BÀI 10-a TÂM SIÊU THẾ Là tâm biết cảnh Niết-Bàn. Một trạng thái siêu thế vượt ngoài thời gian và không gian; không thuộc về thế gian vô thường, khổ năo và vô ngă. Chấm dứt sanh diệt, thoát ly tam giới. Vượt ngoài thế gian ở đây có nghĩa là hiện trạng sanh diệt chấm dứt chớ không phải có một cái ǵ thực hữu sanh tồn ngoài thế gian. Tâm siêu thế được chia làm hai loại: I. Tâm Đạo (Maggacitta): Là tâm sát trừ phiền năo, tỏ ngộ Niết-Bàn c̣n được gọi là tâm giải thoát. Tâm này được thành tựu bởi một thời gian dài cam go tu tập. So với việc thực hành thiền chỉ để thành tựu đạo quả nơi sắc giới hay vô sắc giới th́ quá tŕnh tu tập nơi đây phức tạp và gay go hơn nhiều. 1.1) Cơ bản lư thuyết thiền quán: Lư duyên khởi (Paticcasammuppāda) dạy rơ: "Do vô minh và ái dục, chúng sanh sanh tử; do sanh tử, khổ năo có mặt". Chấm dứt sanh tử hay giải thoát (Vimutti) tức là an lạc. Mục đích của thiền quán là đạt được sự an lạc ấy. - Để đoạn trừ ái dục, hành giả cần có một cái nh́n trung thực, đúng với sự thật của sự vật (nhận chơn). Như yêu mến xác thân là một ái dục, để đoạn trừ ái dục ấy hành giả cần nhận chơn xác thân là bất tịnh. - Để đoạn trừ vô minh, hành giả cần có một lư trí sáng suốt để phân biệt đâu là sự thật, đâu là giả; đâu là chơn, đâu là ngụy, ... Thiền quán dẩn hành giả đến hai mục đích ấy: nhận chân và sáng suốt. Gọi là thiền quán (Vipassanā) có nghĩa là thiêu đốt nghịch pháp, phiền năo do sự quán xét, thẩm hộ (Thiền - Jhāna), (Quán - Vipassanā) cũng dịch là minh sát nghĩa là xem xét với cái nh́n sáng suốt. Nh́n một thân người, với vọng tưởng ta sẽ thấy sự đẹp, xấu, ... Đó là cái nh́n (sự quan sát) của vô minh. Trái lại, cũng nh́n một thân người, với trí giác, ta chỉ thấy bản chất bất tịnh của thân, tức là ta nhận chân được một sự thật, dưới sự che đậy của quần áo là một lớp da, dù được trang điểm như thế nào đi nửa th́ bên trong vẩn là bất tịnh. Đó là sự quán sát bằng trí tuệ hay c̣n gọi là minh sát. Khi thực hành thiền quán, hành giả chuyên tâm theo dơi sự diệt sanh, sanh diệt của danh sắc (thân và tâm); hay dùng trí quán triệt, phân tích về bản chất giả tạm của ngũ uẩn. Với sự chuyên tâm như vậy, một ngày nào đó, hành giả sẽ chợt nhận thấy rằng thế gian là giả tạm, là hư ảo, không có ǵ đáng để nắm giữ cả. Khi đó, nếu được phát triển thêm, hành giả sẽ trải qua nhiều giai đoạn chứng nghiệm và dần dần đạt đến đạo quả Niết-Bàn. Tổng quát: hành giả luyện tập đến giai đoạn nhàm chán của tâm, từ sự nhàm chán đó hành giả tiến đến xă ly và từ xă ly, hành giả tiến đến giai đoạn giải thoát. 