www.dieuphap.com   
Trang Pháp Đàm 
A Ty` Đàm 
Bài Giảng   3.1A
Bài 3.  1a
Thảo Luận  1
Thảo Luận  2
Thảo Luận  3
Bài Giảng   3.1B
Bài 3.  1b
Thảo Luận  4
Thảo Luận  5
Thảo Luận  6



A Tỳ Đàm
Ging Giải và Tho Luận

Tâm Bất Thiện

A Tỳ Đàm, Bài 5.2   Ngày 14 tháng 5 năm 2004


Minh Hạnh biên soạn & Cô Tu Nữ Diệu Tịnh hiệu đính

Tâm Bất Thiện- Tâm Sân



1) Thế nào là tâm sân
2) Sự phân loại tâm sân
3) Các thành phần tương ưng với tâm sân
4) Tâm sân là phiền năo nguy hiểm như thế nào?

Ty` Khưu Trí Siêu

 

TT Trí Siêu: Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Kính bạch Sư Trưởng, kính thưa quí vị, hôm nay chúng ta học môn A Ty` Đàm, trong bài học ngày hôm nay chúng ta sẽ học tiếp theo tâm bất thiện - tâm sân, và tuần vừa qua chúng ta đă học xong 8 tâm tham do TT Thích Hoàng Pháp thuyết giảng.

 

Kính thưa quí vị trong Vi Diệu Pháp khi đề cập đến phần tâm bất thiện, tâm bất thiện có 12 thứ là 8 tâm tham, 2 tâm sân và  2 tâm si, như vậy tổng cộng là 12 tâm.  12 thứ tâm bất thiện này bởi do căn tham (lobhamùla), căn sân (dosamùla), căn si (mohamùla). Với tâm bất thiện cho nên chúng ta có được là tâm tham, tâm sân, và tâm si.


Căn si có mặt trong tất cả tâm bất thiện, co`n căn tham chỉ có mặt ở trong tâm tham mà thôi, như vậy tâm tham có căn tham, căn si tương ưng. Co`n căn sân chỉ có mặt ở trong tâm sân, như vậy tâm sân bất thiện tương ưng thi` trong phần citta sampayutta  tức là tâm chân đế lại đề cập đến tâm bất thiện.  Nó có tất cả 4 thành phần tâm tương ưng, tâm tham thi` tưong ưng với tà kiến, tâm sân thi` tương ưng với phẫn nộ, tâm si hoài nghi thi` tương ưng với hoài nghi, tâm si phóng dật thi` tương ưng với phóng dật.  Trong phần tâm sân nói tổng quát thi` citta sampayutta có 5 loại tương ưng thêm một cái nữa là tâm tương ưng trí mới đủ 5, mà tâm tương ưng trí chỉ là những tâm tịnh hảo, chứ không phải tâm bất thiện, đó là chúng ta nói một cách tổng quát.

 

Bây giờ chúng ta trở lại với đề tài của bài học này, hôm nay chúng ta sẽ tri`nh bày về tâm sân dosacitta trạng thái tâm làm cho búc xúc gọi là tâm sân (dosacitta).  Thi` ở đây khi chúng ta sử dụng từ, chúng ta định nghĩa như vậy.  Nhưng chúng ta nói trên phương diện Phật ngữ chuyên môn, chữ dosa là một trạng thái tâm nóng nảy, làm cho khó chịu bởi vậy cho nên  khi nói đến khổ thi` có hai loại khổ là kàyikadukkha và dukkha dịch nghĩa thuộc về tâm chớ không phải là tâm sở, cho nên kada kàyikadukkha và khổ thân ở đây thi` chúng ta sẽ học tới trong tâm vô nhân.


Co`n khổ tâm chỉ cho trạng thái đau khổ do tâm sân, khi tâm sân sanh khởi thi` chúng sanh luôn luôn có sự khổ ưu, bởi tâm sân luôn luôn   thọ ưu domanassa.  Khi chúng ta định nghĩa tâm sân có nghĩa là một trạng thái tâm ưu phiền, một trạng thái tâm búc xúc, một trạng thái tâm khổ sở.  Và cần phải minh định lại y’ nghĩa, thuờng khi chúng ta nói đến tâm sân, chúng ta thường dùng có nghĩa là khi nào có sự giận dữ, bực phiền ai đó, cáu gắt với ai đó, phẫn nộ với ai đó thi` mới gọi là sân, mới gọi người đó có tâm sân hay là người đó tánh ti`nh nóng nảy quá, sân hận quá, chúng ta lại hiểu theo nghĩa tâm sân là như vậy.

