BÀI 10-b (2) Quá tŕnh thực hành Để đạt kết quả mỹ măn, trước khi hạ thủ công phu, hành giả phải tự biết rơ tính nết của ḿnh rồi chọn một trong những đề mục kể trên, đề mục nào thích hợp với cá tánh để hành tập. Căn tính của chúng sanh được phân làm 6 loại: Tham tánh (Rāgacarito), đề mục thích hợp là 10 đề mục tử thi và thân hành niệm. Sân tánh (Dosacarito), đề mục thích hợp là Từ, Bi, Hỷ, Xă, Xanh, Vàng, Đỏ, Trắng. Si tánh (Mohacarito), đề mục thích hợp là pháp số. Tín tánh (Sañhācarito), đề mục Phật, Pháp, Tăng, Giới, Thí, Thiện thích hợp với người nặng về tánh đức tin. Giác tánh (Buñhicarito), đề mục thích hợp gồm có: niệm về sự chết, niệm tịch tịnh, đề mục phân biệt, đề mục tưởng về sự ô trược của vật thực. Tầm tánh (Vitakkacarito), thích hợp với đề mục pháp số Đề mục Đất, Nước, Lửa, Gió, Hư không, Ánh sáng và bốn đề mục vô sắc thích hợp với mọi tánh nết. Hành giả nếu tu thiền chỉ một thời gian sẽ chứng được 5 diệu trí (Thần thông trí, thắng trí): - Thần thông trí (Iddhividhaññāna). Đó là thành quả cao tột trong thiền chỉ. Muốn tiến đến pháp xuất thế gian, hành giả phải chứng được Lậu tận trí (Āsavakkhayaññāna), muốn chứng được Lậu tận trí hay trở thành vị Arahan (A-La-Hán) th́ hành giả phải gia công tu tập thiền quán (Vipassanā). Thiền quán là phương pháp tu tập dùng trí tuệ quan sát tất cả mọi sự vật để thấy rơ được thực tướng, dứt trừ các phiền năo. Nếu thiền chỉ là pháp định tâm để chế ngự phiền năo, th́ thiền quán là pháp tản tâm để phá hoại, diệt tận phiền năo. Người ta c̣n so sánh: nếu thiền chỉ là tay nắm cỏ th́ thiền quán là liềm cắt cỏ; nếu thiền chỉ như đứng tấn vửng th́ thiền quán là tay lẩy tên; nếu thiền chỉ là ngăn tâm động th́ thiền quán là khơi tâm ch́m. Muốn tu thiền quán ta phải biết qua bảy pháp thanh tịnh (Xisuddhi). Trong pháp thất tịnh th́ hai pháp đầu thuộc về thiền chỉ, c̣n năm pháp sau thuộc về thiền quán. Bảy pháp thanh tịnh ấy là: 1) Giới Tịnh (Sīlavisuddhi) Hành giả phải ǵn giữ giới luật (ngũ giới hay bát giới của cư sĩ; thập giới của vị sadi; 227 giới của vị tỳ kheo) cho được trong sạch th́ tâm mới được thanh tịnh. Giới thanh tịnh có 4 là: - Giới Bổn Thanh Tịnh (Pātimokkhasamsavarasīlam): dùng đức tin trong sạch để chế ngự thân và khẩu. - Thu Thúc Căn Tịnh (Indriyasamvasrasīlam): dùng chánh niệm để tránh phiền năo sanh khởi khi lục căn tiếp xúc với lục trần. - Chánh Mạng Giới Tịnh (Ājīvapārisuddhi): cư sĩ không hành nghề bất chánh, vị t́ khưu không dùng các phương cách sai trái để hút máu tín đồ. - Quán Tướng Thanh Tịnh (Paccayasannissitasīlam): sự thanh tịnh nhờ quán xét bốn món vật dụng thờng ngày. 2) Tâm Tịnh (Cittavisuddhi) Hành giả tu thiền định, khi sắp nhập định (cận định – Upacārasamādhi), hay khi nhập định (Appanārasamādhi), tâm được yên tỉnh, yên lặng được các triền cái. Chi pháp ở đây là Nhất Hành (Ekaggatācetasika). Tâm tịnh có hai: - Cận Hành Định (Upacārasamādhi): là loại định trong dạng tâm thiện. - An Chỉ Định (Appanāsamādhi): là định trên cảnh chế định hay cảnh chân đế mà hành giả dùng làm đề mục để thiền quán. Khi tu Thiền Quán (Suddhivipassanāyānika), hành giả đạt đến tiểu khắc định (định tạm thời – Khanikasamādhi); định này cũng được coi là cận định (Upacārasamādhi) 3) Kiến Tịnh (Diṭṭhivisuddhi) Hành giả dùng trí tuệ xem xét rơ về người, thú, tôi, ... để thấy chúng chỉ là do ngũ uẩn hợp thành hay nói khác đi chúng chỉ là Danh và Sắc họp lại trong đó yếu tố sắc là những nguồn hiện tượng luôn luôn biến đổi, sinh diệt theo định luật tự nhiên c̣n gọi là tam tướng (vô thường, khổ năo và vô ngă) chứ không có