1.2 Cơ bản thực hành thiền quán: Ở thiền chỉ, hành giả chỉ cần gom tâm vào một đề mục là đủ. Đối với thiền quán, sự gom tâm không phải là sự "chú tâm nhất điểm" như ở thiền chỉ, mà là sự "tấn tâm tùy quán" (Anuvipassi), đó là sự để tâm uyển chuyển theo dỏi sự biến chuyển, sự đổi thay, sự diệt sanh của Danh Sắc. Sự tu tập thiền chỉ là lối niệm "gom tâm vào một điểm", nghĩa là giữ tâm luôn luôn khắn khít với đề mục, c̣n lối niệm của thiền quán là śự chuyên chú ghi nhận " theo dỏi ghi nhận sự chuyển biến của ngũ uẩn để có một "cái nh́n" đúng sự thật về bản chất của thế gian. (1) Đề mục thiền quán (Satipaṭṭhāna): Trong thuật ngữ Phật học, chữ Kammaṭṭhāna (đối tượng hành thiền) được dùng chung cho cả thiền chỉ lẩn thiền quán c̣n riêng chữ Satipaṭṭhāna (niệm xứ) (Sati = niệm; Paṭṭhāna = vị trí, nơi chốn, chỗ. Dịch chung là đối tượng suy niệm, ghi nhận) chỉ dùng riêng đối với thiền quán. Có tất cả là bốn niệm xứ (tứ niệm xứ). Thế nào là tứ niệm xứ?. - Tứ là bốn c̣n niệm là trạng thái tâm quan sát, theo dỏi, chú tâm, ghi nhớ, biết. Vậy tứ niệm xứ là bốn nơi chốn để chú tâm, để quan sát. Bốn nơi chốn ấy là: i) Thân quán niệm xứ (Kāyānupassanā) Thân quán niệm xứ là quan sát, biết rơ những ǵ thuộc về Sắc uẩn hay Hành tướng của Sắc uẩn. Hành giả lấy những ǵ trong thân và ngoài thân làm đối tượng để chuyên chú. Niệm thân giúp hành giả thấy rơ hiện trạng sanh diệt của sắc uẩn (Rūpakhandha). Trong kinh Đại Niệm Xứ (Mahāsatipaṭṭhāna), niệm thân được Đức Phật chia làm bảy phần: a) Niệm hơi thở (Ānapānasati): hành giả ngồi kiết già, an trú trong chánh niệm, trong đề mục hơi thở. Khi hít vô dài, hành giả biết rơ. Tóm lại: khi niệm hơi thở, hành giả chú tâm theo dỏi hơi thở ra, vô; trong khi đó, nếu trong thân, tâm có trạng thái ǵ sinh khởi hành giả phải ghi nhận được ngay sự việc vừa sinh khởi rồi tiếp tục quan sát hơi thở trở lại. Biết rơ hơi thở của ḿnh gọi là "quán thân trên nội thân", biết rơ hơi thở của người là "quán thân trên ngoại thân", biết rơ hơi thở của ḿnh và người là "quán thân trên nội và ngoại thân", biết rơ hơi thở lúc sinh khởi gọi là "quán sự sinh trên thân", biết rơ hơi thở lúc diệt gọi là "quán sự diệt trên thân". b) Niệm đại oai nghi: Đại oai nghi là cách đi, đứng, ngồi, nằm. Đi là sự chuyển động của xác thân, hai chân luôn luôn dở, bước, đạp. Đứng là xác thân đ́nh trụ, dừng lại, hai chân chịu sức nặng của thân. Nằm là xác thân trải dài trên đất, giường, ghế, ... Ngồi là xác thân co lại nửa phần trên, mông chạm vào một mặt phẳng như mặt ghế, mặt giường, ... Hành giả phải luôn luôn ǵn giữ chánh niệm, khi thân xác đang ở oai nghi nào hành giả phải biết rơ. Biết rơ oai nghi của ḿnh gọi là "quán thân trên nội thân", biết rơ oai nghi của người là "quán thân trên ngoại thân", biết rơ oai nghi của ḿnh và người là "quán thân trên nội và ngoại thân", biết rơ oai nghi sinh khởi gọi là "quán sự sinh trên thân", biết rơ oai nghi lúc diệt gọi là "quán sự diệt trên thân". c) Niệm tiểu oai nghi Tiểu oai nghi hay oai nghi phụ là những động tác phụ ngoài bốn động tác chính đă kể trên. Như tay dở lên, cười, nói, mặt quần áo, gật đầu, ... Khi nh́n tới phía trước, hành giả biết rơ. Tóm lại, tất cả những diễn biến xảy ra nơi thân, hành