 

Nhưng trong A Ty` Đàm thi` nghĩa của tâm sân không phải chỉ đơn thuần là sự sân giận, khi chúng ta có trạng thái bất an, ngay cả khi thân của chúng ta đau đớn, nhứt nhối chúng ta không được thoải mái thi` trường hợp đó cũng là một trạng thái tâm sân, chúng ta phải hiểu như thế. Và ở đây nếu chúng ta hiểu được trạng thái tâm sân một cái nghĩa hết sức phiền năo này nó sanh khởi trong hàng ngày ở trong đời sống của chúng ta.


Lẽ thường thưa quí vị có những người họ cho rằng không giận hờn ai, không biết thù oán với ai, như vậy thi` họ nghĩ rằng họ không có tâm sân, nhưng điều này hoàn toàn không đúng.  Thưa quí vị khi chúng ta hiểu tâm sân bao giờ kẻ phàm phu chúng ta cũng có, ngay cả như đối với bậc thánh dự lưu, nhưng tâm sân cũng co`n hiện hữu khởi cho kẻ phàm phu và tâm sân vẫn co`n đối với bậc thánh hữu học Tu Đà Hườn, Tư Đà Hàm nó khác nhau như thế nào, thi` ở đây thưa qúi vị bởi vi` khi chúng ta nói đến tâm sân, thi` chúng ta nói đến mức độ khác nhau, một trạng thái tâm bực bội khó chịu, nóng tính, đó là trạng thái sân mà sân theo nghĩa thông thường. 

 

Co`n cấp độ kế tiếp tức là sự sân, mà sự sân giận người khác gọi là pat.igha hay là kodham.     

 

rồi tiếp đến là một trạng thái tâm sân mà thù oán oan trái, đó là cấp độ thứ tư, một người có thể đang tâm giết hại, cột oan trái oán thù thi` như vậy ở cấp độ thứ ba gọi là byàpàda.

 

Co`n trạng thái tâm sân mà phẫn nộ, bực dọc với người khác, cáu gắt với người khác chúng ta gọi là kodham hay là daratha thi` sân này ở cấp độ thứ hai.  Thi` đối với bậc hữu học Tu Đà Hườn, Tư Đà Hàm trạng thái tâm sân của vị đó chỉ đơn thuần là một trạng thái khó chịu, gọi là trạng thái dosacitta trạng thái bất an của tư tuởng mà thôi. 

 

Ví dụ như đối với vị Tu Đà Hườn, Ngài vẫn co`n có sự sầu muộn khi Ngài gặp tử biệt, chẳng hạn như trưởng giả Cấp Cô Độc vẫn co`n có sự lo âu về ti`nh trạng người con gái út trước khi chết có những lời lẽ xưng hô, mà ông trưởng giả này hiểu lầm là con của mi`nh bị mê sảng trong trong giờ phút lâm chung, cho nên ông buồn bực, và đến khi Đức Phật giải thích cho ông ta nghe về thái độ của người con gái út của ông nói như vậy có duyên cớ, nàng rất bi`nh tỉnh trước giờ phút lâm chung, bởi vi` nàng là bậc Tư Đà Hàm, quả vị cao hơn ông một bậc.  Khi được giải thích như vậy, ông mới cảm thấy yên tâm, đó là trạng thái cũng gọi là tâm sân bởi vi` sự buồn bực lo âu, chớ không có năo hại, không có sân giận ai cả. 


