www.dieuphap.com   
Trang Pháp Đàm 
A Ty` Đàm 
Bài Giảng   3.1A
Bài 3.  1a
Thảo Luận  1
Thảo Luận  2
Thảo Luận  3
Bài Giảng   3.1B
Bài 3.  1b
Thảo Luận  4
Thảo Luận  5
Thảo Luận  6



A Tỳ Đàm
Ging Giải và Tho Luận

Tâm Bất Thiện

A Tỳ Đàm, Bài 5.3   Ngày 15 tháng 5 năm 2004


Minh Hạnh biên soạn & Cô Tu Nữ Diệu Tịnh hiệu đính

Tâm Bất Thiện- Tâm Si



Những điểm chính

1) Định nghĩa tâm si

2) Hai thứ tâm si

3) Vai tro` của tâm si trong tâm bất thiện

Ty` Khưu Giác Đẳng

 

TT Giác Đẳng : Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, kính đảnh lễ Chư Tôn Đức, kính đảnh lễ Sư Trưởng, kính chào quí Phật tử trong rơom.  Hôm nay chương tri`nh A Ty` Đàm, chúng ta sẽ bàn về tâm si trong A Ty` Đàm.  Thật ra với một người học Phật thi` có một số định nghĩa ly' giải của tạng A Ty` Đàm làm chúng ta đặc biệt ngạc nhiên, khi đề cập đến một số khái niệm, ở trong đó có khái niệm về thiện ác, về nhân quả, và trong bài học hôm nay chúng ta sẽ có dịp nhi`n về tâm si.

 

Tâm si được hiểu trong đời sống của chúng ta là một thái độ tương đối thụ động. 

 

Chúng ta hiểu tâm tham là một lối đi tầm cầu mang tánh cách năng động.

 

Tâm sân đó là một trạng thái tâm bất măn cũng có tánh năng động.

 

Nhưng tâm si thi` tương đối muội lượt thụ động. Nhưng thật ra trong cái nhi`n của A Ty` Đàm thi` cả tham, sân, si, nó đều có cả năng động lẫn thụ động theo quan niệm thường thức ở bên ngoài.  Riêng về tâm si lát nữa chúng ta sẽ nghe TT Trí Siêu giảng dạy, thi` quí vị có thể dễ dành nhận thấy một điều, nó không phải ti`nh trạng thái tâm đơn thuần không thấy, không biết, hay mê mờ hoặc muội lượt.  Và trạng thái này nó là một trong những trạng thái phiền năo, mang tính năng động lớn ở trong đời sống của chúng ta. 

 

Đặc biệt trong 8 tâm tham, hai tâm sân chúng ta vừa học, thi` những tâm tham được phân loại theo những khía cạnh, ví dụ như cảm thọ, thọ hỷ và thọ xả, hoặc có đi chung với tà kiến hay không đi chung với tà kiến, hoặc giả có tán trợ hay không tán trợ, chúng ta lấy những yếu tố đó để chia.  Hay tâm sân chúng ta chỉ chia đơn thuần hữu trợ hay vô trợ, nhưng riêng hai loại tâm si thi` nó mang hai tính đặc biệt hoàn toàn khác trên phương diện phân loại.

 

Nói đến tâm si, một trạng thái tâm bất thiện, thi` chúng ta một lần nữa được nhi`n vấn đề một cách đặc biệt tế nhị khi chúng ta nói đến tâm si hoài nghi và tâm si phóng dật.  Một số nhỏ trong chúng ta xem như là thái độ hoài nghi hay hoài nghi chủ nghĩa là một thái độ nặng về ly' tính,và ít nhất cũng sản sinh ra từ ly' tính. Trí tuệ nhiều quá thi` sanh ra hoài nghi, nhưng mà nếu hoài nghi được liệt kê vào thứ tâm si mê, là một loại tâm si thi` làm cho chúng ta ngạc nhiên không ít.

