www.dieuphap.com   
Trang Pháp Đàm 
A Ty` Đàm 
Bài Giảng   3.1A
Bài 3.  1a
Thảo Luận  1
Thảo Luận  2
Thảo Luận  3
Bài Giảng   3.1B
Bài 3.  1b
Thảo Luận  4
Thảo Luận  5
Thảo Luận  6



A Tỳ Đàm
Ging Giải và Tho Luận

Tâm và Sự Phân Loại

A Tỳ Đàm, Bài 4.2   Ngày 01 tháng 5 năm 2004


Minh Hạnh biên soạn & Cô Tu Nữ Diệu Tịnh hiệu đính

Tâm Dục Giới



Những điểm chính

·        Ư nghĩa của thiện, bất thiện và vô nhân

·        Diễn tŕnh của tâm trong một chập tư tưỏng

·        Ư nghĩa của tâm tạo quả, tâm quả và tâm duy tác



Diễn tŕnh của tâm trong một chập tư tưỏng


2.1 Để hiểu vai tṛ và sự phân loại tâm dục giới, nhất là các tâm vô nhân, người học phải có khái niệm về diễn tŕnh của tâm thức trong một chập tư tưởng. Ḍng tâm thức được liên tục kết nối bằng những sát na tâm. Tất cả các loại tâm sanh diệt trong những qui tŕnh mà A Tỳ Đàm gọi là cittavithi hay một chập tư tưởng. Ngài Tịnh Sự gọi là lộ tâm hay lộ tŕnh tâm. Có nhiều thứ diễn tŕnh của tâm sẽ được nói tới ở các chương sau nhưng ở đây đơn cử một thí dụ điển h́nh để nói lên vai tṛ của các thứ tâm. V́ nhiều lư do(...) những mô tả về cittavithi hoàn toàn vắng mặt trong các bộ luận về sau nầy.

2.2 Tâm thức là ḍng tiếp nối của vô số sát na sinh diệt liên tục. Theo định luật tự nhiên, tâm có một trật tự cố định. Đơn vị nhỏ nhất của tâm thức gọi là một sát na (khana). Theo sớ giải th́ mỗi tích tắc có một ngàn tỷ sát na (1,000,000, 000, 000.00) sinh diệt tương tục. Trong diễn tŕnh ấy có nhiều chập tâm thức (cittavithi) xuất hiện. Những chập tâm thức dài ngắn tùy theo nhiều điều kiện. Một chập dài nhất được ghi nhận gồm 17 sát na sẽ được dùng làm thí dụ điển h́nh để giảng giải trong bài học nầy. Có thể nói đây là một cách phân tích cực vi nếu lấy con số 17 đem so với một ngàn tỷ. Những phân tích nầy khiến A Tỳ Đàm gần với khoa học tự nhiên hơn là một ngành tâm lư học Phật giáo.

2.3 Có nhiều lư do cần thiết để t́m hiểu về diễn tŕnh của tâm thức.

·        Diễn tŕnh tâm thức cho thấy rơ sự khác biệt trong vai tṛ của các loại tâm. Có tâm chỉ làm việc máy móc, có tâm bị chi phối bởi ngoại cảnh, có tâm mang nặng ư chí tạo tác (hay tư - cetana).

·        Diễn tŕnh tâm thức đưa ra sự mô tả chi tiết về nghiệp. Những tâm nào tạo quả, những tâm nào là quả, những tâm nào không là nhân cũng không là quả.

·        Diễn tŕnh tâm thức là cơ sở cực kỳ quan trọng để nói về duyên hệ (paccayo) trong thế cách năng duyên và sở duyên. Có thể nói nếu không có những chi tiết về diễn tŕnh của tâm thức th́ không thể nào tŕnh bày được nghĩa lư của duyên hệ

·        Diễn tŕnh tâm thức cho thấy tại sao có sự khác biệt giữa chúng   sanh nầy với chúng sanh khác qua sự tŕnh bày về tâm hộ kiếp (bhavanga) và các tâm đột khởi.

