Vô thượng thậm thâm Vi Diệu Pháp. Vi Diệu Pháp, pháp thẳm sâu, -ooOoo-
-ooOoo- DẪN NHẬP Vi Diệu Pháp xuất phát từ đâu? Theo lịch sữ Phật Giáo th́ Vi Diệu Pháp được Đức Phật thuyết vào hạ thứ bảy tại cung trời Đạo Lợi (Tam Thập Tam Thiên - Tāvatiṃsa) với mục đích là độ thân mẫu của Ngài. Theo một vài học giă th́ Vi Diệu Pháp không phải do chính Đức Phật thuyết mà là do các vị Sư uyên bác soạn thảo ra sau nầy. Đại Đức Nārada, một nhà học Phật lăo thành đă viết: "Đúng theo truyền thống th́ chính Đức Phật đă dạy phần chính yếu của tạng nầy. Những đoạn ấy được gọi là Đầu đề (Mātikā) hay nồng cốt nguyên thủy của giáo lư như Pháp Thiện (Kusalā Dhammā), hay Pháp Bất Thiện (Akusalā Dhammā), Pháp Vô-Kư (Abyākatā Dhammā) ...". Trong 6 tập của Tạng Diệu Pháp (trừ tập Ngữ Tổng - Kathāvatthu - do Ngài Mục Kiền Liên (Moggallanaputta) viết; cũng có thuyết cho rằng tập này do chính Đức Phật thuyết nhưng Ngài Moggallana thêm vào 500 câu) đều do Đức Phật thuyết và Đại Đức Xá lợi Phất (Sārīputta) được danh dự giảng rộng và sâu vào chi tiết. Dầu tác giả là ai, nhưng chắc chắn Tạng Diệu Pháp là một công tŕnh sáng tác của một bộ óc kỳ tài có thể so sánh với một vị Phật. Chúng ta không cần phải biết là Vi Diệu Pháp có phải do chính Đức Phật thuyết hay không mà chỉ cần sáng suốt nhận định về những điều mà Tạng Diệu Pháp đề cập đến. Bởi người nào thấu rơ được chân lư th́ người đó chính là người giác ngộ (hay Phật) và chỉ người nào hiểu được lẽ thật, người đó mới nói lên được sự thật. Phạn ngữ Abhidhamma có nghĩa là những giáo lư cao siêu, vi diệu. Tiếp đầu ngữ Abhi dùng để diễn đạt sự tinh tế, thù thắng, sâu xa. Danh từ Dhamma dịch là Pháp, một Phạn ngữ có nhiều nghĩa, ở đây nó có nghĩa là lời dạy của Đức Phật, giáo điều hay giáo lư. Vậy Vi Diệu Pháp là những giáo lư tinh hoa của Đức Phật, giáo lư này có tính chất đặc thù hơn Kinh tạng và Luật tạng. Chúng ta có thể thắc mắc là tại sao Kinh tạng và Luật tạng nói riêng, và toàn thể giáo lư của Đức Phật nói chung, đều có hiệu năng đưa đến giải thoát; tại sao lại có phần này gọi là Vi Diệu mà phần kia th́ không?. Ở đây, tiếng Vi Diệu (cao sâu) không dùng với ư niệm giải thoát mà dùng trên phương tiện diễn đạt. Trong khi tạng Kinh và Luật tŕnh bày Pháp lư theo ngôn từ phổ thông, theo Pháp Tục Đế; th́ tạng Abhidhamma tŕnh bày những pháp bản thể chơn tướng hay pháp Chơn Đế (Paramattha). Một điều cần ghi nhận là tạng Diệu Pháp dùng các danh từ diễn đạt pháp lư theo một thuật ngữ chuyên môn, tức là các danh từ chơn đế (danh chơn chế định). Như ở Kinh tạng và Luật tạng, khi nói đến chúng sanh, Phật dùng các danh từ mặc ước, khái niệm như Chư thiên, Ma vương, Vua, Quan, ... C̣n ở tạng Abhidhamma khi đề cập đến chúng sanh, Phật dùng các từ như Uẩn, Xứ, Giới, Đế, ... Về phương diện diễn đạt, tạng Abhidhamma chú trọng về 4 pháp gọi là Vô Ngại Giải (Paṭisambhidā) = sự thông suốt, không có ngăn ngại trong việc giảng giải. Bốn pháp vô ngại giải ấy là: 1) Pháp vô ngại giải (Dhammapaṭisambhidā): là sự diễn đạt thông suốt các pháp, v́ ở tạng Vi Diệu Pháp các pháp được gom lại thành một giềng mối và phân tích rơ ràng. 2) Nghĩa vô ngại giải (Atthapaṭisambhidā): là các ư nghĩa được tŕnh bày, giải thích một các rộng rải, không sai lầm. Trong tạng Diệu Pháp, các ư nghĩa của danh từ, của các pháp được minh định một cách rơ ràng chứ không có sự lôi thôi trong vấn đề định nghĩa. 