tự ngă, linh hồn hay một cá thể nào đơn thuần và bất biến. Hành giả c̣n thấy rơ nguyên nhân phối hợp của chúng là do bốn nhân trong kiếp quá khứ (vô minh, ái, chấp thủ và nghiệp) và nhân hiện tại là vật thực (Āhāra), nhân duy tŕ kiếp sống. Hành giả cũng thấy rơ nguyên nhân sanh khởi của tâm pháp, như nhăn thức được sanh khởi do 4 nguyên nhân chính là: cảnh sắc, nhăn vật, ánh sáng và tác ư (sự chú ư). Nhĩ thức ... cũng có các nguyên nhân tương tự. Tịnh pháp này lấy Danh Sắc phân tích tuệ (Nāmarūpaparicchedañāna) là tuệ đầu tiên của 16 Minh Sát Tuệ làm chi pháp cốt lơi, tuệ này là loại trí chia chẻ, phân tích Danh Sắc theo thực thể (Sabhāva) đúng với sự thật. Được gọi là Kiến Tịnh v́ nó có tính cách thanh lọc thân kiến (Sakkāyadiṭṭhi) và ngă kiến (Attadiṭṭhi) của hành giả. 4) Đoạn Nghi Tịnh (Kankhāvitaranavisuddhi) Khi hành giả hiểu rơ rằng hiện tại được h́nh thành bởi những nguyên nhân trong quá khứ và hiện tại sẽ là nguyên nhân của tương lai. Sự việc đó được tái diễn liên tục tiếp nối thành một chuỗi dài vô tận. Hành giả c̣n biết rằng sự tái diễn đó chỉ chấm dứt khi hành giả chứng đạt được quả vị A-La-Hán. Nhờ những sự hiểu biết đó, hành giả không c̣n hoài nghi về quá khứ, hiện tại và vị lai, trạng thái đó gọi là đoạn nghi tịnh. Tiếp theo, hành giả suy niệm rằng tất cả các pháp đều do nhân duyên cấu tạo thành (pháp hành hay pháp hữu vi – Sankāra –), có duyên hiện khởi ắt phải có duyên diệt tắt, đó là định luật chung cho tất cả gọi là vô thường (Anicca) mà cái ǵ vô thường th́ tất nhiên là khổ (Dukka) v́ không có một thực hữu nào thường hằng với thời gian và không gian đó là hiện tượng vô ngă (Anatta). Với những nhận thức đó, hành giả thành tựu được phổ thông tuệ (Sammāsananāna). Tịnh pháp này lấy Duyên Đạt Tuệ (Paccayaparigga hañāna) là thiền tuệ thứ hai của 16 Minh Sát Tuệ làm chi pháp cốt lơi, đây là trí tuệ ghi nhận các duyên trợ của Danh Sắc bản thân. Được gọi là Đoạn Nghi Tịnh bởi nó giúp hành giả tránh được tám nghi hoặc: Buddhe Kankhati: Nghi ngờ về Đức Phật, về ân đức tối thượng của ngài. Dhamme Kankhati: Nghi ngờ về giáo pháp, ân đức, công năng của giáo pháp. Sanghe Kankhati: Nghi ngờ về chư Tăng, về ân đức và pháp tánh của chư tăng. Shikkhāya Kankhati: Nghi ngờ về tam học, về công năng và lợi ích của tam học. Pubbante Kankhati: Nghi ngờ về vấn đề hiện hữu trong quá khứ. Aparante Kankhati: Nghi ngờ về vấn đề hiện hữu trong tương lai. Pubbantāparante Kankhati: Nghi ngờ về vấn đề hiện hữu trong cả hai thời điểm quá khứ và tương lai. Idappaccayatā paticcasamuppannesu ca dhammesu Kankhati: Nghi ngờ về định lư duyên sinh tập khởi. 5) Đạo Phi Đạo Tri Kiến Tịnh (Maggāmaggañānadassanavisuddhi) Sau khi dứt trừ mối nghi ngờ về quá khứ, hiện tại, vị lai; hành giả tiếp tục quán tưởng về luật tam tướng cho đến khi th́nh ĺnh tự thân hành giả phát ra ánh sáng phỉ lạc ... đó chỉ là những phiền năo mà hành giả cần phải vượt qua. 10 phiền năo ấy là: Hào quang (Obhāsa). Khi những triệu chứng này phát sanh, hành giả không nên khởi tâm ưa thích, mà phải nhận thức rằng đó là những chướng ngại, ngăn chận sự tiến bộ của hành giả. Hành giả phải luôn luôn ư thức đến mục tiêu của ḿnh để vượt qua mười phiền năo đó. Khi hành giả đă liểu tri, thắng vượt 10 pháp Upakkilesa gọi là Đạo Phi Đạo Tri Kiến Tịnh. Ở giữa tuệ thứ ba (Thẩm Sát Tuệ - Sammasanañāna) và tuệ thứ tư (Sanh Diệt Tuệ - Udayabbayañāna) của 16 Tuệ Minh Sát được gọi là Đạo Phi Đạo Tri Kiến Tịnh. V́ hai Tuệ này giúp hành giả tạm thời thoát khỏi ba pháp ràng buộc (Gāha): Ái (Tanhā), Mạn (Māna) và Kiến (Diṭṭhi) trong mười