chấp thủ quyến luyến ưa thích,
nên ái đối với cảnh sắc, cảnh thinh, cảnh
khí, cảnh vị, cảnh xúc, cho nên theo bi`nh nhật kiếp
hiện tại này sanh ra có đầy đủ ngũ quan
để mà thấy, nghe, ngửi, nếm, đụng. Vấn đề
chúng sanh tạo ra nghiệp và có thân ngay trong hiện tại
nó được chiêu cảm bởi nghiệp ở quá khứ
rất đặc biệt.
Điểm thứ hai trong bài
học này, chúng ta nói đến sự nhận thức giới
hạn của những thức tâm đối với thực
tại. Chúng ta gọi là
giới hạn, bởi vi` những quả thức này nó
chưa có một sự suy diễn nào đối với 5 cảnh
thực tại đó, thế thi` khi chúng ta nhi`n cái thân, chúng
ta ngửi phải mùi, chúng ta nếm vị của vật
thực hoặc chúng ta xúc chạm, thi` lúc bấy giờ làm
sao chúng ta có thể thoải thích hay chúng ta bất măn, điều
đó phải do nhờ tâm đổng lực javanacitta, có một
điều chúng ta phải lưu y' khi chúng sanh đó
chưa đạt được quả vị lậu tận
giải thoát, một điều chúng ta phải lưu y' là
thức tâm vô nhân sanh khởi chính do thiện hoặc ác trở
thành nghiệp để tạo ra, hoặc chúng ta thấy
nghiệp, nghe, ngửi, nếm, đụng những môi
trường đó. Và những
thiện hay bất thiện này sanh khởi mà biết cảnh
sắc, cảnh thinh, cảnh khí, cảnh vị, cảnh
xúc để rồi những kiếp sanh sau nó lại tạo
ra những quả thức này.
Ở đây thưa quí vị trong quá
tri`nh luân hồi sanh tử, chúng ta chỉ nhi`n lại sự
hiện khởi của thân ngũ uẩn này là chúng ta đă
thấy có sự phức tạp rồi, đó là chúng ta
chưa bàn qua ở khía cạnh khổ luân hồi, và ở
đây thưa quí vị rồi sau tâm nhăn thức, thi` lại
sanh khởi một sampaticchana, tức là sanh khởi một
thức tâm tiếp thu cảnh sắc đó
(Sampaticchana). Tâm tiếp thu này cũng là một loại quả vô nhân,
mà sau tâm thậm thấm đó là những tâm đoán định,
rồi thi` mới có tâm thiện hay tâm bất thiện tiếp
theo sau sanh khởi. Sau tâm thận
tấn quan sát sẽ là tâm đổng lực đẩy tố
hay duy tác.
Một lộ tri`nh khởi lên để
bắt lấy cảnh sắc, rồi chuyển qua lộ
y' môn nối góm với lộ ngũ, lộ
ư môn này khởi lên một cách liên tục, hàng vạn hàng ức
sát na tâm chớ không phải chỉ đơn thuần một
lộ tâm nhăn thức. Bởi vi` tâm sanh
diệt cả hàng triệu triệu sát na trong một thời
gian tích tắc, một búng ngón tay thôi, thời gian đó là
thời gian có hàng tỷ sát na tâm sanh khởi. Trong hàng tỷ sát na
tâm sanh khởi đó, triệu triệu sát na tâm sanh khởi
đó thi` nó lại có sự xen kẽ giữa lộ y' môn,
rồi sau đó sẽ nhận diện được cảnh
sắc này, cho nên ở đây chúng ta thấy rằng đối
với cảnh thi` đă có sự nhận thức cảnh
một cách giới hạn. Chữ
giới hạn ở đây là do giới hạn trông thấy
chỉ là thấy, cảnh chỉ là cảnh, cảnh sắc
chỉ là cảnh sắc, hoặc cảnh thinh chỉ là cảnh
thinh, chứ chưa có sự suy diễn, cho nên chúng ta mới
gọi những tâm này bắt cảnh một cách giới hạn
như thế.
Và khi chúng ta đề cập đến
vấn đề này, với những ai có học Vi Diệu
Pháp rồi thi` chúng ta sẽ thấy điều đó, co`n ở
đây chúng ta sẽ thấy một sự kiện bài học
rất khô khan, và khi chúng ta đề cập đến vấn
đề thấy, thi` chỉ trong sự thấy, sự
nghe đó khởi lên những sự ưa thích hoặc không
ưa thích để rồi tạo nên thiện nghiệp hoặc
bất thiện nghiệp do tâm đổng lực sanh khởi.