giả biết rơ. Biết rơ các tiểu oai nghi của ḿnh gọi là "quán thân trên nội thân", biết rơ các tiểu oai nghi của người là "quán thân trên ngoại thân", biết rơ các tiểu oai nghi của ḿnh và người là "quán thân trên nội và ngoại thân", biết rơ các tiểu oai nghi sinh khởi gọi là "quán sự sinh trên thân", biết rơ các tiểu oai nghi lúc diệt gọi là "quán sự diệt trên thân". d) Niệm về thể trược (c̣n được gọi là quán thân bất tịnh) (Asucino) Hành giả quán thân ḿnh từ đỉnh tóc đến gót chân. Thân này được bao bọc bởi một lớp da, che đậy những vật bất tịnh bên trong như tóc lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, tủy, tim, gan, thận, ruột, óc, dạ dày, phổi, vật thực, phẩn, nước tiểu, đàm giải, mũ máu, mở đặc, .... Hành giả quán sát thân bất tịnh như vậy một thời gian, hành giả sẽ sinh tâm nhàm chán thân ḿnh cũng như thân người. Quan sát 32 thể trược của ḿnh gọi là "quán thân trên nội thân". Quan sát 32 thể trược của người là "quán thân trên ngoại thân". Quan sát 32 thể trược của ḿnh và người là "quán thân trên nội và ngoại thân". Quan sát 32 thể trược sinh khởi gọi là "quán sự sinh trên thân". Quan sát 32 thể trược lúc diệt gọi là "quán sự diệt trên thân". e) Niệm về Tứ Đại (Vavatthāna) Tứ đại là Địa đại, Thủy đại, Hỏa đại và phong đại. Địa đại là chất đông đặc, có phận sự nâng đỡ các sắc pháp, có trạng thái cứng hoặc mềm. Thủy đại là chất lỏng, ướt, có phận sự nuôi dưỡng các chất sắc khác cho được tươi nhuần, ǵn giữ sự phối hợp của các chất sắc khác cho dính lại với nhau. Có trạng thái chảy ra hay quến lại. Hỏa đại là chất âm dương, có phận sự làm cho các sắc khác khô chín và không hư thúi, có trạng thái nóng hoặc lạnh. Phong đại là chất hoạt động, có phận sự di chuyển hoặc cử động, có trạng thái lay động hoặc căng phồng lên. Theo kinh tạng, tứ đại trong thân có 42 thứ là: - Đất có 20 thứ: tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, thận, tim, gan, óc, phổi, bao tử, ruột già, ruột non, vật thực, phân. - Nước có 12 thứ: mật, đàm, mủ, máu, nước mắt, mở đặc, mồ hôi, dầu da, nước bọt, nước mũi, nước nhớt, nước tiểu. - Lửa có 4 thứ: lửa làm cho ấm thân, lửa làm cho thân xác khô khan, lửa làm cho thân nóng nảy, lửa làm cho vật thực tiêu hóa. - Gió có 6 thứ: gió quạt lên, gió quạt xuống, gió ngoài ruột, gió trong ruột, gió chuyển động thân, gió theo hơi thở ra vô. Sự quan sát về tứ đại giúp hành giả xă ly ḷng cố chấp về xác thân. Quan sát tứ đại trong thân gọi là "quán thân trên nội thân". Quan sát tứ đại ngoài thân là "quán thân trên ngoại thân". Quan sát tứ đại trong thân và nghĩ đến tứ đại ngoài thân là "quán thân trên nội và ngoại thân". Quan sát tứ đại sinh khởi gọi là "quán sự sinh trên thân". Quan sát tứ đại lúc diệt gọi là "quán sự diệt trên thân". f) Niệm về tử thi (Āsubha) Tử thi là thân xác con người đă chết. Sau khi chết hai ba ngày th́ thân xác bị biến dạng, śnh lên, da