2.4 A Tỳ Đàm nói đến một h́nh thái tâm thức gọi là bhavanga được dịch là "hữu phần" hay "hộ kiếp" là một thứ tâm tiềm tàng trong đời sống. Tâm nầy có cùng một trạng thái với tâm khởi đầu kiếp sống (tâm tục sinh); chi phối cá tính và tuệ căn của chúng sinh (bản tính vui buồn, khả năng chứng ngộ thiền định, đạo quả..); thể hiện chánh yếu của tŕ nghiệp (hộ kiếp), và là nơi đăng cơ cho những tâm thù ứng sinh khởi (nên tâm hữu phần đôi khi c̣n được xem là chủ quan). Có thể ghi nhận tâm hộ kiếp khi ngủ không có chiêm bao. Tất nhiên tâm hộ kiếp có mặt trong đời sống hằng ngày nhưng không thể nhận diện được v́ sự xen lẫn của các tâm khác. Đề tài về tâm bhavanga là một đề tài lớn của A Tỳ Đàm. Sẽ được trở lại đào sâu trong một chương khác.

Tỳ Khưu Giác Đẳng

 

TT Trí Siêu: Kính bạch Chư Tôn Đức và Kính thưa quí vị hôm nay chúng ta học về lộ tri`nh hay sự diễn tiến của tâm, thật ra khi chúng ta nói đến tiến tri`nh của tâm thức, không phải chúng ta học ngay bây giờ, bởi vi` nếu như các loại tâm mà chúng ta chưa học, các thứ tâm sở mà chúng ta chưa học, mà chúng ta học về diễn tri`nh của tâm thức đó là quá sớm.  Tuy nhiên chúng ta co`n y' nghĩa khác, trong y’ nghĩa này dựa vào đó chúng ta học về tiến tri`nh của tâm thức, là bởi vi` khi chúng ta học trong lộ tri`nh tâm , chúng ta học qua phần tâm dục giới, thi` trong tâm dục giới đó có một loại tâm gọi là tâm vô nhân (ahetuka cittàni).

 

Và tâm vô nhân này nó lại đóng vai tro` rất quan trọng trong diễn tri`nh của tâm thức.  Cho nên khi chúng ta học về tâm dục giới qua tâm vô nhân, mà hôm trước chúng ta đă có dịp nghe chính tâm vô nhân này, lộ tri`nh sanh khởi theo một qui tri`nh mà chúng ta gọi là lộ tâm ngũ môn để bắt lấy cảnh sắc.  Hàng ngày khi chúng ta thấy, chúng ta nghe, chúng ta ngửi, chúng ta nếm, chúng ta đụng, chúng ta lại có được một qui tri`nh tâm thức sanh khởi và trong qui tri`nh tâm thức đó thi` phần lớn chúng ta ti`m thấy những thứ tâm vô nhân làm việc khởi đầu. 

 

Ở đây thưa quí vị thực ra thi` chúng ta phải học hết tất cả các tâm lộ, rồi sau đó chúng ta học đến qui tri`nh diễn tiến của tâm lộ.  Nói như thế có nghĩa là khi chúng ta biết rơ những thứ tâm thật sự, thi` ngay lúc đó mới có thể lănh hội được trạng thái y' nghĩa của diễn tri`nh tâm thức. Trong đời sống của chúng ta một cách thông thường thôi, khi chúng ta thấy, chúng ta nghe, chúng ta ngửi, chúng ta nếm, chúng ta đụng và chúng ta suy nghĩ, thi` sẽ có một quy tri`nh diễn tiến của tâm thức, mà những thứ tâm đó nếu là lộ tâm ngũ môn sẽ có một quy tri`nh riêng, và lộ tâm y’ môn sẽ có quy tri`nh riêng. 