Co`n như bà Visakha, một tay chân đắc lực giúp  trong việc lo phục sự hộ độ trai tăng cúng dường hàng ngày, có đứa cháu gái đó bỗng nhiên bị bịnh mà chết, lúc bấy giờ bà cảm thấy đau khổ, cảm thấy phiền muộn.  Khi bà đến gặp Đức Phật đảnh lễ Đức Phật và được Đức Phật Ngài thuyết pháp giải tỏa tâm ly' buồn bực đau khổ này, lúc bấy giờ bà mới trở lại trạng thái thư thả, thi` ở đây thưa quí vị đối với bậc hữu học, những trường hợp tương tựa như vậy vẫn co`n trong các bậc Tu Đà Hườn, Tu Đà Hàm.

 

Co`n nói đến vấn đề thù hận oan trái và năo hại chúng sanh thi` ở đây bậc hữu học Tu Đà Hườn, Tu Đà Hàm không hề có tâm sân đó, như chúng ta cũng đă biết là đối với những vị Tu Đà Hựn và Tu Đà Hàm thi` các Ngài không bao giờ phạm vào những điều ác như sát sanh v.v... Không bao giờ có những hành vi như giết cha, giết mẹ, giết A La Hán, làm thân Phật chảy máu chia rẽ Tăng và tà kiến.  Thi` ở đây chúng ta nên hiểu trạng thái tâm sân vẫn co`n đối với bậc hữu học là như vầy.

 

Kẻ phàm phu của chúng ta thi` bốn mức độ tâm sân luôn luôn có, nếu được khéo tu tập, khéo huấn luyện hàng ngày, thi` có thể chúng ta  giảm trừ sự sát hại chúng sanh khác.  Nhưng chỉ là một sự tu tập thôi, chứ co`n nếu sanh ở cảnh giới khác thi` cũng chưa chắc gi` kẻ phàm phu có thể chế ngự được tâm năo hại chúng sanh.  Nhưng tâm sân giận người khác, oán thù người khác, oan trái người khác vẫn luôn luôn có chớ không phải dứt được, cho nên tâm sân đó đối với kẻ phàm phu chúng ta khác hơn về tâm sân bằng nhiều cách như thế để cho chúng ta hiểu rơ. 


Bây giờ chúng ta qua đến phần phân loại tâm sân.  Có một điều chúng ta phải chú y' nữa là tại sao tâm tham lại có tám thứ, mà tâm sân chỉ có hai thứ, được phân loại có hai thứ tâm sân mà thôi. 

 

Ở đây thưa quí vị khác nhau ở chỗ về cảm thọ,   điểm thứ hai về vấn đề tương ưng, nên tâm tham phân loại nhiều thứ tâm tham hơn tâm sân như thế nào.

 

Thưa quí vị domanassasahagatam là câu hành ưu hay thọ ưu, một cảm thọ buồn bực không vui, không hài lo`ng, không bao giờ vui được, không bao giờ có cảm giác dễ chịu được, không bao giờ có cảm giác khoan khoái được. 

 

Co`n trong khi tâm tham thi` có hai cảm thọ là cảm thọ hỷ và cảm thọ xả, do vậy cho nên ở đây t âm sân, khía cạnh thứ hai nữa là về phương diện tương ưng thi` tâm tham có trường hợp tương ưng tà kiến và có trường hợp bất tương ưng tà kiến, chúng ta gọi là hợp tà và ly tà.


Trong khi đó tâm sân chỉ có mỗi một thứ tương ưng, đó là tương ưng phẫn nộ gọi là pat.ighasampayutta, phẫn ở đây là phẫn nhuế hay phẫn nộ, là một trạng thái, đúng ra danh từ pat.igha rất khó dịch, cái triền tố này khi ghép với từ nào đó nó có nghĩa ngược lại, chống lại hay khán cự. Thi` như vậy chữ pat.igha được dịch là chữ phẫn nộ là bởi vi` trạng thái tâm sân bao giờ nó cũng hủy diệt đối tượng, bất măn với đối tượng, bất măn với cảnh, nghĩa là không chấp nhận cảnh.

 

Trong khi tâm tham bao giờ nó cũng bám chặt vào cảnh, bởi vi` nó đặc biệt khác, cảnh của tâm sân bao giờ cũng là cảnh nghịch, bao giờ cũng là cảnh đối nghịch do vậy tâm sân luôn luôn có pháp tương ưng gọi pat.ihan~n~àt́ti tức là một trạng thái tâm hủy diệt đối tượng, phản kháng lại đối tượng, phản kháng lại cảnh. 