 

Bây giờ chúng ta lại có dịp nhi`n tâm si qua một khía cạnh khác, hầu như những người Phật tử bi`nh thường khi chúng ta đề cập đến ba thứ phiền năo, tham, sân, si, thi` thưa quí vị chúng ta chỉ thấy tham sân trên phương diện phê phán, trên phương diện nghiệp báo thi` nó mới có lỗi thôi.

 

Ví dụ một người quá ham hố về chuyện gi` đó, hay môt người vốn có sân tâm và không tự chủ được. 

 

Riêng về tâm si, hồi năy chúng tôi thường nói rằng chúng ta thường quan niệm nó là một thứ tâm muội lượt, chúng ta thường quan niệm tâm si, hiểu si là si mê.  Một con người u mê, nếu không được tán thán nếu không được hay, không được giỏi mà là một người u mê th́ u mê đó không có gi` để trách trên phương diện luân ly'.  Nhưng nếu nhi`n dưới góc cạnh của A Ty` Đàm thi` tâm si không đơn giản như vậy, và riêng về cái chủng tử, cái nhân xâu sa nhất của si, tức là sở hữu si, tức tâm sở si, thi` tâm sở si lại có một ảnh hưởng bao chùm đối với tâm tham và tâm sân. 

 

Và vi` vậy vấn đề nó phải được nhi`n ngược lại hoàn toàn, tâm si nó không co`n nằm trong cảnh giới muội lượt như chúng ta nghĩ, mà tâm si khác phải có một vai tro` chi phối rộng lớn bao chùm tất cả các tâm bất thiện.

 

 Chúng tôi xin lưu y' quí Phật tử, những trạng thái tâm bất thiện mà chúng ta đề cập ở tại đây cho chúng ta một danh sách mới về phiền năo, ví dụ như những tâm sở bất thiện và sự phân loại đi chung với những tâm sở này với nhau, tiết lộ cho chúng ta đặc biệt nhiều về A Ty` Đàm đối với phiền năo.  Lấy ví dụ như tà kiến được hiểu theo thường thức thi` có lẽ là một thứ tâm si, bởi vi` ai cũng nghĩ rằng một người tin một cách lầm lạc, tin một cách sai quấy, thi` người đó si mê, hễ người đó si mê thi` tà kiến được đi với tâm si. 

 

Nhưng riêng trong A Ty` Đàm nó chỉ sanh khởi ở trong tâm tham mà thôi, nó không sanh khởi ở trong tâm si, mặc dù tà kiến đi với tâm sở si và tâm sở si phần có mặt trong tất cả tâm bất thiện, tuy nhiên cái tâm mà  tà kiến sanh khởi chung là những tâm tham, về điểm này thi` chúng ta phải nói rằng A Ty` Đàm đặc biệt soi sáng cho chúng ta cái yếu tố tương ưng hay tương hợp mang tính tự nhiên nhiều hơn là quan niệm thường thức mà chúng ta suy đoán ở bên ngoài nếu một người bên ngoài mà có trách sai, hiểu lầm và chúng ta nghĩ rằng người đó si mê.

 

Chúng tôi đặc biệt lưu y' quí vị tại đây là một trong những cách học A Ty` Đàm lợi nhứt, là ban đầu chúng ta tập lắng nghe và ghi nhận, khi chúng ta có những thành tố, những yếu tố tương đối đầy đủ rồi thi` sự bàn thảo của chúng ta sẽ dễ hơn.

 

Kính bạch TT Trí Siêu, ngày hôm nay chúng ta sẽ tập trung vào 3 điểm, điểm thứ nhất là chúng ta có một định nghĩa về tâm si, và điểm thứ hai chúng ta sẽ nhi`n vào hai thứ tâm si; tâm si hoài nghi và tâm si phóng dật, tức là sự phân loại của tâm si.  Thứ ba chúng ta sẽ nói lên vai tro` ảnh hưởng và xem điều này như một đối chiếu liên hệ với tâm si của bài học ngày hôm nay.  Dĩ nhiên bài học này không phải bài học về tâm sở do vậy chúng ta không đào xâu vào sở hữu si và tâm sở si, nhưng chúng ta sẽ trở lại trong giây lát.  Bây giờ thi` kính cung thỉnh TT Trí Siêu hoan hỷ tri`nh bày về ba điểm này, và sau đó sẽ là phần thảo luận cho đề tài hôm nay, kính cung thỉnh TT.