đổi ra màu xanh đen, mùi hôi thúi nổi lên, xác thân rả ra, chảy nước mủ, bị ḍi bọ đụt, ... Hành giả quan sát tử thi để sanh tâm kinh cảm, ghê sợ xác thân, trừ ḷng tham ái sắc tướng xinh đẹp. Quan sát thân ḿnh rồi sẽ cũng như tử thi đă gặp gọi là "quán thân trên nội thân". Quan sát thân người rồi sẽ cũng như tử thi đă gặp là "quán thân trên ngoại thân". Quan sát thân ḿnh và thân người rồi sẽ cũng như tử thi đă gặp là "quán thân trên nội và ngoại thân". Quan sát sự sinh khởi (trong từng giai đoạn) của thân gọi là "quán sự sinh trên thân". Quan sát thấy sự diệt mất (trong từng giai đoạn) của thân gọi là "quán sự diệt trên thân". g) Niệm về hài cốt (Aṭṭhikāni) Tử thi sau một năm trở lên chỉ c̣n lại bộ xương khô, đó gọi là hài cốt. Hài cốt này có thể là một bộ xương trắng hếu hay đen thui, ră ra thành bột. Hành giả quan sát thân ḿnh với ư nghĩ: thân này đặc tánh là như vậy, bản chất là như vậy. Thân này rồi sẽ trở thành bộ xương khô như vậy, không thể nào vượt ra khởi bản chất đó. Sự quan sát như vậy là "quán thân trên nội thân". Quan sát thân người khác với ư nghĩ: thân đó rồi sẽ như vậy, không thể nào vượt khỏi đặc tính đó là "quán thân trên ngoại thân". Quan sát thân ḿnh và thân người với ư nghĩ: thân này đặc tánh là như vậy, bản chất là như vậy. Thân này rồi sẽ trở thành bộ xương khô như vậy, không thể nào vượt ra khởi bản chất đó là "quán thân trên nội và ngoại thân". Hành giả tu tập theo bảy cách của thân quán niện xứ vị ấy sẽ an trú trong chánh niệm, hướng đến chánh đạo. Vị ấy sống không nương tựa, không đắm nhiểm một vật ǵ trên đời. ii) Thọ quán niệm xứ (Vedanānupassanā) Thọ là trạng thái hưởng cảnh của tâm; là cảm giác của tâm khi hứng chịu ngoại cảnh. Là những cảm giác khổ, lạc, ưu, hỷ và xă. Khi một tâm sinh khởi, ắc phải có một thọ đồng sinh, sự biết thọ sinh khởi gọi là thọ quán niệm xứ. Tức là theo dỏi, suy niệm, ghi nhận cảm thọ khởi lên. Tạng Abhidhamma, bộ Vibhaṅga có ghi rằng: Khi cảm giác khổ, vị ấy biết rơ. Tóm lại, quan sát để thấy rơ thọ uẩn gọi là thọ quán niệm xứ. Quan sát các cảm thọ của ḿnh gọi là "quán thọ trên các nội thọ". Quan sát cảm giác của người gọi là "quán thọ trên các ngoại thọ". Quan sát cảm giác của ḿnh và của người (dù thọ nào củng là vô thường, khổ năo và vô ngă) gọi là "quán thọ trên các nội và ngoại thọ". Quán thấy sự sinh khởi và hoại diệt của các cảm giác gọi là "quán sự sinh diệt trên các thọ". iii) Tâm quán niệm xứ (Cittānupassanā) Tâm là sự nhận biết đối tượng, sự biết cảnh qua 6 căn: tâm nhăn thức (sự biết cảnh sắc), tâm nhĩ thức (sự biết cảnh thinh), tâm tỷ thức (sự biết cảnh khí), tâm thiệt thức (sự biết cảnh vị), tâm thân thức (sự biết cảnh xúc), tâm ư thức (sự biết hết 6 cảnh). Hành giả quan sát, ghi nhận sự sanh diệt, thay đổi của tâm thức, nhờ đó, thấy rơ được thực thể của thức uẩn (Viññāṇamkhandha). Như vậy người hành Tứ Niệm Xứ phải biết rơ các