phiền năo. Lúc Sanh Diệt Tuệ c̣n muội lược (non yếu - Tarunudayabbayañāna), hành giả ghi nhận được sự sanh diệt của Danh Sắc khi có phiền năo (kilesa) khởi lên, hành giả không bám víu, ôm ấp mà lại càng vững mạnh kiên trụ thêm nữa, càng lúc, hành giả càng thấy rơ thêm sự sanh diệt của Danh Sắc nên được gọi là Đạo Phi Đạo Tri Kiến Tịnh. 6) Tiến Hành Tịnh (Patipadāñānadassanvisuddhi – Hành Lộ Tri Kiến Tịnh) Sau khi thoát ly được 10 phiền năo, hành giả tiếp tục quán luật tam tướng (Vô Thường, Khổ năo và Vô ngă). Hành giả sẽ thoát khỏi ba kiến chấp sai lầm: Thường tưởng, Lạc tưởng và Ngă tưởng; thấy rơ về sự sanh khởi và diệt tận của các pháp hữu vi, dần dần chánh trí sẽ phát sanh, thành tựu đạo quả, chứng ngộ Niết-Bàn. Chánh trí có 10 thứ là: Sanh diệt trí (Udayabbayaññāna) Sau khi tỏ ngộ lư sanh diệt một cách rơ ràng tức hành giả đă thành tựu được Sanh diệt tuệ (Udagavayañāna) hay Sanh diệt trí. Hoại diệt trí (Bhangaññāna) Trong hai trạng thái sanh diệt th́ trạng thái diệt nổi bậc và tạo ấn tượng sâu sắc cho hành giả ( v́ khi chưa có mà phát khởi th́ khó nhận hơn là đă có mà bị diệt mất). Dần dần, hành giả chỉ nhận thấy sự diệt tắt của Danh Sắc mà thôi. Giai đoạn này gọi là Đoạn diệt tuệ hay Hoại diệt trí. Hăi kinh trí (Bhavyatūpatthānaññāna) Sau khi thấy rơ bản chất thật sự của Danh Sắc, đến giai đoạn nào đó, hành giả sẽ thấy tất cả những ǵ bị sanh diệt đều là đáng sợ. Trạng thái này gọi là Kinh Hăi Tuệ hay Hăi Kinh Trí. Quả hoạn trí (Ādīnavaññāna) Khi thấy Danh Sắc là đáng sợ, hành giả gom tâm suy niệm về tánh chất nguy hiểm, đáng sợ; thấy rơ Danh Sắc là nền tảng tạo ra mọi sự thống khổ. Trạng thái này gọi là Hoạn Họa Tuệ hay Quả Hoạn Trí. Yếm ố trí (Nibbidāññāna) Lúc bấy giờ, hành giả thấy nhàm chán Danh Sắc vô cùng, hành giả muốn thoát ly Danh Sắc, muốn được giải thoát ngay. Trạng thái này là Dục Ly Tuệ hay Yếm Ố Trí. Dục thoát trí (Muñcitukāmyatāñāna) Ḷng tham muốn ấy khiến cho hành giả khởi nhiệt tâm quyết làm thế nào để tiến đạt giải thoát ngay tức khắc. Trạng thái đó gọi là Quyết Ly Tuệ hay Dục Thoát Trí. Giảm trạch trí (Paṭisankhāraññāna) Dần dần hành giả ư thức rằng sự nôn nóng, sôi nổi, khó đạt đến kết quả, hành giả bắt đầu dịu lại trong việc tu tập. Hành xă trí (Sankhārupekkhāñāna) Dần dần tâm hành giả trở lại trạng thái thản nhiên, quân b́nh. Trạng thái này gọi là Xă Tuệ hay Hành Xă Trí. Thuận thứ trí (Anulomaññāna) Nếu đủ căn duyên tiến đến đạo quả, hành giả sẽ đạt đến trạng thái tâm thuần thục, khi ấy, hành giả lấy một trong ba tướng (Vô thường, Khổ, Vô ngă) làm đề mục tu tập. Khi thấy rơ tam tướng, tâm hành giả hướng đến đối tượng giải thoát (Niết-Bàn). Giai đoạn này gọi là Thuận Thứ Trí. Chuyển tộc trí (Gotrabhūññāna) Tuệ Thuận Thứ chỉ tồn tại nơi hành giả trong một sát na tâm, sau tuệ này, tâm hành giả chuyển sang đối tượng Niết-Bàn. Sự biến chuyển này được xem là một bước nhảy vọt đến bờ kia nên gọi là Tuệ Bỏ Bực hay Chuyển Tộc Trí. Sau giai đoạn chuyển tộc trí là hành giả đă tiến gần đến đạo quả giải thoát, phiền năo được sát trừ. Giai đoạn này hành giả thấu rơ được đạo quả Niết-Bàn. 7) Tri Kiến Tịnh (Nānadassanavisuddhi) Tri kiến tịnh là trí tuệ giác hay đạo tuệ giúp hành giả đoạn trừ tám hôn kiến do vô minh sanh ra; tám hôn kiến đó là: Không biết thân tâm, Danh Sắc là khổ. Không ư thức rằng do hỷ ái (Nandī) mà đau khổ phát sanh. Không tin rằng Niết Bàn là cứu cánh thoát khổ. Không biết rằng Bát Thánh Đạo là con đường dẫn tới Niết Bàn. Không biết có đời trước (bất tri tiền thân). Không biết có đời sau (bất tri hậu thân). Không biết lư