 

TT Trí Siêu: Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, kính đảnh lễ Sư Trưởng, kính chào TT Giác Đẳng, kính thưa toàn thể quí Phật tử,hôm nay lớp học A Ty` Đàm chúng ta sẽ nói về tâm bất thiện tiếp theo, và phần tâm bất thiện này chúng ta sẽ nói đến hai tâm si.

 

Khi đề cập đến 12 thứ tâm bất thiện, trong đó có 8 tâm tham, 2 tâm sân và 2 tâm si, thoạt nghe thi` chúng ta thấy rằng sự sát hại của nó không bằng tâm tham và tâm sân.  Tuy nhiên thi` dù sao đi nữa chúng ta cũng nên nói qua một chút về 2 tâm si này, 2 tâm si nó chỉ có một thứ căn bất thiện tương ưng đó là căn si, tức là si tâm sở (mohamùlaccittam)                        .

 

Si tâm sở này lại hết sức quan trọng, nó có mặt ở các tâm tham sân si.  Ở đây trong bài học này chúng ta không đặc biệt nói đến si tâm sở, mà khi chúng ta học đến các tâm sở bất thiện.  Chúng ta trở lại vấn đề khi chúng ta định nghĩa về tâm si, thi` có hai cách định nghĩa.  Khi tâm si sanh khởi chỉ có căn si tương ưng, si căn bất thiện tương ưng, thi` như vậy tâm đó gọi là tâm si.  Sở dĩ khi si tâm sở cùng với sân tâm sở có mặc trong tâm sân, nhưng riêng về tâm bất thiện nào mà chỉ có đôc nhất một căn bất thiện đó là căn si thi` đây gọi là tâm si, chúng ta định nghĩa theo hi`nh thức nó như vậy.

 

Co`n về y' nghĩa thi` ở đây thế nào là tâm si, tâm si là một trạng thái tâm mê mờ khi bắt cảnh, gồm có sự tập trú thi` như vậy gọi là tâm si.  

 

Trong khi đó tâm tham biết cảnh bằng cách dính mắc, bám víu, bám chặt. 

 

Co`n tâm sân biết cảnh bằng cách bất măn với đối tượng, huỷ diệt đối tượng,

 

Co`n tâm si biết cảnh bằng cách mù mờ, phi ám, đen tối, không rơ ràng.  Đó là chúng ta định nghiă theo cách mà chúng ta nói trên phương diện nghĩa pháp thi` chúng ta định nghĩa tâm si là như vậy. 

 

Ở đây thưa quí vị trong đời sống hàng ngày của chúng sanh chúng ta, có những lúc chúng ta khởi lên tâm tham, có những lúc khởi lên tâm sân khi chúng ta gặp cảnh bất toại nguyện trái y' nghịch lo`ng và thường xuyên chúng ta lại khởi lên tâm si.  Mà tâm si nó khởi lên lúc nào và làm sao, ở đây thưa qúi vị khi chúng ta muốn đề cập đến vấn đề đó thi` chúng ta phải nói qua điểm chính thứ hai, chúng ta phân loại tâm si:

 

1) Một là tâm si tương ưng hoài nghi gọi là vicikicchàsampayutta.

 

2) Và thứ hai tương ưng với điệu cử hay là phóng dật, đây được gọi là uddhaccasampayutta

 

Thi` khi nào mà một thái độ hoài nghi ngờ vực, không có sự quyết đóan được với đối tượng, với cảnh thi` như vậy lúc đó là đang có mặt, bất luận trong trường hợp nào mà khởi lên như vậy lúc đó là tâm si, gọi là tâm si đang có mặt. 