Ở tạng kinh tri`nh bày vấn đề
này rất dễ hiểu, nhưng ở tạng Vi Diệu
Pháp thi` phải nói là một vấn đề khô khan tế
nhị và chúng ta đọc qua chúng ta sẽ thấy khó
khăn vô cùng.
Ở đây thưa quí vị, lại
bước qua một vấn đề nữa, hăy do suy diễn
trước khi chúng ta bàn đến vấn đề
đó, chúng ta hăy trở lại để chúng ta phân loại
tâm vô nhân này. Tâm vô nhân được sanh quả vô nhân,
được tiếp thu, và ba tâm sở thẩm tấn,hay ba tâm quan sát, sở dĩ có hai tâm nhăn thức,
hai tâm nhĩ thức v.v... bởi vi` một thứ nhăn thức do tâm quả
của bất thiện, co`n một thứ nhăn thức do quả
thiện dục giới tạo ra.
Cũng vậy đối với nhĩ
thức cũng có nhĩ thức quả bất thiện và
nhĩ thức quả thiện. tỷ thức
cũng có thức quả bất thiện, tỷ thức quả
thiện, thiệt thức cũng có thiệt thức quả
thiện và thiệt thức quả bất thiện, thân thức
cũng có tâm thân thức quả thiện và thân thức quả
bất thiện. Đối với nhóm ngũ
thức bất thiện thi` sau đó đi kèm là tâm tiếp
thu quả bất thiện và tâm quan sát quả thiện, kèm
sau đó sẽ là tâm tiếp thu quả thiện và tâm quan
sát quả thiện.
Ở đây thưa quí vị khi chúng ta
nói đến vấn đề phân loại, thi` chúng ta sẽ
thấy tại sao quả bất thiện vô nhân có 7 thứ,
quả thiện vô nhân có 8 thứ, thi` đối với cảnh,
đối với tâm quả bất thiện thi` luôn bắt
cảnh xấu, và khi đă là cảnh xấu thi` giai đoạn
tiếp nhận cảnh hay quan sát cảnh thi` chỉ là thọ
xả mà thôi. Co`n đối với
cảnh tốt vi`nó có hai loại, tức là cảnh tốt
thường với cảnh sắc, chưa phải sắc
khả ái, khả y', mặc dù đó là cảnh tốt thi`
khi cảnh tốt hiện khởi thi` tâm quan sát quả thiện
thọ xả nó sẽ sanh khởi tiếp theo, co`n đối
với cảnh cực tốt thi` lúc bấy giờ tâm quan sát này
không phải chỉ là thọ xả mà nó là thọ hỷ,
như vậy tâm quả của thiện thi` nó có 8 thứ
là bởi vi` thêm quan sát thọ hỷ nữa. Co`n đối với tâm quả bất
thiện thi` chỉ có 7 thôi, bởi vi`
tâm quan sát quả bất thiện chỉ có một tâm thọ
xả.
Đó là
chúng ta nói qua một chút vấn đề liên quan đến
sự phân loại của hai thành phần quả thiện
thi` bắt cảnh tốt và quả bất thiện vô nhân
thi` bắt cảnh xấu. Bây
giờ tiếp tục cho vấn đề này, rơ ràng là nếu mà cảnh
tốt hay cảnh xấu do nghiệp lực ở quá khứ
chi phối, thi` tâm nhăn thức đó có hai là tâm nhăn thức
quả bất thiện và nhăn thức quả thiện. Hai tâm nhăn thức này, hoặc hai
tâm thiệt thức, tỷ thức, thân thức cũng
đều có điều kiện là không phải do sự
suy diễn mà đề cập đến vấn đề
cảnh tốt hay cảnh xấu. Sở dĩ mà chúng tôi
nói về vấn đề nhận định xấu hay tốt
do cảnh hay là do nghiệp lực, phần này chúng ta nghe
chúng ta rất khó hiểu, chúng ta khó nhận thức
được.
Bây giờ chúng ta lại nói qua vấn
đề cảnh tốt hay cảnh xấu cũng có thể
do sự suy diễn, tức do tâm của mỗi người.