 

Chắc có lẽ chúng tôi phải bàn với TT Giác Đẳng về chương tri`nh học của chúng ta, bởi vi` ngay bây giờ nếu chúng tôi tri`nh bày theo y' nghĩa của bài học ngày hôm nay, trong bài học mà đă được post lên màn hi`nh trước mặt chúng ta có lẽ hơi quá sớm trong chương tri`nh học A Ty` Đàm.  Bởi vi` tâm dục giới vừa qua chúng ta học, chúng ta chỉ mới có định nghĩa sơ lượt một cách tổng quát về tâm bất thiện, tâm thiện, tâm quả, tâm tố, 54 tâm dục giới chúng ta chưa biết rơ hết, như vậy thi` việc chúng ta đi qua học lộ tri`nh diễn tiến của tâm thức, thi` điều này khiến cho chúng ta khó hiểu và chúng tôi cũng khó giải thích.  Bởi vi` không lẽ cứ mỗi chúng tôi lại phải giải thích, phải định nghỉa, nó sẽ dư thừa cho thời gian sau này, bởi vi`thời gian sau này khi chúng ta học đến, chúng ta sẽ lập lại, do vậy cho nên trong ngày hôm nay thi`chúng tôi sẽ tri`nh bày khác hơn so với các bài học đă tri`nh bày ở đây. 

 

Kính thưa qúi vị tâm dục giới như chúng ta biết là một trạng thái tâm chuyên môn biết cảnh sắc, cảnh thinh, cảnh khí, cảnh vị, cảnh xúc.  Và cảnh sắc, thinh, khí,vị, xúc, được xem là những cảnh trưởng dưỡng cho phiền năo dục phát sanh, cho nên gọi 5 cảnh đó là  tâm đó là tâm dục giới. 

 

Riêng về vị A La Hán thi` tâm của Ngài biết tâm tố dục giới, tâm tố đó cũng chuyên biết cảnh dục, nhưng cảnh dục nó không phải là một đối tượng để trưởng dưỡng phiền năo dục nơi tâm của vị A La Hán.  Bởi vi` vị này đă đoạn trừ tất cả các lậu.

 

Vây giờ trước khi chúng ta tri`nh bày phân loại thi` chúng ta có nhiều hướng, chúng ta có thể phân loại tâm dục giới theo từng nhóm của bản Nêu Chi Pháp, Ngài Ḥa Thượng Tịnh Sự đă soạn ra, trong đó trước tiên chúng ta học về 12 tâm bất thiện, kế đến chúng ta học về 18 vô nhân, học về 24 tâm dục giới, như vậy gồm có ba phần theo cách phân loại này. Một phần thuộc về xấu, một phần thi` không tốt và không xấu,và một phần nữa là những tâm đẹp dục giới trong tâm dục giới. 

 

Khi chúng ta phân loại theo đầu đề tam, thi` ở đây chúng ta phân loại theo tính chất gồm có 4, tức là tâm bất thiện, tâm thiện, tâm quả dị thục,và tâm tố dục giới.  Chúng tôi nghĩ rằng nếu như chúng ta không có bản nêu chi pháp trước mặt, thi` có thể chúng ta hăy phân loại theo tính chất của từng loại tâm, như vậy chúng ta sẽ dễ học hơn.

 

Một khái niệm chúng ta cần phải biết đó là tâm sanh khởi có những tâm thành nhân để tạo ra quả, đó là tâm bất thiện và tâm thiện, có những thành quả của nghiệp thiện hay nghiệp ác thi` đó chúng ta gọi là tâm dị thục.  Và có những loại tâm không thuộc về nhân, không thuộc về quả chúng ta gọi đó là tâm tố kiriyacitta, bởi vậy cho nên nếu chúng ta phân loại cách này thi` chúng ta dễ học hơn. 

 

Trước đây chúng ta đă nói qua về tâm bất thiện gồm có 8 tâm tham, 2 tâm sân, và 2 tâm si, là những thứ tâm sở bất thiện tương ưng phối hợp, nhất là có 3 nguồn gốc phiền năo là tham tâm sở, tham tương ưng, sân tương ưng và si tương ưng phối hợp, cho nên những tâm này được gọi là tâm bất thiện, chúng ta đă học rồi.