tái sanh, cho rằng thân này đơn thuần do cha mẹ tạo ra và sau khi chết sẽ không c̣n ǵ nữa. Không biết lư nhân quả trong mọi loài. Chính nhờ tuệ giác này, hành giả hiểu rằng Khổ Đế nên biết, Tập Đế nên diệt, Diệt Đế nên chứng và Đạo Đế nên hành. - Hành giả thấy rơ rằng tất cả chúng sanh đều bị các khổ đau như già, bịnh, chết, ưu, bi ai, năo, ... chi phối. Các sự đau khổ này do sự sinh là nhân tập khởi; chính Niết-Bàn là pháp đoạn diệt sự sinh, từ đó đoạn diệt các khổ; và chỉ có Bát Chánh Đạo là con đường duy nhất dẩn đến Niết-Bàn. - Hành giả quán sát tiếp tục, thấy Hữu là nhân tập khởi các sự sinh. Sinh có 4 loại: Noăn sinh, Thai sinh, Thấp sinh và Hóa sinh. Tất cả 4 thứ sinh này đều do Hữu là nhân tập khởi; Niết-Bàn là pháp đoạn diệt Hữu, từ đó đoạn diệt sinh; Bát Chánh Đạo là con đường đưa đến Niết-Bàn. - Hành giả quán sát tiếp tục, thấy Thủ là nhân tập khởi các Hữu, Hữu có 3 loại: Dục Hữu, Sắc Hữu, và Vô Sắc Hữu; tất cả 3 thứ Hữu đó đều do Thủ là nhân tập khởi; Niết-Bàn là pháp đoạn diệt Thủ, từ đó đoạn diệt Hữu; Bát Chánh Đạo là con đường đưa đến Niết-Bàn. - Hành giả quán sát tiếp tục, thấy Ái là nhân tập khởi các Thủ, Thủ có 4 loại: Dục Thủ, Tà Kiến Thủ, và Tà Giới Thủ và Ngă chấp Thủ; tất cả 4 thứ Thủ đó đều do Ái là nhân tập khởi; Niết-Bàn là pháp đoạn diệt Ái, từ đó đoạn diệt Thủ; Bát Chánh Đạo là con đường đưa đến Niết-Bàn. - Hành giả quán sát tiếp tục, thấy Thọ là nhân tập khởi các Ái, Ái có 3 loại: Dục Ái, Hữu Ái, và Phi Hữu Ái; tất cả 3 thứ Ái đó đều do Thọ là nhân tập khởi; Niết-Bàn là pháp đoạn diệt Thọ, từ đó đoạn diệt Ái; Bát Chánh Đạo là con đường đưa đến Niết-Bàn. - Hành giả quán sát tiếp tục, thấy Xúc là nhân tập khởi các Thọ, Thọ có 5 thứ là Thọ Khổ, Thọ Lạc, Thọ Ưu, Thọ Hỷ và Thọ Xă; Thọ có 6 loại: Nhăn Thọ, Nhĩ Thọ, Tỷ Thọ, Thiệt Thọ, Thân Thọ và Ư Thọ; tất cả 6 thứ Thọ đó đều do Xúc là nhân tập khởi; Niết-Bàn là pháp đoạn diệt Xúc, từ đó đoạn diệt Thọ; Bát Chánh Đạo là con đường đưa đến Niết-Bàn. - Hành giả quán sát tiếp tục, thấy Lục Nhập là nhân tập khởi các Xúc, Xúc có 6 loại: Nhăn Xúc, Nhĩ Xúc, Tỷ Xúc, Thiệt Xúc, Thân Xúc, Ư Xúc; tất cả 6 thứ Xúc đó đều do Lục Nhập là nhân tập khởi; Niết-Bàn là pháp đoạn diệt Lục Nhập, từ đó đoạn diệt Xúc; Bát Chánh Đạo là con đường đưa đến Niết-Bàn. - Hành giả quán sát tiếp tục, thấy Danh Sắc là nhân tập khởi các Lục Nhập, Lục Nhập là 12 xứ họp thành, có 6 loại: Nhăn Nhập, Nhĩ Nhập, Tỷ Nhập, Thiệt Nhập, Thân Nhập, Ư Nhập; tất cả 6 thứ Nhập đó đều do Danh Sắc là nhân tập khởi; Niết-Bàn là pháp đoạn diệt Danh Sắc, từ đó đoạn diệt Lục Nhập; Bát Chánh Đạo là con đường đưa đến Niết-Bàn. - Hành giả quán sát tiếp tục, thấy Danh Sắc là nhân tập khởi các Nhập Danh là Thọ, Tưởng, Hành; Sắc là Tứ Đại và 4 Sắc Y Đại sinh. Tất cả Danh Sắc này đều do Thức là nhân tập khởi; Niết-Bàn là pháp đoạn diệt Thức, từ đó đoạn diệt Danh Sắc; Bát Chánh Đạo là con đường đưa đến Niết-Bàn. - Hành giả quán sát tiếp tục, thấy Thức là nhân tập khởi các Danh Sắc, Thức ở đây là 32 tâm quả hiệp thế và được chia làm 6 loại: Nhăn Thức, Nhĩ Thức, Tỷ Thức, Thiệt Thức, Thân Thức và Ư Thức; tất cả 6 thứ Thức đó đều do Hành là nhân tập khởi; Niết-Bàn là pháp đoạn diệt Hành, từ đó đoạn diệt Thức; Bát Chánh Đạo là con đường đưa đến Niết-Bàn. - Hành giả quán sát tiếp tục, thấy Hành là nhân tập khởi các Thức, Hành có 3 loại: Thân Hành, Khẩu Hành và Ư Hành; tất cả 3 thứ Hành đó đều do Vô Minh là nhân tập khởi; Niết-Bàn là pháp đoạn diệt Vô Minh, từ đó đoạn diệt Hành; Bát Chánh Đạo là con đường đưa đến Niết-Bàn. - Hành giả quán sát tiếp tục, thấy