 

Ở đây thưa quí vị, loại tâm si hoài nghi này là một thứ tâm bất thiện sau khi chứng được sơ quả thi` tâm bất thiện này hoàn toàn bị tiêu diệt, bị tuyệt trừ như các bậc hữu học.  Co`n đối với kẻ phàm phu chúng ta thi`  tâm si hoài nghi luôn luôn có, cho dù rằng một người có thể tự hào rằng hiểu giáo pháp một cách rơ ràng tường tận, cho dù rằng chúng ta có tri`nh độ đa văn, quảng kiến về giáo pháp nhưng đối với kẻ phàm phu thi` tâm si hoài nghi không thể nào không có được, chỉ có điều khi chúng ta đặc vấn đề này chúng ta cũng nên hiểu là tâm si hoài nghi thường có trong hàng phàm nhân.

 

Chúng tôi nhớ có lần hi`nh như cũng trong lớp học A Ty` Đàm, các vị đă thảo luận trong một câu là “ Nếu si hoài nghi là một bất thiện pháp ngăn chận” chúng tôi cũng xin lấy vấn đề đó để chúng tôi nói thêm là trường hợp một vị thánh hữu học như một vị thánh vô học, bậc A La Hán, những thực tánh pháp nào giảng giải, phá nghi cho các vị đó giúp cho các vị đó có sự tiến hoá, cái thái độ nghi vấn về pháp là yếu tố trạng thái si hoài nghi của tâm bất thiện, mà hạng hữu học Tu Đà Hườn, Tu Đà Hoàn đă diệt trừ rồi, không huyết tinh.  Co`n một đàng là thái độ vi` chưa hiểu nên cần muốn được hiểu, đó là hai thái độ khác nhau, nếu như vi` chưa hiểu nên có sự nghi vấn để học hỏi thi` đó chỉ là sự thắc mắc. 

 

Co`n trường hợp si hoài nghi gọi là bất thiện thi` sự hoài nghi đó gọi là hoài nghi thông thường được xem như vị đó nghiên cứu học tập kinh điển giáo pháp, khi gặp những điều vượt ngoài sự hiểu biết, sự học hỏi, thi` các vị đó lại có sự nghi vấn, các vị này mới đem đến các vị Thầy có trí  hay những bạn đồng phạm hạnh có trí để hỏi thi` đây là sự thắc mắc hay nghi thông thường. Một loại tâm si thứ hai đó là tâm si phóng dật gọi là uddhacca rất dễ nhận diện, khi thứ tâm này sanh khởi khi nào tâm này không tiếp thu cảnh hiện tại, mà luôn luôn có sự nghĩ ngợi lao chao, mông lung, mơ mộng, nếu chúng ta chịu khó để y' một chút, chúng ta sẽ thấy được trạng thái suy phóng dật đó.

 

TT Giác Đẳng: kính thưa quí vị TT Trí Siêu đang bị trục trặcvề kỹ thuật,  chúng tôi xin được tiếp lời TT Trí Siêu. Ở tại đây chúng ta có hai trạng thái, hai thứ tâm si là hoài nghi và phóng dật. Hai thứ tâm này thi` A Ty` Đàm có nói lên một số đặc điểm mà chúng ta không thể không lưu y'.  Thứ nhất về tâm si hoài nghi, tâm si hoài nghi ở đây được định nghĩa một cách rất đặc biệt, tế nhị.  Nếu không muốn nói rằng một người mới học A Ty` Đàm có thể rất dễ lầm lẫn về tâm si hoài nghi này.  Thứ nhất hoài nghi là một thái độ trù trừ lưỡng lự phân vân, chẳng những không thể tin được mà không chịu tin, và thái độ trù trừ nó giống như phản ứng cố hữu, nó khiến cho chúng ta không thể đi tới, không thể có một quyết định, không có một suy tư gi` và nó cản trở bất cứ một cái hành động nào cụ thể ở trong đời sống.  