 

Và khi chúng ta đề cập đến thiện dục giới thi` chúng ta nên chú y' chỉ có 8 tâm thiện dục giới thôi.  Trong 8 tâm thiện dục giới đó là những thứ tâm làm việc lành, là những thứ tâm tốt đẹp, chuyên bắt cảnh sắc, thinh, khí, vị, xúc.  Nhưng những thứ tâm này lại là cơ bản cho vấn đề tu tập, bởi vi` khi chúng sanh có phước báu hay tập sự tu thiền định v.v... Thi` tất cả những sở hành thuộc về thiện pháp đó nó lại liên quan đến tâm thiện dục giới mà thôi, cho nên tâm thiện dục giới co`n được gọi là Kàmàvacarakusalacitta tức là tâm đại thiện.

 

 Tâm đại thiện hôm trước đă có lần chúng tôi nhắc đến liên quan đến đề tài khi nói đến những tâm thành nhân để cho quả, hôm nay chúng tôi chỉ nhắc lại thôi.  Tâm thiện dục giới gồm có tám thứ, trong tám thứ đó bốn tâm thọ hỷ, và bốn tâm thọ xả.

 

Trong bốn tâm thọ hỷ đó thi` có những thứ tâm có trí tuệ và những tâm thiện không có trí tuệ tương ưng.

 

Tâm thiện thọ xả cũng như thế, có trí tuệ tương ưng và có hai tâm không có trí tuệ tương ưng.

 

Và trong mỗi một tâm thiện, mỗi một thứ tâm, mỗi một loại tâm thiện thọ hỷ hợp y' hay là tương ưng trí, thi` lại có chia ra nữa, tức là hữu trợ và vô trợ, thọ xả  là tám. Tức là tâm thiện thọ hỷ hợp trí vô trợ, thọ hỷ hợp trí hữu trợ một cặp.

 

Tâm thiện thọ hỷ ly trí vô trợ, tâm thiện thọ hỷ ly trí hữu trợ là cặp thứ hai.

 

Tâm thiện thọ xả hợp trí vô trợ, tâm thiện thọ xả hợp trí hữu trợ là cặp thứ ba.

 

Tâm thiện thọ xả ly trí vô trợ và tâm thiện thọ xả ly trí hữu trợ đó là cặp thứ .

 

Chúng ta có bốn cặp thành 8 thứ tâm.  Thế  nào là thiện thọ hỷ, và thế nào là thiện thọ xả.

 

Tâm thiện sanh khởi một cảm giác thỏa thích hoan hỷ dễ chịu thoải mái, thi` như vậy cảm giác đó lại đồng sanh với tâm thiện thọ hỷ, đồng sanh với tâm thiện mà chúng ta gọi đó là tâm thiện. 

 

Và ở đây một người làm phước hay làm điều thiện với tâm thoải thích họ biểu lộ ánh mắt vui hay là vẻ mặt hân hoan hoặc tâm của họ có sự phấn khởi thi` như vậy người ấy được gọi là đang sanh khởi tâm thiện thọ hỷ.  Và thế nào là tâm thiện thọ xả, ở đây thưa quí vị một bi`nh th ản trong khi làm thiện, có những người họ làm thiện nhưng mà họ không ra bên ngoài sự hoan hỷ, hưng phấn, họ chỉ làm một cách bi`nh thản là thọ xả (Upekkhàvedanà) đó là khía cạnh cảm quả của tâm thiện.

 

Qua đến khía cạnh thứ hai tức là nói đến vấn đề tương ưng trí và bất tương ưng trí, người mà khởi lên tâm thiện để làm việc lành. việc thiện, ngay trong lúc đó người này có sự nhận biết về ly’ nhân quả nghiệp báo, hay người này có sự suy tư đến sự khổ đau của cuộc đời nên hướng đến một mục đích giải thoát trong tương lai v.v…. thi` trong lúc làm thiện mà trí tư duy của tâm thiện trong đó có trí tuệ phối hợp để làm công việc này thi` chúng ta gọi tâm thiện này   tâm thiện tương ưng trí. 