Vô Minh là nhân tập khởi các Hành, Vô Minh có 4 loại: Bất tri Khổ, Bất tri Tập, Bất tri Diệt và Bất tri Đạo; tất cả các sự Vô Minh đó đều do Lậu Hoặc là nhân tập khởi; Niết-Bàn là pháp đoạn diệt Lậu Hoặc, từ đó đoạn diệt Vô Minh; Bát Chánh Đạo là con đường đưa đến Niết-Bàn. - Hành giả tiếp tục quán sát, thấy Lậu Hoặc là nhân tập khởi Vô Minh. Lậu Hoặc gồm có 3 là Dục Lậu, Hữu Lậu và Kiến Lậu. Niết-Bàn là pháp diệt tận các Lậu Hoặc. Bát Chánh Đạo là con đường đưa đến Niết-Bàn. - Hành giả quán sát thấy rơ Tứ Diệu Đế trong Thập Nhị Duyên Khởi như vậy là vị này đă thành tựu một trong tứ Thánh Quả, và sau khi thành tựu đạo quả, hành giả quán sát lại những phiền năo đă diệt, những đạo quả đă chứng, trạng thái này gọi là Phản Khán Trí. Phản Khán Trí (Paccavekkhanañna) là trí tuệ của vị thánh nhơn sau khi đắc đạo quả xét lại đạo quả ḿnh vừa chứng đắc, Niết-Bàn ḿnh vừa tỏ ngộ và phiền năo ḿnh vừa sát trừ. - Đối với Tu-Đà-Huờn th́ phản khán trí khởi lên, xét thấy Thân Kiến, Hoài Nghi và Tà giới thủ đối với ḿnh đă tiêu diệt hoàn toàn do đạo quả ḿnh vừa chứng đắc, vị ấy tin chắc rằng ḿnh không c̣n tục sinh vào 4 đường ác đạo (Địa ngục, Ngạ quỷ, A-Tu-La và Bàng sanh), sau đời sống này, sẽ tái sinh không quá 7 kiếp trong cơi Dục Giới. - Đối với vị Tư-Đà-Hàm, khi phản khán trí khởi lên, thấy Dục Ái và Sân Hận đối với ḿnh đă giảm nhẹ, do đạo quả ḿnh đă chứng được. Sau đời hiện tại, chỉ phải tái sanh một lần nửa trong cơi Dục Giới. - Đối với vị A-Na-Hàm th́ phản khán trí khởi lên, xét thấy Dục Ái và Sân Hận đối với ḿnh đă tiêu diệt hoàn toàn do nhờ đạo quả ḿnh vừa chứng đắc. Sau kiếp sống này, sẽ sinh lên cơi Sắc Giới tịnh cư chứ không c̣n trở lại cơi Dục Giới nửa. - Đối với vị A-La-Hán, khi phản khán trí khởi lên, vị ấy biết rơ tất cả các phiền năo như Sắc ái, Vô sắc ái, Ngă mạn, Phóng dật, Vô minh, ... đối với ḿnh nay đă hoàn toàn diệt tận, do nhờ đạo quả ḿnh vừa chứng được. Sự tục sinh nay đă chấm dứt v́ phạm hạnh đă hoàn thành, phận sự đáng làm, đă làm xong. Đó là phản khán trí của các vị thánh nhơn. Tuy nhiên, cũng có những vị thánh nhơn sau khi chứng quả không quán xét lại các phiền năo đă sát trừ và các phiền năo chưa được sát trừ. Điều cần biết thêm ở đây là các hành giả tu tập Vipassanā, phải y cứ vào tam tướng phổ thông (Tīnilakkhanāni) là Vô Thường, Khổ Năo, Vô Ngă. Đạt được trí tuệ đầu tiên là Thẩm Nghiệm Trí (Sammasanañānaṃ). Thẩm Nghiệm Trí là trí tuệ suy xét về Ngũ uẩn (Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức) theo định luật tam tướng (vô thường, khổ năo và vô ngă). - Sắc uẩn, dù quá khứ, hiện tại, vị lai, bên trong, bên ngoài, thô thiển, vi tế, hạ liệc, thù thắng, sắc viễn, sắc cận, ... đều là Vô Thường, Khổ Năo và Vô Ngă (chẳng phải là ta, chẳng phải là của ta, chẳng phải là tự ngă của ta). - Thọ uẩn, dù thọ uẩn đă qua hay hiện tại, hoặc đă sanh khởi hay chưa sanh khởi, thọ bên trong hay bên ngoài, thọ thô hay thọ tế, ... đều là Vô Thường, thống khổ, phi ngă, phi ngă sở. - Tưởng uẩn, dù tưởng hiện tại, tưởng quá khứ, tưởng vị lai, tưởng nội phần, tưởng ngoại phần, tưởng thô, tưởng tế, tưởng hạ liệc, tưởng thù thắng, tưởng cận, tưởng viển, ... đều là Vô thường, Khổ năo, Vô ngă. - Hành uẩn, dù quá khứ hành, hiện tại hành, vị lai hành, ... đều là Vô thường, Khổ năo và Vô ngă. - Thức uẩn, dù quá khứ thức, hiện tại thức, vị lai thức, nội phần thức, ngoại phần thức, ... đều là Vô Thường, Khổ năo và Vô ngă. Trí tuệ sơ khởi của hành giả tu tập Vipassanā là suy xét như trên. Tuy nhiên, không phải hành giả nào cũng có khả năng thấy rơ được hết ba