 

Sở dĩ chúng tôi nói tế nhị, bởi vi` thái độ lưỡng lự phân vân trong đời sống hàng ngày của chúng ta, như trường hợp một người lái xe đi vào trong một thành phố lạ, và đi đến một ngă ba đường, chúng ta không biết đường nào, cái không biết đường nào và thắc mắc đặt lên câu hỏi là mi`nh phải đi đường nào, thi` cái đó nó chưa nằm trong tâm si, nó chưa gọi là tâm si khi mà chúng ta đưa lên một câu hỏi.

 

 Tuy nhiên nó sẽ là một thứ tâm si, nếu quí vị có thể thấy rằng có rất nhiều trường hợp tại các ngă rẽ ở xa lộ, một người không thể đi bên này và cũng không thể đi bên kia và cũng không thể làm quyết định và cuối cùng họ đâm thẳng vào ngay chướng ngại vật nằm ngay ở giữa.  Thi` thái độ không thể quyết định được đi bên này hoặc đi bên kia, khi đến ngă rẽ mà chúng ta không biết rẽ bên nào, thi` cái đó chúng ta có thể nói mới là một sự thắc mắc, sự thắc mắc đó không gọi là tâm si.

 

Nhưng nếu vi` sự thắc mắc đó mà chúng ta không thể làm quyết định rồi chúng ta đâm vào giữa, thi` rơ rang chúng ta có vấn đề, bởi vi` nếu chúng ta không thể quẹo phải hay quẹo trái, thi` một người có đủ sự sáng suốt thi` phải lựa chọn vi` ly’ do gi` đó ngay một thứ chứ không phải thái độ trù trừ rồi đến đỗi phải đâm vào giữa, bởi vi` không làm quyết định gi` hết, thi` trạng thái tâm si hoài nghi đó nó không thể được xem như là những thắc mắc trong đời sống hàng ngày. 

 

Hôm nay trời có mưa hay không mưa, mi`nh đang chờ đợi một người bạn thân đến mà không biết người đó có đến không, những câu hỏi thắc mắc như vậy không thể tính vào tâm si hoài nghi.  Vậy thi` cái gi` mới tính vào tâm si hoài nghi?  Một vài bản chú giải của A Ty` Đàm được tri`nh bày dựa trên quan điểm rất là Phật giáo, chúng tôi nói quan điểm rất Phật giáo, thí dụ như người ta nói hoài nghi Phật, hoài nghi Pháp, hoài nghi Tăng, hoài nghi tam học, hoài nghi tam thế, hoài nghi về duyên sinh, hầu như những cái đề tài hoài nghi đó nó chỉ có ở một người học Phật chứ không thể xảy ra ở những người không có học Phật.   Trừ những trường hợp như hoài nghi về tam thế, hoài nghi về duyên sinh, hoài nghi về nghiệp v.v… thi` nó mang tánh cách ly’ giải nhiều, do đó điều này chúng tôi nói đặc biệt tế nhị, nếu chúng ta không khéo thi` những thứ hoài nghi, những cái nghi vấn, những sự thảo luận của chúng ta nó có hoá ra là một thứ si mê. 

 

Căn bản của tâm si hoài nghi nó khác với một thái độ hiểu biết khi người ta nêu vấn đề, khi chúng ta không hiểu biết một điều gi` đó, chúng ta nêu nên vấn đề và khi nêu lên vấn đề cái gi` biết mi`nh trả về cho cái biết và cái gi` mi`nh không biết, mi`nh trả về cho nó không biết, thi` điều đó thưa quí vị đối với chúng ta nó không có trạng thái dựa vào tâm si hết. 

 

Cũng như trong câu chuyện mà Đức Phật Ngài hỏi cô con gái con ông thợ dệt:

 

-  “cô từ đâu đến”

 

- “Bạch Đức Thế Tôn con không biết, con sẽ đi về đâu, bạch Đức Thế Tôn, con không biết”

 

- “ con có biết chắc như vậy không?”