 

Tâm thiện bất tương ưng trí, tức là thiện sanh khởi mà không có sự suy tư, không có sự hiểu biết về việc làm. họ làm thiện, làm chỉ để mà làm, dầu rằng họ có sự hoan hỷ hay tâm hành xả, nhưng người đó làm thiện, nói cách khác họ làm thiện trong lúc tâm của họ bị dốt nát, không hiểu biết gi` cả, hoặc có đôi khi họ dửng dưng, họ không nghĩ ngợi gi` hết.  Thấy một người ăn xin đi đến, ngửa tay xin tiền hay xin vật thực, người ấy chỉ hoan hỷ bố thí cho người ăn xin này một vài đồng hoặc một vài miếng vật thực gi` đó. Nhưng người này lại không nghĩ đến mục đích giải thoát trong tương lai do làm việc lành này .v.v.... thi` như vậy gọi là tâm ly trí.

 

bây giờ chúng ta qua đến khía cạnh thứ ba của tâm thiện, chúng ta nói đến vấn đề hữu trợ và vô trợ, trạng thái hữu trợ và vô trợ ở đây thường thường học A Ty` Đàm người ta có sự ngộ nhận là hễ tâm hữu trợ thi` tâm đó lại có hôn trầm thụy miên, tức là có sự dă dượi, uể oải. Như thật ra  gọi là tâm hữu trợ thi` mới có thể sanh khởi tương ưng với hôn trầm hay thụy miên tức là mệt mỏi, dă dượt buồn ngủ, co`n khi tâm thiện sanh khởi, gọi là tâm thiện hữu trợ đó lại phụ thuộc vào một yếu tố khác, chớ không phải là do sự hôn trầm thụy miên. 

 

Ở đây một người làm việc thiện nếu như người đó khởi lên tâm thiện, hoan hỷ làm việc thiện ngay từ lúc đầu thi` gọi đó là tâm vô trợ, nghĩa là không cần phải có điều kiện khách quan thúc đẩy, như nhắc nhở, khuyến khích, không cần ai khuyến khích, nhắc nhở, mà tự họ có tác y' đến điều thiện rồi họ khởi lên tâm thiện, như vậy tâm thiện đó gọi là tâm thiện vô trợ.

 

Co`n gọi là tâm thiện hữu trợ. Thi` tâm thiện hữu trợ nó có ba trường hợp, hữu trợ bởi vi` người này không quen làm việc thiện cho nên khi có cảnh làm thiện, lúc ban đầu họ không có khuynh hướng làm thiện, nhưng sau khi được nhắc nhở khuyến khích họ cảm thấy cần phải làm thiện cho nên họ mới làm, thi` như vậy trong trường hợp này được gọi là tâm hữu trợ do điều kiện.  Một sự kiện thứ hai gọi là tâm hữu trợ là có những trường hợp không phải do điều kiện bên ngoài, mà do điều kiện bên trong, tức là do nơi chính bản thân người ấy, người làm việc phải suy tư chín chắn rồi mới làm, không phải họ đi ra đường gặp một người ăn xin, họ liền cho, mà người này họ có sự đắn đo, có sự suy nghĩ đây là việc lành cần phải làm v.v… và làm có hợp thời, hợp lúc, nơi công cộng hoặc là đi du lịch ở một nơi nào đó.  Chúng tôi được nghe nói rằng khi chúng ta đi trong phái đoàn tham quan du lịch đến xứ Ấn Độ, thi` lúc bấy giờ tại những Phật cảnh, Phật tích tại vùng đó ăn xin nhiều lắm, nếu mà chúng ta là du khách chúng ta đi đến chưa chi cả là chúng ta đă móc tiền, chúng ta nghĩ rằng phải bố thí rồi chúng ta cho, như vậy trở ngại cho chúng ta lắm, nghĩa là cho được một người thi` những người ăn xin khác họ sẽ vây quanh chúng ta, như vậy thi` chúng ta sẽ mất thời gian chúng ta mới thoát khỏi vo`ng tay của những người này, cho nên trong trường hợp đó chúng ta phải suy nghĩ.  Chúng tôi cũng có nghe TT Giác Đẳng căn dặn những người du khác trong đoàn khi đi đến đó họ phải suy nghĩ có nên làm hay không lên làm.  Ngay khi họ phân tích như thế, họ nghĩ ngợi như thế cũng đă là tâm thiện hữu trợ, nhưng tâm thiện hữu trợ này là tâm thiện hữu trợ có trí tuệ, chứ không phải tâm thiện hữu trợ là tâm không có trí tuệ.