tướng, nên tùy theo cá tánh của mỗi người được chia ra làm 3 loại tùy quán. - Vô Thường Tùy Quán (Aniccānupassanā): Nhờ trí tuệ mà thấy được sự đổi thay, sanh diệt của Danh Sắc; ở đây, ta cần hiểu rơ ba danh từ: Vô thường tánh: tính thể, tính chất của vô thường. Bộ chú giải Sammohavinodanī nói rằng: Danh Sắc là vô thường v́ sau khi sanh khởi ắt bị hoại diệt (tính chất có rồi không – hutvā-abhāva). Để làm sáng tơ hơn, ta phải thấy Danh Sắc trên bốn khía cạnh sau: Uppādavayavantattā: Sự sanh diệt. Những ǵ do các duyên trợ tạo được gọi là pháp hữu vi (Sankhārā), quá tŕnh tồn tại của chúng bao gồm ba giai đoạn: Sanh (Uppāda), Trụ (¿hiti), Diệt (Bhaṅga). Ba giai đoạn này là tướng của hữu vi pháp (Sankhāralakkhana) vậy. Cho nên cứ mỗi sát na tiểu (sanh, trụ, diệt) trôi qua là từng cái vô thường tướng trôi qua. Vô thường tùy quán ở đây không phải là niệm suông ṁọi vật có sanh ắt có diệt" mà phải thấy rơ các giai đoạn sanh, trụ, diệt (nhất là giai đoạn diệt) của Danh Sắc - Khổ năo Tùy Quán (Dukkhānupassanā): Ở đây, hành giả ghi nhận rơ là ngũ uẩn, dù ở hoàn cảnh nào, trạng thái nào, lúc nào cũng có một khổ tánh cố hữu. Khổ tánh đó được chia ra làm ba phần sau: * Khổ khổ (Dukkhadukkha): là những sự đau đớn, nhức nhối, tê mỏi, lạnh nóng, rát, phỏng ... (thân thức thọ khổ) và sự buồn rầu, đau khổ, lo sợ, sự bất toại ư, ... (tâm thọ ưu). Những cảm giác của thân tâm (Danh Sắc, ngũ uẩn) như thế gọi là khổ khổ. * Hoại khổ (Viparināmadukkha): là cái khổ do sự sanh diệt liên tục của Danh Sắc. Ta khó ư thức hoại khổ trong sự khổ thân (thân thức thọ khổ), khổ tâm (tâm thọ ưu) v́ chúng tiềm ẩn, không nổi bật như một buổi trưa hè nóng bức, một cơn gió mát thổi lên khiến ta thấy thoải mái (lạc thân lạc tâm sinh khởi), cái cảm giác khó chịu v́ nóng nực không c̣n nửa (khổ thân khổ tâm bị hoại) nhưng ta không cảm thấy khổ v́ sự hoại diệt đó v́ ư thức hưởng thụ ở đây mạnh hơn. Đối với lạc thân (thân thức thọ lạc) lạc tâm (tâm thọ hỷ) th́ ta dễ ghi nhận hơn. Như lúc trời nóng ta đi tắm, nước mát làm ta thấy dể chịu, sau khi tắm xong, trời vẩn c̣n nóng th́ cảm giác khổ lại sinh khởi tiếp tục, muốn dể chịu ta phải lập lại hành động trước. * Hành khổ (Sankhāradukkha): Sự sanh diệt liên tục của Danh Sắc (dù khổ hay lạc) được gọi là hành khổ, nó là một hệ thống sinh khởi, diễn tiến và hoại diệt của Danh Sắc do duyên tạo. Ư thức rơ ràng về hành khổ hành giả mới có khả năng đoạn trừ tuyệt căn các phiền năo. - Vô Ngă Tùy Quán (Anattānupassanā): Pali có chú giải: Na attā – Anattā: không phải bản ngă tức là vô ngă vậy. Natthi attā etassa khandhapañ-cakassavā – Anattā: trong ngũ uẩn không có cái gọi là bản ngă nên gọi là vô ngă vậy. Thật ra vô ngă không phải chỉ có ở ngũ uẩn mà thôi, ngay cả Niết Bàn, chế định cũng là vô ngă. Trong bộ Parivāra (Luật tạng) Đức phật có dạy: Các pháp hữu vi đều mang tướng trạng vô thường, khổ và vô ngă. C̣n Niết-Bàn và chế định chỉ là vô ngă mà thôi (Aniccā sabbasanhatā dukkhānattā ca lakkhitā Nibbānaṃ ceva paññatti anattā iti nicchitā). Nói cách khác Anattā asaratthena (không có cái cốt lỏi căn bản là vô ngă) nghĩa là Danh Sắc được h́nh thành bởi duyên hợp, nếu lấy thọ và tưởng ra, Danh pháp không thành h́nh; nếu sự sống (Jīvita) biến mất, sức nóng (Usmāteja) không c̣n nữa, th́ Sắc pháp cũng tan rả; diệt rồi sinh, sinh rồi diệt, Danh Sắc chỉ là một sự diễn tiến liên tục như vậy nên được gọi là vô ngă. Hành giả nào nhờ quán về Vô Thường mà được giải thoát, gọi là Vô Tướng Giải Thoát (Animittovimokkho); hành giả nào được giải thoát nhờ quán về Khổ năo th́ gọi là