Một người họ thích ăn trái sầu riêng vi` mùi và vị của trái sầu riêng sẽ
là cảnh tốt đối với họ, họ gặp
trái sầu riêng thi` họ khoan khoái, dễ chịu, thỏa
thích, bởi vi` họ đă thèm khát, họ đă thưởng
thức được món ăn trái cây này. Nhưng ngược lại đối
với một người khác, người đó không quen
ăn trái sầu riêng, và do đó họ đă kỵ mùi vị
của trái sầu riêng, họ nói rằng khi ngửi phải
mùi sầu riêng thi` họ cảm thấy mùi sầu riêng là
mùi hôi, họ nhận định như vậy.
Trong trường
hợp này chúng ta thấy cảnh tốt hay cảnh xấu?
thi` nó ngược lại điều
đă nói, ở đây chính do sự suy diễn mà ra, bởi
thế rất khó nói. Lại nữa khi chúng ta đề
cập đến bài này, chúng ta cũng có thể suy diễn , ví dụ ở bên ngoài nóng chúng ta vào
bếp lo` để đun củi và nấu cơm, thi` ngay
khi đó trở thành cảnh xúc xấu bởi vi` họ cảm
thấy khó chịu đối với cảnh xúc nóng này thi`
nó trở thành cảnh xấu.
Ở bên ngoài lạnh thi` lúc đó ngồi bên ḷ lửa
đang cháy để sưởi ấm, cũng ngọn lửa
cũng giống như ngày hôm qua nhưng lửa đó khi hơi nóng nó
xúc chạm vào thân này thi` chúng ta lại thấy ấm,
như vậy thi` vấn đề cảnh tốt hay cảnh
xấu chúng ta cần phải cân nhắc suy tư trên bốn
phương diện, chớ chúng ta không thể kết luận
vội vàng và một cách độc đoán. Ở đây thưa
quí vị bốn khía cạnh để nhận định
về cảnh tốt hay cảnh xấu đó là gi`.
- 1) thứ
nhất cảnh tốt hay cảnh xấu là do suy diễn,
hay nói một cách khác tức là do phần đông con người
nhận định, họ phân biệt đây cảnh xấu,
đây cảnh tốt, ví dụ như bây giờ một
chén cơm nghi ngút với những vật thực ngon lúc
đó ai cũng cho rằng đây là cảnh tốt,
nhưng khi nhi`n một đống phẩn ai cũng cho rằng
đấy là cảnh xấu, vừa là cảnh sắc xấu
vừa là cảnh vị xấu, do vậy do thực tính hoặc
do phần đông họ nhận xét, do nơi phần
đông họ nhận định mà chúng ta nói tốt hay xấu.
- 2) Yếu tố thứ hai để
chúng ta làm cơ sở nhận định, vấn đề
tạo môi trường hoàn cảnh chung quanh, như chúng tôi
mới cho ví dụ mùa hè được ngọn gió mát thi`
đó là cảnh tốt, nhưng vào mùa đông nếu có gió
thi` cảm thấy lạnh chịu không nổi và không hoan hỷ
do vậy cho nên cũng cảnh xúc gió, nhưng trong trường
hợp đó cảnh xấu hay cảnh tốt nó tùy thuộc
vào hoàn cảnh môi trường
- 3) Thứ ba là tùy thuộc tâm ly',
tâm ly' ở đây chúng ta muốn nói đến vấn
đề hễ mi`nh có sở thích với thứ gi`, thi`
khi gặp thứ mi`nh thích thi` nó sẽ trở thành cảnh
tốt, và chúng ta bất măn với thứ gi` khi gặp hay
nghe những lời hoặc thấy những vật thể
đó, tự nhiên ở đây nó trở thành cảnh xấu,
có thể cũng một cảnh mà ở đây nó trở
thành tốt, xấu, đó tùy thuộc vào vấn đề
tâm ly' suy diễn của mỗi người
4) Và yếu tố thứ tư khi họ
tu tập viễn ly, xả ly, nhi`n tử thi để quán
tưởng, thi` lúc bấy giờ cảnh đó đối
với họ không phải là cảnh xấu, bởi vi` họ
có đề tài để phát triển thiền quán, cho nên
khi gặp cảnh đó thông thường thi` họ sẽ
có khả năng tu tập tuệ quán thi` lúc bấy giờ
họ lại hoan hỷ trong đề mục để tu
thiền quán của họ
Sở dĩ chúng tôi tri`nh
bày bốn khía cạnh này tại đây để cho chúng ta
có cơ hội chúng ta... ở đây trong vấn đề
này, cảnh xấu hay tốt do cảnh hay do suy diễn mà
ra. Kính chúc quí vị được nhiều
trí tuệ và tu tập được tốt đẹp.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Minh Hạnh Thực Hiện