 

- “Bạch Đức Thế Tôn, con biết chắc như vậy.”

 

-  “Nhưng con có biết rơ không?”

 

- “Bạch Đức Thế Tôn con không biết rơ”

 

Và sau đó Đức Phật Ngài đă khen ngợi và Ngài đă dạy cô thiếu nữ đó phải trả lời giải thích thêm, thi` cô thiếu nữ trả lời rằng “Đức Phật biết nàng đi từ nhà đến đây, và Đức Phật cũng biết rằng nàng từ pháp hội này trở về nhà, nhưng câu hỏi của Đức Phật thi` không phải như vậy, y’ Ngài muốn nói rằng: chúng ta có biết chúng ta từ đâu tới và sẽ đi về đâu không”.  Thi` chuyện đó mi`nh không biết, nàng trả lời rằng:

 

 “Bạch Đức Thế Tôn con không biết”,

 

Hỏi vậy chứ nàng có biết chắc không, thi`  nàng hiểu rằng Đức Phật muốn hỏi:

 

“vậy chứ nàng có biết nàng sẽ chết không?  Thi` nàng biết rằng điều đó chắc chắn là phải chết, nhưng mà có biết rơ không, biết rơ là lúc nào mi`nh sẽ chết, đành rằng ai cũng biết mi`nh sẽ chết, nhưng lúc nào mi`nh sẽ chết, mi`nh chết trong trường hợp ra sao, và mi`nh có  thể ứng phó chuẩn bị cho việc đó thế nào, chúng ta hoàn toàn không biết.

 

Do vậy trong bốn câu hỏi đó, ba câu được trả lời là không biết và không rơ, chỉ có một câu trả lời là biết, và biết chắc chắn, nhưng mà cái không biết và cái biết đó cả bốn cái đều dựa trên cơ sở của trí tuệ hết, điều đó nó không gọi là tâm si hoài nghi.  Khi nói đến tâm si chúng ta không phải nói đến chỉ là một thái độ vắng mặt của trí tuệ, hay là khả năng không thể thấu triệt, cái khả năng không thể nhi`n xuyên suốt được vấn đề mà gọi là tâm si, không phải như vậy. 

 

Tâm si mà chúng ta nói đến tâm si hoài nghi là một thái độ có tính trù trừ, nó có tính có thể nói là một quán tính, nếu như chúng ta dặm chân một chỗ, khi năy chúng ta nói với qúi vị là con đường có hai rẽ, hoặc là đi bên này, hoặc đi bên kia, nhưng người ta không thể đi cuối cùng người ta đâm đại vào ở giữa và sự việc đó xảy ra rất là nhiều, nếu quí vị đi trên xa lộ ở tại Hoa Ky`, quí vị thấy người ta thường để những chướng ngại vật ở ngay khúc giữa ngă rẽ đó, nhưng  người ta phải thay quanh năm, tại vi` có rất nhiều người đụng vào đó.

 

TT Trí Siêu: Khi năy chúng ta đă qua phần định nghĩa về tâm si, chúng tôi cũng nói về hai thứ tâm si, là tâm si hoài nghi và tâm si phóng dật, chúng tôi đang tri`nh bày đến chỗ để chúng ta nhận định được tâm si đang có mặt, đang sanh khởi trong đời sống của chúng ta, thi` chúng ta dựa trên trạng thái tâm nghi hoặc thi` chúng ta biết rằng tâm si đang có mặt, chúng ta phải dựa vào chỗ này để thấy trạng thái nó không giống như trạng thái của tâm tham.

 

Tâm tham sanh khởi chúng ta rất hay quyến luyến đối với cảnh khi tâm nhận biết được, thi` ở đây thưa quí vị trạng thái của tâm thi` ở đây chúng ta cần phải chú y’ rằng một việc là tâm sở tợ tha, chúng ta nên nhớ đó là dục tâm sở, như vậy chúng ta co`n lại 11 thứ. 