Vô Nguyện Giải Thoát (Appanihitovimokkho); hành giả nào nhờ quán Vô Ngă mà được giải thoát, gọi là Không Tánh Giải Thoát (Suññatāvimokkho). Ba phương pháp tu tập kể trên được gọi chung là Tam Giải Thoát Môn (Tīnivimokkhamukkha). Do quán Vô Thường, không c̣n chấp tướng mà được giải thoát nên gọi là Vô Tướng Giải Thoát Môn; do quán Khổ Năo, không c̣n tham đắm dục lạc mà được giải thoát gọi là Vô Nguyện Giải Thoát Môn; do quán Vô Ngă, không c̣n chấp tự ngă mà được giải thoát, gọi là Không Tánh giải Thoát Môn. 1) Tâm sơ đạo (Sotapattimagga). C̣n gọi là Tu-Đà-Huờn đạo, là tâm chứng ngộ, thấy rơ Niết-Bàn lần đầu tiên, như người t́m hướng đi trong đêm tối, bổng có một tia chớp lóe lên giúp người đó nhận rơ hướng đi của ḿnh là đúng. Do đó, đối với vị Tu-Đà-Huờn, khi thấy rơ Niết-Bàn, vị ấy không c̣n quan niệm sai lầm về "cái này là tôi, cái này là của tôi, là tự ngă, Tôi", tức là đoạn diệt được Thân Kiến (Sakkāyadiṭṭhi). Bởi sự thật được thấy rơ, vị này thành tựu một ṅiềm tin bất thối", không c̣n sự hoài nghi đối với tam bảo, lư duyên khởi, ... (Si Hoài Nghi), tức là vị này đoạn được hoài nghi kiết sữ (Vicikicchā) và dứt mọi tà kiến, không ǵn giữ sự cúng tế hay các điều luật tà vạy vô ích nửa, tức là vị này chấm dứt "giới cấm thủ" (Sīlabataparānāna). Khi chứng đắc Sơ đạo, vị này được gọi là Nhập Lưu (Sotāpana) nghĩa là bước vào ḍng Thánh, sẽ trôi chảy Niết-Bàn. 2) Tâm nhị đạo (Sakadāganimagga). C̣n gọi là tâm Tư-Đà-Hàm Đạo, là tâm liểu tri, chứng ngộ Niết-Bàn lần thứ hai, tâm đạo này làm giảm nhẹ hai phiền năo kiết sữ: Dục Ái (Kāmarāga) và Sân Hận (Patigha). Đạt được tâm đạo này hành giả chỉ c̣n phải trở lại cơi Dục giới một lần nửa mà thôi; do đó, c̣n gọi tâm đạo này là Nhất Lưu Đạo Tâm. 3) Tâm tam đạo (Anāgamimagga). C̣n gọi là tâm A-Na-Hàm Đạo, là tâm chứng ngộ Niết-Bàn lần thứ ba. Tâm này diệt trừ hoàn toàn hai kiết sữ: Dục Ái và Sân Hận, nhờ đó mà hành giả sẽ không c̣n tái sanh vào cơi Dục giới nữa (v́ nhân tái sanh cơi Dục giới là Dục Ái đă bị diệt mất), nên c̣n gọi tâm này là Bất Lai Đạo Tâm. 4) Tâm tứ đạo (Arahattamagga). C̣n gọi là A-La-Hán Đạo tâm, là tâm chứng ngộ Niết-Bàn một cách rốt ráo. Những lần chứng ngộ trước, đối với hành giả, như những tia chớp lóe sáng lên rồi phụp tắc. Lần chứng ngộ thứ tư này, hành giả được bừng tỏ hoàn toàn như mặt trời hiện lên xóa tan đêm tối vậy. Tâm đạo này sát trừ trọn năm kiết sữ c̣n lại là: Ái Sắc (Rūparāga), Ái Vô Sắc (Aruparāga), Ngă Mạn (Māna), Phóng Dật (Uddhacca) và Vô Minh (Avijjā).
TÂM SIÊU THẾ
II. Tâm Quả Siêu Thế Là tâm thành tựu do tâm Đạo Siêu Thế. Những tâm này được sanh lên ngay khi tâm đạo vừa diệt, liên tục không gián đoạn dù chỉ một tâm sát na. Những tâm quả này có trạng thái giống như tâm đạo, bắt một cảnh với tâm đạo, chỉ khác là những tâm này không sát trừ phiền năo như tâm đạo (khi những tâm này sinh lên, th́ phiền năo đă bị các tâm đạo diệt tận). Tương ưng với tâm đạo, tâm quả Siêu thế cũng được chia làm 4 tâm: 1) Tâm Sơ Quả (Sotāpattiphalacittaṃ) Tâm Sơ Quả được chia ra làm ba loại: Ekabija: Nhất hườn sanh nhơn, là vị sơ quả này làm người một kiếp rồi đắc quả A-La-Hán hoặc các quả vị khác. Kolamhola: Đa lục hườn nhơn, là vị sơ quả tục sinh làm người từ hai đến sáu kiếp, sẽ đắc quả A-La-Hán hoặc các quả vị khác. Sattakkhataṃ: Đa thất hườn nhơn, vị này chậm trể lắm th́ đến kiếp thứ bảy sẽ đắc quả A-La-Hán hoặc các quả vị khác. 2) Tâm Nhị Quả (Sokadāgāmiphalacittaṃ) Tâm Nhị Quả được chia làm năm bực: - Sau khi đắc Nhị quả, hành giả đắc luôn Tứ quả, chứng Niết-Bàn tại cơi Dục giới. - Chư Thiên đắc Nhị