3) Từ vô ngại giải (Niruttipaṭisambhidā): là sự dùng từ để diễn đạt pháp rất thông suốt, không lẩn lộn. Trong tạng Diệu Pháp các từ ngữ được dùng một cách rất chính xác, đâu ra đấy. Thí dụ như tiếng " tư tưởng " mà ta thường dùng theo phổ thông được hiểu là ư nghĩ, nhưng ở tạng Diệu Pháp " Tư " là sự cố ư, suy nghĩ và " Tưởng " được dùng để chỉ sự nhớ lại, ôn lại ... 4) Biện vô ngại giải (Paṭibhānapaṭisambhidā): là sự thông suốt, lưu loát trong sự biện bác. Trong tạng Diệu Pháp, pháp lư được tŕnh bày đầy đủ, nghĩa lư được giải thích rơ ràng, ngôn từ dùng đúng chỗ không lẩn lộn. Nhờ các ưu điểm ấy, người học Abhidhamma sẽ không lúng túng khi tŕnh bày các pháp lư. Với những lư do trên, nên tạng này được gọi là Vi Diệu. Ngoài ra, chữ Abhidhamma c̣n được các dịch giả Trung Hoa dịch là : Vô tỷ pháp : là pháp cao siêu, không có pháp nào so sánh bằng. Yếu lược nội dung Vi Diệu Pháp. Theo bà Rhys David, một học giả người Anh, khi nói về nội dung Vi Diệu Pháp, đả viết: " Vi Diệu Pháp nói ǵ? - Vi Diệu Pháp nói những ǵ trong ta, ngoài ta và chung quanh ta ". Cái ǵ trong ta? - Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức hay Ngũ Uẩn- những thành phần hợp lại thành một con người, một chúng sanh. Vi Diệu Pháp tŕnh bày con người về cả hai phương diện Tâm lư và Vật lư. Cái ǵ ngoài ta và cái ǵ chung quanh ta? - Ngoài việc tŕnh bày cho thấy bản thể, chơn tướng của chúng ta, Vi Diệu Pháp c̣n chỉ cho ta thấy những ǵ thuộc về ngoại thân, những hiện tượng sanh diệt của những ǵ thuộc về thế giới bên ngoài của chúng ta và sự thoát ly thế gian (Niết Bàn). Như vậy, bà David đă cho ta thấy rằng Vi Diệu Pháp tŕnh bày những chơn tướng, thực thể của cái ǵ thuộc về nội thân và những ǵ thuộc về ngoại thân. Cũng nên nói thêm là khi tŕnh bày những điều ấy, Vi Diệu Pháp đă mô tả về trạng thái, nhân sinh, sở hành, ..., của từng pháp một cách rất chi tiết. Tóm lại, với câu giải trên, chúng ta đă thấy Vi Diệu Pháp nói ǵ và đề cập đến những ǵ. Sang một khía cạnh khác, chúng ta có thể hỏi: " khi tŕnh bày, phân giải những điều ấy, Vi Diệu Pháp muốn cho ta biết những ǵ?". Ngài Đại Đức Santakicco (Tịnh Sự) - một học giả chuyên môn về Abhidhamma - đă nói: "Vi Diệu Pháp tŕnh bày về sự vô thường, khổ năo, vô ngă và cái ǵ vượt ngoài ba tướng trạng ấy". Câu nói trên đă hàm tận những ư nghĩa hết sức sâu xa và cô động một cách đầy đủ về nội dung của Vi Diệu Pháp. Ở tạng Diệu Pháp, bốn vấn đề trọng yếu được tŕnh bày là Tâm (thành phần tri giác của chúng sanh); Sở hữu tâm (Thành phần phụ thuộc của tâm); Sắc pháp (thành phần vật chất) và Niết Bàn (sự vắng lặng các pháp hành). Khi bàn về Tâm cũng như Sở hữu tâm, Vi Diệu Pháp đă cho ta thấy những Duyên (Paccayo) hay yếu tố tạo thành sự hiện hữu của Tâm và sự diễn tiến hoại diệt của từng tâm sát na trong Lộ tŕnh tâm (Cittavithā). Cũng vậy, khi nói về Sắc pháp, Vi Diệu Pháp đă tŕnh bày về thể trạng của Sắc pháp, những duyên trợ tạo và ǵn giữ sắc pháp, cũng như tiến tŕnh sanh diệt của từng sát na sắc pháp trong Lộ sắc. Cuối cùng, sau khi đă tŕnh bày về các pháp hữu vi (pháp do duyên trợ tạo), Vi Diệu Pháp c̣n tŕnh bày về Niết Bàn (một trạng thái vô vi), không bị chi phối bởi vô thường, khổ năo, vô ngă. Để kết luận, ta có thể nói, nội dung của Vi Diệu Pháp là dạy cho chúng ta rơ về con người, thế gian và xuất thế gian (Niết Bàn). Mục đích của việc học Vi Diệu Pháp. Khi đă hiểu biết Vi Diệu Pháp nói ǵ th́ vấn đề cần bàn đến là học Vi Diệu Pháp để làm chi? Hay mục đích của việc học Vi Diệu Pháp là ǵ? Học Vi Diệu Pháp có lợi ích ǵ? Phật giáo đă dạy về bản chất giả tạm, khổ năo của thế gian và con đường vượt khỏi những điều ấy là con đường siêu thế gian. V́ vậy, khi đánh thức giấc mộng vô minh của chúng sanh, Phật đă dùng nhiều phương tiện, tŕnh bày về bản chất thật thể của thế gian là như thế nào để chúng sanh có thể ư thức được bản chất thật của thế gian là vô thường, khổ năo và vô ngă. Trong tinh thần đó, Vi Diệu Pháp nói lên lẽ thật, chơn tướng bản thể của các pháp để chúng ta có được ư niệm đứng đắn về thế gian (dẹp bỏ những thành kiến sai lầm). Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rơ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con người và thế gian. Trên con đường tu tập, người phật tử cần làm hai việc: học pháp và hành pháp. Học pháp là t́m hiểu, thu lượm cho ḿnh một kiến thức đúng, lợi ích cho việc tu tập. Hành pháp là đem những điều học được áp dụng cho đời sống hàng ngày. Vi Diệu Pháp sẽ thích ứng, và hết sức bổ ích cho cả hai việc làm đó. Vi Diệu Pháp giúp cho ta một kiến thức cơ bản, không bị lầm lẩn khi nghiên cứu Phật pháp, bằng những cách diễn đạt Pháp vô ngại giải, Từ vô ngại giải và Biện vô ngại giải. Nhờ đó ta có thể lảnh hội dể dàng những ư nghĩa trong những lời dạy của Đức Phật. Thí dụ: Trong tạng Kinh, Đức Phật dạy về Pháp Vô Ngă (không có cái ta, không phải là của ta), rồi trong tạng Luật, Phật lại dạy: "Lấy vật có chủ là trộm cắp", hai điều trên sẽ gây hoang mang cho chúng ta nếu chúng ta không biết về pháp tục đế (Sammuttisacca) và pháp chơn đế (Paramatthasacca) được giảng trong Vi Diệu Pháp. Đó là lợi ích đối với việc học pháp. Về mặt hành pháp, nhất là đối với những người hành thiền quán, Vi Diệu Pháp lại là một môn học thiết yếu nhất, nó cho chúng ta một sự hiểu biết rơ ràng về Danh Sắc, phân tích, giải thích rơ ràng các pháp hữu vi, nhờ đó, khi thực hành thiền quán, minh sát, chúng ta sẽ nhận định rơ ràng và chính xác về các đề mục (Thân, Thọ, Tâm, Pháp). Một người đă học Abhidhamma, khi hành Tứ Niệm Xứ sẽ nhận định rơ ràng và chính xác các đề mục. Trái lại, một người hành Tứ Niệm Xứ mà không biết ǵ về Vi Diệu Pháp th́ có thể lẩn lộn, sai lầm trong việc quán sát các đề mục. - Nếu nói trên phương diện đặc biệt riêng của tạng Diệu pháp trong Tam Tạng th́: Tạng Kinh: sâu xa về nghĩa lư (Suttana Attha Gambhiro). Tạng Luật: sâu xa về việc làm (Vinaya Kicca Gambhiro). Tạng Diệu pháp: (tạng Luận), sâu xa về bản thể của các pháp (Abhidhamma Sabhāva Gambhiro). - Nếu nói về tính chất quan trọng của tạng Diệu pháp trong Tam Tạng qua thí dụ của "cây" th́ : Tạng Kinh: là phần bông hoa, cành lá của cây, bởi tạng Kinh tiêu biểu cho vẽ đẹp của giáo lư Phật giáo. Tạng Luật: là gốc rể của cây, bởi tạng Luật là nền tảng, là sự sống c̣n của giáo lư. Tạng Luật c̣n, Phật giáo c̣n. Tạng Luật mất, Phật giáo mất. Tạng Diệu pháp: là lơi cây, v́ nó là phần tinh túy, tinh hoa của giáo lư. - Nếu nói trên bước tiến tu tập của người Phật tử th́ giá trị của tạng Diệu pháp trong Tam Tạng là: Tạng Kinh gọi người đến: v́ tạng Kinh rất hấp dẫn, thu hút. Tạng Luật trói người lại : v́ tạng Luật ghép đời sống vào khuôn khổ, qui củ. Tạng Diệu Pháp giết người chết: v́ bài trừ tất cả mọi kiến thức sai lầm, nhất là ngă chấp. Do đó, ta có thể nói, nếu nghiên cứu và t́m hiểu Phật pháp mà không biết về tạng Diệu Pháp là một thiếu sót lớn; hơn thế nửa, việc học hỏi Phật pháp cũng không bảo đảm chắc chắn được. -ooOoo-
Đầu trang | Mục lục
| 01
| 02
| 03
| 04
| 05
| 06
| 07
| 08
| 09 |
^^^^^ | ^^^^ | ^^^^ | ^^^^ | ^^^^ |
|