 

Tuy nhiên tâm si hoài nghi thi` ở đây loại tâm sở gọi là thắng giải adhimokkha là một xác quyết, thi` nghĩa này trong tâm si hoài nghi không có thái độ tâm sở thắng giải này. Nhưng để bù lại thi` tâm bất thiện pháp có bốn loại tâm sở bất thiện và nó có thêm một thứ nữa đó là nghi tâm sở, trong khi đó thi` tâm si phóng dật chỉ có sở hữu tợ tha, tưởng, tư, định, mạng, quyền, tác, y’, nó chỉ có như vậy thôi và đối với bất thiện tâm sở thi` nó chỉ có bốn tâm sở thuộc về si phần là si vô tàm , vô úy, phóng dật.  Sở dĩ phân tích ra điều này để cho chúng ta thấy rằng đối với tâm si hoài nghi phóng dật thi` có sự sát quyết đối tượng tức là có thắng giải tâm sở, nhưng mà không có si hoài nghi, đó là  khác nhau ở điểm đó nhưng số lượng tâm sở phối hợp.

 

Qua vấn đề thứ ba chúng tôi muốn tri`nh bày ở đây khi nói đến vai tro` tâm si trong thiện pháp, vai tro` tâm si trong bất thiện pháp, trong bất thiện tâm thi` ở đây thực ra khi chúng ta đặt ra vấn đề này nó hai lănh vực khác nhau, nếu như chúng ta nói vai tro` của si trong tâm bất thiện thi` phải hiểu là si tâm căn sở, một si trong bất thiện thi` được, si ở đây nó đóng vai tro` gọi là then chốt trong tâm bất thiện, như Đức Phật dạy tất cả cấu uế, vô minh là cấu uế nhất trong tất cả pháp bất thiện, thi` vô minh đứng đầu, không thể nào có một thứ tâm tham nào mà không có mặt đầy đủ trong 12 tâm bất thiện. 

 

Tâm bất thiện nó bắt cảnh bao giờ cũng là một trạng thái thiếu hiểu biết, thiếu hiểu những điều đáng hiểu, không biết được những điều đáng biết, không thấy được những sự sanh diệt ,do đó cho nên tham sanh khởi đối với sự vật hay sân sanh khởi đối với sự vật hoặc si sanh khởi đối với sự vật.  Chúng ta thấy vai tro` của si, si ở đây được định nghĩa như vậy, nhưng chúng ta đừng quên rằng vô tàm, vô úy, phóng dật là ba tâm sở, si tâm sở, thành bốn chi phần, và bốn chi phần này nó đều có vai tro` giống nhau, có nghĩa là chủ chốt cho tâm bất thiện sanh khởi, đó là điều mà chúng tôi muốn nói đến vấn đề vai tro` của si.

 

 Chúng ta nhớ chữ si ở đây không nói đến, chỉ nói đến si tâm sở mà thôi mới có vai tro` đó, co`n nếu như chúng ta nói tâm si cũng như tâm tham như tâm sân, mỗi một tâm biết cảnh khác nhau, không thể nói rằng tâm si, tâm tham hay tâm sân chúng ta không thể nói, bởi vi` trên lănh vực thức uẩn mà không thể bàn đến.  Co`n si có vai tro` gi`, vi` si ở trong hành uẩn nó lại có vai tro` hết sức đặc biệt như chúng tôi vừa giải thích ở trên,và như vậy thi` ở đây thưa quí vị chúng ta lại nói thêm qua một chút về vấn đề, là với các vị hữu học trở nên thi` si trạo cử hay si phóng dật chỉ cho đến khi chứng A La Hán thi` mới diệt trừ được tâm si này, co`n khi chúng ta nói đến si hoài nghi của chúng sanh, tâm si đóng vai tro` hết sức là nguy hiểm, bởi như Đức Phật Ngài đă dậy si nằm trong tất cả ác bất thiện pháp, đó là điều mà chúng tôi xin được tri`nh bày giải thích tiếp. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Minh Hạnh Thực Hiện