điều sau: Khi mắt biết cảnh sắc, vị ấy biết rơ. Tóm lại, khi tâm tiếp xúc với đối tượng có trạng thái như thế nào, hành giả phải quan sát biết rơ trạng thái ấy. Quan sát tâm ḿnh gọi là "quán tâm trên nội tâm". Quan sát tâm người khác gọi là "quán tâm trên ngoại tâm". Quán sát tâm của ḿnh và của người khác gọi là "quán tâm trên nội ngoại tâm". Quán thấy sự sinh khởi của tâm gọi là "quán sự sinh trên tâm". Quán thấy sự diệt mất của tâm gọi là "quán sự diệt của tâm". iv. Pháp quán niệm xứ (Dhammānupassanā) Là sự quan sát tất cả các trạng thái của Danh Sắc trên mọi phương diện (vi tế và chi tiết). Niệm pháp để thấy rơ chơn tướng của tưởng uẩn (Saññākhandha) và hành uẩn (Sañkhārakhandha). Được phân ra làm năm loại: (a) Quan sát năm triền cái (Nivarana) Triền cái là những pháp ngăn che các thiện pháp nhất là thiền định và trói buộc tâm trong ṿng bất thiện. Có năm loại triền cái: tham dục cái, sân hận cái, hôn thụy cái, trạo hối (Phóng Dật) cái và hoài nghi cái. Vị tỳ kheo quán pháp trên các pháp cần phải biết rơ nhân sanh khởi của các trạng thái tâm sau đây: Khi nội tâm có tham dục , vị ấy biết rơ. Tóm lại, khi một trong năm triền cái sinh khởi, hành giả quan sát biết ngay. Quan sát năm triền cái của ḿnh gọi là "quán pháp trên các nội pháp". Quan sát năm triền cái của người khác gọi là "quán pháp trên các ngoại pháp ". Quán sát năm triền cái của ḿnh và của người khác gọi là "quán pháp trên các nội ngoại pháp ". (b) Quan sát năm thủ uẩn (Upādānakkhando) Uẩn là khối, nhóm, tập họp. Năm thủ uẩn là sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn. Khi tâm có sự chấp thủ (bám víu) uẩn nào, hành giả phải biết rơ. Sắc uẩn, khi sắc uẩn sanh hay diệt, hành giả biết rơ. Quán thấy sự chấp thủ năm uẩn của chính ḿnh gọi là "quán pháp trên các nội pháp". Quán thấy sự chấp thủ năm uẩn của người gọi là "quán pháp trên các ngoại pháp". Quán thấy sự chấp thủ năm uẩn của ḿnh và của người gọi là "quán pháp trên các nội ngoại pháp ". Quán thấy sự sinh khởi của năm uẩn gọi là "quán sự sinh trên các pháp ". Quán thấy sự hoại diệt của năm uẩn gọi là "quán sự diệt trên các pháp ". (c) Quan sát mười hai xứ (Āyatana) Xứ là nơi, chỗ, vị trí. Có tất cả là 12 xứ chia làm 2 phần là nội xứ và ngoại xứ. 6 nội xứ là: Nhăn xứ: Mắt, vật trông thấy được các màu sắc. 6 ngoại xứ là: Sắc xứ: c̣n gọi là cảnh sắc, đối tượng ghi nhận của mắt. Người tu Tuệ quán, khi mắt thấy cảnh chỉ biết "đây là mắt, đây là sắc", do duyên hai pháp nầy, kiết sử (5 Triền cái) sinh khởi, hành giả biết rơ như vậy. Với kiết sử chưa sinh khởi, nay sinh khởi, hành giả phải biết rơ nhân của chúng. Với kiết sử đă sinh khởi, nay được đoạn trừ, hành giả biết rơ nhân của chúng. Với kiết sử được đoạn trừ, nay không c̣n tái phát, hành giả biết rơ nhân của chúng. Khi tai nghe âm thanh ... Nói tóm lại, người hành Tứ Niệm Xứ, trong bốn oai nghi, dù ở oai nghi nào, khi căn