 

Ở đây thưa qúi vị một trạng thái tương ưng cho nên tâm sân chỉ có hai thứ thôi, trong khi tâm tham vi` có hai thứ cảm thọ và hai cách tương ưng và bất tương ưng cộng thêm với hữu trợ và vô trợ, khi chúng ta xếp hàng ngang chúng ta có được tám thứ như thọ hỷ, hợp tà, ly tà.  Trong thọ hỷ, hợp tà có vô trợ và hữu trợ thi` chúng ta có 4 thọ hỷ, 4 thọ xả là 8. 


Trong khi tâm sân chỉ có duy nhất là thọ ưu hợp vật tương ưng phẫn nộ, thọ ưu hợp phẫn nộ, bây giờ chỉ co`n có hai cách nữa là vô trợ và hữu trợ thôi, cho nên chỉ có hai thứ là tâm sân thọ ưu hợp phẫn.     

 

Thưa quí vị chúng ta lại giải thích về hai thứ tâm sân này, hai tâm sân thật ra thi` chỉ có một trạng thái buồn bực, bất măn phiền muộn đối với cảnh tiếp xúc, nhưng sở dĩ phân hai loại là vô trợ và hữu trợ.  Tâm sân vô trợ là trạng thái tâm sân tự nhiên, sanh khởi một cách tự nhiên gặp cảnh là sanh khởi nhanh chóng không cần sự trợ giúp cho cái điều kiện khách quan hay chủ quan, như vậy tâm sân đó gọi là tâm sân vô trợ.  Khi bị kẻ khác xúc phạm liền khởi lên tâm bực bội khó chịu, thi` tâm sân đó gọi là tâm sân vô trợ. 

 

Thấy ở tâm sân sanh khởi mà cần phải có sự trợ giúp của điều kiện chủ quan hay khách quan, bởi điều kiện chủ quan tức do nội tâm của người đó, thí dụ như một người tánh ti`nh của họ vui vẻ, ít khi nào họ có thể bực phiền trước ngoại cảnh được, nhưng tâm sanh khởi nhiều lần vi` cảnh nó đến cứ lập đi lập lại, cứ xảy ra liên tục lâu ngày, nhiều lần như vậy khiến cho tâm sân sanh khởi thi` tâm sân lúc bấy giờ gọi là tâm sân hữu trợ. Ở đây chúng tôi xin lỗi là chúng tôi nói về tâm sân hữu trợ do điều kiện khách quan trước, sau đó chúng ta sẽ bàn qua về điều kiện hữu trợ mà điều kiện chủ quan.


Ờ đây chúng ta thấy như khi nhi`n hay nghe những tiếng không tốt, hoặc ngửi những mùi hôi thối, hoặc nếm phải vị vật thực không được vừa miệng, hoặc chạm xúc do thời tiết nóng quá hoặc lạnh quá v.v... thi` do yếu tố ở bên ngoài nó thúc đẩy nhiều lần, người đó cảm thấy khó chịu và khởi lên sự bất toại, như vậy gọi là tâm sân hữu trợ sanh khởi,  mà tâm sân hữu trợ này nó lại là hữu trợ do điều kiện khách quan. 

 

Co`n bây giờ do điều kiện chủ quan, thí dụ như một người cố gắng giữ chánh niệm kiểm soát tâm mi`nh, cho nên khi cảnh đến người này biết nó sanh khởi, thế nhưng sau đó vi` cảnh đến nó qúa sức chịu đựng cho nên lúc bấy giờ tâm sân mới sanh, nghĩa là lúc đó không có khả năng của tâm từ chế ngự nữa, hay là do chánh niệm chế ngự nữa, thi` người này khởi nên tâm sân, thi` do điều kiện chủ quan tức là điều kiện ở nội tâm. 