 

 Rồi một sự kiện khác cũng gọi là tâm hữu trợ , tâm thiện hữu trợ sanh khởi có nhiều người do thường cận y duyên, nếu người đó tục sinh bằng tâm hữu trợ, từ đó về sau khi họ lớn lên trưởng thành trong đời sống này thi` người này có một cá tính là cái gi` cũng chậm, và họ muốn sanh khởi một điều thiện, sanh khởi một trạng thái tâm thiện thi` tâm thiện đó cũng là hữu trợ, bởi vi` họ đă quen, cảnh thiện đến họ không nhanh chóng thực hiện liền, mà lúc đó họ lơ là, sau cùng vi` thúc đẩy hoặc là do trí của họ suy tư cái việc này có đáng làm hay không làm, lúc đó họ mới khởi lên tâm thiện để thực hiện điều lành, thi` như vậy là yếu tố thứ ba để khởi lên tâm thiện.

 

Vấn đề hữu trợ chúng ta cũng nên chú y’ một điều, hễ gặp hoàn cảnh mà không sanh khởi liền, cần phải có sự cân nhắc nó chậm phát sanh thi` là hữu trợ,chứ chúng ta đừng nghĩ rằng hễ là hữu trợ thi` đều là tâm có khuyết điểm cả, không phải. 

 

Quí vị có biết rằng tục lệ của Chư Phật, sau khi Ngài đắc đạo quả rồi, Ngài chưa vội đi chuyển Pháp Luân thí pháp cứu độ chúng sanh.  Lúc đó Chư Phật nào cũng vậy, Ngài khởi lên một trạng thái tâm suy nghĩ,

 

“pháp mà ta đă chứng đắc thật là thâm sâu, thật là vi tế, thật là khó hiểu, chỉ có người trí mới có thể lănh hội được dễ dàng, nhưng chúng sanh trong đời này thi` quá nhiều bụi trong mắt, bụi phiền năo và có khuynh hướng sống theo dục lạc, không suy nghĩ về điều thiện do đó bố pháp sẽ tạo thêm sự mệt mỏi vất vả mà không có hiệu quả”,

 

khi Ngài suy nghĩ như vậy thi` có một vị Phạm Thiên đó sẽ là một thiên xứ để cầu pháp, lúc đó vị Phạm Thiên này cầu thỉnh rằng.

 

“Bạch Đức Thế Tôn, chúng sanh trong thế gian này đang sống trong bóng tối, nếu như không nghe được chánh  pháp thi` sẽ sống trong bóng tối măi.  Và bạch Đức Thế Tôn ở trong đời này cũng có những chúng sanh mắt ít bụi trần có thể lănh hội giáo pháp dễ dàng v.v…”

 

 Khi Đức Phật Ngài nghe lời thỉnh cầu với y’ nghĩ như vậy thi` Ngài đă nhận lời,  Ngài khởi lên tâm quyết định thuyết pháp để cứu độ chúng sanh, thi` trường hợp này vẫn là có trường hợp hữu trợ.

Minh Hạnh Thực Hiện