môn tiếp xúc với cảnh trần, hành giả phải an trú trong chánh niệm (biết rơ). Và nếu 10 triền cái sanh khởi, hành giả phải biết rơ. 10 Triền cái là 10 pháp trói buộc: dục ái, hữu ái, phẩn uất, ngă mạn, tà kiến, hoài nghi, tật đố, lận, sắc, vô minh, giới cấm thủ. Quán sát các xứ của ḿnh gọi là "quán pháp trên các nội pháp". Quán sát các xứ của người gọi là "quán pháp trên các ngoại pháp". Quán sát các xứ của ḿnh và của người gọi là "quán pháp trên các nội ngoại pháp ". Quán thấy sự sinh khởi của các xứ gọi là "quán sự sinh trên các pháp ". Quán thấy sự hoại diệt của các xứ gọi là "quán sự diệt trên các pháp ". (d) Quan sát thất giác chi (Bojjhaṅga) C̣n gọi là thất bồ đề phần là bảy pháp là cho tỏ ngộ thánh đế, thấy rơ Niết-Bàn, đắc chứng đạo quả. Tạng Abhidhamma, bộ Vibhaṅga giải về thất giác chi như sau: Niệm giác chi là sự ghi nhớ, biết đến, thường hằng nhớ, không lẩn
lộn, không quên ḿnh. Người hành Tứ niệm xứ, khi nội tâm có niệm giác chi, vị ấy biết rơ. Khi nội tâm không có niệm giác chi, vị ấy biết rơ. Với niệm giác chi trước chưa sanh khởi, nay sanh khởi, vị ấy biết rơ. Với niệm giác chi đă sanh khởi nay tu tập được viên thành, vi ấy biết rơ. Khi nội tâm có thẩm giác chi, vị ấy biết rơ. ... Tóm lại, khi hành pháp tuệ quán, trong bốn oai nghi, khi trong tâm có pháp bồ đề phần sinh khởi đều phải biết rơ. Quán thấy thất giác chi của ḿnh là "quán pháp trên các nội pháp". Quán thấy thất giác chi của người khác là "quán pháp trên các ngoại pháp". Quán thấy thất giác chi của ḿnh và của người khác là "quán pháp trên các nội và ngoại pháp". Quán thấy sự sinh khởi lên của thất giác chi là "quán sự sinh trên các pháp". Quán thấy sự diệt mất của thất giác chi là "quán sự diệt trên các pháp". Hành như vậy gọi là pháp quán niệm xứ về thất giác chi. (e) Quan sát tứ diệu đế (Ariyasacca) Tứ Diệu Đế c̣n gọi là Tứ Thánh Đế là bốn sự thật siêu việt, bốn sự thật mà các vị thánh nhân thấy rơ và biết rơ. 1) Khổ Diệu Đế (Dukkhāriyasacca) Khổ diệu đế là sự bất toàn, vô thường, trống không, giả tạm, bất toại nguyện. Khổ đế chỉ cho sinh, già, bệnh, chết, sầu bi, khổ, ưu, không đạt ư muốn, tóm lại, chấp thủ năm uẩn là khổ. Tạng Abhidhamma, tập Paticasamuppāda giải: Sinh là sự sanh khởi của Danh và Sắc (ngũ uẩn). 2) Tập Diệu Đế (Samudayāriyasacca) Tập diệu đế là nguyên nhân sinh ra sự khổ. Nguyên nhân đó không ǵ khác hơn chính là ḷng tham ái. - Dục ái: ḷng tham ái sinh khởi và an trú trong các sắc thân, trong các sự khả ái, tức mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư, các sắc pháp, các âm thanh (thinh sắc), các mùi thơm (khí sắc), các vị (khẩu vị), các sự xúc chạm, và các pháp sinh khởi trong tâm. Hoặc ḷng tham ái sinh khởi và an trú theo các Thức trong đời: nhăn
thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ư thức. - Hữu ái là sự khao khát, mong muốn các sự vật hiện hữu được tiếp tục hiện hữu trong các đời sau (thường kiến). - Phi hữu ái là tham ái về sự đoạn diệt (sự tham ái theo đoạn kiến). 3) Diệt Diệu Đế (Nirodha - Ariyasacca) Tạng Abhidhamma, bộ Vibhaṅga có giải: "Diệt tận các tham ái là diệt diệu đế". Hoặc diệt sự tham ái đối với Thức: nhăn thức, nhĩ thức, tỷ thức,
thiệt thức, thân thức và ư thức là diệt diệu đế. Tập diệu đế và diệt diệu đế khác nhau ở chỗ tham ái sinh và tham ái diệt đối với mọi sự vật. Do đó mà có câu "Phiền năo tức bồ đề, Niết-Bàn là sinh tử". 4) Đạo Diệu Đế (Maggāriyasacca) Tạng Abhidhamma, bộ Vibhaṅga có giải: "bát thánh đạo có tám chi: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn (chánh cần), chánh niệm và chánh định". Chánh kiến là thấy rơ sự khổ, thấy rơ các nhân sinh khổ, thấy rơ các pháp diệt khổ và thấy rơ con đường đi đến diệt khổ. Chánh tư duy là sự suy nghĩ xa ĺa tham dục, sự suy nghĩ xa ĺa sân hận, sự suy nghĩ xa ĺa giết hại. Chánh ngữ là không nói dối, không nói đâm thọc, không nói hung dữ và không nói lời nhảm nhí, vô ích. Chánh nghiệp là không giết hại, không trộm cướp, không tà dâm. Chánh mạng là không nuôi thân sống bằng thân nghiệp tà vạy và bằng khẩu nghiệp tà vạy. Chánh tinh tấn là ngăn ngừa các ác pháp chưa sinh khởi không cho sinh khởi, diệt trừ các ác pháp đă sinh khởi và ngăn ngừa các ác pháp đă diệt được không cho tái phát. Tu thập thiện pháp chưa có cho có và ǵn giữ các thiện pháp đă có cho được phát triển viên măn. Chánh niệm là sự tỉnh giác, biết rơ các sự việc xảy ra trong hiện tại, biết rơ thân trên thân, biết rơ thọ trên các thọ, biết rơ tâm trên các tâm và biết rơ pháp trên các pháp. Chế ngự tham sân sinh khởi. Chánh định là trạng thái tâm thanh tịnh, vắnh lặng, xa ĺa các pháp bất thiện. Chứng và trú sơ thiền: có Tầm, Tứ, Hỷ và Lạc do nhờ ly Dục sinh. Chứng và trú nhị thiền: có Hỷ và Lạc do nhờ Định sinh. Chứng và trú tam thiền: có sự an lạc do nhờ Xă niệm sinh. Chứng và trú tứ thiền: có sự an tịnh do nhờ phi khổ phi lạc sinh. Tóm lại, người hành Tứ Niệm Xứ trong 4 oai nghi, luôn luôn phải có chánh niệm (biết rơ, ghi nhận hiện tại) đối với các pháp, và biết rơ "đây là sự khổ, đây là nhân sinh khổ, đây là sự diệt khổ và đây là con đường đi đến diệt khổ". Quán tứ diệu đế trong thân gọi là "quán pháp trên các nội pháp". Quán bốn diệu đế ngoài thân gọi là "quán pháp trên các ngoại pháp". Quán thấy bốn diệu đế ở trong và ngoài thân gọi là "quán pháp trên các nội và ngoại pháp". Quán thấy sự có mặt của tứ diệu đế gọi là "quán sự sinh trên các pháp". Quán thấy sự biến hoại của tứ diệu đế gọi là "quán sự diệt trên các pháp". Lưu ư: Tứ niệm xứ là pháp tu chỉ quán, v́ cùng một đề mục, nếu hành giả tu theo thiền chỉ (Samatha) th́ sẽ đắc Định; nếu hành giả tu theo thiền quán (Vipassana) th́ sẽ đắc Tuệ. (xem tiếp phần 10.b) -ooOoo-
Đầu trang |
Mục lục
| 01
| 02
| 03
| 04
| 05
| 06
| 07
| 08
| 09 |
^^^^^ | ^^^^ | ^^^^ | ^^^^ | ^^^^ |
|