 

Ơ đây thưa quí vị, khi chúng ta chỉ nghe giải thích tri`nh bày thi` chúng ta chỉ hiểu một phần thôi, nhưng nếu để thực nghiệm được xuyên qua đời sống hàng ngày của chúng ta, khi quí vị cố gắng lắng nghe trong đời thường lúc nào tâm của chúng ta dễ chịu hay khó chịu khi thấy, khi nghe, khi ngửi, khi nếm, khi đụng, lúc đó quí vị cần phải biết là đang sanh một cách hữu trợ hay vô trợ chúng ta có thể kiểm nghiệm được qua đời sống thường nhật của chúng ta.


Và học Vi Diệu Pháp không phải dễ lănh hội được cái yếu ly' của pháp, mà chúng ta nghe giảng một phần rồi chúng ta phải suy tư một phần nữa, và chúng ta cần trợ giúp hang ngày của chúng ta thi` chúng ta mới có thể hiểu được, và nếu chúng ta hiểu được rồi, thi` chúng ta sẽ không bao giờ quên, đó là cách chúng ta học Vi Diệu Pháp - A Ty` Đàm vậy. nói thêm phần này một chút để cho chúng ta có sự suy nghĩ, và chúng ta tác y' đến, và ở đây khi chúng ta tri`nh bày về các thành phần tương ưng với tâm sân. 

 

Thưa qúi vị khi chúng ta đề cập đến các thành phần tương ưng với tâm sân, tức là chúng ta nói đến các thứ tâm sở tương ưng phối hợp với tâm sân, tất nhiên điều này chúng ta chỉ có thể nhận biết rơ hơn, khi chúng ta đă học qua 52 loại tâm sở.  Co`n bây giờ chúng ta chưa học đến 52 thứ tâm sở, cho nên đến phần này chúng tôi chỉ nói thoáng qua thôi, chúng tôi chỉ nói một cách tổng quát thôi, cho đến khi nào chúng ta học về tâm sở, lúc đó chúng ta sẽ ôn trở lại vấn đề chúng ta học trong ngày hôm nay.   Bây giờ chúng ta chú y' trong các loại tâm sở, thi` tâm sở nào thuộc về tâm sở thọ hỷ, hay tâm sở thuộc về hỷ gọi là ṕticetasika thi` các tâm sở đó hoàn toàn không có tương ưng với tâm sân, bởi vi` tâm sân là thọ ưu, tức là trạng thái tâm buồn bực, một cảm giác buồn bực khó chịu chớ không phải trạng thái vui vẻ. 


Do đó cảm thọ hỷ và hỷ lạc không có somanassa không có, somanassa không có trong tâm sân, loại trừ hai tâm sở đó ra, lúc bấy giờ trong 13 sở hữu tợ tha thi` có 12 sở hữu tợ tha (trụ hỉ) xúc, thọ (trụ thọ hỉ, nhưng có thọ ưu) chúng ta chỉ co`n có 11 thứ tâm sở tương ưng với tưởng, tư, nhất hành, mạng quyền, tác y', tầm, tứ, thắng giải, cần,dục là nói về tâm sở tợ tha.

 

 Rồi nói về thành phần tâm sở bất thiện, tâm sở bất thiện ở đây có 14 thứ tâm sở bất thiện, trong 14 thứ tâm sở bất thiện đó nhóm tâm sở thuộc về chi phần tức là phi, vô tàm, vô qúy là một trạng thái mê mờ.  Mê mờ chứ nếu hiểu biết mà khéo tác y' đối với cảnh, thi` trong trường hợp đó chẳng hạn như một người thấy xác chết, một người khi họ nhi`n thấy tử thi tâm họ hốt hoảng sợ hăi, bởi vi` họ không khéo tác y', tức là không có trí tuệ phân biệt, phân tích cho nên tâm sân sanh khởi mới sợ hăi.

 

Co`n khi một vị tu tập thiền quán, họ quán nhi`n tử thi bằng trí tuệ kéo y’, lúc bấy giờ khi vắng mặt cho nên vị này không khởi nên tâm sân, mà vị này chỉ khởi nên tâm thiện để mà quán tử thi thôi, sân tại sao mà có si trong đó, y’ nghĩa là như vậy.  Vô tàm, vô qúy là trạng thái tâm sở mà không có thẹn với lỗi lầm, không có sợ hăi với lỗi lầm, hai trạng thái tâm sở này được xem như bỏ ngỏ cho ác bất thiện pháp sanh khởi. 