quả và đắc luôn Tứ quả, chứng Niết-Bàn tại cơi Chư Thiên. - Hành giả đắc Nhị quả trong cơi Dục giới, được sanh lên cơi trời và chứng đắc Tứ quả, nhập Niết-Bàn ngay trong cơi ấy. - Chư Thiên đă chứng đắc Nhị quả trên cơi trời, sanh xuống cơi Dục giới, chứng đắc Tứ quả, đạt Niết-Bàn trong cơi Dục giới. - Hành giả đắc Nhị quả sanh về cơi Chư Thiên, hết tuổi thọ, sanh trở lại ở cơi Dục giới, tu tiếp và chứng đắc Tứ quả, đạt ngộ Niết-Bàn trong cơi Dục giới. 3) Tâm Tam Quả (Ānagāmiphalacittaṃ) Tâm Tam quả được chia làm năm loại: - Trung ban bất hườn: hành giả sau khi chứng Tam quả trong cơi Dục giới được sanh về cơi Ngũ Tịnh Cư Thiên, tiếp tục tu hành và sẽ chứng quả A-La-Hán trong nửa tuổi thọ trở về trước. Cơi Ngũ Tịnh Cư Thiên gồm có năm cơi, hành giả trong lúc tu tập tùy theo căn phần phát triển sẽ thọ sinh vào một trong các cơi đó. Tín căn mạnh sẽ được sanh vào cơi Vô Phiền Thiên (Avihā) tuổi thọ là 1000 đại kiếp. Tấn căn mạnh sẽ được sanh về cơi Vô Nhiệt Thiên (Atappā) tuổi thọ là 2000 đại kiếp. Niệm căn mạnh sẽ được sanh về cơi Thiện Kiến Thiên (Sudassī) tuổi thọ là 4000 đại kiếp. Định căn mạnh sẽ được sanh về cơi Thiện Hiện Thiên (Sudassā) tuổi thọ là 8000 đại kiếp. Huệ căn mạnh sẽ được sanh về cơi Sắc Cứu Kính Thiên (Akaniṭṭhā) tuổi thọ là 16000 đại kiếp. - Sanh ban bất hườn: vị Tam quả này tương tợ như Trung ban bất hườn, nhưng chứng đạo quả A-La-Hán từ nữa tuổi thọ trở về sau. - Vô hành ban bất hườn: vị này đầy đũ căn lành, hành đạo đắc quả A-La-Hán dể dàng không cần tinh tấn lắm (Asañkhāraparinibbāyi). - Hữu hành ban bất hườn: vị này căn lành c̣n yếu nên phải tinh tấn lắm mới đắc A-La-Hán (Sasañkhāraparinibbāyi). - Thượng lưu ban bất hườn: vị này căn lành quá yếu, phải sanh vào cơi Ngũ Tịnh cư thấp nhứt, sống hết tuổi thọ rồi sanh lên cơi Ngũ tịnh cư cao hơn, cứ tu tập như thế cho đến khi sống hết 5 cơi Ngũ tịnh cư mới đắc quả A-La-Hán, chứng ngộ Niết-Bàn. 4) Tâm Tứ Quả (Arahattaphalacittaṃ) Tâm Tứ quả được chia làm ba loại: - Tứ quả Toàn Giác: là bậc hoàn toàn giác ngộ, có nhứt thiết chủng trí do tu đầy đủ 30 độ Pārāmi. Sau khi chứng quả Chánh Đẳng Chánh Giác, vị này có khả năng xử dụng các chế định tục đế để diễn đạt các pháp chơn đế cho chúng sanh hiểu, cứu độ vô số chúng sanh. - Tứ quả Độc Giác: là bậc tự ḿnh tu tập và hoàn toàn giác ngộ do thực hành 20 độ Ba la mật. Vị này không có khả năng diễn đạt chánh pháp để cứu độ chúng sanh. - Tứ quả Thinh Văn Giác: là bậc hoàn toàn giác ngộ nhờ nghe và tu tập theo sự hướng dẩn của bậc toàn giác. Thực hành 10 độ Ba la mật. Sau khi đắc đạo quả Niết-Bàn có khả năng độ chúng sinh đồng đắc đạo quả Niết-Bàn. Ghi nhớ rằng trong các tâm Hiệp thế th́ Sở Hữu tâm làm chủ động, nhất là sở hữu Tư, tất cả các pháp đồng sanh để tạo nghiệp. Trong các tâm Siêu thế th́ Sở Hữu Trí Tuệ làm chủ động mạnh hơn cả. Khi hành giả tu Tuệ quán nếu tŕnh độ tâm định đă đạt đến loại thiền nào trong năm bực thiền chỉ th́ đến khi thành tựu đạo quả, hành giả cũng có tŕnh độ tâm như vậy. Thí dụ: hành giả đă đắc tam thiền, khi hành thiền quán, tỏ ngộ Niết-Bàn, đắc sơ đạo, th́ tâm đạo ấy là Sơ đạo tam thiền, tâm này cũng có Tầm, Tứ. Đối với hành giả chưa đắc bậc thiền nào, th́ đạo quả sẽ được coi như tương đương với người đă đắc sơ thiền. Dù tâm Siêu thế được phân theo 5 bực thiền chỉ là do tính theo chi thiền, nhưng tâm đạo và tâm quả ở đây có đối tượng là Niết-Bàn chứ không phải là các đề mục tu tập của thiền chỉ. TÂM SIÊU THẾ
-ooOoo-
Đầu trang |
Mục lục
| 01
| 02
| 03
| 04
| 05
| 06
| 07
| 08
| 09 |
^^^^^ | ^^^^ | ^^^^ | ^^^^ | ^^^^ |
|