 

Hoặc cũng giống như khi một lá cây nào ở trên mặt lá không có những sợi lông mịn, hoặc không có chất phấn ở trên mặt lá thi` như vậy khi nước đổ xuống, nó sẽ có thể bám dính, co`n khi lá nào như lá môn, lá sen chẳng hạn, có chất phấn hoặc những loại lá có lông mịn nằm ở trên mặt lá,  đó là chất kỵ đối với nước, khi nước sương hay mưa rơi xuống nó sẽ tuột mất đi như thế nào, thi` ở đây giữa tàm quí và vô tàm vô qúy chúng ta phải hiểu như vậy.  Trong khi tàm quí thi` cũng giống như là chất để tẩy trừ, để ngăn ngại đối với ác bất thiện pháp, thi` vô tàm vô qúy lại là chất bỏ ngỏ cho ác bất thiện pháp dễ sanh sanh khởi, một người sở dĩ họ có lỗi lầm, họ có tham sanh khởi, sân sanh khởi, si mê sanh khởi hoặc họ làm ác, họ không có sự hổ thẹn, không có sự ghê sợ tội lỗi do vậy cho nên tâm sân có trạng thái vô tàm, vô quí

 

Tâm sân phóng dật là trạng thái tâm phóng dật, do đó cho nên không có sự định tỉnh nhứt tâm đối với cảnh, không thể nào an trú giống như tâm thiện hay tâm thiền an trú trong đề mục vững chắc như vậy, không bao giờ, tâm sân luôn luôn có trạng thái phóng dật. Rồi bây giờ bốn thành phần có mặt ở trong phi, vô tàm, vô qúi phóng dật gọi là mocatuka gọi là sân (dosa), tật (issa), lận (macchariya), hối(kukkucca).  Sân (dosa) là một trạng thái nóng nảy, tật (issa) là một trạng thái ganh tỵ  macchariya là trạng thái ích kỷ keo kiết chấp thủ và hối là trạng thái ray rứt phiền muộn ân hận hay là ăn năn.


 Ở đây nói rằng bốn thành phần sân, tật là trạng thái khuất động búc xúc của một người. bởi thân thể bất an, hoặc là thời tiết bất an .  rồi một người khi họ ghen ghét người khác, đố kỵ với người khác lúc bấy giờ trạng thái tâm của họ cũng không được an, cũng sống với trạng thái tâm bất an cho nên lận tâm sở cũng có mặt ở trong tâm sân được.

 

Rồi macchariya lận bỏn xẻn khi một người họ cứ khư khư người khác thi` họ cảm thấy khó chịu, người khác mà đi đến xin họ món gi`, chỗ ở của mi`nh có ai đó đến vào chẳng hạn, một người tâm bỏn xẻn chỗ ở thi` tự nhiên họ cũng cảm thấy bực phiền khó chịu, chẳng thà đuổi người khác, khi người khác qua nhà bên kia ngồi thi` họ không có gi` cả, nhưng ngồi ở phía bên đây họ cảm thấy khó chịu lắm, trạng thái khó chịu đó gọi là sân lận tương ưng với bỏn xẻn, theo trong A Ty` Đàm thi` phân tích ray rứt tương ưng phối hợp.

 

Ở đây thưa quí vị chúng ta cũng nên lưu y' dù thi`, tật, lận, và hối, không phải lúc nào cũng có mặt phố hơp tương ưng, có lúc có, có lúc không và nếu có thi` chỉ có một thôi cho nên ba thứ tâm sở này gọi là tâm sở bất định.  Co`n riêng về dosacitta   tâm sân thi` luôn luôn phải có mặt đó là điều chúng ta phải chú y' và co`n hai thành phần nữa, hai thành phần tương ưng với tâm sân nữa gọi là hôn phần gọi là th́duka tức là hôn trầm và thụy miên, hai hôn phần phối hợp. 


Cả hai thứ này có thể có mặt ở trong tâm sân, nói như vậy có nghĩa có đôi lúc, thưa quí vị do chúng ta đè nén chế ngự, cho nên khi chúng ta gặp người khác mắng chửi thi` lúc bấy giờ tâm sân chưa sanh khởi liền, chưa bộc phát liền, đến khi chúng ta bị thất niệm lúc bấy giờ do bị mắng chửi nhiều lần chúng ta mới khởi lên tâm sân.  Nhưng tâm sân hữu trợ đó lại không có hai hôn phần, không có hôn trầm và thụy miên.  Co`n như một người đang bịnh hoạn, đang ngủ chẳng hạn, mà lúc bấy giờ có ai đến chọc phá, thi` lúc bấy giờ tâm sân của họ sanh khởi trong trạng thái đang ngái ngủ, thi` họ cũng lọt vào hôn trầm và thụy miên tương ưng, chúng ta phải lưu y' như vậy, hay những lúc nào chúng ta đang sanh khởi, thường thường là tâm sân có hôn trầm và thụy miên, chúng ta phải chú y' chỗ đó, chớ không phải nói lúc nào tâm sân hữu trợ cũng là có hôn trầm và thụy miên cả, đây là một điều mà chúng ta phải chú y'. 

 

Như vậy chúng tôi đă tri`nh bày về các thành phần tương ưng với tâm sân đó là những tâm sở đi với chú y' các loại tâm sở, như tâm sở thọ hỷ ,hay tâm sở hỷ lạc, không có mặt trong tâm sân, ba tâm sở thuộc về tham phần không có mặt, tâm sở hoài nghi không có mặt và 25 tâm sở thuộc về tịnh hảo, tuyệt đối không có mặt ở trong tâm sân, co`n lại trong tâm sân được.  Đó là điều chúng tôi xin được nói qua trong điểm chính thứ ba.


Điểm chính thứ tư, tâm sân là phiền năo nguy hiểm như thế nào.  Người ta thường nói tham dễ dằn, khó diệt, sân dễ diệt nhưng khó dằn.  Một người họ cố gắng nỗ lực tu tập, họ có thể dằn được tâm tham, họ có thể đè nén được tâm tham, nhưng đối với tâm sân thi` họ phải cố gắng nhiều hơn nữa để dằn nó xuống.  Một khi gặp cảnh trái y' bất toại nguyện thi` tự trong tư tưởng đă có trạng thái xuất phát ra bên ngoài mặt mày nhăn nhó châu mày hoặc gương mặt ủ rột hay cặp mắt khó chịu, hoặc thịt da nó giựt rung lên, thi` tâm sân đừng nói chi bên ngoài, chỉ là trạng thái nó tiềm tàng ở bên trong thôi. 

 

Nhưng nói nó dễ diệt là bởi các bậc hữu học A Na Hàm thi` đă dứt trừ được tâm sân rồi bậc Tư Đà Hàm diệt trừ được tâm sân rồi, bậc A Na Hàm diệt được, nhưng đối với tâm tham, tham thi` ở đây thưa quí vị cho đến khi nào chứng quả A La Hán thi` tham ái mới hoàn toàn chấm dứt dễ dàng.  Mà họ thấy tiền của người khác rơi, dằn tâm lại không lấy, hoặc một người khi tiếp xúc với những phiền năo va` không dằn được, thi` trạng thái đó cũng là trạng thái tâm sân, mà tâm sân này nó lại phiền năo sân, nó khó chịu lắm, lúc nào tâm chi phối nó làm khó ngủ lắm, và giấc ngủ không được an lạc, chúng ta thức dậy cũng không được an lạc. 

 

Trong đời sống hàng ngày chúng ta cần chú trọng thương yêu con cái, con cái thương yêu cha mẹ hay vợ chồng thương yêu lẫn nhau, hoặc ti`nh thương đó có thể nói là kết buộc vo`ng luân hồi, thế nhưng xă hội đó không đến nỗi gây gỗ sân hận với nhau, hay vợ chồng có sự gây gỗ sân hận với nhau, hoặc anh em gây gỗ sân hận với nhau, chắc chắn sẽ đưa đến một trạng thái đau khổ phiền muộn, cho nên khi mà họ tu tập họ phải chú y' ở điểm này. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Minh Hạnh Thực Hiện